
1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Theo số liệu vừa công bố của Tổng cục thống kê, số doanh
nghiệp hoàn tất thủ tục giải thể trong 11 tháng năm 2017 là 10,814
doanh nghiệp, tăng 3.3% so với cùng kỳ năm trước, trong đó 9,905
doanh nghiệp có quy mô vốn dưới 10 tỷ đồng, chiếm 91.6%. Số
doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động trong 11 tháng là 55,664 doanh
nghiệp, tăng 3% so với cùng kỳ năm trước, bao gồm 20,821 doanh
nghiệp đăng ký tạm ngừng kinh doanh có thời hạn, tăng 10.2% và
34,843 doanh nghiệp tạm ngừng hoạt động không đăng ký hoặc chờ
giải thể, giảm 0.9%.
Theo như số liệu của đề tài luận văn thống kê được, trong
1,140 quan sát tại 151 công ty niêm yết trên Sở giao dịch chứng
khoán thành phố Hồ Chí Minh thì có đến 96 quan sát (chiếm 8.42%
mẫu quan sát) từ 46 (chiếm 30.46% mẫu quan sát) công ty rơi vào
tình trạng kiệt quệ tài chính.
Từ những con số thống kê, việc xác định các nhân tố ảnh
hưởng và dự báo kiệt quệ tài chính đã trở thành nhu cầu cần thiết cho
các doanh nghiệp. Điều này không chỉ giúp các doanh nghiệp có các
biện pháp ứng phó kịp thời nhằm giảm thiểu nguy cơ kiệt quệ tài
chính mà còn bảo vệ quyền lợi các nhà đầu tư, các tổ chức tín dụng,
các đối tác và người lao động của doanh nghiệp.
Các nghiên cứu trong nước và nước ngoài về kiệt quệ tài chính
cho thấy một sự chú ý đáng kể đến các mô hình dự báo về tình trạng
kiệt quệ tài chính của doanh nghiệp. Ở trong luận văn này, thay vì đi
xây dựng một mô hình dự báo kiệt quệ tài chính, tác giả xem xét các
nhân tố tác động đến kiệt quệ tài chính ở hai khía cạnh là doanh
nghiệp có kiệt quệ tài chính và doanh nghiệp không có kiệt quệ tài