Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

Niên luận "Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam"

1 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

MỤC LỤC

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI.............................................................................................. 3

2. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI ...................................................................... 5

3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, PHẠM VI TƯ LIỆU ............................. 5

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU................................................................................. 5

5. BỐ CỤC NIÊN LUẬN ............................................................................................... 6

6. QUY CÁCH TRÌNH BÀY NIÊN LUẬN................................................................... 7

I. VẤN ĐỀ DỊCH THUẬT HOÀNG HẠC LÂU Ở VIỆT NAM........................................ 8

1. Bản dịch Hoàng Hạc Lâu đầu tiên của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục...................... 9

2. Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và những ý kiến xung quanh bản dịch

này ................................................................................................................................ 11

2.1. Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu ......................................................... 11

2.2. Những ý kiến xung quanh bản dịch của Tản Đà .............................................. 14

3.Tiểu kết ...................................................................................................................... 16

II. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU HOÀNG HẠC LÂU Ở VIỆT NAM.................................... 17

1. Một hướng khai thác chung Vể Hoàng Hạc Lâu..................................................... 18

2. Hoàng Hạc Lâu trong sách, báo, tạp chí nghiên cứu và các tài liệu khác. ............. 19

3.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam................................ 25

III TỪ TÁC PHẨM ĐẾN TÁC PHẨM.......................................................................... 26

1.Nguyễn Du tỏ lòng tri âm với Thôi Hiệu. ................................................................. 27

1. Thơ viết khi qua lầu Hoàng Hạc.......................................................................... 30

3.Lời nhắn gửi của Vũ Hoàng Chương ....................................................................... 32

4.Tiểu Kết ..................................................................................................................... 33

2 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

A. PHẦN MỞ ĐẦU

1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI

Thơ Đường “…Không chỉ có vị trí đặc biệt trong thơ ca Trung

Quốc mà còn có vị trí độc đáo trong lịch sử thơ ca thế giới. Các dân tộc

Phương Đông có mối quan hệ mật thiết với nền văn học Trung Quốc, trong quá

trình xây dựng nền thơ ca của mình đều có ít nhiều tiếp thu ảnh hưởng của thơ

Đường.” Mặc dù hàng ngàn năm đã trôi qua nhưng thơ Đường vẫn giữ được vẻ

tươi nguyên, xinh đẹp và quyến rũ của nó. Về mọi mặt: thi pháp, ngôn ngữ, vần

điệu, hình ảnh…thơ Đường vẫn là một đỉnh cao chói lọi mà thơ ca các dân tộc

trên thế giới và thơ ca đời sau khó có thể vượt qua được.

Việt Nam được coi là “Đất nước của thơ đường”( Trung tâm nghiên

cứu Quốc học). Qua thời gian, cùng với sự giao lưu về văn hoá thì thơ Đường

vẫn luôn giữ được vị trí hàng đầu trong tâm thức của người Việt. Thơ Đường

vào Việt Nam sớm nhất là bài Mẫn Nông của Lý Thân. “Bài thơ này đi vào các

nước Triều Tiên, Nhật Bản, Việt Nam và biến thành ca dao ở những nước

này”(Lê Đức Niệm_Diện mạo thơ Đường) và ở Việt Nam nó đã trở thành một

bài ca dao lao động phổ biến đến mức người ta quên mất thực chất đó là một

bài thơ Đường:

Sứ hoà nhật đương ngọ

Hãn trích hoà hạ thổ

Thuỳ tri bàn trung san

Lạp lạp giai tân khổ.

(Cày đồng đang buổi ban trưa

Mồ hôi thánh thót như mưa ruộng cày

Ai ơi bưng bát cơm đầy

dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần.)

3 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

Đặc biệt, đến với thơ Đường, người đọc được thả hồn mình theo

“một tiếng chuông chùa Hàn San”, một khúc Tỳ Bà Hành, đắm mình trong cái

mênh mông không gian và thời gian trong Thu hứng và rồi ngưng đọng lại

trong cái dư vang muôn thuở của Hoàng Hạc lâu . Học giả Kiều Văn đã nhận

xét rằng :” Nhiều câu thơ Đường đã trở thành câu nói cửa miệng trong nhân

gian như:…Hoàng Hạc nhất khứ bất phục phản”. Hạc Vàng đã bay về một

khung trời xa xôi nào đó nhưng Hoàng Hạc Lâu thì mãi mãi để lại những dấu

ấn khôn nguôi trong lòng người đọc.

Hoàng Hạc Lâu là tác phẩm được Thôi Hiệu viết trong phút xuất

thần khi đến thăm lầu Hoàng Hạc. Về sau Lý Bạch đến Lầu Hoàng Hạc thấy

cảnh đẹp muốn đề thơ nhưng thấy thơ Thôi Hiệu ở trên đầu đã nói hết ý của

mình nên buông bút không đề thơ nữa:

Nhân tiền hữu cảnh đạo bất đắc

Thôi Hiệu đề thi tại thượng đầu

(Trước mặt có cảnh không nói được

Vì thơ Thôi Hiệu ở trên đầu.)

Lời nói của Lý Bạch không phải là quá đáng. Vương Bột có đề thơ

ở Đằng Vương Các, Vương Xương Linh đề thơ ở Vạn tuế lầu, Đỗ Phủ đề thơ ở

đền thờ Thục tướng và ngay bản thân Lý Bạch cũng đề thơ ở Phượng Hoàng

lâu. Nhưng quả thực, không bài nào vừa mạnh mẽ, linh động, vừa uyển chuyển,

nhẹ nhàng tựa những áng mây như bài thơ của Thôi Hiệu. Nghiêm Vũ đời

Tống trong Phương lang thi thoại đã bình rằng :“Thơ luật thất ngôn của người

đời Đường thì Hoàng Hạc Lâu của Thôi hiệu phải là số một” hay như Kim

Thánh Thán, nhà phê bình văn học trứ danh cuối đời Minh đã viết: “Bài Hoàng

Hạc Lâu với bút pháp tuyệt kì quả thật là một tác phẩm đệ nhất cổ kim trong

thơ đường luật.” Chính bởi lẽ đó, tác phẩm này đã sớm được tiếp nhận ở Việt

Nam trên mọi phương diện ,dịch thuật cũng như nghiên cứu nội dung, tư tưởng

của nó.

4 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

Tuy nhiên, theo tìm hiểu của chúng tôi thì cho đến nay, mặc dù

Hoàng Hạc Lâu được xuất hiện trong hầu hết tuyển tập về thơ Đường và có

không ít bài viết về Hoàng Hạc Lâu của Thôi hiệu nhưng phần lớn vẫn chỉ là

những bài mang tính chất nhỏ lẻ, ngắn gọn, không thành hệ thống trên sách

báo. Những bài viết này hoặc cung cấp những bản dịch, hoặc đề cập, diễn giải

đôi chút về nội dung, nghệ thuật của tác phẩm. Nếu đem so với việc tiếp nhận

tác phẩm này với một số tác phẩm của “Tam đại thi hào” Đỗ Phủ, Lý Bạch,

Bạch Cư Dị thì quả là thiệt thòi cho tác phẩm “đệ nhất luật Đường” này. Bởi lẽ

đó, khi đến với trăm hoa đua nở của thơ Đường, chúng tôi chọn Hoàng Hạc

Lâu và chọn cho mình đề tài nghiên cứu là Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt

Nam.

2. MỤC ĐÍCH, Ý NGHĨA CỦA ĐỀ TÀI

Khi thực hiện đề tài này chúng tôi đi vào tìm hiểu quá trình dịch

thuật, nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam, tổng hợp một cách có hệ thống

những nghiên cứu về tác phẩm này, khảo sát mối liên hệ giữa tác phẩm và

người tiếp nhận, giữa tác phẩm với tác phẩm, và người tiếp nhận với người tiếp

nhận; từ đó đóng góp một chút ít vào việc tìm hiểu quá trình tiếp nhận kiệt tác

của Thôi Hiệu nói riêng và Đường thi nói chung ở Việt Nam.

3. ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI NGHIÊN CỨU, PHẠM VI TƯ

LIỆU

Đối tượng chủ yếu của đề tài này là tìm hiểu quá trình tiếp nhận và

diễn dịch Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam. Theo đó, phạm vi nghiên cứu của chúng

tôi là những vấn đề xung quanh tác phẩm này.

Về phạm vi tư liệu, chúng tôi chủ yếu dựa vào các tư liệu thành văn

bằng chữ Quốc Ngữ ( sách, báo, tạp chí…) từ đầu thế kỉ xx đến nay.

4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU

Ở đề tài này, chúng tôi chủ yếu tiếp cận tác phẩm từ góc độ mỹ học

tiếp nhận với các thao tác cụ thể như thống kê, thu thập tài liệu, mô tả qúa trình

5 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học tiếp nhận tác phẩm và lí giải, phân tích các vấn đề đặt ra khi tiếp nhận tác

phẩm, so sánh, đối chiếu để làm rõ đặc điểm tiếp nhận, cũng như vị trí của đối

tượng với chủ thể tiếp nhận.

5. BỐ CỤC NIÊN LUẬN

Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và tài liệu tham khảo thì phần

nội dung của niên luận chúng tôi gồm có 3 đề mục lớn với 10 đề mục nhỏ

tương ứng.

Ở đề mục I, chúng tôi đi vào tìm hiểu quá trình dịch thuật Hoàng

Hạc Lâu ở Việt Nam. Với nội dung như vậy, chúng tôi lần lượt khai thác các

vấn đề như về người đầu tiên dịch tác phẩm này, đặc biệt chúng tôi đi sâu vào

bản dịch của Tản Đà và những tranh luận xung quanh bản dịch của nhà thơ

này.

Sau khi làm rõ vấn đề dịch thuật Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam thì ở

mục lớn II, chúng tôi nói về vấn đề nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam.(

cả về nội dung và hình thức.).Theo đó, trước tiên chúng tôi đưa ra một hướng

tiếp nhận chung của hầu hết các nhà nghiên cứu về kiệt tác này , sau đó, thống

kê, mô tả và phân tích việc nghiên cứu tác phẩm này trong các nguồn tư liệu

như sách, báo, tạp chí…cuối cùng, chúng tôi đưa ra những đánh giá chung của

mình về vấn đề nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam.

