Những sáng tác văn vần dân gian
(HBĐT)
-
Ở phần n
ày, chúng tôi xin g
ộp
ca dao, tục ngữ, truyện thơ… tức là
những sáng tác có vần có điệu vào một
mục, dẫu rằng mỗi một thể loại này đều
có tách bạch thành những thể loại
riêng biệt.
Những sáng tác văn vần dân gian được
chuyển thể thành nhiều tiết mục văn nghệ
dân gian đưa vào trong các lễ hội truyền
thống.
Ca dao, tục ngữ
Ca dao, tục ngữ của người Mưòng khá phong phú, trước hết là những câu nói về các
địa danh, vùng đất và đặc sản nổi tiếng của xứ mường như:
- Nhất Bi, nhì Vang, tam Thàng, tứ Động.
- Cơm đồ, nhà gác, nước vác, lợn thui, ngày lui, tháng tới.
- Măng cuốc núi Chù
Ăn ngoan hơn thịt trâu xóm Bả
- Rau tớn mường Kha,
Ăn ngon hơn thị gà xóm Mận.
- Rau mẹ mường Khang
Ăn ngon hơn cá pạng sông B
- Rau đắng Bưa Cà,
Ngon hơn thịt gà Bái Thiện.
Hoặc những câu nói về kinh nghiệm sản xuất, tri thức dân gian của người mường như:
- Sấm Mường Lạ, để dạ mà ăn.
- Sấm Mường Ngay, quăng bừa cày lên gác.
- Sấm Mường Khời, vẫy tay đào củ mài.
- Sai quả dâu gia được mùa lúa ruộng,
Sai quả cha được mùa lúa nương.
- Măng mọc thì mèo lấy giống.
- Mây kéo ngược chẳng có nước mà uống,
May kéo xuống chẳng có ruộng mà cấy.
- Tháng năm trâu đằm thì cá ngoi.
- Ruộng có phân như đụm có lúa.
- Cấy sớm hơn bừa trưa.
- Bừa lai rai sai mùa vụ.
Người Thái có những câu ca dao, tục ngữ về kinh nghiệm sản xuất như:
- Sấm đầu năm trên đầu sông đà sửa gác,
- Sấm đầu năm trên nguồn sông Mã sửa thuổng.
- Sấm trước không mưa.
- Nắng tháng 6 được lúa
Nắng tháng 9 mất mùa
- Làm nhà đợi danh thì không tốt,
Làm ruộng đợi mạ thì không tốt
- Chuối đã trồng không nên nh
Dâu đã trồng không nên bới.
- Bổ tre bổ đằng ngọn,
Chẻ mây, chẻ đằng gốc.
- Rét vừa tốt mạ,
Rét quá tốt rau.
- Nương rợp mắt không bằng ruộng một thửa.
- Ngắm mây thì mất, ngắm đất thì còn.
- Muốn ăn cơm phải bừa ruộng kỹ,
Muốn ăn khoai phải phát rừng lồ ô
Ca dao, tục ngữ của các dân tộc ở Hoà Bình có những câu nói về ứng xử xã hội v
sinh hoạt cộng đồng. Chẳng hạn như ở người mường:
- Nòi nhà lang là dòng máu chó
Nòi kẻ khó là máu khú máu rồng.
- Gần lang mất gà
Xa làng sợ kẻ chợ.
- Lang đi chợ để nợ cho dân
- Lang đến nhà như ma đến cửa
- Con lang thì lại làm lang
Con nhà tm thàng thì vẫn là dân
- Một người đàn ông không dựng nổi nhà
Một người đàn bà không cắt nổi gianh.
- Phép quan không bằng tuần rượu
- Rượu ai người ấy uống
Vóng ai người ấy ngồi
- Quan tài nằm ngang họ lang
Quan tài nằm dọc họ dân.
- Hiểu con trai xem bờ ruộng
Xét đàn bà nhìn gấu váy
- Dao sắc gãy chuôi
Người ngay dễ chết.
- Ngủ trưa quen mắt, mắng vặt quen mồm.
Ở người Thái thì:
- Ruộng hoang quý trâu đực
Mường có giặc quý người gan dạ
- Ruộng nhiều nương thì tốt
Bản nhiều tạo thì khổ.
- Nghe lời hay chớ vội phi ngựa
Nghe lời dở chớ vội thắt cổ.
- Hỏi đường hỏi người già
Xin cơm xin gái trẻ.
- Thóc không phơi nắng sao khô vở
Người không đi đây đó sao khôn.
- Chọn vợ, xem người mẹ
Chọn trâu xem con đầu đàn.
- Gáy của ai, người ấy không tự thấy
Ngày chết, không ai tự đoán được.
- Chưa gặp giặc chớ khoe giỏi võ
Chưa qua sông chớ vội khoe giỏi bơi.
- Người khôn lo tính về dài
Người dại lo tính lùi sau.
- Càng ăn cơm càng thấy rét
Càng muốn làm đẹp càng tháy méo mó.
- Lên núi này thấy thấp
Nhìn núi nọ thấy cao
- Cây trong rừng không bằng ngọn
Nhiều người, nhiều ý khác nhau.
- Bản nào, bản không có gà vàng
Mường nào, mường không có người gii.
