BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI ------------------------------- BÙI ĐẶNG THANH NGHIÊN CỨU QUY LUẬT TÍCH LŨY KIM LOẠI NẶNG CỦA CON NGHÊU MERETRIX LYRATA Ở CỬA BIỂN BẰNG PHƢƠNG PHÁP MÔ HÌNH HÓA
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
HÀ NỘI - 2010
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƢỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI ------------------------------- BÙI ĐẶNG THANH NGHIÊN CỨU QUY LUẬT TÍCH LŨY KIM LOẠI NẶNG CỦA CON NGHÊU MERETRIX LYRATA Ở CỬA BIỂN BẰNG PHƢƠNG PHÁP MÔ HÌNH HÓA Chuyên ngành: Quá trình thiết bị công nghệ hóa học
Mã số: 62.52.77.01
LUẬN ÁN TIẾN SĨ KỸ THUẬT
NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC:
GS.TS. PHẠM VĂN THIÊM HÀ NỘI - 2010
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả đƣợc nêu trong luận án là trung thực và chƣa từng đƣợc cá nhân
hay tổ chức khoa học nào công bố trên bất kỳ công trình nào khác trong và
ngoài nƣớc.
Bùi Đặng Thanh
DANH MỤC CÁC KÍ HIỆU, CHỮ VIẾT TẮT
Viết tắt AVS BAF BSAF
Tên tiếng Anh Acid-volatile sulfides Bioaccumulation factor Biota-sediment accumulation factor Counts per second
CPS
CRC DO DEB F-AAS
FGEST
GF-AAS
HG-AAS
Tên tiếng Việt Hợp chất sulfite bay hơi axit Hệ số tích lũy sinh học Hệ số tích lũy sinh học trong trầm tích Số đếm ion trên giây (đơn vị đo của ICP-MS) Buồng phản ứng va chạm Oxy hòa tan Dự trữ năng lƣợng động học Phổ hấp thụ nguyên tử chế độ ngọn lửa Trao đổi cơ chất độc hại qua dinh dƣỡng và mang Phổ hấp thụ nguyên tử chế độ lò graphit Phổ hấp thụ nguyên tử chế độ bay hơi hydrit Sắc ký lỏng hiệu quả cao
HPLC
Phổ khối plasma cảm ứng cao tần
ICP-MS
ICP-OES
Phổ phát xạ quang plasma cảm ứng cao tần Phân biệt đối xử động năng Hợp chất metallothionein Cục Bảo vệ Môi trƣờng Hoa Kỳ
KED MT USEPA
Collision Reaction Cell Dissolve oxygen Dynamic Energy Budget Flame Atomic Absorption Spectrometry Food and Gill Exchange of Toxic Substances Graphit Furnace Atomic Absorption Spectrometry Hydrit Generator Atomic Absorption Spectrometry High Performance Liquid Chromatograph Inductively Coupled Plasma – Mass Spectrometry Inductively Coupled Plasma – Optical Emission Spectrometry Kinetic Energy Discrimination Metallothionein United State Environmental Protection Agency Oyster Bioaccumulation Model
Mô hình tích lũy sinh học sò Hợp chất hydrocacbon đa nhân thơm Polyaromatic hydrocacbons Hợp chất biphenyl đa clo Một loại nhựa polyme Teflon Độ lệch chuẩn tƣơng đối Độ lệch chuẩn Các kim loại chiết đƣợc đồng thời
Polychloro biphenyl Perfluoro alkoxy Relative Standard Deviation Standard Deviation Simultaneously extracted metals
OBM PAH PCB PFA RSD SD SEM
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU 1
Chƣơng 1- TỔNG QUAN 4
1.1 Các mô hình tích lũy 4
1.1.1 Hƣớng xây dựng mô hình tích lũy 4
1.1.2 Mô hình thực nghiệm 5
1.1.3 Mô hình cơ chế 7
1.1.4 Mô hình thống kê 10
1.2 Nghiên cứu quy luật tích lũy kim loại nặng trong động vật 15
nhuyễn thể
1.2.1 Các kim loại nghiên cứu, nghêu Meretrix lytara và cơ 15
chế tích lũy
1.2.2 Các mô hình tích lũy kim loại nặng 18
1.2.3 Một số nghiên cứu về tích lũy kim loại nặng trong giống 31
nghêu Meretrix
1.3 Ứng dụng của các mô hình tích lũy 35
1.3.1 Khái quát 35
1.3.2 Ứng dụng làm chỉ thị sinh học và dự báo ô nhiễm kim 38
loại nặng
1.3.3 Ứng dụng trong cảnh báo an toàn thực phẩm 40
Chƣơng 2- PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 42
2.1 Các bƣớc nghiên cứu 42
2.2 Công cụ nghiên cứu, trang thiết bị và hóa chất 42
2.2.1 Phân tích mẫu nƣớc biển 45
2.2.2 Phân tích mẫu trầm tích và mẫu mô nghêu 45
2.3 Phƣơng pháp nuôi nghêu trong phòng thí nghiệm 50
2.3.1 Nuôi nghêu xây dựng mô hình thống kê 52
2.3.2 Nuôi nghêu xây dựng mô hình vi phân 53
2.4 Phƣơng pháp xác định tƣơng quan khối lƣợng 54
2.5 Phƣơng pháp xác định môi trƣờng tích lũy chủ yếu 55
2.6 Phƣơng pháp xây dựng mô hình hệ số tích lũy 57
2.7 Phƣơng pháp xây dựng mô hình thống kê 58
2.8 Phƣơng pháp xây dựng mô hình vi phân 63
Chƣơng 3- KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 68
3.1 Xác định môi trƣờng tích lũy chủ yếu 68
3.2 Đánh giá tƣơng quan các giá trị khối lƣợng 69
3.3 Mô hình hệ số tích lũy BAF 70
3.4 Mô hình thống kê 73
3.5 So sánh mô hình BAF và mô hình thống kê 76
3.6 Mô hình vi phân 80
3.6.1 Mô hình bài tiết 81
3.6.2 Mô hình tích lũy 84
3.6.3 Nhận xét chung về quy luật các hằng số tốc độ 86
3.7 Đánh giá độ tin cậy của mô hình vi phân 87
3.8 Ứng dụng các mô hình 91
3.8.1 Mô hình hệ số tích lũy BAF 91
3.8.2 Mô hình thống kê 92
3.8.3 Mô hình vi phân 93
KẾT LUẬN 95
KIẾN NGHỊ 97
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ 98
TÀI LIỆU THAM KHẢO 99
PHỤ LỤC 109
DANH MỤC CÁC BẢNG
Bảng 1.1 Một số thông số đƣợc sử dụng xây dựng mô hình OBM
Trang 30
Bảng 2.1 Chƣơng trình vi sóng xử lý mẫu trầm tích
46
Bảng 2.2 Chƣơng trình vi sóng xử lý mẫu mô nghêu
47
Bảng 2.3 Các thông số điều khiển thiết bị, thu nhận dữ liệu tối ƣu
49
Bảng 2.4 Một số yếu tố kỹ thuật và môi trƣờng nuôi vỗ nghêu bố mẹ
51
Bảng 2.5 Các điều kiện nuôi nghêu trong phòng thí nghiệm
52
Bảng 2.6 Ma trận kế hoạch thực nghiệm xây dựng mô hình thống kê
62
68
Bảng 3.1 Nồng độ Cd, As, Cu trong mô, nƣớc và trầm tích của khảo sát xác
định môi trƣờng tích lũy chủ yếu
Bảng 3.2 Khối lƣợng cả vỏ, khối lƣợng mô tƣơi, khối lƣợng mô khô của 10 cá
69
thể nghêu chọn ngẫu nhiên trong môi trƣờng tự nhiên
Bảng 3.3 Các kết quả xác định BAF thực nghiệm từ 10 mẫu nghêu sống trong
71
môi trƣờng tự nhiên
Bảng 3.4 Sai số giữa giá trị BAF tính theo mô hình so với giá trị BAF thực
72
nghiệm đối với 3 kim loại nghiên cứu
Bảng 3.5 Kết quả thí nghiệm thu đƣợc từ ma trận thực nghiệm, giá trị các hệ
74
số hồi quy và thông số thống kê đánh giá mô hình
Bảng 3.6 So sánh sai số giữa mô hình BAF và mô hình thống kê dựa theo giá trị
77
thực nghiệm trong kế hoạch thực nghiệm xây dựng mô hình thống kê
Bảng 3.7 Biến thiên nồng độ Cd, As, Cu trong mô nghêu của các thực nghiệm
81
xây dựng mô hình vi phân
Bảng 3.8 Kết quả tính toán giá trị hằng số tốc độ bài tiết
83
Bảng 3.9 Kết quả tính toán giá trị hằng số tốc độ hấp thu
84
Bảng 3.10 Nồng độ kim loại trong mô nghêu ở các thí nghiệm đối chứng
88
Bảng 3.11 Kết quả đánh giá độ tin cậy mô hình vi phân đối với Cd
89
Bảng 3.12 Kết quả đánh giá độ tin cậy mô hình vi phân đối với As
89
Bảng 3.13 Kết quả đánh giá độ tin cậy mô hình vi phân đối với Cu
90
DANH MỤC CÁC HÌNH VẼ, ĐỒ THỊ
Trang 15 Hình 1.1 Giải phẫu phần mô mềm bên trong nghêu Meretrix lyrata
Hình 1.2 Con đƣờng vận chuyển kim loại nặng qua lại giữa nƣớc, dinh 18
dƣỡng và động vật nhuyễn thể
19 Hình 1.3 Hình ảnh mang sò cho thấy có các sợi tơ song song (f)
19 Hình 1.4 Biểu đồ minh họa sợi mang có dòng nƣớc tuân theo chuyển động
lớp
Hình 1.5 Biểu đồ mô tả con đƣờng vận chuyển kim loại nặng sử dụng xây 21
dựng mô hình tích lũy DEB
49 Hình 2.1 Thiết bị phổ khối ICP-MS
52 Hình 2.2 Bể nuôi và các thiết bị sử dụng ổn định môi trƣờng sống của
nghêu trong phòng thí nghiệm
Hình 3.1 Đồ thị biểu diễn sự biến đổi nồng độ trong mô cả hai giai đoạn 82
tích lũy và bài tiết với môi trƣờng nƣớc nuôi có nồng độ khác
nhau: (a) Cd 4g/l, (b) Cd 20g/l, (c) As 25g/l, (d) As 50g/l, (e)
Cu 20g/l, (f) Cu 50g/l
Hình 3.2 Đồ thị biểu diễn sự dao động hằng số tốc độ bài tiết theo thời 83
gian nuôi tại mỗi mức nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc khác
nhau ở giai đoạn nuôi hấp thu
Hình 3.3 Đồ thị biểu diễn sự dao động của hằng số tốc độ hấp thu theo thời 86
gian nuôi tại mỗi mức nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc khác nhau
MỞ ĐẦU
Một trong các xu hƣớng nghiên cứu về môi trƣờng đang phát triển
mạnh trên thế giới là sử dụng sinh vật làm chỉ thị và xử lý ô nhiễm của đa
dạng các loại chất hóa học khác nhau, chủ yếu là các chất hữu cơ bền vững,
các chất hữu cơ chứa halogen, các kim loại nặng,…. Sinh vật đƣợc sử dụng
cho mục đích này bao gồm cả thực vật và động vật, một trong số đó là các
loài sinh vật đáy, các loài nhuyễn thể hai mảnh vỏ. Quy luật tích lũy chất gây
ô nhiễm vào sinh vật nói chung và loài nhuyễn thể nói riêng có thể đƣợc mô
tả bằng những mô hình phù hợp. Các mô hình tin cậy có thể ứng dụng làm
công cụ đánh giá, dự báo ô nhiễm, cảnh báo an toàn thực phẩm và hỗ trợ
trong nghiên cứu xử lý ô nhiễm môi trƣờng, một phƣơng pháp xử lý thân
thiện.
Ở Việt Nam, vấn đề ô nhiễm môi trƣờng đã đƣợc đề cập nhiều trong
các báo cáo khoa học, các công trình nghiên cứu và trên các phƣơng tiện
thông tin đại chúng, trong số đó có vấn đề về ô nhiễm kim loại nặng. Trong
nƣớc đã có các nghiên cứu về sự tích lũy chất ô nhiễm trong sinh vật, các
nghiên cứu tập trung vào đánh giá mức độ tích lũy cơ chất trong sinh vật tại
thời điểm hiện tại thông qua các phép đo trực tiếp, nghiên cứu cơ chế tích lũy
và đào thải, sàng lọc đối tƣợng sinh vật có thể sử dụng làm chỉ thị ô nhiễm
môi trƣờng. Tuy nhiên, việc mô hình hóa khả năng tích lũy của sinh vật chƣa
thực sự đƣợc quan tâm và chƣa có công trình nào nghiên cứu, công bố về quy
luật tích lũy hợp chất gây ô nhiễm của các loài sinh vật trong môi trƣờng sống.
Xuất phát từ những vấn đề trên, kết hợp với tổng hợp, phân tích đánh
giá các đối tƣợng trong môi trƣờng, tính thời sự và khả năng thực tiễn, đề tài
của luận án đƣợc lựa chọn với tiêu đề “Nghiên cứu quy luật tích lũy kim
loại nặng của con nghêu Meretrix Lyrata ở cửa biển bằng phƣơng pháp
mô hình hóa”. Đề tài tập trung nghiên cứu xây dựng một số mô hình tích lũy
các kim loại nặng As, Cd, Cu trên loài nghêu Meretrix Lyrata cả trong phạm
vi phòng thí nghiệm và môi trƣờng thực tế với độ tin cậy, khả năng ứng dụng
khác nhau. Đánh giá khả năng ứng dụng thực tiễn của các mô hình.
Về ý nghĩa khoa học và tính mới của đề tài: hƣớng đi, cách giải quyết để
đƣa ra quy luật tích lũy một số kim loại nặng trong nƣớc biển vào một loài
nhuyễn thể là một sự mạnh dạn trong nghiên cứu khoa học, khi mà những hiểu
biết về cơ chế và quy luật tích lũy sinh học phức tạp này ở Việt Nam còn hạn chế.
Kết quả xây dựng đƣợc mô hình tích lũy BAF dƣới dạng hàm sinh trƣởng không đồng đều y = a.Wb chỉ phụ thuộc khối lƣợng mô nhuyễn thể
(W) với độ chính xác nhất định là điểm mới của đề tài, đây là dạng mô hình
đã đƣợc các nhà khoa học trên thế giới dùng để tham số hóa tốc độ chuyển
hóa trao đổi chất, tốc độ sinh trƣởng, tần số hô hấp, tốc độ cấp dinh dƣỡng,
tốc độ tiêu thụ oxy, tổng diện tích mang…. Kết quả này bổ sung thêm khả
năng ứng dụng vạn năng của hàm sinh trƣởng không đồng đều.
Việc sử dụng mô hình thống kê bậc một, một mô hình đơn giản nhƣng
có độ tin cậy cao thƣờng áp dụng trong mô tả các quá trình hóa học, công
nghệ hóa học vào mô tả quy luật tích lũy sinh học kim loại nặng trong nhuyễn
thể cùng với các kết quả thu đƣợc là điểm hoàn toàn mới trong đề tài luận án.
Kết quả thu đƣợc góp phần khẳng định tính ƣu việt của mô hình thống kê, đó
là khi lựa chọn đƣợc điều kiện thí nghiệm thích hợp và có công cụ nghiên cứu
thỏa mãn vẫn có thể nghiên cứu các quy luật sống của các loài sinh vật trong
môi trƣờng bằng mô hình này.
Kết quả và các kết luận của đề tài là một trong những cơ sở khoa học
có giá trị, cho phép mở rộng đối tƣợng nghiên cứu cả về chiều rộng và chiều
sâu, nghiên cứu trên các loài nhuyễn thể khác nhau, các cơ chất tích lũy khác
nhau, nghiên cứu cả ở quy mô phòng thí nghiệm và môi trƣờng sống thực tế.
Về ý nghĩa thực tiễn: Các mô hình có thể dùng làm công cụ dự đoán ô
nhiễm As, Cd, Cu trong nƣớc biển dƣới những thay đổi điều kiện tự nhiên
tƣơng lai. Dự đoán nồng độ kim loại nặng As, Cd, Cu tích lũy trong mô nghêu
Meretrix lyrata sau những khoảng thời gian sinh trƣởng nhất định và sống
trong điều kiện môi trƣờng bị ô nhiễm các kim loại này, dự đoán thời gian
sinh trƣởng của nghêu bảo đảm đáp ứng yêu cầu về an toàn thực phẩm trong
điều kiện môi trƣờng sống cụ thể.
Các nghiên cứu của đề tài đƣợc thực hiện tại:
- Trung tâm Giáo dục và Phát triển Sắc ký - Trƣờng Đại học Bách
Khoa Hà Nội.
- Trung tâm Quan trắc - Phân tích Môi trƣờng biển Hải Quân - Bộ Tƣ
lệnh Hải Quân.
CHƢƠNG 1
TỔNG QUAN
1.1 CÁC MÔ HÌNH TÍCH LUỸ
1.1.1 Hƣớng xây dựng mô hình tích luỹ
Cả hai hƣớng mô hình hoá theo cơ chế và mô hình hoá bằng thực
nghiệm đều cần thiết cho dự đoán tích luỹ. Dựa vào độ chính xác cao của thực
nghiệm để đƣa ra các bộ chỉ thị tích luỹ tin cậy. Đo trực tiếp tích luỹ cho phép
đánh giá ngay tại chỗ về tồn dƣ chất độc trong mô động vật nhuyễn thể lấy tại
hiện trƣờng, đo trực tiếp cũng là cách để kiểm tra tích luỹ trong phòng thí
nghiệm nhờ sử dụng chính môi trƣờng (nƣớc, trầm tích) lấy tại hiện trƣờng
làm môi trƣờng thí nghiệm.
Trong nhiều trƣờng hợp khác, mô hình tích luỹ đã qua phê chuẩn lại là
một công cụ hữu ích. Ví dụ mô hình dự đoán đƣợc sử dụng để đánh giá quy
mô và/hoặc mẫu hình tích luỹ của dạng chất cụ thể dƣới điều kiện sống đặc
trƣng. Các mô hình dự đoán đƣợc dùng khi thực tế không thể đo trực tiếp
nồng độ trong mô, nghĩa là dùng để xác định xem nồng độ trong mô sẽ thay
đổi nhƣ thế nào theo thời gian cùng với sự thay đổi điều kiện sống.
Các mô hình dự đoán tốn ít chi phí hơn và có thể chạy mà không cần
đến dữ liệu đặc trƣng cho khu vực nghiên cứu. Tuy nhiên mô hình càng mang
tính phổ thông thì khả năng dự đoán càng kém chính xác. Các phép đo tại chỗ
nồng độ chất ô nhiễm trong môi trƣờng có độ chính xác cao hơn nhƣng lại
hạn chế về khả năng dự đoán, phép đo trực tiếp không có tác dụng trong dự
đoán các tác động do sự thay đổi điều kiện môi trƣờng cũng nhƣ không thể
dùng để ngoại suy kết quả qua lại giữa các dạng chất tích luỹ [15].
Có hai hƣớng chính để phát triển mô hình:
- Hƣớng bằng thực nghiệm: theo hƣớng này dữ liệu đo tại hiện trƣờng
và dữ liệu đo trong phòng thí nghiệm đƣợc sử dụng để tính toán các thông số
hệ số tích luỹ trong nƣớc BAF và hệ số tích luỹ trong trầm tích BSAF. Cũng
bằng thực nghiệm và khi đáp ứng đƣợc các yêu cầu đặt ra có thể sử dụng mô
hình thống kê để mô tả tích luỹ cơ chất của sinh vật.
- Hƣớng sử dụng công cụ toán học: sử dụng các mô hình động học và
mô hình cân bằng. Hƣớng này đƣợc ƣu tiên sử dụng xây dựng các mô hình
chuỗi dinh dƣỡng có xét đến các cơ chế tích luỹ.
Hai hƣớng trên không đứng độc lập mà có tác động qua lại lẫn nhau.
Dữ liệu đo tại hiện trƣờng đƣợc sử dụng để chuẩn và xác nhận tính phù hợp
của các mô hình toán học. Tính tƣơng hợp và khả năng ứng dụng của bất kỳ
mô hình nào phụ thuộc rất nhiều vào chất lƣợng của các thông số đầu vào và
mức độ tin cậy chấp nhận đƣợc của thông số đầu ra, các thông số sử dụng
trong xây dựng mô hình.
Mô hình động học cho phép dự đoán nồng độ trong mô sẽ thay đổi theo
thời gian nhƣ thế nào tốt hơn so với mô hình phân bố. Mô hình động học cho
phép dự đoán tƣơng đối chính xác thời gian để nồng độ trong mô đạt đến mức
mong muốn hoặc thời gian để nồng độ trong mô giảm đến mức không còn
gây tác động sau khi làm sạch [15].
1.1.2 Mô hình thực nghiệm
Xác định trực tiếp hay xác định bằng thực nghiệm là cách đơn giản
nhất để theo dõi hoặc đánh giá tích luỹ trong sinh vật sống dƣới nƣớc và nó
mang lại độ chính xác cao nhất. Các phƣơng pháp kiểm tra tích lũy bao gồm:
- Xác định tích luỹ trong phòng thí nghiệm.
- Xác định tích luỹ tại hiện trƣờng.
Đối với đánh giá tích luỹ bằng các phép đo hiện trƣờng, để đạt độ chính
xác thì việc thiết kế nghiên cứu tại hiện trƣờng và sử dụng các thành phần giải
thích dữ liệu cần phải đƣợc cân nhắc và tiêu chuẩn hoá kỹ lƣỡng. Một số
nghiên cứu cho thấy các giá trị BAF và BSAF đo tại hiện trƣờng có thể thay
đổi theo một hàm của vị trí và thời gian cùng với các dạng động vật nhuyễn
thể, ngay cả ở mức dinh dƣỡng và điều kiện sống nhƣ nhau.
Hệ số tích luỹ BAF đƣợc định nghĩa là “tỷ lệ nồng độ chất trong mô
sinh vật sống dưới nước với nồng độ của nó trong môi trường tại những vị trí
mà ở đó cả sinh vật và nguồn dinh dưỡng của nó tiếp xúc với nhau và cơ bản
không có sự thay đổi theo thời gian”. BAF đƣợc sử dụng thành công dự đoán
tồn dƣ các hợp chất hữu cơ phân cực trong mô, các chất hữu cơ trung hoà và
các kim loại [15].
Dữ liệu từ các nghiên cứu trong phòng thí nghiệm và từ hiện trƣờng có
thể đƣợc sử dụng để đƣa ra BAF. BAF có thể đƣợc tính toán qua mô hình
hoặc đo trực tiếp. BAF có đƣợc bằng thực nghiệm là chính xác nhất do nó
tích hợp tất cả các quá trình trong môi trƣờng. Giá trị BAF đặc biệt quan
trọng đối với những hợp chất có log Kow cao hơn 6 do sự tích luỹ của các hợp
chất này là quá cao và chỉ duy nhất phụ thuộc vào đặc tính kỵ nƣớc của chúng.
Kow là hằng số phân bố cơ chất giữa pha octanol và nƣớc.
Giá trị BAF xác định bằng thực nghiệm đƣợc tính bằng nồng độ chất ô
nhiễm trong mô chia cho nồng độ chất ô nhiễm đo đƣợc trong nƣớc hoặc trong
trầm tích:
(1.1)
(1.2)
Trong đó BAFw và BAFS tƣơng ứng là hệ số tích luỹ trong nƣớc và
trong trầm tích (đơn vị tƣơng ứng l/kg mô và kg trầm tích/kg mô). Cf (mg/kg)
là nồng độ chất ô nhiễm trong mô; Cs (mg/kg) là nồng độ chất ô nhiễm trong
trầm tích và Cd (mg/l) là nồng độ chất ô nhiễm trong nƣớc.
Hệ số BAF thực nghiệm mang tính phổ thông, không chứa đựng sự
phân biệt giữa tốc độ hấp thu, tốc độ bài tiết hoặc những yếu tố liên quan đến
hoạt động sinh lý của các dạng sinh vật. Tuy nhiên chỉ có thể tính đúng đƣợc
BAF nếu thiết kế thực nghiệm tại hiện trƣờng có tính đến trạng thái tiếp xúc
của các dạng quan tâm, bao gồm trong đó có các mô hình di chuyển, dao động
không gian, thời gian, nồng độ chất ô nhiễm, tuổi và giống loài động vật
nhuyễn thể. Các yếu tố này mang tính đặc trƣng theo vị trí hoặc theo từng
nghiên cứu, chúng có sự thay đổi đáng kể theo khối nƣớc, kiểu trầm tích và
các dạng chất ô nhiễm [16].
BAF cũng có thể thay đổi theo thời gian nếu nồng độ trong nƣớc hoặc
trong sinh vật thay đổi theo một hàm của thời gian. Khi các điều kiện môi
trƣờng thay đổi, khả năng dự đoán của BAF giảm đáng kể do BAF chỉ vận
hành tốt ở những điều kiện giống với điều kiện đã thực hiện các phép đo xác
định nó. Trong những trƣờng hợp điều kiện tiếp xúc chất ô nhiễm có sự dao
động thì mô tả bằng mô hình động học sẽ phù hợp hơn [15].
1.1.3 Mô hình cơ chế
Các mô hình cơ chế hoặc mô hình chuỗi dinh dƣỡng đƣợc nhóm thành
hai loại: phƣơng pháp cân bằng và phƣơng pháp động học [17]. Các mô hình
cân bằng và mô hình động học thành công trong trong mô tả sự tích luỹ các
hợp chất hữu cơ không phân cực (dioxin, furan và các chất PCBs). Các mô
hình này chƣa đƣợc áp dụng thành công trong mô tả sự tích luỹ kim loại hoặc
chất hữu cơ dễ chuyển hoá, phân huỷ, ví dụ nhƣ các hydrocacbon đa nhân
thơm PAH.
a. Mô hình cân bằng
Mô hình cân bằng kết hợp chặt chẽ các quá trình hấp thu chất ô nhiễm từ
cột nƣớc, từ trầm tích bị ô nhiễm và qua chuỗi dinh dƣỡng [17]. Các mô hình
này thƣờng đƣợc nhắc đến với tên mô hình “động lực” do trong điều kiện tự
nhiên hiếm khi đạt đƣợc cân bằng nhiệt động tuyệt đối giữa nồng độ chất ô
nhiễm trong trầm tích, nƣớc và sinh vật. Vì thế các mô hình cân bằng chấp
nhận giả thiết những điều kiện về trạng thái cân bằng giữa sinh vật và môi
trƣờng. Ngay cả ở những điều kiện trạng thái cân bằng, khi mà nồng độ không
có những thay đổi đáng kể theo thời gian thì những điều kiện này cũng không
phải luôn luôn đƣợc đáp ứng trong tự nhiên, lúc này cần đến các mô hình động
học.
Các mô hình cân bằng cũng chấp nhận giả thiết về một hệ thống kín, về
các phản ứng thuận nghịch và có đủ thời gian cho cơ chất phân bố xuyên suốt
hệ thống. Thời gian yêu cầu để đạt đến phân bố đầy đủ có sự dao động mạnh.
Ví dụ thời gian đòi hỏi để cân bằng một cơ chất giữa các hạt hữu cơ nhỏ và
nƣớc có thể tính bằng giây, ngày hoặc năm tuỳ theo kích thƣớc hạt và giá trị
Kow của cơ chất [18]. Cân bằng qua chuỗi dinh dƣỡng thậm chí còn có thể cần
đến thời gian kéo dài hơn để đạt đến trạng thái ổn định, tuỳ thuộc vào mức độ
phức tạp của chuỗi dinh dƣỡng và vô số các yếu tố khác [19].
Nhìn chung mô hình cân bằng đƣợc áp dụng cho các hợp chất có
logKow giữa 3,5 và 6,0 và không bị phân hủy hoặc chuyển hoá nhanh. Các mô
hình phức tạp hơn đƣợc phát triển để dự đoán nồng độ chất ô nhiễm ở trạng
thái ổn định thông qua chuỗi dinh dƣỡng. Mô hình Thomann [20] và mô hình
Gobas [21] là những ví dụ về các mô hình chuỗi dinh dƣỡng có cân bằng
phức tạp, trong những mô hình này có tính đến cả tƣơng tác với trầm tích.
b. Mô hình động học
Ngƣợc lại với các mô hình cân bằng, mô hình động học mô tả hiệu quả
tích luỹ nhƣ là kết quả từ sự tác động tổng thể tốc độ nhiều quá trình (hấp thu
và loại bỏ chất ô nhiễm). Các mô hình động học tập trung chủ yếu vào quá
trình tích tụ các chất ô nhiễm từ cột nƣớc, và gần đây hơn đƣợc áp dụng với
hấp thu từ trầm tích [22].
Tính tích hợp chặt chẽ của tích luỹ thông qua chuỗi dinh dƣỡng trong
mô hình động học đòi hỏi có một lƣợng lớn dữ liệu động học hấp thu và động
học bài tiết. Lợi thế của các mô hình động học là chúng có thể đƣợc sử dụng
để dự đoán nồng độ trong mô biến đổi theo thời gian dƣới những điều kiện ở
trạng thái không ổn định [17].
Nhìn chung có hai kiểu mô hình động học đƣợc sử dụng là mô hình
động học bậc nhất đơn giản và mô hình tích luỹ xây dựng dựa trên các nguồn
năng lƣợng sinh học. Trong mô hình bậc nhất, tất cả các con đƣờng hấp thu
đƣợc tập hợp thành một hằng số tốc độ hấp thu duy nhất và tất cả các con
đƣờng bài tiết thành một hằng số tốc độ bài tiết duy nhất theo nhƣ phƣơng
trình (1.3) [23], [24]. Trong mô hình này sinh vật đƣợc xem là một khoang
màng đồng thể, duy nhất đặt trong nƣớc có nguồn cung cấp cơ chất vô tận tại
một mức nồng độ cụ thể [18].
(1.3)
Trong đó dCf /dt (mg/kg/ngày) là tốc độ thay đổi nồng độ chất hoá học
trong mô theo thời gian, Cd (g/l) là nồng độ chất hoá học trong nƣớc,
(l/kg/ngày) là hằng số tốc độ hấp thu , (1/ngày) là hằng số tốc độ bài tiết và
t là thời gian. Hàm này có thể đƣợc sửa đổi cho mô hình tích luỹ từ trầm tích
nhờ thay bằng hằng số tốc độ hấp thu trầm tích (1/ngày) và thay Cd
và để dự đoán bằng Cs. Đối với mô hình này yêu cầu đánh giá đúng
thành công thời điểm đạt đến trạng thái ổn định [25].
Trong mô hình, nồng độ trong mô gia tăng theo thời gian ở tốc độ ban
đầu là cao nhất. Sau đó tốc độ này giảm dần cho đến khi tiệm cận đến một
mức nồng độ nào đó [18], [22]. Những mô hình này thích hợp nhất dùng cho
mô tả các quá trình không cân bằng trong các hệ thống mở.
Các mô hình động học phức tạp, còn gọi là mô hình tích luỹ độc tố dựa
vào những nguồn năng lƣợng sinh học. Quá trình hấp thu xuất hiện từ nhiều
con đƣờng: từ lớp nƣớc phía trên, nƣớc trong trầm tích, trầm tích đƣợc tiêu
hoá. Quá trình bài tiết cũng đƣợc xem xét qua nhiều con đƣờng.
Quá trình hấp thu từ mỗi con đƣờng đƣợc xem là độc lập và dựa vào
luồng vận chuyển từ môi trƣờng, nồng độ chất ô nhiễm có trong luồng đó, hiệu
quả đồng hoá có liên quan (qua mang hoặc qua đƣờng ruột). Chất ô nhiễm loại
bỏ khỏi sinh vật do bài tiết hoặc do chuyển hoá trao đổi. Việc dự đoán phần
mất mát do chuyển hoá trao đổi chất gặp khó khăn do ít liên quan đến đặc tính
kỵ nƣớc của chất hoá học, và có sự thay đổi lớn giữa các giống loài.
Các mô hình động học phức tạp này xem các quá trình hoá học và sinh
học xuất hiện trong cột nƣớc và trong sinh vật, mỗi bƣớc của quá trình đƣợc
mô hình hoá sử dụng động học bậc nhất, động học bậc 2 hoặc động học trạng
thái ổn định. Giống nhƣ các mô hình cân bằng, mô hình động học áp dụng với
các chất rất kỵ nƣớc (log Kow > 6) gặp khó khăn do đòi hỏi thời gian hấp thu
kéo dài để có thể đạt đến trạng thái cân bằng với nƣớc (từ một cho đến hơn
một năm) [18]. Nhiều sinh vật không sống đƣợc lâu nhƣ vậy nên không bao
giờ đạt đến trạng thái ổn định. Thêm vào đó khó dự đoán đƣợc sự hấp thu
những chất hoá học này do không thể nắm đƣợc tƣơng quan giữa các tốc độ
hấp thu và bài tiết khác nhau của chúng hoặc do những hiệu ứng pha loãng có
nguyên nhân từ sinh trƣởng [26], [27], [28], [29].