Một tác phẩm để lại được dư vang của mình không phải chỉ dựa vào

việc người ta nghiên cứu, đánh giá về nó như thế nào mà còn thể hiện ở ảnh

hưởng của nó, ở việc người ta đồng cảm với nhà thơ, lấy thi hứng từ tác

phẩm…nắm được điều đó nên ở mục lớn III, chúng tôi đặc biệt đặt tiêu đề Từ

tác phẩm đến tác phẩm. Mục này thể hiện rất rõ mối liên hệ giữa đối tượng với

người tiếp nhận. Chúng tôi chia thành 3 đề mục nhỏ cơ bản là :

1. Nguyễn Du tỏ lòng tri âm với Thôi Hiệu

qua hai bài thơ Hoàng Hạc Lâu và Hán Dương vãn diêu

6 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

2. Thơ viết khi qua lầu Hoàng Hạc ( Lấy từ

Thơ đi sứ)

3. Lời nhắn gửi của Vũ Hoàng Chương

Đặc biệt, ở cuối mục I và III chúng tôi có những tiểu kết để nói lên

những ý kiến riêng của mình về mỗi vấn đề tương ứng.

6. QUY CÁCH TRÌNH BÀY NIÊN LUẬN

Đối với tên các tác phẩm của Trung Quốc và Việt Nam ở các công

trình nghiên cứu hay tên tác phẩm riêng, để tôn trong nguyên tác và tiện tra

cứu, chúng tôi để ở phiên âm Hán Việt, đồng thời in nghiêng (chỉ riêng Hoàng

Hạc Lâu là in nghiêng đậm).

Đối với tên các công trình nghiên cứu, niên luận, khoá luận hay

luận văn…chúng tôi sẽ in nghiêng. Các thông tin về công trình và các bài báo

như, xuất xứ, tên tạp chí, nhà xuất bản…chúng tôi sẽ ghi cụ thể ngay bên cạnh

và viết hoa toàn bộ. Phần phụ lục bao gồm các bản dịch được trình bày sau

phần kết luận. Và tài liệu tham khảo được sắp xếp theo thứ tự a, b, c…ở cuối

niên luận.

Một số kí hiệu được viềt tắt trong niên luận :

Sđd Sách đã dẫn

NXB Nhà xuất bản

Tr. hoặc Tr Trang

H Hà Nội

B. PHẦN NỘI DUNG

7 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

I. VẤN ĐỀ DỊCH THUẬT HOÀNG HẠC LÂU Ở VIỆT NAM

Dịch thuật là một công việc rất khó, không chỉ đòi hỏi người dịch

phải hiểu được nguyên lý dịch thuật, nắm rõ văn bản tác phẩm mà còn phải

thấm được vào hồn mình cái hồn của nó, có nghĩa là phải yêu nó. Nếu không

làm được những điều ấy thì bản dịch nếu không vụng về về hình thức, câu từ

thì cũng làm nhạt đi cái hay, cái sâu sắc của nội dung tác phẩm. Thơ Đường là

một trong những thành tựu chối loà của văn học Trung Quốc và nhân loại. Mỗi

bài thơ Đường là một thế giới nghệ thuật độc đáo, gợi ít mà ý nhiều, cô đọng,

hàm súc về nội dung, có tính chặt chẽ về niêm luật, thể loại, tính ước lê, cổ

kính trang nghiêm…tạo thành một thể riêng biệt. Chính bởi cái hay, cái độc

đáo, tinh tế ấy của thơ Đường đã đặt ra cho các dịch giả một thách thức lớn :

làm sao để có một bản dịch hay về một bài thơ Đường? Trên thực tế, mỗi dịch

giả có một phong cách sáng tạo và cách dịch thâm thuý khác nhau dưới các

khía cạnh thưởng ngoạn đa dạng với những nhận thức tinh tế, những cảm xúc

nghệ thuật, những rung động thẩm mĩ đa chiều khi đọc thơ Đường, vì vậy, có

rất nhiều bài thơ Đường mà số lượng bản dịch của nó lên đến hàng chục bài

như Tỳ Bà Hành của Bạch Cư Dị, Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế và cả

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu. Theo tài liệu mà chúng tôi thu thập được thì

cho đến thời điểm hiện nay, ở Việt Nam số lượng bản dịch Hoàng Hạc Lâu

không dưới 40 bài (kể cả bản dịch của nhà thơ lẫn người đọc). Điều này cho

thấy tác phẩm rất được quan tâm và thực sự có sức lôi cuốn với người đọc

nhiều thế hệ. Những bản dịch đó xuất hiện trong các tuyển dịch Đường thi

hoặc rải rác trong các báo, tạp chí, trên các trang web. Có thể nói, Hoàng Hạc

Lâu không bị phai nhạt theo thời gian mà ngày càng khẳng định được vị trí của

mình trong thế giới muôn hoa đua sắc của thơ Đường. Trong khuôn khổ niên

luận này, chúng tôi không thể đề cập hết tất cả các bản dịch mà chỉ đi vào hai

bài, một là bản dịch đầu tiên của Tùng Vân và một là bản dịch của Tản Đà_bản

dịch được đánh giá là thành công nhất.

8 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

1. Bản dịch Hoàng Hạc Lâu đầu tiên của Tùng Vân Nguyễn Đôn

Phục

Tùng Vân Nguyễn Đông Phục (1878_1954) được đánh giá là một

dịch giả không chỉ dịch nhiều thơ văn cổ Trung Quốc trên Nam Phong tạp chí

mà còn luôn thể hiện rõ ý thức dịch thuật của mình để bảo tồn và giới thiệu đến

những độc giả chưa hiểu rõ về Hán văn những bài thơ hay, đặc sắc của đất

nước này. Ông luôn luôn chú ý đến đối tượng người đọc có “tính cách phổ

thông”(Nguyễn Văn Hiệu) và vì thế, sau mỗi bản dịch của mình, ông đều có

thêm phần “lời giải kiêm lời bình” để giảng giải về nghệ thuật cũng như ý tứ

của bài thơ. Đặc biệt, Tùng Vân rất quan tâm đến việc dịch tác phẩm theo đúng

nguyên thể của nó. Trong bài “Ý thức văn hoá trong dịch thuật văn chương ở

Việt Nam từ cuối thế kỉ XIX đến năm 1945” TS Nguyễn văn Hiệu đã nhắc đến

chủ đích của Tùng Vân trong vấn đề dịch thuật là “ Cổ thi có lắm thể…Nay thể

nào dịch ra thể ấy, như thất ngôn, ngũ ngôn, lại dịch ra thất ngôn, ngũ ngôn,

chứ không dịch ra lục bát; là ý bảo tồn lấy thể cách, không những chải chuốt

lấy âm vận mà thôi”. Thực tế, theo chúng tôi tìm hiểu thì Tùng Vân có dịch thơ

văn cổ Trung Quốc ra lục bát như bài Quy khứ lai từ của Đào Tiềm. Điều đó

cho thấy cái tài của ông và thể hiện ông không quá cứng nhắc với các thể loại

thơ dịch. Chỉ có điều, ông luôn coi trọng con đường giữ gìn nguyên thể hơn

như một ý thức “bảo tồn, giới thiệu vốn văn chương cổ Á Đông”.( Nguyễn văn

Hiệu). Dịch hàng trăm bài thơ Đường, xuất hiện trên hầu khắp các tuyển dịch

thơ Đường ở Việt Nam, có rất nhiều bản dịch của Tùng Vân không chỉ lột tả

được cái thần của nguyên tác mà còn có cách diễn đạt rất gần gũi với lời ăn,

tiếng nói, cách cảm, cách nghĩ của người Việt.

Theo hệ thống tư liệu mà chúng tôi thu thập được thì chính Tùng

Vân Nguyễn Đôn Phục là dịch giả đầu tiên của Việt Nam dịch Hoàng Hạc Lâu

ra tiếng Việt. Ông đã dịch thi phẩm tuyệt bút của Thôi Hiệu theo đúng mục

9 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học đích dịch thuật của mình là giữ đúng nguyên thể tức là dịch theo thể Đường

luật.

Người tiên xưa cưỡi hạc vàng cút

Ở đây chỉ những lầu hạc trơ.

Hạc vàng đã cút chẳng về nữa,

Mây trắng nghìn năm còn phất phơ.

Sông bọc Hán Dương cây xát xát,

Cỏ liền Anh Vũ bãi xa xa.

Ngày chiều làng cũ đâu chăng tá,

Mây nước trên sông khách thẫn thờ!

Khi dịch thuật, Tùng Vân đã cố gắng để truyền tải cái thần của bài

thơ, một thi phẩm mà thi tiên Lý Bạch cũng đành gác bút mà đi. Nhưng có lẽ,

do quá coi trọng nguyên thể và niêm luật nên ông đã dịch bài thơ này có phần

gượng ép. “Khứ” trong nguyên bản được ông dịch là “cút” thì thực là

“vụng”(chữ của Nguyễn Văn Hiệu). Về nghĩa, “khứ” là bỏ đi, là nghĩa chủ

động, còn “cút” lại như bị xua đuổi. Dịch như vậy có lẽ đã làm cho bài thơ

giảm đi cái ý vị của nó. Nói về điều này, trong “Một bản dịch của Vũ Hoàng

Chương”, Nguyễn Huệ Chi cho rằng Tùng Vân đã “hạ một chữ ngang ngược

ngay cuối câu đầu” .Và trong Vấn đề dịch thơ Đường ở Việt Nam Nguyễn

Tuyết Hạnh cũng cho rằng “Điều mà ai cũng biết là dịch được theo nguyên thể,

theo cả luật bằng - trắc nữa thì làm cho bản dịch trung thực hơn, nhiều nhạc

tính hơn. Nhưng có những bản dịch mà dịch giả cố gắng đi đúng theo nguyên

tác cho đến cả âm điệu bằng - trắc nhưng chỉ làm cho bản dịch non kém về

nghệ thuật chuyển dịch và không gây được cảm xúc”, đề cập đến vấn đề này

chính là bà đang muốn nói đến bản dịch của Tùng Vân Nguyễn Đôn Phục. Quả

thực, nói về bản dịch Hoàng Hạc Lâu của Tùng Vân, chưa có một lời khen nào

thực sự, có chăng chỉ là sự bênh vực cho người đầu tiên chuyển bài thơ này

sang chữ quốc ngữ, một người coi trong nguyên thể và có ý thức văn hoá trong

10 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học dịch thuật văn chương. Như trong bài viết của mình, Nguyễn Văn Hiệu đã nói

rằng: “ …việc đánh giá đóng góp dịch thuật phải được nhìn nhận từ ý thức văn

hoá của người dịch chứ không thể cứng nhắc lấy những tiêu chuẩn chung của

dịch thuật để phán xét”. Đó là người viết đã nhìn nhận theo góc nhìn văn hoá

nên đã lên tiếng bênh vực cho Tùng Vân ở điều đó còn thực tế, bản dịch hay

hay không là do sự đón nhận của độc giả và thái độ của độc giả với những bản

dịch ấy.

2. Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu và những ý kiến

xung quanh bản dịch này

2.1. Bản dịch của Tản Đà Nguyễn Khắc Hiếu

Trong mấy chục bản dịch về Hoàng Hạc Lâu từ trước đến nay có

không ít bản dịch của những nhà văn, nhà thơ nhiều tên tuổi như Ngô Tất Tố,

Khương Hữu Dụng, Vũ Hoàng Chương…Nhưng bản dịch được biết đến nhiều

nhất và được yêu thích nhất là bản dịch của thi sĩ Tản Đà.

Trong Tản Đà dịch thơ Đường người viết đã ghi ra kinh nghiệm

dịch thơ Đường của ông: “ Trong việc dịch thơ Đường, đến chỗ nào khó mà

thường là chỗ hay của nguyên văn thì thường là dùng sức hơn, khi đó phải

dùng sức tưởng tượng…” Quả thật, Tản Đà là dịch giả thơ Đường xuất sắc nhất

ở nước ta trong những năm đầu thế kỉ. Là một nhà thơ lãng mạn, khi dịch thuật

“ông thiên về những bài thơ về tình yêu mang đậm chất trữ tình, nội dung nhẹ

nhàng, sâu sắc, nghệ thuật bóng bẩy, giàu hình ảnh tượng trưng, nhiều gợi

cảm”( Hồ Sĩ Hiệp). Có rất nhiều bài thơ Đường như thế được Tản Đà dành tâm

huyết và lột tả thành công cái thần của tác phẩm. Trường hận ca là một ví dụ.

Đây là một trong hai bài thơ được biết đến nhiều nhất của Bạch Cư Dị và có lẽ

ở Việt Nam, nhờ bản dịch của Tản Đà mà nó có sức sống trường tồn hơn. Khi

dịch thơ, Tản Đà “ không câu nệ quá nhiều vào việc chữ nghĩa, điển tích, điển

cố mà chủ yếu dùng cái “tâm”, cái “hồn” và cái “cảm” của bản thân để lột tả

hết cái hay thâm thuý, sâu sắc của thơ Đường”( Hồ Sĩ Hiệp ). Tản Đà đặc biệt

11 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học coi trọng vấn đề “ Việt hoá” trong câu thơ, bài thơ dịch. Giáo Sư Trần Thanh

Đạm đã nhận xét rằng: “ Trong việc khơi nguồn để đưa hồn thơ Đường tái sinh

vào thơ Việt, thi sĩ Tản Đà là một trong những người có công phu và công lao

vào loại bậc nhất”. Hay như loài nhận xét của nhà thơ Nguyễn Quang Huy

trong Thơ đường tứ tuyệt: “ Những câu thơ dịch vừa sát nghĩa, vừa lung linh

Việt hoá đến cao độ. Dịch thơ đạt đến độ thần diệu ấy, ở nước ta chỉ có Tản

Đà”. Trong tất cả các bản dịch thơ Đường của ông thì có lẽ, Hoàng Hạc Lâu là

một cái đỉnh mà khó có dịch giả nào vượt qua được.

Bản dịch Hoàng Hạc Lâu của Tản Đà được đăng trên báo Ngày

Nay , số 80, ngày 10.10.1937, là sự trở lại sự nghiệp dịch thơ Đường của ông

sau một thời gian vắng bóng. Nguyên văn bản dịch là:

Hạc vàng ai cưỡi đi đâu?

Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ.

Hạc vàng đi mất từ xưa,

Nghìn năm mây trắng bây giờ còn bay.

Hán Dương sông tạnh cây bày,

Bãi xa Anh Vũ xanh dày cỏ non.

Quê hương khuất bóng hoàng hôn,

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu được sáng tác theo thể thất ngôn

bát cú và được coi là “đệ nhất luật đường”(Nghiêm Vũ). Khác với nhiều dịch

giả khác cố gắng dịch tác phẩm kiệt tác này theo đúng niêm luật của nó, thi sĩ

Tản Đà chọn thể thơ sở trường của mình để dịch bài thơ. Tám câu thơ lục bát

Lầu Hoàng Hạc sừng sững như thế trong làng thơ dịch gần một thế kỉ nay và

được nhiều người công nhận là có thần thái không thua kém gì nguyên tác của

Thôi hiệu. Ngô Văn Phú đã từng nhận xét: “Tản Đà chắc “mê” bài thơ này lắm!

bởi nó cũng hợp với tính tình ông. Ông cũng lãm cảnh trên trời, lãm tu tiên, rút

cục vẫn là người trần thế. Ông đã dịch và bài dịch cho đến nay vẫn là hay

12 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học nhất.” Bản dịch đã Việt hoá nhưng không vì thế mà làm giảm đi cái thần của

tác phẩm. “Chọn thể lục bát, chính là Tản Đà đã thay những điệp từ rất đối

trong nguyên bản, bằng sự miên man của cấu trúc lục bát tự nó tạo ra một nỗi

buồn man mác…”(Ngô Văn Phú). Trong bài dịch của mình, Tản Đà đã thể

hiện một trình độ vượt trội khi dịch những từ Hán văn sang Quốc văn một cách

tài tình, tinh tế. Hai câu thơ đầu trong bài thơ của Thôi Hiệu:

Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ

Thử địa không dư hoàng hạc lâu

Trong hai câu này, từ “hoàng hạc” xuất hiện đến hai lần. Khó dịch

nhất là từ “khứ” ở câu 1 và “dư” ở câu 2. Theo Xuân Diệu thì cả Trần Trọng

Kim và Ngô Tất Tố đều chưa dịch đạt câu này:

Người đi cưỡi hạc từ xưa,

Đất này hoàng hạc còn lưa một lầu.

(Trần Trọng Kim)

Người xưa cưỡi hạc đã bay cao

Lầu hạc còn suông với chốn này.

(Ngô Tất Tố)

“Chữ “lưa” mà Trần Trọng Kim dịch là vụng về, cón chữ “suông”

mà Ngô Tất Tố dịch cũng không hay, chỉ có chữ “trơ” của Tản Đà là đúng và

thật tuyệt vời”.( Hồ Sĩ Hiệp ). Chữ của Tản Đà gợi một cảm giác trơ trọi, cô

đơn đến nao lòng người.

Theo các nhà nghiên cứu thì dịch thơ Đường phải đảm bảo 3 yêu

cầu, “tín”, “nhã” và “đạt”. Thế nhưng “Ngoài tiêu chuẩn “tín”, “nhã”, và “đạt”

thì bản dịch Hoàng Hạc Lâu của Tản Đà có mấy điểm nổi bật sau: đó là vần

điệu, nhịp điệu của câu thơ lục bát và giá trị biểu cảm của ngôn ngữ Việt”. Đọc

bản dịch của Tản Đà nhiều khi người đọc quen mất thực chất đó là một bài thơ

Đường. Tản Đà đã thổi vào bản dịch của mình một luồng gió “Việt hoá” làm

cho bài thơ trở nên gần gũi, dễ tiếp cận với mọi thế hệ người đọc.

13 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

“ Vì bài thơ Hoàng Hạc Lâu là một tuyệt tác nên đã có nhiều người

dịch ra quốc văn như Tản Đà, Trần Trọng Kim, Ngô Tất Tố, Bùi Khánh Đản và

Vô danh trong Đại cương văn học sử của Nguyễn Hiếu Lê…Những bài dịch đó

hầu hết đều sát nghĩa nguyên tác, nhưng theo chủ quan của tôi thì bài của Tản

Đà riêng san sẻ được cái thần của nguyên tác.” ( Quách Tấn ) Thật khó để có

được một bản dịch hoàn hảo cả về nghĩa, nhịp điệu, niêm luật… Mặc dù không

thiếu những đánh giá tiêu cực về bản dịch này nhưng có lẽ không ai không thừa

nhận đây thực sự là bản dịch hay nhất về Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu.

2.2. Những ý kiến xung quanh bản dịch của Tản Đà

Vấn đề này thực tế chỉ là những đánh giá của một số người được

viết nhỏ lẻ, dải dác trong một số cuốn sách hay báo, tạp chí. Ở đây, chúng tôi

cố gắng hệ thống lại để người đọc có thể thấy được những ý kiến xung quanh

bản dịch tuyệt tác này.

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu là một bài thơ thất ngôn nhưng Tản

Đà lại dịch theo thể lục bát, một thể thơ truyền thống của dân tộc. Chính bởi lẽ

đó đã có nhiều ý kiến nảy sinh về việc chọn thể loại dịch của nhà thơ. Như

Bàng Bá Lân, mặc dù ông rất yêu thích bản dịch của Tản Đà mà ông cho là “

Bản dịch sát nghĩa và giữ trọn được thi vị của nguyên tác, nhất là hai câu cuối:

Quê hương khuất bóng hoàng hôn

Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai.

So với câu dịch của Ngô Tất Tố :

Trời tối quê hương đâu tá nhỉ?

Đầy sông khói sóng gợi niềm tây.

Thì quả là một trăng một đèn”. Nhưng ông vẫn không “thoả mãn”

(chữ của Nguyễn Tuyết Hạnh) do Tản Đà đã chọn thể thơ lục bát. Ông cho

rằng : “ Dịch Đường Thi bằng thể lục bát chẳng khác nào đem bức tranh trang

trọng cổ kính của chiếc khung chạm sơn son thếp vàng mà lồng vào chiếc

khung trúc. Thanh nhã có thừa, nhưng vẻ trang trọng, cổ kính không còn nữa.”