Ca dao, tục ngữ của người dân tộc ở Hoà Bình còn có các câu nói về ứng xử gia
đình, quan hệ nam nữ…..Chẳng hạn như:
Ở người Mường:
- Uốn cây uốn khi còn non
Uốn con uốn khi còn nh
- Trai bỏ vợ không mất một đồng
Gái chê chồng mất một thành hai
- Đám cưới có đôi
Cột nóc phải lẻ
- Diện như nàng dâu đi quạt
- Đánh con người, con người chạy ra búi bái
Đánh con mình, con mình chạy lại lòng.
- Anh em nơi xa không bằng ba nhà búng rộc.
- Được con dâu, sâu mặt mẹ chồng.
- Bé con cha, lớn con chú, con ông.
- Em trai chồng với chị dâu như trầu với lá mướp
- Em chồng với chị dâu như măng mu rau tróc.
- Yêu nhau đắp vó cũng ấm,
Chẳng yêu nhau chăn bông đệm ấm ễnng chẳng nên.
- Ngọt như dấm mẻ.
Lành như con kẻ ( con chồng) mẹ ý ( mẹ ghẻ).
- Trăm thứ hoa không bằng hoa con cái ( gái).
- Trăm thứ trái không bằng trái hồng cơm (lúa gạo).
- Không lấy được em,
Không phải chê em xấu, em nghèo,
Mà ti tiền cheo trâu cưới
Ở người Thái thì:
- Đi nương nhớ mang theo chó,
Đi ruộng, chớ mang theo con nhỏ
- Làm ruộng ai chẳng muốn ngon,
Nuôi con ai chẳng muốn khôn lớn.
- Anh em cãi nhau ba ngày không mất
Vợ chồng cãi nhau mt buổi thành người dưng.
- Bố mẹ khuyên chưa bằng thầy bảo,
Thầy bảo chưa bằng tự mình suy.
- Anh em đến nhà chớ đánh chó
Chú bác đến nhà chớ mắng con.
- Của do mình làm ra tựa nước mạch
Của cha mẹ để lại tựa như của trôi sông.
- Chồng làm nên ông, nên quan
Bởi vợ khôn ngoan, hiền lành.
- Nuôi em khó chiều tính
Nuôi con khó chiều lòng
- Chồng tốt như lạt buộc nhiều vòng
Chồng hư như tổ ong buộc cổ
- Chiều chồng không dệt được vải
Chiều con không có ăn
- Cây gãy còn gốc
Thuyền vỡ còn mái chèo
Cha chết còn chú còn bác
Truyện thơ
Ở Hoà Bình, truyền thống thơ ca của người Mường, người Thái là nổi bật nhất. Điều
này thể hiện rõ nhất ở những áng sử thi dài hàng ngàn câu. Chủ đề chính ở các tác
phẩm truyện thơ là tình yêu nam nữ với những mối tình say đ
ắm của những đôi trai, gái
do hoàn cảnh mà trở thành những bi kịch của cuộc đời. Chính nỗi đau thương, day dứt
của sự tan vỡ, mt mát, thất vọng về tình cảm ấy lại trở thành ngu
ồn cảm hứng cho các
nghệ sỹ dân gian sáng tác ra những truyện thơ nổi tiếng như Nàng Nga- Hai Mối, Út
Lót- Hồ Liêu, Vườn hoa núi cối… Tất cả những truyện thơ này đều là chuyện về tình
yêu nam nữ với chủ đề lên án chế độ hôn nhân cưỡng ép của chế độ gia đình ph
quyền rất rõ rệt… Các truyện đều có cái kết dữ dội bằng những cái chết đau xót của
các nhân vật chính và ph.
Tuy chủ đề tình yêu là cối lõi của tất cả các truyện, song trên cái nn ấy là c một bức
tranh sinh hoạt văn hoá vô cùng đa dạng và phong phú ca chủ nhân sinh ra nó. Chỉ
cần điểm qua vài nét chính trong truyện Nàng Nga- Hai Mốt ta sẽ thấy rất rõ điều ấy.
Đây là quang cảnh ngày mở chợ:
Ngày mở chợ
Ba hồi trống đánh
Hết làng trên xóm dưới
Con trai đầy sân,
Con gái đến đầy cửa đầy nhà
Cơm trong mồm chưa kịp nhá
Cá trong mồm chưa kịp nuốt
Tru trong khăn chưa kịp lấy,
Chín mươi làng trên
Đều mang bương gianh ra mở chợ.
Trong bối cảnh hết sức tưng bừng, sôi động ấy, tình yêu trai gái nảy nở một cách t
nhiên, tự do để rồi thề ước với nhau một niềm chung thuỷ son sắt:
Nếu sai hẹn ước
Sẽ chết nơing Chu bến Động.
Nhưng:
Mẹ nàng tham bạc
Chú bác họ hàng đã tham ăn tham uống
Đã gả nàng cho ông vua Ai Ước.
Quang cảnh đánh giặc của chàng Hai Mối:
Giặc bên Bắc đang muốn tiến vào
Giặc bên Lào, bên Ngô đang thì tiến xuống
Ta phải cất công sang sông Chu, bến Động
Trên bờ cắm chông
Dưới sông thả cạm, thả bẫy.
Cuộc kiếm tìm người yêu không ngại ngần gian khổ:
Chàng lại ra đi
Hết rừng trúc qua rừng mai
Tìm đến chùa Thái Thúc xin Bụt phù h
Rồi chàng lại ra đi bốn đêm trắng
Bảy ngày liền
Chẳng thấy đâu là làng là xóm
Chỉ thấy ngàn cây bát ngát xanh xanh.
Cuối cùng là sự tuyệt vọng tìm đến cái chết mà chưa gặp được người mình yêu. Còn