Đề tài nghiên cứu của luận án lựa chọn xây dựng mô hình vi phân bậc
nhất có dạng hàm (1.3). Đây là mô hình đƣợc các nhà khoa học trên thế giới
nghiên cứu trên nhiều đối tƣợng sinh vật khác nhau, nghiên cứu ở cả quy mô
trong phòng thí nghiệm và ngoài hiện trƣờng thực tế và cũng là mô hình đơn
giản, dễ triển khai các thí nghiệm lấy số liệu xây dựng, phù hợp với đối tƣợng
nghiên cứu trong đề tài là ion kim loại hòa tan ƣa nƣớc. Mô hình có tính ứng
dụng trong tính toán, dự báo khả năng tích lũy của sinh vật theo thời gian sinh
trƣởng, ứng dụng trong cảnh báo ô nhiễm môi trƣờng và trong vấn đề an toàn
thực phẩm.
1.1.4 Mô hình thống kê
Quá trình tích lũy và bài tiết chất hóa học của động vật nhuyễn thể là
những quá trình phức tạp, phụ thuộc vào nhiều yếu tố. Đối với phƣơng pháp
quy hoạch thực nghiệm thì cơ thể động vật nhuyễn thể và các quá trình trên
đƣợc xem là hộp đen. Nếu lựa chọn đƣợc các yếu tố thực sự có ảnh hƣởng lên
quá trình tích luỹ và là các yếu tố đáp ứng yêu cầu của quy hoạch thực
nghiệm, thì có thể xây dựng mô hình thống kê cho quá trình tích luỹ này.
Phƣơng pháp quy hoạch thực nghiệm có thể đƣợc xem là công cụ đắc
lực để nghiên cứu những đối tƣợng phức tạp. Tuy nhiên phƣơng pháp này
thƣờng đƣợc áp dụng trong mô tả các quá trình hóa học, công nghệ hóa học.
Việc áp dụng vào nghiên cứu mô tả quy luật tích lũy kim loại nặng của nghêu
Meretrix lyrata là hƣớng nghiên cứu hoàn toàn mới trong nội dung đề tài luận
án. Công dụng và tính hiệu quả của phƣơng pháp còn phụ thuộc vào chủ quan
ngƣời sử dụng. Để áp dụng có hiệu quả phƣơng pháp quy hoạch thực nghiệm,
cần dự tính và chuẩn bị trƣớc khá công phu về thông số nghiên cứu, trong đó
cần sử dụng đến các phƣơng pháp phân tích phƣơng sai để loại trừ yếu tố
không ảnh hƣởng, tìm kiếm yếu tố ảnh hƣởng, tiếp đến là lập kế hoạch thực
nghiệm, tiến hành thí nghiệm nhận thông tin, xây dựng và kiểm tra mô hình
[1], [2].
Các thông số nghiên cứu trong quy hoạch thực nghiệm thuộc nhóm
kiểm tra đƣợc và điều khiển đƣợc. Tuy nhiên trong số những thông số này cần
phân tích để chọn ra những yếu tố ảnh hƣởng chính, loại bỏ những yếu tố
không cần thiết nhằm đảm bảo tính khả thi và tính hiệu quả của thực nghiệm.
Đối với mô hình tích lũy độc tố trong động vật nhuyễn thể các thông số nhƣ
nồng độ độc tố trong môi trƣờng sống, thời gian sinh trƣởng, kích thƣớc, khối
lƣợng của động vật nhuyễn thể là những thông số có thể đƣợc lựa chọn trong
nghiên cứu. Những thông số này có tác động rõ rệt lên khả năng tích luỹ.
Việc lập kế hoạch thực nghiệm phải dựa trên các nguyên tắc cơ bản của
quy hoạch thực nghiệm, đó là các nguyên tắc [2]:
- Nguyên tắc không lấy toàn bộ trạng thái đầu vào: Về lý thuyết nếu
không tiến hành tất cả các thực nghiệm trong miền quy hoạch thì có thể bỏ sót
đặc điểm nào đó của hàm mục tiêu. Nhƣng trong thực tế không thể thực hiện
đƣợc điều này. Do vậy trong nghiên cứu chỉ lấy những giá trị rời rạc, chọn
mức biến đổi dựa trên cơ sở khoa học gắn liền với sự lựa chọn dạng hàm tức
dạng mô phỏng bề mặt đáp trị. Cụ thể trong đề tài nghiên cứu lựa chọn xây
dựng mô hình hồi quy bậc một thông qua triển khai kế hoạch thực nghiệm bậc
một toàn phần hai mức tối ƣu.
- Nguyên tắc phức tạp dần mô hình toán học: Do chƣa có một thông tin
nghiên cứu nào về xây dựng mô hình thống kê hàm lƣợng độc tố tích luỹ
đƣợc trong động vật nhuyễn thể phụ thuộc vào các yếu tố tác động, nên ngay
ban đầu sẽ không xây dựng mô hình phức tạp của đối tƣợng nghiên cứu này.
Do việc xây dựng mô hình phức tạp sẽ cần đến một số lƣợng lớn các thực
nghiệm tốn kém và mất nhiều thời gian, thậm chí uổng phí khi mô hình không
sử dụng đƣợc. Tuân thủ theo nguyên tắc của quy hoạch thực nghiệm là bắt
đầu từ những mô hình đơn giản nhất ứng với những thông tin ban đầu đã có
về động vật nhuyễn thể và khả năng tích luỹ độc tố của nó trong môi trƣờng,
quá trình xây dựng mô hình thống kê hàm lƣợng kim loại nặng tích luỹ trong
động vật nhuyễn thể sẽ bắt đầu với mô hình hồi quy bậc nhất.
Logic tiến hành thực nghiệm ở đây là làm ít thí nghiệm để có mô hình
đơn giản, mô hình bậc nhất, kiểm tra tính tƣơng hợp của nó. Nếu mô hình
tƣơng hợp, đạt yêu cầu thì dừng lại. Thông tin tiên nghiệm từ mô hình có thể
đƣợc sử dụng để xây dựng các mô hình khác, ví dụ xây dựng mô hình vi phân.
Nếu mô hình đơn giản này không tƣơng hợp sẽ tiến hành làm các thí nghiệm
mới, bổ sung để nhận đƣợc mô hình phức tạp hơn (ví dụ mô hình phi tuyến),
kiểm tra mô hình mới và cứ nhƣ vậy cho đến khi mô hình hữu dụng.
Các bƣớc thiết lập mô hình thống kê bao gồm :
- Xác định các yếu tố ảnh hƣởng và hàm mục tiêu,
- Xác định cấu trúc hệ,
- Xác định hàm toán mô tả,
- Xây dựng ma trận thực nghiệm, tiến hành thí nghiệm thu kết quả đầu ra,
- Xác định các thông số hàm toán,
- Kiểm tra tính tƣơng hợp của mô hình, cải tiến mô hình khi cần.
Qua phân tích thông tin tiên nghiệm trên đối tƣợng nghiên cứu, đề tài
luận án triển khai xây dựng mô hình thống kê để đánh giá khả năng tích lũy
của sinh vật nghêu Meretrix Lyrata đối với một số kim loại nặng. Mô hình có
thể sử dụng trong dự báo ô nhiễm và cảnh báo về vấn đề an toàn thực phẩm.
Đánh giá so sánh giữa mô hình vi phân và mô hình thống kê tìm hiểu quy luật
tích lũy của nghêu đối với các kim loại nghiên cứu.
Mô hình thống kê mô tả nồng độ kim loại tích luỹ trong mô động vật
nhuyễn thể phụ thuộc đồng thời vào nhiều yếu tố, trong đó có xét đến cả phần
đóng góp lên hàm hồi quy do sự tƣơng tác qua lại giữa các yếu tố. Chính vì
vậy khi mô hình đƣợc đánh giá tƣơng quan với bức tranh thực nghiệm thông
qua chuẩn thống kê nó sẽ có độ chính xác cao. Con đƣờng, cơ chế hóa sinh
học tích lũy kim loại nặng vào mô nhuyễn thể đƣợc xem là hộp đen.
Trong nghiên cứu của đề tài lựa chọn ra 3 yếu tố đƣợc cho là có tác
động đáng kể lên hàm hồi quy, các yếu tố này là nồng độ kim loại trong môi
trƣờng, khối lƣợng mô ban đầu và thời gian sinh trƣởng. Đây đều là các yếu
tố định lượng, dễ kiểm soát, việc lựa chọn các giá trị của chúng theo các mức
quy hoạch (giá trị đầu vào) là hoàn toàn độc lập, điều chỉnh được. Thông qua
mô hình có thể tính đƣợc nồng độ kim loại trong môi trƣờng hoặc trong mô
nhuyễn thể khi biết đƣợc các thông số còn lại.
Yếu tố thời gian xuất hiện trong mô hình cho phép ứng dụng mô hình
dự đoán thời gian hấp thu (thời gian sinh trƣởng) để nồng độ kim loại trong
mô đạt đến một mức nhất định, ví dụ mức có thể gây tác động có hại đến sức
khoẻ con ngƣời.
Để xây dựng mô hình thống kê, trong nội dung nghiên cứu của đề tài đã
tiến hành các thực nghiệm nuôi nghêu trong phòng thí nghiệm theo kế hoạch
thực nghiệm bậc một toàn phần hai mức tối ƣu. Với 8 thí nghiệm trong kế
hoạch thực nghiệm, mỗi thí nghiệm có một tệp các điều kiện nghiên cứu khác
nhau với các mức yếu tố cụ thể, không thí nghiệm nào giống thí nghiệm nào và
vì thế rất khó chọn đƣợc trong tự nhiên các địa điểm, khu vực nghiên cứu thoả
mãn những yêu cầu này. Triển khai các thí nghiệm nuôi nhuyễn thể trong
phòng thí nghiệm là hƣớng duy nhất để xây dựng mô hình thống kê. Trong môi
trƣờng phòng thí nghiệm cho phép kiểm soát đƣợc các mức thí nghiệm, nhƣng
khoảng thời gian sống của nhuyễn thể trong điều kiện này ngắn (chỉ trong vòng
30 ngày), không thể kéo dài khoảng biến thiên của yếu tố thời gian. Tuy nhiên
trong 4 yếu tố có thể tác động ngăn cản đạt đƣợc các điều kiện mà ở đó sinh vật
tích luỹ cơ chất ổn định bao gồm [25]: những thay đổi về nồng độ chất ô nhiễm
hoặc thay đổi hoạt tính trong quá trình nghiên cứu; khả năng tích lũy chất hóa
học của sinh vật bị thay đổi trong giai đoạn phơi nhiễm; có thêm con đƣờng
tích lũy khác chƣa đƣợc tính vào cùng với con đƣờng đang nghiên cứu; và chƣa
đủ thời gian phơi nhiễm để đạt đến trạng thái ổn định thì nghiên cứu trong
phòng thí nghiệm có thể đƣợc khống chế, loại bỏ ảnh hƣởng từ các yếu tố sự
thay đổi nồng độ chất ô nhiễm hoặc thay đổi hoạt tính sinh học trong quá trình
nghiên cứu và yếu tố có thêm các con đƣờng tích luỹ khác chƣa đƣợc tính vào
cùng với con đƣờng đang nghiên cứu.
Sự thay đổi nồng độ chất ô nhiễm trong mỗi thí nghiệm đƣợc loại bỏ do
không có tác động thay đổi bởi các yếu tố khí hậu, biến đổi môi trƣờng, giảm
bớt hoặc gia tăng nguồn thải..... nhƣ đối với môi trƣờng trong tự nhiên. Chế
độ thay nƣớc bổ sung hàng ngày bằng chính nguồn nƣớc tự nhiên đảm bảo
đƣợc nguồn dinh dƣỡng tự nhiên cần thiết cho nghêu. Sau khi thay nƣớc bổ
sung, kiểm tra và nếu cần điều chỉnh nồng độ kim loại trong nƣớc đến mức
đặt ra trong kế hoạch, bảo đảm nồng độ kim loại nặng trong môi trƣờng nuôi
ổn định. Hoạt tính của kim loại nặng đang nghiên cứu cũng xem nhƣ không
thay đổi do trạng thái hoá trị, các dạng tồn tại của nó không bị biến đổi nếu so
với trong môi trƣờng tự nhiên có thể xảy ra do các tác động vật lý và hoá học
khác. Yếu tố có thể có thêm các con đƣờng tích luỹ khác không đƣợc tính vào
cùng con đƣờng đang nghiên cứu đƣợc loại bỏ vì trong tất cả các thí nghiệm
chỉ có một con đƣờng tích luỹ duy nhất là từ pha nƣớc hoà tan. Các điều kiện
thí nghiệm tốc độ sục khí, bơm tuần hoàn nƣớc và nguồn thức ăn bổ sung (tảo
và men bánh mỳ) đều đồng nhất trong mọi thí nghiệm.
1.2. NGHIÊN CỨU QUY LUẬT TÍCH LUỸ KIM LOẠI NẶNG TRONG
ĐỘNG VẬT NHUYỄN THỂ
1.2.1 Các kim loại nghiên cứu, nghêu Meretrix lyrata và cơ chế tích lũy
Đề tài tập trung nghiên cứu quy luật tích luỹ kim loại nặng Cd, As, Cu
trong loài nghêu Meretrix Lyrata bằng phƣơng pháp mô hình hóa. Đây là loài
có giá trị dinh dƣỡng cao, đƣợc nuôi rộng rãi. Nó là đối tƣợng nuôi trồng
truyền thống cũng nhƣ sinh sống rộng khắp trong môi trƣờng tự nhiên ven
biển, là mặt hàng xuất khẩu có giá trị kinh tế với số lƣợng 2000-3000 tấn thịt
nghêu/năm [4].
Meretrix lyrata là một loài nằm trong giống nghêu Meretrix, trong
giống này còn có các loài Meretrix meretrix, Meretrix lusoria, Meretrix tripla,
Meretrix casta; Meretrix lime,...[14]. Các loài nằm trong giống nghêu
Meretrix có cấu tạo cơ thể giống nhau, hoạt động sinh học (cơ chế bắt mồi, hô
hấp, bài tiết,...) tƣơng tự nhau, nhƣng khác nhau về kích thƣớc, khối lƣợng,
Mấu vỏ Tuyến tiêu hóa
Mang Cơ
Tuyến sinh dục
Vòi nƣớc (vào và ra)
Chân Cơ màng áo
mầu sắc vỏ ngoài và giá trị dinh dƣỡng vào giai đoạn trƣởng thành [14].
Hình 1.1 Giải phẫu phần mô mềm bên trong nghêu Meretrix lyrata
Thân mềm của nhuyễn thể nói chung và nghêu Meretrix lyrata nói riêng
đƣợc bảo vệ bằng hai mảnh vỏ hình ô van ôm trọn thân. Nghêu có cấu tạo cơ
thể gồm miệng, cơ trƣớc, cơ sau, thận, tim, tuyến sinh dục, chân, mang, tua,
hậu môn, vòi hút nƣớc vào và vòi đẩy nƣớc ra theo hai con đƣờng riêng. Vòi
phía bụng là vòi hút nƣớc vào, vòi phía lƣng là vòi đẩy nƣớc ra. Vòi nƣớc của
nghêu to và ngắn, vòi lấy nƣớc vào dài hơn vòi đẩy nƣớc ra. Nghêu vùi thân
trong cát và thò vòi nƣớc lên trên cát để hô hấp, bắt mồi và bài tiết. Hệ hô hấp
của nghêu đóng vai trò quan trọng là lọc thức ăn và hô hấp. Miệng nghêu là
một rãnh ngang nằm phía trƣớc cơ thể, bên miệng có tấm môi ngoài, môi trong,
tiêm mao dùng để vận chuyển và chọn lọc thức ăn. Mang nghêu có hình chữ W
gồm hai lá mang nằm bên xoang màng áo, mỗi tấm gồm nhiều sợi tơ kết hợp
với nhau bằng màng mỏng có nhiều nếp gấp (28-30 nếp). Mang nghêu là cơ
quan hô hấp chủ yếu, ngoài ra các vi mạch trên màng áo ngoài, các vi mạch
trên môi cũng có tác dụng bổ trợ hô hấp. Động vật nhuyễn thể nói chung cũng
nhƣ nghêu Meretrix Lyrata nói riêng hô hấp bằng cách mở miệng ra, ngậm
miệng lại và dòng nƣớc đƣợc đƣa đi vào, đi ra qua chức năng của vòi nƣớc.
Mang của động vật nhuyễn thể đƣợc ví nhƣ một nhà máy lọc nƣớc nhỏ.
Nhờ vào cấu tạo đặc biệt của tấm mang, nhuyễn thể bắt mồi thụ động và liên
tục. Thức ăn đi qua mang đƣợc chọn lọc một phần đi vào hệ tiêu hoá, phần
còn lại bị đẩy ra ngoài [3].
Nhuyễn thể là loài có sự tích tụ sinh học cao hơn so với các loài động
vật có xƣơng sống nhƣ cá và động vật sống trên cạn, đồng thời chúng cũng
bài tiết ra ngoài nhiều hơn so với loài khác. Cá sống ở tầng nƣớc mặt hoặc
tầng nƣớc giữa còn nhuyễn thể sống ở đáy và ăn lọc nên khả năng hấp thu
kim loại nặng của nhuyễn thể cao hơn cá. Các tài liệu nghiên cứu cho thấy đối
với nhuyễn thể hai mảnh vỏ, kim loại nặng (Hg, Cd, Pb, Cu) đƣợc tích luỹ ở
mang và ở cơ, còn với cá thì tích lũy ở gan, thận và cơ [3].
Sự tích tụ ô nhiễm trong cơ thể của nhuyễn thể là cao nhất và con
đƣờng duy nhất chúng có thể hấp thụ đƣợc là từ nƣớc khi các chất ô nhiễm
hoà tan trong nƣớc hoặc liên kết với các chất lơ lửng, kim loại nặng dƣới dạng
ion hòa tan hấp thu qua mang vào mô mềm nhờ vào cấu trúc đặc biệt của
mang, kim loại liên kết với hạt rắn (trong đó có phần làm dinh dƣỡng) hấp thu
qua đƣờng tiêu hóa [3], [30], [31]. As, Cd, Cu là những kim loại nặng đƣợc
lựa chọn nghiên cứu với những lý do sau đây:
- Nguồn nƣớc sông, hồ, biển có nồng độ As, Cd chỉ vài g/l đã đƣợc
xem là bị ô nhiễm. Vì vậy sự tích luỹ As, Cd trong nhuyễn thể có tác dụng
đánh giá chất lƣợng môi trƣờng rất tốt.
- As, Cd có độc tính cao, các loài cá, nghêu, sò, ốc dễ hấp thụ và tích
luỹ trong cơ thể. Nhiều hợp chất asen có độ hoà tan trong nƣớc cao do vậy ô
nhiễm nƣớc do asen dễ xảy ra.
- Sự hiện diện của mô mềm có protein giầu sulfua tạo phức kim loại
của động vật nhuyễn thể (metallothionein, MT) đƣợc cho là nguyên nhân dẫn
đến thành phần kim loại trong chúng cao. Sự tiêu hoá chọn lọc kim loại với
mức độ khác nhau đƣợc cho là do bản chất hoá học của nguyên tố, nhƣng
quan trọng hơn là do protein MT. MT thƣờng bão hoà Zn và Cu, những kim
loại này dần bị thay thế bởi các kim loại khác, đặc biệt là bởi Cd [32], [33].
Đây là một trong những nguyên nhân cơ bản dẫn đến khả năng tích luỹ mạnh
Cd bởi các loài nhuyễn thể. Cũng từ nguyên nhân MT có khả năng bão hoà
Zn, Cu nên trong đề tài đã lựa chọn Cu làm đối tƣợng nghiên cứu để khẳng
định khả năng hấp thu, tích luỹ mạnh đối với kim loại này bởi nhuyễn thể
Meretrix lyrata.
- As, Cd và Cu là ba kim loại nặng cho thấy có thể mô tả đƣợc quy luật
tích luỹ trong nhuyễn thể Meretrix lyrata bằng các dạng mô hình đề tài lựa
chọn thông qua một số kết quả nghiên cứu khảo sát ban đầu lấy làm thông tin
tiên nghiệm.
1.2.2 Các mô hình tích luỹ kim loại nặng
1.2.2.1 Hai mô hình OBM và DEB
a. Mô hình OBM
Bắt đầu quá trình xây dựng mô hình với việc đƣa ra các biểu đồ mô tả
con đƣờng vận chuyển kim loại nặng qua lại giữa môi trƣờng sống (nƣớc,
trầm tích), nguồn dinh dƣỡng và bản thân động vật nhuyễn thể. Trong đó
nồng độ của một kim loại đƣợc điều khiển bởi sự cân bằng giữa lấy vào (hấp
thu), bài tiết và sinh trƣởng [30].
Kfw
Dinh dƣỡng (phytoplankton, cát, trầm tích lơ lửng)
Nƣớc (nƣớc bao phủ)
Sũ
kg ER
IR
Hình 1.2: Con đường vận chuyển kim loại nặng qua lại giữa nước, dinh dưỡng và động vật nhuyễn thể
Trong biểu đồ này Kfw là hệ số phân bố kim loại giữa nƣớc và dinh
dƣỡng, kg (cm/giây) là độ dẫn khối lƣợng kim loại qua mang, ER là tốc độ bài
tiết, IR là tốc độ cấp dinh dƣỡng.
Mô hình phát triển từ biểu đồ nhận thức này nằm trong nghiên cứu có
tên là “Mô hình tích lũy OBM trong sò áp dụng với kim loại nặng”. Thực tế
mô hình là phiên bản sửa đổi của mô hình trao đổi dinh dƣỡng có tên FGEST
còn gọi là mô hình trao đổi cơ chất độc hại qua dinh dƣỡng và qua mang do
Baber và Suarez phát triển [34]. Mô hình FGEST đƣợc phát triển cho cá.
Trong mô hình OBM xem sò lấy kim loại nặng vào từ nƣớc qua mang và qua
tiêu thụ nguồn dinh dƣỡng trong hệ thống tiêu hoá. Kim loại ra khỏi cơ thể
thông qua bài tiết, chuyển hoá trao đổi chất và qua sinh trƣởng. Mô hình
OBM dựa trên một số thừa nhận sau [30] :
- Ấu trùng sò xem nhƣ không có kim loại nặng vào thời điểm bắt đầu
nghiên cứu.
- Trong động vật nhuyễn thể có một hệ thống mang vận chuyển. Trên
bề mặt mang nƣớc đƣợc luân chuyển qua khe hở sợi mang, trong khi đó phần
hạt đƣợc vận chuyển nhờ tác dụng của lông mao hƣớng về xúc tu môi [35].
Do đó có thể xem sự khuếch tán kim loại và oxy hoà tan vào trong hệ thống
chỉ xuất hiện qua màng mang. Tổng diện tích bề mặt mang kiểm soát lƣợng
kim loại hấp thu và lƣợng oxy trao đổi.
- Xem các sợi mang đóng vai trò nhƣ những ống dẫn song song (hình
1.3), trong sợi mang đó nƣớc có dòng chảy lớp (hình 1.4). Sự chấp nhận
tƣơng tự nhƣ vậy cũng đƣợc Jorgensen sử dụng để giải thích cho hiện tƣợng
có dòng chảy lớp trên mang động vật hai mảnh là do chỉ số Reynold rất thấp
[36], [37].
- Sự trao đổi kim loại qua mang sò tuân theo khuếch tán đơn giản.
Hình 1.3 Hình ảnh mang sò cho thấy có các sợi tơ song song (f)
Hình 1.4 Biểu đồ minh hoạ sợi mang có dòng nước tuân theo chuyển động lớp
Trên cơ sở biểu đồ hình (1.1) và những thừa nhận trong xây dựng mô
hình OBM, sự tích luỹ kim loại nặng trong loài động vật nhuyễn thể có thể
đƣợc mô hình hoá sử dụng hàm cân bằng sau:
(1.4)
Trong đó Bf (g) là tổng lƣợng kim loại vào cơ thể phụ thuộc thời gian,
t (ngày) là thời gian. G và F tƣơng ứng miêu tả lƣợng kim loại thực tế hấp thu
từ pha hòa tan qua mang và từ dinh dƣỡng qua đƣờng tiêu hoá, f là ký hiệu chỉ
thị cho kim loại quan tâm.
Tốc độ sinh trƣởng đƣợc đƣa vào mô hình OBM để chuẩn cho sự pha
loãng nồng độ kim loại nặng trong cơ thể sò có nguyên nhân do sinh trƣởng.
Cùng với tốc độ bài tiết kim loại thì đây là thông số rất quan trọng để mô hình
hoá luồng năng lƣợng sinh học trong sò Crassostrea virginca. Tốc độ thay đổi
khối lƣợng cơ thể sò đƣợc Barber và Suarez đƣa ra dƣới dạng công thức [34]:
(1.5)
Trong đó W (g) biểu thị khối lƣợng mô sò phụ thuộc thời gian (đại diện
cho sự sinh trƣởng), Ir là tốc độ cấp dinh dƣỡng, Er là tốc độ bài tiết, R là tốc
độ hô hấp thông thƣờng, Ex là chất bài tiết và Sd là hoạt động động học đặc
trƣng hay sự hô hấp khác với hô hấp bình thƣờng.
Nồng độ tính theo tổng khối lƣợng cơ thể phụ thuộc thời gian đƣợc mô
phỏng theo Cf (g/g) nhƣ sau:
(1.6)
Trong mô hình OBM sẽ bao gồm các thuật ngữ có liên quan đến khối
lƣợng sò, năng lƣợng sinh học và các thông số đặc trƣng cho đặc điểm sinh lý
với kim loại nặng. Do không có hàm nào dùng chung cho động vật thân mềm
hai mảnh vỏ, chấp nhận hàm đƣợc sử dụng đánh giá năng lƣợng sinh học cho
cá cũng phù hợp để đánh giá năng lƣợng cho động vật nhuyễn thể [36], [38],
[39]. Trƣớc đây Liao cũng có một sự chấp nhận tƣơng tự nhƣ vậy để thông số
hoá một số số hạng liên quan đến năng lƣợng sinh học đối với sự tích luỹ Zn
trong loài động vật thân mềm Haliotis diversicolor [40].
b. Mô hình DEB
Một biểu đồ khác cũng đƣợc áp dụng để xây dựng mô hình tích luỹ là
Xây dựng cấu trúc
Duy trì sự sống
Duy trì sinh trƣởng
mô hình DEB nhƣ sau [41]:
1 2 k
Năng lƣợng dự trũ
1-k
[Kim loại hoà tan] Nƣớc Dinh dƣỡng [Kim loại hạt]
Dự trữ sinh sản
Sinh sản
Hình 1.5: Biểu đồ mô tả con đường vận chuyển kim loại nặng sử dụng xây dựng mô hình tích luỹ DEB
Trong biểu đồ này, kim loại vào cơ thể động vật nhuyễn thể cũng từ
pha hoà tan (nƣớc) đi qua mang và từ pha hạt (dinh dƣỡng) qua con đƣờng
tiêu hoá. Năng lƣợng sinh học động vật nhuyễn thể tích trữ đƣợc tiêu thụ vào
hai nhóm, nhóm thứ nhất để xây dựng cấu trúc cơ thể hay nói cách khác là lớp
hai mảnh vỏ và để duy trì sự sống, nhóm thứ hai để duy trì sự sinh trƣởng và
dự trữ cho sinh sản. Kim loại nặng theo các con đƣờng chuyển hoá này để
tích luỹ và bài tiết. Trong mô hình DEB xây dựng theo biểu đồ này, cả tốc độ
hấp thu và bài tiết kim loại nặng chấp nhận tỷ lệ với diện tích bề mặt toàn bộ
cơ thể sống của động vật nhuyễn thể.
1.2.2.2 Mô hình hấp thu từ nƣớc
Trong hàm (1.4), G đại diện cho lƣợng kim loại thực tế hấp thu từ pha
hoà tan trong nƣớc. Nƣớc đi qua mang dƣới dạng dòng chảy lớp và ở trạng
thái không đổi, chấp nhận kim loại trao đổi qua mang sò chỉ theo khuếch tán
đơn giản. Do đó định luật Fick I về sự khuếch tán đƣợc áp dụng để mô hình
hoá quá trình này theo công thức sau [34]:
(1.7)
Sg (cm2) là tổng diện tích mang của sò, kg (cm/giây) là độ dẫn khối
lƣợng kim loại qua mang, Kaw là hệ số phân bố kim loại nặng giữa máu sò và
nƣớc. Cd và Ca tƣơng ứng là nồng độ kim loại (g/ml) trong nƣớc có trong
mang sò và trong máu sò.
Trong cơ học chất lỏng, độ dẫn khối lƣợng hoá học kg có thể đƣợc định
nghĩa là một hàm của tốc độ khuếch tán hoá học và khoảng cách giữa các sợi
tơ mang. Khi chấp nhận các sợi tơ mang liền kề nhau xem nhƣ là những đĩa
song song và nƣớc thoát ra từ mang ở một trạng thái không đổi với dòng chảy
lớp, quá trình vận chuyển kim loại đến các sợi tơ có thể mô hình hoá bằng
hàm vi phân sau:
(1.8)
trong đó là trị riêng của hàm, là độ nhớt của chất lỏng giữa các sợi tơ, p là
áp lực chất lỏng dọc theo sợi tơ, y là vị trí dọc theo sợi tơ, h là một nửa
khoảng cách giữa các sợi tơ và D là hệ số khuyếch tán của kim loại trong chất
lỏng.
Hàm vi phân (1.8) đƣợc gọi là bài toán Graetz cổ điển dùng trong cơ
học chất lỏng để xác định chuyển khối trong chất lỏng với dòng chảy lớp giữa
những đĩa thấm song song [42], [43], [44]. Bài toán đã đƣợc chứng minh với
những điều kiện biên phù hợp nhƣ sự cân đối xung quanh vạch trung tâm,
việc giải hàm vi phân (1.8) rút gọn về việc xác định n và fn tƣơng ứng là trị
riêng và hàm riêng. Các trị riêng đƣợc xác định và dùng trị riêng thứ nhất để
biểu diễn độ dẫn khối lƣợng kg theo công thức sau [34]:
(1.9)
Trong đó là số Graetz.
Trong mô hình DEB, Stellio Casas và Cédric Backer cũng đƣa ra hàm
vi phân biểu diễn tốc độ biến đổi kim loại nặng Cf (mg/kg) trong mô động vật
nhuyễn thể theo thời gian có tính đến các yếu tố: tốc độ hấp thu từ nƣớc (kim
loại nặng tồn tại ở dạng hoà tan), tốc độ hấp thu từ pha hạt (kim loại nặng
trong phần hạt rắn lơ lửng, trong dinh dƣỡng), tốc độ bài tiết và sự pha loãng
nồng độ kim loại nặng trong cơ thể do nguyên nhân tăng trƣởng [41]. Hằng số
tốc độ hấp thu kim loại ở dạng hoà tan đƣợc tính theo công thức:
(l/g/ngày) (1.10)
Trong công thức này là hằng số [l/cm/ngày], V2/3 (cm2) là diện tích bề
mặt mô tính đƣợc nhờ chuyển hoá từ thể tích phần cơ thể sống V (cm3), W (g)
là khối lƣợng mô tƣơi. Nhƣ vậy hằng số tốc độ hấp thu phụ thuộc vào tổng
diện tích bề mặt mô và khối lƣợng mô. Hằng số tốc độ này có thể tính đƣợc
thông qua các thực nghiệm ngoài môi trƣờng tự nhiên cũng nhƣ trong phòng
thí nghiệm [41], [45], [46], [47].
Phần biến đổi nồng độ kim loại nặng hấp thu vào cơ thể động vật nhuyễn
thể Cf từ pha hoà tan theo thời gian lúc này đƣợc tính theo công thức sau:
(1.11)
1.2.2.3 Mô hình hấp thu từ dinh dƣỡng
Trong mô hình OBM, kim loại nặng tích luỹ từ nguồn dinh dƣỡng qua
hệ tiêu hoá thực tế đƣợc biểu diễn theo hàm cân bằng khối lƣợng dƣới đây:
(1.12)
Cp là nồng độ kim loại nặng trong phần dinh dƣỡng đã tiêu hoá, Ce là
nồng độ kim loại nặng trong phân bài tiết. Chấp nhận phần kim loại đã tiêu
hoá đƣợc thải ra ngoài qua phân không đổi, Er có thể đƣợc biểu diễn nhƣ sau:
(1.13)
f là hiệu quả đồng hoá dinh dƣỡng của động vật nhuyễn thể.
Trong OBM cũng nhƣ trong FGETS chấp nhận và .
Ở các công thức này Ke là hệ số phân bố kim loại giữa phân và nƣớc, Kf là hệ
số phân bố kim loại nặng giữa nƣớc và mô mềm.
Phần kim loại nặng tích luỹ qua con đƣờng dinh dƣỡng còn có thể biểu
diễn bằng công thức:
(1.14)
trong đó c là hiệu quả đồng hoá kim loại. Hiệu quả đồng hoá kim loại
nặng từ dinh dƣỡng là một phần kim loại nặng tiêu hoá còn nằm lại trong mô
sò sau khi nó đã bỏ đi phần vật liệu chƣa tiêu hoá [48], [49].
Kết hợp các hàm (1.12), (1.13) và (1.14), hiệu quả đồng hoá kim loại c
có thể biểu diễn nhƣ sau:
(1.15)
hay (1.16)
Hàm này cho thấy hiệu quả đồng hoá kim loại nặng giảm khi tổng
lƣợng kim loại nặng vào cơ thể Cf gia tăng. Baber trong một nghiên cứu khác
cũng đã chứng minh đƣợc c giảm theo hàm mũ [34].