14 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học Như vậy nghĩa là, Bàng Bá Lân coi trọng việc dịch thơ theo nguyên thể của nó,

và không hài lòng với việc chọn thể loại dịch của Tản Đà.. Hay Nguyễn Hiếu

Lê lại tiếc cho bản dịch của Tản Đà đã dịch bằng thể lục bát nên làm mất đi

tính đối ngẫu của bài thơ, nhất là trong hai liên 2 và 3. Ông còn cho rằng, bản

dịch của Vô Danh hay hơn nhờ giữ được nguyên thể. Chúng tôi thử đưa bản

dịch của Vô Danh ra đây cho bạn đọc có thể so sánh:

Người xưa cưỡi hạc vàng đi mất

Lầu hạc vàng trơ đứng chỗ nầy

Hạc vàng một đi chẳng trở lại

Mây trắng nghìn năm vơ vẩn bay

San sát bóng sông cây Hán đó

Dầu dầu ngọn cỏ bãi Anh đây

Quê nhà trời tối nào đâu nhỉ?

Sóng gió tuôn sầu, nhớ chẳng khuây.

Về âm điệu, nhịp điệu của bài thơ, trong Vấn đề dịch thơ Đường ở

Việt Nam, Nguyễn Tuyết Hạnh cho rằng “ Tản Đà chưa dịch được cái thảng

thốt, đột ngột của bài thơ : Nhật mộ hương quan hà xứ thị ? thật ra là một câu

hỏi nhưng câu dịch của Tản Đà lại là một câu kể, miêu tả”. Quả thật, thi phẩm

của Hoàng Hạc Lâu có một sự chuyển biến đột ngột giữa ba liên đầu với liên

cuối cùng. Như Hư Chu trong Để hiểu thơ Đường đã phê bình bài thơ của Thôi

Hiệu không thành công ở phương diện lập ý. Theo ý ông, mạch thơ lẽ ra phải

tiếp diễn cái ý hoài cổ thì lại quay ra nói về cảm xúc chủ thể. Nhưng theo lời

của Nguyễn Tuyết Hạnh thì “ Chính cái chuyển biến đột ngột đó làm cho câu

thơ trở thành thiên cổ, làm cho Thôi Hiệu trở thành “thi sĩ của một bài thơ””.

Theo ý chúng tôi thì người đọc đồng tình với ý kiến của Nguyễn Tuyết Hạnh

hơn bởi đó chính là cái tình của Thôi Hiệu, mà thực chất trong cảnh của ông

cũng đã có tình rồi!

15 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi còn đặc biệt chú ý đến quan

điểm của nhà giáo Nhật Chiêu, bài dịch của ông đã ra đời trên đường đi giảng

cho một lớp đại học ở Phú Yên. Theo ông thì “ Tản Đà chuyển chữ “dư” thành

“trơ” là chưa đắt”. Ông lí giải rằng, sau Thôi Hiệu thì còn có rất nhiều tao nhân

mặc khách đến lầu Hoàng Hạc, ngay cả thi tiên Lý Bạch cũng đã đến lầu này.

Như vậy là “ lầu Hoàng Hạc vẫn sống động, nếu dịch thành “trơ” thì e uổng

quá.”. Nguyễn Quốc Siêu trong Thơ Đường bình giảng dường như cũng đồng

tình với Nhật Chiêu. Ông cho rằng: “ Thử Địa không dư Hoàng Hạc Lâu nếu

dịch nghĩa là “Nơi đây chỉ còn trơ lại lầu Hoàng Hạc” hay dịch thành thơ như

Tản Đà: “Mà đây Hoàng Hạc riêng lầu còn trơ”, “Trơ lầu Hoàng Hạc chốn này

thôi”(Khương hữu Dụng” thì chưa lột tả được hết ý tứ của chữ “không””. Về

điều này thì Nhật Chiêu cũng như Nguyễn Quốc Siêu hoàn toàn đối lập với

Xuân Diệu bởi ông hết sức ca ngợi chữ “trơ” của Tản Đà và coi đó là cách dịch

đúng nhất và hay nhất

Như vậy, một bản dịch được đánh giá là thành công nhất, hay nhất,

truyền tải được nhiều nhất cái thần của bài thơ như bản dịch của Tản Đà thì vẫn

không tránh được những tiếng phê bình, những ý kiến khen chê của người đọc.

Điều này cho thấy, người đọc càng ngày càng được nâng cao về trình độ tiếp

nhận và vì thế có sự đòi hỏi cao hơn trong nghệ thuật phiên dịch của các dịch

giả.

3.Tiểu kết

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu là một tuyệt tác. Nhà phê bình Kim

Thánh Thán đã có lời bình sâu sắc: “Làm thơ không nhiều mà khiến cho Lý

Bạch phải gác bút, thì đúng là bậc đại trượng phu trong rừng bút mực vậy.”

Theo những tài liệu mà chúng tôi tìm được thì có đến gần 40 bản dịch về

Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam. Điều này cho thấy, thi phẩm này được tiếp nhận

một cách rầm rộ ở nước ta. Sau khi Tản Đà dịch thành công và luôn là văn bản

đi cùng với tác phẩm của Thôi Hiệu, ngỡ tưởng rằng sẽ khiến các nhà thơ khá

16 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học phải nhường bước nhưng sự thực không phải như vậy. Dù có chiêm ngưỡng và

không khỏi tấm tắc trước bản dịch của nhà thơ này thì “người trước kẻ sau vẫn

cứ muốn thử thách bút lực của mình”( Nguyễn Huệ Chi). Trong rừng bút đó có

các tên tuổi như Ngô Tất tố, Khương Hữu dụng, Trần Trọng Kim,…và không ít

bản dịch cũng được người đọc đánh giá cao như bản dịch của Vũ Hoàng

Chương. Ông không phải là nhà phiên dịch nhưng cũng bị Hoàng Hạc Lâu thu

hút nên đã để lại một bản dịch thất ngôn trong đó cái chất hào hoa của nhà thơ

nổi lên lấn át đi cái yêu cầu sát sao, chặt chẽ của thơ dịch. Bản dịch của nhà thơ

này vẫn được chọn lọc xếp cùng bản dịch của Tản Đà trong các sách phê bình

thơ Đường. Mỗi người một vẻ nhưng không được “mười phân vẹn mười”,

người được cái này thì mất cái kia, ngay như Tản Đà, được về từ, về ý thì lại bị

chê ở vấn đề chọn thể thơ dịch.

Mỗi người đọc có một sự đánh giá khác nhau về các bản dịch. Bản

dịch của Tản Đà được phần đông người đọc đánh giá là hay nhất. Trong khi đó,

có một số người lại có ý thích các bản dịch khác hơn như Nguyễn Hiếu Lê

thích bản dịch của Vô Danh hay Lam Điền thích bản dịch của nhà giáo Nhật

Chiêu….Nhưng theo ý của chúng tôi thì một bài thơ Đường, hiểu rõ được nó đã

khó, để dịch được còn khó hơn nhiều, vì thế cần có một cách nhìn nhận chính

xác với bản dịch của các nhà thơ và không nên quá cứng nhắc khi đánh giá, ít

nhất cũng phải thấy ở mỗi bản dịch một cái gì đó là tinh tế, sâu sắc và tài hoa

của dịch giả.

II. VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU HOÀNG HẠC LÂU Ở VIỆT NAM Thơ Đường xuất hiện ở Việt Nam từ rất lâu trong lịch sử. Từ thời

Lê, Nguyễn, hai tác gia nổi tiếng của nước ta đã đọc thơ Đường và kế thừa một

cách có chon lọc những tinh hoa thơ Đường vào sáng tác của mình. Đó là Ức

Trai Nguyễn Trãi và đại thi hào Nguyễn Du. Về sau một loạt các nhà thơ khác

có sự ảnh hưởng từ thơ Đường, đó là Bà huyện Thanh Quan, là Nguyễn Công

Trứ, Hồ Xuân Hương…và sau này có Tản Đà. Nhưng đó là tiếp nhận tác phẩm

17 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học thơ Đường trên văn bản, có nghĩa là, họ mượn ngôn ngữ, giọng điệu, cấu tứ của

thơ Đường để đưa vào thi phẩm của mình. Vần đề nghiên cứu, dịch thuật mới

chỉ được bắt đầu trong hơn một thế kỉ nay mà khởi đầu là bản dịch Tỳ Bà Hành

của Phan Huy Thực từ những năm đầu thế kỉ XIX.

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu được tiếp nhận có phần muộn màng

hơn khá nhiều và việc nghiên cứu bài thơ cũng không trở thành một trào lưu,

hệ thống như một số bài thơ nổi tiếng khác. Phong Kiều dạ bạc của Trương Kế

có hẳn một loạt bài tranh luận về nội dung bài thơ trên các báo, tạp chí, hay Tỳ

Bà Hành của Bạch Cư Dị cũng được nói đến rất nhiều. Viết về Hoàng Hạc

Lâu phần lớn chỉ là những bài nhỏ, dung lượng ít và hầu như không có “bút

chiến”. Bài thơ này hay, có thể coi là tuyệt tác, nhưng việc nghiên cứu về nó thì

lại bình lặng, có lẽ vì cách hiểu của người đọc về bài thơ hoàn toàn nhất quán

với nhau.

1. Một hướng khai thác chung Vể Hoàng Hạc Lâu

Như chúng tôi đã trình bày ở trên, Hoàng Hạc Lâu là một thi phẩm

có sự nhất quán trong vấn đề tiếp nhận nội dung, nghĩa là, trong quá trình thâm

nhập vào tác phẩm, hầu như không một độc giả nào có sự phá cách nhiều trong

việc thẩm thấu nội dung của nó. Tác phẩm là sự đan xen giữa quá khứ với thực

tại, giữa mộng và thực, giữa thế giới thiên nhiên và thế giới nội tâm con người.

Trong quá trình tìm hiểu tác phẩm, các nhà nghiên cứu, đọc giả chủ yếu đi vào

các vấn đề như : sự xuất hiện của yếu tố thần thoại, sự phá cách niêm luật

Đường Thi của Thôi Hiệu, sự chuyển biến nhịp thơ giữa liên 1, 2, 3 với liên 4,

và hai câu thơ cuối(đặc biệt là chữ “sầu” đọng lại ở cuối bài thơ ).

Yếu tố thần thoại được coi là cái nút mở ra không gian của bài thơ,

làm cho bài thơ mang ý vị hoài cổ, khơi nguồn cảm hứng cho tác giả và thể

hiện những cảm xúc từ sâu thẳm tâm hồn nhà thơ_ một lữ khách xa quê . Vấn

đề này được nói đến trong tất cả các bản dịch hay những bài phân tích, phê

bình của độc giả. Nhưng dường như chưa ai có sự tìm hiểu một cách cặn kẽ,

18 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học hay dành một sự đánh giá đúng nhất về tầm quan trọng của yếu tố này trong tác

phẩm. Ngay việc lí giải về tên tác phẩm, tích của Lầu Hoàng Hạc cũng có sự

ghi chép khác nhau ở nhiều văn bản. Điều này sẽ được chúng tôi nói đến trong

mục sau.

