BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH
LÊ KÍNH THẮNG PHẠM TRÙ NỘI ĐỘNG/ NGOẠI ĐỘNG TRONG TIẾNG VIỆT (SO SÁNH VỚI TIẾNG ANH) CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN NGÔN NGỮ
Mã số: 62.22.01.01 LUẬN ÁN TIẾN SĨ NGỮ VĂN
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS.TS. Bùi Mạnh Hùng
2. PGS.TS. Hoàng Dũng
THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH – NĂM 2009
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan rằng luận án này là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu và dẫn
chứng đưa ra trong luận án là hoàn toàn trung thực và không sao chép từ bất kì một công
trình nào.
Tác giả luận án
LỜI TRI ÂN
Tôi xin được bày tỏ lòng tri ân sâu sắc trước hết tới PGS.TS Bùi Mạnh Hùng, người thầy đã hướng dẫn
tôi luận văn thạc sĩ và là người hướng dẫn 1 luận án này. Ngoài những động viên lớn lao ở phương diện
tinh thần, chính thầy là người đã giúp tôi lựa chọn đề tài, hướng dẫn phương pháp làm việc khoa học; đưa
ra những gợi dẫn quí báu đối với từng chương mục của luận án này.
Tôi xin được bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới PGS.TS Hoàng Dũng, người tham gia tập thể hướng dẫn
luận án này. Thầy đã cho những lời khuyên quí báu giúp tránh được những sai lầm mà một người mới bước
vào lĩnh vực nghiên cứu khoa học như tôi rất dễ phạm phải.
Tôi xin được bày tỏ lòng tri ân sâu sắc tới PGS.TS Trịnh Sâm, người đã động viên, giúp đỡ tôi rất
nhiều trong quá trình học tập, quá trình thực hiện luận văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ.
Có được luận án này tôi đã nhận được sự giúp đỡ quí báu cả về tri thức và tinh thần của GS.TSKH Lý
Toàn Thắng, GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, GS.TS Hoàng Trọng Phiến, PGS Hồ Lê, PGS. TS Đặng Ngọc
Lệ, PGS.TS Nguyễn Công Đức, TS Hoàng Cao Cương, PGS.TS Dư Ngọc Ngân, TS. Trần Hoàng, TS.
Nguyễn Thị Ly Kha, TS. Đỗ Thị Bích Lài, TS. Nguyễn Văn Bằng. Chính các thầy cô là những người
không tiếc công sức đọc và góp những ý kiến quí báu cho bản thảo luận án này.
Tôi cũng xin bày tỏ sự biết ơn chân thành tới Khoa Ngữ Văn, Phòng KHCN-Sau ĐH trường ĐHSP Tp
Hồ Chí Minh. Khoa và Phòng đã dành cho tôi những điều kiện tốt nhất trong quá trình học tập, nghiên cứu
từ khi tôi là học viên cao học đến nay.
Nhân đây tôi cũng xin gửi lời tri ân sâu sắc tới Trường CĐSP Đồng Nai, đơn vị tôi công tác. Ban
Giám hiệu, cán bộ các phòng ban và tập thể khoa Xã hội đã dành cho tôi những điều kiện thuận lợi nhất
trong suốt 3 năm thực hiện luận án vừa qua.
Cũng sẽ không thể hoàn thành luận án nếu tôi không nhận được sự giúp đỡ của đại gia đình tôi, bạn bè
thân hữu – những người đã có sự giúp đỡ quí báu về cả tinh thần lẫn vật chất. Tôi xin gửi tới họ những lời
tri ân chân thành nhất.
QUY ƯỚC TRÌNH BÀY 1. Để giản tiện trong trình bày, một số từ ngữ thường lặp lại trong luận án sẽ được chúng tôi viết tắt
như sau:
NgĐ
Ngoại động
BN
Bổ ngữ
VT
Vị từ
NĐ
Nội động
Một số ký hiệu khác:
Dấu /
hay, hoặc (chọn từ phía trước hoặc phía sau gạch xiên)
Dấu +
có
Dấu –
không (có)
Dấu ±
có hoặc không (có)
có thể chuyển thành, hay tương đương với
Dấu
2. Trong các ví dụ, những câu có đánh dấu * là những câu không chấp nhận được. Những câu có đánh
dấu ? là những câu không tự nhiên. Những từ trong ngoặc đơn là những từ có thể lược bỏ mà không
làm cho câu thay đổi về phương diện “có thể” hay “không thể” được người bản ngữ chấp nhận.
3. Các ví dụ được đánh theo thứ tự trong từng chương. Khi muốn tham chiếu về ví dụ ở chương khác
sẽ có chua thêm tên chương phù hợp.
4. Tên gọi các đơn vị chức năng cú pháp sẽ được viết chữ thường hoặc viết tắt nếu dùng thường
xuyên (chẳng hạn, chủ ngữ, BN) riêng Đề, Thuyết được viết hoa để tránh nhầm lẫn với tên gọi này
được dùng với nghĩa khác; tên gọi các vai nghĩa sẽ được viết hoa ở chữ đầu (chẳng hạn, Đích).
5. Trong luận án, một số chỗ chúng tôi dùng Đề/ chủ ngữ để chỉ một ngữ đoạn chức năng làm chủ ngữ
trong ngôn ngữ thiên chủ ngữ (chẳng hạn, tiếng Anh) và làm Đề trong ngôn ngữ thiên chủ đề (chẳng hạn,
tiếng Việt) – Đề, chủ ngữ được hiểu là những đơn vị chức năng cú pháp. Khi Đề (hoặc đề ngữ) được
dùng với tư cách là một đơn vị thuộc bình diện cấu trúc thông tin của câu, chúng tôi sẽ có chú thích
thêm.
DẪN NHẬP
0.1. ĐỐI TƯỢNG NGHIÊN CỨU VÀ LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI
Vị từ (VT) – một từ loại được coi là có tính phổ quát – với vai trò là thành tố thiết yếu trong việc tạo
câu (đơn vị giao tiếp cơ bản của con người), trở thành một trong những đối tượng nhận được sự quan tâm
đặc biệt của các nhà ngôn ngữ học. Có thể nói, không có một công trình về ngữ pháp nào mà lại bỏ qua
việc giới thiệu, khảo sát VT. Tuy nhiên, VT và những phạm trù liên quan cũng nằm trong số những vấn đề
còn gây nhiều bất đồng trong giới nghiên cứu trước đây cũng như hiện nay. Những công trình khảo sát về
VT cho thấy từ loại này đã được tiếp cận từ rất nhiều hướng, rất nhiều khía cạnh khác nhau. Mỗi hướng
tiếp cận cho ta những phát hiện khác nhau. Ngay trong một hướng tiếp cận, những đặc điểm, những khía
cạnh liên quan đến VT cũng được nhìn nhận rất khác nhau giữa các tác giả.
Trong giới Việt ngữ học, rất nhiều nhà nghiên cứu dựa trên các quan niệm, đường hướng tiếp cận
khác nhau đã bàn về ngữ pháp nói chung và VT nói riêng. Rất nhiều tác giả đã cố gắng xác định các tiêu
chí để nhận diện VT cũng như đề xuất các hướng miêu tả, phân loại VT. Tuy nhiên, cho đến nay, chưa có
tác giả nào đặt trọng tâm chú ý vào việc khảo sát phạm trù nội (NĐ)/ ngoại động (NgĐ) – một phạm trù
quan trọng, được coi là gắn bó mật thiết với VT. Nhìn chung các công trình nghiên cứu Việt ngữ chỉ điểm
qua về phạm trù NĐ/ NgĐ khi đề cập tới từ loại VT hoặc khi thảo luận về một số cấu trúc câu.
Luận án xác định đối tượng nghiên cứu là phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt và những vấn đề cơ
bản có liên quan. Cụ thể, luận án sẽ khảo sát một cách hệ thống các biểu hiện, các đối lập của phạm trù
NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt; đồng thời đối chiếu với những vấn đề tương ứng trong tiếng Anh để tìm ra
những tương đồng, dị biệt cơ bản nhằm tìm thêm luận cứ cho việc biện giải phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng
Việt.
0.2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ
0.2.1. Trên thế giới, phạm trù NĐ/ NgĐ đã được chú ý từ lâu. Phạm trù này thường gắn với việc
phân loại động từ trong các công trình ngữ pháp cổ điển. Các tác giả thuộc trường phái ngữ pháp Hy
Lạp cổ đại (như Aristotle, Thrax, Dyscolus, v.v.), trường phái La Mã cổ đại (như Donatus, Priscian,
v.v.), ngữ pháp Ấn Độ cổ (như Panini, v.v.) không chỉ đề cập tới vấn đề phân loại, tới việc xác định vị
thế động từ trong hệ thống từ loại mà còn bàn cả về vấn đề phân chia động từ thành nội động từ và
ngoại động từ (x. [83, tr.18-76]). Phạm trù NĐ/ NgĐ được các nhà ngữ pháp trung cổ và các nhà ngữ
pháp hiện đại không ngừng tìm hiểu. J. Vendryès đã phải nói rằng: “Sự phân biệt ấy (NĐ/ NgĐ) được
các nhà ngữ pháp luôn dùng đến; nó có vẻ tự nhiên đến nỗi người ta chẳng buồn định nghĩa nữa, người
ta bảo tự nó thế.” [dẫn theo 82, tr.95]. Nhìn chung trên thế giới, phạm trù NĐ/ NgĐ được hiểu rất khác
nhau.
0.2.1.1. Trước những năm 30 thế kỷ XX, các định nghĩa về phạm trù NĐ/ NgĐ thường dựa trên
tiêu chí nghĩa. J. Nesfield (1898) cho rằng: “một động từ là NgĐ khi mà hành động không dừng ở Tác
thể (agent), mà đi qua một cái gì khác” còn “một động từ là NĐ khi mà hành động dừng lại ở Tác thể
và không đi từ Tác thể tới bất cứ cái gì khác” [185, tr.64]. Với cách hiểu như vừa trình bày trên, phạm
trù này chỉ áp dụng cho một số động từ thuộc nhóm động từ hành động. Tuy nhiên trong thực tế nhiều
động từ [–hành động] có chủ thể không hề tác động đến sự vật khác (như: know ‘biết’, see ‘nhìn’, love
‘yêu’, v.v), vẫn được coi là NgĐ [185, tr.64-65]. Vì thế, các nhà ngữ pháp bấy giờ đã phạm phải nhiều
mâu thuẫn khi đề cập đến phạm trù này.
0.2.1.2. Từ những năm 30 của thế kỷ XX, gắn với khuynh hướng ngữ pháp cấu trúc, NĐ/ NgĐ lại
được coi là phạm trù ngữ pháp thuần túy. Sau khi đã tách những động từ không có nghĩa từ vựng (động
từ nối và động từ tình thái), các nhà ngôn ngữ học chia động từ có ý nghĩa từ vựng thành hai loại: động
từ NgĐ và động từ NĐ. Các động từ được coi là NgĐ khi nó kết hợp với một bổ ngữ (BN) trực tiếp, các động từ còn lại là NĐ ([155, tr.305]; [192, tr.117]; [193, tr.5])1. Trong nỗ lực hình thức hoá, khách
quan hoá các tiêu chí nhận diện, các nhà ngữ pháp học thời kì này đã cố gắng xác lập những dấu hiệu
hình thức trong việc định nghĩa, cũng như phân loại, miêu tả động từ NĐ và NgĐ. Tuy nhiên, việc sử
dụng duy nhất tiêu chí hình thức ngữ pháp đã khiến cho việc phân loại, miêu tả gặp nhiều khó khăn,
đặc biệt với các ngôn ngữ không biến hình (x. mục 1.5).
0.2.1.3. Trong những thập niên cuối thế kỷ XX, các nhà ngôn ngữ học tiếp tục dành sự quan tâm
đáng kể đến phạm trù NĐ/ NgĐ.
Các nhà ngôn ngữ học thuộc trường phái ngữ pháp tạo sinh xác định NĐ/ NgĐ dựa trên cơ sở sự
chi phối trật tự và tầng bậc (order and hierarchical dominance) các thành tố. Theo đó, chủ ngữ là một ngữ
đoạn danh từ bị chi phối trực tiếp bởi câu còn BN trực tiếp là ngữ đoạn danh từ bị chi phối trực tiếp bởi
ngữ động từ. Câu NgĐ là kiểu câu có một chủ ngữ và một BN trực tiếp (x. [199, tr.11]). NĐ/ NgĐ được
xem như là một phạm trù gắn chặt với câu. Ngữ pháp tạo sinh cũng cho rằng mô hình câu NgĐ như đề
cập trên là mô hình cơ bản (cấu trúc sâu), ở các mô hình cú pháp khác (cấu trúc bề mặt) vai trò của các
thành tố có thể thay đổi. Trong một số ngôn ngữ, nhất là các ngôn ngữ có trật tự không phải là SVO và
các ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ tác cách (ergative), quan hệ giữa các thành tố trong cấu trúc không
nhất thiết tuân theo kiểu chi phối như các nhà ngữ pháp tạo sinh đề xuất ở trên.
Nhiều nhà ngôn ngữ học đã có đóng góp quan trọng trong việc tìm hiểu phạm trù NĐ/ NgĐ từ
góc độ loại hình khi đi tìm sự đánh dấu cách trên các ngữ đoạn chức năng (chủ ngữ [NĐ, NgĐ], BN
trực tiếp) cũng như tìm hiểu sự phù ứng của VT với các thành phần chức năng đó. Công trình tập thể
quy mô về “Chủ ngữ và Chủ đề” (‘Subject and Topic’) do Ch. Li chủ biên (1976) có một số bài viết đề
1 Một số tác giả còn thêm tiêu chí khả năng biến đổi sang dạng bị động. Một VT NgĐ bao giờ cũng có thể tham gia vào cấu trúc bị động [200, tr.8-15].
cập tới sự đánh dấu cách trên chủ ngữ, chủ đề cũng như sự phù ứng của động từ với các ngữ đoạn chức
năng trong các loại hình ngôn ngữ. Mặc dù không trực tiếp bàn về phạm trù NĐ/ NgĐ nhưng những
nhận xét về đặc tính, sự thể hiện các thành phần có liên quan đến động từ đã góp phần soi sáng, định
hướng ít nhiều cho việc tìm hiểu phạm trù NĐ/ NgĐ nói riêng và VT nói chung. Sau đó, hàng loạt
công trình tương tự tiếp tục khảo sát một cách chi tiết những vấn đề liên quan đến phạm trù NĐ/ NgĐ.
Có thể nêu ra các bài viết của E. Moravcsik (1978) về sự đánh dấu cách trên ngữ đoạn làm BN trực
tiếp [181], về sự phù ứng của động từ [182], của T. Givón (1978) về tính [±xác định] của các thành
phần chức năng [151], v.v. Điều cần ghi nhận là những nghiên cứu của họ đã cho thấy tìm hiểu phạm
trù NĐ/ NgĐ cần phải chú ý tới cả đặc điểm ngữ nghĩa của các thành phần chức năng gắn với VT.
Một điểm mốc quan trọng trong việc nghiên cứu phạm trù NĐ/ NgĐ là công trình của P. Hopper
và S. Thompson đăng trên tạp chí “Language” (Ngôn ngữ) số 2 năm 1980. Trong bài viết này, các tác
giả đã đưa ra một chùm mười tiêu chí nhằm nhận diện phạm trù NĐ/ NgĐ. Tùy theo mức độ thỏa mãn
các tiêu chí đã nêu, tư cách của VT cần xét sẽ được xác định. Phạm trù NĐ/ NgĐ được các tác giả xem
là gắn chặt với câu và nó bị chi phối đáng kể bởi các nhân tố hoàn cảnh sử dụng (những nhân tố thuộc
về dụng pháp).
Một số tác giả đã xem NĐ/ NgĐ không chỉ là phạm trù ngữ pháp mà còn là phạm trù ngữ nghĩa,
gắn với cấu trúc ngữ nghĩa của VT. Chẳng hạn, khi định nghĩa VT NgĐ, T. Givón (1984) đã sử dụng
cả cơ sở cú pháp ([±BN trực tiếp]) và cơ sở ngữ nghĩa (số lượng và kiểu vai nghĩa của các tham tố).
Theo ông, “những VT có một chủ ngữ Tác thể (agent subject) và một BN trực tiếp Bị thể (patient
direct-object) là những VT NgĐ” [152, tr.91]. Việc kết hợp cả hai tiêu chí này đã tạo ra một cách hiểu
mới có giá trị giải thích và vận dụng rất hiệu quả. Và tiến xa hơn, tác giả đã đưa ra khái niệm NgĐ điển
hình (prototypical transitive verbs) và NgĐ kém điển hình (less prototypical transitive verbs) để phân
chia VT NgĐ. Bằng cách này, tác giả đã kế thừa được lối phân loại truyền thống (căn cứ vào nghĩa)
nhưng cũng không làm mất đi tính triệt để, khoa học trong quá trình nhận diện, phân loại VT.
Một hướng tiếp cận rất đáng lưu ý liên quan tới phạm trù NĐ/ NgĐ là quan niệm của trường
phái Ngữ pháp Chức năng hệ thống mà người khởi xướng là M. Halliday. NgĐ/ chuyển tác
(transitivity) không được hiểu như là một phạm trù của động từ mà là một phạm trù thuộc về mệnh
đề/ cú (clause). Đó là một “hệ thống ngữ pháp nhằm phân thế giới khái niệm thành một tập hợp các
kiểu quá trình (process types)” [29, tr.205]. Chuyển tác được hiểu là cách tổ chức các mô hình cú
pháp liên quan đến (i) lựa chọn một quá trình (một kiểu động từ); (ii) lựa chọn các diễn tố (kiểu và số
lượng các tham tố bắt buộc); (iii) lựa chọn các chu tố (kiểu và số lượng các tham tố tự do) [142,
tr.299]. Kết quả của việc lựa chọn trên là sự hình thành của một trong ba quá trình: quá trình vật
chất, quá trình tinh thần, quá trình quan hệ. Như vậy chuyển tác là kiểu mô hình cú pháp liên quan
chặt chẽ đến phương diện nghĩa (thể hiện thế giới kinh nghiệm bên ngoài). Cách hiểu chuyển tác như
trên có nhiều khác biệt so với cách hiểu thuật ngữ NgĐ (với tư cách là một phạm trù ngữ pháp của
VT) mà luận án đề cập tới vì thế thuật ngữ chuyển tác và nội hàm của nó chỉ được xem là một cơ sở
tham khảo thêm trong các phần sẽ trình bày tiếp theo.
Y. Testelec (1998) khi bàn về các tiêu chí nhận diện phạm trù NĐ/ NgĐ, đã đưa ra nhận xét
chung về cách hiểu phạm trù này trong giới ngôn ngữ học đồng thời đề xuất một số tiêu chí nhận diện.
Theo tác giả, hiện có hai hướng phân loại ngữ pháp cơ bản: (i) dựa trên những đặc tính thuộc về hình
thức của từ, không dựa vào hoặc dựa rất ít vào ngữ nghĩa; (ii) dựa trên những đặc tính ngữ nghĩa kiểu
như động vật tính (animateness). Tác giả cho rằng lối phân loại NĐ/ NgĐ giống với lối phân loại các
đơn vị từ vựng, là lối phân loại dựa vào tư cách cú pháp của chúng – một lối phân loại cho thấy có sự
giao thoa (overlap) ít nhiều giữa các ngôn ngữ. Cũng trong công trình này tác giả đã cho rằng theo
quan niệm truyền thống phổ biến nhất hiện nay thì “những động từ có diễn trị BN trực tiếp (direct
object valency) được gọi là những động từ NgĐ, những động từ không có diễn trị BN trực tiếp là động
từ NĐ”. Để tránh những vấn đề rắc rối về mặt lí thuyết cũng như trong miêu tả cụ thể liên quan đến
khái niệm BN trực tiếp, một số nhà loại hình học đã sử dụng các khái niệm phổ quát dựa trên cơ sở
ngữ nghĩa, theo đó “một nhóm VT nhỏ, những VT hủy diệt và tạo tác (verbs of destruction and
creation), được coi là NgĐ ở dạng cơ bản có thể thấy trong tất cả các ngôn ngữ. Và, bất kì VT nào đòi
hỏi cấu trúc tương tự như các VT này đòi hỏi thì đều được gọi là NgĐ.” [210, tr. 29]. Đồng ý với quan
điểm cho rằng NĐ/ NgĐ có thể được xác định dựa trên cơ sở ngữ nghĩa (semantic base), tác giả đã đi
sâu bàn thảo về giá trị của hai tiêu chí có liên quan đến phạm trù NĐ/ NgĐ, đó là tính “bị ảnh hưởng”
(affectedness) và tính “chủ ý” (control). Dựa trên các tiêu chí này, ông đã đưa ra một bảng phân loại
các VT gồm tám loại dựa trên hai tiêu chí trên [210, tr.37]. Lối phân loại dựa trên đặc điểm ngữ nghĩa
của các vai nghĩa mà tác giả đề nghị cũng còn nhiều điểm cần trao đổi.
0.2.2. Ở Việt Nam, thái độ của giới Việt ngữ học đối với phạm trù NĐ/ NgĐ có thể chia thành hai
khuynh hướng chính sau.
0.2.2.1. Một số nhà Việt ngữ học phủ nhận sự tồn tại phạm trù NĐ/ NgĐ. Trong số này, có người
phủ nhận sự tồn tại từ loại trong tiếng Việt, do đó, NĐ/ NgĐ, vốn gắn với VT, cũng không được nhắc
tới. Quan niệm này có thể tìm thấy trong các công trình của M. Grammont & Lê Quang Trinh (1911),
H. Maspéro (1912), Hồ Hữu Tường (1949), Nguyễn Hiến Lê (1952), v.v.
Nguyễn Hiến Lê sau khi phân tích một số ví dụ trong tiếng Việt cũng như so sánh đối chiếu với
các ngôn ngữ biến hình đã cho rằng tiếng Việt không có từ loại nhất định. Lí do ông đưa ra là các từ
của tiếng Việt có thể tham gia vào các vị trí cú pháp khác nhau mà không thay đổi hình thái: “[…] rất
nhiều tiếng đứng ở đây thuộc vào tự loại này, đứng chỗ khác lại thuộc vào tự loại khác mà không hề
thay đổi tự dạng. Ta có thể nói bất kì một danh từ, động từ, tĩnh từ nào cũng có thể biến loại được”, và
ông cho rằng sở dĩ “[…] từ trước đến nay có những tiếng chưa biến là chỉ vì chưa có cơ hội nào để
biến đó thôi.” [50, tr.28].
Một số nhà Việt ngữ học tuy chấp nhận có từ loại trong tiếng Việt nhưng không đề cập tới, hoặc
phủ nhận phạm trù NĐ/ NgĐ ([56], [57], [211]). Chẳng hạn, L. Thompson cho rằng: “sự lưỡng phân
quen thuộc các động từ tiếng Anh thành những động từ ‘cần BN’ và những động từ ‘không cần BN’ là
không tồn tại trong tiếng Việt.” [211, tr.220].
0.2.2.2. Phần lớn các nhà Việt ngữ học có đề cập tới phạm trù NĐ/ NgĐ nhưng ở mức độ đậm
nhạt khác nhau và sử dụng những thuật ngữ khác nhau.
Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm dựa vào mối quan hệ của động từ với BN đứng sau
đã chia động tự (động từ) thành hai tiểu loại: động tự có túc từ và động tự không có túc từ. Theo tác
giả, có một số động từ cần phải dùng thêm những tiếng để “làm cho lọn nghĩa” (tức động tự có túc từ),
còn một số khác khi biểu diễn một cái thể hay một sự biến hiện thay đổi không cần túc từ” (tức động tự
không có túc từ) [43, tr.91]. Dù lấy tiêu chí nghĩa – trọn nghĩa hay không trọn nghĩa – nhưng cách gọi
có túc từ hay không có túc từ cho thấy các tác giả có chú ý tới mối quan hệ cú pháp của động từ khi
phân loại.