Trong OBM cũng nhƣ trong FGETS đều có quan hệ sau:
(1.17)
Pa, Pl, Po tƣơng ứng là phần cơ thể sống động vật nhuyễn thể dƣới dạng
nƣớc, lipid và vật liệu hữu cơ không phải là lipid. Koc là hệ số phân bố cacbon
hữu cơ.
Nồng độ độc tố trong mô có liên quan đến phần chất béo. Sự phân bố
hợp chất hoá học giữa pha lipid và pha nƣớc đƣợc tham số hoá thành Kl. Hệ
số phân bố Kl là một hàm của Kow và đƣợc biểu diễn theo tƣơng quan sau:
(1.18)
Trong đó hằng số a có giá trị lý thuyết là 1,27 [34].
Ứng dụng mô hình OBM, Dennis và các cộng sự đã mô phỏng tổng
lƣợng hai kim loại Zn, Cd tích luỹ trong loài sò Crassostrea virginica tại vịnh
Apalachicola (Florida, Mỹ). Chƣơng trình tính toán OBM đƣợc viết trong
FORTRAN, đƣợc phân tích thêm bằng phần mềm đang đƣợc sử dụng phổ
biến GNUPLOT. Kết quả mô phỏng nồng độ Zn và Cd trong Crassostrea
virginica cho thấy nồng độ đạt đến cân bằng tính theo khối lƣợng khô tƣơng
ứng là 2000 và 3,2 g/g. Kết quả mô phỏng Cd gần với giá trị trung bình xác
định trực tiếp là 3,6 g/g và kết quả mô phỏng đối với Zn nằm trong dải thực
tế từ 700 4000 g/g [30].
Đối với mô hình DEB, hằng số tốc độ hấp thu kim loại nặng từ pha
dinh dƣỡng (pha hạt) đƣợc tính một cách đơn giản theo công thức:
(1/ngày) (1.19)
Trong đó (g/cm2/ngày) là hằng số, V2/3 (cm2) là diện tích bề mặt mô
và W (g) là khối lƣợng mô, f là hệ số phản ánh sự đồng hoá nồng độ dinh
dƣỡng (không thứ nguyên) và đƣợc tính theo công thức:
(1.20)
Với X là nồng độ dinh dƣỡng (mg/l) và Xk là hệ số bán bão hoà (g sắc tố/l).
Biến đổi nồng độ kim loại nặng trong cơ thể động vật nhuyễn thể Cf
hấp thu từ dinh dƣỡng theo thời gian lúc này đƣợc tính theo công thức:
(1.21)
1.2.2.4 Mô hình bài tiết kim loại nặng
Trong mô hình DEB, phần biến đổi nồng độ kim loại nặng bài tiết ra
ngoài theo thời gian đƣợc tính theo công thức [41]:
(1.22)
Hằng số tốc độ bài tiết ke (1/ngày):
(1.23)
(g/cm2/ngày) là hằng số; V2/3 (cm2) là diện tích bề mặt mô và W (g)
là khối lƣợng mô, Cf là nồng độ kim loại nặng trong cơ thể động vật nhuyễn
thể. Từ công thức (1.23) cho thấy hằng số tốc độ bài tiết cũng phụ thuộc và
tổng diện tích mô và khối lƣợng mô.
Trong mô hình DEB có tính đến nguyên nhân pha loãng do sự sinh
trƣởng làm giảm nồng độ kim loại nặng tích luỹ đƣợc. Hiệu ứng pha loãng
này đƣợc tính theo công thức:
(1.24)
Kết hợp các công thức (1.11), (1.21), (1.22) và (1.24), mô hình DEB
đƣa ra hàm vi phân nồng độ kim loại nặng Cf (mg/kg) theo khối lƣợng mô
biến đổi theo thời gian nhƣ sau:
(1.25)
Các nhà khoa học Pháp đã mô hình hoá sự tích luỹ kim loại vết Hg và
Pb trong loài trai Địa Trung Hải Mytilus galloprovincialis sử dụng mô hình
DEB, trong đó có đƣa ra mô hình vi phân (1.25). Các thực nghiệm tại hiện
trƣờng đƣợc xắp đặt để đo động học hấp thu và loại bỏ 2 kim loại trên tại 3 vị
trí vùng Địa Trung Hải (vịnh Lazaret, đầm phá Bages và Công viên Quốc gia
Port-Cost).
Tất cả các con trai với kích thƣớc vỏ 60 mm lấy từ khu nuôi trồng thuỷ
sản tại vị trí mở, sạch trên bờ biển đƣợc đặt vào trong những cái lồng lƣới làm
bằng vật liệu polyethylene. Lồng đƣợc ngâm ở độ sâu 10-12 m và treo trên
những kết cấu nuôi cố định. Trai đƣợc vận chuyển từ vùng sạch đến vùng ô
nhiễm mạnh, sau đó chuyển ngƣợc lại vị trí sạch. Các thực nghiệm đƣợc thiết
kế để khảo sát động học nồng độ kim loại Hg trong trai với việc đo đồng thời
nồng độ kim loại trong nƣớc, trong hạt lơ lửng và thực hiện các phép đo sinh
trắc học trai. Thực nghiệm nhƣ vậy cho phép quan sát đồng thời cả sự tích luỹ
và những thay đổi sinh lý trong sinh vật. Đối với các thực nghiệm về sự tích
luỹ trong môi trƣờng ô nhiễm, trai đƣợc vận chuyển đến nuôi trong 6 tháng tại
2 vị trí bị ô nhiễm (vịnh Lazaret và đầm phá Bages). Vào thời điểm cuối của
những thực nghiệm này, các lồng nuôi đƣợc vận chuyển trong thùng lạnh đến
vị trí sạch là đảo Port-Cost để khảo sát động học bài tiết ô nhiễm trong 3
tháng.
Thiết kế thực nghiệm bao gồm 4 mức độ tƣơng đƣơng 4 tệp dữ liệu:
mức một đƣợc đặt ở Bages trong 6 tháng, sau đó ở Port-Cost trong 3 tháng,
mức hai đặt ở Bages trong 3 tháng, sau đó ở Port-Cost trong 3 tháng, mức ba
đặt ở Larazet trong 6 tháng, sau đó ở Port-Cost trong 3 tháng và mức bốn đặt
ở Larazet trong 3 tháng, sau đó ở Port-Cost 3 tháng.
Bốn tệp dữ liệu sử dụng chuẩn ba hằng số với các kết quả:
l/cm2/ngày ; g/cm2/ngày ; và g/cm2/ngày đối với Hg,
l/cm2/ngày ; g/cm2/ngày ; và g/cm2/ngày đối với
Pb [41].
Cũng với phƣơng pháp thực nghiệm nhƣ trên, các nhà khoa học Bồ
Đào Nha đã xây dựng mô hình vi phân bậc nhất mô tả nồng độ Cd tích luỹ
trong loài trai Ruditapes decussatus. Mô hình biểu diễn qua cân bằng giữa quá
trình hấp thu và quá trình bài tiết có dạng nhƣ sau [50]:
(1.26)
Trong đó Cf (g/g) là nồng độ Cd trong mô tích lũy đƣợc sau thời gian
(l/g/ngày) là hằng số tốc độ t (ngày), Cd (g/l) là nồng độ Cd trong nƣớc,
hấp thu, (1/ngày) là hằng số tốc độ bài tiết. Các hằng số và đƣợc đánh
giá qua phân tích tƣơng quan phi tuyến. Theo công thức này thì không có sự
phân biệt giữa hằng số tốc độ hấp thu kim loại từ pha hoà tan và hằng số tốc
độ hấp thu kim loại từ pha hạt, mà chỉ có một hằng số tốc độ hấp thu chung .
Trong giai đoạn loại bỏ ô nhiễm khỏi mô (Cd = 0), mô hình này trở
thành dạng [50]:
(1.27)
là nồng độ Cd ban đầu trong giai đoạn loại bỏ ô nhiễm khỏi mô. Với
Thực chất khi kết hợp công thức (1.22) và (1.23) cùng một vài biến đổi toán
học đơn giản sẽ thu đƣợc công thức này.
Thực nghiệm đƣợc triển khai nhƣ sau: các cá thể trai R. Decussatus
trƣởng thành với độ dài vỏ trong khoảng 30-35 mm lấy từ một vị trí môi
trƣờng trong sạch, không bị ô nhiễm kim loại của đầm phá Ria Formosa (phía
nam Bồ Đào Nha) đƣợc chuyển về phòng thí nghiệm, đƣợc làm sạch trong
nƣớc biển có sục khí trong 7 ngày. Sau giai đoạn này trai đƣợc nuôi trong hai
môi trƣờng có nồng độ Cd tƣơng ứng là 4 g/l và 40 g/l trong 40 ngày. 9
nhóm mỗi nhóm 60 cá thể đặt trong bình chứa 10 lít nƣớc biển, trong đó có 3
nhóm sử dụng làm mẫu kiểm soát, 3 nhóm phơi nhiễm trong môi trƣờng 4
g/l Cd (Cd chuẩn đƣợc pha từ CdCl2.H2O), và 3 nhóm còn lại phơi nhiễm
trong môi trƣờng 40 g/l Cd. Sau giai đoạn phơi nhiễm này, các cá thể trai
đƣợc sang nuôi trong môi trƣờng nƣớc biển sạch trong 50 ngày (giai đoạn l oại
bỏ ô nhiễm trong mô) [50].
Trong quá trình triển khai thực nghiệm nƣớc đƣợc thay 2 ngày một lần
và mức nồng độ Cd phơi nhiễm liên tục đƣợc xác lập lại trong giai đoạn tích
luỹ. Các thông số môi trƣờng nƣớc nuôi đƣợc kiểm soát gồm nhiệt độ, độ
muối, pH, tỷ lệ phần trăm oxy bão hoà. Nồng độ Cd đƣợc đo trong suốt quá
trình làm thực nghiệm trƣớc và sau mỗi lần thay nƣớc. Nƣớc sử dụng trong
thực nghiệm lấy từ vị trí không bị ô nhiễm trong đầm phá Ria Formosa, đƣợc
lọc qua lƣới lọc kích thƣớc lỗ 200 m, theo cách này nƣớc vẫn giữ lại đƣợc vi
sinh vật phù du là nguồn dinh dƣỡng của trai trong khi loại bỏ đƣợc các vật
liệu rắn kích thƣớc lớn khác.
Để có số liệu phục vụ xử lý tính toán các thông số mô hình, tại mỗi một
trong 3 bình nuôi (bình kiểm soát, bình phơi nhiễm nồng độ Cd 4 g/l và bình
phơi nhiễm nồng độ Cd 40 g/l) một số cá thể đƣợc lấy ra để xác định nồng
độ Cd trong mô vào các ngày thứ 0, 7, 14, 21, 30 và 40 (trong giai đoạn tích
luỹ) và vào các ngày thứ 50, 60, 75 và 90 (trong giai đoạn loại bỏ ô nhiễm
kim loại khỏi mô) [50].
1.2.2.5 Ƣu nhƣợc điểm hai mô hình OBM và DEB
Mô hình tích lũy OBM mô tả đƣợc khả năng tích lũy kim loại nặng từ
cả pha hòa tan và pha không hòa tan. Khả năng dự đoán của mô hình đƣợc
đánh giá là phù hợp với các kết quả kiểm tra trong môi trƣờng sống thực tế.
Mô hình OBM cũng cho phép dự đoán đƣợc hệ số tích lũy BAF, một
thông số quan trọng để xác định cả tổng lƣợng kim loại tích lũy đƣợc và thành
phần hóa học chất ô nhiễm trong nƣớc. OBM là công cụ hiệu quả dùng để dự
đoán và đánh giá ô nhiễm kim loại nặng.
Tuy nhiên, để xây dựng mô hình cần đến nhiều thông số đầu vào phức
tạp, đặc biệt là các thông số liên quan đến năng lƣợng hệ thống sinh học và
thông số sinh trắc học. Bảng (1.1) liệt kê một số thông số quan trọng sử dụng
trong xây dựng mô hình [30].
Bảng 1.1: Một số thông số được sử dụng xây dựng mô hình OBM
Thông số
Ý nghĩa
Nồng độ kim loại nặng trong pha hoà tan Nồng độ kim loại nặng trong dinh dƣỡng hay còn gọi là pha hạt Hệ số phân bố kim loại nặng giữa pha hoà tan và pha hạt 1/2 khoảng cách giữa hai sợi tơ mang kề nhau Độ dài của sợi tơ mang
Cw (g/l) Cp (g/l) Kow Hlamel (cm) Xlamel (cm) Vlamel (cm/s) Tốc độ dòng nƣớc chảy giữa các sợi tơ mang Hiệu quả đồng hoá kim loại AE (%) T (0K) Nhiệt độ S (0/00) Độ muối Độ pH pH
Các thông số nhƣ Cw, Cp, T, S, pH có thể đo đƣợc tại hiện trƣờng
ow, AE, Hlamel, Xlamel, Vlamel cần phải có những nghiên cứu chuyên sâu rất phức
nghiên cứu cũng nhƣ trong phòng thí nghiệm. Tuy nhiên các thông số nhƣ K-
tạp để xác định. Ngoài ra để xây dựng mô hình còn phải đƣa ra đƣợc hàm
thực nghiệm về tốc độ tiêu thụ khí oxy theo khối lƣợng cơ thể.
Điều kiện nghiên cứu trong nƣớc chƣa cho phép ứng dụng mô hình này
vào đối tƣợng nghiên cứu của đề tài. Mô hình này không đƣợc lựa chọn cho
mục tiêu nghiên cứu đặt ra.
Đối với mô hình DEB, trong các mục trên đã đề cập đến hai phƣơng
pháp thực nghiệm đã đƣợc các nhà khoa học sử dụng để thu nhận dữ liệu xây
dựng mô hình vi phân. Một là phƣơng pháp triển khai thực nghiệm ngoài hiện
trƣờng tự nhiên và một là phƣơng pháp triển khai thực nghiệm trong phòng
thí nghiệm [41], [50]. Đây là những cơ sở khoa học sẽ đƣợc nghiên cứu, chọn
lọc, phối hợp để đƣa ra một phƣơng pháp triển khai thực nghiệm phù hợp với
điều kiện hiện có giúp xây dựng mô hình vi phân biểu diễn sự tích luỹ As, Cd,
Cu nằm trong nội dung nghiên cứu của đề tài luận án.
Mô hình vi phân (1.3) đơn giản, dễ triển khai thực nghiệm thu thập số
liệu phục vụ xây dựng mô hình. Mô hình có tính đến cả tốc độ tích lũy và tốc
độ bài tiết, phát huy vai trò trong dự đoán và tính toán xử lý ô nhiễm.
Nhƣợc điểm là để xây dựng đƣợc mô hình tin cậy, cần khống chế ổn
định các yếu tố tác động làm thay đổi hoạt động sống của nhuyễn thể, ảnh
hƣởng đến trạng thái, cân bằng tích lũy vì các thông số đầu vào không tính
đến các yếu tố sinh học.
Tuy nhiên dựa vào tính khả thi trong xây dựng mô hình, chúng tôi phối
kết hợp cả hai phƣơng pháp triển khai thực nghiệm ngoài hiện trƣờng tự nhiên
và trong phòng thí nghiệm của các nhà khoa học trên thế giới để đƣa ra một
quy trình nghiên cứu xây dựng mô hình (1.3) này.
1.2.3 Một số nghiên cứu về tích lũy kim loại nặng trong giống nghêu Meretrix
Patel và các cộng sự tiến hành thí nghiệm đánh giá sự ảnh hƣởng của
Se và Glutathionne lên khả năng tích lũy Hg của nghêu Meretrix casta trong
môi trƣờng có nồng độ Hg 0,1 5,0 mg/l. Kết quả cho thấy nồng độ Hg tích
lũy tăng mạnh trong 24 giờ, tiếp tục tăng chậm trong 7 ngày và sau đó dừng
lại. Thí nghiệm trên 4 loài hai mảnh vỏ, nghêu Meretrix casta tích lũy Hg
kém nhất (9 g/g), tiếp đến là A.rhombea và Anadara granosa (25 g/g) và
cao nhất là Perna viridis (47 g/g) [51].
Patel và Anthony nghiên cứu ảnh hƣởng các dạng muối vô cơ và hữu
cơ của Cd lên khả năng tích lũy của 6 loài hai mảnh vỏ, trong đó có loài Meretrix casta. Kết quả sự tích lũy Cd xảy ra cao nhất với dạng CdSO4, tiếp đến là CdI2, (C2H5COO)2Cd, CdCl2, Cd(NO3)2 và CdCO3. Sự tích lũy Cd trong nghêu Meretrix casta có tƣơng quan tuyến tính với thời gian thí nghiệm
[52].
Sadiq và Alam xác định nồng độ Hg trong mô nghêu Meretrix meretrix
(Vịnh Arabian) dao động trong khoảng 5160 g/kg (theo khối lƣợng tƣơi) và
khẳng định kích thƣớc nghêu, nồng độ muối có ảnh hƣởng đến sự tích lũy Hg
[53].
Wahi Abdul Rashid và các cộng sự nghiên cứu sự tích lũy và bài tiết
kim loại nặng trong nghêu Meretrix meretrix cho mục đích sử dụng loài
nghêu này quan trắc sinh học chỉ thị ô nhiễm nƣớc. Nhờ nuôi nghêu trong
điều kiện phòng thí nghiệm đã tìm đƣợc tốc độ tích lũy Cu, Zn, Pb vào nghêu
Meretrix meretrix tƣơng ứng là 0,99; 21,80; 0,57 g/g/ngày, tốc độ bài tiết
tƣơng ứng là 0,42; 23,55; 1,01 g/g/ngày. Nghiên cứu khẳng định nghêu
Meretrix meretrix có thể sử dụng hiệu quả làm quan trắc sinh học chỉ thị ô
nhiễm đối với Cu do có tốc độ tích lũy cao hơn đáng kể so với tốc độ bài tiết,
không thể dùng làm chỉ thị ô nhiễm với Zn do tốc độ tích lũy gần bằng tốc độ
bài tiết và với Pb không thấy xuất hiện tích lũy [54].
Các tác giả thuộc Viện Hóa học, Viện Khoa học và Công nghệ Việt
Nam và Trung tâm dịch vụ phân tích thí nghiệm thành phố Hồ Chí Minh đã
nghiên cứu về sự tích lũy các kim loại nặng As, Cd, Pb, Hg từ môi trƣờng các
bãi nuôi nghêu tự nhiên thuộc xã Cần Thạnh, huyện Cần Giờ, thành phố Hồ
Chí Minh thông qua các phép đo trực tiếp [5], [55]. Kết quả nghiên cứu cho
thấy Cd và Pb tích lũy trong ruột nghêu cao hơn 3 lần so với trong thịt, trong
khi As và Hg phân bố đồng đều trong cả ruột và thịt. Kết quả này hoàn toàn
phù hợp với kết quả xác định đƣợc thành phần kim loại trong chất rắn lơ lửng
(có chứa dinh dƣỡng nuôi nghêu) cao hơn so với thành phần hòa tan. Ví dụ
nồng độ Cd trong phần chất rắn lơ lửng đo đƣợc 0,13 mg/kg trong khi nồng
độ Cd tan trong nƣớc là 0,001 mg/kg (tƣơng đƣơng 10-9) [5]. Tƣơng quan nồng độ giữa pha hòa tan và pha không hòa tan cho thấy nghêu sống trong
môi trƣờng nuôi tự nhiên thuộc xã Cần Thạnh hấp thu kim loại nặng chủ yếu
qua tiêu hóa dinh dƣỡng và đi vào phần ruột. Một phần Hg, As đã di chuyển
từ ruột vào thịt và tích lũy ở đó, trong khi đó Cd và Pb chủ yếu vẫn nằm lại
trong ruột nghêu [5]. Nghiên cứu cũng chỉ ra Cd là nguyên tố có nồng độ
trong môi trƣờng thấp, nhƣng vẫn đƣợc nghêu Meretrix lyrata tích lũy mạnh.
Các tác giả Phạm Kim Phƣơng, Nguyễn Thị Dung, Chu Phạm Ngọc
Sơn nghiên cứu ảnh hƣởng của nồng độ các kim loại nặng Cd, Pb, As lên sự
tích lũy và đào thải của nghêu Meretrix lyrata [6]. Nghiên cứu chỉ ra trật tự
ƣu tiên tích lũy nhiều và nhanh nhất là Pb, tiếp theo là Cd và cuối cùng là As,
trong khi trật tự đào thải là As > Pb > Cd. Với các điều kiện thực nghiệm nuôi
đặc trƣng, các tác giả tính toán đƣợc tỷ lệ phần trăm đào thải kim loại nặng ra
khỏi nghêu so với nồng độ tích lũy đƣợc khi chuyển từ môi trƣờng ô nhiễm
sang nuôi trong môi trƣờng sạch. Để xác định trật tự ƣu tiên tích lũy cũng nhƣ
nghiên cứu về ngƣỡng độc hại, các thí nghiệm đƣợc tiến hành với nồng độ
kim loại pha thêm rất lớn, ví dụ với Cd là 0,1; 0,5; 1,0; 1,5 mg/l, cao hơn Quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia [13] về chất lƣợng nƣớc biển ven bờ 20, 100, 200 và
300 lần. Bằng thực nghiệm này xác định đƣợc nồng độ kim loại tích lũy vào
nghêu gia tăng nhanh theo thời gian, tỷ lệ với nồng độ hòa tan trong nƣớc.
Các thực nghiệm với nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc cao bất thƣờng chỉ
ra đƣợc nghêu đã bị ngộ độc và sống tối đa trong môi trƣờng nhân tạo đƣợc
15 ngày (5 ngày tích lũy và 10 ngày bài tiết), đồng thời các tác giả tìm đƣợc
ngƣỡng độc hại Cd với nghêu Meretrix lyrata là 0,1 mg/l hòa tan trong nƣớc
[7] (cao hơn Quy chuẩn cho phép 20 lần). Các tác giả cũng khẳng định As khi
tích lũy vào nghêu chuyển hóa trao đổi chất thành các dạng không độc, các
dạng này không đƣợc giữ lại và đào thải ra ngoài [6]. Tuy nhiên để chứng
minh các dạng hữu cơ chứa As này không đƣợc giữ lại trong nghêu cần sử
dụng đến kỹ thuật phân tích có độ tin cậy cao nhƣ sắc ký lỏng hiệu quả cao
HPLC nối ghép phổ khối ICP-MS để phân tích thành phần chứa kim loại nặng
trong thịt nghêu.
Các nhà khoa học nghiên cứu về sự tích lũy và bài tiết kim loại Cd
dạng vô cơ và phức hữu cơ với nghêu trƣởng thành. Kết quả chỉ ra Cd ở dạng
vô cơ hòa tan (CdCl2) dễ dàng tích lũy trong nghêu, nồng độ tích lũy tỷ lệ với nồng độ hòa tan trong nƣớc và đạt cao nhất so với các dạng Cd-EDTA và
dạng Cd-Humic [7]. Quy luật tích lũy tìm đƣợc là sau 5 ngày phơi nhiễm,
nồng độ tích lũy dạng muối vô cơ tăng lên và giảm đi với dạng hữu cơ, khẳng
định nghêu chỉ đào thải Cd vô cơ khi không còn tiếp xúc với môi trƣờng ô
nhiễm, trong khi ở dạng hữu cơ vừa có tích lũy vừa có đào thải ngay trong
giai đoạn phơi nhiễm. Kết quả nghiên cứu cũng chỉ ra với mức nồng độ Cd
trong nƣớc nuôi 0,5 mg/l và 1,0 mg/l nghêu đã bị ngộ độc cấp tính, thời gian thực nghiệm tổng cộng kéo dài đƣợc 15 ngày. Tuy nhiên dạng CdS 2 mặc dù có nồng độ trong nƣớc là 2 mg/kg, nồng độ tích lũy trong nghêu sau 5 ngày
phơi nhiễm chỉ đạt 0,3 mg/kg, thấp hơn mức 3,48 mg/kg cũng sau 5 ngày phơi nhiễm trong môi trƣờng nƣớc có nồng độ 1 mg/l CdCl2, cho nên nghêu chƣa bị ngộ độc cấp tính Cd dƣới dạng CdS2 và kéo dài đƣợc thời gian sống 25 ngày (5 ngày tích lũy và 20 ngày đào thải) [7].
Để đạt đƣợc kết quả tin cậy, các nghiên cứu [5], [6], [7] đã sử dụng hai
phƣơng pháp phân tích là quang phổ hấp thụ nguyên tử AAS và quang phổ phát xạ ICP-OES, giới hạn phát hiện các phƣơng pháp này đạt 5.10-4 đối với As, Cd, Pb và 5.10-3 đối với Hg [5]. Nhƣ vậy, bằng các phép đo trực tiếp mẫu trong môi trƣờng thực tế và
mẫu trong môi trƣờng nuôi nhân tạo, các nghiên cứu trong nƣớc đã chỉ ra xu
hƣớng tích lũy một số kim loại nặng trong nghêu Meretrix lyrata tăng khi
nồng độ trong nƣớc tăng và tăng theo thời gian phơi nhiễm, nồng độ tích lũy
trong ruột là đáng kể và chủ yếu khi nồng độ kim loại trong pha hạt cao hơn
nồng độ kim loại hòa tan, khẳng định vai trò tích lũy qua con đƣờng tiêu hóa
dinh dƣỡng. Các nghiên cứu cũng chỉ ra ngƣỡng độc hại Cd với nghêu và
chứng minh nghêu tích lũy mạnh Cd dƣới dạng ion vô cơ hòa tan [5], [6], [7].
Bổ sung với các kết quả trên, trong đề tài luận án bằng chế độ nuôi
nghêu có thay nƣớc hàng ngày, bổ sung dinh dƣỡng sạch (bảng 2.5), sử dụng
nguồn nƣớc có nồng độ kim loại nặng tự nhiên vết (bao gồm cả phần hòa tan
và phần không hòa tan), bổ sung kim loại dƣới dạng ion hòa tan ở nồng độ
không quá cao so với Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lƣợng nƣớc biển
ven bờ, các thực nghiệm nuôi nghêu đã kéo dài thời gian sống nhân tạo của
nghêu đến 30 ngày (20 ngày phơi nhiễm và 10 ngày bài tiết) và khống chế
con đƣờng tích lũy duy nhất vào nghêu để nghiên cứu là qua mang nhờ hô
hấp. Đề tài luận án sử dụng kỹ thuật phân tích ICP-MS mới có giới hạn phát hiện ng/l (hay ng/kg, tƣơng đƣơng 10-12) [80], đảm bảo độ tin cậy số liệu thực nghiệm. Các mô hình đề tài xây dựng đƣợc ngoài khả năng đánh giá quy luật
tích lũy phụ thuộc vào nồng độ ion kim loại hòa tan, thời gian sinh trƣởng còn
cho phép dự đoán, cảnh báo ô nhiễm môi trƣờng dƣới các điều kiện sống
trong tƣơng lai, cảnh báo trong vấn đề bảo đảm an toàn thực phẩm. Các ứng
dụng mô hình trong đề tài đƣợc trình bày chi tiết hơn trong mục 1.3 dƣới.
Mặc dù phạm vi ứng dụng mô hình bó hẹp chỉ với các ion kim loại hòa tan
hấp thu, tích lũy vào mang và cơ thông qua con đƣờng hô hấp hút nƣớc vào ra,
nhƣng các quy luật tích lũy đƣợc thể hiện bằng những chuẩn số cụ thể. 1.3 ỨNG DỤNG CỦA CÁC MÔ HÌNH TÍCH LŨY
1.3.1 Khái quát
Nói đến sử dụng sinh vật làm chỉ thị cho sự ô nhiễm môi trƣờng là nói
đến khả năng tích luỹ các chất ô nhiễm của chúng. Vì vậy đánh giá khả năng
sử dụng một loài nào đó có thể dùng làm chỉ thị ô nhiễm là nói đến những
hƣớng đƣợc lựa chọn để đánh giá mức độ tích luỹ. Có hai hƣớng đánh giá
mức độ tích luỹ là đo trực tiếp và xây dựng, phát triển các mô hình tích luỹ.
Đo trực tiếp là cách đơn giản nhất để đánh giá sự tích luỹ trong các sinh
vật sống dƣới nƣớc, các phép đo trực tiếp có thể đƣợc thực hiện trên sinh vật
thu tại môi trƣờng sống thực tế, hoặc trên sinh vật nuôi trong phòng thí
nghiệm. Đo trực tiếp giảm thiểu hoặc loại bỏ các vấn đề có liên quan đến mô
hình hoá. Các vấn đề quan trọng liên quan đến phép đo sự tích lũy trong
phòng thí nghiệm các chất hoá học từ môi trƣờng sống bao gồm:
- Lựa chọn đƣợc loài, dạng sinh vật phù hợp để kiểm tra,
- Các phƣơng pháp lấy và bảo quản mẫu,
- Các điều kiện sống, môi trƣờng phơi nhiễm,
- Thời gian sống, phơi nhiễm,
- Phƣơng pháp phân tích thống kê các dữ liệu thu đƣợc.
Các nghiên cứu sự tích lũy và nghiên cứu về mô hình tích luỹ đƣợc sử
dụng cho những mục đích sau [15]
1. Giám sát tích luỹ ở thời điểm hiện tại, dự đoán tích luỹ dưới các
điều kiện phơi nhiễm trong tương lai.
Mô hình dự đoán có thể đƣợc sử dụng đánh giá mức độ mở rộng
và/hoặc kiểu tích luỹ các cơ chất cụ thể dƣới những điều kiện phơi nhiễm đặc
trƣng. Mô hình dự đoán đƣợc sử dụng khi thực tế không thể hoặc khó thực
hiện phép đo trực tiếp, ví dụ nhƣ khi xác định nồng độ trong mô sẽ thay đổi
theo thời gian nhƣ thế nào nếu các điều kiện phơi nhiễm biến đổi. Các mô
hình dự đoán cũng có thể đƣợc sử dụng làm công cụ sàng lọc để xác định xem
việc đo trực tiếp tích lũy là có phù hợp hay không.
2. Sử dụng làm công cụ sàng lọc, làm công cụ dự đoán chính xác
Điều quan trọng là cần nắm rõ các mục tiêu về chất lƣợng dữ liệu trƣớc
khi tiến hành một nghiên cứu tích lũy do kiểu câu hỏi đƣợc trả lời sẽ phụ
thuộc vào dữ liệu thu thập hoặc dữ liệu đƣợc tạo ra. Xây dựng các mô hình dự
đoán tốn ít chi phí hơn và có thể chạy mà không cần đến dữ liệu đặc trƣng vị
trí, nhƣng mô hình phổ thông hơn, khả năng dự đoán tốt hơn sẽ có tính không
chắc chắn cao. Ở một khía cạnh khác, các phép đo nồng độ chất ô nhiễm
trong môi trƣờng và trong mô động vật nhuyễn thể tại vị trí cụ thể có độ đúng
và độ chính xác cao, nhƣng nhìn chung lại hạn chế về khả năng dự đoán. Mô
hình hữu ích trong dự đoán các tác động từ sự thay đổi các điều kiện môi
trƣờng lên nồng độ cơ chất tích luỹ hoặc để ngoại suy kết quả giữa các dạng
sinh vật, hai lợi thế này không thể có đƣợc từ các phép đo trực tiếp.
3. Sử dụng đánh giá định lượng các hợp chất tích luỹ trong mô loài
sinh vật dùng làm chỉ thị ô nhiễm
Nếu mục đích cuối cùng của một nghiên cứu là để xác định xem các chất
hóa học có trong môi trƣờng (nƣớc, trầm tích) có tích lũy hay không, có thể sử
dụng các phép kiểm tra ngắn hạn tƣơng đối đơn giản và rẻ tiền. Tuy nhiên
khoảng thời gian của các phép kiểm tra nhƣ vậy nhìn chung không đủ để cho
nồng độ trong mô sinh vật kiểm tra đạt đến trạng thái ổn định. Nếu yêu cầu
đánh giá định lƣợng nồng độ trong mô, cần đến các phép kiểm tra dài hạn hơn
(tối thiểu là 28 ngày). Nổi bật trong số những nghiên cứu này, Boese và Lee đã
liệt kê ra danh sách một số nghiên cứu sử dụng các sinh vật và điều kiện phơi
nhiễm khác nhau cùng với việc đánh giá tỷ lệ phần trăm so với nồng độ đạt
đƣợc ổn định trong mô sau 10 và sau 28 ngày phơi nhiễm [25].
4. Tìm kiếm các điều kiện môi trường sống mà ở đó sinh vật đạt được
sự tích luỹ ổn định.
Có 4 yếu tố có thể ngăn cản đạt đƣợc các điều kiện mà ở đó sinh vật
tích luỹ cơ chất ổn định. Đây cũng là những yếu tố cần đƣợc kiểm soát, tích
hợp đầy đủ để đạt đƣợc điều kiện tích lũy ổn định:
- Những thay đổi nồng độ chất ô nhiễm hoặc thay đổi hoạt tính trong
quá trình nghiên cứu,
- Thời gian phơi nhiễm không đủ để đạt đến trạng thái ổn định,
- Khả năng tích luỹ chất hoá học của sinh vật bị thay đổi trong giai
đoạn phơi nhiễm,
- Có thêm các con đƣờng tích luỹ khác chƣa đƣợc tính vào cùng với
con đƣờng đang nghiên cứu.