Vấn đề được nói đến nhiều nhất, tốn nhiều giấy mực nhất có lẽ là sự

phá cách niêm luật Đường Thi trong bài thơ này. Gọi là phá cách hay đúng hơn

là phá vỡ niêm luật chặt chẽ của Đường Thi nhưng tác phẩm này vẫn được

đánh giá là “Đệ nhất luật Đường”( Nghiêm Vũ). Các nhà nghiên cứu tập chung

đi vào phân tích sự phá cách ấy để chứng minh cho lời nhận xét của nhà phê

bình Nghiêm Vũ đời Tống và khẳng định sức sống, vị trí của bài thơ trong thơ

Đường và trong lòng người đọc.

Về hai vấn đề : sự chuyển biến nhịp điệu bài thơ từ liên ba xuống

liên 4 và hai câu thơ cuối, trong qúa trình nghiên cứu, hầu hết đều đưa chúng

vào phương diện biểu hiện của cái tình bên trong nhà thơ và lột tả rõ nhất tâm

trạng của Thôi hiệu. Khá nhiều nhà phê bình đi vào phân tích và đưa ra ý kiến

của mình về hai câu thơ cuối, đặc biệt, nhà thơ Huy Cận còn dùng hai câu thơ

của Thôi Hiệu để sáng tạo ý thơ của mình trong bài Tràng Giang nổi tiếng.

Như vậy, về vấn đề nghiên cứu, trước khi đi vào từng vấn đề cụ thể

được nói đến trong hệ thống tài liệu, chúng tôi trình bày khái quát việc nghiên

cứu Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam trong một hướng tiếp nhận chung của hầu hết

người đọc. Do đó, chúng tôi chỉ đưa ra những lý thuyết cơ bản, không thống kê,

phân tích và đưa ra dẫn chứng. Những công việc này, chúng tôi sẽ thực hiện

trong đề mục tiếp theo là nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu trong sách, báo, tạp chí

và các tài liệu khác.

2. Hoàng Hạc Lâu trong sách, báo, tạp chí nghiên cứu và các tài

liệu khác.

Thực tế, xung quanh thi phẩm của Thôi Hiệu không có một cuộc

bút chiến nào, có chăng chỉ là nhưng tranh luận nho nhỏ hay chỉ là sự “đóng

19 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học góp ý kiến” giữa các độc giả với nhau. Do đó, viết về Hoàng Hạc Lâu không

những không nhiều, dung lượng không đồ sộ, mà còn khá giống nhau. Chúng

tôi tìm được các bài viết về tác phẩm này chủ yếu trong các sách bình giảng,

một số bài nhỏ trên báo hay trên những trang web tin cậy.

Theo luật thi, một bài thơ Đường bảy chữ (thất ngôn bát cú),

nguyên tắc niêm luật phải chặt chẽ, phải tuân theo luật đối ngẫu, hai liên ở giữa

phải đối nhâu hài hoà cả thanh lẫn ý. Nhưng Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu là

một ngoại lệ. Đây là bài thơ tiêu biểu cho vấn đề phá cách niêm luật trong thơ

Đường. Bốn câu thơ đầu không theo đúng quy luật bằng _ trắc, làm ta tưởng

chưng như đó là một bài thơ cổ phong. Về vấn đề này, trong Những bài thơ

Đường nổi tiếng, Nguyễn Khắc Phi phân tích: “ Việc phá cách không gieo vần

ở cầu thứ nhất, việc dùng liến ba thanh trắc ở cuối câu thứ 3, việc dùng lối “tam

bình điệu’ ở câu thứ 4, việc dùng liền ba từ “Hoàng hạc”, hai chữ “không”, hai

chữ “khứ”, việc sử dụng cả hình thức đối ngẫu ở cặp đôi đầu và ở cả cặp đôi

đầu lẫn cặp câu 2, đối ngẫu đều có chỗ không chỉnh(khứ_Lâu, bất phục

phản_không du du), hiện tượng câu thứ 1 và câu thứ 3 đều không theo luật “nhị

tứ lục phân minh”…tất cả đều phục vụ đắc lực cho việc thể hiện nội dung, làm

nổi bật được những sắc thái tình cảm phong phú, tế nhị của tác giả…”.Hay

trong Các tác phẩm thơ Đường ở trường trung học cơ sở và trong học phổ

thông, tác giả cho rằng “Một loạt thanh trắc ở cuối câu 3 đã phá bỏ quy tắc

nghiêm ngặt “nhị, tứ, lục phân minh” trong thơ Đường làm cho âm điệu câu

thơ không được bình thường, gợi cảm giác tấm tức, đau đớn trước thục tại phũ

phàng…”. Do đây là một tài liệu giảng dạy trong trường phổ thông nên để học

sinh hiểu được điều này, các tác giả đac hướng dẫn giáo viên đặt câu hỏi như:

“Em có nhận xét gì về âm điệu hai câu thơ trên (câu 3, 4)?” hay “Tác giả sử

dụng toàn thanh trắc nhằm diễn tả điều gì?”(Lê Xuân Soạn)…Như vậy, khi nói

về vấn đề phá vỡ niêm luật Đường Thi của bài thơ thì các nhà nghiên cứu, phân

tích đều tập trung làm rõ để thể hiện cái tình của tác giả. Trong bốn câu thơ

20 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học đầu, thực tại và quá khứ, cảnh vật và cảm xúc, tả thực và suy tưởng đan xen lẫn

nhau, điệu văn đi thẳng một mạch từ đầu cho đến hết câu bốn “ khiến người

đọc hình dung ra được cái cảnh những đám mây trắng nhẹ nhàng lững lờ bay

trên không đưa hồn người lữ khách bay theo.’’ (Trần Trung San). Sự phá cách

của Thôi hiệu chỉ thể hiện trong bốn câu đầu mà đặc biệt là ở hai câu thực ( sử

dụng 6 vần trắc ở câu 3, đối không chỉnh với câu 4…). Niêm luật của thơ

Đường rất chặt chẽ, nhưng một bài thơ phá vỡ niêm luật chặt chẽ ấy như Hoàng

Hạc Lâu mà vần được đánh giá là “Đệ nhất luật Đường” phải chăng là điều vô

lí? Thật ra điều vô lí ấy lại không vô lí chút nào, không phải Thôi Hiệu không

biết niêm luật thơ Đường, nhưng nói như một số người là “ biết mà vờ như

không biết”, “ông đã tuân thủ nguyên tắc “ thơ lấy ý làm chính”, “không để từ

làm hại ý”, từ đó mạnh dạn phá vỡ một số trói buộc của thể thơ Đường”

(Nguyễn Khắc Phi). Đó cũng là một nguyên nhân khiến cho Hoàng Hạc Lâu có

ảnh hưởng sâu rộng đến thơ ca đương thời và đời sau.

Bài thơ là một chỉnh thể, mới đọc ta tưởng như có một sự phân chia

rất rõ ràng giữa bốn câu đầu và bốn câu sau, nhưng thực chất lai không phải

như vây. Ý thơ bốn câu đầu vừa giải thích tên lầu, vừa định vị lầu trong thời

gian, thể hiện một nhận thức tình cảm nhân sinh mang tính chất triết lí, vừa đặt

nền móng vững chắc cho ý cảnh thơ ở bốn câu cuối. Nhiều người cho rằng,

giữa bốn câu đầu và bốn câu cuối có một bước chuyển khá đột ngột về nhiều

mặt. Như Nguyễn Khắc Phi đã viết: “Từ cõi tiên về cảnh tục, từ cấu tứ lấy ý

làm chủ sang lấy cảnh làm chủ, từ trạng thái mông lung huyền ảo sang màu sắc

tươi tắn, rõ nét và về hình thức, từ phá cách mạnh mẽ quay về tuân theo nghiêm

chỉnh luật thơ…Rõ ràng, tù tâm trạng hoài niệm về một miền viễn khứ, nuối

tiếc, cô đơn, Thôi hiệu quay trở lại thực tại, ngắm bãi Hán Dương, cỏ Anh vũ

và cả bóng hoàng hôn gợi buồn, gợi nhớ…Có thể nói, ở bốn câu này, cảnh

không chỉ hoà quyện với tình mà còn xuất hiện một cách hợp lí trong không

gian, thời gian: từ xa đến gần, tù ban ngày đến hoàng hôn, tác giả đã miêu tả

21 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học sinh động những gì đã nhìn thấy, cảm nhận thấy từ lầu Hoàng Hạc đưa người

đọc từ suy tư, đắm chìm trong những cảm xúc đầy triết lí trở lại với thực tại với

cảnh sắc tươi tắn, bình dị và giàu sức sống. Trần Trung San đã từng viết về

điệu văn ở hai câu 5, 6 “Chậm lại và đi song song với nhau, nghiêm trang, tề

chỉnh và tiếp tục nặng nề đi đến câu cuối bài tận cùng bằng vần trầm tĩnh duy

nhất (sầu), miêu tả nỗi sầu miên man, dằng dặc đến vô cùng.” Bên cạnh đó

cũng có những ý kiến bình luận về sự thay đổi ý tứ bài thơ từ câu đề, thực, luận

chuyển sang câu kết. Hư Chu trong Để hiểu thơ Đường phê bình Hoàng Hạc

lâu hỏng về phương diện lập ý. Ông cho là đọc bài thơ và xét từng câu, từng ý

là kiệt tác nhưng đã hỏng về phương diện lập ý vì lẽ ra khi còn cần phải tiếp

diễn cái ý hoài cổ :”Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ…”thì bỗng nhiên Thôi

hiệu bỏ đi cái hoài cổ mà quay ra đột ngột :”Nhật mộ hương quan hà xứ thị,

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.” Nhưng như ý của Hư chu, nếu Thôi Hiệu

vẫn tiếp tục cái ý hoài cổ ấy thì bài thơ có trở thành tác phẩm số một của

Đường Thi không? Chúng tôi rất đồng tình với ý của Nguyễn Tuyết Hạnh trình

bày trong luận văn của mình, bà cho rằng: “Không có cái phút đột biến để

chạnh tình hoài thương thì bài thơ của Thôi hiệu đã không được Lý Bạch khâm

phục đến nỗi phải thốt lên “Nhãn tiền hữu cảnh đạo bất đắc, Thôi Hiệu đề thi

tại thượng đầu.”và đã không được Nghiêm Vũ đánh giá là “Đường nhân thất

ngôn luật thi, đương dĩ Thôi Hiệu Hoàng Hạc Lâu đệ nhất”.”