Trà Ngân Lê Ngọc Vượng cũng phân chia động từ theo hướng Trần Trọng Kim, Bùi Kỉ, Phạm
Duy Khiêm đã đề xuất. Theo ông, động từ có thể thuộc về hai loại tự động từ và thi động từ. Hai thuật
ngữ này cũng được định nghĩa dựa vào tiêu chí ngữ nghĩa – cú pháp. Tự động từ là “một động từ chỉ
một hành động mà không cần có bổ túc cũng trọn nghĩa” còn thi động từ là “động từ chỉ một hành
động do chủ động làm ra mà không chịu lấy, nên phải có một bổ túc trực tiếp hay gián tiếp mới trọn
nghĩa”. Có lẽ ảnh hưởng của lối phân loại phương Tây mà ông tiếp tục chia thi động từ thành hai thể
thụ động và tha động. Tuy nhiên ông cũng thấy sự phân biệt này chỉ là tương đối và ông cũng đã đề
cập tới một số trường hợp chuyển loại [62, tr.88-90].
Bùi Đức Tịnh, tác giả của “Văn phạm Việt Nam”, lấy tiêu chí phân loại là “dựa vào phương diện
ý nghĩa”. Từ đó ông chia động từ ra làm bốn loại: động từ viên ý, động từ khuyết ý, động từ thụ trạng,
trợ động từ. Ngoại trừ hai loại sau tương đương với động từ tình thái, động từ nối theo cách hiểu hiện
nay, hai loại đầu lần lượt là NĐ và NgĐ. Tác giả cho rằng động từ viên ý là những động từ “chỉ dùng
một mình với chủ ngữ cũng có thể làm nên một câu trọn nghĩa” [100, tr.179] tuy không đi với túc từ
nhưng chúng có thể đi với những bổ túc ngữ chỉ hoàn cảnh; trong khi đó động từ khuyết ý “[…] tự nó
không đầy đủ. Nó cần được một danh từ hay một đại từ bổ túc” (tr.180). Danh từ hay đại từ này là
những BN thuộc động (tức BN trực tiếp) hay BN can động (tức BN gián tiếp) (tr.181).
Các (nhóm) tác giả trên sử dụng những thuật ngữ khác nhau và đưa ra những tiêu chí có vẻ trái
ngược nhau (thể hiện ở cách gọi tên: hoặc nghiêng về mặt nghĩa, hoặc nghiêng về mặt hình thức) nhưng
thực ra đều có nét chung là đề cập tới cả hai tiêu chí khi phân loại. Sự dị biệt lớn tập trung ở việc Bùi
Đức Tịnh chia động từ thành bốn tiểu loại trong khi Trà Ngân và nhóm Trần Trọng Kim triệt để lưỡng
phân.
Học giả Phan Khôi lại chia động từ tiếng Việt ra làm 3 loại: NĐ, NgĐ và chuẩn động từ. Bàn về
phương diện ý nghĩa của NĐ, ông cho rằng: “sự tác động từ trong phát ra là đủ” [44, tr.197]; trong khi đó
NgĐ thì “sự tác động có chạm đến vật khác ở ngoài” (tr.197-198). Về quan hệ cú pháp, tiêu chí phân biệt
NĐ với NgĐ mà ông đưa ra là sự có mặt hay vắng mặt của tân ngữ. Ông chú ý phân biệt tân ngữ (object)
với BN (complement) mà tiêu chí phân biệt cũng là nghĩa: “tân là khách, dịch chữ object của Ăng lê, đối
với chủ ngữ là subject. Là khách đối với chủ, cho nên tân ngữ và chủ ngữ bao giờ cũng không đồng là
một vật” (tr.198). Theo ông chỉ động từ nào đi với tân ngữ mới là NgĐ (ngược lại, những động từ đi với
bổ túc ngữ – trong đó có tính từ – là chuẩn động từ). Cho dù cách hiểu về tính NgĐ ở phương diện nghĩa
còn máy móc (có sự lầm lẫn giữa NgĐ với tác động) và do vậy không có khả năng giải thích trong nhiều
trường hợp, nhưng cách hiểu các khái niệm như trên cũng có giá trị nhất định trong việc tiếp cận các vấn
đề liên quan đến phạm trù NĐ/ NgĐ.
Vào đầu những năm đầu thập kỉ 60 của thế kỉ XX, I. Bưxtơrốp – một nhà Đông phương học
người Nga, đã có một công trình bàn về một số kết cấu động từ trong tiếng Việt. Trong bài viết này, tác
giả đã nhấn mạnh sự cần thiết của việc tìm hiểu động từ khi tham gia vào các cấu trúc khác nhau và
ông đã chú ý khu biệt hai kiểu ‘cấu trúc động từ quan trọng nhất’ là cấu trúc với động từ NgĐ và cấu
trúc với động từ NĐ. Ở bước thứ nhất (phân biệt cấu trúc NĐ với NgĐ) ông đã dựa vào đặc trưng hình
thức (hình thức của danh ngữ phía sau: có hoặc cho phép giới từ trước nó và không có hoặc không cho
phép giới từ trước nó). Ở bước thứ hai, ông đề nghị tiếp tục tiến hành phân loại các động từ NĐ và
NgĐ thành các tiểu loại nhỏ hơn dựa trên đặc trưng “có hoặc không có khả năng tham gia vào cấu trúc
có động từ bị động” [9, tr.59-60]. Phương pháp nghiên cứu của ông tương tự với cách mà các nhà ngôn
ngữ học phương Tây áp dụng khi nghiên cứu các ngôn ngữ đơn lập, không biến hình. Có thể nói tác giả chưa có đột phá gì mới trong cách hiểu về phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt.
Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê trong “Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam” đã thể hiện một
cách nhìn khá mới mẻ về cách phân chia từ loại nói chung và VT nói riêng. Các tác giả dùng thuật ngữ
trạng từ để thay thế cho cả động từ, tính từ theo cách gọi truyền thống. Các trạng từ được các tác giả
chia thành trạng từ trọn nghĩa và trạng từ không trọn nghĩa [18, tr.220-221]. Ngoài tiêu chí nghĩa, các
tác giả cũng có dùng đến tiêu chí kết hợp hay không kết hợp với khách thể (gồm khách thể chính – tức
BN trực tiếp và khách thể thứ – tức BN gián tiếp). Tuy nhiên ở tiêu chí này, các tác giả đã không chú ý
đầy đủ đến những dấu hiệu hình thức (chẳng hạn, các tác giả không bàn tới sự có mặt hay vắng mặt
của giới từ đứng trước BN) và điều này gây ra khó khăn trong việc nhận diện các loại trạng từ. Như
vậy, cái mới mẻ và cũng là đóng góp của các tác giả thể hiện ở chỗ họ thuộc vào số những người đầu
tiên đề cập tới tính NĐ và NgĐ của một đối tượng rộng (trạng từ) và đã đưa ra những nhận xét sâu sắc
về tính đa loại (hai cách dùng) của một số trạng từ (tr.221).
Bên cạnh những tác giả chú trọng sự đối lập NĐ – NgĐ, nhiều tác giả khác lại chỉ coi NĐ, NgĐ
là hai trong số nhiều tiểu loại của VT (với nội hàm bị thu hẹp đáng kể), hoặc chỉ điểm qua và xem
chúng như là kết quả của một cách chia ‘truyền thống’. Xu hướng này thể hiện phổ biến ở những công
trình ngữ pháp giai đoạn nửa cuối thế kỷ XX.
Triển khai sâu một hướng đã đề cập trước đó trong “Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt” (1963),
hơn mười năm sau (năm 1977), Nguyễn Kim Thản công bố chuyên luận “Động từ trong tiếng Việt”.
Trong công trình công phu về động từ này, tác giả chỉ dành 6 trang để bàn về phạm trù NĐ/ NgĐ trong
phần lịch sử nghiên cứu. Mặc dù không phủ nhận tính ‘có lí do’ và sự ‘có lợi’ nhất định của lối phân
loại này nhưng tác giả đã thấy quá nhiều khó khăn, phức tạp. Ông viết: “[…] trong nội bộ của hai loại
ấy (NĐ và NgĐ) không phải là hoàn toàn đồng nhất về đặc điểm cú pháp, hơn nữa cách phân loại này
gặp nhiều khó khăn, ranh giới giữa hai loại này không phải là hoàn toàn dứt khoát” [82, tr.94]. Trong
khi cố tránh những khó khăn này, ở phần phân loại động từ dựa vào “tính chất chi phối của động từ”
(có liên quan đến phạm trù đang xét), tác giả đã phạm phải một số sai lầm. Lấy tiêu chí tính chất chi
phối của động từ, tác giả đã chia động từ ra ba nhóm lớn gồm 12 tiểu loại (ba nhóm là: ngoại hướng,
trung tính, nội hướng). Ở đây thật rất khó để xác định NĐ và NgĐ thuộc loại nào trong một bảng phân
loại tuy chi tiết nhưng lại chứa nhiều sự thiếu nhất quán, mâu thuẫn. Nếu chúng ta chỉ dựa vào mặt ý
nghĩa, hay chỉ vào mặt hình thức hoặc kết hợp cả tiêu chí thì đều sẽ thấy danh sách NĐ và NgĐ cần
phải lấy từ những nhóm rất khác nhau trong bảng phân loại của tác giả. Rõ ràng NgĐ không phải chỉ là
những động từ thuộc nhóm ngoại hướng; và NĐ không phải thuộc nhóm nội hướng và sự tồn tại của
nhóm trung tính ở đây rõ ràng là không hợp lí. Đi sâu vào các tiểu loại, rất nhiều động từ trong một
nhóm không có tiêu chí chung và cần phải chuyển nhóm (x. [72, tr.20-30]).
Nhìn nhận phạm trù NĐ/ NgĐ ở một hướng khác, Đỗ Hữu Châu trong một công trình bàn về các
hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ, đã xem những VT có hai cách dùng là một hiện tượng trung gian
tiêu biểu trong tiếng Việt. Ông nhận thấy ‘rất khó phân biệt’ giữa NĐ và NgĐ mà nguyên nhân là “[…]
đặc trưng ngữ nghĩa của chúng chưa được phân tích đầy đủ và những trường hợp điển hình và trung gian
chưa được giải thích một cách thỏa đáng” [16, tr.29]. Trước hiện tượng phức tạp này, ông đề xuất một
hướng tiếp cận mới: “không căn cứ vào tiêu chuẩn thông thường ‘có hay không có BN đối tượng danh từ
trực tiếp (hoặc ở tân cách)’ mà trước hết căn cứ vào cấu trúc ngữ nghĩa của chúng để xử lí lại vấn đề
này” (tr.29). Theo hướng này ông cũng phân VT ra (dù không hiển ngôn) thành hai nhóm: (i) VT NgĐ
điển hình (từ của tác giả: “có ý nghĩa NgĐ chân chính”); và (ii) những VT NgĐ không điển hình. VT
NgĐ điển hình là những VT có hai diễn tố (tác giả dùng ‘đối’ hay ‘trị’) trong đó ‘thụ nhân’ (tức BN biến
đổi) “nhất thiết phải chịu một hậu quả nhất định nào đó sau khi nhận tác động từ chủ thể” (tr.29). Cách
hiểu này có nhiều điểm tương đồng với việc phân loại VT ở bậc hai (chia VT NĐ và NgĐ thành các tiểu
nhóm điển hình và kém điển hình) mà luận án sẽ trình bày trong mục 2.1.2.
Vũ Thế Thạch khi bàn về ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ tiếng Việt đã nhấn mạnh đến sự cần
thiết phân biệt “NgĐ hình thức” với “NgĐ chức năng” – một sự phân biệt đã được nhà ngôn ngữ học
người Nga S. Kacnelson lưu ý từ lâu [76, tr.13]. Từ sự phân biệt bước đầu này, tác giả tập trung phân
loại tiếp các động từ tiếng Việt dựa trên cơ sở ngữ nghĩa của chúng (dựa trên các nghĩa vị của động từ).
Kết quả phân loại mà ông đưa ra là ba loại động từ cơ bản: động từ chủ thể, động từ khách thể và động
từ hai hướng. Đóng góp quan trọng của tác giả là cố gắng tách bạch hai phương diện ngữ pháp và ngữ
nghĩa của động từ (để tập trung tìm hiểu, phân loại các động từ tiếng Việt từ phương diện ngữ nghĩa)
(tr.14-19).
Bên cạnh những công trình tiếp cận trực tiếp phạm trù NĐ/ NgĐ như vừa trình bày, hàng loạt
các chuyên luận và giáo trình ngữ pháp đại học cũng có đề cập tới vấn đề trên. Tuy nhiên các tác giả
thường không xem nó là trọng tâm nghiên cứu của mình.
Hoàng Trọng Phiến trong “Ngữ pháp tiếng Việt – Câu” (1980) viết: “Việc chia động từ thành NĐ
và NgĐ là căn cứ vào ngữ nghĩa thuần túy, do vậy không bao quát được cái sâu bên trong của từ loại”
[69, tr.137-138] và “đối với tiếng Việt việc chia thành nội động từ và ngoại động từ triệt để như tiếng
Nga hay một vài ngôn ngữ Ấn-Âu khác là không thích hợp” (tr.139). Ông cũng thấy được khó khăn
trong việc áp dụng tiêu chí hình thức để xác định BN trực tiếp: “Sự có mặt hay vắng mặt hư từ còn do
sự điều hòa âm hưởng, do âm luật cân đối cấu trúc quy định” (tr.139).
Trong công trình nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt do UBKHXH (1983) thực hiện, các tác giả tuy
không hiển ngôn bàn về NĐ/ NgĐ, nhưng đã đề cập khá chi tiết tới các phụ tố ‘khu vực sau’ động từ
[104, tr.121-146], các phụ tố ‘khu vực sau’ tính từ (tr.149-151). Đề cập tới thành phần này, các tác giả
nhấn mạnh đến sự đối lập giữa những phụ tố do chính tố yêu cầu riêng và phụ tố không do chính tố yêu
cầu riêng. Sự đối lập này chính là sự đối lập giữa diễn tố với chu tố; trong đó những phụ tố do chính tố
có yêu cầu riêng quan hệ mật thiết tới các thành phần BN trực tiếp, BN bắt buộc mà chúng tôi sẽ đề
cập nhiều chỗ trong các phần tiếp theo của luận án.
Cũng đứng trên quan điểm không chú trọng đối lập NĐ với NgĐ, Đinh Văn Đức cho rằng: “Đặt
vấn đề đối lập NĐ – NgĐ dưới ảnh hưởng đồng thời của nhiều nhân tố chỉ làm cho vấn đề thêm phức
tạp hơn và khó có được một giải pháp nhất quán.” [25, tr.118]. Tác giả cũng lưu ý đến số lượng đáng
kể các động từ “lưỡng tính” (từ dùng của tác giả – chỉ những động từ vừa là NĐ vừa là NgĐ) tồn tại
trong tiếng Việt. Giải pháp của tác giả đối với vấn đề là: “[…] nếu thấy cần thiết trong khi miêu tả thì
cũng có thể nghĩ tới sự phân chia thành NĐ – NgĐ nhưng ngay cả trong trường hợp đó cũng chỉ nên
nghĩ đến một ranh giới có tính ước lệ của hai tập hợp mờ có liên quan đến khái niệm BN và trạng ngữ:
BN là thành tố phụ giới hạn của một số động từ nhất định, còn trạng ngữ là thành tố phụ của động từ
nói chung. Lúc đó BN là tiêu chí của động từ NgĐ” (tr.118).
Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung trong giáo trình dành cho các trường đại học sư phạm
(1991) có bàn về động từ NĐ và NgĐ dựa trên sự đối lập [±thực từ đi kèm]. Những động từ không đòi
hỏi thực từ đi kèm (các động từ chỉ hành động cơ thể, trạng thái tâm lí) là những động từ NĐ. Những
động từ đòi hỏi thực từ đi kèm (các động từ biểu thị đối tượng tác động, đối tượng phát nhận, đối tượng
và nội dung sai khiến, v.v) là những động từ NgĐ. Cả NĐ và NgĐ được các tác giả xếp chung vào
nhóm động từ độc lập và đối lập chúng với nhóm động từ không độc lập bao gồm các động từ thuộc
nhóm động từ tình thái, nhóm động từ chỉ quan hệ [6, tr.92-100]. Trong giáo trình tập 2 (1992), tác giả
Diệp Quan Ban đã tiếp tục đi sâu miêu tả các thành phần phụ đứng sau thành tố chính trong các cụm
động từ trên các phương diện chức năng cú pháp và từ loại [3, tr.83-94]. Nói chung, các tác giả không
xem sự đối lập NĐ/ NgĐ áp dụng cho toàn bộ động từ mà chỉ cho một bộ phận của động từ (nhóm
động từ độc lập) mà thôi.
Trong một chuyên khảo về cú pháp tiếng Việt, Hồ Lê (1994) đã đề cập tới vấn đề chuyển loại trong
đó có hiện tượng chuyển đổi tư cách cú pháp của VT. Tác giả đã chú ý đến chiều hướng chuyển đổi đa
dạng của VT từ NĐ sang NgĐ, từ NgĐ sang NĐ cũng như một số VT chưa xác định được hướng chuyển
đổi. Ngữ liệu nêu ra và những phân tích của tác giả cho thấy rõ quan niệm của tác giả là dựa trên tư cách
hoạt động cú pháp của VT để xác định phạm trù NĐ/ NgĐ. Tác giả đã giải thích một cách thuyết phục về
một số VT NgĐ chuyển sang cách dùng NĐ (các VT chỉ hoạt động của cơ thể) [52, tr.252-253]. Tuy
nhiên, kiến giải của tác giả về một số VT “chưa xác định chiều chuyển loại” (chẳng hạn, VT chỉ sự di
chuyển: đi, chạy, nhích, kéo, rút, v.v.; những VT chỉ sự dàn xếp: dàn, sắp, xếp, đặt, v.v.) (tr.254) có khác
biệt với quan niệm mà luận án đề xuất.
Nguyễn Minh Thuyết và Nguyễn Văn Hiệp (1998), trong “Thành phần câu tiếng Việt” [98], đã
dành dung lượng khá lớn của công trình bàn về những vấn đề có liên quan thiết yếu tới phạm trù NĐ/
NgĐ – vấn đề thành phần khởi ngữ/ đề ngữ, vấn đề BN trực tiếp. Do đứng trên quan điểm xem BN trực
tiếp (cùng với chủ ngữ và vị ngữ) là thành phần chính của câu, các tác giả đã khảo sát khá chi tiết thành
phần này. Những kết quả khảo sát, phân tích của các tác giả có giá trị nhất định cho việc khảo sát phạm
trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt.
Một khuynh hướng đề cập khá nhiều tới phạm trù NĐ/ NgĐ là ngữ pháp chức năng. Với quan niệm
VT là hạt nhân trung tâm thông báo, là hạt nhân của khung vị ngữ, các tác giả đã chú ý nghiên cứu VT
trong quan hệ với các thành tố chức năng khác trong câu. Các tác giả sớm vận dụng lí thuyết về vai cách
trong nghiên cứu tiếng Việt là Nguyễn Đăng Liêm (1969, 1973, 1975), Donna Hà (1970), Trần Trọng
Hải (1971, 1972), Nguyễn Đình Hòa (1972, 1973), M. Clark (1976) (x. [128]). Trong chuyên luận “Các
phụ vị từ và Cách trong tiếng Việt” (Coverbs and Case in Vietnamese), M. Clark đã dành một phần đáng
kể để giới thiệu về lí thuyết khung cách, các quan hệ cách (tập trung ở các loại coverb – phụ VT). Rất
nhiều lần tác giả đã liên hệ, gắn chúng với phạm trù NĐ/ NgĐ. Điều này chứng tỏ vấn đề mà chúng tôi
sẽ đề cập trong luận án là các quan hệ nghĩa (và số lượng các vai nghĩa) trong câu đóng một vai trò quan
trọng trong việc xác lập các đối lập giữa NĐ với NgĐ.
Một tác giả khác cũng cố gắng đi theo hướng này. Nguyễn Văn Lộc trong chuyên luận “Kết trị của
động từ tiếng Việt” (1995) đã giới thiệu, vận dụng những quan niệm về tham tố của L. Tesnière và một
số nhà ngôn ngữ học Nga để miêu tả về các loại diễn trị (ông dùng: kết trị) của động từ tiếng Việt. Sau
khi phân biệt các loại kết trị: kết trị hình thức và kết trị nội dung; kết trị bắt buộc và kết trị tự do, tác giả
giới thiệu các loại kết trị bắt buộc của động từ và tập trung miêu tả kết tố chủ thể và kết tố đối thể. Trong
phần miêu tả về kết tố chủ thể, ông cũng đề cập tới kết tố chủ thể hoạt động nội hướng. Ông cho rằng:
“về nội dung, kết tố chủ thể hoạt động nội hướng chỉ kẻ thực hiện hành động hoặc kẻ mang trạng thái
không hướng tới đối thể. Sự vắng mặt của kết tố đối thể bên các động từ nội hướng là do ý nghĩa nội
hướng của chúng qui định” [55, tr.69]. Ở đây, ông đã gián tiếp cho rằng tiêu chí phân biệt giữa NĐ và
NgĐ chính là tiêu chí cú pháp [±đối tố] và các dấu hiệu hình thức này được quy định bởi ý nghĩa của
động từ. Căn cứ vào những điều trình bày trong chuyên luận, chúng ta thấy tuy tác giả sử dụng hệ thống
khái niệm của ngữ pháp chức năng nhưng thực ra nội dung miêu tả vẫn theo hướng ngữ pháp truyền
thống. Các khái niệm chủ tố và kết tố cũng không khác nhiều so với chủ ngữ và BN (ở đây tác giả coi
BN trực tiếp và BN cho chủ ngữ – complement – đều là đối tố).
Cũng cùng thời gian này, Nguyễn Thị Quy hoàn thành chuyên luận “Vị từ hành động tiếng Việt và
các tham tố của nó” (1995). Như phần nào gợi ra từ tên gọi chuyên luận, tác giả đã vận dụng thành tựu
của ngữ pháp chức năng vào nghiên cứu VT tiếng Việt. Ngoài những tiêu chí về nghĩa, tác giả đã vận
dụng tiêu chí về tham tố (số lượng và đặc điểm) để phân loại và miêu tả VT tiếng Việt. Mỗi một tiêu chí
đem lại một kết quả riêng và những kết quả này cũng có nhiều điểm giao thoa (x. bảng tổng kết của tác
giả, tr.88). Chính ở hướng đi thứ hai (dựa vào diễn trị), tác giả đã thể hiện một cách tiếp cận mới về NĐ và NgĐ. Theo tác giả, những VT một diễn tố ([–trực chuyển])2 là NĐ còn các VT hai diễn tố, ba diễn tố
([+trực chuyển]) là những VT NgĐ [72, tr.88]. Mặc dù chỗ khác, tác giả thấy NgĐ là “VT có BN trực
2 Khái niệm trực chuyển gắn với loại VT trực chuyển của tác giả được dùng để chỉ những VT tác động và những VT không tác động nhưng có mục tiêu [72, tr.84].
tiếp” (tức tiêu chí phân định NĐ và NgĐ là [±BN trực tiếp]) – một chức năng cú pháp (tr.78) – nhưng rõ
ràng những đặc điểm và số lượng diễn tố cũng góp phần đưa ra cơ sở khách quan để nhận diện các phạm
trù này, ít nhất là cho tiểu loại VT hành động mà tác giả đang xét. Giới hạn trong việc phân loại, miêu tả
một tiểu loại VT (VT hành động), nhưng những gì tác giả thể hiện, đặc biệt là những quan sát, nhận xét
tinh tế về quan hệ giữa VT với các diễn tố là những gợi mở hữu ích cho việc nghiên cứu VT nói chung
và việc tìm hiểu phạm trù NĐ/ NgĐ nói riêng.