5. Xác định hoặc dự đoán thời gian hấp thu và/hoặc thời gian bài tiết
để đạt đến nồng độ cơ chất nhất định tích luỹ trong sinh vật
Đối với mục đích sử dụng làm công cụ dự đoán sự thay đổi nồng độ chất
hoá học tích luỹ trong mô theo thời gian thì mô hình động học hữu dụng hơn so
với mô hình phân bố. Các mô hình động học rất hiệu quả khi dùng để xác định
xem mất bao lâu thì nồng độ trong mô sinh vật đạt đến một mức mong đợi,
hoặc là sẽ mất bao lâu để giảm đến mức không gây tác động khi tiến hành giải
hấp thu (làm sạch) chất ô nhiễm tích luỹ ra khỏi cơ thể sinh vật [25].
1.3.2 Ứng dụng làm chỉ thị sinh học và dự báo ô nhiễm kim loại nặng
Có nhiều nghiên cứu của các nhà khoa học về sử dụng sinh vật sống
dƣới nƣớc làm chỉ thị ô nhiễm kim loại nặng đã đƣợc công bố. Bên cạnh các
nghiên cứu sử dụng cá làm chỉ thị ô nhiễm [56], [57], [58], [59], [60], [61],
[62], [63], [64], [65], [66], nghiên cứu sử dụng các loài động vật nhuyễn thể
cho mục đích này cũng rất phong phú. Ví dụ, trong hệ sinh thái Lagunar-
Estuarin (Mexico), đây là một môi trƣờng quan trọng cho sản xuất tôm, các
nghiên cứu cho thấy loài tôm Juvenile P.setiferus kém nhạy cảm với Cd hơn
so với loài tôm Crangon septemspinosa và loài Palaemonetes vulagaris. Các
loài tôm trắng ít bị tổn thƣơng bởi hiệu ứng độc hại do Zn gây ra hơn so với
loài Daphina magna và loài Ceriodaphina dubria [67]. Tại Mỹ, đề tài Mussel
Watch đã đƣa vào khai thác sử dụng các loài trai và sò để quan trắc xu hƣớng
biến đổi nồng độ các chất ô nhiễm vùng ven biển, trong đó có quan trắc các
kim loại nặng [68]. Một số nghiên cứu khác cũng kết luận động vật nhuyễn
thể có nhiều đặc trƣng cho phép dùng đánh giá hoạt tính sinh học kim loại
nặng trong nƣớc ven bờ biển cũng nhƣ trong nhiều vùng khác nhau trên thế
giới [69], [70], [71], [72], [73], [74].
Szefer [75] sử dụng sò Thái Bình Dƣơng Crassostrea gigas và hai loài
cua Goetice depressa, Leptodius exaratus làm các chỉ thị sinh học kim loại
vết cho nƣớc biển phía đông đảo Kyusha, Nhật Bản. Sò và cua đƣợc lấy tại 3
vùng là Urashiro, Akamizu và Saganoseki dọc theo bờ biển phía đông đảo
Kyushu.
Nồng độ của Fe, Cd, Zn, Mn, Cu, Ni và Pb trong loài trai lấy từ đảo
Elcho, bắc Terrioty, Úc là Fe: 13,07 273; Cd: 0,29 10,63; Zn: 2,39 8,51;
Mn: 0,25 4,84; Cu: 0,45 8,76; Ni: 0,16 0,59 và Pb: 2,59 9,38 g/g
khối lƣợng tƣơi. Nồng độ các kim loại này trong loài sò bắt từ cùng một vùng
nhƣ vậy là Fe: 94,8 419; Cd: 6 20,3; Zn: 1,09 6,28; Mn: 2515 6256;
Cu: 0,47 3,18; Ni: 1,71 5,64 và Pb: 0,45 2,17 g/g. Nhƣ vậy nồng độ
Mn trong sò là cao nhất, do đó nó có thể đƣợc sử dụng làm chỉ thị sinh học
của Mn trong môi trƣờng nhiệt đới [76].
Nghiên cứu sự tích luỹ kim loại nặng trên hai loài nhuyễn thể Chama
pacifica và Ostrea stentina tại Vịnh Iskenderum (Thổ Nhĩ Kỳ) cho thấy nồng độ
Cd, Co, Ni và đặc biệt là Pb trong Chaman pacifica cao hơn trong Ostrea
stentina; trong khi đó nồng độ Cr, Cu, Fe, Mn và Zn trong Ostrea stentina cao
hơn trong Chaman pacifica. Từ kết quả nghiên cứu, các nhà khoa học đã lựa
chọn Chaman pacifica dùng làm chỉ thị, quan trắc sinh học ô nhiễm các kim loại
nặng Cd, Co, Ni, Pb còn loài Ostrea stentina phù hợp hơn khi dùng làm chỉ thị,
quan trắc sinh học cho Cr, Cu, Fe, Mn và Zn trong nƣớc biển vịnh Iskenderum
[77].
Trong nội dung nghiên cứu của đề tài có 3 kiểu mô hình đƣợc xây dựng
mô tả quy luật tích luỹ kim loại vết As, Cd, Cu trong nƣớc vào loài nghêu
Meretrix Lyrata. Đó là các mô hình:
a) Mô hình hệ số tích luỹ
Mô hình hệ số tích luỹ có dạng của hàm sinh trƣởng không đồng đều:
(1.28)
Mỗi kim loại trên từng loài nhuyễn thể sẽ có các cặp hệ số a, b khác
nhau. Cùng một cá thể, tại một giá trị khối lƣợng mô khô W mỗi kim loại cho
một giá trị BAF khác nhau. Nó cho phép so sánh khả năng tích luỹ của
nhuyễn thể với các kim loại khác nhau, qua đó lựa chọn đƣợc đối tƣợng kim
loại nặng gây ô nhiễm có thể sử dụng nhuyễn thể làm chỉ thị. Ngoài ra trong
điều kiện không có trang thiết bị xác định kim loại nồng độ vết trong môi
trƣờng, có thể thông qua khối lƣợng mô và nồng độ kim loại trong mô sơ bộ
dự đoán đƣợc mức nồng độ kim loại trong nƣớc với độ chính xác nhất định.
b) Mô hình thống kê bậc một
Mô hình thống kê bậc một đề tài xây dựng phụ thuộc các yếu tố khối
lƣợng mô, thời gian sinh trƣởng và nồng độ kim loại hòa tan.
Nếu xây dựng đƣợc mô hình thống kê tƣơng hợp với bức tranh thực
nghiệm thì đây là thông tin tiên nghiệm, cơ sở để triển khai xây dựng các mô
hình khác, ví dụ xây dựng mô hình vi phân bậc một mô tả tốc độ tích luỹ kim
loại nặng theo thời gian. Bằng mô hình thống kê có thể dự đoán đƣợc nồng độ
kim loại hòa tan trong nƣớc khi biết đƣợc nồng độ tích lũy trong mô sau một
khoảng thời gian sinh trƣởng nhất định trong điều kiện ứng dụng mô hình.
c) Mô hình vi phân
Mô hình đề tài xây dựng có dạng nhƣ phƣơng trình vi phân (1.3) mô tả
sự tích luỹ kim loại nặng trong nhuyễn thể có tính đến tốc độ tích lũy và tốc
độ bài tiết.
Giống nhƣ các mô hình khác, mỗi kim loại nặng trên mỗi loài nhuyễn
thể sẽ có một dải giá trị hằng số tốc độ hấp thu, một dải giá trị hằng số tốc độ
bài tiết khác nhau phụ thuộc vào điều kiện phơi nhiễm. Từ đó đánh giá đƣợc
ƣu thế của loài nhuyễn thể nghiên cứu là phù hợp làm chỉ thị ô nhiễm cho kim
loại nặng nào.
1.3.3 Ứng dụng trong cảnh báo an toàn thực phẩm
Mô hình thống kê đề tài nghiên cứu xây dựng có hàm mục tiêu là nồng
độ kim loại nặng As, Cd, Cu tích lũy đƣợc trong mô nghêu Meretrix Lyrata
phụ thuộc vào khối lƣợng mô ban đầu, thời gian sinh trƣởng và nồng độ kim
loại trong nƣớc. Nồng độ kim loại nặng tích luỹ cao nhất trong nhuyễn thể
tƣơng ứng với trạng thái sinh vật tích luỹ cơ chất ổn định, và nhƣ vậy trong
điều kiện nồng độ kim loại trong nƣớc không thay đổi hoặc thay đổi không
đáng kể, tại một giá trị khối lƣợng mô nghêu ban đầu đƣa vào nuôi có thể tính
đƣợc khoảng thời gian cần thiết để nghêu đạt đến trạng thái tích lũy ổn định,
hoặc sau một khoảng thời gian nào đó để nồng độ trong mô đạt đến mức nhất
định. Những tính toán về mặt thời gian này đều có liên quan đến việc sử dụng
nghêu làm nguồn thực phẩm cho con ngƣời.
Nồng độ kim loại trong mô tƣơng ứng với trạng thái nhuyễn thể tích
luỹ cơ chất ổn định có thể đƣợc suy ra từ kết quả xây dựng mô hình vi phân.
Mô hình vi phân có thể đƣợc sử dụng xác định hoặc dự đoán thời gian
hấp thu kim loại nặng đạt đến một mức nồng độ nhất định trong mô nhuyễn
thể. Mô hình bài tiết cho phép xác định thời gian cần thiết để nhuyễn thể bài
tiết giảm nồng độ trong mô đến mức nồng độ cho phép trong môi trƣờng nuôi
trồng sạch. Khi các hằng số trong mô hình đƣợc chuẩn với độ chính xác cao,
mô hình hoàn toàn có thể sử dụng làm công cụ dự đoán tích luỹ dƣới các điều
kiện sống, phơi nhiễm khác nhau. Các dự đoán nồng độ kim loại tích lũy
trong mô đều có liên quan đến vấn đề cảnh bảo, bảo đảm an toàn khi sử dụng
nghêu làm thực phẩm.
Trong mô hình vi phân chứa thông số thời gian, vì vậy có thể tính toán
dự đoán thời gian sinh trƣởng tối đa cho phép mà nồng độ kim loại tích lũy
trong mô vẫn nằm dƣới tiêu chuẩn quy định an toàn thực phẩm.
Kết quả nghiên cứu đề tài của luận án đƣa ra 3 mô hình gồm: mô hình
hệ số tích lũy BAF dƣới dạng hàm sinh trƣởng không đồng đều đƣợc xây
dựng từ số liệu hiện trƣờng thực tế, mô hình thống kê bậc nhất và mô hình vi
phân bậc nhất đƣợc xây dựng từ số liệu trong phòng thí nghiệm. Các mô hình
đƣợc đánh giá và so sánh về độ chính xác, mối liên quan qua lại giữa các mô
hình, đánh giá khả năng ứng dụng trong dự báo ô nhiễm và trong vấn đề an
toàn thực phẩm. Đánh giá khả năng cải tiến mô hình và mở rộng đối tƣợng,
phạm vi nghiên cứu trong tƣơng lai.
CHƢƠNG 2 PHƢƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
2.1 CÁC BƢỚC NGHIÊN CỨU
Các bƣớc nghiên cứu trong đề tài bao gồm:
- Xác định môi trƣờng tích lũy kim loại nặng chủ yếu của nghêu từ các
số liệu trong hiện trƣờng thực tế.
- Xây dựng mô hình hệ số tích lũy với số liệu từ môi trƣờng thực tế.
- Xây dựng mô hình thống kê từ số liệu trong phòng thí nghiệm.
- Xây dựng mô hình vi phân từ số liệu trong phòng thí nghiệm.
- So sánh độ chính xác, tin cậy của các mô hình và đánh giá khả năng
ứng dụng thực tiễn.
2.2 CÔNG CỤ NGHIÊN CỨU, TRANG THIẾT BỊ VÀ HÓA CHẤT
Các kim loại nặng nói chung, As, Cd và Cu nói riêng thƣờng đƣợc xác
định nồng độ bằng phƣơng pháp phân tích phổ nguyên tử. Trong đó phổ biến
là phƣơng pháp phổ hấp thụ nguyên tử. Các kim loại As, Cd, Cu trong nền
mẫu tự nhiên có nồng độ rất thấp, chỉ vào khoảng hàng đơn vị cho đến hàng
chục g/l. Nếu xác định bằng kỹ thuật phổ hấp thụ nguyên tử ngọn lửa (F-
AAS) phải sử dụng đến bƣớc xử lý mẫu cô đặc trƣớc khi đo, xác định. Cách
làm này gây sai số lớn, đặc biệt khi cần phân biệt những sai khác, chênh lệch
nồng độ kim loại nhỏ.
Vì vậy phƣơng pháp phổ hấp thụ nguyên tử lò graphit (GF-AAS) với
giới hạn phát hiện thấp g/l thƣờng đƣợc sử dụng xác định nồng độ Cd, Cu
trong các nền mẫu khác nhau, phƣơng pháp phổ hấp thụ nguyên tử bay hơi
hydrit (HG-AAS) cũng có giới hạn phát hiện thấp cỡ g/l đƣợc sử dụng để
xác định As. Tuy nhiên các phƣơng pháp này cần sử dụng đến hoá chất hiệu
chỉnh nền, chất khử tinh khiết, đắt tiền. Đồng thời là những phƣơng pháp có
dải tuyến tính hẹp nên mẫu có nồng độ cao cần pha loãng trƣớc khi đo, gây ra
sai số. Ví dụ với máy quang phổ hấp thụ nguyên tử của Perkin-Elmer, dải đo
tuyến tính kỹ thuật GF-AAS cho Cd và HG-AAS cho As đều chỉ đến 1 g/l,
kỹ thuật GF-AAS với Cu tuyến tính đến 5 g/l.
Việc nghiên cứu quy luật hấp thu, tích luỹ kim loại nặng As, Cd, Cu
trong động vật nhuyễn thể, cụ thể ở đây là trong loài nghêu Meretrix Lyrata
đòi hỏi phải thu nhận một số lƣợng lớn dữ liệu nồng độ các kim loại trong
nhiều loại nền mẫu khác nhau: mẫu nƣớc với nồng độ trong dải g/l, mẫu
trầm tích và mẫu mô nghêu với nồng độ trong dải g/g. Đặc biệt để thu đƣợc
số liệu nghiên cứu về sự biến đổi hàm lƣợng kim loại tích luỹ trong mô nghêu
nuôi trong phòng thí nghiệm đòi hỏi phải có đƣợc một phƣơng pháp đo nhạy,
có khả năng phân biệt đƣợc những biến đổi nhỏ nồng độ kim loại trong mô
theo từng ngày nuôi với độ chính xác cao, sự khác biệt này thậm chí có thể
chỉ vài chục ng/l.
Với những yêu cầu đó các phƣơng pháp phổ hấp thụ nguyên tử GF-
AAS và HG-AAS có thể không đáp ứng đƣợc vì không thể phân biệt chính
xác những khác biệt nồng độ chỉ xoay quanh giá trị giới hạn phát hiện. Ví dụ
giới hạn phát hiện As, Cd với máy quang phổ hấp thụ nguyên tử của Perkin -
Elmer tƣơng ứng là 0,095 g/l và 0,02 g/l.
Phổ khối cảm ứng cao tần ICP-MS nằm trong số các phƣơng pháp phổ
nguyên tử. Phƣơng pháp có độ nhạy, giới hạn phát hiện rất cao trong dải ng/l
với hầu hết các nguyên tố. Phƣơng pháp này đủ nhạy để phân biệt đƣợc
những biến đổi nhỏ nồng độ As, Cd, Cu trong mô nghêu, cũng nhƣ những
thay đổi nồng độ các kim loại này trong môi trƣờng một cách chính xác.
Cụ thể trong thí nghiệm nuôi nghêu lấy số liệu xây dựng mô hình vi
phân của đề tài, sự thay đổi nồng độ trong thời gian ngắn xác định đƣợc với
Cd sau 4 ngày nuôi trong môi trƣờng có nồng độ Cd hòa tan 4 g/l là 0,035
g/g, cũng sau 4 ngày nhƣng trong môi trƣờng có nồng độ Cd 20 g/l là
0,150 g/g. Đối với giai đoạn nuôi lấy số liệu tính toán hằng số tốc độ bài tiết,
chênh lệch nồng độ Cd trong mô nhỏ nhất sau 2 ngày nuôi là 0,004 g/g. Tất
cả các mức chênh lệch nói trên đều cao hơn gấp hàng nghìn lần so với giới
hạn phát hiện Cd của phƣơng pháp đo ICP-MS sử dụng trong nghiên cứu là
0,00195 g/l. Đối với As, chênh lệch nồng độ trong mô nhỏ nhất sau 4 ngày
nuôi trong môi trƣờng có nồng độ As hòa tan 25 g/l là 0,160 g/g, sau 4
ngày nuôi trong môi trƣờng có nồng độ As hòa tan 50 g/l là 0,180 g/g.
Trong giai đoạn nuôi bài tiết, chênh lệch nồng độ As trong mô thấp nhất sau 2
ngày nuôi là 0,018 g/g. Các mức chênh lệch nồng độ As này đều cao hơn rất
nhiều so với khả năng phát hiện As của thiết bị đo là 0,00379 g/l. Kết quả
khảo sát với Cu tƣơng tự. Các số liệu tính toán nồng độ thay đổi dựa trên kết
quả thí nghiệm thể hiện trong bảng (3.7).
Ngoài ra với dải đo tuyến tính rộng từ ng/l đến mg/l, độ chính xác cao
đồng đều trên toàn dải đo, phƣơng pháp ICP-MS cho phép xác định nồng độ cả
As, Cd và Cu trong nƣớc, trong trầm tích và trong mô nghêu chỉ với một tệp
các thông số vận hành, thu nhận dữ liệu duy nhất. Độ chính xác cao đạt đƣợc
của các kết quả dù ở dải g/l hay g/g đều nhƣ nhau.
Chất lƣợng, độ tin cậy, độ chính xác các kết quả phân tích là yếu tố
quan trọng hàng đầu để khẳng định độ tin cậy của các mô hình thu đƣợc. Nhờ
vào những lợi thế có đƣợc, ICP-MS đƣợc lựa chọn làm công cụ đo, thu nhận
dữ liệu phù hợp cho mục đích nghiên cứu của đề tài.
Các máy đo pH, đo oxy hoà tan, đo độ dẫn đƣợc sử dụng để xác định
những thông số chất lƣợng môi trƣờng sống tự nhiên cũng nhƣ kiểm tra, điều
chỉnh, kiểm soát chất lƣợng nƣớc nuôi trong phòng thí nghiệm. Thiết bị bơm
nƣớc tuần hoàn, sục khí, ổn nhiệt dùng trong nuôi sinh vật cảnh đƣợc sử dụng
để ổn định điều kiện các bể nuôi nghêu.
2.2.1 Phân tích mẫu nƣớc biển
Mẫu nƣớc biển đƣợc lấy bằng dụng cụ lấy mẫu chuyên dùng trong
nghiên cứu biển, đƣợc gọi là ống batomet của hãng General Ocean (Mỹ). Ống
lấy mẫu chế tạo từ vật liệu trơ hóa học, hở hai đầu và đóng tự động khi đã có
nƣớc nạp đầy ống. Nồng độ vết các kim loại nặng As, Cd, Cu trong nƣớc biển
nuôi nghêu đƣợc xác định bằng cách pha loãng mẫu 10 lần với nƣớc sạch
(nƣớc đạt chất lƣợng 18,2 M), axit hóa bằng HNO3 tinh khiết phổ nguyên tử
đến nồng độ 1% và đo trực tiếp bằng kỹ thuật ICP-MS. Hệ thống thiết bị phổ
khối ICP-MS sử dụng trong nghiên cứu có trang bị công nghệ buồng phản
ứng va chạm thụ động (CRC), đây là công nghệ đột phá mới ra đời trong thời
gian gần đây trong sự phát triển không ngừng của kỹ thuật ICP-MS cho phép loại bỏ các ảnh hƣởng phổ polyatom (ví dụ ảnh hƣởng của 45Ar35Cl+ lên 75As+, của 40Ar23Na+ lên 63Cu+) ngay trong trong hệ thống đo. Vì vậy hầu nhƣ mọi
loại mẫu nƣớc (kể cả nƣớc biển) đều có thể đo trực tiếp không cần qua xử lý
(trừ mẫu có tổng thành phần chất rắn hòa tan cao hơn 3%) [78], [79]. Khả
năng đo trực tiếp mẫu không qua xử lý hạn chế đƣợc tối đa sai số ở bƣớc xử
lý mẫu và cho kết quả chính xác nhất, đặc biệt là trong phân tích vết. Chỉ số
kỹ thuật giới hạn phát hiện của hệ thống ICP-MS sử dụng trong nghiên cứu
đối với 3 kim loại là As 0,01072 g/l; Cd 0,00086 g/l và Cu 0,00637 g/l
[80]. Giới hạn phát hiện thực tế đạt đƣợc của thiết bị sử dụng trong nghiên
cứu đề tài là 0,00379 g/l đối với As; 0,00195 g/l đối với Cd và 0,05909
g/l đối với Cu trong dải sai số tƣơng đối sau 3 lần đo lặp lại 1 3%.
2.2.2. Phân tích mẫu trầm tích và mẫu mô nghêu
Mẫu trầm tích, mô nghêu đƣợc xử lý trên hệ thống lò vi sóng 7295
Microwave của hãng O.I.Analytical (Mỹ). Lò vi sóng có khả năng đo, kiểm
soát và điều chỉnh đồng thời cả áp lực (tối đa 600 psi) và nhiệt độ (tối đa 2000C). Lò vi sóng dùng trong xử lý mẫu phân tích hóa học vận hành thành
nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn bao gồm các thông số: công suất lò sử dụng
(theo % công suất tối đa), nhiệt độ (hoặc áp suất) cần đạt đến, thời gian giữ ổn
định ở nhiệt độ (hoặc áp suất) đã đặt và thời gian tối đa khống chế hoàn tất
một giai đoạn trƣớc khi chuyển sang vận hành giai đoạn tiếp theo. Xử lý mẫu
bằng lò vi sóng là kỹ thuật phù hợp nhất cho phân tích ICP-MS, kỹ thuật này
bảo đảm hòa tan mẫu triệt để trong một bình kín làm bằng nhựa Teflon PFA,
không làm ô nhiễm mẫu, không mất mẫu dƣới dạng hơi (đặc biệt là đối với
As và Cd).
Đối với mẫu trầm tích: cân 0,5 g mẫu (đã qua sấy khô hoàn toàn ở 1050C trong 48 giờ) cho vào bình PFA Teflon của lò vi sóng, thêm 9 ml
HNO3 và 3 ml HCl đặc. Chuẩn bị mẫu trắng có cùng lƣợng và trên cùng loại
hoá chất nhƣ vậy gồm 0,5 ml nƣớc siêu sạch, 9 ml HNO 3 đặc và 3 ml HCl đặc.
Bảng 2.1 trình bày chƣơng trình vi sóng xử lý mẫu trầm tích [81].
Bảng 2.1 Chương trình vi sóng xử lý mẫu trầm tích
Giai đoạn
Công suất lũ [%]
Thời gian tối đa [phút:giây]
Thời gian giữ tại nhiệt độ thiết lập [phút:giây]
1 2
50 100
Điểm thiết lập nhiệt độ [0C] 125 175
01:00 04:30
05:00 05:00
Đối với mẫu mô nghêu: nghêu đƣợc bóc vỏ, toàn bộ phần mô mềm đƣợc
lấy ra khỏi hai mảnh vỏ bằng dao Teflon, giữ lại phần mang, cơ, ruột, bỏ phần
chất thải trong ruột, các bộ phận giữ lại đƣợc sấy khô triệt để trong 5 ngày ở 600C. Sau đó mẫu đƣợc nghiền mịn, trộn kỹ, cân 0,2 g mô khô cho vào bình
Teflon PFA của lò vi sóng, thêm vào 5 ml HNO3 đặc [82]. Chuẩn bị mẫu trắng
chứa cùng lƣợng và loại hoá chất nhƣ vậy gồm 0,2 ml nƣớc siêu sạch cộng với
5 ml HNO3 đặc. Sử dụng chƣơng trình lò vi sóng xử lý mẫu mô động vật
nhuyễn do nhà sản xuất thiết bị cung cấp và đƣợc thể hiện trong bảng 2.2 dƣới
đây [82]. Tất cả các kết quả xác định giá trị nồng độ kim loại nặng trong mô
nghêu của đề tài đều biểu diễn theo g/g khối lƣợng mô khô.
Bảng 2.2 Chương trình vi sóng xử lý mẫu mô nghêu
Giai đoạn Công suất
Điểm thiết lập áp suất [psig]
Thời gian tối đa [phút:giây]
[%]
50 75 75
1 2 3
Thời gian giữ tại áp suất thiết lập [phút:giây] 02:00 05:00 02:00
05:00 06:00 03:00
20 40 60
Giai đoạn Công suất
Điểm thiết lập áp suất [psig]
Thời gian tối đa [phút:giây]
[%]
75 75 75 75 75
4 5 6 7 8
Thời gian giữ tại áp suất thiết lập [phút:giây] 02:00 02:00 02:00 02:00 15:00
03:00 03:00 03:00 03:00 16:00
80 100 120 140 160
Với phƣơng pháp và các điều kiện áp dụng nuôi nghêu trong phòng thí
nghiệm trong đề tài luận án nhƣ: nồng độ kim loại nặng tự nhiên trong nƣớc
biển xa bờ sử dụng làm nƣớc nuôi [8], [9], [10], [11], [12], trong men bánh
mỳ dùng làm nguồn dinh dƣỡng bổ sung đều là siêu vết và thấp hơn rất nhiều
so với nồng độ ion kim loại pha thêm vào thì kim loại hấp thu, tích lũy vào
mô mềm chỉ là dạng ion hòa tan và qua con đƣờng hô hấp bằng mang (con
đƣờng tiêu hóa dinh dƣỡng xem nhƣ không có đóng góp). Thực tế đã xác định
đƣợc nồng độ các kim loại nặng trong nƣớc biển nuôi nghêu xây dựng mô
hình thống kê và mô hình vi phân là Cd 0,095 g/l; As 0,148 g/l và Cu 3,092
g/l. Toàn bộ phần diện tích mang và mô mềm tiếp xúc với nƣớc đều có liên
quan đến nồng độ ion kim loại tự do tích lũy đƣợc [41] và kim loại tích lũy
theo thời gian nuôi chủ yếu nằm ở phần mang và cơ [3], [30], [31].
Yếu tố ra của các mô hình thống kê, mô hình vi phân trong đề tài chỉ
liên quan đến nồng độ ion kim loại nặng tự do hòa tan trong nƣớc và chỉ tích
lũy ở mang, cơ, phần nội tạng không có tích lũy. Vì vậy về lý thuyết chỉ cần
giữ lại phần mang và cơ để xác định nồng độ kim loại. Tuy nhiên để tránh khi
loại phần ruột có thể làm mất một phần cơ do gặp khó khăn trong bóc tách các
phần nội tạng, phần ruột cũng đƣợc giữ lại để xử lý, phù hợp với mục đích
của đề tài chỉ dừng lại xây dựng mô hình tích lũy ion kim loại hòa tan hấp thu
qua mang, phù hợp với mục đích ứng dụng mô hình trong cảnh báo an toàn
thực phẩm khi ngƣời tiêu dùng thƣờng sử dụng toàn bộ phần cơ thể mô làm
dinh dƣỡng. Phạm vi mô tả của mô hình tuy bị thu hẹp nhƣng chính xác với
mục tiêu đặt ra.
Nồng độ As, Cd, Cu đƣợc phân tích trên thiết bị phổ khối 7500ce ICP-
MS của hãng Agilent Technologies (Mỹ). Thiết bị đƣợc điều chỉnh đạt độ nhạy cao nhất chỉ cho ba nguyên tố trên tại các đồng vị 75As, 111Cd và 63Cu.
Tối ƣu một phƣơng pháp vận hành, thu nhận số liệu duy nhất cho cả ba đồng
vị trên trong mọi nền mẫu nghiên cứu, bao gồm nền trầm tích, nền nƣớc có độ đến 270/00 và nền mô động vật nhuyễn thể. Tất cả các số mặn trong dải 240/00
liệu đo đƣợc của ba nguyên tố tại những mức nồng độ khác nhau, trong các
nền khác nhau đều có độ chính xác nhƣ nhau.
Ngoài ra trong nghiên cứu còn sử dụng đến các thiết bị, dụng cụ phụ
trợ xử lý, chuẩn bị mẫu nhƣ máy cất nƣớc hai lần (Aquatron 4000, Anh), máy
lọc nƣớc siêu sạch dùng cho phân tích vết (Labconco, Mỹ), tủ sấy (MMM,
Đức), cân phân tích có độ chính xác đến 0,001g (Satorious, Đức), các loại
dụng cụ thuỷ tinh cần thiết khác.
Chất chuẩn rắn sử dụng điều chỉnh nồng độ kim loại hòa tan đối với
các thí nghiệm trong phòng thí nghiệm gồm: CdCl2, As2O3 và CuCl2 đều là
các loại chuẩn tinh khiết.
Các kết quả xây dựng chuẩn thiết bị cho thấy phép đo có thể đƣợc thực
hiện với độ chính xác cao ngay cả ở nồng độ vết của As và Cd. Giới hạn phát
hiện đạt đƣợc là 0,00195 g/l đối với Cd; 0,00379 g/l đối với As và 0,05909
g/l đối với Cu đủ để phân biệt những biến đổi nhỏ nồng độ kim loại tích luỹ
đƣợc trong mô động vật nhuyễn thể, ngay cả trong khoảng thời gian sinh
trƣởng ngắn (tính theo đơn vị ngày).
Hình 2.1 Thiết bị phổ khối ICP-MS
Trƣớc khi xây dựng chuẩn các nguyên tố kim loại nghiên cứu, thiết bị
đƣợc điều chỉnh để có thể mang lại hiệu quả phân tích cao nhất với giá trị giới
hạn phát hiện thấp nhất. Sử dụng chức năng điều chỉnh tự động của thiết bị
trong chế độ độ nhạy cao với dung dịch chuẩn phổ nguyên tử nồng độ 1 g/l
các nguyên tố Li, Y, Ce, Tl. Bảng 2.3 tổng kết kết quả điều chỉnh các thông số
điều khiển thiết bị, thu nhận dữ liệu.
Bảng 2.3 Các thông số điều khiển thiết bị, thu nhận dữ liệu tối ưu
Thông số
Giá trị
Thông số
Giá trị
Điều kiện Plasma
Thấu kính ion
1500 W Thấu kính chiết 1 0,9 l/phút Thấu kính chiết 2 0,22 l/phút Thấu kính Omega
Công suất RF Dòng khí mang Dòng khí bổ trợ Nhiệt độ buồng phun sƣơng 2 0C Tốc độ bơm nhu động
0,1 rps
4,3 V -106,5 V -16 V - 9 V - 48 V - 18 V - 16 V
Các thông số bộ tách khối QP 125 V 125 V 1 V 0 V
AMU Gain AMU Offset Axis Gain Axis Offset
QP Focus Cell Exit OctP Bias QP Bias Các thông số nhân điện tử phát hiện Analog HV Pulse HV
1700 V 1020 V
2.3 PHƢƠNG PHÁP NUÔI NGHÊU TRONG PHÕNG THÍ NGHIỆM
Nghêu nuôi đƣợc lấy từ bãi nuôi tự nhiên và đang trong giai đoạn phát
triển mạnh.
Dùng nƣớc biển tự nhiên làm nguồn nƣớc nuôi nghêu trong phòng thí
nghiệm với việc bổ sung thêm tảo và men bánh mỳ. Nguồn nƣớc biển này là
nƣớc biển xa bờ có nồng độ vết As, Cd, Cu, đƣợc pha loãng đến đạt nồng độ
muối phù hợp và xác định lại nồng độ kim loại để xác nhận hai kim loại trên
tồn tại ở nồng độ siêu vết. Sau đó nƣớc biển đƣợc pha thêm chuẩn Cd, As, Cu
đến nồng độ định trƣớc. Nƣớc biển sử dụng nuôi nghêu trong phòng thí
nghiệm đã đƣợc xác định là có số lƣợng và giống loài sinh vật phù du phong
phú [8], [9], [10], [11], [12], cho thấy có thể dùng làm dinh dƣỡng tốt cho
nghêu. Sử dụng nƣớc biển tự nhiên nuôi nghêu mà không phải là nƣớc biển
nhân tạo bảo đảm điều kiện môi trƣờng sống giống nhất với điều kiện trong tự
nhiên. Chế độ thay nƣớc trong quá trình nuôi và thay bằng chính nƣớc biển tự
nhiên đảm bảo ổn định môi trƣờng sống cũng nhƣ nguồn thức ăn tự nhiên cho
nghêu. Tảo đơn bào và men bánh mỳ chỉ đóng vai trò là nguồn thức ăn bổ
sung. Môi trƣờng sống tƣơng đồng với môi trƣờng tự nhiên là một yếu tố
quan trọng cho phép ứng dụng các mô hình xây dựng trong phòng thí nghiệm
vào thực tiễn.
Ngay sau khi lấy, nghêu đƣợc rửa sạch bằng nƣớc nuôi tự nhiên, ngâm
trong nƣớc biển đƣa về phòng thí nghiệm trong ngày.
Môi trƣờng nuôi trồng với các điều kiện sống trong phòng thí nghiệm nhƣ sau: nƣớc đƣợc lấy từ môi trƣờng tự nhiên có độ mặn 330/00 đƣợc pha loãng đến đạt độ mặn 250/00, oxy hoà tan đo đƣợc 6,8 mg/l, pH 7 8, tảo bổ sung 8.105 tế bào/l, vụn bánh mỳ bổ sung làm thức ăn 0,75 g/kg nghêu, nhiệt
độ nƣớc đƣợc duy trì ở 260C 270C. Bể nuôi đƣợc sục khí và bơm tuần hoàn
bằng các thiết bị của Trung Quốc có bán trên thị trƣờng dùng trong nuôi sinh
vật cảnh.