Trong Hoàng Hạc Lâu, có thể nói hai câu thơ cuối được tách riêng

với văn bản để đánh giá, bình luận nhiều nhất. Có lẽ bởi nó là sự cô đọng cảm

xúc của nhà thơ theo dòng chảy toàn bài, những cảm xúc thực nhất trước thiên

nhiên, đất trời, trước thời gian, không gian và nó gây được sự đồng cảm sâu sắc

với các thế hệ bạn đọc.

Nhật mộ hương quan hà xứ thị

Yên ba giang thượng sử nhân sầu.

22 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

“ Thời gian thì “nhật mộ”, không gian thì “ hà xứ thị “.Đâu là quê

hương? Đâu là bến đỗ của cuộc đời xế chiều?”( Trần Thị Bích Hải). Không

gian, thời gian ấy khiến thi nhân càng thêm buồn. Nỗi buồn trước đó là cái

buồn trước thời thế, thực tại phũ phàng, còn bây giờ là nỗi buồn xuất phát từ

chính bản thân chủ thể. Có nhiều người cho rằng không nên hiểu hai chữ

“hương quan” trong bài thơ này chỉ theo nghĩa hẹp là nơi chôn nhau cắt rốn mà

còn cần phải hiểu là một xứ sở mà ở đấy con người xưa kia có thể an cư, có nơi

nương tựa trong cuộc đời đầy sóng gió. Đó cũng là một cách hiểu. Nhưng có lẽ

như vậy hơi chung chung và có phần không phù hợp với cảm xúc của tác giả.

Nhà thơ Huy Cận sau này chịu ảnh hưởng hai câu thơ của Thôi Hiệu để viết hai

câu kết của Tràng giang :

Lòng quê rợn rợn vời con nước

Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.

Thôi Hiệu và Huy Cận cùng có chung một nỗi nhớ của người xa

quê. Nhưng, Thôi Hiệu nhìn thấy “khói sóng” trên sông mà nảy sinh tâm trạng

ấy, còn Huy Cận thì “ Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”! Dù sao “Hai câu

thơ của Huy Cận vẫn đậm chất Đường Thi, chất Thôi Hiệu trong cốt cách, tinh

tuý.”

Chữ “sầu” trong bài thơ là một “điểm nhãn”, nhưng lại được đặt

cuối bài thơ, làm cho nỗi sầu của thời gian, không gian dồn tụ tất cả vào trong

nó tạo nên một nốt trầm gieo xuống, trĩu nặng cả tâm hồn. “Hoá ra bài thơ 56

chữ thì 55 chữ là bước chuẩn bị tất yếu cho một chữ “sầu” dặt xuống, kết đọng

trong tâm.”( Trần Thị Bích Hải). Hay “ Vần “âu” trong chữ “sầu” là âm đóng

và có sự ngân dài như một nốt trầm trĩu nặng xuống tâm hồn.”(Lê xuân soạn).

Cách gợi về vần điệu câu thơ sẽ gợi được cảm xúc của thi nhân. Hiểu như vậy

nên trong trường phổ thông, giáo viên được hướng dẫn giảng giải cho học sinh

bằnh cách dặt ra những câu hỏi như: “ Em có nhận xét gì về vần điệu cuối bài

23 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học thơ ?”. Các gợi mở đó giúp cho việc tiếp nhận và phân tích tác phẩm của học

sinh được dễ dàng hơn rất nhiều.

Về bản thân hai chữ “Yên ba” cũng gây một chút tranh cãi trong

người đọc. Có người cho đó là tác giả nói đến con sông Yên ba gần lầu hoàng

Hạc, có người cho “yên ba” ở đây là chỉ khói sóng trên sông, tác giả nhìn thấy

mà lòng chạnh nhớ quê hương. Đây là cách hiểu của số đông và đúng hơn cả.

Trong Về một ý trong bài Hoàng Hạc Lâu Trên báo Văn Nghệ TP. Hồ Chí

Minh, Hoà Lạc đã đưa ra một số cách hiểu về ý “Yên ba giang thượng” trong

bài thơ. Theo tìm hiểu của ông thì trên báo văn nghệ của Hội Nhà văn Việt

Nam có tác giả giải thích hai chữ “yên ba” là “ hơi nước bốc lên mù mịt trên

mặt sông”, hay có ý kiến lại cho rằng: “ “yên ba giang thượng là mây chiều

bảng lảng phản chiếu xuống mặt sông rợn sóng.” Và một người khác cũng đưa

ra cách hiểu của mình: “yên ba là ảo giác của nhà thơ Thôi Hiệu, là “lòng ông

dậy sóng mà thôi”. Về phía mình, Hoà Lạc lại viết: “Hoàng hôn…từ trên lầu

Hoàng Hạc, Thôi Hiệu nhìn xuống dòng sông trước mặt. Gió chiều hiu hiu, mặt

sông lăn tăn gơn sóng….Hán Dương là một thị trấn nhỏ, có nhiều thuyền bè

xuôi ngược qua lại. Từ những con thuyền ấy bốc lên những ngọn khói nấu cơm

chiều. Bữa cơm ấy gợi lên cảnh đoàn tụ gia đình, và nhà thơ chạnh nghĩ tới

chiếc thân lưc khách đơn côi của mình mà nhớ nhà và buồn.” Chỉ có một ý thơ

mà có bốn cách hiểu khác nhau, và biết đâu trong mỗi người đọc lại có một

cách hiểu riêng của mình ? Thực ra, cả bốn cách hiểu như vậy về hai chữ “Yên

ba” chưa chắc đã có cách hiểu nào đúng với ý thơ của Thôi Hiệu, nhưng điều

thú vị ở đây là mỗi người hiểu theo một cách, đó là tính gợi cảm của ý thơ, câu

thơ.

Thống kê, mô tả lại ý kiến của người đọc về những vấn đề xung

quanh Hoàng Hạc Lâu, thực chất cũng là để một lần nữa thể hiện cho bạn đọc

thấy cái hay, cái đẹp, tinh tế và sâu sắc của bài thơ. Từ đó người đọc có thể tự lí

24 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học giải vì sao bài thơ này của Thôi Hiệu lại được đánh giá là bông hoa đẹp nhất

trong vườn hoa muôn sắc của thơ Đường.

3.Tổng quan về vấn đề nghiên cứu Hoàng Hạc Lâu ở

Việt Nam

Thơ Đường là một trong những thành tựu chói loà của văn học

Trung Quốc và nhân loại. Mỗi bài thơ là một thế giới nghệ thuật độc đáo,gợi ít

mà ý nhiều, ngôn ngữ cô đọng, hàm súc, giàu chất nhạc, chất hoạ. Hoàng Hạc

Lâu là một bài thơ như thế. Nghiên cứu về Hoàng Hạc Lâu không chỉ dừng lại

ở những phương diện như chúng tôi đã trình bày ở trên mà còn được mở rộng ở

những khía cạnh khác của bài thơ. Đó là những tìm hiểu một cách toàn diện của

người đọc, không chỉ là nội dung, nghệ thuật mà còn bao gồm các vấn đề về

văn bản, xuất sứ và những ảnh hưởng của nó với bản thân thơ Đường…

Riêng về cái tên Hoàng Hạc Lâu cũng có nhiều ý kiến khác nhau

về sự ra đời của nó. Sách Hoàn Vũ ký chép: “ Ngày trước có một ông tiên tên

Phí Văn Vĩ thường cưỡi hạc đi ngao du và có lần dừng chân tại lầu này. Do vậy

lầu đựơc cải danh là Hoàng Hạc Lâu.” Sách Tề Hài Chí lại chép: “ Núi Hoàng

Hạc, nguời tiên là Tử An thường cưỡi hạc bay qua.” Ngoài ra theo sử liệu Lý

Kiết Phủ đời Đường trong tập Nguyên Hoà Quận Huyện Chí có ghi chép: “

Năm thứ hai Ngô Hoàng Vũ, thành Giang Hạ là thành trì trấn giữ chống sự

xâm lược của các bộ tộc phía Tây. Phía Tây thành này gần sông lớn, góc Tây

Nam là cồn cát đá nên lập lầu canh, gọi là Hoàng Hạc Lâu.” Cũng có truyền

thuyết kể rằng cái tên Hoàng Hạc Lâu ra đời là do cô chủ quán rượu vì nhớ ơn

vị tiên dã giúp cô trở nên giàu có đã xây nên cái lầu ấy…Không thế nói ý kiến

nào đúng, ý kiến nào sai vì thực chất tất cả chỉ là truyền thuyết nhằm thi vị hoá

cách giải thích cho lầu Hoàng Hạc. Tuy nhiên, điều đó cho thấy Hoàng Hạc

Lâu có thể cuốn hút người đọc không chỉ vì cái tài hoa của Thôi Hiệu.

Về văn bản tác phẩm, theo như chúng tôi tìm hiểu thì cũng có một

vài cách ghi chép khác nhau. Ở hai câu đầu có bản lại ghi là: “ Tích nhân dĩ

25 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học thừa bạch vân khứ.” Theo nhà phê bình nổi tiếng đời Minh là Kim Thánh Thán

thì ghi chép như vậy là một sự sai lầm lớn. Giả sử người xưa mà cưỡi bạch vân

thì lầu này sao lại có tên là Hoàng Hạc? Hay như câu luận của bài thơ có bản

chép là: “ Phương thảo thê thê Anh Vũ châu” ý nói cỏ thơm rờn rờn ở Anh Vũ,

một bản khác là : “ Hoang thảo thê thê…” ý nói đám cỏ hoang ở bãi Anh Vũ

cung rầu rầu nhớ người xưa. Cũng theo Kim Thánh Thán thì viết “Phương thảo

thê thê”là sai vì không phù hợp với xúc cảm của thi nhân. Nhưng thực tế qua hệ

thống tư liệu chúng tôi tìm được thì phần lớn các bản chép là “Phương thảo thê

thê”. Một câu hỏi đặt ra ở đây là văn bản nào mới là chính xác của Thôi Hiệu ?