Trong một công trình nghiên cứu gần đây, đứng trên quan điểm ngữ pháp chức năng hệ thống, tác
giả Diệp Quang Ban (2004) đã tập trung xem xét những vấn đề liên quan đến câu tiếng Việt. Trong công
trình này, tác giả cũng bàn khá chi tiết về cấu trúc nghĩa biểu hiện [5, tr.32-33], các kiểu sự thể, các tham
thể (tr.33-35), tân ngữ và tân ngữ gián tiếp (tr.71-72), và cấu trúc câu bị động (tr.203-229) – những vấn
đề liên quan trực tiếp đến phạm trù NĐ/ NgĐ. Trong phần giới thiệu quan niệm của M. Halliday về vấn
đề chuyển tác (mục 0.2.1), chúng tôi đã nêu rõ vấn đề này được tác giả xem xét ở bình diện cú. Ở công
trình “Ngữ pháp tiếng Việt – phần câu” này, tác giả Diệp Quang Ban nói rõ hơn khái niệm chuyển tác áp
dụng cho cả động từ: “[…] cấu trúc chuyển tác được hiểu là mối quan hệ giữa động từ với những yếu tố
định danh bất kì lệ thuộc vào động từ đó và cùng xuất hiện với động từ đó […]; nếu động từ không đòi
hỏi yếu tố định danh lệ thuộc thì gọi là động từ không chuyển tác, hay NĐ” (tr.32).
Có thể nói, tất cả cách hiểu của các khuynh hướng, các tác giả trên, dù có những khác biệt nhất
định, đều cho thấy phạm trù NĐ/ NgĐ gắn chặt với động từ (và VT nói chung) vì thế việc nghiên cứu
NĐ/ NgĐ sẽ giúp hiểu sâu hơn bản chất, hoạt động của từ loại cơ bản bậc nhất trong mọi ngôn ngữ này.
0.3. NHIỆM VỤ LUẬN ÁN
Trên tinh thần kế thừa thành tựu nghiên cứu tiếng Việt cũng như cố gắng áp dụng lí thuyết ngôn
ngữ học hiện đại, luận án này nhằm:
(i) Tìm những dấu hiệu hình thức cũng như cơ sở ngữ nghĩa để xác định, đối lập NĐ/ NgĐ;
(ii) Xác định rõ ranh giới NĐ, NgĐ với tư cách là phạm trù cú pháp với những phạm trù khác có
liên quan;
(iii) Xác định phạm vi ứng dụng của phạm trù NĐ/ NgĐ (cho VT nói chung hay chỉ cho một số
tiểu loại nào đó);
(iv) Phân loại và khảo sát các tiểu nhóm trong từng loại VT NĐ, VT NgĐ và khảo sát các hiện
tượng trung gian;
(vi) Đối chiếu phạm trù NĐ/ NgĐ và những vấn đề có liên quan của tiếng Việt với tiếng Anh để
làm rõ những tương đồng và khác biệt.
0.4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU VÀ NGUỒN NGỮ LIỆU
0.4.1. Với đối tượng và nhiệm vụ được xác định như trên, chúng tôi sẽ chủ yếu sử dụng các
phương pháp sau.
(i) Phương pháp miêu tả. Luận án tập trung phân tích ngữ liệu để rút ra những nhận xét, kết luận
về các vấn đề có liên quan.
Trong quá trình miêu tả, khảo sát ngữ liệu chúng tôi thường sử dụng các thủ pháp cải biến, tỉnh
lược, chêm xen, trắc nghiệm Jakhontov. Những thủ pháp này được dùng để xác định các thành phần
trong cấu trúc cú pháp cũng như xác định vai trò của các tham tố trong cấu trúc nghĩa của VT.
(ii) Phương pháp đối chiếu. Phương pháp này được sử dụng nhằm góp phần làm rõ các tiêu chí,
cơ sở ngữ nghĩa, dấu hiệu hình thức thể hiện phạm trù NĐ/ NgĐ trong các ngôn ngữ khác nhau. Tiếng
Anh là ngôn ngữ chủ yếu được dùng để đối chiếu với tiếng Việt. Tuy nhiên, một số ngôn ngữ khác
cũng được dùng để đối chiếu khi cần làm rõ một số đặc điểm nào đó, đặc biệt là tiếng Hán hiện đại,
một ngôn ngữ có nhiều nét tương đồng về phương diện loại hình với tiếng Việt và cũng là ngôn ngữ
được các nhà ngôn ngữ học phương Tây nghiên cứu khá kĩ.
Trong quá trình khảo sát, miêu tả ngữ liệu cũng như đối chiếu, chúng tôi đứng trên quan điểm
đồng đại.
(iii) Phương pháp thống kê ngôn ngữ. Phương pháp này nhằm nâng cao tính khách quan trong
việc miêu tả cũng như những kết luận đưa ra trong luận án.
0.4.2. Nguồn ngữ liệu chủ yếu mà luận án khảo sát là tiếng Việt hiện đại. Ngữ liệu được trích dẫn
từ nhiều nguồn: các văn bản báo chí, văn bản văn chương, văn bản khoa học, lời nói hàng ngày. Để
bảo đảm tính khách quan, tính tự nhiên, một số ví dụ được trích từ Internet (có dẫn nguồn).
Xét từ phương diện nguồn gốc, những từ thuần Việt được lưu ý nhiều hơn từ có nguồn gốc ngoại
lai (từ Hán Việt,3 v.v.).
Đơn vị ngôn ngữ chủ yếu mà luận án khảo sát là từ (cụ thể là VT). Tuy nhiên để xác định tư
cách cú pháp của chúng, luận án thường đặt từ trong mối quan hệ với các ngữ đoạn chức năng (các
ngữ danh từ, ngữ VT, ngữ giới từ đảm nhiệm các chức năng cú pháp như chủ ngữ, BN, trạng ngữ),
trong câu. Ngữ đoạn được hiểu là một đơn vị ngôn ngữ thực hiện một chức năng cú pháp nào đó
trong câu; xét về cấu tạo nó có thể là một từ hoặc một nhóm từ có quan hệ chính phụ với nhau. Câu
được hiểu như là đơn vị lời nói nhỏ nhất có chức năng thông báo. Về từ, quan niệm của chúng tôi
như sau. Xét từ phương diện cấu tạo, từ có thể là từ đơn, như: ăn, ngủ, chạy, nhảy, cười, nói, nghe,
đánh, giúp,...; chúng cũng có thể là từ ghép, như: bất biến, ngưỡng mộ, nhẫn tâm, chập chờn, động
3 Việc xác định một từ cụ thể là thuần Việt hay Hán Việt là việc làm không hề đơn giản (khi mà từ Hán Việt chiếm đến 70% vốn từ và chúng được du nhập từ rất sớm, qua nhiều giai đoạn với nhiều hình thức khác nhau). Tuy nhiên, đúng như học giả Lê Văn Lý từ rất lâu [56, tr.123] đã nhận xét, việc khảo sát trên các từ thuần Việt là đủ để xác định tư cách cú pháp của từ tiếng Việt nói chung vì những từ Hán Việt (và những từ ngoại lai khác) khi tham gia vào vốn từ tiếng Việt thì cũng hoạt động như những từ thuần Việt chứ không ảnh hưởng, xáo trộn đáng kể gì đến kết cấu tiếng Việt.
đậy, kín mít, kiêng cữ, động lòng, thù ghét, miễn giảm, náo nhiệt,... Những từ ghép như trên, thuộc
vào một trong những kiểu kết hợp: (i) cả hai thành tố vốn là những từ Hán Việt không có khả năng
hoạt động độc lập; (ii) một hoặc tất cả các thành tố không có nghĩa xác định; (iii) mối quan hệ giữa
các thành tố có tính chất cố định, thành ngữ (các quan niệm về từ trong giới Việt ngữ học, x. [6,
tr.38-42]; [27, tr. 69-72]; [33, tr. 212-224]; [51, tr.7-19]).
Một số từ vay mượn quá mới, hoặc chỉ được sử dụng trong phạm vi giới hạn sẽ không được đưa
vào phạm vi khảo sát như: chát (chat), i-meo (e-mail), phắc (fax), phôn (phone), pê-na-ty (penalty),
v.v.
Một nội dung quan trọng của luận án là so sánh phạm trù NĐ/ NgĐ tiếng Việt với tiếng Anh, do
đó, đơn vị cơ bản (từ) cũng cần được xác định rõ ràng. Trong tiếng Anh, từ có thể là từ đơn (chẳng
hạn, speak ‘nói’, go ‘đi’, visit ‘thăm’, become ‘trở thành’, understand ‘hiểu’, destroy ‘hủy diệt’, v.v.),
có thể là từ ghép (earthquake ‘động đất’, ill-treat ‘đối xử tệ’, dry-clean ‘lau khô’, cohere ‘kết lại’,
breast-feed ‘nuôi bằng sữa mẹ’, waterproof ‘làm không thấm nước’, sleep-walk ‘mộng du’, sun-bathe
‘tắm nắng’, v.v.). Chúng tôi cũng xem là từ những tổ hợp mà các tài liệu ngữ pháp tiếng Anh xem đó là
VT nhóm/ VT phức đoạn (phrasal verbs) kiểu: give up ‘từ bỏ’, find out ‘tìm ra’, look at ‘nhìn’, calm
down ‘bình tĩnh/ chế ngự’, listen to ‘lắng nghe’, turn on ‘mở’, call on ‘đến thăm’ v.v. Tư cách cú pháp
của chúng sẽ được chúng tôi bàn kĩ hơn ở mục 3.2.2. Trong phạm vi trình bày ở đây, những VT phức
đoạn kiểu trên tạm được coi là từ vì hai lí do chính: (i) về nghĩa: nghĩa các tổ hợp trên mang tính thành
ngữ – nghĩa của chúng khác với tổng ý nghĩa của các yếu tố hợp thành; (ii) về cú pháp: đây là những
kết hợp cố định khi tham gia vào những cấu trúc biến đổi (chẳng hạn, tham gia vào cấu trúc bị động,
chủ đề hóa).
0.5. NHỮNG ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN ÁN
Về phương diện lí luận, luận án đã vận dụng khái niệm NgĐ điển hình và kém điển hình vào việc
miêu tả, phân loại VT trong tiếng Việt; lí giải hiện tượng VT có hai cách dùng từ phương diện thay đổi
diễn trị; đưa ra kiến giải về tư cách cú pháp của một số nhóm VT.
Về phương diện thực tiễn, luận án đã xây dựng phụ lục gồm 3 danh sách liên quan đến các VT có
hai cách dùng trong tiếng Việt. Điều này có ích lợi nhất định cho việc chú từ loại đối với công việc
biên soạn từ điển và cho việc tra cứu nhanh trong quá trình học tiếng Việt. Kết quả luận án cũng có thể
dùng tham khảo cho việc biên soạn giáo trình, tài liệu chuyên khảo về ngữ pháp tiếng Việt.
0.6. BỐ CỤC LUẬN ÁN
Căn cứ vào mục đích, nhiệm vụ đặt ra, luận án được sắp xếp thành các phần sau: phần chính văn
có dung lượng 183 trang gồm phần Dẫn nhập, Kết luận và ba chương nội dung; phần còn lại gồm danh
mục tài liệu tham khảo, danh mục các công trình khoa học của tác giả có liên quan đến đề tài luận án,
chỉ mục và một phụ lục 38 trang. Nội dung các phần của chính văn được tóm tắt như sau:
Phần Dẫn nhập (20 trang) trình bày đối tượng nghiên cứu, lí do chọn đề tài (mục 0.1), lịch sử vấn
đề (mục 0.2), nhiệm vụ của luận án (mục 0.3), phương pháp nghiên cứu và nguồn ngữ liệu (mục 0.4),
những đóng góp của luận án (mục 0.5), và bố cục luận án (mục 0.6).
Chương 1 (49 trang) nêu những vấn đề lí luận chung làm nền tảng cho việc tìm hiểu phạm trù
NĐ/ NgĐ. Cụ thể, chương này đề cập tới khái niệm VT và việc phân loại VT (mục 1.1); tham tố và
phân loại tham tố (mục 1.2); BN với trạng ngữ (mục 1.3); loại hình học và phạm trù NĐ/ NgĐ (mục
1.4); tiêu chí xác định phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt (mục 1.5); mối quan hệ giữa ngữ pháp và
ngữ nghĩa (mục 1.6) và cuối cùng là phần tiểu kết của chương (1.7).
Chương 2 là phần trọng tâm của luận án do đó nó cũng chiếm dung lượng lớn nhất: 74 trang. Bên
cạnh nội dung chính là khảo sát những đối lập giữa VT NĐ và VT NgĐ trong tiếng Việt (mục 2.1),
chúng tôi đưa thêm hai mục: Chuyển đổi diễn trị và hiện tượng VT có hai cách dùng (mục 2.2) để làm
rõ tính phức tạp, giao thoa giữa hai vế đối lập trong phạm trù này và mục Phạm trù NĐ/ NgĐ trong hệ
thống các vấn đề ngữ pháp tiếng Việt (mục 2.3) bàn về mối quan hệ giữa phạm trù này với những vấn
đề có liên quan.
Chương 3 (36 trang) tập trung vào việc đối chiếu phạm trù NĐ/ NgĐ của tiếng Việt với tiếng Anh
và những vấn đề có liên quan với mục đích làm nổi bật những tương đồng cũng như những khác biệt
giữa hai ngôn ngữ, qua đó tìm thêm luận cứ cho việc biện giải phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt.
Phần Kết luận (4 trang) tổng kết nội dung cơ bản của luận án, nêu những khó khăn trong quá
trình thực hiện luận án cũng như những vấn đề luận án đề cập chưa đầy đủ hoặc cần tiếp tục nghiên
cứu trong tương lai.
Tài liệu tham khảo bao gồm 107 tài liệu tiếng Việt và 109 tài liệu tiếng Anh.
Danh mục công trình khoa học của tác giả có liên quan đến đề tài (10 bài viết).
Phần chỉ mục, trình bày những thuật ngữ cơ bản được sử dụng trong luận án.
Phần Phụ lục gồm ba phụ lục: (i) Danh sách những VT NgĐ được dùng với tư cách VT NĐ; (ii)
Danh sách những VT NĐ được dùng với tư cách VT NgĐ; (iii) Danh sách các VT [±giới từ].
Chương 1
NHỮNG CƠ SỞ LÍ LUẬN CHUNG
1.1. KHÁI NIỆM VỊ TỪ VÀ PHÂN LOẠI VỊ TỪ
1.1.1. Khái niệm vị từ
Một cách định nghĩa VT4 khá quen thuộc, thường được coi là cách định nghĩa truyền thống vì sự
xuất hiện khá sớm cũng như ảnh hưởng lâu dài trong quá khứ của nó, là dựa trên tiêu chí ý nghĩa nội
dung khái quát. Platon (khoảng 429-347 trước công nguyên) – người đầu tiên được coi là phân biệt một
cách minh bạch từ loại (giữa danh từ và VT) – cho rằng VT là từ diễn đạt hành động hay phẩm chất [58,
tr.27]. Aristotle (384-322 trước công nguyên) cũng tán đồng cách hiểu trên và coi VT là một trong mười
‘phạm trù’ (categories) cơ bản của ngôn ngữ [136, tr.132]. Như vậy, VT được xác định trong mối quan
hệ với thế giới bên ngoài. Cách định nghĩa giản đơn, nặng về phương diện lô gích này đã không bao quát
được rất nhiều VT vốn trống nghĩa hoặc mờ nghĩa từ vựng và ngay cả khi có nghĩa từ vựng thì ý nghĩa
‘hành động’, ‘trạng thái’ của chúng cũng không rõ ràng. Hạn chế của lối định nghĩa này đã được nhiều
người chỉ ra ([58, tr.502-513]; [148, tr.70-72]; ; [154, tr.115-117]; [192, tr.111-113]). Chẳng hạn, C.
Fries sau khi đưa ra những dẫn chứng chứng minh tính thiếu nhất quán trong lối định nghĩa các từ loại,
cũng như thiếu khả năng bao quát của một số định nghĩa về từ loại, đã kết luận: “Chúng ta không thể
dùng ‘nghĩa từ vựng’ làm cơ sở cho định nghĩa một vài từ loại, dùng ‘chức năng trong câu’ cho một số
loại khác, ‘tiêu chí hình thức’ cho những từ loại còn lại. Chúng ta cần phải tìm một tập hợp các tiêu chí
có thể áp dụng triệt để cho việc phân chia các từ loại.” [148, tr.69]. Trong thực tế, hầu như ngôn ngữ nào
cũng có hàng loạt từ được xếp vào các từ loại khác nhau nhưng cùng mang một kiểu ý nghĩa; và cũng
không khó khăn gì trong việc đưa ra một danh sách dài các từ mà xét về mặt ý nghĩa chúng cần phải đưa
vào từ loại khác so với cách xếp loại đã áp dụng cho chúng.
Cũng thuộc về lối phân chia từ loại gắn với ý nghĩa, một số tác giả thuộc trường phái Ngữ pháp
Tư biện (Speculative) ở châu Âu khoảng nửa sau thế kỉ XIII đã phân loại các từ loại cơ bản dựa trên
mức độ ổn định về thời gian (time-stability scale), nghĩa là dựa vào đặc tính của đối tượng (động hay
tĩnh, biến đổi nhanh hay chậm, v.v) mà các từ loại phản ánh. Th. Erfurt cho rằng VT dùng để thể hiện
các trạng thái mau lẹ, những đối tượng thiếu ổn định, và gián đoạn (x. [203, tr.16]).
Gần đây một số nhà ngôn ngữ học cũng đã dựa vào lối định nghĩa trên để xác định từ loại. Chẳng
hạn, T. Givón đã cho rằng sự phân biệt các từ loại chỉ có tính chất tương đối, các từ loại được đặt trên
4 Kể từ đây chúng tôi sẽ sử dụng thuật ngữ vị từ (VT) để chỉ động từ và tính từ theo cách gọi của một số tác giả. Chúng tôi cũng dùng nó để dịch thuật ngữ “verb” theo cách hiểu của giới ngôn ngữ học phương Tây.
một thang độ (gradience) – nghĩa là đứng ở một chỗ nào đó giữa hai thái cực – trong đó, VT nằm về
thái cực ‘động, nhất thời, biến đổi nhanh chóng’ còn danh từ nằm về thái cực ‘ổn định’, ‘bền vững’.
Hai từ loại này (danh từ và VT) cũng được ông xem là có tính phổ quát (có trong tất cả các ngôn ngữ),
các từ loại còn lại tùy thuộc vào từng ngôn ngữ [152, tr.51-52]. Cách định nghĩa và phân loại này dù
sao cũng vẫn không bao chứa được hết các từ loại (nó chỉ dùng để xác định các từ loại ‘từ vựng’ như
danh từ, VT, trạng từ), hơn nữa lối phân loại này buộc phải chấp nhận sự tồn tại những vùng giao thoa
lớn giữa các từ loại (hiện tượng trung gian).
Lối phân loại gắn với ngữ nghĩa như trên được xem là lối phân loại gắn với những yếu tố ngoài
ngôn ngữ (language external). Nó khác với lối phân loại chú ý đến các tiêu chí thuộc về cấu trúc
(structural) hay đặc điểm nội tại (internal) của ngôn ngữ như sẽ trình bày dưới đây.
Một số nhà ngôn ngữ học khi định nghĩa VT thường chỉ nêu ra tiêu chí hình thái hoặc xem đó là
tiêu chí quan trọng. Với cách hiểu này, các nhà ngôn ngữ học phương Tây đã thấy trong ngôn ngữ biến
hình của họ có những cơ sở ‘khách quan’, ‘khoa học’ cho sự phân biệt các từ loại. Sự khác biệt đó ở cả
hình thức biến đổi phù hợp với các phạm trù ngữ pháp do quan hệ ngữ pháp trong câu quy định và cả ở
hình thức cấu tạo từ. D. Thrax (cuối thế kỉ II trước công nguyên) cho rằng: “VT là thành phần lời nói
không có biến hình-cách mà chỉ có biến hình về thời, ngôi, số, có nghĩa là một hoạt động thường bị tác
động đến” (x. [58, tr.504]). W. Croft cũng đã sử dụng phương pháp tương tự để xác định VT: “Nếu
một thân từ từ vựng (root) có thể thích hợp trong một cấu trúc (câu đơn giản) mà lại nhận các biến tố
chỉ số, ngôi, thời thì đó là VT”. [132, tr.7]. Lối phân loại dựa trên các dấu hiệu hình thái gắn với các từ
rõ ràng là rất hữu ích về mặt sư phạm và thực hành tuy nhiên chúng chỉ có giá trị đối với một số ngôn
ngữ biến hình (bởi các ngôn ngữ biến hình không nhất thiết đều phải có những đặc điểm biến hình gắn
với tất cả từ loại). Phương pháp này sẽ hoàn toàn mất giá trị khi đem áp dụng vào các ngôn ngữ không
biến hình như tiếng Việt, tiếng Hán. Khi định nghĩa về từ loại, L. Kelly, một trong các tác giả của “Từ
điển bách khoa về ngôn ngữ và ngôn ngữ học”, khẳng định: “Các ngôn ngữ có một tập hợp các từ loại
khác nhau và đánh dấu chúng theo những cách khác nhau. Trong các ngôn ngữ như Maori ‘từ loại’ đa
phần lệ thuộc vào vị trí mà từ xuất hiện trong câu” [114, tr.4679].
Một số nhà ngôn ngữ học khác đã từ bỏ lối định nghĩa thuần túy dựa vào nghĩa hoặc hình thái của
từ để đi tìm một hướng phân loại hoàn toàn dựa vào sự phân bố hình thức – tức dựa vào sự kết hợp
các từ chứng (indicators) bao quanh từ đang xét. C. Fries (1952) đã lập ra một số mô hình để xác định
các từ loại trong tiếng Anh (tác giả gọi là các nhóm: 1, 2, 3...) [148, tr.77-78]. Không đi theo hướng
truyền thống tìm kiếm tiêu chí về nội dung rồi mới gán cho các đơn vị đó những thuật ngữ có tính kĩ
thuật, C. Fries đã hiển ngôn phương pháp làm việc của mình như sau: “[…] chúng tôi cố gắng trước
hết tìm các đặc tính hình thức nhờ đó để nhận diện từng đơn vị và cấu trúc chức năng rồi sau đó mới
đưa ra câu hỏi các cấu trúc này thể hiện những ý nghĩa gì.” (tr.175). Trong việc phân chia từ loại tiếng
Việt, học giả Lê Văn Lý (1948) cũng sử dụng phương pháp nghiên cứu này. Bằng việc xây dựng một
tập hợp các từ chứng, tác giả đã phân chia được vốn từ tiếng Việt ra thành ba nhóm lớn (A, B, C). Ba
nhóm trên, theo tác giả, nếu cần thiết có thể tách ra thành sáu nhóm gần gũi với cách gọi truyền thống:
danh từ, động từ, tính từ, từ chỉ ngôi, số từ và tiểu từ [56, tr.153]. Chính bằng phương pháp này, tác giả
nhận thấy rất nhiều điểm tương đồng (9 đặc điểm) giữa ‘động từ’ và ‘tính từ’ vì thế ông đã xếp chung
hai ‘từ loại’ này vào một nhóm (nhóm B) (tr.142-149). Cũng với cách làm như trên, P. Honey [162,
tr.13-22] đã chia từ tiếng Việt thành 12 loại, trong đó mỗi từ loại cũng được xác định dựa trên khả
năng kết hợp với các từ chứng. Chẳng hạn, để xác định từ loại 2 (tương đương với VT), tác giả đã lập
thức như sau: “Tất cả những từ tiếng Việt đứng ngay trước chứ không phải đứng sau một trong hai từ
nhiều hoặc lắm và không bao giờ đứng ngay sau một trong hai từ hơi hoặc rất thì được xếp vào nhóm
các từ loại 2” (tr.14-15). Với các từ loại còn lại tác giả cũng sử dụng phương pháp tương tự.
Chưa nói đến khó khăn trong việc tìm một số khuôn mẫu, từ chứng tiêu biểu để tránh sự tròng
tréo, để hạn chế ngoại lệ, những mô hình này chỉ có tác dụng miêu tả từ loại cho từng ngôn ngữ cụ thể
vì mỗi ngôn ngữ đều có những quy định về trật tự sắp xếp, kết hợp từ ngữ cũng như danh sách các từ
chứng.