Chế độ thay nƣớc nhƣ sau: thay 5%/ngày trong 10 ngày đầu, 16 ngày
tiếp theo thay 10%/ngày, những ngày tiếp theo còn lại thay 15%/ngày [4].
Bảng (2.4) trình bày kết quả khảo sát các điều kiện nuôi nghêu Meretrix
Lyrata khác nhau do Viện nghiên cứu cứu nuôi trồng thủy sản II tiến hành [4].
Bảng 2.4 Một số yếu tố kỹ thuật và môi trường nuôi vỗ nghêu bố mẹ
Khẩu phần ăn
pH
Số cá thể
Chế độ thay nƣớc
T (0C)
DO (mg/l)
Số ngày nuôi
Tỷ lệ chết (%/số ngày nuôi)
Độ mặn (0/00)
Tảo (tb/l)
Men (g/kg)
30
8.105
26,5
7,8-8,0
6,4-6,5
30
73%/4 ngày
1
6
5% ngày thứ 3 5% ngày thứ 4
30
8.105
5% ngày thứ 4
26,5
8,0
6,4-6,5
30
1
5
60%/2 ngày 100%/5 ngày
1
8
49
8.105
26,5
7,8-8,0
6,4-6,5
27
Cách ngày thay 5%
22,5%/6 ngày 71,4%/7 ngày 100%/8 ngày
5
27
8.105
1-2
26,7
8,0
6,7
27
Cách ngày thay 5%
14,8%/3 ngày 81,5%/4 ngày 100%/5 ngày
11
32
8.105
1
26,5
7,7
6,8
27
3 ngày thay nƣớc 3 lần, mỗi lần 5%
3%/ 3 ngày 37,5%/4 ngày 100%/11 ngày
32
80
8.105
0,5-1
7,7-8,0
6,8
24-27
26,5- 27
0% 21 ngày 1,25%/22 ngày 2,5%/23 ngày 8,75%/32 ngày
5%/ngày (10 ngày đầu) 10%/ngày (16 ngày tiếp theo 15%/ngày (những ngày còn lại)
Nguồn dinh dƣỡng bổ sung gồm tảo và men bánh mỳ cũng đƣợc phân
tích As, Cd, Cu để khẳng định không có đóng góp kim loại từ những nguồn
này vào phần tích lũy trong nghêu ngoài nguồn tự nhiên và nguồn bổ sung
bằng chất chuẩn.
Phân tích nồng độ các kim loại trong nƣớc nuôi và bổ sung cho đến đạt
mức nồng độ đặt ra trong kế hoạch.
Bảng (2.5) tổng kết các điều kiện nuôi nghêu trong phòng thí nghiệm sử
dụng trong nghiên cứu của đề tài và một số thông số đầu vào của cá thể nghêu.
Bảng 2.5: Các điều kiện nuôi nghêu trong phòng thí nghiệm
Thông số
Số cá thể nghêu nuôi trong một thí nghiệm Thể tích nƣớc bể nuôi
Giá trị 80 con 100 lít
Khối lƣợng mô tƣơi trung bình ban đầu Khối lƣợng mô khô trung bình ban đầu Tảo đơn bào bổ sung làm dinh dƣỡng Men bánh mỳ bổ sung làm dinh dƣỡng Nhiệt độ nƣớc
pH
Độ muối trung bình
1,091 g 0,205 g 8.105 tế bào/lít 0,5 g/kg 260C 270C 7 8 25 0/00
Hình (2.2) dƣới đây miêu tả hệ thống bể nuôi nghêu trong phòng thí
Bơm nƣớc tuần hoàn
Thiết bị ổn định nhiệt độ
Sục không khí cấp oxy
Nghêu
nghiệm:
Hình 2.2 Bể nuôi và các thiết bị sử dụng ổn định môi trường sống của
nghêu trong phòng thí nghiệm
2.3.1 Nuôi nghêu xây dựng mô hình thống kê
Nghêu đƣợc lựa chọn kỹ lƣỡng theo kinh nghiệm của ngƣời nuôi để đạt
đƣợc các yêu cầu sau:
- Nghêu khoẻ mạnh, có đặc điểm sinh học cho thấy có khả năng sinh
trƣởng, sức sống tƣơng đồng.
- Các cá thể có khối lƣợng cả con tại hai mức thí nghiệm của kế hoạch
thực nghiệm là 6,92 g và 14,6 g (tƣơng ứng với khối lƣợng mô khô 0,2 g và
0,5 g) đƣợc lựa chọn cẩn thận sao cho khối lƣợng của chúng ít dao động nhất.
Sau khi kết thúc thực nghiệm nuôi, cá thể nghêu đƣợc bóc vỏ, phần mô đƣợc lấy ra và xử lý sấy khô ở 600C trong 5 ngày. Tiếp theo lựa chọn những mẫu
khô có khối lƣợng xấp xỉ nhau để phân tích lấy số liệu thực nghiệm. Mỗi thí
nghiệm trong ma trận thực nghiệm có 5 mẫu phân tích, trung bình cộng các kết
quả này đƣợc lấy làm kết quả thí nghiệm trong ma trận kế hoạch thực nghiệm.
2.3.2 Nuôi nghêu xây dựng mô hình vi phân
Các hằng số tốc độ hấp thu tích lũy và hằng số tốc độ bài tiết trong mô
hình vi phân là các hằng số xác định bằng thực nghiệm. Để xác định những
giá trị hằng số tốc độ hấp thu và hằng số tốc độ bài tiết cần đến các số liệu mô
tả sự biến đổi nồng độ kim loại trong mô nghêu. Việc xác định đồng thời cả
hằng số tốc độ hấp thu và hằng số bài tiết chỉ dựa trên một tệp số liệu nuôi
tích luỹ là không khả thi do cả hai quá trình tích luỹ và bài tiết diễn ra song
song, vì vậy các nhà khoa học trên thế giới chia thực nghiệm thành hai giai
đoạn, giai đoạn nuôi tích luỹ và giai đoạn nuôi bài tiết, số liệu giai đoạn nuôi
bài tiết đƣợc xử lý tìm dải hằng số tốc độ bài tiết, sau đó kết hợp giá trị hằng
số tốc độ bài tiết tìm đƣợc và số liệu giai đoạn nuôi tích luỹ xử lý tìm giá trị
hằng số tốc độ hấp thu [41], [50].
Phạm vi, thời gian và kinh phí không cho phép áp dụng cách thức triển
khai thực nghiệm trong môi trƣờng thực tế tƣơng tự nhƣ của các nhà khoa học
Pháp [41]. Vì vậy việc xây dựng mô hình vi phân trong đề tài dựa trên các kết
quả nghiên cứu trong phòng thí nghiệm giống nhƣ xây dựng mô hình thống
kê. Phƣơng pháp triển khai thực nghiệm, thu thập số liệu tính toán hằng số tốc
độ bài tiết, hằng số tốc độ tích lũy dựa trên quy trình nghiên cứu của các nhà
khoa học Bồ Đào Nha đã từng áp dụng xây dựng mô hình vi phân tích lũy và
bài tiết Cd trên loài nhuyễn thể Ruditapes Decussatus [50], điều chỉnh cho
phù hợp với đối tƣợng nghiên cứu, mục tiêu của đề tài cũng nhƣ độ chính xác,
tin cậy trang thiết bị đo ICP-MS đáp ứng đƣợc.
Thực nghiệm nuôi nghêu đƣợc triển khai trong hai bể, một bể pha
chuẩn kim loại ở nồng độ thấp Cd 4 g/l, As 25 g/l, Cu 20 g/l và một bể
pha chuẩn kim loại ở nồng độ cao Cd 20 g/l, As 50 g/l, Cu 50 g/l.
Thời gian nuôi giai đoạn tích lũy kéo dài 20 ngày, mẫu đƣợc lấy ra
phân tích nồng độ kim loại vào các ngày thứ 4, 8, 12, 16 và 20; nguồn nƣớc
thay hàng ngày cũng là nƣớc biển tự nhiên sạch đã đƣợc pha chuẩn kim loại.
Trƣớc và sau mỗi thời điểm thay nƣớc đều xác định lại nồng độ kim loại
trong bể nuôi và nếu cần thiết điều chỉnh lại nồng độ về mức ban đầu.
Tất cả các cá thể nghêu còn lại sau 20 ngày nuôi đƣợc chuyển sang
nuôi trong nƣớc biển sạch chƣa qua pha chuẩn kim loại và đã pha loãng đến
nồng độ muối phù hợp. Đây là giai đoạn nuôi bài tiết để xác định hằng số tốc
độ bài tiết. Các cá thể nghêu còn lại trên đƣợc nuôi trong nguồn nƣớc này thêm
10 ngày. Tần suất lấy mẫu nghêu phân tích là 2 ngày một lần, dữ liệu thu đƣợc
sử dụng tính toán hằng số tốc độ bài tiết ke. Kết hợp giá trị hằng số tốc độ bài
tiết ke và số liệu giai đoạn nuôi hấp thu tích lũy 20 ngày đầu để xác định hằng
số tốc độ tích lũy ku.
2.4 PHƢƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH TƢƠNG QUAN KHỐI LƢỢNG
Yếu tố đầu vào khối lƣợng mô trong xây dựng mô hình thống kê đòi
hỏi lựa chọn cẩn thận các cá thể nghêu có tính đồng nhất cao và khẳng định
giữa khối lƣợng cả con (phần vỏ và phần mô tƣơi bên trong), khối lƣợng phần
mô tƣơi và khối lƣợng mô sau khi sấy khô triệt để có tính tƣơng quan cao.
Để chứng minh quan hệ qua lại giữa ba thông số là khối lƣợng cả con,
khối lƣợng mô tƣơi và khối lƣợng mô khô là các quan hệ tuyến tính, trong
quá trình nghiên cứu lựa chọn ngẫu nhiên 10 cá thể nghêu có kích thƣớc khác
nhau, xác định các giá trị của ba thông số trên và xây dựng phƣơng trình bậc
nhất, tính toán hệ số tƣơng quan. Để đảm bảo độ tin cậy cao nhất của các
thông tin thu đƣợc, tại mỗi điểm thí nghiệm chỉ xác định thông số cho một cá
thể duy nhất, không làm lặp.
Rửa sạch cá thể nghêu, cân giá trị khối lƣợng cả con. Bóc vỏ và tách
toàn bộ phần mô tƣơi bên trong, cân giá trị khối lƣợng mô tƣơi. Sấy khô phần mô tƣơi tại 600C trong 5 ngày và cân giá trị khối lƣợng mô khô.
2.5 PHƢƠNG PHÁP XÁC ĐỊNH MÔI TRƢỜNG TÍCH LŨY CHỦ YẾU
Việc nghiên cứu xác định môi trƣờng mà nghêu tích lũy kim loại nặng
từ đó có ý nghĩa quan trọng đối với các thực nghiệm xây dựng mô hình thống
kê và mô hình vi phân. Hai mô hình thống kê và vi phân đƣợc xây dựng từ số
liệu thực nghiệm nuôi nghêu trong phòng thí nghiệm, vì vậy mức độ phức tạp
của các con đƣờng tích lũy khác nhau sẽ quyết định đến tính khả thi của việc
triển khai thí nghiệm cho phép thu nhận đầy đủ dữ liệu cần thiết, và theo đó là
mức độ phức tạp của mô hình thu đƣợc.
Để xác định môi trƣờng nghêu Meretrix Lyrata tích luỹ kim loại nặng
chủ yếu từ đó, sử dụng kết hợp một số thông tin phân tích dữ liệu nhƣ sau:
- Đánh giá tƣơng quan giữa nồng độ kim loại trong nghêu so với trong
nƣớc và so với trong trầm tích. Cách đánh giá này đã đƣợc các nhà khoa học
Mỹ sử dụng để kết luận đâu là môi trƣờng tích luỹ chủ yếu các kim loại nặng
Cd, Cr, Cu, Pb, Zn vào loài sò Crassostrea virginica [31]. Kết luận đƣa ra là
loài sò này hấp thu các kim loại nặng trên trong vịnh Florida (Mỹ) chủ yếu từ
pha nƣớc phía trên, pha trầm tích đóng góp không đáng kể sau khi so sánh hệ
số tƣơng quan thu đƣợc trong môi trƣờng nƣớc đối với Cd: 0,41; Cr: 0,63;
Cu: 0,72; Pb: 0,3; Zn: 0,5 đều lớn hơn so với trong môi trƣờng trầm tích Cd: -
0,04; Cr: 0,10; Cu: 0,65; Pb: 0,20; Zn: 0,10. Ở đây các nhà khoa học không có
chủ ý kết luận hay đánh giá rằng giữa nồng độ kim loại trong nhuyễn thể so
với nồng độ kim loại trong môi trƣờng là có hay không có tƣơng quan, mục
đích chỉ so sánh tƣơng đối các giá trị hệ số giữa hai môi trƣờng nƣớc và trầm
tích, nếu sự khác biệt là rõ rệt và giống nhau ở đa số hoặc tất cả các kim loại
nghiên cứu thì đây là một trong những thông tin để góp phần đi đến kết luận
về môi trƣờng mà nhuyễn thể tích lũy kim loại chủ yếu từ đó.
- Việc nghiên cứu môi trƣờng tích luỹ chủ yếu đƣợc thực hiện trên số
liệu hiện trƣờng (theo cách thức và phƣơng pháp triển khai thực nghiệm của
các nhà khoa học Mỹ [31]), đó là nồng độ kim loại nặng trong các cá thể
nghêu giống nhau thu đƣợc tại những vị trí có nồng độ kim loại tƣơng ứng
trong nƣớc và trong trầm tích khác nhau. Xem các vị trí nghiên cứu đồng nhất
về các yếu tố môi trƣờng, trừ nồng độ kim loại để tính phần trăm sai số tƣơng
đối (RSD) gây ra bởi dao động nồng độ kim loại, so sánh RSD của từng kim
loại trong môi trƣờng nƣớc và trong môi trƣờng trầm tích để có thêm thông
tin đánh giá. Nếu môi trƣờng nào có RSD lớn hơn (dao động nhiều về nồng
độ) thì có thể kết luận đây là môi trƣờng tích luỹ chủ yếu đã tạo ra các giá trị
RSD lớn của nồng độ kim loại trong nghêu, trong khi môi trƣờng có RSD nhỏ
và ổn định hơn xem nhƣ đóng góp không đáng kể vào nồng độ kim loại nghêu
tích luỹ đƣợc.
- Kết hợp hai nguồn thông tin trên cùng với đánh giá, phân tích bản chất
quá trình sinh trƣởng, phát triển của nghêu, bản chất môi trƣờng sống phù hợp
với nghêu để đi đến kết luận cuối cùng. Nghêu Meretrix Lyrata dễ nuôi, không
tốn thức ăn và dựa chủ yếu vào nguồn tự nhiên nhƣ tảo, mùn bã hữu cơ, các
chất lơ lửng, sinh vật phù du mà chủ yếu là tảo silic phù du, tảo giáp (kích
thƣớc trung bình 6-8 m), tảo lam, tảo kim (kích thƣớc trung bình 2-3 m), tảo
lục. Loài nghêu Meretrix Lyrata sống ở khu vực sông ven biển, nơi có nền cát
mịn đến cát trung bình với hàm lƣợng cát từ 60-90%. Bình thƣờng nghêu sống
vùi trong cát, khi cần lấy thức ăn nó trồi lên bề mặt đáy, những nguồn thức ăn
trên chủ yếu nằm trong pha nƣớc. Đặc điểm này cho phép dự đoán có thể
nghêu sẽ tích lũy kim loại nặng chủ yếu từ pha nƣớc (bao gồm phần kim loại
hòa tan và kim loại nằm trong chất rắn lơ lửng nghêu sử dụng làm thức ăn).
2.6 PHƢƠNG PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH HỆ SỐ TÍCH LUỸ
Sử dụng dạng hàm sinh trƣởng không đồng đều để xây dựng mô hình
hệ số tích lũy BAF. Xuất phát từ ứng dụng của dạng hàm này đã đƣợc dùng
tham số hoá tốc độ chuyển hoá trao đổi chất, tốc độ sinh trƣởng, tần số hô hấp,
tốc độ cấp dinh dƣỡng, tốc độ tiêu thụ oxy, tổng diện tích mang,.... Các thông
số này đều có ảnh hƣởng đến hoạt động sống và sự sinh trƣởng của nhuyễn
thể, nên đƣợc đặt giả thiết có tác động lên khả năng tích luỹ kim loại trong mô.
Sự sinh trƣởng và phát triển của đối tƣợng nghiên cứu thể hiện qua mức độ
tăng khối lƣợng và kích thƣớc cơ thể. Cá thể lớn có nhu cầu và tốc độ tiêu thụ
dinh dƣỡng cao hơn, lƣợng nƣớc lấy vào qua mang nhiều hơn, kết hợp với
phần tổng diện tích mang lớn dẫn đến tốc độ hấp thu tích luỹ kim loại cũng
cao hơn. Từ đó cho thấy dạng hàm sinh trƣởng không đồng đều cũng có thể là
một cách để biểu diễn nồng độ kim loại tích luỹ.
Mô hình hệ số tích luỹ BAF theo dạng hàm sinh trƣởng không đồng
đều đƣợc xây dựng từ các số liệu hiện trƣờng. Tại cùng một vị trí nghiên cứu
xác định nồng độ kim loại trong các cá thể khác nhau, có khối lƣợng mô khác
nhau. Tổ hợp đƣợc các cặp dữ liệu hệ số BAF theo một giá trị W, các cặp dữ
liệu này sử dụng xây dựng mô hình.
Mô hình hệ số tích luỹ BAF đƣợc xây dựng có dạng:
(2.1)
trong đó a và b là các hệ số thực nghiệm, W (g) là khối lƣợng mô khô.
Từ hàm này lấy logarit hai vế ta có:
(2.2)
Đặt lg(BAF) = y, lg(a) = b0 và lg(W) = x, phƣơng trình trên trở về dạng
y = b0 + b.x và các hệ số b0, b hoàn toàn có thể tìm đƣợc bằng phƣơng pháp
bình phƣơng tối thiểu.
Đánh giá độ chính xác, tin cậy của mô hình thông qua sai số gây ra bởi
sự khác nhau giữa giá trị BAF tính theo mô hình và giá trị BAF thực nghiệm.
2.7 PHƢƠNG PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH THỐNG KÊ
Có nhiều yếu tố tác động lên nồng độ kim loại tích luỹ trong mô nghêu,
những yếu tố có mức độ tác động đáng kể hơn cả là nồng độ kim loại hoà tan
trong nƣớc, thời gian sinh trƣởng, khối lƣợng mô, tốc độ cấp dinh dƣỡng, tần
số hô hấp..... So với trong môi trƣờng tự nhiên có nhiều biến động, nghiên cứu
trong phòng thí nghiệm cho phép ổn định đƣợc nhiều yếu tố khó kiểm soát
nhƣ: tốc độ trộn, nồng độ oxy hoà tan, tốc độ cấp dinh dƣỡng. Ngoài ra nghiên
cứu trong phòng thí nghiệm còn khống chế đƣợc những thay đổi nồng độ chất
ô nhiễm hoặc thay đổi hoạt tính tích lũy trong quá trình nghiên cứu, ổn định
đƣợc khả năng tích luỹ chất ô nhiễm trong giai đoạn phơi nhiễm và cố định
đƣợc một hoặc chỉ một số nhất định con đƣờng hấp thu, tích luỹ. Đây đều là
những yếu tố ảnh hƣởng đến trạng thái hấp thu, tích luỹ ổn định của nhuyễn thể.
Trên cơ sở yêu cầu đặt ra đối với các biến đƣợc lựa chọn xây dựng ma
trận thực nghiệm là các thông số có thể đo được và điều khiển được, độc lập
điều chỉnh được và có ảnh hưởng rõ nét đến hàm mục tiêu, cộng với khả năng
nuôi thành công động vật nhuyễn thể nghêu Meretrix Lyrata trong phạm vi
phòng thí nghiệm đã đƣợc hiện thực hoá. Các yếu tố đầu vào đƣợc lựa chọn
để xây dựng mô hình bao gồm:
Yếu tố thứ nhất là khối lƣợng mô nghêu khô vào thời điểm bắt đầu nuôi
Z1: 0,2 0,5 g (tƣơng ứng khối lƣợng mô nghêu tƣơi trong khoảng 1,096
2,687 g và khối lƣợng toàn bộ cá thể trong khoảng 6,92 14,6 g). Giữa khối
lƣợng mô và các thông số khác nhƣ tổng diện tích bề mặt mô, tốc độ tiêu thụ
dinh dƣỡng, tốc độ tiêu thụ oxy, lƣu lƣợng nƣớc qua mang,.... là có mối quan
hệ qua lại lẫn nhau. Các cá thể lớn (khối lƣợng mô cao hơn) đều có giá trị của
các thông số đề cập trên lớn hơn so với cá thể nhỏ (khối lƣợng mô thấp hơn).
Việc lựa chọn một trong các yếu tố đầu vào là khối lƣợng mô bắt buộc các
yếu tố có quan hệ với nó không đƣợc lựa chọn do sự thay đổi giá trị của khối
lƣợng mô theo các mức quy hoạch kéo theo sự thay đổi bắt buộc của các yếu
tố liên quan (không đáp ứng yêu cầu là biến độc lập điều chỉnh đƣợc). Tuy
nhiên, yếu tố đầu vào khối lƣợng mô đại diện đƣợc cho sự tác động từ tất cả
các thông số có quan hệ với nó và nhƣ vậy rõ ràng nó là yếu tố có ảnh hƣởng
đáng kể đến nồng độ kim loại tích lũy đƣợc theo thời gian.
Yếu tố thứ hai là thời gian nuôi Z2: 4 28 ngày. Hiển nhiên thời gian
sinh trƣởng có liên quan đến nồng độ kim loại tích lũy đƣợc trong mô. Thời
gian kéo dài, lƣợng kim loại tích lũy đƣợc sẽ tăng lên cho đến khi đạt đƣợc
trạng thái ổn định. Sự thay đổi giá trị của yếu tố khối lƣợng mô nghêu ban đầu
Z1 theo mức quy hoạch nêu trên không phụ thuộc và kéo theo sự thay đổi đối
với giá trị mức quy hoạch của yếu tố thời gian Z2 cũng nhƣ ngƣợc lại. Ở đây
yếu tố Z1 là khối lƣợng của cá thể nghêu lúc bắt đầu đƣa vào nuôi theo thí
nghiệm trong kế hoạch thực nghiệm, không phải là giá trị khối lƣợng gia tăng
trong một khoảng thời gian sinh trƣởng nhất định nên giá trị lựa chọn theo
mức quy hoạch của nó và giá trị lựa chọn theo mức quy hoạch của yếu tố Z2
không phụ thuộc nhau.
Yếu tố thứ ba là nồng độ ion kim loại hòa tan trong nƣớc Z3 : Cd 4
0 = 0,35 g khối lƣợng khô (tƣơng ứng
20 g/l; As 25 50 g/l; Cu 20 50 g/l.
0 = 12 g/l đối với
0 = 16 ngày và Z3 0 = 35 g/l đối với Cu.
Các yếu tố tại tâm kế hoạch Z1
khối lƣợng toàn bộ cá thể 10,78 g), Z2 0 = 37,5 g/l đối với As và Z3 Cd, Z3
Căn cứ lựa chọn mức cho yếu tố đầu vào dựa trên các thông tin khảo
sát thực tế và thông tin tiên nghiệm. Yếu tố Z1 dựa trên khảo sát thực tế về dải
khối lƣợng mô (bao gồm cả khối lƣợng mô tƣơi và khối lƣợng mô khô tƣơng
ứng) từ các cá thể sống trong giai đoạn phát triển mạnh nhất trong môi trƣờng
tự nhiên (từ tháng 3 đến tháng 5). Các cá thể nghêu đƣa vào nuôi trong phòng
thí nghiệm lấy từ nguồn nuôi trồng tự nhiên và vào thời điểm đầu tháng 3.
Lựa chọn nghêu giai đoạn này đƣa vào nuôi để đảm bảo các cá thể có sức
sống tốt nhất, sức đề kháng cao nhất, có thể sống đƣợc trong môi trƣờng
phòng thí nghiệm với thời gian dài nhất. Khảo sát sơ bộ cho thấy vào đầu giai
đoạn 3 tháng nghêu phát triển mạnh này khối lƣợng mô khô nằm trong dải từ
0,2 g đến 0,5 g. Trong khi đó khối lƣợng mô khô vào cuối tháng 5, thời điểm
nghêu ngừng sinh trƣởng vào khoảng 0,9 g đến 1,1 g.
Mức quy hoạch yếu tố Z2 dựa trên thông tin thực tế về thời gian sống
tối đa cho phép của động vật nhuyễn thể nói chung [25] và loài nghêu
Meretrix Lyrata nói riêng trong điều kiện phòng thí nghiệm [4].
Mức quy hoạch yếu tố Z3 dựa trên tiêu chuẩn cho phép trong Quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lƣợng nƣớc biển ven bờ, các mức lựa chọn
cho yếu tố đầu vào đều hoặc cao hơn nồng độ cho phép hoặc nằm trong dải
các mức nồng độ cho phép của Quy chuẩn. Cụ thể Quy chuẩn áp dụng cho
nƣớc biển nuôi trồng thuỷ sản, nƣớc khu vực bãi tắm và nƣớc các khu vực
khác tƣơng ứng với Cd đều là 5 g/l, đối với As là 10 g/l, 40 g/l, 50 g/l,
đối với Cu là 30 g/l, 500 g/l và 1000 g/l [13]. Việc lựa chọn mức nồng độ
kim loại nặng hòa tan nhƣ vậy cho yếu tố đầu vào Z3 là để bảo đảm cho các
mô hình thu đƣợc có ý nghĩa và có thể sử dụng đƣợc trong dự báo ô nhiễm.
Các yếu tố đầu vào trên đều có thể đo và khống chế đƣợc. Trong đó chỉ
có yếu tố Z1 đòi hỏi có sự khảo sát và lựa chọn cẩn thận mẫu nghêu sống đƣa
vào nuôi đảm bảo có độ đồng đều cao nhất giữa các cá thể (kích thƣớc và
khối lƣợng). Tuy nhiên qua nghiên cứu khảo sát hàng loạt mẫu mô nghêu để
đánh giá mối quan hệ qua lại giữa 3 yếu tố là khối lƣợng toàn bộ cá thể (bao
gồm khối lƣợng phần vỏ hai mảnh và khối lƣợng phần mô tƣơi bên trong),
phần khối lƣợng mô tƣơi và khối lƣợng mô khô cho thấy các cặp đại lƣợng
này có quan hệ bậc nhất với hệ số tƣơng quan cao. Yếu tố Z3 đƣợc đảm bảo
nhờ đo nồng độ Cd, As, Cu có trong nguồn nƣớc nuôi tự nhiên, sau đó bổ
sung bằng cách pha chất chuẩn trực tiếp vào nguồn nƣớc dƣới dạng chất
chuẩn rắn cho đến mức thí nghiệm yêu cầu trong sự điều chỉnh pH và nồng độ
muối vẫn giữ ở giá trị môi trƣờng sống tự nhiên của nghêu. Trƣớc và sau mỗi
thời điểm thay nƣớc hàng ngày đều có kiểm tra nồng độ kim loại hòa tan
trong nƣớc, bổ sung chất chuẩn đến mức quy hoạch.
Yếu tố ra hay nói cách khác là hàm hồi quy bậc nhất là nồng độ Cd, As,
Cu (g/g khối lƣợng khô) trong nghêu Meretrix Lyrata tích luỹ đƣợc sau khi
đã trừ đi phần tích luỹ tự nhiên trƣớc đó (sò đƣa vào nuôi trong thực nghiệm
không phải là loại con giống ban đầu). Các điều kiện nuôi giống nhƣ đã trình
bày trong bảng (2.3). Đây là trƣờng hợp có ba hàm mục tiêu đƣợc nghiên cứu
cùng lúc trên một ma trận thực nghiệm với các yếu tố ảnh hƣởng ban đầu Z1,
Z2 nhƣ nhau, chỉ khác nhau mức Z3. Mỗi một thí nghiệm trong 8 thí nghiệm
của ma trận thực nghiệm và 3 thí nghiệm ở tâm kế hoạch đều đƣợc xác định
đồng thời nồng độ cả ba kim loại trong cùng một cá thể nghêu.
Đáp ứng một trong các nguyên tắc cơ bản của quy hoạch thực nghiệm
là phức tạp dần mô hình toán học, hàm hồi quy thực nghiệm đƣợc lựa chọn
xây dựng là hàm hồi quy bậc một:
Trong đó x1, x2 và x3 là biến mã hoá tƣơng ứng của các yếu tố đầu vào
Z1, Z2, Z3 và tính theo công thức sau:
(2.3)
Với và
Các yếu tố đầu vào triển khai thực nghiệm theo ma trận kế hoạch thực
nghiệm cụ thể nhƣ sau:
+ Với Cd: Z1min = 0,2 g; Z1max = 0,5 g; Z2min = 4 ngày; Z2max = 28 ngày;
Z3min = 4 g/l; Z3max = 20 g/l
+ Với As: Z1min = 0,2 g; Z1max = 0,5 g; Z2min = 4 ngày; Z2max = 28 ngày;
Z3min = 25 g/l; Z3max = 50 g/l
+ Với Cu: Z1min = 0,2 g; Z1max = 0,5 g; Z2min = 4 ngày; Z2max = 28 ngày;
Z3min = 20 g/l; Z3max = 50 g/l Xây dựng ma trận thực nghiệm bậc một hai mức tối ƣu bao gồm 8 thí
nghiệm (N = 8) với các điều kiện thí nghiệm đƣợc mô tả trong bảng (2.6).
Bảng 2.6: Ma trận kế hoạch thực nghiệm xây dựng mô hình thống kê
Biến thực
Biến mã
TT
Z1
Z2
Z3
x0
x1 x2 x3 x1x2 x1x3 x2x3 x1x2x3
-
-
-
+
+
+
-
1 Z1min Z2min Z3min +
+
-
-
-
-
+
+
2 Z1max Z2min Z3min +
-
+
-
-
+
-
+
3 Z1min Z2max Z3min +
+
+
-
+
-
-
-
4 Z1max Z2max Z3min +
-
-
+
+
-
-
+
5 Z1min Z2min Z3max +
+
-
+
-
+
-
-
6 Z1max Z2min Z3max +
-
+
+
-
-
+
-
7 Z1min Z2max Z3max +
+
+
+
+
+
+
+
8 Z1max Z2max Z3max +
Từ các kết quả thực nghiệm (i: 18) tính các hệ số b trong phƣơng
trình hồi quy theo các công thức sau:
(2.4)
Đánh giá tính có nghĩa của các hệ số b thông qua chuẩn Student với
tiêu chuẩn đáp ứng là:
(2.5)
Trong đó p là mức có nghĩa (p = 0,05), f2 = m-1 là bậc tự do lặp. Sb là
độ lệch chuẩn của hệ số b. Chỉ những hệ số b nào đáp ứng đƣợc tiêu chuẩn
(2.5) trên mới xuất hiện trong phƣơng trình hồi quy rút gọn. Các hệ số b đều
có chung độ lệch Sb tính theo công thức dƣới đây:
(2.6)
với (2.7)
là trung bình Ở đây y0j là các kết quả thí nghiệm ở tâm kế hoạch;
cộng các y0j ; m là số thí nghiệm ở tâm kế hoạch (m: 1j).
Sau khi loại đi các hệ số b không thoả mãn (2.5), dựa vào phƣơng trình
hồi quy rút gọn tìm đƣợc các giá trị hàm hồi quy tính theo mô hình tƣơng
ứng tại từng thí nghiệm. Tính toán phƣơng sai giữa kết quả thực nghiệm và
giá trị tính theo mô hình qua công thức:
(2.8)
Với L là số hệ số còn lại trong phƣơng trình hồi quy rút gọn.
Đánh giá tính tƣơng hợp của mô hình bằng chuẩn Fisher với tiêu
chuẩn:
(2.9)
f1 = N-L là bậc tự do dƣ. Fbang(p,f1,f2) là chuẩn Fisher tra bảng tại mức có
nghĩa p (p = 0,05), bậc tự do dƣ f1, bậc tự do lặp f2. Ftinh là chuẩn Fisher tính
đƣợc qua công thức:
(2.10)
Ngoài ra độ chính xác của mô hình còn đƣợc đánh giá qua sai số giữa
kết quả tính theo mô hình và kết quả thực nghiệm tại mỗi một trong 8 thí
nghiệm ma trận.
So sánh sai số giữa kết quả tính theo mô hình và kết quả thực nghiệm
trên cả hai mô hình hệ số tích lũy BAF và mô hình thống kê để so sánh mức
độ tin cậy, tƣơng hợp với thực nghiệm của từng mô hình.
2.8 PHƢƠNG PHÁP XÂY DỰNG MÔ HÌNH VI PHÂN
Hàm vi phân tổng quát đƣợc xây dựng có dạng:
(2.11)
Với (l/g/ngày) là hằng số tốc độ hấp thu kim loại chung cho cả quá
trình hấp thu từ pha hoà tan và quá trình hấp thu từ pha hạt, Cd (g/l) là nồng
độ kim loại trong nƣớc (tổng dạng hoà tan và dạng không hoà tan). Cf (g/g)
là nồng độ kim loại trong mô và (1/ngày) là hằng số tốc độ bài tiết.