Và nếu chép như ở phần lớn tư liệu là sai thì tại sao đến nay vẫn được phổ biến

như vậy?

Bên cạnh đó, rất nhiều nhà phê bình đặt vấn đề so sánh Hoàng Hạc

Lâu của Thôi Hiệu với Kim Lăng Phượng Hoàng Đài của Lý Bạch. Tiên thơ

Lý Bạch đã từng gác bút trước Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu nhưng lại chịu

ảnh hưởng của tuyệt tác này khi sáng tác Kim Lăng Phượng Hoàng Đài. Có

một số ý kiến từ phương diện nội dung cho rằng bài thơ của Lý Bạch hay hơn

bài thơ của Thôi Hiệu vì đã đề cập đến một vấn đề có ý nghĩa xã hội thiết thực

hơn. Xong đa số cho rằng cả ở đây Lý Bạch vẫn chưa vượt được Thôi Hiệu : “

Không chỉ nội dung thơ Thôi Hiệu có tầm khái quát cao sâu hơn mà nghệ thuật

cũng siêu việt hơn, tình điệu thơ bay bổng, phóng túng hơn.”( Nguyễn Khắc

Phi). Sự so sánh này chỉ là tương đối bởi nó còn tuỳ thuộc một phần vào tình

cảm của người đọc dành cho mỗi nhà thơ. Tuy nhiên theo riêng ý của chúng tôi

thì cần có một sự đánh giá thoả đáng về cái tinh tế, sâu xa của mỗi bài mà nhất

là về vẻ đẹp của Hoàng Hạc Lâu.

Có lẽ những điều này mới là giai đoạn hoàn chỉnh trong vấn đề tiếp

nhận văn bản Hoàng Hạc Lâu giúp người đọc có cái nhìn sâu rộng hơn về mọi

khía cạnh của tuyệt phẩm này.

III TỪ TÁC PHẨM ĐẾN TÁC PHẨM

26 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

Một tác phẩm để lại âm vang của mình không chỉ bởi những tài hoa

của thi nhân gửi lại trong đó mà còn bởi những ảnh hưởng của nó đối với thi

hứng của các tác giả đương thời và thế hệ sau. Ở Việt Nam, Hoàng Hạc Lâu

được tiếp nhận từ rất sớm, cũng từ đó nhiều tác phẩm lấy thi hứng từ tác phẩm

này mà ra đời.

1.Nguyễn Du tỏ lòng tri âm với Thôi Hiệu.

Nguyễn Du là tác gia lớn của Việt Nam, là danh nhân văn hoá thế

giới, những sáng tác mà ông để lại có sức lay động mạnh mẽ đối với người đọc

mọi thế hệ. Trong cuộc đời mình, Nguyễn Du cũng có thời gian “Bắc hành” để

từ đó viết nên những bài thơ có sức sống lâu bền với lịch sử. Thơ Nguyễn Du

tiếp nhận rất nhiều thơ văn cổ Trung Quốc, đặc biệt là thơ Đường. Những ý tứ,

thể loại, hình ảnh, nhịp điệu trong thơ Đường được ông kế thừa và đưa vào tác

phẩm của mình một cách tinh tế. Nguyễn Du sáng tác nhiều bài thơ dùng

nguyên tên bài thơ có sẵn của Trung Quốc, có các lại thể tài như tạp ngôn, tạp

thi, ngẫu hứng…có loại chỉ thay từ chỉ địa danh ở đầu như Tương Giang dạ

bạc,…làm người đọc nhớ đến bài thơ nổi tiếng Phong Kiều Dạ Bạc của Trương

Kế đời Đường. Và có khá nhiều bài thơ giũ nguyên tên các bài thơ cổ Trung

Quốc như : Đăng nhạc Dương Lâu (Đỗ Phủ ), Hoàng Hạc Lâu ( Thôi Hiệu

)…Tuy nhiên, đề tài giống nhau không phải là điều quan trọng đối với các nhà

văn, nhà thơ thời trung đại mà “quan trọng hơn là nói sao cho hay hơn, cho lạ

hơn người xưa mới là quyết định.” (Trần Thế Bảo).Ngay trong thơ cổ Trung

Quốc cũng có những đề tại được nhiều nhà thơ cùng viết đến như Xuân oán có

Vương Chi Hoán và Lưu Phương Bình, Cô nhạn có Đỗ Phũ, Thôi Đồ…hoặc

các đề tài về chữ sầu, oán, hận,… Điều này thể hiện phong khí sáng tác của văn

học trung đại mà nhà thơ Nguyễn Du dùng lại đề tài của thơ cổ Trung Quốc

cung không nằm ngoài quy luật này, hơn nữa còn cho thấy ảnh hưởng sâu sắc

của văn hoá Trung Hoa đối với văn hoá Việt Nam và sự tiếp thu có sáng tạo

27 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học tinh hoa văn hoá Trung Hoa của các nhà Nho nói chung và Nguyễn Du nói

riêng.

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu với Nguyễn Du có một mối dây

liên hệ vô hình hàng ngàn năm. Trên đường đi sứ sang nhà Thanh, Nguyễn Du

qua lầu Hoàng Hạc. Trước cảnh kì vĩ của toà lầu đậm sắc màu huyền thoại kia,

Nguyễn Du giao cảm với người xưa để rồi sáng tác hai bài thơ Hoàng Hạc Lâu

và Hán Dương Vãn Diêu. Khác với thi tiên Lý Bạch, cảm phục bài thơ của

Thôi Hiệu mà không đề thơ nữa, thi nhân của Việt Nam lại khác. Có lẽ, việc

Nguyễn Du đề thơ không phải để người đọc so sánh, bình phẩm mà chủ yếu là

thể hiện lòng tri âm với nhà thơ Trung Quốc trước cảnh non nước mà mang

nặng nỗi ưu tư.

Hà xứ thần tiên kinh kì thì

Do lưu tiên tích thử giang mi?

Kim lai cỏ vàng Lư sinh mộng

Hạc khứ lầu không Thôi Hạo thi.

Hạm ngoại yên ba chung diểu diểu,

Nhân trung thảo trụ thượng y y.

Trung tình vô hạn bằng thuỳ tố,

Minh nguyệt thanh phong dã bất tri.

( Hoàng Hạc Lâu)

Bá vương trần tích thuộc du du,

Hán thuỷ thao thao trú dạ lưu.

Quy hạc lưỡng sơn tương đối ngạn,

Thần tiên nhất khấu chỉ không lâu.

Thi thành thảo thụ thai thiên cổ,

Nhất mộ hương quan cộng nhất sầu.

Tưởng tượng đương niên xuy địch dạ,

Bạch tần hồng liễu mãn định châu.

28 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

(Hán Dương Vãn Diêu)

Hai bài thơ này có nhan đề khác nhau nhưng cảm hứng của tác giả

đều bắt nguồn từ những điều quan sát được khi đến tham lầu Hoàng Hạc và vãn

cảnh chiều ở Hán Dương. Đồng thời không ít chi tiết trong bài thơ của Thôi

Hiệu được Nguyễn Du cảm nhận và thể hiện tinh tế trong hai bài thơ của mình.

Ở Hoàng Hạc Lâu, Nguyễn Du mở đầu bằng một câu hỏi, trong đó

có những ý tứ lấy từ Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu: “ Hà xứ thần tiên kinh kì

thì, Do lưu tiên tích thử giang mi?”( Dịch nghĩa là : Thần tiên ở đâu và trải qua

bao nhiêu dời rồi, mà còn để lại dấu vết trên bến sông này?) “Rõ ràng là ở đây

thần tiên không thấy mà cũng chẳng có hạc vàng, chỉ còn lại dấu vết duy nhất,

ấy là lầu Hoàng Hạc!”(PTS Nguyễn Huy Quát).

Trong bốn câu thơ đầu của Thôi Hiệu, “bằng nghệ thuật sử dụng

thanh điệu, điệp từ và cách gieo vần…nhà thơ đã nhấn mạnh một ý lớn : Câu

chuyện thần tiên không hề có thật và ước mơ thành tiên như Phí Văn vĩ cũng

chỉ là ảo vọng mà thôi”. Nguyễn Du đồng cảm với Thôi Hiệu ở ý này: “Kim lai

cỏ vàng Lư sinh mộng, Hạc khứ lầu không Thôi Hạo thi.”Như vậy là thần tiên,

hạc vàng chỉ có trong mơ ước, như giác mộng của chàng Lư. Cả hai nhà thơ

đều sử dụng rất linh hoạt các quan hệ từ đối lập ở từng hình ảnh thơ, từng dòng

thơ để tạo tứ thơ riêng cho mình. “Thôi Hiệu dùng hình tượng cụ thể, Nguyễn

Du lại hay dùng khái quát. Thôi Hiệu thì phóng khoáng mà tự nhiên, Nguyễn

Du thì trang trọng mà hào hoa…”(Trần Thế bảo) Đáng chú ý ở đây là “đối lập

kép”, hạc bay đi chỉ còn trơ lầu ở lại thể hiện sự đối lập giữ mất và còn, giữa

quá khứ và hiện tại, giữa thực và hư…”Cuộc đời bể dâu, hư ảo, vô thường là

cảm nhận chung của cả hai nhà thơ ở hai thời đại, của hai dân tộc Trung Hoa và

Việt Nam.”

Ở hai câu cuối, nếu như Thôi Hiệu chỉ miêu tả cảm nhận của người

lữ khách đứng trên lầu cao dõi mắt ra xa để thấy khói sóng trên sông, cỏ cây

mượt mà. Nguyễn Du đứng trên Hoàng Hạc Lâu “Ngàn năm trước Thôi Hiệu

29 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học đã “xuất thần” làm nên kiệt tác gửi gắm mối sầu thiên cổ. Giờ đây, đã lui lại cả

ngàn năm mà khói sóng ngoài cửa vẫn mênh mang, cỏ cây trước mắt vẫn mượt

mà”. Dường như, ở cả hai nhà thơ, hai bài thơ đều toát lên cảm giác cô dơn

trước cái mênh mang của không gian đất trời. Thôi Hiệu và Nguyễn Du đều

buồn. Thi hào Việt Nam cảm thông với thi nhân Trung Quốc về nỗi nhớ quê

hương, về sự cô dơn khi chiều buông xuống. Sự đồng cảm ấy còn sâu sắc hơn

khi bài thơ của Nguyễn Du cũng được viết trên đất khách, quê người. Ngô Văn

Phú cho rằng: “Bài thơ của Nguyễn Du tỉnh hơn, nhưng đã bổ sung cùng

Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu một nỗi buồn khác. Một nỗi buồn không da

diết bằng, tỉnh táo hơn, lạnh lùng hơn nhưng sự chán nản với cuộc đời xem ra

lại đậm đặc hơn.” Nhận xét này xem ra có phần đúng, bởi nỗi buồn đau của nhà

thơ Việt Nam “ còn ôm trùm cả nỗi buồn nhà thơ Thôi Hiệu ngàn năm trước và

không có gì chia sẻ được.”