Theo một giải pháp khác, từ loại được xác định dựa vào chức năng cú pháp cơ bản của chúng.
Cách định nghĩa này vừa phân biệt được động từ (verb) và tính từ (adjective) trong đa số ngôn ngữ Ấn- Âu5 lại vừa cho thấy nét chung rất cơ bản không thể bỏ qua giữa động từ và tính từ trong những ngôn
ngữ như tiếng Việt. Một số nhà Hán học như A. Dragunov, A. Reformatskij đã phân loại tiếng Hán –
một ngôn ngữ có nhiều nét tương đồng với tiếng Việt – dựa trên chức năng cú pháp, từ đó đã xếp chung
tính từ và động từ vào một nhóm gọi là VT. Cũng dựa trên chức năng cú pháp, L. Thompson đã thấy
‘verbs’ trong tiếng Việt phải bao gồm cả một số lớn “các hình thức hầu như là thích hợp gán cho các tính
từ tiếng Anh theo sau hình thức nào đó của động từ to be” [211, tr.217]. Tác giả Cao Xuân Hạo khi định
nghĩa VT cũng chú trọng tiêu chí cú pháp khi cho rằng VT là một từ “có thể tự mình làm thành một vị
ngữ (hay một ngữ đoạn biểu thị nội dung của cái sự tình được trần thuật trong câu) hoặc làm trung tâm
cho ngữ đoạn ấy” [33, tr.355]. Có thể nói, chức năng cú pháp đã được nhiều nhà ngôn ngữ học coi là
tiêu chí duy nhất hoặc cơ bản để định nghĩa VT trong những ngôn ngữ không biến hình như tiếng Việt.
Lối phân định từ loại của Nguyễn Tài Cẩn (1975) được xem là lối phân loại có viện đến cả khả
năng kết hợp và chức năng cú pháp khi ông cho rằng cần phải dựa vào đoản ngữ để phân loại. Theo
ông, một từ loại sẽ được xác định dựa vào khả năng kết hợp và chức năng của nó trong việc tổ chức
5 M. Haspelmath [161] khi bàn về tiêu chí chức năng cú pháp trong các ngôn ngữ, cho rằng các động từ luôn có thể đảm nhiệm vị trí vị ngữ mà không cần bất kì từ nào thêm vào để đánh dấu, trong khi đó đó các danh từ và tính từ khi đảm nhiệm vị trí này lại phải cần có yếu tố đánh dấu và đó thường là một động từ nối [161, tr.16541].
mệnh đề. Mặc dù có nói đến sự cần thiết phải bổ sung thêm tiêu chí “dựa vào mệnh đề” nhưng việc
nhấn mạnh vai trò quan trọng của của đoản ngữ trong việc xác lập tư cách từ loại của các VT cho thấy
hướng đi của tác giả là nhất quán, có giá trị [12, tr.303-320].
Lưu Vân Lăng, dựa vào hoạt động cú pháp của từ trong ngữ đoạn tầng bậc hạt nhân, vào vai trò,
vị trí, chức năng của từ trong ngữ đoạn đã chia vốn từ tiếng Việt ra thành hai loại lớn (từ nòng cốt và từ
phụ gia) trong đó VT (bao gồm động từ và tính từ) được đặt trong thế đối lập với nhóm thể từ (bao gồm
danh từ và đại từ) và hai nhóm này xếp chung vào loại từ nòng cốt [47, tr.122]. Lối phân loại này thuận
lợi trong thao tác (có lẽ ảnh hưởng bởi phương pháp phân tích thành tố đã được ngữ pháp miêu tả cấu
trúc Mỹ đề cập từ lâu) nhưng thực ra vẫn phải dựa vào tiêu chí ý nghĩa trong tất cả các tầng bậc phân
loại.
Cùng chú ý tới đặc điểm nội tại của ngôn ngữ, một số tác giả lại sử dụng cùng lúc nhiều tiêu chí.
Theo P. Schachter, từ loại cần phải được định nghĩa dựa trên các tiêu chí ngữ pháp. Cụ thể tác giả nêu
ra ba tiêu chí: (i) sự phân bố của từ (trong câu); (ii) phạm vi chức năng cú pháp mà từ đảm nhiệm; (iii)
các phạm trù cú pháp hoặc hình thái mà từ thể hiện [193, tr.3]. Ba tiêu chí này có thể được minh họa
như sau (ví dụ của tác giả). Theo tiêu chí (i) trong câu ‘Boys like girls’ (Trai thì thích gái), các từ boys
và like có sự phân bố khác nhau (‘*Like boys girls’ là không đúng ngữ pháp); theo tiêu chí (ii) ta thấy
boys có thể giữ chức năng chủ ngữ nhưng like thì không; theo tiêu chí (iii), boys có thể mang phạm trù
số nhưng không thể mang phạm trù thì, trong khi đó like có thể mang cả hai phạm trù. Như vậy, boys
và like cần phải xếp vào hai phạm trù khác nhau (tr.4).
Một giải pháp trung dung hơn là sử dụng nhiều tiêu chí bao gồm cả những tiêu chí thuộc về ngữ
nghĩa/ chức năng và cả những tiêu chí thuộc về cấu trúc nội tại của ngôn ngữ để phân chia từ loại
([120, tr.23-24]; [145, tr.129]; [149, tr.177]; [159, tr.8]; [191, tr.396]; [192, tr.112-113]). Chẳng hạn,
E. Gorden và I. Krylova sau khi nêu ra ba tiêu chí chung cho việc phân chia từ loại trong các ngôn ngữ
[159, tr.6], đã định nghĩa VT dựa trên ba tiêu chí: (i) nội dung (nghĩa từ vựng): dùng để chỉ các hành
động, quá trình, quan hệ, v.v.; (ii) hình thức: thể hiện các phạm trù ngữ pháp như thì, thể, dạng, v.v.;
(iii) chức năng: làm vị ngữ của câu (tr.8).
Trong giới Việt ngữ học một số tác giả cũng sử dụng nhiều tiêu chí để xác định từ loại, chẳng
hạn, Lê Cận – Phan Thiều [14, tr.105] căn cứ vào chức năng cú pháp, ý nghĩa phạm trù và khả năng kết
hợp, Đinh Văn Đức [25, tr.16-29] sử dụng ý nghĩa phạm trù, chức năng cú pháp và cả ý nghĩa từ vựng
– ngữ pháp, Diệp Quang Ban và Hoàng Văn Thung [4, tr.74-77] dựa vào các tiêu chí như ý nghĩa khái
quát, khả năng kết hợp, chức năng cú pháp, v.v.
Chúng tôi cho rằng để có một định nghĩa về từ loại nói chung và VT nói riêng có thể áp dụng
cho nhiều ngôn ngữ cần phải kết hợp nhiều tiêu chí. Việc sử dụng một tiêu chí duy nhất sẽ không
phản ánh được đầy đủ bản chất cũng như hoạt động phức tạp của VT trong các ngôn ngữ thuộc
những loại hình ngôn ngữ khác nhau. Về cơ bản, chúng tôi tán thành cách phân định từ loại của
Nguyễn Tài Cẩn, theo đó VT là một từ loại có thể làm trung tâm của đoản ngữ, có khả năng kết hợp
với một số thành tố phụ [12, tr.311-334]; tuy nhiên, chúng tôi không phân biệt ‘động từ’ với ‘tính từ’
mà cơ sở là sự tương đồng rất lớn giữa chúng ở chính hai tiêu chí mà tác giả đã nêu.
1.1.2. Phân loại VT
VT có thể được phân loại dựa vào nghĩa biểu hiện, vào số lượng diễn tố mà nó chi phối, sự kết
hợp cả tiêu chí ý nghĩa và chức năng hay sự có mặt hoặc vắng mặt của BN trực tiếp.
1.1.2.1. Phân loại VT theo nghĩa biểu hiện
Phân loại VT theo nghĩa biểu hiện sự tình là lối phân loại chú ý đến mối quan hệ giữa VT với thế giới bên ngoài6. Đây là lối phân loại có lẽ xuất hiện sớm nhất. Lối phân loại này vẫn được nhiều
nhà ngôn ngữ học sử dụng với một số chỉnh sửa, bổ sung.
W. Chafe sau khi chia VT thành hai nhóm lớn (VT trạng thái và VT phi trạng thái) đã đưa ra
một bảng phân loại VT gồm 6 tiểu loại: (i) VT trạng thái, (ii) VT quá trình, (iii) VT hành động, (iv)
VT quá trình hành động, (v) VT trạng thái hoàn cảnh, (vi) VT hành động hoàn cảnh [10, tr.131].
R. Dixon cho rằng vốn từ trong tất cả các ngôn ngữ đều có thể được phân loại dựa vào một số kiểu
ngữ nghĩa (semantic types) nhất định. Theo tác giả có khoảng trên 30 kiểu ngữ nghĩa phổ biến. Trong đó
riêng VT có khoảng 20 kiểu, chẳng hạn: VT chỉ sự chuyển động (motion), cho tặng (giving), yêu thích
(liking), v.v. Tuy nhiên ông cũng nhận thấy trong các ngôn ngữ thường có hiện tượng một số VT cùng
chia sẻ đặc tính cú pháp nhưng ý nghĩa có thể lại rất khác nhau [139, tr.93-97].
Cũng căn cứ vào nghĩa của VT, R. Quirk et al (1972) sau khi chia VT thành hai nhóm lớn: động
(dynamic) và trạng thái (stative) đã tách tiếp VT thành 7 nhóm nhỏ trong đó có 5 nhóm thuộc về VT
động (VT hành động ‘activity verbs’, VT quá trình ‘process verbs’, VT chỉ cảm giác cơ thể ‘verbs of
bodily sensation’, VT chỉ sự di chuyển ‘transitional event verbs’, VT chỉ hành động tức thời
‘momentary verbs’) và 2 nhóm thuộc về VT trạng thái (VT chỉ nhận thức và cảm nhận nội tâm ‘verbs
of inert perception and cognition’, VT chỉ quan hệ ‘relational verbs’) [189, tr. 46-47]. Phát triển, mở
rộng hướng phân loại này, I. Schlesinger (1995) đã chia VT thành 11 nhóm bằng cách phân loại chi tiết
hơn một số tiểu loại mà R. Quirk et al đã nêu ra (chẳng hạn chia VT chỉ sự di chuyển thành di chuyển
có ý định và di chuyển không ý định) và bổ sung thêm một nhóm mới (VT chỉ tư thế ‘stance’) [194, tr.
6 Một số tác giả, chẳng hạn H. Sweet [206, tr.89], đã có lối phân loại VT dựa theo nghĩa rất đáng lưu ý. Căn cứ vào nghĩa, VT có thể được chia thành: NgĐ, NĐ, phản thân, tương hỗ và vô nhân xưng (impersonal). Cách phân loại này phản ánh quan niệm xem NgĐ và NĐ là phạm trù thuộc về bình diện nghĩa.
Xét từ góc độ từ nguyên, ‘transitve’ (NgĐ) bắt nguồn từ tiếng La Tinh: ‘transire’ nghĩa là ‘chuyển ngang qua’ (to go across)
[192, tr.117] – một thuật ngữ gợi nhiều liên tưởng về phương diện nghĩa.
181-183].
Bằng việc mô tả câu ở bình diện nghĩa thể hiện, M. Halliday phân loại quá trình (quá trình
được thể hiện là VT ở bình diện hình thức cú pháp) thành 3 kiểu cơ bản (quá trình vật chất, quá trình
tinh thần, quá trình quan hệ) và 3 kiểu trung gian (quá trình hành vi, quá trình phát ngôn, quá trình
hiện hữu) [29, tr.205-207].
T. Givón (1984) không chỉ vận dụng tiêu chí mức độ ổn định về mặt thời gian (degree of time
stability) để định nghĩa các từ loại (x. mục 1.1.1), mà còn dùng tiêu chí này để phân chia các tiểu loại
trong nội bộ từ loại VT. Căn cứ vào tiêu chí này, VT có thể chia thành ba loại: (i) VT cấp thời
(instantaneous verbs) – dùng để diễn tả những thay đổi rất nhanh (kiểu: hit ‘đánh’, shoot ‘bắn’, kick
‘đá’); (ii) VT hành động/ quá trình (activity/ process verbs) – dùng để diễn tả những thay đổi chậm
hơn (kiểu: sing ‘hát’, work ‘làm việc’, eat ‘ăn’ hoặc read ‘đọc’); và (iii) VT trạng thái (stative verbs)
– dùng để diễn tả những hiện tượng thay đổi rất chậm hoặc không thay đổi (kiểu: know ‘biết’,
understand ‘hiểu’, hoặc like ‘thích’) [152, tr.52]. Khái quát và rút gọn hơn, một số tác giả chỉ lưỡng
phân VT thành VT động (active verbs) và VT trạng thái (stative verbs) ([166, tr.62]; [189, tr.22];
[193, tr.11]). Mặc dù lối phân loại này dựa trên tiêu chí nghĩa nhưng nó ít nhiều có tính chất ngữ
pháp bởi tiêu chí nhận diện các VT động là khả năng tham gia vào cấu trúc tiếp diễn còn VT trạng
thái thì không có khả năng này.
Cũng dựa vào nghĩa biểu hiện, VT có thể chia thành hai loại: VT biểu thị nội dung sự tình và VT
tình thái.
(1) VT biểu thị nội dung sự tình
Đây là những VT biểu thị những đặc tính, những biểu hiện và những mối liên hệ của các thực
thể ở thế giới bên ngoài. Nhóm VT này có thể tiếp tục được phân loại chi tiết hơn dựa vào một số
tiêu chí ngữ nghĩa cụ thể. S. Dik đã kết hợp hai tiêu chí Động (dynamism) và Chủ ý (control) để xác
định 4 kiểu sự tình – cũng là 4 kiểu VT cơ bản:
Sự tình
+ Động BIẾN CỐ - Động TÌNH TRẠNG
+ Chủ ý Hành động Tư thế
- Chủ ý Quá trình Trạng thái
Trong việc phân loại VT và câu tiếng Việt, một số tác giả đã vận dụng, phát triển thành công mô
hình này ([32], [72]).
[137, tr.34]
(2) VT biểu thị tình thái (modality verb)
Khác với VT biểu thị nội dung sự tình, VT tình thái cho biết cách thực hiện các mối liên hệ giữa
các thực thể trong thế giới là có thật hay không, là tất yếu hay không, có thể có hay không. Ngoài ra
chúng còn phản ánh thái độ, cách đánh giá của người nói hay chủ thể sự tình được nói ra về các dạng
thức thể hiện sự tình. Trước cùng một sự tình, bằng những yếu tố tình thái (trong đó chủ yếu là VT tình
thái) người nói có thể tạo ra những phát ngôn khác nhau nhờ ý nghĩa tình thái thêm vào nội dung miêu
tả sự tình ấy.
1. a. Nam muốn đến trường.
b. Nam có thể đã đến trường.
c. John managed to escape.
‘Anh ta đã [tìm cách] trốn thoát’
d. He wanted to leave.
Xuất hiện trong chuỗi VT, VT tình thái bao giờ cũng đứng ở vị trí đầu tiên và giữ vai trò trung
tâm về ngữ pháp. Theo T. Givón, VT tình thái và VT đứng sau nó bao giờ cũng phải cùng một chủ ngữ
(equi-subject). Sở dĩ chủ ngữ của VT đứng sau VT tình thái không xuất hiện, theo quan niệm của ngữ
pháp tạo sinh, là do nó bị lược bỏ. Chẳng hạn, (a) là một hình thức lược của “Nam muốn rằng Nam/
cậu ta đến trường”; (c) là hình thức lược của “He managed that he would escape” (Anh ta đã xoay sở/
tìm cách để anh ta trốn thoát). Việc đưa ra tiêu chí cùng một chủ ngữ sẽ phân biệt được VT tình thái
với VT thuộc một số nhóm, chẳng hạn VT phát ngôn-tri nhận (cognition-utterance). Dù sao, trong một
số trường hợp, chẳng hạn như trong câu (a) và (d) vừa đề cập, VT có nghĩa tình thái trong hình thức
tỉnh lược có thể coi là mơ hồ hoặc giao thoa (overlap) với nhóm VT phát ngôn-tri nhận ((a) có thể
được hiểu là: Nam muốn cô ta (hoặc ai đó) đến trường; tương tự (d) có thể được hiểu là: He wanted
that she would leave) [153, tr.533-534].
Trong những ngôn ngữ thiên chủ đề như tiếng Việt, nơi mà sự qui định đặc tính vai nghĩa không
chặt chẽ như trong các ngôn ngữ thiên chủ ngữ (như tiếng Anh), có thể xuất hiện nhiều trường hợp VT tình thái không nhất thiết phải cùng với VT ngôn liệu bị chi phối bởi Đề7 mà có thể gắn với người nói (kiểu: Căn nhà này có lẽ sẽ bị sập).
Dựa vào tính chất hàm ý (implicativity) – tích cực (positive) hay tiêu cực (negative) cũng như
dựa vào một số tiêu chí khác, VT tình thái có thể được chia thành nhiều tiểu loại ([32, tr.50-54]; [99];
[152, tr.117-119], [153, tr.532-537]).
Nhìn chung, lối phân loại VT dựa vào nghĩa biểu hiện có thể áp dụng cho mọi ngôn ngữ.
‘Anh ta muốn đi’
1.1.2.2. Phân loại VT theo số lượng diễn tố
7 ‘Đề’, ‘Thuyết’, v.v. được chúng tôi xem là các đơn vị chức năng cú pháp.
VT, về mặt bản chất, quy định sự hiện diện của các thành phần còn lại của câu – nghĩa là quy định
số lượng và kiểu ngữ nghĩa của những ngữ đoạn danh từ bắt buộc hoặc có thể xuất hiện trong câu [10, tr.124]. Những ngữ đoạn bắt buộc phải xuất hiện do ý nghĩa của VT quy định gọi là diễn tố8. Số lượng
các diễn tố của một VT là diễn trị. Dựa vào tiêu chí diễn trị, VT được chia thành VT vô trị, đơn trị, song
trị, tam trị.
(1) VT không có diễn tố/ vô trị (avalent). Những VT vô trị chủ yếu thể hiện những hiện tượng,
trạng thái phổ biến như thiên nhiên, thời tiết. Lúc này không có một tham tố bắt buộc nào tham gia vào
sự tình. Theo W. Chafe, VT loại này thường gắn với kiểu câu mà dường như “không chứa đựng một
cái gì khác ngoài VT và trong đó không có một đối tượng nào để tiến hành VT hóa” [10, tr.130]. Trong
một số ngôn ngữ, như tiếng Việt, VT vô trị có thể một mình hoặc kết hợp với các chu tố mở rộng (làm
trạng ngữ) để tạo câu.
2. a. Mưa!
b. Mưa tầm tã suốt ngày.
c. It’s raining.
‘Trời mưa’
Cả ba câu trên không có diễn tố nào tham gia sự tình9.
(2) VT một diễn tố/ đơn trị (monovalent). Đây là những VT có một tham tố bắt buộc. Căn cứ
vào nghĩa, VT một diễn tố có thể thuộc vào nhiều tiểu loại khác nhau: VT hành động, VT quá trình,
VT trạng thái, VT tư thế. Trong phần lớn các câu đơn giản, VT này đi sau diễn tố đóng vai trò Đề/ chủ
ngữ của câu. Diễn tố duy nhất này có thể mang các vai nghĩa khác nhau. Ví dụ với VT hành động, diễn
tố này là Hành thể (actor), với VT trạng thái diễn tố này là Nghiệm thể (experiencer)...
3. a. Nam chạy.
b. Nam ngủ suốt ngày.
c. John died.
(John [đã] chết)
(3) VT hai diễn tố/ song trị (bivalent). Đây là những VT đòi hỏi phải có hai tham tố tham gia vào
sự tình. Một diễn tố xuất hiện trên bề mặt cú pháp là Đề/ chủ ngữ, diễn tố kia là BN. Xét về đặc tính
ngữ nghĩa, phần lớn VT hai diễn tố thuộc loại VT hành động tuy nhiên chúng cũng có thể thuộc các
loại VT khác. Hai diễn tố này có thể mang vai ngữ nghĩa khác nhau tùy thuộc vào nghĩa của VT chi
phối chúng. Ví dụ tham gia vào khung vị ngữ có VT trung tâm là VT hành động, hai diễn tố thường là
8 Chi tiết về diễn tố, x. mục 1.2. 9 Ví dụ trên cho thấy có chút khác biệt giữa tiếng Việt và tiếng Anh. Cùng thể hiện một sự tình (hiện tượng thời tiết), tiếng Anh chỉ sử dụng cấu trúc vô trị (it được xem là chủ ngữ hình thức chứ không phải là một diễn tố), trong khi đó, tiếng Việt sử dụng hai cấu trúc: cấu trúc vô trị (ví dụ a, b) và cấu trúc đơn trị (như phần dịch ví dụ c: trời mưa). Người Việt tri nhận trời như một thực thể – do đó nó được xử lí là một tham tố.
Tác thể và Đối thể/ Đích (goal); nếu VT trung tâm là VT trạng thái, đó là Nghiệm thể và Hiện tượng
(phenomenon).
4. a. Nam yêu Lan.
b. John killed Bill.
(John [đã] giết Bill)
(4) VT ba diễn tố/ tam trị (trivalent). Các VT loại này đòi hỏi phải có ba diễn tố. Một diễn tố
xuất hiện trên bề mặt cú pháp là Đề/ chủ ngữ, hai diễn tố còn lại thường là một BN trực tiếp và một BN
gián tiếp. Hầu hết VT tam trị thuộc VT hành động và các diễn tố của VT loại này thường mang các vai
nghĩa: Tác thể, Đối thể và Tiếp thể (recepient).
5. a. Nam gửi thư cho Lan.
b. Cô ta đặt cuốn sách lên bàn.
c. He asked me a question.
Ngoài bốn kiểu VT trên, một số VT có thể có bốn diễn tố, tuy nhiên nhóm VT này có số lượng
không đáng kể. Trong thực tế sử dụng ít khi cả bốn diễn tố này được hiện thực hoá, nghĩa là tùy mục
đích giao tiếp cụ thể, một (vài) diễn tố thường bị lược bỏ.
(Anh ta hỏi tôi một câu hỏi)
6.
a. Nam đổi tờ tiền rách cho người thu ngân để lấy tờ tiền mới.
a’. Nam đổi tiền mới.
b. Pat sold a lawnmower to Chris for $20.
Trong ví dụ trên, câu (a) là dạng đầy đủ. Ở câu này tất cả các diễn tố đều được hiện thực hoá.
Trong khi đó, ở câu (a’) hai diễn tố (vật đem đổi và người cho đổi) bị lược bỏ.
Gắn với hướng phân loại dựa vào diễn trị nhưng một số tác giả khác đưa ra kết quả phân loại có ít
nhiều dị biệt. Chẳng hạn, Ch. Li & S. Thompson chia VT tiếng Hán thành (i) VT NĐ (không có BN);
(ii) VT NgĐ (có một BN trực tiếp); (iii) VT song chuyển (có một BN trực tiếp và một BN gián tiếp).
Các tác giả đã xếp VT trợ (copula) vào nhóm VT NĐ [178, tr.141]. Như vậy lối phân loại của các tác
giả này là sự kết hợp của lối phân loại dựa vào diễn trị kết hợp với tiêu chí sự có mặt/ vắng mặt của
BN.
R. Dixon, cũng dựa vào diễn trị và đưa ra kết quả các tiểu nhóm là VT NĐ (nhận một vai nghĩa),
VT NgĐ (nhận hai hoặc hơn hai vai nghĩa) [139, tr.95]. I. Schlesinger cũng có quan điểm tương tự khi
cho rằng việc phân chia VT thành VT NĐ và VT NgĐ là căn cứ vào số lượng tham tố nòng cốt (core
arguments) mà VT đòi hỏi [194, tr.180].