Từ các công thức (1.11), (1.22) cho thấy hai hằng số ku và ke phụ thuộc vào tổng diện tích bề mặt mô (V2/3) và khối lƣợng mô (W). Hai đại lƣợng này
biến đổi theo thời gian, vì vậy kết quả thu đƣợc sẽ là một dải hằng số tốc độ
đối với cả ku và ke.
Khi nhuyễn thể lấy kim loại vào cơ thể xảy ra đồng thời hai quá trình hấp
thu tích luỹ giữ lại trong mô làm tăng nồng độ và quá trình bài tiết làm giảm
nồng độ. Vì vậy trong tính toán, chấp nhận hằng số tốc độ bài tiết đƣợc xác định
trƣớc, sau đó sử dụng giá trị hằng số này cùng với số liệu thực nghiệm giai đoạn
tích luỹ để chuẩn hằng số tốc độ hấp thu .
Trong giai đoạn nuôi bài tiết, thực nghiệm tiến hành trong môi trƣờng
có nồng độ kim loại hoà tan ở mức siêu vết, xem nhƣ bằng 0 (Cd = 0). Mô
hình lúc này có dạng:
(2.12)
Phƣơng trình đƣợc biến đổi về dạng:
(2.13)
hay dƣới dạng:
(2.14)
Đây chính là công thức (1.27) đã nêu trong chƣơng Tổng quan.
Trong đó là nồng độ kim loại nặng trong mô nghêu vào các thời
điểm lấy mẫu phân tích trong giai đoạn này và là nồng độ kim loại nặng
trong mô nghêu vào thời điểm bắt đầu giai đoạn thực nghiệm bài tiết chất ô
nhiễm ra khỏi mô.
Vào thời điểm đầu giai đoạn nuôi bài tiết có một giá trị , vào các
ngày thứ 2, 4, 6, 8, 10 của giai đoạn này đo đƣợc các giá trị khác nhau.
. Kết quả Thay vào công thức (2.13) tính đƣợc các giá trị ke ứng với từng
thu đƣợc dãy các giá trị ke tƣơng ứng với mỗi mức nồng độ kim loại nặng hòa
tan trong nƣớc Cd khác nhau ở giai đoạn nuôi tích lũy.
Quá trình tích luỹ kim loại nặng vào nhuyễn thể theo thời gian tiến dần
đến trạng thái cân bằng. Ở trạng thái cân bằng (dCf/dt = 0), nồng độ kim loại
nghêu hấp thu, tích lũy đƣợc đạt cực đại và tính theo công thức:
(2.15)
Và mô hình tích luỹ đƣợc biểu diễn dƣới dạng cân bằng giữa hấp thu và
bài tiết có dạng phƣơng trình (1.26), công thức này đƣợc các nhà khoa học Bồ
Đào Nha sử dụng xây dựng mô hình vi phân bậc nhất mô tả nồng độ Cd tích
luỹ trong loài trai Ruditapes decussatus [50]. Từ phƣơng trình (1.26) rút ra
hằng số tốc độ hấp thu ku theo công thức:
(2.16)
Trong giai đoạn thực nghiệm nuôi tích lũy, với môi trƣờng nƣớc có
nồng độ kim loại Cd, sau khoảng thời gian t tính từ lúc bắt đầu triển khai
thực nghiệm thu đƣợc một giá trị nồng độ tích lũy trong mô Cf, kết hợp với
các giá trị hằng số tốc độ bài tiết thay vào phƣơng trình (2.16) tìm đƣợc các
giá trị hằng số tốc độ hấp thu ku.
Trong phƣơng pháp xử lý số liệu thực nghiệm tính toán các hằng số tốc
độ, chấp nhận một số giả thiết sau đây:
- Đặc điểm của thực nghiệm nuôi giai đoạn hấp thu cũng nhƣ giai đoạn
bài tiết là giá trị nồng độ đầu đƣợc xác định trên một số cá thể nghêu cụ
thể, các cá thể nghêu khác có thể có nồng độ đầu dao động so với giá trị này.
Nhờ lựa chọn cẩn thận các cá thể sống trong môi trƣờng tự nhiên tại cùng địa
điểm đƣa vào nuôi trong phòng thí nghiệm với độ đồng nhất cao (đồng đều về
kích thƣớc, khối lƣợng, các đặc điểm sống khác), thừa nhận giá trị đúng
với tất cả các các thể nghêu. Các cá thể nghêu lấy ra xác định theo thời
gian sẽ không còn tham gia tiếp vào quá trình hấp thu hay bài tiết và do đó
các cá thể nghêu còn lại đƣợc lấy ra đo vào những thời điểm sau đó vẫn chung
nhau giá trị ban đầu. Nói cách khác trong quá trình xử lý số liệu tính toán
. ku và ke chỉ có một giá trị
- Giai đoạn nuôi bài tiết chỉ xảy ra quá trình bài tiết với nồng độ đầu
trong mô cao. Trong khi đó giai đoạn nuôi hấp thu, tích lũy song song xảy ra
cả quá trình hấp thu và bài tiết với nồng độ đầu trong mô thấp hơn, vì vậy
hằng số tốc độ bài tiết ở hai giai đoạn này có khác biệt nhất định. Việc xác
định đồng thời cả hằng số tốc độ hấp thu và hằng số tốc độ bài tiết chỉ bằng
thực nghiệm nuôi hấp thu là không khả thi. Vì vậy trong quá trình xử lý số
liệu chấp nhận hằng số tốc độ bài tiết trong cả hai giai đoạn là nhƣ nhau. Nói
cách khác sử dụng hằng số tốc độ bài tiết tính đƣợc từ số liệu giai đoạn nuôi
bài tiết đƣa vào phƣơng trình (2.16) để tính hằng số tốc độ hấp thu.
- Thay lần lƣợt các giá trị hằng số tốc độ bài tiết tìm đƣợc vào phƣơng
trình (2.16) để tìm hằng số tốc độ hấp thu, và nhƣ vậy ứng với mỗi giá trị ke,
tại mỗi mức nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc thu đƣợc một dãy các giá trị
ku theo t khác nhau.
- Để đảm bảo khả năng nuôi sống nghêu trong điều kiện phòng thí
nghiệm, các cá thể đƣợc lựa chọn trong môi trƣờng tự nhiên vào thời kỳ sinh
trƣởng mạnh (không phải nghêu giống), là những cá thể khỏe, sức đề kháng tốt.
Bản thân trong nghêu có mức nồng độ kim loại đã tích lũy đƣợc nhất định. Mặt
khác do khi đƣa vào nuôi trong phòng thí nghiệm nghêu cần thời gian để thích
nghi với điều kiện sống, để đạt đến trạng thái tích lũy ổn định và tiến đến cân
bằng, khoảng thời gian này là 4 ngày đầu tiên giai đoạn nuôi hấp thu. Vì vậy
giá trị nồng độ trong mô sau 4 ngày đầu tiên này đƣợc xem là nồng độ vào thời
điểm bắt đầu lấy số liệu hấp thu, thời điểm ứng với t trong công thức (1.26)
bằng 0. Các giá trị nồng độ vào ngày thứ 8, 12, 16, 20 giai đoạn nuôi hấp thu
đƣợc hiệu chỉnh với giá trị nồng độ đầu vào ngày thứ 4 này. Và nhƣ vậy giá trị
Cf trong công thức (2.16) là hiệu số của nồng độ trong mô vào các thời điểm
lấy mẫu sau 8, 12, 16, 20 ngày với nồng độ trong mô vào ngày thứ 4.
Độ chính xác, tin cậy của mô hình đƣợc đánh giá qua so sánh giá trị
tính theo mô hình và giá trị thực nghiệm nồng độ kim loại tích lũy trong mô
nghêu. Tiến hành 2 dãy thí nghiệm đối chứng, một dãy có nồng độ các kim
loại hòa tan là Cd 8 g/l, As 30 g/l, Cu 30 g/l, dãy còn lại có nồng độ Cd
16 g/l, As 40 g/l và Cu 40 g/l. Hai dãy thí nghiệm này cũng đƣợc lấy mẫu
xác định nồng độ trong mô vào các ngày thứ 4, 8, 12, 16, 20. Đây là các giá
trị thực nghiệm. Các giá trị tính theo mô hình dựa vào công thức (1.26).
Để xác định Cf theo mô hình cho các thí nghiệm mới này, cần biết các
giá trị ku và ke trong công thức (1.26). Trong hai thí nghiệm sử dụng tìm dải
hằng số tốc độ hấp thu và dải hằng số tốc độ bài tiết, kết quả thu đƣợc thể
hiện sự thay đổi các giá trị hằng số này theo nồng độ kim loại hòa tan trong
nƣớc. Đặt giả thiết giữa các hằng số tốc độ và khoảng nồng độ nghiên cứu có
quan hệ bậc nhất, thiết lập quan hệ này và dựa vào đó tính hằng số tốc độ tại
các mức nồng độ trong thí nghiệm đối chứng. Sai số giữa giá trị Cf thực
nghiệm và giá trị tính theo mô hình là căn cứ chấp nhận các giả thiết đặt ra và
độ tin cậy của mô hình thu đƣợc.
CHƢƠNG 3
KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN
3.1 XÁC ĐỊNH MÔI TRƢỜNG TÍCH LŨY CHỦ YẾU
Để đánh giá tƣơng quan giữa nồng độ As, Cd, Cu trong mô mềm loài
nghêu Meretrix Lyrata và nồng độ As, Cd, Cu trong nƣớc, trong trầm tích.
Lựa chọn 8 vị trí lấy mẫu trong môi trƣờng tự nhiên, mục đích đặt ra là để thu
đƣợc dữ liệu trong các môi trƣờng có nồng độ kim loại hoà tan trong nƣớc
cũng nhƣ trong trầm tích khác nhau.
Bảng (3.1) trình bày kết quả khảo sát nồng độ Cd, As và Cu trong mô
nhuyễn thể, trong nƣớc, trầm tích tại 8 vị trí khác nhau.
Bảng 3.1 Nồng độ Cd, As, Cu trong mô, nước và trầm tích của khảo sát xác định môi trường tích lũy chủ yếu
TT
Cd Cu Cu
Nồng độ trong mô [g/g] As
1 2 3 4 5 6 7 8
Nồng độ trong Nồng độ trong nƣớc trầm tích [g/g] [g/ml] Cd Cu Cd As As 1,482 6,437 9,821 0,00219 0,02115 0,01275 1,901 11,67 14,18 1,269 6,331 11,12 0,00175 0,00356 0,01417 1,682 12,71 14,21 1,260 6,656 12,04 0,00125 0,02011 0,02086 2,203 11,98 12,94 2,199 7,307 17,56 0,00201 0,02717 0,03848 2,271 11,27 13,72 1,351 6,056 20,74 0,00192 0,00318 0,07777 2,027 12,04 17,04 1,148 7,535 19,03 0,00155 0,01033 0,06208 1,921 10,77 15,17 1,157 7,265 11,86 0,00108 0,02753 0,01965 2,181 13,77 14,54 2,004 6,983 37,24 0,00157 0,03840 0,09280 1,602 12,50 14,70 8,26 65,8
51,5
7,77
22,7
7,61
73,9
12,4
RSD(%) 26,9
Từ các kết quả trên, tính đƣợc hệ số tƣơng quan giữa nồng độ kim loại
trong mô và trong nƣớc đối với từng kim loại nhƣ sau Cd: 0,43; As: 0,51; Cu:
0,91. Giữa nồng độ kim loại trong mô và trong trầm tích Cd: -0,04; As: -0,18
và Cu: 0,34. Kết quả này cho thấy biểu hiện về hoạt tính tích lũy của các kim
loại nghiên cứu trong từng môi trƣờng đối với cả sò Crassostrea virginica [30]
và nghêu Meretrix lyrata là tƣơng đối giống nhau.
Phần trăm sai số tƣơng đối RSD giữa các kết quả nồng độ kim loại
trong trầm tích là Cd: 12,4%; As: 7,61%; Cu: 8,26%. Giữa các kết quả nồng
độ kim loại trong nƣớc là Cd: 22,7%; As: 65,8%; Cu: 73,9%. Nhƣ vậy có thể
thấy nồng độ kim loại trong trầm tích ổn định hơn, trong nƣớc dao động mạnh.
Giá trị RSD nồng độ kim loại trong mô là Cd: 26,9%; As: 7,77% và Cu:
51,5%. Ngoại trừ As, hai kim loại còn lại có nồng độ dao động tƣơng đối lớn.
So sánh các giá trị RSD có thể thấy sự dao động nồng độ trong mô nghêu chủ
yếu là do sự dao động nồng độ trong nƣớc, nói cách khác nƣớc có thể xem là
môi trƣờng tích luỹ chủ yếu kim loại nặng vào nghêu.
Kết hợp những thông tin đánh giá, phân tích trên đi đến kết luận nƣớc
là môi trƣờng chủ yếu nghêu tích luỹ kim loại nặng. Đây là thông tin quan
trọng cho phép triển khai các nghiên cứu về quy luật tích luỹ As, Cd, Cu của
nghêu trong phòng thí nghiệm, khi môi trƣờng trầm tích nuôi đƣợc xem nhƣ
không phải là con đƣờng hấp thu, tích luỹ chủ yếu.
3.2 ĐÁNH GIÁ TƢƠNG QUAN CÁC GIÁ TRỊ KHỐI LƢỢNG
Bảng (3.2) là các kết quả xác định giá trị 3 thông số khối lƣợng của 10
cá thể nghêu khác nhau đƣợc lấy tại cùng một khu vực trong môi trƣờng sống
tự nhiên.
Bảng 3.2 Khối lượng cả vỏ, khối lượng mô tươi, khối lượng mô khô của 10 cá thể nghêu chọn ngẫu nhiên trong môi trường tự nhiên
STT Khối lƣợng cả vỏ [g]
Khối lƣợng mô khô [g]
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
1,3549 4,1263 5,4662 7,7721 10,4345 11,9875 12,9007 16,3636 18,7488 22,4348
Khối lƣợng mô tƣơi [g] 0,1894 0,3208 0,8962 1,0655 1,8867 2,1962 2,2351 2,8867 3,7693 4,2543
0,0291 0,0398 0,1604 0,2031 0,3634 0,3893 0,4437 0,5739 0,6383 0,8064
Sử dụng phƣơng pháp bình phƣơng tối thiểu tìm đƣợc phƣơng trình bậc
nhất biểu diễn quan hệ giữa y là khối lƣợng cả vỏ và x là phần khối lƣợng mô
tƣơi nhƣ sau:
y = 4,8089.x + 1,6849 (3.1)
Phƣơng trình này có hệ số tƣơng quan r1 = 0,99283
Tƣơng tự nhƣ vậy tìm đƣợc phƣơng trình biểu diễn giữa y là khối lƣợng
cả vỏ và x1 là phần khối lƣợng mô khô:
(3.2) y = 25,699.x1 + 1,7846
Hệ số tƣơng quan của mối quan hệ này là r2 = 0,99398
Và cuối cùng là phƣơng trình bậc nhất biểu diễn quan hệ giữa x là khối
lƣợng mô tƣơi và x1 là khối lƣợng mô khô:
(3.3) x = 5,3054.x1 + 0,0348
Hệ số tƣơng quan của phƣơng trình là r3 = 0,99392
Kết quả trên cho thấy mặc dù là các cá thể sống có thể có đặc điểm sinh
học và hoạt động sống không thực sự giống nhau hoàn toàn nhƣng loài nghêu
Meretrix Lyrata vẫn có một tƣơng quan tuyến tính cao giữa các thông số khối
lƣợng cả con, khối lƣợng phần mô tƣơi và khối lƣợng phần mô khô. Nhƣ vậy
việc lựa chọn các cá thể nghêu có khối lƣợng cả vỏ xung quanh giá trị 6,924 g
và 14,63 g để đạt đƣợc các mức khối lƣợng khô tƣơng ứng 0,2 g và 0,5 g
trong triển khai thực nghiệm xây dựng mô hình thống kê là hoàn toàn khả thi.
3.3 MÔ HÌNH HỆ SỐ TÍCH LUỸ BAF
Để việc biểu diễn quan hệ giữa BAF theo khối lƣợng mô nghêu khô W
bằng hàm sinh trƣởng không đồng đều đạt độ chính xác cao nhất, ít chịu tác
động bởi các yếu tố môi trƣờng nhất. Các mẫu nghêu đƣợc lấy tại cùng một vị
trí trong môi trƣờng tự nhiên, cùng một thời điểm. Chọn ra 10 nhóm nghêu có
kích thƣớc khác nhau, mỗi nhóm phân tích 7 mẫu lấy kết quả trung bình nồng
độ kim loại trong mô. Đồng thời khối lƣợng mô tƣơi, khối lƣợng mô khô
tƣơng ứng với giá trị nồng độ kim loại trong mô này cũng là trung bình cộng
khối lƣợng mô tƣơi, khối lƣợng mô khô của 7 mẫu nghiên cứu đó.
Tất cả các mẫu nghêu đều đƣợc lấy tại vị trí số 1 (trong số các vị trí
nghiên cứu của mục 3.1) với nồng độ Cd trong nƣớc là 2,193 g/l, nồng độ As
là 21,15 g/l và nồng độ Cu là 12,75 g/l. Từ đây tìm đƣợc giá trị hệ số tích
luỹ BAF cho từng nhóm nghêu. Từ các công thức = y ; tìm
đƣợc các giá trị yi và xi. Bảng (3.3) trình bày các kết quả nghiên cứu cho 10
nhóm mẫu nghêu sống trong tự nhiên đối với cả 3 kim loại Cd, As, Cu.
Bảng 3.3 Các kết quả xác định BAF thực nghiệm từ 10 mẫu nghêu sống trong môi trường tự nhiên
BAF
BAF
TT
Nồng độ trong mô [g/g]
BAF Nồng độ trong mô [g/g]
Nồng độ trong mô [g/g]
Cd Khối lƣợng mô khô trung bình [g]
As Khối lƣợng mô khô trung bình [g]
Cu Khối lƣợng mô khô trung bình [g]
9,821 9,851
1 2 3 4 5 6 7 8 9 10
0,6383 770,274 1,131 0,4707 515,732 5,552 0,8064 262,506 1,285 0,5739 585,955 5,861 0,3654 277,116 0,3893 772,627 1,483 0,6383 676,242 6,437 0,6383 304,350 10,185 0,3654 798,823 1,531 0,3893 689,130 6,565 0,3470 310,402 10,937 0,8064 857,804 1,599 0,2646 729,138 6,656 0,2646 314,704 11,124 0,4707 872,470 1,688 0,3654 769,722 6,983 0,4707 330,165 11,405 0,5739 894,510 1,748 0,8064 797,082 7,265 0,5739 343,450 12,458 0,3470 977,098 1,791 0,1604 816,689 7,836 0,3893 370,496 13,420 0,1604 1052,55 1,883 0,3470 858,641 8,560 0,4437 404,728 17,188 0,4437 1348,08 1,901 0,4437 866,849 9,307 0,1604 443,026 20,736 0,2646 1626,35
Mô hình hệ số tích luỹ BAFCd , BAFAs và BAFCu đối với nghêu Meretrix
lyrata xây dựng đƣợc có dạng :
(3.4)
(3.5)
(3.6) BAFCd = 651,628.(W)-0,115 BAFAs = 276,058.(W)-0,205 BAFCu = 775,315.(W)-0,247
Tiến hành tính toán các giá trị BAF từ mô hình thu đƣợc, tính toán sai
số giữa giá trị theo mô hình so với giá trị thực nghiệm. Các kết quả đƣợc trình
bày trong bảng (3.4).
Bảng 3.4 Sai số giữa giá trị BAF tính theo mô hình so với giá trị BAF thực nghiệm đối với 3 kim loại nghiên cứu
Khối lƣợng mô (g)
BAF thực nghiệm
Cd BAF mô hình
BAF thực nghiệm
As BAF mô hình
BAF thực nghiệm
Cu BAF mô hình
Sai số (%)
Sai số (%)
Sai số (%)
0,1604 816,689 804,379 1,51 443,026 401,729 9,32 1052,55 1218,41 15,76 0,2646 729,138 759,345 4,14 314,704 362,551 15,20 1626,35 1076,71 33,80 0,3470 858,641 736,017 14,28 310,402 342,951 10,49 977,098 1006,97 3,06 0,3654 769,722 731,653 4,94 277,116 339,338 22,45 798,823 994,201 24,45 0,3893 689,130 726,336 5,40 370,496 334,959 9,59 772,627 978,764 26,68 0,4437 866,849 715,484 17,46 404,728 326,097 19,43 1348,08 947,648 29,70 0,4707 515,732 710,635 37,79 330,165 321,613 2,59 872,470 933,921 7,04 0,5739 585,955 694,604 18,54 343,450 309,342 9,93 894,510 889,294 0,58 0,6383 676,242 686,154 1,46 304,350 302,670 0,55 770,274 866,238 12,46 0,8064 797,082 667,937 16,20 262,506 288,508 9,90 857,804 817,636 4,68
Kết quả trong bảng (3.3) cho thấy: khi sắp xếp nồng độ kim loại trong
mô theo thứ tự tăng dần (theo đó là các giá trị BAF tăng dần), khối lƣợng mô
không tuân theo quy luật nhƣ vậy. Cũng nhƣ vậy, trong bảng (3.4) khi sắp xếp
theo thứ tự khối lƣợng mô tăng dần, hệ số BAF thực nghiệm thay đổi không
theo quy luật này, trong khi đó các giá trị BAF tính theo mô hình giảm dần do
hệ số b trong mô hình âm. Nhìn chung ở cả 3 kim loại nghiên cứu phần lớn số
liệu thể hiện khi khối lƣợng mô tăng hệ số BAF giảm, ví dụ với kim loại Cd
tại khối lƣợng mô khô 0,1604g; 0,3654g; 0,6383g hệ số BAF tƣơng ứng là
816,689; 769,722; 676,242; cũng tại những khối lƣợng mô khô này hệ số
BAF đối với nguyên tố Cu là 1052,55; 798,823; 770,274.
So sánh các hệ số a trong 3 mô hình cho thấy nghêu tích lũy Cu mạnh
nhất, tiếp đến là Cd và cuối cùng là As. Trong khi đó sự khác biệt các hệ số b
thể hiện mức độ ảnh hƣởng của khối lƣợng mô lên giá trị hệ số tích lũy theo
trật tự lớn nhất ở Cu, tiếp đến As và cuối cùng là Cd. Nghêu tích lũy mạnh Cu
phù hợp với kết luận của một số nghiên cứu trên thế giới về khả năng tích lũy
nồng độ cao Zn, Cu của động vật nhuyễn thể.
Sai số giữa giá trị thực nghiệm và giá trị tính theo mô hình đối với cả
ba kim loại giữa các mẫu tƣơng đối dao động. Khi sắp xếp theo trật tự khối
lƣợng mô tăng dần, các giá trị sai số không theo quy luật nào, nguyên nhân
đƣợc cho là do mô hình biểu diễn chỉ chứa một thông số là khối lƣợng mô
khô, mô hình đơn giản nên độ chính xác không cao. Sai số giữa giá trị thực
nghiệm và giá trị tính theo mô hình khi khối lƣợng mô thay đổi có khoảng
dao động rộng đối với cả 3 kim loại cho thấy hàm sinh trƣởng không đồng
đều hoặc không phù hợp để xây dựng mô hình BAF, hoặc chấp nhận mô hình
với sai số lớn, hoặc không phù hợp khi xây dựng mô hình bằng các số liệu thu
thập ngoài hiện trƣờng thực tế.
3.4 MÔ HÌNH THỐNG KÊ
Bảng (3.5) trình bày các kết quả thực nghiệm sử dụng để xây dựng
mô hình thống kê cho cả 3 kim loại theo đúng trật tự thí nghiệm từ 1 đến 8 nhƣ
trong ma trận kế hoạch thực nghiệm xây dựng ở bảng (2.6); các kết quả thí
nghiệm tại tâm kế hoạch ; sai số thí nghiệm ; độ lệch chuẩn các hệ số hồi
quy ; giá trị sử dụng đánh giá tính có nghĩa của hệ số b tại mức có
; giá trị nghĩa p = 0,05 và bậc tự do f2 = 2; các hệ số hồi quy; sai số dƣ
chuẩn Fisher ; giá trị chuẩn Fisher tra bảng dùng để đánh giá
tính tƣơng hợp của mô hình tại p = 0,05; f2 = 2 và bậc tự do dƣ f1 = N-L tùy
theo từng mô hình.
Giá trị bằng giá trị tổng nồng độ trong mô nghêu trừ đi phần tích luỹ
ban đầu. Nồng độ Cd, As, Cu trung bình trong các cá thể nghêu vào thời điểm
bắt đầu đƣa vào nuôi tƣơng ứng là 1,633 g/g, 7,831 g/g, 12,504 g/g với
khối lƣợng mô khô 0,2g; và 1,731 g/g, 6,995 g/g, 10,588 g/g với khối
lƣợng mô khô 0,5 g. Với cá thể nuôi ở thí nghiệm tâm kế hoạch có khối lƣợng
mô khô trung bình 0,35 g, nồng độ Cd, As, Cu ban đầu trong mô tƣơng ứng là
1,580 g/g, 7,198 g/g, 11,883 g/g.
Bảng 3.5 Kết quả thí nghiệm thu được từ ma trận thực nghiệm, giá trị các hệ số hồi quy và thông số thống kê đánh giá mô hình
Kết quả 8 thí nghiệm trong ma trận kế hoạch thực nghiệm,
[g/g]
4
7
8
5
Thí nghiệm Cd
1 1,203
2 0,931
3 1,440
6 1,071 12,527 11,669 13,704 12,268
ố t
n ê y u g N
As Cu
0,591 6,092
0,523 5,933
1,191 9,561
0,975 7,492
8,631 34,20
8,042 10,213 42,65 30,66
8,944 34,58
Kết quả 3 thí nghiệm lặp tại tâm kế hoạch
[g/g], sai số thí nghiệm
và
Nguyên tố
Cd 6,817
As 4,647
Cu 14,12
6,680
4,509
13,93
6,869
4,405
14,56
0,009531
0,0147373
0,104433
0,0345
0,0429
0,1142
0,1483
0,1845
0,4911
Các hệ số b trong mô hình thực nghiệm
Hệ số
ố t
n ê y u g N
Cd As Cu
b0 6,852 4,889 21,396
b1 -0,367 -0,268 -1,730
b13 -0,207 -0,197 -1,172
b12 -0,084 -0,103 -0,805
b23 0,175 0,179 0,918
b123 -0,060 -0,066 -0,327
b3 b2 5,690 0,269 0,442 4,069 2,175 14,126 Các thông số sử dụng đánh giá tính tƣơng hợp của mô hình
Nguyên tố
Cu 0,86463
Cd 0,04877
As 0,12580
8,27
5,12
8,54
18,5
19,2
19,2
Đối chiếu tiêu chuẩn đánh giá tính có nghĩa của hệ số hồi quy theo
công thức (2.5), mô hình hồi quy bậc nhất đối với Cd chứa các hệ số b0, b1, b2,
b3, b13, b23 ; mô hình hồi quy bậc nhất cho As chứa các hệ số b0, b1, b2, b3, b13 ;
và mô hình của Cu chứa các hệ số b0, b1, b2, b3, b12, b13, b23. Các mô hình thu
đƣợc nhƣ sau :
Cho Cd: (3.7)
(3.8)
Cho As: Cho Cu:
(3.9)
Từ các kết quả tính toán thông số thống kê trong bảng (3.5) và đối chiếu
tiêu chuẩn đánh giá tính tƣơng hợp với bức tranh thực nghiệm của mô hình thể
hiện qua công thức (2.9) cho thấy cả 3 mô hình đều tƣơng hợp.
Sử dụng công thức (2.3) chuyển từ biến mã x sang biến thực Z, các mô
hình hồi quy viết theo biến thực có dạng:
Cho Cd:
Cho As:
Cho Cu:
Vào ngày nuôi thứ 10 và thứ 20 của thí nghiệm thứ 3 (Z1 = 0,2g; Z3 = 4
g/l Cd, 25 g/l As, 20 g/l Cu) trong ma trận kế hoạch thực nghiệm, một số
cá thể nghêu đƣợc phân tích nồng độ kim loại để so sánh giữa giá trị thực
nghiệm và giá trị tìm đƣợc từ mô hình. Kết quả trung bình nồng độ Cd sau 10
và 20 ngày nuôi tƣơng ứng là 2,867 g/g và 3,020 g/g, kim loại As là 8,631
g/g và 8,714 g/g và của Cu là 19,685 g/g và 20,555 g/g. Sau khi trừ đi
phần nồng độ ban đầu của từng kim loại ứng với khối lƣợng mô 0,2 g, nồng độ
Cd gia tăng trong mô sau 10 và 20 ngày nuôi tƣơng ứng là 1,234 g/g và 1,387
g/g, đối với As là 0,8 g/g và 0,883 g/g, với Cu là 7,181 g/g và 8,051 g/g.
Giá trị nồng độ Cd gia tăng trong mô nghêu tính theo mô hình sau 10
và 20 ngày nuôi tƣơng ứng là 1,268 g/g và 1,344 g/g, đối với As là 0,665
g/g và 1,035 g/g, với Cu là 6,759 g/g và 8,455 g/g. Sai số giữa kết quả
tính theo mô hình so với kết quả thực nghiệm sau 10 và 20 ngày nuôi ở thí
nghiệm thứ 3 trong ma trận kế hoạch thực nghiệm đối với Cd tƣơng ứng là
2,75% và 3,10%, với As là 16,87% và 17,21%, với Cu là 5,87% và 5,02%.
Các giá trị sai số này tƣơng đƣơng với mức sai số của cùng thí nghiệm thứ 3
trong ma trận thực nghiệm (bảng 3.6). Kết quả này góp phần khẳng định độ tin
cậy của các mô hình.
Ba mô hình thống kê thu đƣợc đều đƣa đến một số kết luận chung nhƣ
sau:
- Nồng độ Cd, As, Cu tích luỹ gia tăng trong mô nghêu tỷ lệ nghịch với
khối lƣợng mô khô ban đầu.
- Nồng độ Cd, As, Cu tích luỹ gia tăng trong mô nghêu tỷ lệ thuận với
thời gian sinh trƣởng và nồng độ kim loại hoà tan trong nƣớc. Thời gian sinh
trƣởng có mức độ ảnh hƣởng mạnh nhất đối với Cu, tiếp theo là As và cuối
cùng là Cd. Trong khi đó trật tự ảnh hƣởng của yếu tố nồng độ từ mạnh đến
yếu hơn là Cu > Cd > As. Các nhận xét này đƣợc rút ra từ các giá trị hệ số
tuyến tính trong phƣơng trình hồi quy.
- Tƣơng tác qua lại giữa khối lƣợng mô và nồng độ kim loại hoà tan
đều có ảnh hƣởng làm giảm nồng độ kim loại tích luỹ đƣợc đối với cả Cd, As
và Cu. Ngoài ra còn có tƣơng tác giữa thời gian sinh trƣởng và nồng độ kim
loại hoà tan ảnh hƣởng làm tăng nồng độ Cd, Cu tích luỹ trong mô nghêu.
Riêng với Cu còn có thêm tƣơng tác giữa khối lƣợng mô và thời gian sinh
trƣởng làm giảm nồng độ tích luỹ đƣợc trong mô.
3.5 SO SÁNH MÔ HÌNH BAF VÀ MÔ HÌNH THỐNG KÊ
Các mẫu nghêu đƣợc phân tích nồng độ kim loại trong quá trình xây
dựng mô hình thống kê đều có xác định khối lƣợng mô khô, nhƣ vậy có thể
tính đƣợc hệ số tích luỹ qua mô hình BAF đã xây dựng, từ đó tìm đƣợc giá trị
nồng độ kim loại trong mô theo mô hình này.
Kết hợp các công thức (1.1) và (1.28) rút ra nồng độ kim loại tích lũy
trong mô theo mô hình BAF nhƣ sau:
(3.10)
Đây là giá trị tổng nồng độ tích lũy đƣợc, trừ đi phần nồng độ đã có
trong mô vào thời điểm đầu khi bắt đầu đƣa nghêu vào nuôi thu đƣợc giá trị
nồng độ tích lũy sau khoảng thời gian nuôi trong ma trận thực nghiệm xây
dựng mô hình thống kê.
Nếu lấy giá trị thực nghiệm trong ma trận thực nghiệm xây dựng mô
hình thống kê làm giá trị thực, kết quả tính đƣợc thông qua hai mô hình BAF
và mô hình thống kê đều có sai số so với giá trị thực. Đây đƣợc xem là thông
tin so sánh độ chính xác của hai mô hình.
Bảng (3.6) so sánh độ chính xác của hai mô hình khi so giá trị nồng độ
kim loại tìm đƣợc từ mô hình với giá trị thực nghiệm.