Cổ nhân có câu: “Đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”. Hai

bài thơ của Nguyễn Du viết khi đi sứ sang Trung Quốc đã thể hiện rõ ràng tư

tưởng đó, bày tỏ lòng tri âm sâu sắc với nhà thơ Thôi Hiệu dù cho hai con

người ấy có sống cách xa nhau cả ngàn năm về thời gian…

1. Thơ viết khi qua lầu Hoàng Hạc

Nguyễn Du không phải nhà thơ Việt Nam duy nhất có những cảm

hứng sâu sắc khi qua Lầu Hoàng Hạc. Ngôi lầu để lại bài thơ bất hủ của Thôi

Hiệu gắn liền với câu chuyện “vứt bút không đề thơ” của Lý Bạch không làm

các nhà thơ Việt Nam nhường bước, họ vẫn thả sức mình viết về lầu Hoàng

Hạc để làm thoả mãn cảm xúc trào dâng trong lòng mình trước cảnh đẹp đất

trời, cỏ cây… Trong quá trình tìm hiểu, chúng tôi thu thập được 8 bài thơ của

các tác giả Việt Nam ( trừ hai bài thơ của Nguyễn Du) viết về lầu Hoàng Hạc

và tất cả đều được viết khi các nhà ngoại giao đi sứ qua đây.

Những người được cử đi sứ trước hết là những người có dũng khí

và đó cũng là những đại diện xứng đáng cho nền văn hiến của dân tộc, những

30 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học người mang phong thái, tâm hồn dân tộc, không chỉ thấu suốt kim cổ, thông

hiểu sử sách, giỏi ứng đối mà còn là những nhà thơ nổi tiếng để có thể làm đẹp

cho đất nước ở bên ngoài. Bên cạnh những bài thơ nói lên tình yêu đất nước,

lòng tự hào dân tộc, trên đường đi sứ, qua lòng đất nước Trung Hoa đã có biết

bao vần thơ của họ nói về cái đẹp của phong cảnh, tình người. Và nói tới mảng

thơ văn này thì không thể không nói đến những bài thơ viết về Hoàng Hạc Lâu.

Chúng tôi xin liẹt kê ra đât một số tác phẩm để người đọc được biết .

Thời nhà Trần có Phạm Sư Mạnh với bài thơ Hoạ Đại Minh sử Dư

Quý nói lên vẻ đẹp của bãi Anh Vũ, lầu Hoàng Hạc.

Thời Tây Sơn, có hai nhà thơ đi sứ tả lầu Hoàng Hạc là Phan Huy

Ích và Ngô Thì Nhậm. Phan Huy ích có hẳn ba bài thơ về đề tài này dó là: Vũ

Xương dịch thứ phụ quốc thư kí Ngô binh bộ, Du Hoàng Hạc Lâu hữu thi kí

Ngô binh bộ…” và Hán Thuỷ chu trình. Ngô Thì Nhậm có hai bài thơ là : Chu

trung vọng Hoàng Hạc Lâu và Đăng Hoàng Hạc Lâu phú.

Thời nhà Nguyễn có Nguyễn Du và Ngô Thì Vị. Nguyễn Du như đã

nói ở trên, có hai bài là: Hoàng Hạc Lâu và Hán Dương vãn Diêu. Ngô Thì Vị

có Hoàng Hạc Lâu.

Tất cả đều ca ngợi vẻ đẹp tuyệt vời của lầu Hoàng Hạc và phong

cảnh xung quanh và mỗi người có một tâm trạng riêng gửi vào bài thơ của

mình. Tuy nhiên ở đây, chúng tôi xin đưa ra bài thơ của Ngô Thì Vị vì “ không

có nhà thơ nào trước và sau Ngô Thì Vị đã miêu tả lầu Hoàng Hạc như ông đã

tả.” (Quang Lợi)

( bài thơ )

Bài thơ của ông có một chút ngang tàng, khí phách làm bài thơ

thoát hẳn ra khỏi khuôn sáo từ xưa: lên lầu nhìn mây trắng lòng người chỉ thấy

tang thương, thấy lòng buồn vô nghĩa. Đằng này thơ của Ngô Thì Vị không thế.

Thư đọc hai câu thơ cuối của ông:

Việt Nam sứ giả Ngô Thì Vị

31 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học

Đấu đảm đề thi kí thử du.

“ Câu trên như một dòng lạc khoán, câu dưới nói “mình lớn mật đề

thơ”. Có lẽ đây cũng là lần đầu tiên tên “Việt Nam” được đưa vào trong thơ.”

(Phạm Thiều_Đào Phương Bình).

Mây trắng ngàn năm vẫn trôi trên lầu vắng, vần thơ của Thôi Hiệu

vẫn được ghi khắc ngàn năm. Các nhà thơ Việt Nam đến đây “đăng lâu vọng

viễn” mang theo tâm tình thời đại, dân tộc mình, mang theo những tâm sự thầm

kín của mình nên những câu thơ không trở nên nhàm chán. Như vậy, không chỉ

Thôi Hiệu đề thơ ở lầu Hoàng Hạc, Nguyễn Du viết về Hoàng Hạc Lâu mà

con rất nhiều thi nhân Việt Nam khác lấy thi hứng từ không gian này và đều có

sự đồng cảm với nhà thơ Trung Quốc, chỉ là tấm lòng mỗi nhà thơ mỗi thời

mỗi khác mà thôi.

3.Lời nhắn gửi của Vũ Hoàng Chương

khác trong văn học trung đại đã khiến cho một tài thơ của văn học

hiện đại có một nỗi Những bài thơ về lầu Hoàng Hạc của Thôi Hiệu, Nguyễn

Du và nhiều nhà thơ đồng điệu. Đó là Vũ Hoàn Chương.Nhà thơ này không chỉ

dịch Hoàng Hạc Lâu của Thôi Hiệu mà còn có những lời nhắn gửi tri âm đến

nhưng thi nhân đời trước. Bài thơ của ông viết về lầu Hoàng Hạc như sau:

Đã bao giờ có hạc vàng đâu!

Mà có người tiên để có lầu!

Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở,

Lầm Thôi Hiệu trước, Nguyễn Du sau.

Hạc chưa thoát khỏi mê hồn kịch

Tiên vẫn nằm trong vạn cổ sầu

Trăng gió hão huyền như khói sóng

Nồi kê đã chín nghĩ mà đau…

Bài thơ này được Vũ Hoàng Chương làm một tháng trước khi qua

đời, cũng có thể coi như là một bài luận sự đời của ông. Ở bài thơ này có lẽ hay

32 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học nhất ở bốn câu thơ giữa : “Tưởng hạc vàng đi mây trắng ở….Tiên vẫn nằm

trong vạn cổ sầu.” “ Vũ cho rằng hai thi sĩ lừng danh Thôi Hiệu và Nguyễn Du

đều lầm cả…cứ tưởng là cõi tiên có thực ư?...làm gì ra có…” Có lẽ, lời nhắn

gửi của Vũ Hoàng Chương với thế hệ trước là ở đó, không có hạc vàng, không

có cõi tiên đâu…Nhưng tiếc thay, ông chỉ là nhà thơ sinh muộn sau nhiều thế

kỉ.

4.Tiểu Kết

Vậy là một vùng danh lam thắng cảnh để lại một bài thơ hay cho

đời sau….Để rồi cuốn hút biết bao nhiều tài thơ vào cuộc. Họ viết về lầu

Hoàng Hạc, viết về Hoàng Hạc Lâu và họ bày tỏ nỗi niềm tri âm cùng người

muôn năm trước. Bài thơ của Thôi Hiệu sống cũng một phần ở đó.

C. PHẦN KẾT LUẬN

Bao nhiêu thế kỉ đã trôi qua, cuôc đời đổi thay, sự vật biến rời

nhưng có một sự thật không thể thây đổi là sức sống của Đường Thi trong nền

văn học Việt Nam và vẻ đẹp lung linh của Hoàng Hạc Lâu trong tâm hồn mỗi

người yêu thơ Đường.

Những phá cách niêm luật, những đổi thay về nhịp điệu, lập ý, một

chữ “sầu” dai dẳng ở cuối bài thơ hay cả những vấn đề nhỏ xung quanh nó, tất

cả chỉ làm tôn lên vẻ quyến rũ của Hoàng Hạc Lâu và khẳng định bút pháp tài

hoa của “thi sĩ một bài thơ” Thôi Hiệu.

Việt Nam là đất nước của thơ Đường. Yêu mến thơ Đường bao

nhiêu thì có lẽ cũng yêu mến Hoàng Hạc Lâu bấy nhiêu, Bởi lẽ đó mới có

33 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao

Niên luận Tiếp nhận Hoàng Hạc Lâu ở Việt Nam Khoa: Văn học nhiều bản dịch, có những lời phê bình tâm huyết, và có những nhà thơ bày tỏ

lòng tri âm cùng nhà thơ của ngàn năm trước ây.

Hoàng Hạc Lâu chưa nêu lên được một nhân sinh quan tích cực

kiểu như: “ Nhân sinh tự cố thuý vô tử, Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh.” Như

Văn Thiên Tường song cũng không rơi vào quan điểm hư vô hành lạc kiểu

“Bỉnh chúc dạ du”. Những khát vong về một cuộc sống yên ổn, hạnh phúc của

thể hiện trong bài thơ bao giờ cũng được người đời sau trân trọng.

Mãi mãi, Hoàng Hạc Lâu sẽ còn đẹp trong lòng người bởi Lầu

Hoàng Hạc và Thôi Hiệu còn sống mãi cùng thời gian, trong lòng người đầt

Việt…

34 SV : Nguyễn Hồng Mơ GVHD : Phạm Ánh Sao