‘Pat bán một cái máy xén cỏ cho Chris giá 20 đô’
Việc đánh đồng giữa số lượng vai nghĩa với đặc điểm cú pháp như cách làm của các tác giả trên
cần phải xem xét lại vì trong nhiều ngôn ngữ, một số VT có hai hoặc hơn hai diễn tố nhưng thể hiện
trên bình diện cú pháp vẫn không có BN trực tiếp do đó vẫn không thể xếp chúng vào nhóm VT NgĐ.
Trong tiếng Việt cũng tồn tại hiện tượng này (x. mục 2.1.2).
1.1.2.3. Phân loại VT dựa trên sự kết hợp ý nghĩa và chức năng
Kết quả của cách phân chia này tạo ra sự phân đôi hay phân ba các VT. Theo lối phân ba, VT
chia thành VT trợ/ VT nối (auxiliary/ linking/ copulative verb), VT NĐ (intransitive verb) và VT NgĐ
(transitive verb) ([147, tr.343]; [185, tr. 64]; [195, tr.3]). Lối phân đôi giữ nguyên nhóm VT trợ và
gom các VT NĐ và VT NgĐ vào một nhóm gọi là VT không nối/ VT miêu tả/ VT có nghĩa từ vựng
(non-linking/ predicating/ lexical verb) ([11, tr.613-614]; [159, tr.9-10]; [192, tr.114-120]). Như vậy,
ngoài một số khác biệt nhỏ, hai cách phân loại trên về cơ bản là thống nhất ở cách hiểu các khái
niệm. Nói chung, các VT trong nhóm đầu là mờ nghĩa từ vựng hoặc trống nghĩa, chúng luôn đi trước
VT từ vựng trong các VT chuỗi để thông tin về tình thái; hoặc, trong một số ngôn ngữ, chúng đi
trước các từ loại khác để thông tin về thời, thể, ngôi... và cùng hợp thành vị ngữ, tạo tính hoàn chỉnh
về ngữ pháp. Ngược lại, các VT thuộc nhóm hai (và nhóm ba trong cách phân ba) – bao gồm VT NĐ
và VT NgĐ – có nghĩa từ vựng và có thể đảm trách chức năng cú pháp trong câu.
Lối phân loại trên thiếu tính triệt để trong việc sử dụng các tiêu chí. Sự đối lập VT nối với hai loại
còn lại là dựa trên tiêu chí nghĩa, trong khi đó, sự phân biệt VT NĐ với VT NgĐ lại dựa trên tiêu chí
ngữ pháp.
1.1.2.4. Phân loại VT dựa vào tiêu chí [±BN trực tiếp]
Đây là lối phân loại khá phổ biến có nhiều gần gũi với lối phân loại ở mục 1.1.2.3. Theo hướng
này, VT được chia thành hai nhóm: VT có BN trực tiếp (tức VT NgĐ) và VT không có BN trực tiếp
(VT NĐ). Khác với lối phân loại trên (kết hợp nhiều tiêu chí), lối phân loại này là lối phân loại có tính
ngữ pháp (vì nó chú ý mối quan hệ của VT với các thành phần chức năng trong câu). Đây là lối phân
loại có thể áp dụng cho hầu hết các ngôn ngữ ([189, tr.22]; [193, tr.10]). Hạn chế cơ bản của lối phân
loại này là không tính đến hoạt động của nhóm VT nối – một nhóm phổ biến trong rất nhiều ngôn ngữ
(tuy nhiên có một số tác giả, chẳng hạn Ch. Li & S. Thompson [173, tr.141], E. Gordon & I. Krylova
[156, tr.9], đã xếp VT nối vào nhóm VT NĐ).
Luận án chấp nhận (có một số bổ sung, điều chỉnh) hướng phân loại này và từ đó tiếp tục phân
loại, miêu tả sâu hơn các tiểu loại VT trong tiếng Việt.
1.2. THAM TỐ VÀ PHÂN LOẠI THAM TỐ
1.2.1. Khái niệm tham tố. Tham tố (argument/ participant) gắn liền với những nghiên cứu của
Tesnière về cấu trúc câu và của C. Fillmore về các quan hệ cách (case relationships). Về sau, nhiều nhà
ngữ pháp chức năng tiếp tục bổ sung, phát triển những lí thuyết này. S. Dik chú ý tới cấu trúc nghĩa
của VT. Ông đã có những miêu tả sâu sắc về tham tố và phân loại tham tố thành diễn tố và chu tố [137,
tr.15; 26]. T. Givón cho rằng ngữ nghĩa của mệnh đề liên quan tới hai mặt của mệnh đề: (i) sự đặc tính
hóa của nó như là một trạng thái, sự kiện, hoặc hành động và (ii) đặc tính của các tham tố trong mệnh
đề như là các vai ngữ nghĩa trong quan hệ với VT [152, tr.31]. Trong công trình “Dẫn luận ngữ pháp
chức năng”, M. Halliday khi xem xét cấu trúc ngữ nghĩa của các cú cũng đưa ra ba thành tố (i) quá
trình, (ii) các tham tố trong quá trình, (iii) các chu cảnh liên quan đến quá trình [29, tr.208]. Tất cả các
tác giả trên, mặc dù có sử dụng những khái niệm khác nhau và mô hình đưa ra có ít nhiều khác biệt,
đều nói đến hai bộ phận trong cấu trúc ngữ nghĩa của mệnh đề: VT và các tham tố. VT trong câu đóng
vai trò trung tâm ngữ nghĩa và cú pháp. VT tạo thành những cái nút (nodes), cái khung (frame) từ đó
các ngữ đoạn kết dính, chèn lấp vào làm rõ, xác định sự tình, để hoàn chỉnh chức năng thông báo.
Tham tố chính là các vai nghĩa tham gia vào cái ‘màn kịch nhỏ’ do VT làm trung tâm. Các tham tố
cùng với VT tạo thành nội dung ngữ nghĩa cho câu – thực hiện chức năng thể hiện ‘thế giới kinh
nghiệm’ (experiental world), chức năng phản ánh sự tình. Đứng từ góc độ này thì những vai nghĩa cơ
bản được coi là có số lượng hữu hạn và tồn tại trong tất cả các ngôn ngữ vì chúng phản ánh mối quan
hệ sâu – quan hệ ngữ nghĩa với VT [152, tr.86].
Trong các mệnh đề, VT thường đóng vai trò quyết định. Chính ý nghĩa của VT sẽ chi phối, quyết
định đến số lượng tham tố (cần bao nhiêu, có thể có bao nhiêu) và đặc tính ngữ nghĩa của tham tố (các
kiểu vai nghĩa).
Tập hợp các tham tố được lựa chọn bởi một VT bao gồm các đặc tính, quan hệ, và vai trò cú pháp
của chúng được gọi là cấu trúc tham tố (argument structure) của VT đó [134, tr.21]. Cấu trúc tham tố
liên quan đến hai phương diện: ngữ nghĩa và cú pháp. Về phương diện ngữ nghĩa cấu trúc tham tố thể
hiện những tham tố cốt lõi của sự tình do VT chỉ định. Về phương diện cú pháp, cấu trúc tham tố thể
hiện thông tin tối thiểu cần thiết cho việc xác định những lệ thuộc về mặt cú pháp của tham tố đối với
VT hạt nhân mà nó bị chi phối. Như vậy có thể nói, cấu trúc tham tố là một yếu tố trung gian nằm giữa
hai cấp độ ngữ nghĩa học từ vựng và cấu trúc cú pháp. Quan hệ này được J. Bresnan (1995) mô hình
hóa như sau [124, tr.1]:
Ngữ nghĩa học từ vựng (lexical semantics)
Cấu trúc tham tố (a-structure)
Cấu trúc cú pháp (syntactic structure)
Trong các ngôn ngữ có sự phân biệt rõ ràng giữa động từ và tính từ (chẳng hạn tiếng Anh), các tham tố liên quan chủ yếu với các động từ nhưng chúng cũng có thể liên quan tới tính từ10 và một số danh từ11. Nói cách khác, tính từ, danh từ cũng có cấu trúc tham tố (Vấn đề tham tố và cấu trúc tham tố
trong tiếng Việt và tiếng Anh sẽ được trình bày chi tiết hơn trong mục 2.1.2. và mục 3.3).
1.2.2. Phân loại tham tố. Việc phân loại tham tố có thể thực hiện dựa những tiêu chí khác nhau.
Nhìn chung, trong các tài liệu ngôn ngữ học hiện nay, tham tố thường được phân loại như sau:
(i) Tham tố bắt buộc và tham tố tùy ý (obligatory argument and optional argument);
(ii) Tham tố ngoại tại và tham tố nội tại (external argument and internal argument);
(iii) Tham tố trực tiếp và tham tố gián tiếp (direct argument and indirect argument);
(iv) Tham tố ngầm ẩn (suppressed/ implicit argument);
(v) Tham tố bị lược bỏ (deleted argument);
(vi) Tham tố sự kiện (event argument).
[109, tr.391-392]
Nhóm (i) sẽ được chúng tôi đề cập chi tiết hơn trong các tiểu mục dưới. Về sự đối lập giữa tham
tố nội tại và tham tố ngoại tại, cơ sở sự lưỡng phân này là mối quan hệ giữa các tham tố với cấu trúc
của VT làm vị ngữ. Chủ ngữ là tham tố nằm ngoài cấu trúc của VT làm vị ngữ, do đó nó được gọi là
tham tố ngoại tại; trong khi đó, các BN (trực tiếp, gián tiếp) có quan hệ nội tại với VT (nằm trong cấu
trúc ngữ VT). Lối phân chia này xuất phát từ lí thuyết về quan hệ chi phối/ ràng buộc được đề xướng
bởi các nhà ngữ pháp tạo sinh (E. William 1980, N. Chomsky 1981), theo đó, chủ ngữ bị chi phối trực
tiếp bởi câu còn các BN bị chi phối trực tiếp bởi VT. Mặc dù có quan hệ nghĩa với VT nhưng về
phương diện ngữ pháp, chủ ngữ được xem là ngữ đoạn chức năng độc lập, nằm ngoài cấu trúc cú pháp
của VT ([135, tr.16-17]; [126, tr.391-392]).
Đối lập giữa tham tố trực tiếp và tham tố gián tiếp dựa trên tiêu chí [±giới từ] trước tham tố.
Tham tố kết hợp với giới từ gọi là tham tố gián tiếp trong khi đó tham tố không kết hợp với giới từ gọi
là tham tố trực tiếp. Trong ví dụ dưới, the cake là tham tố trực tiếp, the table là tham tố gián tiếp (đứng
sau giới từ on).
7. Mary put the cake on the table.
10 Về cấu trúc tham tố của tính từ, nhiều tác giả đã đề cập tới. A. Ikeya [164] có một bài viết bàn riêng về cấu trúc tham tố của tính từ tiếng Anh, trong đó tác giả bàn kĩ về những vấn đề sau:
– Cương vị ngữ nghĩa của các ngữ đoạn giới từ trong những câu như: Tom is good at tennis. ‘Tom giỏi Tennis’; – Cương vị ngữ nghĩa của các động từ nguyên thể trong những câu như: He is sure to win. ‘Anh ta chắc chắn (mình) sẽ chiến
thắng’;
– Sự khác nhau giữa các câu như: It is wise of Peter to go home và Peter is wise to go home. ‘Peter thật là khôn ngoan khi (quyết
định) về nhà’.
Tác giả cho rằng ngữ đoạn giới từ hoặc ngữ đoạn chứa động từ nguyên thể đứng sau tính từ trong các cấu trúc trên có tư cách là tham
tố nhưng cho rằng xét về tư cách cú pháp, những tính từ này vẫn là những VT NĐ. 11 R. Jackendoff [165, tr.3] còn đề cập đến cả cấu trúc tham tố của giới từ, kiểu: outside the house ‘bên ngoài nhà’; underneath the floor ‘dưới sàn’, up the stairs ‘trên cầu thang’.
Sự đối lập giữa tham tố trực tiếp và tham tố gián tiếp chú ý đến hình thức thể hiện của tham tố trên
bình diện cú pháp. Tham tố gián tiếp có quan hệ rất gần gũi với khái niệm BN bắt buộc có giới từ đi kèm
mà chúng tôi sẽ đề cập trong mục 1.3.1.
Tham tố ngầm ẩn là một tham tố hình thành từ một tham tố ngoại tại trong cấu trúc chủ động bị
giáng cấp thành ngữ đoạn tùy ý trong cấu trúc bị động. Trong một ngôn ngữ như tiếng Anh, ngữ đoạn
chỉ tác thể đứng sau giới từ by trong cấu trúc bị động được gọi là tham tố kiểu này. Sở dĩ gọi chúng là
tham tố ngầm ẩn là bởi chúng tồn tại trong cấu trúc nghĩa của VT nhưng không cần thiết phải xuất hiện
ở bình diện cấu trúc cú pháp. Có thể nói, tham tố kiểu này tồn tại trong cấu trúc nghĩa nhưng xuất hiện tùy ý (là trạng ngữ – adjunt) trong cấu trúc cú pháp.
8. a. They invited the singer.
‘Mary đặt bánh lên trên bàn’
‘Họ (đã) mời ca sĩ này’
b. The singer was invited (by them).
(Ca sĩ này [đã] được mời [bởi họ])
Trong câu (b), them là tham tố ngầm ẩn, nó vốn là tham tố ngoại tại làm chủ ngữ (they) trong cấu
trúc chủ động ở câu (a). Việc đặt tham tố này trong ngoặc đơn để chỉ tham tố này có tính tùy ý. Tham
tố ngầm ẩn rất gần (nhưng có khác biệt quan trọng) với tham tố bị tỉnh lược – tham tố không được
phép xuất hiện trong cấu trúc tham tố cũng như trong cấu trúc cú pháp.
‘Ca sĩ này đã được (họ) mời’
9. a. The movie frightened John.
‘Bộ phim đã làm John hoảng sợ’
b. John frightens easily.
‘John dễ bị hoảng sợ’
Tham tố giữ vai chủ ngữ (the movie) trong câu (a) không được phép xuất hiện trong câu (b) – một
câu được coi là phái sinh từ chính câu (a). Câu (c) là câu sai bởi sự có mặt của tham tố này. Kiểu câu
chứa một tham tố tỉnh lược (câu b trong ví dụ trên) được coi là câu trung tính (middle sentence).
Một số tác giả (D. Davidson 1967; J. Higginbotham 1985; A. Kratzer 1989; T. Parsons 1990,
v.v.) còn đề cập đến một loại tham tố dùng để đánh dấu câu hành động – tham tố sự kiện. Điều này có
nghĩa là các kiểu câu khác, chẳng hạn câu trạng thái, sẽ không có loại tham tố này. Có tác giả, chẳng
hạn J. Grimshaw (1990), cho rằng tham tố sự kiện là một kiểu tham tố ngoại tại.
Trong các lối phân loại trên, lối phân loại dựa trên tính chất, mức độ quan hệ giữa tham tố với VT
(chia tham tố thành tham tố bắt buộc và tham tố tùy ý) giữ vai trò quan trọng trong việc nhận diện
c. *John frightens easily by the movie.
phạm trù NĐ/ NgĐ cũng như phân loại VT.
1.2.2.1. Tham tố bắt buộc/ diễn tố (actant) là tham tố cần yếu để tạo thành vị ngữ hạt nhân. Vị
ngữ hạt nhân thể hiện một sự tình mà trong đó “đặc tính và quan hệ được thấy rõ nhờ VT chứa những
ngữ đoạn mà nó đòi hỏi”. Các vị ngữ hạt nhân có được là nhờ “việc lấp đầy các ngữ đoạn thực hiện
chức năng như là các tham tố của VT mà chúng có trách nhiệm bổ nghĩa cụ thể” [137, tr.25-26]. Các
tham tố nằm trong vị ngữ hạt nhân hình thành một cách tự nhiên trong suy nghĩ của người bản ngữ và
được xem là những yếu tố không thể thiếu gắn chặt với nghĩa của VT. Một VT như cho sẽ buộc ta phải
nghĩ tới các tham tố: người cho (ai cho), người nhận (cho ai) và cái được cho (cho cái gì); tương tự một
VT như đánh sẽ buộc ta phải nghĩ tới các tham tố như: người đánh (ai đánh), người hay vật bị đánh.
Tham tố (dù là diễn tố hay chu tố) là những nhân/ vật tham gia vào sự tình do đó hình thức phổ
biến của chúng là những ngữ danh từ.
10.
That man showed the boy a picture.
Diễn tố: ngữ danh từ VT: động từ Diễn tố: ngữ danh từ Diễn tố: ngữ danh từ
Tất nhiên tham tố có thể có hình thức khác, nhưng về bản chất bao giờ nó cũng có tính chất danh
từ hoặc có thể thay thế bằng một (ngữ) danh từ. Dưới đây là một ví dụ khác, trong đó có hai tham tố
bắt buộc là các cú.
‘Người đàn ông ấy đưa cho đứa bé (xem) một tấm hình’.
11.
showed the boss she was For her to arrived late again that unreliable.
Diễn tố: cú VT: động từ Diễn tố: ngữ danh từ Diễn tố: cú
Các kiểu chủ ngữ hình thức (formal subject)/ chủ ngữ trống nghĩa (dummy subject), vốn cần thiết
cho các ngôn ngữ có yêu cầu cao về mặt ngữ pháp, tuy có thể xử lí là một tham tố và đó là một tham tố
bắt buộc nhưng nói một cách chặt chẽ, như W. Culicover (1997), nó không phải là tham tố bởi nó thiếu
đặc tính của tham tố là một ngữ đoạn dùng để diễn đạt các đặc tính hay quan hệ của các sự vật [135,
tr.16]. Đại từ it, there với cương vị là chủ ngữ hình thức trong tiếng Anh ở các ví dụ dưới là những dẫn
chứng cho kiểu tham tố này.
12. a. It is raining.
‘Việc cô ta lại đến trễ cho ông chủ thấy rằng cô ta không đáng tin’.
‘Trời đang mưa’.
b. There are some books on the table.
Về chức năng ngữ nghĩa, ngoại trừ một số diễn tố trống nghĩa như vừa trình bày trên – nếu xem
‘Có vài cuốn sách trên bàn’.
chúng là diễn tố, nhìn chung các diễn tố tạo ra sự bổ nghĩa cụ thể, cần yếu cho nghĩa của VT được
hoàn chỉnh. Trong kết hợp với các loại VT cụ thể, các diễn tố thường đảm nhận một số vai nghĩa nhất
định như Tác thể, Hành thể, Bị thể cho VT hành động; Nghiệm thể, Hiện tượng cho VT trạng thái, v.v.
Số lượng diễn tố của một VT, như đã đề cập ở mục 1.1.2.2, gọi là diễn trị (valency). Tuy nhiên,
một VT khi tham gia vào những cấu trúc khác nhau số lượng diễn tố có thể thay đổi. S. Dik (1985) đã
nói đến các mô hình cấu trúc liên quan đến việc chuyển đổi diễn trị: mở rộng và rút gọn diễn trị [138,
tr.2-27]. Tùy theo hoàn cảnh giao tiếp, mục đích thông tin, một số diễn tố có thể không xuất hiện.
13. a. Nam gửi thư hôm qua.
b. He gave a doll.
Ở (a), (b) đều có một vai nghĩa bắt buộc đã bị tỉnh lược, đó là vai Tiếp thể (tới ai) hoặc Người
hưởng lợi (cho ai). Tuy nhiên các tham tố này ai cũng hiểu là vốn tồn tại và gắn bó chặt chẽ với nghĩa của VT12 nhưng không được hiện thực hóa. Các tham tố này có thể xuất hiện khi cần thiết như trong ví
dụ dưới.
14. a. Nam gửi thư cho tôi hôm qua.
(Anh ta tặng/ cho một con búp bê)
b. He gave the girl a doll.
(Anh ta tặng cho cô bé một con búp bê)
1.2.2.2. Tham tố không bắt buộc/ chu tố (circumstant)13 là thành phần bổ sung cho vị ngữ hạt
nhân, cùng với vị ngữ hạt nhân hợp thành vị ngữ mở rộng [137, tr.25]. Khác với diễn tố, chu tố chỉ là
những thành phần tùy ý trong cấu trúc vị ngữ và quan hệ lỏng lẻo với VT. Tính chất chặt, lỏng được
các nhà ngữ pháp chức năng xác định dựa vào khả năng đoán trước (predictable) sự xuất hiện của các
tham tố. Tham tố nào mà có xác suất tiên đoán càng cao thì chúng càng có khả năng là diễn tố và ngược
lại [152, tr.183]. Về mặt cấu trúc cú pháp, các chu tố có hình thức điển hình là các ngữ giới từ. Về chức
năng ngữ nghĩa, theo S. Dik, chu tố là những tham tố không tham gia vào việc định nghĩa sự tình mà chỉ
“cho thêm những thông tin bổ sung cho sự tình như là một chỉnh thể bằng cách cụ thể hóa thời gian, vị trí
xảy ra sự tình, (hoặc) đưa ra lí do hay nguyên nhân tạo ra sự tình đó và cung cấp thêm những thông tin
bổ sung khác” [137, tr.25]. Ông cũng đã nêu ra năm loại thông tin mà các chu tố thường đề cập tới: (i)
chi tiết hoá cho sự tình về Cách thức (manner), Chất lượng (quality), Công cụ (instrument); (ii) các liên
hệ của sự tình với các tham tố khác như Người hưởng lợi (beneficiary), Liên đới (comitative); (iii) các
liên hệ của sự tình với lĩnh vực thời gian như Thời gian (time), Thời lượng (duration), Tần suất
12 Thuật ngữ ‘vai nghĩa bắt buộc’ (obligatory role) có lẽ không thích hợp bằng thuật ngữ ‘vai nghĩa cố hữu’ (inherent role) của M. Halliday vì cách nói vai cố hữu bao quát được cả trường hợp vắng mặt của một diễn tố nào đó vì “thường thì trong thực tế, một thành phần bắt buộc nào đó có thể vắng mặt” [x. 105, tr.187]. 13 S. Dik [137, tr.26] dùng cặp khái niệm: argument và satellite thay cho actant và circumstance.
(frequency); (iv) các liên hệ của sự tình đối với lĩnh vực không gian như Vị trí (location), Nguồn
(source), Đích (goal), Hướng (direction), Đường dẫn (path); (v) các liên hệ của sự tình này với sự tình
khác như Hoàn cảnh (circumstance), Nguyên nhân (cause), Lí do (reason), Mục đích (purpose), Kết quả
(result) (tr. 26).
15. a.
Nam Diễn tố: Nghiệm thể buồn bã VT: Trạng thái suốt ngày. Chu tố: Thời lượng b.
John Diễn tố: Hành thể walks VT: hành động on street. Chu tố: Vị trí
Mặc dù các vai nghĩa thường đóng vai trò nhất định (hoặc là chu tố hoặc là diễn tố) trong câu trúc
nghĩa của VT tuy nhiên một số vai nghĩa có thể thay đổi vai trò khi chúng tham gia vào những cấu trúc
VT khác nhau. Ví dụ Nguồn, Đích thường giữ vai trò chu tố trong phần lớn các cấu trúc nhưng khi tham gia vào cấu trúc VT chuyển động có hướng lại trở thành diễn tố14... Ngược lại, một số vai nghĩa
thường là diễn tố cũng có thể trở thành chu tố trong một khung vị ngữ nào đó, ví dụ Tác thể trong cấu
trúc bị động. Nói cách khác, không có một vai nghĩa nào bao giờ cũng là chu tố hay diễn tố trong mọi
khung vị ngữ ([29, tr.209]; [32, tr.44]; [137, tr.26-27]; [152, tr.111]).