Bảng 3.6 So sánh sai số giữa mô hình BAF và mô hình thống kê dựa theo giá trị thực nghiệm trong kế hoạch thực nghiệm xây dựng mô hình thống kê
1
2
3
4
5
6
7
8
Thí nghiệm trong kế hoạch
0,237 0,566 0,431
0,726
0,221
0,517
0,428
0,707
Khối lƣợng mô khô [g]
Nồng độ thực nghiệm [g/g]
1,071 0,975 7,492
12,527 11,669 13,704 12,268 8,944 8,631 34,58 34,20
10,21 42,65
8,042 30,66
0,973 0,374 6,224
13,870 12,329 12,735 11,832 7,825 10,97 31,67 43,78
8,595 35,30
8,807 34,71
Cd 1,203 0,931 1,440 As 0,591 0,523 1,191 Cu 6,092 5,933 9,561 Cd 1,443 1,052 1,238 As 1,440 0,760 0,370 Cu 9,264 7,289 6,585
Nồng độ tính theo mô hình BAF [g/g]
1,096 1,191 7,164
12,672 11,524 13,560 12,412 8,935 8,981 34,91 34,53
9,865 42,32
8,051 30,33
Cd 1,228 0,908 1,416 As 0,449 0,307 1,333 Cu 5,766 6,260 9,890
Nồng độ tính theo mô hình thống kê [g/g]
Cd Theo BAF
Theo thống kê 2,08
As Theo BAF
Cu Theo BAF
Sai số giữa kết quả tính theo mô hình và kết quả thực nghiệm (%) 7,07 1,05 15,82 3,38 17,23 0,77
19,95 13,00 14,03 1,67 2,47 143,6 45,31 68,93 Theo thống kê 24,03 41,30 11,92 57,97 22,85 31,13 3,44 5,51
9,15 2,33 61,64 22,15 16,92 4,38
5,65 1,24 9,51 0,11 13,21 1,08
10,72 1,16 27,10 4,05 28,01 0,96
Theo thống kê 5,35
3,55 1,17 12,51 0,10 8,41 0,95
Khi so sánh độ chính xác ngay trong các mô hình thống kê đều rút ra
một kết luận là ở dải nồng độ kim loại hòa tan thấp (thí nghiệm 1, 2, 3, 4
trong kế hoạch) mô hình có sai số lớn hơn so với ở dải nồng độ kim loại hòa
tan cao (thí nghiệm 5, 6, 7, 8 trong kế hoạch). Đặc biệt là kim loại As, chênh
lệch sai số ở hai mức nồng độ thấp và cao là rất lớn, mô hình mắc sai số lớn ở
nồng độ As hòa tan trong nƣớc thấp, sự chênh lệch này bé hơn ở kim loại Cu
và đồng đều hơn cả là ở kim loại Cd.
Khi so sánh sai số giữa các cặp thí nghiệm có cùng mức khối lƣợng khối
lƣợng mô Z1 và mức nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc Z3, chỉ khác nhau thời
gian nuôi Z2 (bốn cặp thí nghiệm 1 và 3; 2 và 4; 5 và 7; 6 và 8) hoặc so sánh sai
số giữa các cặp thí nghiệm có cùng mức khối lƣợng mô, cùng mức thời gian
nuôi nhƣng khác nhau về nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc (bốn cặp thí
nghiệm 1 và 5; 2 và 6; 3 và 7; 4 và 8) cho thấy: sai số mô hình thống kê ứng với
môi trƣờng có nồng độ kim loại hòa tan cao hơn hoặc ứng với thời gian sinh
trƣởng kéo dài hơn đều nhỏ hơn so với sai số ứng với môi trƣờng có nồng độ
kim loại hòa tan thấp hơn hoặc thời gian sinh trƣởng ngắn hơn. Ví dụ với nguyên
tố Cd, cặp thí nghiệm 1 và 3 có cùng yếu tố Z1 = 0,2 g; Z3 = 4 g/l, sai số mô
hình thống kê ứng với thời gian sinh trƣởng 28 ngày là 1,67% nhỏ hơn sai số mô
hình ứng với thời gian sinh trƣởng 4 ngày là 2,08%. Cặp thí nghiệm 2 và 7 có
cùng yếu tố Z1 = 0,2 g; Z2 = 28 ngày, sai số mô hình thống kê ứng với môi
trƣờng có nồng độ kim loại hòa tan 20 g/l là 1,05% nhỏ hơn sai số mô hình ứng
với môi trƣờng có nồng độ kim loại hòa tan 4 g/l là 2,33%.
Mô hình BAF cũng thể hiện quy luật sai số tƣơng tự nhƣ mô hình thống
kê, kết quả tính theo mô hình tƣơng ứng với nồng độ kim loại hòa tan trong
nƣớc thấp (4 thí nghiệm đầu trong ma trận thực nghiệm) có sai số cao hơn so
với sai số của kết quả tính theo mô hình tƣơng ứng với nồng độ kim loại hòa
tan trong nƣớc cao (4 thí nghiệm sau trong ma trận thực nghiệm). So sánh sai
số mô hình BAF theo các cặp thí nghiệm trong ma trận thực nghiệm xây dựng
mô hình thống kê có kết luận tƣơng tự nhƣ đối với mô hình thống kê. Từ kết
quả so sánh trong bảng (3.6) cho thấy mô hình thống kê có độ chính xác cao
hơn mô hình BAF ở cả ba kim loại. Nguyên nhân đƣợc lý giải nhƣ sau:
Hàm hồi quy bậc một là nồng độ kim loại nặng tích lũy gia tăng và
đƣợc xây dựng bằng các số liệu thực nghiệm cũng là nồng độ tích lũy gia tăng,
đƣợc đánh giá tƣơng hợp bức tranh thực nghiệm bằng chuẩn thống kê cho nên
có độ chính xác cao. Hàm hồi quy thể hiện đƣợc sự tác động từ nhiều yếu tố
và tƣơng tác giữa các yếu tố (khối lƣợng mô ban đầu, thời gian sinh trƣởng,
nồng độ kim loại hòa tan) cho nên phản ánh đúng hơn quy luật tích lũy trong
điều kiện quy hoạch. Trong khi đó, nồng độ trong mô tính đƣợc bằng mô hình
BAF là tổng nồng độ tích lũy có sẵn trong cá thể vào thời điểm bắt đầu nuôi
và nồng độ tích lũy gia tăng, phần nồng độ tích lũy có sẵn ban đầu trong
nghêu là từ môi trƣờng sống tự nhiên với nhiều yếu tố tác động khác nhau, có
thể có quy luật tích lũy khác với phần tích lũy gia tăng trong phòng thí
nghiệm chỉ chịu tác động từ 3 yếu tố quy hoạch đã nêu. Đồng thời tổng nồng
độ tính đƣợc bằng mô hình BAF chỉ dựa trên duy nhất thông số khối lƣợng
mô, trong khi phần nồng độ tích lũy gia tăng thể hiện phụ thuộc đồng thời vào
cả 3 yếu tố quy hoạch. Vì vậy nồng độ tích lũy gia tăng tính bằng mô hình
BAF sẽ không phản ánh đúng quy luật nhƣ mô hình thống kê và mắc sai số
lớn. Thực tế kết quả cho thấy ở cả 3 kim loại nghiên cứu, sai số mô hình BAF
đều lớn hơn sai số mô hình thống kê trong tất cả các thí nghiệm (bảng 3.6)
Mô hình thống kê xây dựng từ số liệu nuôi nghêu trong phòng thí
nghiệm với nhiều yếu tố tác động đã đƣợc khống chế. Trong khi đó mô hình
BAF đã xây dựng đƣợc dựa trên việc xử lý các số liệu đầu vào thu thập từ
môi trƣờng thực tế, nồng độ kim loại tích lũy trong mô phụ thuộc vào rất
nhiều các yếu tố nhƣ:
- Sự thay đổi tốc độ trộn, nồng độ oxy hòa tan, tốc độ cấp dinh dƣỡng
trong quá trình tích lũy. Các yếu tố này trong thực nghiệm xây dựng mô hình
thống kê đƣợc ổn định.
- Ngay bản thân nồng độ kim loại Cd trong công thức (3.10) cũng có thể
thay đổi trong quá trình phơi nhiễm. Nếu cho rằng giá trị Cd tại các vị trí lấy
mẫu xác định số liệu xây dựng mô hình BAF ổn định theo thời gian, thì trong
mức nồng độ kim loại đo đƣợc trong nƣớc tại môi trƣờng thực tế (Cd 2,193
g/l, As 21,15 g/l, Cu 12,75 g/l), kim loại có thể tồn tại dƣới dạng ion hòa
tan, ion liên kết trong phân tử hữu cơ, ion liên kết với các hạt rắn lơ lửng,….,
mỗi dạng tồn tại có hoạt tính tích lũy khác nhau, bản thân các dạng cũng có
thể thay đổi nồng độ theo thời gian. Các yếu tố này đều tác động đến nồng độ
tổng số tích lũy đƣợc trong mô. Trong khi đó nồng độ kim loại hòa tan ở các
thí nghiệm nuôi nghêu trong phòng thí nghiệm sử dụng xây dựng mô hình
thống kê đƣợc ổn định theo thời gian, dạng tồn tại chủ yếu là dạng ion hòa tan
từ chất chuẩn pha thêm vào (phần nồng độ kim loại tự nhiên đều thấp hơn
nhiều so với nồng độ tổng cộng trong nƣớc nuôi, cụ thể nồng độ tự nhiên của
các kim loại là Cd 0,095 g/l; As 0,148 g/l và Cu 3,092 g/l), theo đó hoạt
tính tích lũy trong các thí nghiệm nuôi nghêu cũng đƣợc ổn định trong quá
trình phơi nhiễm.
- Trong điều kiện tự nhiên có thể có nhiều con đƣờng tích lũy khác
nhau cùng xảy ra. Với thực nghiệm nuôi trong phòng thí nghiệm chỉ có một
con đƣờng tích lũy duy nhất là từ kim loại hòa tan trong nƣớc qua mang.
Tất cả các nguyên nhân trên cho thấy việc biểu diễn nồng độ tích lũy
trong mô nghêu chỉ phụ thuộc vào khối lƣợng mô (mô hình BAF) từ số liệu
thực tế sẽ kém chính xác. Đồng thời nếu lấy yếu tố đầu ra của mô hình thống
kê làm mốc so sánh hai mô hình, kết quả từ mô hình BAF sẽ mắc sai số lớn.
3.6 MÔ HÌNH VI PHÂN
Với nguồn nƣớc nuôi trong giai đoạn tích luỹ (20 ngày đầu), kết quả xác
định nồng độ các kim loại trong nƣớc biển xa bờ chƣa qua pha loãng là Cd
0,137 g/l, As 0,214 g/l, Cu 4,142 g/l. Nguồn nƣớc này có nồng độ muối 330/00. Kết quả xác định lại nồng độ ba kim loại này sau khi pha loãng đến nồng độ muối phù hợp 250/00 là Cd 0,095 g/l, As 0,148 g/l, Cu 3,092 g/l.
Bảng 3.7: Biến thiên nồng độ Cd, As, Cu trong mô nghêu của các thực nghiệm xây dựng mô hình vi phân
Nồng độ Cd trong nƣớc Nồng độ As trong nƣớc Nồng độ Cu trong nƣớc
Ngày nuôi
4 g/l
20 g/l
25 g/l
50 g/l
20 g/l
50 g/l
Thực nghiệm giai đoạn tích luỹ 20 ngày đầu, Cf [g/g]
4 8 12 16 20
8,251 8,411 8,580 8,702 8,848
18,223 18,905 19,575 20,282 20,917
14,259 14,409 14,572 14,725 14,868
16,762 16,942 17,065 17,241 17,392
46,882 48,157 49,462 50,693 51,966
22 24 26 28 30
2,862 2,897 2,928 2,956 2,985 Thực nghiệm giai đoạn bài tiết 10 ngày tiếp theo, Cf [g/g] 2,981 2,976 2,973 2,967 2,964
14,842 14,821 14,794 14,765 14,741
17,337 17,287 17,226 17,161 17,113
20,827 20,742 20,664 20,569 20,497
8,833 8,815 8,797 8,785 8,777
51,581 51,167 50,843 50,408 49,882
Bảng (3.7) trên tổng kết các kết quả nghiên cứu trong cả hai giai đoạn
hấp thu, tích luỹ và giai đoạn bài tiết kim loại đối với cả 2 thí nghiệm có nồng
độ các kim loại trong nƣớc ở mức thấp và mức cao khác nhau.
3.6.1 Mô hình bài tiết
Hình (3.1) là đồ thị biểu diễn sự biến đổi nồng độ Cd, As, Cu trong mô
nghêu theo thời gian trong cả hai giai đoạn tích lũy và bài tiết với mỗi thí nghiệm
có nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc cao thấp khác nhau.
(a) (b)
(c) (d)
(e) (f)
Hình 3.1: Đồ thị biểu diễn sự biến đổi nồng độ kim loại trong mô cả hai giai đoạn tích lũy và bài tiết với môi trường nước nuôi có nồng độ khác nhau: (a) Cd 4g/l, (b) Cd 20g/l, (c) As 25g/l, (d) As 50g/l, (e) Cu 20g/l, (f) Cu 50g/l
Để tìm các giá trị hằng số bài tiết ke, tính toán các giá trị
theo trong phƣơng trình (2.13). Đối với Cd, nồng độ ứng với giai đoạn
nuôi tích lũy có nồng độ Cd hòa tan trong nƣớc 4 g/l và 20 g/l tƣơng ứng là
2,985 g/g và 14,868 g/g, với As ứng với giai đoạn nuôi tích lũy có nồng độ
hòa tan trong nƣớc 25 g/l và 50g/l tƣơng ứng là 8,848 g/g và 17,392 g/g,
với Cu ứng với giai đoạn nuôi tích lũy có nồng độ hòa tan trong nƣớc 20 g/l
và 50 g/l tƣơng ứng là 20,971 g/g và 51,956 g/g. Bảng (3.8) tổng kết các
giá trị ke tại cả hai mức nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc ở giai đoạn nuôi
tích lũy khác nhau.
Bảng 3.8: Kết quả tính toán giá trị hằng số tốc độ bài tiết
t (ngày)
10 7,06.10-3
2 1,34.10- 3
Cd = 4 g/l = 2,985 g/g
ke (1/ngày) 0,67.10-
0,71.10-3
8,58.10-3
3 1,75.10- 3
Cd = 20 g/l = 14,868 g/g
ke (1/ngày) 0,87.10-
0,86.10-3
8,06.10-3
Cd = 25 g/l
3 1,70.10- 3
= 8,848 g/g
C d
ke (1/ngày) 0,85.10-
0,81.10-3
16,2.10-3
3 3,17.10- 3
Cd = 50 g/l = 17,392 g/g
ke (1/ngày) 1,58.10-
1,62.10-3
20,3.10-3
3 4,31.10- 3
Cd = 20 g/l = 20,917 g/g
ke (1/ngày) 2,15.10-
2,03.10-3
As
40,9.10-3
3 7,44.10- 3
Cd = 50 g/l = 51,956 g/g
ke (1/ngày) 3,72.10-
C u
4 3,02.10- 3 0,75.10- 3 3,17.10- 3 0,79.10- 3 3,74.10- 3 0,93.10- 3 6,06.10- 3 1,51.10- 3 8,40.10- 3 2,10.10- 3 15,5.10- 3 3,87.10-
6 4,03.10- 3 0,67.10- 3 4,94.10- 3 0,82.10- 3 5,78.10- 3 0,96.10- 3 9,59.10- 3 1,60.10- 3 12,2.10- 3 2,03.10- 3 21,8.10- 3 3,63.10-
8 6,05.10- 3 0,76.10- 3 6,95.10- 3 0,87.10- 3 7,15.10- 3 0,89.10- 3 13,4.10- 3 1,67.10- 3 16,8.10- 3 2,10.10- 3 30,4.10- 3 3,80.10-
4,09.10-3
3
3
3
3
ke.103
ke.103
ke.103
Hình 3.2: Đồ thị biểu diễn sự dao động hằng số tốc độ bài tiết theo thời gian nuôi tại mỗi mức nồng độ kim loại hòa tan trong nước khác nhau ở giai đoạn nuôi hấp thu.
3.6.2 Mô hình tích luỹ
Giai đoạn nuôi hấp thu, tích lũy có hai dãy thực nghiệm với nồng độ
kim loại hòa tan trong nƣớc cao thấp khác nhau. Giá trị nồng độ kim loại
trong mô vào ngày thứ 4 tính từ lúc bắt đầu nuôi đƣợc xem là nồng độ đầu .
Áp dụng công thức (2.16) để tính giá trị hằng số tốc độ hấp thu, trong công
thức này sử dụng các giá trị hằng số tốc độ bài tiết đã tìm đƣợc, nồng độ Cf là
hiệu số giữa nồng độ đo đƣợc vào các ngày thứ 8, 12, 16, 20 với nồng độ đo
vào ngày thứ 4. Bảng (3.9) tổng kết các giá trị hằng số tốc độ hấp thu cho cả 3
kim loại tại mỗi mức nồng độ hòa tan trong nƣớc khác nhau và ứng với giá trị
ke khác nhau.
t (ngày)
4 0,035
8 0,066
12 0,094
16 0,123
(g/g)
ke (1/ngày)
= 2,862 g/g)
ku (l/g/ngày) (Cd = 4 g/l;
Bảng 3.9: Kết quả tính toán giá trị hằng số tốc độ hấp thu
0,67.10-3 0,71.10-3 0,75.10-3 0,76.10-3
Cd
2,19.10-3 2,19.10-3 2,19.10-3 2,19.10-3 0,150
2,07.10-3 2,07.10-3 2,07.10-3 2,07.10-3 0,313
1,97.10-3 1,97.10-3 1,97.10-3 1,97.10-3 0,466
1,93.10-3 1,93.10-3 1,93.10-3 1,93.10-3 0,609
(g/g)
ke (1/ngày)
= 14,259 g/g)
ku (l/g/ngày) (Cd = 20 g/l;
1,88.10-3 1,88.10-3 1,88.10-3 1,88.10-3 0,160
1,96.10-3 1,96.10-3 1,96.10-3 1,96.10-3 0,329
1,95.10-3 1,95.10-3 1,95.10-3 1,95.10-3 0,451
1,91.10-3 1,91.10-3 1,92.10-3 1,92.10-3 0,597
0,79.10-3 0,82.10-3 0,86.10-3 0,87.10-3 (g/g)
ke (1/ngày)
= 8,251 g/g)
ku (l/g/ngày) (Cd = 25 g/l ;
0,81.10-3 0,85.10-3 0,89.10-3 0,93.10-3 0,96.10-3
1,60.10-3 1,60.10-3 1,60.10-3 1,60.10-3 1,60.10-3 0,180
1,65.10-3 1,65.10-3 1,65.10-3 1,65.10-3 1,65.10-3 0,303
1,51.10-3 1,51.10-3 1,51.10-3 1,51.10-3 1,51.10-3 0,479
1,50.10-3 1,50.10-3 1,50.10-3 1,50.10-3 1,50.10-3 0,630
(g/g)
ke (1/ngày)
= 16,762 g/g)
ku (l/g/ngày) (Cd = 50 g/l;
As As
1,51.10-3 1,58.10-3 1,60.10-3 1,62.10-3 1,67.10-3
9,03.10-4 9,03.10-4 9,03.10-4 9,03.10-4 9,03.10-4 0,682
7,62.10-4 7,62.10-4 7,62.10-4 7,62.10-4 7,62.10-4 1,352
8,05.10-4 8,06.10-4 8,06.10-4 8,06.10-4 8,06.10-4 2,059
7,97.10-4 7,97.10-4 7,98.10-4 7,98.10-4 7,98.10-4 2,694
(g/g)
ke (1/ngày)
= 18,223 g/g)
ku (l/g/ngày) (Cd = 20 g/l ;
2,03.10-3 2,10.10-3 2,15.10-3
8,56.10-3 8,56.10-3 8,56.10-3 1,275
8,52.10-3 8,52.10-3 8,52.10-3 2,580
8,68.10-3 8,69.10-3 8,69.10-3 3,811
8,56.10-3 8,56.10-3 8,56.10-3 5,084
(g/g)
Cu
ke (1/ngày)
= 46,882 g/g)
ku (l/g/ngày) (Cd = 50 g/l;
3,63.10-3 3,72.10-3 3,80.10-3 3,87.10-3 4,09.10-3
6,42.10-3 6,42.10-3 6,42.10-3 6,42.10-3 6,43.10-3
6,54.10-3 6,55.10-3 6,55.10-3 6,55.10-3 6,56.10-3
6,49.10-3 6,49.10-3 6,50.10-3 6,50.10-3 6,51.10-3
6,54.10-3 6,55.10-3 6,55.10-3 6,55.10-3 6,56.10-3
Trong xử lý số liệu, các giá trị ke sử dụng tính ku là các giá trị tƣơng ứng
nằm trong dãy thí nghiệm có cùng nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc ở giai
đoạn nuôi tích lũy (do đặt giả thiết tốc độ bài tiết ở giai đoạn tích lũy và giai
ku..103
ku..103
ku..103
đoạn thuần túy chỉ có quá trình bài tiết là nhƣ nhau).
Hình 3.3: Đồ thị biểu diễn sự dao động của hằng số tốc độ hấp thu theo thời gian nuôi tại mỗi mức nồng độ kim loại hòa tan trong nước khác nhau
3.6.3 Nhận xét chung về quy luật các hằng số tốc độ
So sánh các giá trị hằng số tốc độ bài tiết, hằng số tốc độ hấp thu của
nghêu đối với 3 kim loại nặng nghiên cứu đi đến một số nhận xét sau:
- Đối với cả 3 kim loại, hằng số tốc độ bài tiết tƣơng đối ổn định với cả
cá thể nuôi trong môi trƣờng có nồng độ kim loại hòa tan cao và cá thể nuôi
trong môi trƣờng có nồng độ kim loại hòa tan thấp. Trong đó hằng số tốc độ
bài tiết với cá thể có nồng độ đầu trong mô cao cao hơn so với cá thể có nồng
độ đầu trong mô thấp. Cụ thể dải hằng số tốc độ bài tiết đối với Cd trong dải
nồng độ hòa tan 4 20 g/l là 0,67.10-3 0,87.10-3 (1/ngày), đối với As trong
dải nồng độ hòa tan 25 50 g/l là 0,81.10-3 1,67.10-3 (1/ngày) và với Cu
trong dải nồng độ hòa tan 20 50 g/l là 2,03.10-3 4,09.10-3 (1/ngày). Mức
độ chênh lệch, dao động giữa các giá trị hằng số tốc độ bài tiết khi so sánh hiệu số giá trị nhỏ nhất và lớn nhất là cao nhất đối với Cu (2,06.10-3 1/ngày), tiếp đến là As (0,86.10-3 1/ngày) và thấp nhất là Cd (0,2.10-3 1/ngày).
- Ứng với nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc thấp, xu hƣớng thay đổi
hằng số tốc độ hấp thu ku theo thời gian là giảm nhanh đối với Cd, giảm chậm
với As và ổn định với Cu. Trong khi đó xu hƣớng thay đổi ku theo thời gian
ứng với mức nồng độ kim loại hòa tan cao là giảm chậm đối với Cd, ổn định
đối với cả As và Cu. Theo thời gian các hằng số tốc độ hấp thu ở cả hai mức
nồng độ Cd hòa tan trong nƣớc khác nhau đều có xu hƣớng giảm và cùng
tiệm cận đến giá trị ổn định
- Ngƣợc lại với quy luật hằng số tốc độ bài tiết, hằng số tốc độ hấp thu
ứng với nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc thấp cao hơn so với hằng số tốc
độ hấp thu ứng với nồng độ kim loại hòa tan trong nƣớc cao. Biên độ dao
động giữa giá trị hằng số tốc độ hấp thu cao nhất và thấp nhất tuân theo quy
luật giống với biên độ dao động hằng số tốc độ bài tiết, cao nhất ở kim loại Cu (2,27.10-3 l/g/ngày), tiếp đến là As (0,89.10-3 l/g/ngày) và cuối cùng là Cd (0,31.10-3 l/g/ngày).
- Trong 3 kim loại nghiên cứu, khả năng tích lũy vào nghêu Meretrix
Lyrata đƣợc thể hiện qua hằng số tốc độ hấp thu xắp xếp theo trật tự giảm dần,
bắt đầu mạnh nhất là kim loại Cu (trong dải 6,42.10-3 8,69.10-3 l/g/ngày ứng
với nồng độ Cu hòa tan nằm giữa 50 g/l và 20 g/l) , tiếp đến là Cd (trong
dải 1,88.10-3 2,19.10-3 l/g/ngày ứng với nồng độ Cd hòa tan nằm giữa 20
g/l và 4 g/l) và cuối cùng là As (trong dải 7,62.10-4 1,65.10-3 l/g/ngày ứng
với nồng độ As hòa tan nằm giữa 50 g/l và 25 g/l).
3.7 ĐÁNH GIÁ ĐỘ TIN CẬY CỦA MÔ HÌNH VI PHÂN
Từ kết quả tìm đƣợc dải hằng số tốc độ hấp thu và dải hằng số tốc độ
bài tiết cho từng kim loại trong khoảng nồng độ hòa tan nghiên cứu, xây dựng
đƣợc các quan hệ bậc nhất nhƣ sau:
- Đối với Cd trong khoảng 4 20 g/l:
(3.11) (3.12) ke = 0,0125.10-3.Cd + 6,2.10-4 ku = - 0,0194.10-3.Cd + 2,268.10-3
- Đối với As trong khoảng 25 50 g/l:
(3.13) (3.14) ke = 0,0344.10-3.Cd - 0,05.10-3 ku = - 0,0355.10-3.Cd + 2,537.10-3
- Đối với Cu trong khoảng 20 50 g/l:
(3.15) (3.16)
ke = 0,0686.10-3.Cd + 0,66.10-3 ku = - 0,0756.10-3.Cd + 10,2.10-3 Bảng (3.10) trình bày các kết quả thực nghiệm xác định đƣợc nồng độ
kim loại trong mô vào các thời điểm lấy mẫu trong hai thí nghiệm đối chứng.
Phƣơng pháp thu nhận dữ liệu tƣơng tự nhƣ hai dãy thí nghiệm sử dụng xây
dựng mô hình.
Bảng 3.10: Nồng độ kim loại trong mô nghêu ở các thí nghiệm đối chứng
Nồng độ Cd trong nƣớc Nồng độ As trong nƣớc Nồng độ Cu trong nƣớc
Ngày nuôi
8 g/l
16 g/l
30 g/l
30 g/l
40 g/l
4 8 12 16 20
5,706 5,765 5,824 5,876 5,938
40 g/l Giai đoạn tích luỹ, Cf [g/g] 13,379 13,531 13,680 13,835 13,975
9,975 10,123 10,276 10,419 10,583
11,417 11,534 11,651 11,768 11,875
27,806 28,675 29,542 30,414 31,283
37,358 38,427 39,468 40,521 41,636
Từ công thức (3.11) đến (3.16) xác định đƣợc các giá trị ke và ku tƣơng
ứng với các mức nồng độ kim loại hòa tan khác nhau trong bảng (3.7) và
(3.10). Thay các giá trị này vào công thức (1.26) tìm nồng độ tích lũy trong
mô, đây là giá trị tính đƣợc theo mô hình. Giá trị thực nghiệm có đƣợc từ các
số liệu trong bảng (3.7), bảng (3.10) bằng cách trừ số liệu nồng độ trong mô
vào các ngày thứ 8, 12, 16, 20 vào số liệu ngày thứ 4 thu đƣợc Cf tích lũy
trong mô sau 4, 8, 12, 16 ngày nuôi.
Thay giá trị Z1 = 0,205 g (Bảng 2.5), Z2 là thời gian nuôi giai đoạn tích
lũy nhƣ trong thực nghiệm xây dựng mô hình vi phân và Z3 là nồng độ kim
loại hòa tan trong nƣớc vào các hàm hồi quy của mô hình thống kê tìm đƣợc
nồng độ kim loại tích lũy trong mô tính theo mô hình sau những khoảng thời
gian nuôi nhất định.
Bảng (3.11) trình bày các kết quả tính toán sai số giữa giá trị tính theo
từng mô hình so với giá trị thực nghiệm đối với kim loại Cd.
Ngày thứ
4
8
12
16
Cd = 4 g/l; ke = 0,67.10-3 1/ngày; ku = 2,19.10-3 l/g/ngày
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
2,86 14,3
6,06 7,57
11,7 3,19
13,0 1,63
Cd = 8 g/l; ke = 0,72.10-3 1/ngày; ku = 2,11.10-3 l/g/ngày
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
13,5 3,39
14,4 3,39
18,8 4,70
15,9 2,15
Cd = 16 g/l; ke = 0,82.10-3 1/ngày; ku = 1,96.10-3 l/g/ngày
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
6,84 11,9
6,84 11,9
6,55 12,2
8,73 14,6
Cd = 20 g/l; ke = 0,87.10-3 1/ngày; ku = 1,88.10-3 l/g/ngày
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
0,67 3,33
4,15 7,03
3,65 6,22
1,97 4,43
Bảng 3.11: Kết quả đánh giá độ tin cậy mô hình vi phân đối với Cd
Xử lý tính toán tƣơng tự, các bảng (3.12) và (3.13) trình bày kết quả
tƣơng ứng cho As và Cu.
Ngày thứ
4
8
12
16
Cd = 25 g/l; ke = 0,81.10-3 1/ngày; ku = 1,65.10-3 l/g/ngày
3,12 7,50
0,30 10,0
9,31 1,55
9,88 0,84
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
Cd = 30 g/l; ke = 0,98.10-3 1/ngày; ku = 1,47.10-3 l/g/ngày
18,9 2,70
16,9 1,66
18,7 0,90
15,3 2,63
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
Cd = 40 g/l; ke = 1,33.10-3 1/ngày; ku = 1,12.10-3 l/g/ngày
17,1 2,63
17,9 1,66
16,7 2,63
18,6 0,67
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
Cd = 50 g/l; ke = 1,67.10-3 1/ngày; ku = 0,76.10-3 l/g/ngày
15,5 17,8
0,33 2,31
5,43 7,31
4,60 6,03
Sai số mô hình vi phân(%) Sai số mô hình thống kê (%)
Bảng 3.12: Kết quả đánh giá độ tin cậy mô hình vi phân đối với As
Ngày thứ
4
8
12
16
Cd = 20 g/l; ke = 2,03.10-3 1/ngày; ku = 8,69.10-3 l/g/ngày
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
1,47 1,76
1,99 0,96
0,05 2,43
1,56 0,59
Cd = 30 g/l; ke = 2,72.10-3 1/ngày; ku = 7,93.10-3 l/g/ngày
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
8,97 3,11
8,47 0,17
7,71 0,31
7,16 0,03
Cd = 40 g/l; ke = 3,40.10-3 1/ngày; ku = 7,18.10-3 l/g/ngày
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
6,64 0,09
7,34 1,37
6,70 4,23
4,49 0,09
Cd = 50 g/l; ke = 4,09.10-3 1/ngày; ku = 6,42.10-3 l/g/ngày
Sai số mô hình vi phân (%) Sai số mô hình thống kê (%)
0,16 0,47
2,09 1,58
1,36 0,05
2,22 0,12
Bảng 3.13: Kết quả đánh giá độ tin cậy mô hình vi phân đối với Cu
Từ số liệu đánh giá độ tin cậy mô hình vi phân đối với cả Cd, As và Cu
trong các bảng trên đi đến một số nhận xét:
- Sai số gây ra do sai khác giữa giá trị thực nghiệm và giá trị tính theo
mô hình ở các thí nghiệm đối chứng đều lớn hơn so với ở các thí nghiệm dùng
để xây dựng mô hình. Điều này hoàn toàn hợp lý.
- Tập trung đánh giá trên các thí nghiệm đối chứng cho thấy, so với Cd
và Cu thì mô hình của As có sai số lớn hơn. Nguyên nhân có thể do nghêu
Meretrix Lyrata hấp thu As kém ổn định hơn so với hấp thu Cd và Cu.
Tuy nhiên mức sai số ở các thí nghiệm đối chứng với cả 3 kim loại đều
có thể chấp nhận đƣợc do các giá trị này là tổ hợp của nhiều nguồn gây sai số
khác nhau.
Nhƣ vậy giả thiết đặt ra về quan hệ bậc nhất giữa các hằng số tốc độ
theo dải nồng độ nghiên cứu của kim loại hòa tan có thể chấp nhận đƣợc khi
áp dụng để dự đoán nồng độ tích lũy trong mô trong điều kiện ứng dụng mô
hình, các kết quả xây dựng mô hình vi phân là đáng tin cậy.
So sánh độ chính xác giữa mô hình vi phân và mô hình thống kê thông
qua đánh giá sai số giá trị tính trên từng mô hình so với giá trị thực nghiệm.
Kết quả cho thấy đối với nguyên tố Cu, cả hai mô hình đều có độ chính xác
cao, sai số mô hình thống kê nhìn chung nhỏ hơn so với sai số mô hình vi
phân. Đối với nguyên tố As, tại hai mức nồng độ kim loại hòa tan ở hai đầu
dải nồng độ nghiên cứu (25 g/l và 50 g/l), sai số của cả hai mô hình có sự
dao động, sai số tại các thí nghiệm đối chứng ổn định hơn và mô hình thống
kê cho kết quả tốt hơn thể hiện qua sai số nhỏ hơn. Đối với nguyên tố Cd
nhận xét tƣơng tự nhƣ đối với nguyên tố As, sai số tại các thí nghiệm đối
chứng ở cả hai mô hình đều ổn định hơn so với tại các thí nghiệm có nồng độ
kim loại hòa tan nằm ở hai đầu dải nồng độ nghiên cứu.
3.8 ỨNG DỤNG CÁC MÔ HÌNH
3.8.1 Mô hình hệ số tích lũy BAF
BAF chỉ sử dụng đƣợc dƣới những điều kiện giống với điều kiện đã
thực hiện phép đo lấy số liệu xây dựng mô hình nên miền xác định khối lƣợng
mô khô của mô hình là: 0,160 g 0,806 g; tƣơng ứng với miền xác định khối
lƣợng mô tƣơi: 0,886 g 4,313 g và miền xác định khối lƣợng toàn bộ cá thể
(cả phần vỏ): 5,907 g 22,508 g. Các dải giá trị khối lƣợng này đƣợc suy ra
từ công thức (3.1), (3.2) và (3.3).