Nói chung trong quan hệ với các đơn vị thuộc bình diện cú pháp, các diễn tố giữ vai trò là các thành
phần cơ bản trong câu, như Đề/ chủ ngữ, BN còn các chu tố giữ vai trò thành phần phụ của câu (trạng
ngữ). Điều này cũng có nghĩa là việc phân biệt diễn tố với chu tố sẽ góp phần xác định tư cách cú pháp
(là BN hay trạng ngữ) của một số ngữ đoạn trong câu. Nói cách khác, việc phân biệt này cũng góp phần
xác định đối lập giữa VT NĐ với VT NgĐ – những đối lập vốn thuộc bình diện cú pháp.
‘ John dạo bộ trên đường phố’.
1.3. BỔ NGỮ VÀ TRẠNG NGỮ
1.3.1. Bổ ngữ
1.3.1.1. Khái niệm. Bổ ngữ (object) là một ngữ đoạn chức năng của câu. Đây là thành phần tham
gia vào khung VT để tạo thành cấu trúc vị ngữ. Trong mối quan hệ ngữ nghĩa với các thành phần câu, BN chính là các tham tố tham gia vào việc hoàn chỉnh nghĩa của VT15. Về mặt cấu trúc, BN điển hình
là (ngữ) danh từ hoặc ngữ giới từ. Trong một số cấu trúc câu, BN là thành phần quan trọng, cần thiết
14 Với một số VT, ý nghĩa của chúng có thể đòi hỏi một số vai nghĩa thường là ‘chu tố’ đảm nhiệm vai trò là ‘diễn tố’. Các ví dụ sau của S. Dik [137, tr.26-27] trong đó các vai Vị trí, Thời lượng được in đậm: - John lives in Amsterdam ‘John sống ở Amsterdam’. - Their discussion lasted three hours. ‘Cuộc thảo luận của họ kéo dài ba giờ’. 15 Từ phương diện nghĩa, một số tác giả, chẳng hạn R. Zandvoort (1964), đã định nghĩa BN như là “một danh từ hoặc đại từ đề cập tới một người hoặc một vật bị ảnh hưởng bởi hành động được diễn đạt bằng VT” [109, tr.5]. Cách định nghĩa này đã bị nhiều nhà ngôn ngữ học phê phán. Từ đầu thế kỉ XX, O. Jesperson (1924; 1933) đã chỉ ra tính thiếu sức khái quát của nó khi cho rằng: “Không có một định nghĩa đơn giản để nói về mối quan hệ giữa BN với VT kiểu như ‘nhận thể của hành động’ hay ‘người hoặc vật bị ảnh hưởng trực tiếp bởi hành động’”. Ông cũng đưa ra rất nhiều ví dụ minh họa cho nhận định của mình [x. 109, tr.5]. Theo chúng tôi, cách định nghĩa BN theo cách R. Zandvoort đã làm chỉ phù hợp để xác định BN trực tiếp của các VT NgĐ điển hình.
cho sự hoàn chỉnh của câu. Tuy nhiên, BN không phải là thành phần trực tiếp của câu mà nó chỉ nằm
trong phần Thuyết của câu. Ở đây cần thấy vai trò khác nhau của một thành phần trong cấu trúc ngữ
nghĩa và trong cấu trúc cú pháp. Xét từ phương diện quan hệ ngữ nghĩa với VT, vai trò của BN là
không thể phủ nhận. Cùng với Đề/ chủ ngữ, chúng thường là diễn tố trong cấu trúc nghĩa của VT –
chúng là những thành tố quan trọng, bắt buộc.
Mặc dù được xem là một trong những thành phần chức năng quan trọng, BN trong một số ngôn
ngữ là một ‘khái niệm tương đối’ như M. Morolong & L. Hyman đã lưu ý: “[…] trong tiếng Sesotho,
và có lẽ trong tất cả các ngôn ngữ Đông Bantu, khái niệm ‘bổ ngữ’ là một khái niệm tương đối, được
gắn với các ngữ đoạn danh từ không phải là chủ ngữ (non-subject noun phrase)” (x. [163, tr.257]).
Tuy nhiên, với phần lớn ngôn ngữ đã được nghiên cứu, BN là một thành phần chức năng quan
trọng, cùng với chủ ngữ, nó được xếp vào cấu trúc nòng cốt (core-structure) hay cấu trúc nội tại
(internal structure) của VT [112, tr.8-81].
Trong giới Việt ngữ học, BN thường gây tranh luận ở tư cách của nó – là thành phần nòng cốt của
câu hay là thành phần phụ của ngữ đoạn. BN là thành phần của ngữ đoạn, theo một số tác giả, bởi nó phụ
thuộc vào một từ làm thành phần nòng cốt của câu – tức phụ thuộc vào VT (hạt nhân của ngữ VT);
ngược lại, theo một số tác giả khác, BN được xem là thành phần câu bởi nó là yếu tố bắt buộc để đảm
bảo tính trọn vẹn của câu (x. [98, tr.32-34]). Cả hai quan niệm đều dựa trên mối quan hệ giữa BN với
VT. Tuy nhiên cách hiểu về vai trò của VT lại rất khác nhau. Quan niệm 1 xem chủ ngữ và vị ngữ (với hạt nhân là VT) là hai thành phần cơ bản của câu; quan niệm 2 xem chủ ngữ, VT và BN bắt buộc16 là ba
thành phần cơ bản của câu (về tôn ti, quan niệm 2 đặt vị ngữ ở vị trí cao hơn hai thành phần còn lại).
Luận án này xem xét quan hệ cú pháp của BN với VT để từ đó xác định tư cách cú pháp của VT,
vì thế không đi sâu vào việc tranh luận tư cách thành phần câu (hay thành phần ngữ đoạn) của BN.
1.3.1.2. Phân loại BN. Có rất nhiều cách phân loại BN. Thông thường BN có thể được phân loại
dựa vào cấu trúc ngữ pháp nội tại, vào đặc điểm ngữ nghĩa hoặc dựa vào mối quan hệ với VT chi phối
nó.
(1) Dựa vào cấu trúc ngữ pháp, BN có những hình thức sau.
(i) BN là (ngữ) danh từ. Đây là hình thức cấu tạo phổ biến nhất của BN. Lí do sâu xa của điều
này là do các BN thường là sự thể hiện các vai nghĩa chỉ người hoặc vật tham gia vào sự tình do VT
làm trung tâm.
16 BN bắt buộc được chúng tôi dùng để chỉ: (i) những BN trực tiếp xuất hiện trong cấu trúc NgĐ; (ii) những BN không phải là BN trực tiếp nhưng cần phải xuất hiện trong một số cấu trúc khác để bảo đảm tính hợp ngữ pháp; tính hoàn chỉnh về nghĩa.
Như vậy, những BN trực tiếp trong một số hoàn cảnh cho phép không cần xuất hiện thì không phải là BN bắt buộc (chẳng hạn, BN trực tiếp của chửi[ai bị chửi], BN trực tiếp của ăn [cái gì] trong các câu như: Hắn vừa đi vừa chửi; Ai cũng phải ăn không phải là BN bắt buộc). Ngược lại, một số BN là BN bắt buộc nhưng không phải là BN trực tiếp, đó là những BN nằm trong cấu trúc VT NĐ kém điển hình (chẳng hạn, nhau, trong Họ cãi nhau; kế hoạch đánh I rắc trong Họ bàn về kế hoạch đánh I rắc).
16. a. Nam mua thuốc bổ cho mẹ.
b. Nam tặng Lan một cuốn từ điển.
c. Paul studied English.
Trong câu (a), thuốc bổ và cho mẹ là hai BN trong đó thuốc bổ là một ngữ danh từ làm BN trực
tiếp; trong câu (b), cả hai BN đều là những (ngữ) danh từ; trong câu (c), BN là một ngữ danh từ.
(ii) BN là một ngữ giới từ. Các BN này thường là BN gián tiếp đóng vai trò là Người hưởng lợi,
Tiếp thể trong cấu trúc có BN trực tiếp (là Bị thể) đi trước.
‘Paul học tiếng Anh’
17. a. Nam mua thuốc bổ cho mẹ.
b. Chúng tôi gửi tiền tới ban cứu trợ.
c. She knitted a pullover for her husband.
‘Cô ấy đan cho chồng một cái áo thun’
d. Anh ấy introduced his father to us.
(iii) BN là một kết cấu Đề-Thuyết (chủ-vị). Hình thức này xuất hiện chủ yếu trong các cấu trúc có
VT cảm nghĩ, nói năng.
‘Anh ấy giới thiệu cha mình với chúng tôi’
18. a. Họ sợ họ bị lạc đường.
b. Họ bảo rằng hắn đã lấy vợ.
c. They know that I am shorter than Bob.
‘Họ biết [rằng] tôi thấp hơn Bob’
d. She said that John was a doctor.
(iv) BN là một VT hoặc ngữ VT. Hình thức này của BN thường xuất hiện sau các VT tình thái và
sau các VT chỉ năng lực, hiểu biết.
‘Cô ta [đã] nói rằng John là một bác sĩ’
19. a. Tôi muốn đi Hải Phòng.
b. Cô ta học vẽ năm ngoái.
c. She wants to work.
‘Cô ta muốn đi làm’
d. John learned to speak English.
Luận án này không bàn sâu về VT tình thái mà giới hạn ở việc tìm hiểu các VT ngôn liệu, do đó,
chúng tôi sẽ tập trung vào việc tìm hiểu các BN là VT đứng sau các VT ngôn liệu (như ở câu 19b,
19d).
‘John học tiếng Anh’
(2) Dựa vào vai nghĩa đảm trách, BN có thể chia thành nhiều loại.
T. Givón (1984) khi phân loại VT NgĐ điển hình đã dựa trên các kiểu vai nghĩa của BN. Danh
sách các kiểu BN được ông nêu ra như sau:
(i) Các đối tượng được tạo tác (created objects)
20. He built a house.
(ii) Các đối tượng bị hủy diệt hoàn toàn (totally destroyed objects)
‘Ông ấy đã xây một căn nhà’
21. They demolished the house.
(iii) Các đối tượng có sự thay đổi ở phương diện vật lí (physical change in the objects)
‘Họ đã phá hủy căn nhà’
22. He enlarged the bed.
(iv) Các đối tượng có sự thay đổi về vị trí (change in object’s location)
‘Ông ấy nới rộng chiếc giường’
23. They moved the barn.
(v) Các đối tượng bị thay đổi liên quan tới một (vai) Công cụ hiểu ngầm (change with an implied
instrument)
‘Họ chuyển kho thóc’
24. She kicked the wall (foot)
(vi) Các đối tượng có sự thay đổi bề mặt (surface change)
‘Cô ấy đá [chân] vào tường’
25. They painted the barn.
(vii) Các đối tượng có sự thay đổi bên trong (nội tại) (internal change)
‘Họ sơn kho thóc’
26. They heated the solution.
(viii) Các đối tượng bị thay đổi có liên quan tới một (vai) Thể cách hiểu ngầm (change with
implied manner)
27. They murdered her. (‘kill’ with intent)
‘Họ nung [đốt] dung dịch này’
Ngoài những loại BN tiêu biểu trên, BN trực tiếp còn bao gồm các kiểu BN của những VT kém
điển hình, có thể kể ra một số kiểu tiêu biểu sau:
(ix) Vị trí (location)/ Đích (goal)
‘Họ giết cô ấy [một cách cố ý]’
28. John climbed the mountain.
(x) Người/ vật hiện hữu (existent)
‘John đã leo núi này’
29. a. There is a strange man in the house.
(xi) Cùng gốc/ đồng nguyên (cognate)
‘Có một người lạ mặt trong nhà’
30. a. He sleft a sound sleep.
(xii) Tương hỗ (reciprocal/ associative)
‘Hắn ngủ một giấc ngủ ngon’
31. a. She fought her mother.
Lối phân loại dựa vào vai nghĩa mà BN đảm trách là cần thiết, tuy nhiên danh sách cụ thể mà các
nhà nghiên cứu đưa ra thường rất khác nhau và đôi khi dễ rơi vào chồng chéo, mâu thuẫn, thiếu tính
logic. Chẳng hạn, trong danh sách các BN trực tiếp mà T. Givón đưa ra ở trên, BN thuộc nhóm (iii) tác
giả gọi là “Các đối tượng có sự thay đổi ở phương diện vật lí”, vậy thì BN thuộc các nhóm khác, chẳng
hạn, các đối tượng được tạo tác (nhóm i), hay các đối tượng bị hủy diệt hoàn toàn (nhóm ii) có bị thay
đổi ở phương diện vật lí không? Sự khác nhau giữa chúng thực ra chỉ là ở hình thức và mức độ.
Nhìn chung, việc phân loại BN theo vai nghĩa mà nó đảm nhiệm sẽ dẫn đến danh sách nêu ra có
thể rất dài và rất khác nhau giữa các tác giả.
‘Cô ấy và mẹ [cô ấy] cãi nhau’
(3) Dựa vào mối quan hệ với VT chi phối, BN được chia thành BN trực tiếp và BN gián tiếp.
Tùy loại hình, tùy ngôn ngữ mà việc nhận diện hai loại BN này khác nhau. Với một số ngôn ngữ, các
loại BN này thường được nhận diện dựa vào tiêu chí [±giới từ]. BN trực tiếp là những BN không có
giới từ đi trước còn BN gián tiếp là những BN có giới từ đi trước. Ngoài ra việc nhận diện hai loại BN
này còn dựa vào một tiêu chí hình thái học khác đó là vị trí của BN (x. mục 1.4).
Dùng lối định nghĩa bằng phương pháp loại trừ, E. Moravcsik [179, tr.252] đã định nghĩa BN trực
tiếp trong các ngôn ngữ biến hình như sau: “Những ngữ đoạn danh từ được gọi là BN là những ngữ đoạn
danh từ được đánh dấu cách mà chúng có chức năng không phải là Tác thể (non-agent) và không phải là
Dữ cách (non-dative)”.
Y. Testelec (1998) cho rằng khi nghiên cứu về phạm trù NĐ/ NgĐ, nhiều nhà loại hình học đã
tránh dùng đến khái niệm BN trực tiếp với tư cách là một đơn vị cú pháp mà dùng nó như một đơn vị
của cấu trúc nghĩa. Theo tác giả, VT NgĐ thường được định nghĩa là những VT có diễn trị BN trực
tiếp. VT NgĐ là những VT có BN chỉ đối tượng được tạo tác, BN chỉ đối tượng bị hủy diệt và những
VT có cấu trúc tương tự. BN trực tiếp, như vậy, cũng được định nghĩa dựa trên cơ sở ngữ nghĩa chứ
không phải trên cơ sở thái độ cú pháp của nó [210, tr. 29].
Cũng theo khuynh hướng không dựa vào những dấu hiệu hình thái học mà dựa vào đặc điểm ngữ
nghĩa của BN, A. Slewlerska (1984) đã định nghĩa BN trực tiếp là “[…] một ngữ đoạn danh từ mà sở
chỉ của nó là một đối tượng bị ảnh hưởng (thường là ở phương diện vật lí) và là kết quả của hành động
được diễn đạt bởi VT” [200, tr.9]. T. Givón (1984) cũng cho rằng ở một nghĩa nào đó có thể nói rằng
Bị thể là điển dạng (prototype) của BN trực tiếp [152, tr.138].
Chúng tôi cho rằng, BN trực tiếp là một ngữ đoạn chức năng cú pháp, do đó cần được định nghĩa
dựa trên quan hệ cú pháp của nó với VT và cần được nhận diện từ những dấu hiệu hình thái, cú pháp
học.
Có thể nói, làm thế nào để nhận diện BN trực tiếp và phân biệt nó với các kiểu BN khác là một
vấn đề không kém quan trọng cả về phương diện lí luận và thực tiễn. Một số tác giả đã nhận diện,
phân biệt các loại BN bằng cách dựa vào đặc tính ngữ nghĩa của các thành phần này (x. [152, tr.91;
109]). Cách này hữu ích nhưng cũng gặp một số khó khăn khi cùng diễn đạt một sự tình, các ngôn
ngữ khác nhau và trong một ngôn ngữ cũng có thể sử dụng những kết cấu rất khác nhau. Nằm trong
những kết cấu khác nhau thì đặc tính ngữ nghĩa của các loại BN thường bị thay đổi ít nhiều.
Nhìn chung, các ngôn ngữ, nhất là những ngôn ngữ biến hình, thường có những phương tiện hoặc
là hình thái, hoặc là cú pháp hoặc kết hợp cả hai để đánh dấu thành phần chức năng này. Trong những
thập niên gần đây, một số nhà loại hình học đã lập thức được các quy tắc về mức độ đánh dấu của rất
nhiều (nhóm) ngôn ngữ trên thế giới.
Với các ngôn ngữ biến hình, ngữ đoạn làm BN thường được đánh dấu bằng một số tiếp tố nhất
định. Trong một số ngôn ngữ thuộc nhóm các ngôn ngữ này, BN lại có thể được đánh dấu bằng một số
hình thức khác nhau tùy thuộc đặc điểm ngữ nghĩa của nó. Các đặc điểm ngữ nghĩa thường được nói
tới là tính động vật (animacy), tính xác định (definiteness), tính loại biệt (specificity). Vai nghĩa đảm
nhiệm chức năng BN, khác với vai nghĩa đảm nhiệm chức năng chủ ngữ, ở dạng điển hình thường thấp
ở các đặc điểm trên. Do đó, khi những đặc điểm nêu trên càng cao thì chúng càng được đánh dấu nhiều
hơn (về sự đánh dấu cách BN, x. mục 1.4 và chi tiết hơn x. [131]; [146]; [163]; [179]).
Với những ngôn ngữ biến hình không tiêu biểu (như tiếng Anh, tiếng Pháp, v.v.), sự đánh dấu
cách thường chỉ giới hạn ở một số từ loại (chẳng hạn, đại từ) và hình thức đánh dấu đôi khi lại dùng
cho nhiều ngữ đoạn có chức năng khác nhau (chẳng hạn, trong tiếng Anh, hình thức BN của đại từ chỉ
ngôi được dùng chung cho cả BN trực tiếp, BN gián tiếp, BN của giới từ). Như vậy, để đánh dấu các
ngữ đoạn chức năng khác nhau, những ngôn ngữ này sẽ phải sử dụng đến những yếu tố thường được
sử dụng trong các ngôn ngữ không biến hình (như tiếng Việt, tiếng Trung) – đó là các giới từ và vị trí
tương đối của BN so với VT trong câu.
Trong tiếng Việt, tiếng Anh, nếu chỉ có một BN thì nó thường được đánh dấu bằng sự kết hợp
trực tiếp với VT không qua giới từ, và BN được đặt ngay sau VT (ngoại trừ những trường hợp đảo vì lí
do phong cách, ngữ dụng).
32. a. Bà ấy đánh thằng bé.
b. Mary studies English here.
Trong một số ngôn ngữ khác, vai trò của giới từ và vị trí của BN trong câu đôi khi phức tạp hơn.
Tiếng Trung có thể là một minh chứng; ở đó, BN trực tiếp có thể ở cả vị trí sau VT (không có BĂ)
hoặc ở trước VT (có BĂ) (x. mục 1.4.2).
Với những trường hợp VT NgĐ có hai BN (ditransitive verbs), vị trí của hai BN thường được sắp
xếp như sau: “VT IO DO” (VT BN gián tiếp BN trực tiếp). Trong mẫu thức này, BN gián
tiếp đứng trước BN trực tiếp và nó thường là “một ngữ danh từ quy chiếu tới người, và quan hệ ngữ
nghĩa thường là kiểu thích hợp với thuật ngữ ‘Tiếp thể’” [189, tr.21].
33. a. Nam tặng cô ấy một chiếc xe.
‘Mary học tiếng Anh ở đây’
b. He had given the girl an apple.
Trong tiếng Việt, cấu trúc trên thực sự chỉ dùng với một số VT thuộc nhóm gửi tặng như: tặng,
cho, biếu, gửi, v.v. Các VT khác, chẳng hạn xây, bán, mua, v.v., luôn cần một giới từ (cho) để chỉ
Đích, hoặc Người hưởng lợi.
Tiếng Anh thường có một cấu trúc được coi là tương đương với cấu trúc trên, đó là: “VT DO
‘Anh ấy đã cho con bé một trái táo’
(to/ for) IO”17. Cấu trúc này tồn tại trong tiếng Việt nhưng kém phổ biến so với cấu trúc trên.
34. b. Nam mua chiếc xe này cho cô ta.
a. Please pass the butter to me.
Nhìn chung xét về tương quan vị trí giữa VT với BN, trong các ngôn ngữ thường có hiện tượng
cấu trúc này được sử dụng nhiều hơn, ‘được yêu thích hơn’ so với cấu kia. Tuy nhiên trong từng
ngôn ngữ cụ thể, đôi khi với một số VT này buộc phải dùng cấu trúc mà BN gián tiếp đứng trước.
Chẳng hạn, trong tiếng Anh, các đại từ làm BN gián tiếp như me ‘tôi’, him ‘anh ấy’, them ‘họ’, v.v.
cần phải đứng ngay sau VT ask ‘hỏi’, tell ‘kể’, lend ‘cho mượn’); với một số VT khác thì BN gián
17 Nói một cách chặt chẽ, trong tiếng Anh, sự phân biệt giữa BN trực tiếp và BN gián tiếp cũng không thể hoàn toàn dựa trên trật tự từ. Từ rất lâu, H. Sweet (1891) đã nhận thấy điều này. Tác giả cho rằng thường thì BN gián tiếp (chỉ người nhận) có thể đứng trực tiếp sau VT và đứng trước BN trực tiếp. Khi BN gián tiếp đứng sau BN trực tiếp thì nó phải kết hợp với giới từ to hoặc for. Tuy nhiên trong tiếng Anh lại có hiện tượng BN gián tiếp đứng sau BN trực tiếp nhưng không hề có giới từ nào cả (kiểu, give it me! ‘Đưa nó cho tôi đi!’). Vì thế tác giả phải thừa nhận “[…] chúng ta có thể cảm nhận được các quan hệ ngữ pháp (ở đây tác giả ngầm chỉ BN trực tiếp và BN gián tiếp – chú thích thêm) nhưng chúng ta không thể diễn đạt nó một cách rõ ràng (chúng tôi nhấn mạnh)” [206, tr.43].
‘Làm ơn chuyển hộ lọ bơ cho tôi (với)’
tiếp lại cần phải đặt ở vị trí sau BN trực tiếp (chẳng hạn, trong tiếng Anh, cần đặt BN gián tiếp sau
các VT say ‘nói’, speak ‘nói’, explain ‘giải thích’, v.v.
Việc lựa chọn một ngữ đoạn nào đó ở vị trí BN trực tiếp đôi khi thường có dụng ý rõ rệt của
người viết/ người nói. Một số tác giả đã nhận thấy một số ngữ đoạn, xét về đặc tính ngữ nghĩa
thường là những chu tố nhưng khi được ngữ pháp hóa như là một ngữ đoạn BN trực tiếp thì chúng
mang ý nghĩa khác – tức là có sự thay đổi vai nghĩa (x. mục 1.3.1.4). Đây cũng chính là một trong
những vấn đề chưa có tiếng nói chung giữa các nhà ngôn ngữ học. Nó là vấn đề cần được lưu ý trong
việc nghiên cứu về VT nói chung và phạm trù NĐ/ NgĐ nói riêng.
Sự phân biệt giữa BN trực tiếp và BN gián tiếp dựa vào nghĩa thực ra không phải lúc nào cũng
rạch ròi. Trong nhiều trường hợp, đặc biệt khi cả hai BN đều có đặc tính ngữ nghĩa là ‘người’ hoặc là
‘vật’, việc xác định BN nào là trực tiếp, BN nào là gián tiếp không thể dựa vào đặc tính ngữ nghĩa của
chúng mà lại phải quay về dựa vào tiêu chí hình thức ngữ pháp.
35. a. Jim sprayed blue paint on the kitchen wall.
[166, tr.84]
‘Jim phun sơn xanh lên tường bếp’
b. Jim sprayed the kitchen wall with blue paint.
Rõ ràng, thật là khó để kết luận ‘the kitchen wall’ là BN trực tiếp còn ‘with blue paint’ là BN
gián tiếp.
‘Jim phun [sơn] tường bếp bằng sơn xanh’
1.3.2. Trạng ngữ
Trạng ngữ là thành phần phụ có quan hệ lỏng với các thành phần khác của câu ở cả phương
diện cấu trúc cú pháp và cấu trúc nghĩa. Tuy nhiên không phải thành phần phụ nào có đặc điểm như
vậy cũng là trạng ngữ. Hiện nay, các nhà ngôn ngữ học thường chia thành phần phụ trong câu làm 3
loại: thành phần phụ mở rộng nghĩa cho các thành phần cơ bản của câu (adjunct), thành phần phụ
liên kết các câu, các cú (conjunct) và thành phần phụ độc lập với các thành phần câu (disjunct). Phần
lớn các tác giả chỉ xem thành phần mở rộng nghĩa cho thành phần cơ bản của câu (tức adjunct) là
trạng ngữ ([11, tr.24-25]; [166, tr.79-80]; [191, tr.8]) (về quan niệm của giới Việt ngữ học, x. [98,
tr.35-41]). Để có cơ sở cho việc khảo sát, chúng tôi đồng ý với cách hiểu này, nghĩa là phân biệt
trạng ngữ bổ nghĩa cho VT (trạng ngữ của VT) với trạng ngữ bổ nghĩa cho câu (trạng ngữ câu).
Trạng ngữ của VT khác với trạng ngữ câu ở phạm vi quan hệ. Nếu trạng ngữ câu có mối quan hệ (bổ
sung nghĩa) với cả cấu trúc Đề-Thuyết (cấu trúc chủ-vị/ cấu trúc nòng cốt) thì trạng ngữ của VT chỉ
bổ nghĩa cho VT chi phối nó mà thôi. Về dấu hiệu nhận diện, trạng ngữ của VT luôn nằm trong phần
Thuyết và vị trí phổ biến nhất là ở cuối phần Thuyết (và trong câu có trật tự bình thường, nó cũng
đứng ở cuối câu).
1.3.3. Tầm quan trọng của việc phân biệt bổ ngữ với trạng ngữ
Phân biệt BN với trạng ngữ của VT là việc làm rất cần thiết. Điều này cho phép xác định yếu tố nào
nằm trong, yếu tố nào nằm ngoài cấu trúc cơ bản của ngữ VT. Các nhà ngôn ngữ học đã cố gắng tìm ra
những cơ sở ngữ nghĩa cũng như hình thức để khu biệt chúng. Về mặt ngữ nghĩa, phần lớn các tác giả
đều chia sẻ cách hiểu về vai trò của từng thành phần này đối với VT. Sự khó khăn chủ yếu nằm ở việc
xác định các tiêu chí, dấu hiệu hình thức. Giải quyết vấn đề này, các nhà ngữ pháp thường dùng đến các
tiêu chí vị trí trong câu, hình thái và sự hiện diện các hư từ. Lấy tiếng Anh làm ví dụ, chúng ta có thể
nhận thấy một số cơ sở hình thức sau: (i) khác với BN (x. mục 1.3.1), trạng ngữ có thể đứng ở những vị
trí tương đối tự do; (ii) về hình thức: phần lớn các trạng ngữ có hình thức riêng (các trạng từ thể cách =
tính từ + ly hoặc các trạng ngữ chỉ thời gian hoặc vị trí thường là các ngữ giới từ); (iii) trạng ngữ thường
có cấu tạo là ngữ giới từ do đó sự xuất hiện một giới từ đứng trước một (ngữ) danh từ thường là dấu hiệu
đánh dấu ngữ giới từ này là trạng ngữ. Trong nhiều trường hợp, các dấu hiệu hình thức dường như không
thuận lợi cho việc khu biệt hai thành phần này trong câu. Ví dụ, trong tiếng Anh, có một số trạng ngữ chỉ
thời gian cũng là (ngữ) danh từ: yesterday ‘hôm qua’, last month ‘tháng trước’...; có một số giới từ chỉ vị
trí, thời gian giống với các giới từ dùng cho BN gián tiếp: for, to… Đối với các ngôn ngữ không biến
hình, nguy cơ nhầm lẫn lại càng tăng vì cơ sở hình thức còn lại chỉ là trật tự từ và sự có mặt của các hư
từ. Khảo sát thực tế các ngôn ngữ này, lấy tiếng Việt làm ví dụ, các tiêu chí trên cũng xuất hiện không
theo quy luật chặt chẽ, chẳng hạn, rất nhiều (ngữ) danh từ có thể làm trạng ngữ.
36. a. Hắn đi máy bay.
b. He walked ten miles. [185, tr.125]
Những khó khăn này đặt ra vấn đề phải tìm ra cơ sở xác định mới hoặc cơ sở bổ sung cho việc phân
định hai loại thành phần này. Phương pháp nhận diện hợp lí là đặt chúng trong cấu trúc nghĩa của VT.
Thành tố nào đóng vai trò diễn tố chính là BN và thành tố nào đóng vai trò chu tố chính là trạng ngữ.
‘Hắn [đã] đi mười dặm’.
1.4. LOẠI HÌNH HỌC VÀ VẤN ĐỀ PHẠM TRÙ NĐ/ NgĐ
1.4.1. Việc nghiên cứu ngôn ngữ theo phương pháp loại hình
Việc nghiên cứu ngôn ngữ có thể đi theo nhiều hướng khác nhau. Nghiên cứu ngôn ngữ từ góc độ
loại hình chú ý nhiều đến đặc điểm nội tại của ngôn ngữ. Mục đích của phương pháp này là xác lập,
phân loại ngôn ngữ thế giới vào một số nhóm dựa trên những tương đồng nhất định.
Theo I. Rozdextvenxki, hiện có khoảng 200 cách phân loại ngôn ngữ theo các đặc điểm loại hình
[73, tr.255]. Điều này cho thấy, ngôn ngữ có thể được tiếp cận từ rất nhiều hướng khác nhau. Dưới đây
chúng tôi sẽ điểm qua hai lối nghiên cứu loại hình phổ biến liên quan trực tiếp đến việc nhận diện
phạm trù NĐ/ NgĐ: (i) loại hình hình thái học; và (ii) loại hình học trật tự từ.
1.4.1.1. Loại hình hình thái học (morphological typology)
Loại hình hình thái học chia các ngôn ngữ trên thế giới thành ba kiểu: đơn lập (isolating), chắp
dính (agglunative), hòa kết (fusional) (còn gọi: biến hình – flectional), đôi khi đưa thêm vào một kiểu
thứ tư, đa tổng hợp (polysynthetic/ incorporating). Nhìn chung lối phân loại này dựa trên sự tồn tại hay
không tồn tại, tồn tại ít hay nhiều yếu tố hình thái học đánh dấu các phạm trù ngữ pháp, các đơn vị
chức năng.
1.4.1.2. Loại hình học trật tự từ (word order typology) hay loại hình học trật tự các thành tố
(constituent order typology)
Lối phân loại ngôn ngữ theo loại hình trật tự từ dựa trên trật tự sắp xếp các thành tố cấu trúc cơ
bản trong các đơn vị chức năng (ngữ đoạn, câu) của các ngôn ngữ để nhóm lại thành một số kiểu.
Chẳng hạn, J. Greenberg (1966) chia các ngôn ngữ dựa trên bốn tiêu chí: (i) trật tự của VT so với chủ
ngữ và BN; (ii) trật tự của tính từ bổ nghĩa so với danh từ hạt nhân; (iii) trật tự của sở hữu tố so với
danh từ hạt nhân; (iv) trật tự của giới từ so với danh từ hạt nhân.
Nếu không tính đến chủ ngữ, các quan hệ trật tự trên chỉ còn lại hai kiểu chính: (i) BN trước VT,
tính từ trước danh từ, sở hữu tố trước danh từ, hậu tố; (ii) BN sau VT, tính từ sau danh từ, sở hữu tố sau
danh từ, giới từ.
Một số tác giả khác có điều chỉnh ít nhiều hai kiểu trật tự cơ bản trên, chẳng hạn, theo Th.
Vennemann (1972) có hai kiểu: (i) tác tố (operator) đứng trước đối tượng tác động (operand); và (ii)
ngược lại: đối tượng tác động trước tác tố. Trong khi đó, các tác giả theo ngữ pháp tạo sinh (chẳng hạn,
R. Jackendoff 1977) đã đơn giản hoá quan hệ trên thành hai loại: (i) các thành phần phụ (adjunts) trước
hạt nhân (head); và (ii) hạt nhân trước các thành phần phụ (x. [129, tr.454-455]).
1.4.2. Việc xác định phạm trù NĐ/ NgĐ dựa trên các tiêu chí loại hình
Cả hai hướng nghiên cứu loại hình hình thái học và loại hình học trật tự các thành tố đều có thể
cung cấp những cơ sở khoa học cho việc xác định phạm trù NĐ/ NgĐ trong các ngôn ngữ. Tuy nhiên,
giá trị của mỗi tiêu chí trên đối với các nhóm, các ngôn ngữ cụ thể lại khác nhau. Với các ngôn ngữ biến
hình hoặc chắp dính, những tiêu chí về hình thái tỏ ra có giá trị nhận diện cao trong khi đó với các ngôn
ngữ đơn lập chỉ có thể dựa vào một số từ chuyên dụng mà thôi. Tương tự, những tiêu chí thuộc về loại
hình học trật tự từ tỏ ra có vai trò quan yếu đối với các ngôn ngữ đơn lập nhưng lại tỏ ra không quan yếu
đối với các ngôn ngữ biến hình tiêu biểu. Cho dù mức độ vận dụng các tiêu chí có thể khác nhau nhưng
hầu như ngôn ngữ nào cũng cần đến các tiêu chí này: “Có một tập hợp các phương tiện hình thức mà các
ngôn ngữ sử dụng để phân biệt các thành phần chức năng (trong câu) bao gồm các yếu tố đánh dấu đoạn
tính (segmental markers), trật tự tuyến tính (linear order) và trọng âm (stress). Trong đó yếu tố đánh dấu
đoạn tính có thể gắn với danh từ (thường được gọi là yếu tố đánh dấu cách – case markers) hoặc gắn với
VT (thường được gọi là yếu tố đánh dấu sự phù ứng/ hoà hợp của VT – verb agreement markers)” [182,
tr.251].
Dưới đây chúng tôi sẽ điểm qua vai trò của các tiêu chí trên trong việc nhận diện phạm trù NĐ/
NgĐ trong một số ngôn ngữ tiêu biểu thuộc các nhóm ngôn ngữ khác nhau.
1.4.2.1. Dựa trên tiêu chí hình thái, phạm trù NĐ/ NgĐ có thể được xác định dựa trên hai dấu
hiệu quan trọng: (i) sự đánh dấu cách đối với các ngữ đoạn chức năng (chủ ngữ NĐ, chủ ngữ NgĐ, BN
trực tiếp); và (ii) sự phù ứng/ hoà hợp của VT với các ngữ đoạn chức năng trong câu. Trên lí thuyết sẽ
có những ngôn ngữ tồn tại cả hai dấu hiệu trên, có những ngôn ngữ chỉ tồn tại một trong hai dấu hiệu
trên, và có những ngôn ngữ sẽ không có bất kì một dấu hiệu nào. Mức độ thể hiện các dấu hiệu trên
trong các ngôn ngữ cũng nhiều ít khác nhau.
(1) Sự đánh dấu cách trên các ngữ đoạn chức năng của câu. Trong các ngôn ngữ có sự đánh
dấu cách, một hoặc các ngữ đoạn chức năng cơ bản của câu (chủ ngữ [chủ ngữ NĐ, chủ ngữ NgĐ], BN
trực tiếp) sẽ được đánh dấu về mặt hình thái. Dựa vào điều này chúng ta có thể xác định VT đang xét là
VT NĐ hay VT NgĐ. Về mặt lí thuyết, các ngôn ngữ có sự đánh dấu cách có thể đánh dấu các ngữ
đoạn chức năng theo một trong các kiểu sau.
(i) Mỗi ngữ đoạn chức năng được đánh dấu bằng một hình thức cách riêng. Theo S. Anderson,
trong tiếng Wangkumara, một ngôn ngữ thuộc nhóm ngôn ngữ Australia, các đại từ cho thấy sự phân
biệt ba hình thức tác cách, đối cách, và danh cách. Tiếng Motu, ngôn ngữ có sự đánh dấu khác nhau
đối với chủ ngữ NĐ và chủ ngữ NgĐ còn BN trực tiếp không có sự đánh dấu [111, tr.180-1], có thể
xếp vào nhóm này.
(ii) Về mặt lô gích có thể có khả năng thứ hai: một ngôn ngữ nào đó có một hình thức đánh dấu
trên chủ ngữ NĐ và một hình thức chung cho chủ ngữ NgĐ và BN trực tiếp. Mặc dù chưa có một ngôn
ngữ nào như vậy được phát hiện nhưng không có nghĩa là không thể hoặc sẽ không có một ngôn ngữ
như thế.
(iii) Ngữ đoạn đảm nhiệm vai trò chủ ngữ NĐ và ngữ đoạn đóng vai trò chủ ngữ NgĐ có chung
một hình thức đánh dấu cách; còn ngữ đoạn đóng vai trò BN có một hình thức đánh dấu khác. Đây là
trường hợp rất phổ biến trong nhiều ngôn ngữ như tiếng La Tinh, tiếng Cushitic, Yunan,
Muskogean,v.v.
(iv) Ngữ đoạn đảm nhiệm vai chủ ngữ NĐ và ngữ đoạn đảm nhiệm vai BN trực tiếp có chung
một hình thức đánh dấu và ngữ đoạn đảm nhiệm vai chủ ngữ NgĐ có một hình thức đánh dấu khác.
Đây chính là trường hợp xảy ra đối với các ngôn ngữ tác cách. Cho dù nhiều nghiên cứu cho thấy
không có ngôn ngữ nào được coi là tác cách thuần tuý nhưng có nhiều ngôn ngữ thể hiện khá phong
phú tính chất này [111, tr.180-1].
Như vậy, muốn nhận diện phạm trù NĐ/ NgĐ từ phương diện đánh dấu cách trên các ngữ đoạn
chức năng, cần phải tìm hiểu sự đánh dấu cách trên một, hai hoặc cả ba thành phần chức năng này. Tuy
nhiên, ở một mức độ nào đó, tìm hiểu sự đánh dấu cách đối với ngữ đoạn BN trực tiếp có thể giúp nhận
diện phạm trù NĐ/ NgĐ trong phần lớn ngôn ngữ. Như chúng ta đã biết, nếu trong một câu có một ngữ
đoạn trở lên đóng vai trò BN trực tiếp thì VT của nó là một VT NgĐ. Cơ sở để chúng ta có thể dựa vào
tiêu chí này chính là BN luôn là một thành phần chức năng trong câu được ưu tiên đánh dấu cách.
Trong một nghiên cứu về loại hình, E. Moravcsik đã đưa ra 9 kết luận có tính chất phổ quát trong các
ngôn ngữ trên thế giới, trong đó tác giả đã nhận thấy BN là thành phần được ưu tiên đánh dấu cách
nhất trong số các loại BN (nghĩa là nếu trong câu chỉ có một BN được đánh dấu cách thì đó là BN trực
tiếp) và tác giả cũng nhận thấy cùng với chủ ngữ NgĐ, BN trực tiếp là một trong hai thành phần được
ưu tiên đánh dấu cách nhất [179, tr.64-65]. Chính vì vậy dựa vào sự đánh dấu cách trên BN trực tiếp,
đặc biệt trong các ngôn ngữ biến hình, là một hướng đi có cơ sở.
Sự đánh dấu cách BN trong những ngôn ngữ biến hình thường thể hiện bằng sự có mặt một tiếp
tố (affix) vào gốc từ (root). Nếu giả định ngữ đoạn đó là ngữ đoạn danh từ thì tiếp tố này sẽ gắn với
danh từ trung tâm (tuỳ theo ngôn ngữ cụ thể mà các thành phần bổ nghĩa còn lại của danh từ này có thể
không hoặc có biến đổi hình thái cho phù hợp). Trong tiếng Nga, ngoài trường hợp BN trực tiếp của
một số VT (chẳng hạn, җдать ‘chờ đợi’) được đánh dấu khác nhau tùy theo đặc điểm ngữ nghĩa (đánh
dấu đối cách khi BN là một tham tố động vật, đánh dấu sở hữu cách khi BN là một tham tố bất động
vật), BN trực tiếp của phần lớn các VT được nhận diện bằng hình thái cách 4.
37. a. Я чиmaùю газeùты.
‘Tôi đọc báo.’
b. Мы стрoùим фaùбрики.
Trong tiếng Anh, sự đánh dấu cách BN trực tiếp lại chỉ giới hạn ở nhóm đại từ, mà chính xác hơn là
chỉ ở một số đại từ vì với đại từ it (số ít ngôi ba) và you (số ít và số nhiều ngôi 2) không có sự phân biệt
BN trực tiếp với chủ ngữ (vẫn giữ nguyên).
Trong các ngôn ngữ chắp dính, thường có một yếu tố đánh dấu riêng biệt gắn vào danh từ làm BN
trực tiếp. Trong tiếng Thổ Nhĩ Kì, đó là tiếp tố i, chẳng hạn, ev- ‘nhà’ ev: ‘nhà’ ở vị trí chủ ngữ (giữ
nguyên hình thức); ev-i: ‘nhà’ ở vị trí BN trực tiếp. Trong tiếng Nhật, yếu tố đánh dấu cách –o đi sau
‘Chúng ta đang xây dựng các nhà máy.’
danh từ để chỉ định danh từ đó thực hiện chức năng BN (chính xác là để chỉ vai nghĩa Bị thể). Dưới đây
là một số ví dụ minh hoạ từ tiếng Nhật:
38. a. John – ga hon – o yon – da.
[131, tr.454]
John – CN sách – BNTT đọc – QK
‘John đọc sách’
b. Taroo – ga Ziroo – o bu – ta.
Taroo – CN Ziroo – BNTT đánh – QK
Trong tiếng Hàn, các ngữ đoạn BN trực tiếp được được đánh dấu bằng tiểu từ đối cách đặt ngay sau
chúng. Tiểu từ đối cách gồm có ŭl (đặt sau những danh từ có âm cuối là âm tiết khép), rŭl (đặt sau những
danh từ có âm tiết cuối là âm tiết mở).
‘Taroo đánh Ziroo’
[30, tr.33]
39. a. Kŭ bunŭn undong ŭl choahaeyo.
(ông ấy) (thể thao) ŭl (thích)
‘Ông ấy thích thể thao’.
b. Chŏ bunŭn yŏngŏ rŭl jahamnida.
(ông kia) (tiếng Anh) rŭl (nói giỏi)
Mặc dù, tiểu từ cách trong tiếng Hàn là một phương tiện ngữ pháp quan trọng nhưng không giống
tiểu từ trạng cách (có tính bắt buộc), tiểu từ chủ cách và tiểu từ đối cách có tính tùy nghi. Trong các ví
dụ trên ŭl và rŭl hoàn toàn có thể lược bỏ [30, tr.33-35].
Nhìn chung việc đánh dấu BN trực tiếp khá phức tạp. Việc BN trực tiếp được đánh dấu như thế
nào không chỉ lệ thuộc vào quan hệ chức năng của nó với VT mà còn lệ thuộc vào chính đặc tính ngữ
nghĩa của BN nữa. Tuỳ theo đặc tính ngữ nghĩa của thành phần này mà có thể có những hình thức đánh
dấu khác nhau. Về hiện tượng này, nhiều tác giả, chẳng hạn W. Foley & R. Van Valin [146], P. Hopper
– S. Thompson [163], E. Moravcsik [181], v.v. đã có những nghiên cứu rất cụ thể. Sự đánh dấu khác
nhau đối với thành phần BN trực tiếp có thể tùy thuộc vào tính động vật hay bất động vật [163, tr.257],
tính xác định (có xác định/ có sở chỉ hay không) [146, tr.285], mức độ liên quan đến sự kiện (đầy đủ,
hoàn toàn hay không), mức độ bị ảnh hưởng (nhiều hay ít, có hay không); với một số ngôn ngữ (chẳng
hạn tiếng Lithuania), BN trực tiếp lại được đánh dấu khác nhau dựa vào VT chi phối nó ở hình thức
khẳng định hay phủ định [163, tr. 258-272].
Các ngôn ngữ đơn lập như tiếng Việt, tiếng Hán không tồn tại những tiếp tố đánh dấu chuyên biệt
như vậy – như sẽ trình bày ở các chương sau – do đó, những chức năng cú pháp sẽ chỉ được diễn đạt
bằng phương tiện trật tự từ và các giới từ.
‘Ông kia nói tiếng Anh giỏi’.
(2) Sự phù ứng của VT. Trong nhiều ngôn ngữ, VT có sự đánh dấu (có thể bằng một tiếp tố hoặc
một yếu tố chuyên dụng đi kèm) phù hợp với các ngữ đoạn chức năng trong câu. Gắn với phạm trù
NgĐ, ta thấy trong những ngôn ngữ này, VT có thể có yếu tố đánh dấu phù hợp với BN trực tiếp hoặc
chủ ngữ NgĐ, chủ ngữ NĐ. Điều này cũng cho phép ta xác định VT đang xét là VT NĐ hay VT NgĐ.
Chẳng hạn, theo Ch. Li và S. Thompson [176, tr.12], VT trong tiếng Swahili có những hình vị
(tiếp tố) phù ứng với cả chủ ngữ và BN trực tiếp.
40. Hamisi a – me – ki – leta chakula.
Hamisi QK mua thức ăn.
Trong ví dụ trên, tiền tố a của VT leta (mua) phù ứng với chủ ngữ Hamisi, tiền tố ki phù ứng với
BN trực tiếp chakula (thức ăn).
Trong một số ngôn ngữ khác, chẳng hạn trong tiếng Tây Ban Nha, VT có thể phù ứng với chủ
ngữ bao gồm cả tất các chủ ngữ NgĐ và chủ ngữ NĐ. Trong tiếng Quiché, có một tiền tố của VT phù
ứng với chủ ngữ NgĐ và một tiền tố khác phù ứng với chủ ngữ NĐ và BN NgĐ (đặc tính của ngôn
ngữ tác cách). Trong tiếng Lakhota, tiền tố của VT lại phù ứng với tất cả chủ ngữ NgĐ và chỉ một số
chủ ngữ NĐ (mang nghĩa hành động), v.v. Như vậy có thể nói, những yếu tố đánh dấu trên VT để chỉ
sự phù ứng với các ngữ đoạn chức năng trong câu ở các ngôn ngữ có hiện tượng này là rất khác nhau
[133, tr.9-10].
‘Hamisi đã mua thức ăn’.
1.4.2.2. Xác định phạm trù NĐ/ NgĐ dựa vào trật tự từ. Về trật tự từ, mặc dù có một số ngôn
ngữ cho phép các từ/ ngữ đoạn trong câu sắp xếp tự do, nhất là các ngôn ngữ có sự phong phú về hệ
thống đánh dấu cách như tiếng La Tinh, Đức, Nga, v.v. nhưng không có ngôn ngữ nào cho phép các từ/
ngữ đoạn trong câu sắp xếp một cách hoàn toàn tự do, nói cách khác, vẫn luôn có những áp lực nhất
định đến phương diện trật tự từ. Với những ngôn ngữ nghèo về các chỉ tố đánh dấu cách thì trật tự từ
ngữ trong câu lại càng giữ vai trò quan trọng trong việc xác định nghĩa, xác định tư cách cú pháp của
các thành tố chức năng.
Các áp lực đối với sự sắp xếp đó bị quy định sâu xa bởi quan hệ cú pháp giữa các đơn vị cú pháp,
các ngữ đoạn chức năng trong câu. Với tư cách là những yếu tố quan trọng trong cấu trúc cú pháp, VT
và BN, trong phần lớn các ngôn ngữ, không thể không tuân theo những quy tắc sắp xếp nhất định.