Các dạng hàm BAF cho thấy nghêu Meretrix Lyrata khi sử dụng làm
chỉ thị cho các kim loại nghiên cứu có mức độ đặc trƣng giảm dần từ Cu đến
Cd và cuối cùng là As.
Các dạng hàm BAF có thể đƣợc sử dụng dự đoán hệ số tích lũy ngay
tại chỗ vào thời điểm khảo sát. Từ hệ số tích lũy tìm đƣợc khi biết một trong
hai giá trị hoặc nồng độ kim loại trong nƣớc hoặc nồng độ kim loại trong mô
nhuyễn thể sẽ dự đoán đƣợc giá trị còn lại. Các giá trị thu đƣợc có thể sử dụng
đánh giá sơ bộ mức độ ô nhiễm kim loại nặng trong môi trƣờng (liên quan
đến vấn đề ô nhiễm) hoặc đánh giá mức độ tích lũy của nhuyễn thể ở thời
điểm hiện tại (liên quan đến vấn đề an toàn thực phẩm). Tuy nhiên kết quả
nghiên cứu cho thấy các mô hình BAF thu đƣợc có độ chính xác không cao,
kết quả tính từ mô hình này chỉ có ý nghĩa khảo sát sơ bộ. Nguyên nhân dẫn
đến độ chính xác kém của mô hình đã đƣợc trình bày trong phần so sánh độ
chính xác của mô hình BAF và mô hình thống kê.
3.8.2 Mô hình thống kê
Mô hình thống kê đƣợc áp dụng với điều kiện môi trƣờng sống có sự
ổn định về tốc độ trộn, nồng độ oxy hòa tan, tốc độ cấp dinh dƣỡng,... và sử
dụng xác định nồng độ kim loại biến đổi trong mô sau một thời gian sinh
trƣởng nhất định.
Mô hình chỉ áp dụng với dạng ion kim loại hòa tan và không gian biến
của mô hình là không gian biến sử dụng xây dựng ma trận thống kê, bao gồm:
- Khối lƣợng mô khô ban đầu trong dải 0,2 g 0,5 g; tƣơng ứng dải
khối lƣợng toàn bộ cá thể 6,92 g 14,6 g.
- Thời gian sinh trƣởng 4 28 ngày.
- Nồng độ ion kim loại hòa tan trong nƣớc với Cd trong dải 4 g/l 20
g/l; với As trong dải 25 g/l 50g/l và Cu từ 20 g/l 50 g/l.
Thông qua so sánh hệ số hồi quy của biến nồng độ kim loại hòa tan Z3
trong phƣơng trình hồi quy cho thấy nghêu Meretrix Lyrata sử dụng làm chỉ
thị ô nhiễm tốt nhất cho Cu, tiếp theo là Cd và cuối cùng là As. Đây là ứng
dụng làm công cụ sàng lọc của mô hình.
Mục đích sử dụng chính của mô hình là để xác định nồng độ kim loại
biến đổi trong mô sau một thời gian sinh trƣởng nhất định, và nhƣ vậy khi
biết nồng độ kim loại trong mô vào thời điểm đầu có thể dự đoán đƣợc nồng
độ tích lũy trong mô cuối giai đoạn đánh giá. Đánh giá này liên quan đến vấn
đề an toàn thực phẩm.
Mô hình có thể sử dụng dự đoán, chỉ thị ô nhiễm kim loại nặng trong
trƣờng hợp không có công cụ xác định trực tiếp chính xác nồng độ vết. Lấy ví
dụ với những cá thể nghêu có khối lƣợng mô khô 0,2 g nếu sau một tuần sinh
trƣởng tích lũy Cd đƣợc trên 1,965 g/g khối lƣợng khô thì có thể kết luận
nguồn nƣớc đã bị ô nhiễm Cd (> 5 g/l theo Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về
chất lƣợng nƣớc biển ven bờ) [13]. Giá trị 1,965 g/g tính đƣợc từ mô hình
thống kê áp dụng cho kim loại Cd với Z1 = 0,2g, Z2 = 7 ngày và Z3 = 5 g/l.
Tính toán tƣơng tự, với cá thể nghêu có khối lƣợng mô khô ban đầu
0,2g sau một tuần sinh trƣởng tích lũy As đƣợc trên 5,670 g/g khối lƣợng
khô thì có thể kết luận nguồn nƣớc đã bị ô nhiễm As khi đối chiếu với Quy
chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lƣợng nƣớc biển ven bờ áp dụng cho nƣớc
khu vực bãi tắm (> 40 g/l) [13]. Nếu tích lũy Cu đƣợc trên 15,98 g/g và đối
chiếu với Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về chất lƣợng nƣớc biển ven bờ áp
dụng cho nƣớc nuôi trồng thủy sản có thể kết luận nguồn nƣớc đã bị ô nhiễm
Cu (> 30 g/l) [13].
3.8.3 Mô hình vi phân
Mô hình vi phân cũng đƣợc áp dụng với điều kiện môi trƣờng sống có sự
ổn định về tốc độ trộn, nồng độ oxy hòa tan, tốc độ cấp dinh dƣỡng,... và sử
dụng xác định nồng độ ion kim loại hòa tan tích lũy trong mô sau một thời gian
sinh trƣởng nhất định.
Các điều kiện áp dụng khác bao gồm:
- Nồng độ ion kim loại hoà tan nằm trong dải Cd: 420 g/l, As: 2550
g/l và Cu: 2050 g/l.
- Các cá thể nghêu đƣa vào nuôi vào thời điểm đầu có khối lƣợng mô
khô cỡ 0,205 g; tƣơng ứng khối lƣợng mô tƣơi cỡ 1,122 g và khối lƣợng toàn
bộ cá thể (phần mô và vỏ hai mảnh) cỡ 7,053 g. Trong điều kiện tự nhiên là
vào thời điểm đầu tháng 3, thời điểm bắt đầu giai đoạn nghêu sinh trƣởng và
phát triển mạnh nhất.
Mô hình tích lũy sử dụng xác định nồng độ tích lũy đƣợc trong mô sau
một thời gian nhất định và trong điều kiện môi trƣờng sống ổn định. Mô hình
bài tiết cho phép xác định hoặc dự đoán thời gian bài tiết cần thiết để nồng độ
kim loại nặng trong mô nhuyễn thể giảm đến mức cho phép. Điều này đặc
biệt có ý nghĩa dự đoán, cảnh báo trong vấn đề an toàn thực phẩm khi sử
dụng nghêu tại từng khu vực làm nguồn dinh dƣỡng.
Lấy ví dụ với tiêu chuẩn an toàn thực phẩm cho xuất khẩu nhuyễn thể
làm dinh dƣỡng vào thị trƣờng EU yêu cầu nồng độ Cd thấp hơn 1 mg/kg
khối lƣợng mô tƣơi; từ mối quan hệ giữa khối lƣợng mô tƣơi x và khối
lƣợng mô khô x1 xác lập trong mục (3.2) xác định đƣợc ngƣỡng nồng độ này
tƣơng ứng với 5,496 g/g khối lƣợng khô. Với nồng độ đầu Cd trong mô là
2,862 g/g khối lƣợng khô (Bảng 3.7) có nghĩa khi nghêu tích luỹ tăng thêm
một giá trị Cf = 2,364 g/g sẽ không đạt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm. Giả
thiết nghêu sống trong môi trƣờng ô nhiễm Cd 10 g/l, áp dụng công thức
(1.26) tính đƣợc thời gian sinh trƣởng tối đa cho phép là 119 ngày tính từ
thời điểm đạt nồng độ đầu trong mô 2,862 g/g khối lƣợng mô khô. Trong
trƣờng hợp môi trƣờng ô nhiễm nặng hơn Cd 20 g/l, khoảng thời gian này
giảm xuống còn 65 ngày. Trong quá trình tính toán, các giá trị hằng số tốc
độ ku và ke đƣa vào công thức (1.26) đƣợc suy ra từ các công thức (3.11) và
(3.12).
KẾT LUẬN
Các kết quả nghiên cứu của đề tài bao gồm:
1. Xây dựng mô hình hệ số tích lũy BAF các kim loại nặng Cd, As, Cu
chỉ phụ thuộc vào khối lƣợng mô khô W(g) của nghêu Meretrix Lyrata sống
trong điều kiện môi trƣờng Việt Nam. Đây là kết quả nghiên cứu mới của đề
tài:
Đối với kim loại Cd:
Đối với kim loại As:
Đối với kim loại Cu:
Các mô hình áp dụng trong dải khối lƣợng mô khô: 0,160 0,806 g;
tƣơng ứng với dải khối lƣợng mô tƣơi: 0,886 4,313 g và dải khối lƣợng toàn
bộ cá thể (phần mô mềm và phần hai mảnh vỏ): 5,907 22,508 g.
2. Xây dựng mô hình thống kê bậc một biểu diễn nồng độ các ion kim
loại nặng As, Cd, Cu hòa tan trong nƣớc tích lũy trong nghêu Meretrix Lyrata
sống trong điều kiện phòng thí nghiệm, phụ thuộc vào các yếu tố khối lƣợng
mô ban đầu Z1 (0,2 0,5 g), thời gian sinh trƣởng Z2 (4 28 ngày) và nồng độ
ion kim loại hòa tan trong nƣớc Z3 (Cd: 4 20 g/l; As: 25 50 g/l; Cu: 20
50 g/l ). Đây là kết quả nghiên cứu mới của đề tài:
Đối với kim loại Cd
Đối với kim loại As
Đối với kim loại Cu
3. Xây dựng mô hình vi phân bậc một biểu diễn biến đổi nồng độ các
ion kim loại nặng hòa tan As, Cd, Cu tích lũy trong mô nghêu Meretrix
Lyrata sống trong điều kiện phòng thí nghiệm theo thời gian với kết quả tìm
đƣợc dải các giá trị hằng số tốc độ trong miền điều kiện áp dụng mô hình
nồng độ ion kim loại hòa tan Cd: 4 20 g/l, As: 25 50 g/l; Cu: 20 50
g/l. Đây là kết quả nghiên cứu áp dụng của đề tài:
+ Dải hằng số tốc độ bài tiết: Cd: 0,67.10-3 0,87.10-3 1/ngày ; As:
0,81.10-3 1,67.10-3 1/ngày và Cu: 2,03.10-3 4,09.10-3 1/ngày.
+ Dải hằng số tốc độ tích lũy: Cd: 1,88.10-3 2,19.10-3 l/g/ngày ; đối
với As: 7,62.10-4 1,65.10-3 l/g/ngày và Cu: 6,42.10-3 8,69.10-3 l/g/ngày.
Khẳng định quan hệ giữa hằng số tốc độ hấp thu ku, hằng số tốc độ bài
tiết ke trong mô hình vi phân phụ thuộc bậc nhất vào dải nồng độ ion kim loại
hòa tan nghiên cứu:
+ Đối với Cd trong khoảng 4 20 g/l:
ke = 0,0125.10-3.Cd + 6,2.10-4 ku = - 0,0194.10-3.Cd + 2,268.10-3
+ Đối với As trong khoảng 25 50 g/l:
ke = 0,0344.10-3.Cd - 0,05.10-3 ku = - 0,0355.10-3.Cd + 2,537.10-3
+ Đối với Cu trong khoảng 20 50 g/l:
ke = 0,0686.10-3.Cd + 0,66.10-3 ku = - 0,0756.10-3.Cd + 10,2.10-3
KIẾN NGHỊ
Có thể ứng dụng các mô hình thu đƣợc để khảo sát, dự đoán nồng độ
ion kim loại nặng hòa tan trong nƣớc (chỉ thị ô nhiễm) hoặc nồng độ ion kim loại
nặng hòa tan tích lũy vào mô nghêu Meretrix Lyrata trong điều kiện môi trƣờng
sống bị ô nhiễm và sau khoảng thời gian sinh trƣởng nhất định (cảnh báo an toàn
thực phẩm).
Các kết quả đề tài đạt đƣợc góp phần mở ra khả năng nghiên cứu cả về
chiều rộng và chiều sâu mà trƣớc mắt là nghiên cứu quy luật tích lũy dạng
chất hữu cơ chứa kim loại, tập trung vào các chất hữu cơ chứa Cd, Cu, As.
Nghiên cứu quy luật tích lũy trên từng phần cơ thể nghêu khác nhau là phần
mang, phần mô mềm không chứa mang. Xây dựng các mô hình nhƣ trong đề
tài luận án cũng bằng cách triển khai thực nghiệm tƣơng tự, sử dụng hệ thống
HPLC-ICP-MS làm công cụ đo. Đây là những nghiên cứu chuyên sâu do các
chất hữu cơ khác nhau chứa cùng một kim loại nặng sẽ có độc tính khác nhau,
có hoạt tính tích lũy khác nhau, vì vậy nghiên cứu trên dạng chất cụ thể cung
cấp nhiều thông tin hữu ích hơn so với nghiên cứu dƣới dạng tổng nồng độ
tích lũy. Tiếp theo có thể mở rộng nghiên cứu về cơ chế chuyển hóa trao đổi
chất khi tích lũy vào nhuyễn thể thông qua phƣơng pháp xây dựng mô hình.
DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ
1. Bùi Đặng Thanh, Phạm Văn Thiêm (2008), “Tƣơng quan giữa nồng độ
As, Cd trong nghêu Meretrix Lyrata và trong nƣớc, trầm tích cửa biển”,
Tạp chí Hóa học, 46(5A), Tr. 11-13.
2. Bùi Đặng Thanh, Phạm Văn Thiêm (2008), “Một số mô hình tích lũy
sinh học kim loại vết Cd trong động vật nhuyễn thể Meretrix Lyrata”,
Tạp chí Hóa học, 46(5A), Tr. 18-23.
3. Bùi Đặng Thanh, Phạm Văn Thiêm (2009), “Mô hình vi phân mô tả
hàm lƣợng Cd hòa tan tích lũy trong mô động vật nhuyễn thể Meretrix
Lyrata”, Tạp chí Hóa học, 47(2A), Tr. 39-42.
4. Bùi Đặng Thanh (2007), “Khai thác khả năng phân tích trực tiếp mẫu
nền cao bằng CRC-ICP-MS”, Tạp chí Khoa học và Công nghệ, 45(1B),
Tr. 78-84.
5. Nguyễn Thị Nhƣ Ngọc, Bùi Đặng Thanh (2008), “Xác định As trong
nƣớc bằng kỹ thuật ICP-MS”, Tạp chí Hóa học, 46(5A), Tr. 14-17.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng việt
1. Lê Đức Ngọc (2001), Xử lý số liệu và kế hoạch hóa thực nghiệm, Nhà
xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội.
2. Nguyễn Minh Tuyển (2004), Quy hoạch thực nghiệm, Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội.
3. Sở Khoa học và Công nghệ tỉnh Quảng Nam (2006), Báo cáo tổng hợp
đề tài: Nghiên cứu xác định hàm lượng kim loại nặng được hấp thụ bởi
một số loài nhuyễn thể trên một số sông và vùng cửa sông tại Quảng
Nam, Quảng Nam.
4. Nguyễn Đình Hùng và nhóm nghiên cứu (2006), Nghiên cứu một số chỉ
tiêu môi trường, đặc điểm sinh học và nguồn lợi nghêu (Meretrix
Lytara) ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Viện nghiên cứu Nuôi trồng
thuỷ sản II.
5. Phạm Kim Phƣơng, Nguyễn Thị Dung, Chu Phạm Ngọc Sơn (2007),
Nghiên cứu sự tích lũy kim loại nặng As, Cd, Pb và Hg từ môi trường
nuôi tự nhiên lên nhuyễn thể hai mảnh vỏ, Tạp chí Khoa học và Công
nghệ, 45, tr. 57-62.
6. Phạm Kim Phƣơng, Nguyễn Thị Dung, Chu Phạm Ngọc Sơn (2008),
Nghiên cứu ảnh hưởng nồng độ của kim loại nặng (Cd, Pb, As) lên sự
tích lũy và đào thải của nghêu (Meretrix lyrata), Tạp chí Khoa học
Công nghệ, 46 (2), tr. 89-95.
7. Phạm Kim Phƣơng, Nguyễn Thị Dung, Chu Phạm Ngọc Sơn (2008),
Nghiên cứu sự tích lũy và đào thải kim loại Cadimi (Cd) dạng vô cơ và
hữu cơ đối với nghêu trưởng thành trong môi trường nuôi nhân tạo,
Tạp chí Hóa học, 46 (6), tr. 666-670.
8. Bộ Tài Nguyên và Môi trƣờng (2004), Báo cáo tổng hợp Kết quả quan
trắc - Phân tích Môi trường vùng biển Đông - Đông Nam bộ.
9. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng (2005), Báo cáo tổng hợp Kết quả quan
trắc - Phân tích Môi trường vùng biển Đông - Đông Nam bộ.
10. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng (2006), Báo cáo tổng hợp Kết quả quan
trắc - Phân tích Môi trường vùng biển Đông - Đông Nam bộ.
11. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng (2007), Báo cáo tổng hợp Kết quả quan
trắc - Phân tích Môi trường vùng biển Đông - Đông Nam bộ.
12. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng (2008), Báo cáo tổng hợp Kết quả quan
trắc - Phân tích Môi trường vùng biển Đông - Đông Nam bộ.
13. Bộ Tài nguyên và Môi trƣờng (2008), Quy chuẩn kỹ thuật Quốc gia về
chất lượng nước biển ven bờ, QCVN 10:2008/BTNMT.
Tiếng Anh
14. Anuwat Nateewathana (1995), ”Taxonomic account of commercial and
edible molluscs excluding cephalopods of Thailand”. Phuket Marine
Biological Center Special Publication, 15, pp.93-116.
15. U.S. Environmental Protection Agency, Bioaccumulation Analysis
Workgroup (2000), Bioaccumulation Testing and Interpretation for the
Purpose Of Sediment Quality Assessment, Washington DC 20460.
16. Rubinstein, N.L., Lores E. , and Gregory N. (1983), “Accumulation of
PCBs, mercury, and cadmium by Nereis virens, Mercenaria mercenaria,
and Palaemontes pugio from contaminated sediments”, Aquat. Toxicol,
3, pp. 249-260.
17. Lee II (1992), “Models, muddles, and mud: predicting
bioaccumulation of sediment associated pollutants”, Sediment toxicity
assessment, pp. 267-293.
18. Spacie, A., McCarty L.S. and Rand G.M. (1995), “Bioaccumulation and
bioavailability in multiphase systems”, In Fundamentals of aquatic
toxicology: Effects, environmental fate, and risk assessment, pp. 493-521.
19. Gobas, F.A.P.C., and Z’Graggen M. (1994), Modeling and monitoring
of the temporal response of the Lake Ontario ecosystem to historical
inputs of PCBs, Denver, CO.
20. Thomann, R.V., Connolly J.P. and Parkerton T.F. (1992), “An
equilibrum model of organic chemical accumulation in aquatic food webs
with sediment interaction”, Environ. Toxicol. Chem, 11, pp. 615-629.
21. Gobas, F.A.P.C (1993), “A model for predicting the bioaccumulation
of hydrophobic organic chemicals in aquatic food webs: Application to
Lake Ontario”, Ecol. Model, 69, pp.1-17.
22. Boese, B.L., Lee II H. and Echls S. (1997), “Evaluation of first-order
model for the prediction of the bioaccumulation of PCBs and DDT
from sediment into the marine deposit-feeding clam Macoma nasuta”,
Environ. Toxicol. Chem, 16, pp. 1545-1553.
23. Spacie, A., and Hamelink J.L. (1982), “Alternate models for describing
the bioconcentration of organics in fish”, Environ. Toxicol. Chem, 1,
pp. 309-320.
24. Davies, R.P., and DobbsA.J. (1984), “The prediction of
bioaccumulation in fish”, Wat. Res. 18, pp. 1253-1262.
25. Boese, B.L, and Lee II (1992), Synthesis of methods to predict
bioaccumulation of sediment pollutants, ERL-N No. N232. U.S.
Environmental Protection Agency, Environmental Research Laboratory,
Narragansett, RI.
26. Hawker, D.W., and Connell D.W. (1988), “Influence of partition
coefficient of lipophilic compounds on bioconcentration kinetics with
fish”, Water Res. 22, pp. 701-707.
27. Gobas, F.A.P.C., Clark K.E., Shu W.Y., and Mackay D. (1989),
“Bioconcentration of polybrominated benzenes and biphenyls and
related superhydrophobic chemicals in fish: Role of bioavailability and
elimination in the feces”, Environ. Toxicol. Chem. 8, pp. 231-245.
28. Niimi, A.J., and Cho C.Y. (1981), “Elimination of hexachlorobenzene
(HCB) by rainbow trout (Salmogairdneri) and an examination of its
kinetics in Lake Ontario salmonids”, Can. J. Fish Aquat. Sci. 38, pp.
1350-1356.
29. Sijm, D.T.H.M., Seinen W., and Opperhuizen A. (1992), “Life-cycle
biomagnification study in fish”, Environ. Sci. Technol. 26, pp. 2162-2147.
30. Dennis A. Apeti, Elijah Johnson and Larry Robinson (2005), “A
Model for Bioaccumulation of Metals in Crassostrea virginica from
Apalachicola Bay, Florida”, American Journal of Environmental
Sciences, 1(3), pp. 239-248.
31. Nennis A. Apeti, Larry Robinson and Elijah Johnson (2005),
“Relationships between Heavy Metal Concentrations in the American
Oyster (Crassostrea virginica) and Metal Levels in the Water Column
and Sediment in Apalachicola Bay”, American Journal of
Environmental Sciences, 3(1), pp. 179-186.
32. Kramer, J.M., (1994), Bomonitoring of Coastal Waters and Estuaries,
CRC Press, Inc. Boca Raton, Florida.
33. Kennedy, V.S. and Newell R.I.E. (1996), The eastern oyster
Crassostrea virginica, Maryland Sea Grant College, University of
Maryland system, College park MD.
34. Baber, M.C., Suarez L.A. and Lassiter R.R. (1991), “Modeling
bioaccumulation of organic pollutants in fish with an application to
PCBs in Lake Ontario Salmonids. Canadian J.”, Fish and Aqua. Sci., 48,
pp. 318-337.
35. Newell R.I.E. and Langdon C.J. (1996), Mechanisms and Physiology
of Larval and Adult Feeding. In: Kennedy V.S. and Eble A.F. The
eastern oyster Crassostrea virginica, Maryland Sea Grant College,
University of Maryland system, College park MD.
36. Jorgensen C.B., (1983), “Fluid mechanical aspect of suspension
feeding”, Marine Ecol. Progress Ser., 11, pp. 89-103.
37. Jorgensen C.B., (1996), “Bivalve filter feeding revisited”, Marine Ecol.
Progress Ser., 142, pp. 287-302.
38. Oliver B.G. and Niimi A. (1985), “Bioconcentration factors of some
halogenated orgnics for Rainbow trout: Limitations in their use for
prediction of environmental residues”, Environ. Sci. Technol., 19, pp.
842-849.
39. Batterman, A.R., Cook P.M., Lodge K.B. and Lothenbach D.B. (1989)
“Methodology used for a laboratory determination of relative
contribution of water, sediment and food routes of uptake for 2,3,7,8-
TCDD bioaccumulation by lake trout in Lake Ontario”, Chemosphere,
19, pp. 451-458.
40. Liao, C-M, Cheng B-C., Lin M-C. and Chen J-W., (2000), “An
optimal trace zinc biomonitor (Haliotis diversicolor supertexta) control
system design in aquaculture ecosystems”, Appl. Math. Model., 24, pp.
27-43.
41. Stellio Casas, Cedric Bacher (2006), “Modelling trace metal (Hg and
Pb) bioaccumulation in the Mediterranean mussel, Mytilus
galloprovincialis, applied to environmental monitoring”, Journal of Sea
Research., 56, pp. 168-181.
42. Brown, G.M., (1960), “Heat or mass transfer in fluid in laminar flow in
a c circular or flat conduit”, A.I.Ch.E.J., 6, pp. 179-183.
43. Colton, C.K., Smith K.A. and Merril E. (1971), “Laminar mass
transfer in a flat duct with permeable walls”, A.I.Ch.E.J., 17, pp. 113-
780.
44. Walter, G., (1974), “Mass transfer in laminar flow between parallel
permeable plates”, A.I.Ch.E.J., 20, pp. 881-889.
45. Thomann, R. V., Mahony, J. D., Mueller, R. (1995), “A Steady-State
model of biota sediment accumulation factor for metals in two marine
bivalves”. Environ. Toxicol. Chem., 14, pp. 1989-1998.
46. Roditi, H. A., Fisher, N. S., (1994), “Rates and routes of trace element
uptake in zebra mussels”, Limmol. Oceanogr., 44, pp. 1730-1749.
47. Roditi, H. A., Fisher, N., Sanude-Wilhelmy, S. A., (2000), “Uptake of
dissolved organic carbon and trace elementsby zebra mussels”, Nature.,
407, pp. 78-80.
48. Ke, C. and Wang W-X. (2001), “Bioaccumulation of Cd, Se and Zn in
an estuarine oyster (Crassostrea rivularis) and a coastal oyster
(Sccostrea glomerata)”, Aquat. Toxicol., 56, pp. 33-51.
49. Wang, W-X. and Fisher N.S. (1997), “Modeling the influence of body
size on trace element accumulation in the mussel Mytilus edulis”,
Marine Ecol. Progress Ser., 161, pp. 103-115.
50. Angela Serafim and Maria Joao Bebianno (2007), “Kinetic model of
cadmium accumulation and elimination metallothionein response in
ruditapes decussates”, Environmental Toxicology and Chemistry, 26(5),
pp. 960-969.
51. Patel B., Chandy J.P. and Patel S. (1988), “Do selenium and
glutathione inhibit the toxic effects of mercury in marine
lamellibranchs”. Science of The Total Environment, 67(2-3), pp.147-
166.
52. Patel B. and Anthony K. (1991), “Uptake of cadmium in tropical
marine lamellibranchs, and effects on phisiological behavior”. Marine
Biology (BERLINE), 108(3), pp.457-470.
53. Sadiq M., Alam I.A. (1992), “Bioaccumulation of mercury by clams
(Meretrix meretrix) collected from the Saudi Coast of the Arabian Gulf”.
Chemical Speciation and Bioavailability, 4(1), pp.1-17.
54. Wahi Abdul Rashid., Vun Leong Wan., Mohd Harun Abdullah (2009),
“Accumulation and Depuration of Heavy Metals in the Hard Clam
(Meretrix meretrix) under laboratory conditions”. Tropical Life Sciences
Research, 20(1), pp.17-24.
55. D Nugegoda., PK Phuong., D Nguyen, PNS Chu (2009),
“Bioaccumulation and depuration of complexed and uncomplexed trace
metals by the Asian clam meretrix lyrata from Vietnam”. SETAC Europe 19th Annual Meeting.
56. Patin S.A. (1984), “Tilapia as a bio-assay organism in toxicological
studies Biogeochemical and toxicological studies of water pollution”.
Moskva (USSAR): Vniro, pp.39-46.
57. Rashed M.N (2001a), “Cadminum and lead levels in fish (Tilapia
nilotica) tissues as biological indicator for lake water pollution”.
Environ.Monito.Assess. 68, pp.75-89.
58. Rashed M.N (2001b), “Monitoring of environmental heavy metals in
fish from Nasser Lake Environ”. Intern. pp.27-33.
59. Awdallah R.M., Mohamed A.E., Gaber S.A (1985), “Determination of
trace elements in fish by instrumental neutron activation analysis”.
J.Radioanal. Nucl.Chem. Lett. 95(3), pp.145-154.
60. Adham,K.G.; Hasan,I.F., Taha,N. and Amin,Th (1999), “Impact of
hazardous exposure to metals in the Nile and Delta Lakes on the Catfish
Clarias Lazera”. Environ. Monit. Asses. 54(1), pp.107-124.
61. Mohamed, A.E.; Awadallah, R.M. and Gaber, S.A (1990), “Chemical and
ecological studies on Tilapia nilotica”, J.Water SA., 16(2), pp.131-134.
62. Khallaf, M.F., Neverty, F.G. and Tonkhy, T.R (1994), “Heavy metal
concentration in fish and water of the Rever Nile and fish farms In”,
National conference on the River Nile, Assint Univ., Egypt.
63. Takatsu,A. and Uchiumi, A (1998), “Abnormal arsenic accumulation
by fich living in a naturally acidified lake”. Analyst.123, pp.73-75.
64. Olivero,J.; Navas,V.; Derez,A.; Solano,B.; Arguello,E. and Sala,R
(1997), “Mercury levels in mussle of some fish species from the Dique
Channel”, Colombia. Bull.Environ. Contam. Toxical.58, pp.865-870.
65. Malm,O.; Brancles,F.J.; Kag,A.; Castro,M.B.; Pfeiffer,W.C.;
Harada,M.; Bastos,W.R.; Kato,H. (1995), “Mercury and methyl
mercury in fish snd humn hair from the Tapajos River basin, Brazil”.
Sci.Total Environm. 75, pp.141-150.
66. Kalfakakon, V. and Akrida-Demertzi, K. (2000), “Transfer factors of
heavy metals in aquatic organisms of different trophic level”.
67. Magliette, R.J.; Doherty,F.G.; Mackinney,D.; Venkataramani,L.
(1995) “Need for environmental quality guidelines based on ambient
freshwater quality criteria in natural waters-case study “Zinc”.
Bull.Environ. Environ. Contam.Toxicol. 54, pp.532-626.
68. O’Conner, T.P. (1996), “Trends in chemical concentrations in mussels
and oysters collected along the US coast from 1986 to 1993”. Mar
Environ Res., 41, pp.183-200.
69. Uysal, H. and Parlak, H. (1992), “The concentrations of some heavy
metals in Sphaeroma serratum (Leach) collected from Izmir Bay”.
Journal of Faculty of Science of Ege University, 14, pp.1-5.
70. Egemen. O., Mordogan, H., Sunlu, U. and Onen, M. (1994), “Ege ve
Marmara bolgesinde dagilim gostren Ostrea edulis 1., 1758’ de bazi agir
metal (Pb, Cd, Cu, Zn) duzeylerinin karsilastirilmali olarak
arastirilmasi”. E.U., Su Urunleri Dergisi, 11, pp.33-36.
71. Blackmore, G. (2001), “Interspecific variation in heavy metal body
concentrations in Hong Kong marine invertebrates”. Environ. Pollut.,
114, pp.303-311.
72. Cohen, T., Que Hee, S.S. and Ambrose, R.F. (2001), “Trace elements
in fish and invertebrates of three California coastal wetlands”. Marine
Pollut. Bull., 42, pp.224-232.
73. Hung, T.C., Meng, P.J., Han, B.C., Chuang, A. and Huang, C.C.
(2001), “Trace metals in different species of mollusca, water and
sediments from Taiwan coastal area”. Chemosphere, 44, pp.833-841.
74. Sunlu, U. (2002), “Comparison of heavy metals in native and cultured
mussel Mytilus galloprovincialis (L., 1758) from the Bay of Izmir
(Aegean Sea/Turkey)”. Mediterranean Mussel Watch CIESM
Workshop 18-21 April, Marseilles, France, pp.69-72.
75. Szefer,P.; Ikuta,K.; Kushiyama,S.; Frelek,K. and Geldon, J. (1997),
“Distribustion of trace metals in the Pacific oyster, Crassostrea gigas,
and Crabs from the East Cost of Kyusha Island, Japan”.
Bul.Environ.Contam.Toxicol., 58, pp.108-114.
76. Peerzada,N.; Pakkiyaretnan,T.; Skliros,S.; Guinea,M.; Ryan,P. (1992),
“Distribution of heavy metals in Elcho Island, Northern Territory,
Australia”. Sci.Total.Environm. 119, pp.19-27.
77. Aysun Turkmen, Mustafa Tukmen, Yalcm Tepe (2005),
“Biomonitoring of Heavy Metals from Iskenderun Bay Using Two
Bivalve Species Chama pacifica Broderip, 1834 and Ostrea stentina
Payraudeau, 1826”. Turkish Journal of Fisheries and Aquatic Sciences
5: 107-111. 2005.
78. Steve Wilbur and Emmet Soffey (2004), “Real World Analysis of
Trace Metals in Drinking Water Using the Agilent 7500ce ICP-MS
with Enhanced ORS Technology”, Part 2 of a 3 part series on
Environmental Analysis, Agilent Technologies, USA.
79. Steve Wilbur and Emmet Soffey (2004), “Analysis of High Matrix
Environmental Samples with the Agilent 7500ce ICP-MS with
Enhanced ORS Technology”, Part 3 of a 3 part series on
Environmental Analysis, Agilent Technologies, USA.
80. Steve Wilbur and Emmet Soffey (2004), “Performance Characteristics
of the Agilent 7500ce - The ORS Advantage for High Matrix Analysis”,
Part 1 of a 3 part series on Environmental Analysis, Agilent
Technologies, USA.
81. O.I.Analytical, “Microwave-Assisted Acid Digestion of Sediments by
USEPA Method 3051”, Application Note 07211197.
82. O.I.Analytical, “Digestion of Animal Tissue Samples Using the
Analytical Microwave Digestion System and Moderate Pressure
Vessels”, Application Note 17180701.