Về mặt lí thuyết có 6 kiểu trật tự từ cơ bản trong câu tường thuật: SOV, SVO, VSO, VOS, OVS,
OSV. Theo thống kê của S. Steele có hai kiểu trật tự phổ biến nhất là SOV và SVO, hai kiểu ít phổ
biến hơn là VSO và VOS còn kiểu OVS và OSV hầu như không tồn tại [205, tr.588-589].
Có thể xem tiếng Hán như là một ngoại lệ rất tiêu biểu khi thành phần được xem là BN có thể
xuất hiện tương đối phổ biến cả ở vị trí trước và sau VT trong nội bộ câu (không tính khả năng đưa BN
lên trước để nhấn mạnh – chủ đề hóa, một hiện tượng phổ biến trong phần lớn các ngôn ngữ). Tuy
nhiên sự thay đổi trật tự từ này có thể lí giải ở phương diện ngữ nghĩa. Trong ngôn ngữ này có những
quy định, những giới hạn ngữ nghĩa nhất định được áp dụng cho các cách dùng đó.
41. a. Zhāng-san dă-poù zhuānghu le.
[205, tr. 596]
Zhāng-san đập vỡ cửa sổ rồi.
‘Zhāng-san đập vỡ cửa sổ rồi’
b. Zhāng-san bă zhuānghu dă-poù le.
Zhāng-san BĂ cửa sổ đập vỡ
Cách dùng đưa BN trực tiếp lên trước VT và đứng sau BĂ được một số tác giả, chẳng hạn Ch. Li & S. Thompson (1981), xem là dựa trên tính xác định (có sở chỉ cụ thể), và tính chất bị ảnh hưởng18.
Việc BN trực tiếp có thể tồn tại phổ biến ở cả hai vị trí trước và sau VT đã được một số tác giả xem
như là hiện tượng có hai BN trực tiếp. Luận điểm này càng có vẻ hợp lí khi cả hai hình thức BN (trước
và sau VT) đều xuất hiện như trong ví dụ dưới.
‘Zhāng-san đã đập vỡ cửa sổ này/ ấy rồi’’
42. Wõ bă ta bang le liăng zhi jiăo.
[177, tr.470]
Tôi BĂ anh/chị ta trói chặt (xong) hai chân.
Dù sao đi nữa, như S. Steele đã nhận xét, sự xuất hiện của thành phần BN trực tiếp ở vị trí ngay
trước động từ liên quan không chỉ đến vấn đề trật tự từ mà còn liên quan đến cả nhân tố cú pháp khác
nữa (sự có mặt của BĂ) [205, tr. 595].
Trong khi khẳng định sự cần thiết xác định các phạm trù ngữ pháp dựa trên trật tự từ cơ bản,
chúng ta cũng cần thấy biến thể trật tự từ cũng là một hiện tượng rất phổ biến. S. Steele, qua khảo sát
63 ngôn ngữ đã khẳng định khả năng biến thể trật tự từ đều có thể tìm thấy trong tất cả các kiểu trật tự
từ [205, tr.598].
Chính điều này đã khiến ông đưa ra một hướng phân loại ngôn ngữ dựa trên khả năng tham gia
vào các biến thể trật tự từ. Chẳng hạn, dựa trên tiêu chí mức độ tuân thủ các áp lực về trật tự từ phổ
biến (hai áp lực cơ bản, x. tr.602-603), ông chia các ngôn ngữ trên thế giới ra thành ba loại chính: (i)
ngôn ngữ có trật tự từ tự do (free word order languages); (ii) ngôn ngữ có trật tự cố định (rigid word
order languages), và (iii) ngôn ngữ có trật tự đan xen (mixed word order languages). Theo tiêu chí này,
18 T. Givón cho rằng ngoài tiêu chí tính xác định, kết cấu có BĂ được sử dụng đối với các VT phức hợp về hình thái và bắt buộc khi những VT này có một số trạng từ thể cách phía sau [151, tr.308]. Tác giả cũng cho rằng không thể dùng kết cấu có BĂ đối với những VT có BN [–bị thể/ đối cách] kiểu nghe, nhìn, v.v. (tr.309).
‘Tôi trói chặt hai chân nó’
tiếng Việt cùng với tiếng Anh, được xếp vào nhóm các ngôn ngữ SVO có trật tự cố định trong khi
tiếng Hán được xếp vào nhóm ngôn ngữ SVO có trật tự đan xen (tr.607-608). Ông cũng nhận thấy sự
đối lập giữa ngôn ngữ có trật tự cố định với ngôn ngữ có trật tự từ tự do không phải có liên hệ chặt chẽ
với sự đối lập giữa ngôn ngữ không có sự đánh dấu cách trên các ngữ đoạn chức năng với các ngôn
ngữ có sự đánh dấu cách. Theo ông, trong số 12 ngôn ngữ (trong 63 ngôn ngữ được khảo sát) có trật tự
từ tự do thì đến 7 ngôn ngữ – tức hơn một phần hai – không có sự đánh dấu cách (tr.609). Ông đã đề
xuất một tiêu chí khác để phân loại đối với các ngôn ngữ không có sự đánh dấu cách là dựa vào việc có
hay không hiện tượng phù ứng đặc biệt – phù ứng về ngôi đối với chủ ngữ của câu (tr.610) và ông
cũng nhận thấy trong số 14 ngôn ngữ không có sự phù ứng về ngôi (trong đó có tiếng Việt, tiếng Anh,
tiếng Hán) thì tất cả đều không thuộc nhóm có trật tự từ tự do (tr.611). Đa số ngôn ngữ còn lại đều có
sự phù ứng về ngôi theo một kiểu nào đó (tr.611). Sau khi đưa ra bảng các ngôn ngữ có sự phù ứng về
ngôi (bao gồm cả các ngôn ngữ có trật tự từ tự do với các ngôn ngữ không có trật từ tự do), tác giả kết
luận: “Mặc dù chúng ta không thể nói rằng nếu một ngôn ngữ có sự phù ứng (nguyên dạng (copy
agreement) hoặc bán dạng (semi-copy agreement)), nó sẽ có trật tự từ tự do nhưng chúng ta có thể nói
rằng nếu một ngôn ngữ có trật tự từ tự do nó sẽ có sự phù ứng về ngôi (nguyên dạng hoặc bán nguyên
dạng)” (tr.613).
Hướng phân loại ngôn ngữ dựa trên khả năng tham gia vào các biến thể trật tự từ như vừa đề cập
không hề mâu thuẫn với hướng phân loại dựa trên trật tự từ cơ bản, ngược lại nó còn góp phần chứng
minh cho những luận điểm cơ bản của hướng phân loại này, khác chăng ở chỗ nó nhắc nhở ta về tính
phức tạp của vấn đề.
1.5. TIÊU CHÍ XÁC ĐỊNH PHẠM TRÙ NĐ/ NgĐ TRONG TIẾNG VIỆT
1.5.1. Theo cách phân loại loại hình hình thái học thì tiếng Việt thuộc về ngôn ngữ đơn lập gần
đạt tới lí tưởng. Vì vậy việc dựa vào những dấu hiệu hình thái gắn với từ để nhận diện phạm trù NĐ/
NgĐ là không thể đối với tiếng Việt.
Hướng giải quyết khác là phải xác định xem trong tiếng Việt có hay không có một số tiểu từ
chuyên dụng để chỉ phạm trù này (kiểu như tiểu từ ‘ŭl’, ‘rŭl’ trong tiếng Hàn đứng ngay sau BN trực
tiếp). Câu trả lời cũng là không.
Giống như một số ngôn ngữ đơn lập khác, tiếng Việt không có những phương tiện hình thái để
nhận diện các phạm trù ngữ pháp nói chung và phạm trù NĐ/ NgĐ nói riêng. Chính vì vậy, việc xác
định phạm trù NĐ/ NgĐ chỉ có thể dựa vào hai tiêu chí thuộc về loại hình: (i) trật tự từ, và (ii) sự có
mặt hoặc vắng mặt giới từ.
Như vậy, trong tiếng Việt, phạm trù NĐ/ NgĐ xét từ góc độ loại hình học không gây tranh cãi ở
việc dùng những tiêu chí cụ thể gì – vì những tiêu chí được nêu ra thường không khác gì với những
tiêu chí thường được nhắc đến lâu nay trong các tài liệu ngôn ngữ học đại cương; vấn đề cần lưu ý lại
chính ở chỗ giải quyết như thế nào một số trường hợp cụ thể. Trong tiếng Việt, có những vấn đề cần
giải quyết như sau.
(i) VT tồn tại là VT NĐ hay VT NgĐ? Vấn đề này thường được các tài liệu ngữ pháp tiếng Việt
nêu ra ở một phương diện khác: ngữ đoạn đứng sau VT tồn tại là thành phần chức năng gì trong câu:
chủ ngữ, trạng ngữ hay BN? Việc xác định thành phần này sẽ gián tiếp xác định tư cách cú pháp của
VT tồn tại.
(ii) VT trong những câu chứa thành phần gọi là khởi ngữ/ đề ngữ/ từ chủ đề… là VT NĐ hay VT
NgĐ? Vấn đề này thường được các tài liệu ngữ pháp tiếng Việt nêu ra ở một phương diện khác: ngữ
đoạn đứng đầu kiểu câu này giữ vai trò gì: thành phần ngoài nòng cốt, thành phần chính (Đề/ chủ ngữ)
hay là BN đảo? Giải quyết vấn đề này sẽ xác định được tư cách cú pháp của VT trong các câu đang
xét.
(iii) Tư cách cú pháp của những VT vừa có thể kết hợp vừa không kết hợp với một giới từ đứng
trước thành phần BN.
Những vấn đề này sẽ lần lượt được giải đáp trong các mục 2.1.1, 2.3.1 và 3.2.
1.5.2. Tiêu chí xác định VT NĐ/ NgĐ. Dựa trên những thành tựu, phương pháp làm việc của
loại hình học như vừa đề cập trên cũng như dựa vào những thành tựu của các khuynh hướng ngôn
ngữ học hiện đại chúng tôi cho rằng tiêu chí xác định phạm trù NĐ/ NgĐ cần phải mở rộng hơn.
Phạm trù này rõ ràng không chỉ được nhận diện từ phương diện trật tự sắp xếp các thành tố, sự có
mặt hay vắng mặt của giới từ mà còn liên quan đến một số thành tố chức năng trong câu, đặc biệt vai
trò của BN. Nó cũng liên quan tới hành động có ý thức của Tác thể; sự quy chiếu thế giới bên ngoài;
và mức độ bị ảnh hưởng của BN [163, tr.251-299]. Điều này rõ ràng là những cơ sở quan trọng, hữu
ích, bổ sung cho việc xác định phạm trù NĐ/ NgĐ.
Theo chúng tôi, NĐ/ NgĐ là một phạm trù ngữ pháp, do đó, chúng cần phải được xác định dựa
trên những tiêu chí thuộc về ngữ pháp. Có thể nói, tiêu chí hình thức ngữ pháp đã được truyền thống
ngữ pháp châu Âu nêu ra từ lâu, vẫn có thể áp dụng cho việc nhận diện phạm trù này. Theo hướng này,
một VT kết hợp với một hoặc hơn một BN trực tiếp là một VT NgĐ; các VT còn lại là VT NĐ.
Việc nhận diện BN trực tiếp lại hoàn toàn dựa vào dấu hiệu hình thức và điều này thể hiện rất
khác nhau trong các (nhóm) ngôn ngữ khác nhau (x. mục 1.4.2.1). Chẳng hạn, trong các ngôn ngữ biến
hình, những dấu hiệu nhận diện là hình thái, hư từ đi kèm và trật tự vị trí các BN của VT đang xét.
Hình thức ngữ pháp là tiêu chí chủ yếu để bảo đảm NĐ/ NgĐ là một phạm trù ngữ pháp của VT. Tiêu
chí này đem lại sự phân biệt bước một giữa các VT NĐ và VT NgĐ và nó có thể dùng để xác định cho
phần lớn các VT. Việc vận dụng các tiêu chí này như thế nào trong tiếng Việt (và tiếng Anh) sẽ được
trình bày chi tiết ở chương 2 và chương 3.
Như vậy vấn đề cơ bản để xác định một VT là NĐ hay VT NgĐ cần phải dựa vào việc có hay
không có BN trực tiếp. Việc làm thế nào để khẳng định một VT có BN trực tiếp hay không nhiều lúc
lại gặp rất khó khăn nếu chỉ thuần túy dựa vào những dấu hiệu hình thức. Để giải quyết khó khăn này,
việc xác định số lượng cũng như đặc tính của các tham tố trong cấu trúc nghĩa của VT là một hướng đi
khả quan mà nhiều trường phái ngôn ngữ học hiện đại áp dụng, thậm chí một số tác giả chỉ lưu ý tới số
lượng và đặc điểm ngữ nghĩa của các vai nghĩa để xác định, phân loại VT (x. mục 3.3). Để xác định tư
cách cú pháp của VT (là NĐ hay NgĐ), ta chỉ cần tính đến những vai nghĩa là diễn tố (tức là những vai
nghĩa bắt buộc/ cố hữu). Nhìn chung, VT nhiều diễn tố thì có khả năng là NgĐ hơn VT ít diễn tố; VT
đi với những diễn tố là chủ ngữ có đặc điểm [+người/ động vật], tức mang vai Tác thể thì có khả năng
là NgĐ hơn là NĐ. BN mang vai Bị thể thường là dấu hiệu quan trọng để xác định VT chi phối nó là
NgĐ.
Số lượng diễn tố và đặc điểm vai nghĩa tỏ ra đặc biệt cần thiết trong hai trường hợp sau. Trường
hợp thứ nhất, vai nghĩa mà cụ thể là số lượng diễn tố cho phép xác định tư cách cú pháp của những VT
có một (ngữ) danh từ trực tiếp đứng sau mà ngữ đoạn này không thể xác định là BN trực tiếp hay là
trạng ngữ (bởi trong nhiều ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt, ngữ đoạn danh từ làm trạng ngữ là hiện
tượng rất phổ biến). Trường hợp thứ hai, số lượng diễn tố cũng cho phép chúng ta xác định VT khi
không có (ngữ) danh từ đi sau có chắc chắn là VT NĐ hay không, hay đó là VT NgĐ; bởi rất có thể
VT đang xét là VT NgĐ có BN trực tiếp được tỉnh lược (chi tiết, x. mục 3.2).
Ngoài vai trò làm “phép thử” nêu trên, vai nghĩa cũng có tác dụng quan trọng trong việc phân
chia VT bậc 2, tức chia VT thành VT NĐ điển hình, VT NĐ kém điển hình, VT NgĐ điển hình, VT
NgĐ kém điển hình (x. mục 2.1.2.2).
Chúng tôi cho rằng việc xác định một VT là NĐ hay VT NgĐ là công việc không dễ dàng. Hiện
tượng VT có hai cách dùng NĐ và NgĐ tồn tại trong hầu hết các ngôn ngữ đã cho thấy khó khăn này.
Và dường như rất khó khăn nếu chỉ áp dụng một tiêu chí duy nhất cho việc phân định VT NĐ với VT
NgĐ. Đối lập giữa VT NĐ và VT NgĐ nằm trên thang độ mà điểm phân giới không dễ gì vạch ra một
cách tuyệt đối được. Cho dù những khó khăn vừa đề cập là thực tế, điều đó không có nghĩa là không có
cơ sở để phân biệt, cũng như không có nghĩa việc phân biệt chúng là không cần thiết. Cơ sở đối lập NĐ
với NgĐ có thể dựa trên các tiêu chí hình thức ngữ pháp và trong một số trường hợp có thể dựa vào vai
nghĩa (số lượng và đặc tính) để kiểm chứng tư cách cú pháp của VT. Dựa trên định hướng này, trong
chương tiếp theo (chương 2) chúng tôi sẽ tập trung khảo sát sự thể hiện những đối lập của phạm trù
này trong tiếng Việt.
1.6. QUAN HỆ GIỮA NGỮ PHÁP VÀ NGỮ NGHĨA
Việc phân biệt VT NĐ và VT NgĐ, như mục 1.5.2 vừa trình bày, cần dựa vào cả cơ sở hình thức
và ngữ nghĩa. Điều này đặt ra vấn đề mối quan hệ giữa bình diện ngữ pháp và bình diện ngữ nghĩa.
Công lao đầu trong việc xem xét một cách hệ thống mối quan hệ này thuộc về các nhà kí hiệu học,
ngôn ngữ học cuối thế kỷ XIX đầu XX. F. de. Saussure trong “Giáo trình ngôn ngữ học đại cương” đã
đề cập tới quan hệ giữa mặt hình ảnh âm thanh (image acoustique) và khái niệm (concept) của kí hiệu,
đề xuất cặp khái niệm ‘năng biểu’ (signifiant) và ‘sở biểu’ (signifié) để chỉ hai mặt của kí hiệu ngôn
ngữ cũng như trình bày những đặc điểm cơ bản của kí hiệu [73, tr.120-126]. Các tác giả khác như Ch.
Peirce, Ch. Morris,… tiến xa hơn bằng việc giới thiệu hệ thống lí thuyết về kí hiệu và mở rộng xem xét
kí hiệu trên ba bình diện: kết học (syntactics), nghĩa học (semantics), dụng học (pragmatics) và xem
xét chúng trong mối quan hệ có tính quy định, tác động lẫn nhau [17, tr.46-47]. Nhìn từ góc độ này,
quan hệ giữa ngữ pháp và ngữ nghĩa mới chỉ phản ánh một phần đặc tính vốn đa diện của kí hiệu ngôn
ngữ; và ngược lại, quan hệ ngữ pháp và ngữ nghĩa cũng không phải đồng nhất với quan hệ giữa năng
biểu với sở biểu theo cách hiểu của F. de Saussure. V. Kasevich đã rất đúng khi cho rằng: “mặt biểu thị
(bao gồm những phương pháp tạo hình ngôn ngữ và cú pháp của kí hiệu) là khái niệm rộng hơn tập
hợp của những cái biểu đạt” [42, tr.30]. Hầu hết các nhà ngôn ngữ học đều lưu ý phải cẩn trọng khi
xem xét quan hệ giữa ngữ pháp và ngữ nghĩa trong ngôn ngữ. R. Jacobs viết: “không có quan hệ một
đối một giữa các đơn vị ngữ pháp và các đơn vị nghĩa vì ngữ pháp và ngữ nghĩa là hai hệ thống rất
khác nhau với các đơn vị và quan hệ riêng của chúng” [167, tr.26]. L. Talmy đã phát biểu một cách
hiển ngôn hơn: “Một tập hợp các nhân tố thuộc bình diện ngữ nghĩa có thể được diễn đạt bởi chỉ một
nhân tố thuộc về bình diện bề mặt hoặc một nhân tố thuộc về bình diện ngữ nghĩa có thể được diễn đạt
bởi một tập hợp các nhân tố thuộc về bình diện bề mặt.” [205, tr.57]. Rất nhiều nhà ngôn ngữ học khác
cũng có ý kiến tương tự ([10, tr.27-28]; [32, tr.6]; [46, tr.26]; [58, tr.220]; [136, tr.26]; [151, tr.135];
[181, tr.251]). Trong khi khẳng định khả năng bất xứng giữa ngữ nghĩa và hình thức, chúng ta cũng
không thể phủ nhận có rất nhiều tương ứng giữa hai bình diện này. Những tương ứng này thể hiện một
cách đa dạng: có những tương ứng có thể thấy ở nhiều ngôn ngữ, có tương ứng thấy rõ hơn ở một số
ngôn ngữ cụ thể. Theo L. Tesnière dù giữa cấu trúc cú pháp và ngữ nghĩa của câu có tính độc lập của
nó nhưng vẫn có những liên hệ tương ứng. Về mặt nghĩa, câu là một màn kịch nhỏ gồm có một sự kiện
với những nhân vật và các hoàn cảnh. Về mặt cấu trúc, một câu bao gồm một động từ, các diễn tố và
các chu tố. Động từ biểu thị các sự kiện, các danh từ biểu thị các diễn tố còn trạng từ biểu thị các tình
huống diễn ra sự kiện như thời gian, địa điểm. Trong khi khảo sát mối quan hệ giữa các đơn vị của cú
xét từ phương diện phản ánh thế giới kinh nghiệm (bình diện nghĩa), M. Halliday thấy chúng có sự
tương hợp rất cao với các phương tiện thể hiện trên bình diện ngữ pháp. Sự tương hợp được trình bày ở
bảng dưới:
kiểu thành phần
được hiện thực hóa bởi cụm động từ cụm danh từ cụm trạng từ hay cú đoạn (1) quá trình (2) (3) các tham tố chu cảnh
Sự tương hợp này rút từ tiếng Anh nhưng cũng tồn tại ở nhiều ngôn ngữ khác.
R. Jacobs cũng nêu ra một số “tương ứng thú vị” giữa hai bình diện này:
(i) Các mệnh đề trong hệ thống ngữ nghĩa được thể hiện bằng các cú trong hệ thống ngữ pháp.
(ii) Các vị ngữ thường thể hiện bằng các (ngữ) động từ, các (ngữ) tính từ và (ngữ) danh từ, hoặc
các (ngữ) giới từ.
(iii) Các tham tố thường được thể hiện bằng các ngữ danh từ hoặc cú.
(iv) Các vai chủ đề (thematic roles) cho thấy sự phù ứng một phần với các quan hệ ngữ pháp
[167, tr.26].
Điều quan trọng là những tương ứng này nhiều khi có tính bắt buộc, tạo ra những giới hạn lựa
chọn, do đó, cho phép giải thích nhiều quy tắc ngữ pháp, tăng thêm cơ sở khách quan cho việc sử dụng
đúng ngôn ngữ.
Nói chung quan hệ ngữ pháp – ngữ nghĩa là một mối quan hệ phức tạp. Nó gắn liền với những vấn
đề sâu xa hơn như đặc thù và phổ quát trong ngôn ngữ; quan hệ giữa cái biểu đạt và cái được biểu đạt;
quan hệ giữa hình thức và nội dung; quan hệ giữa cấu trúc bề mặt và cấu trúc sâu, v.v. Trong nghiên cứu
ngôn ngữ các thái độ sau đều là sai lầm: chỉ chú trọng nghiên cứu ở bình diện hình thức ngữ pháp mà
xem nhẹ mặt nghĩa; cố gắng đi tìm quan hệ một đối một giữa hai bình diện này; lẫn lộn giữa hai bình
diện: xem đơn vị hay quan hệ của bình diện này là đơn vị hay quan hệ của bình diện kia... Quả thật,
“chừng nào mà người ta chủ trương rằng mọi đồng nhất hay khác biệt của cấu trúc ngữ pháp phải tương
hợp với các đồng nhất hay khác biệt tương ứng về nghĩa (cho dù tế nhị và khó xác định), thì ta sẽ có
nguy cơ là việc miêu tả ngữ pháp hoặc miêu tả ngữ nghĩa, hay cả hai, sẽ bị sai lệch” và “khi mà nhà ngôn
ngữ học bắt đầu quan tâm nghiêm túc đến ngữ nghĩa học thì ông ta phải thấy rằng chỉ có lợi khi phân biệt
ngữ nghĩa và ngữ pháp về mặt phương pháp” [58, tr.220]. Vì thế công việc của nhà nghiên cứu ngôn ngữ
phải là “phân giới một cách minh xác giữa mặt biểu thị và mặt được biểu thị, cũng như giữa các bình
diện của từng mặt, vì có như thế mới tránh được những lẫn lộn tiêu chuẩn khi xác định cương vị của các
đơn vị và phạm trù trên từng bình diện” [32, tr.6]. Điều này có nghĩa là chúng ta phải chú ý tới mối quan
hệ có tính chức năng giữa các bình diện. Mọi hình thức trong ngôn ngữ đều mang nghĩa và bất cứ một
hình thức ngữ pháp nào cũng có thể lí giải, ở mức độ nào đó, từ phương diện nghĩa [32, tr.14]. Xác định
[29, tr.209]
đúng quan hệ giữa hai bình diện này không chỉ tránh được sự nhầm lẫn giữa chúng mà còn giúp lí giải
một cách có cơ sở các biểu hiện, đặc điểm ở từng bình diện.
1.7. TIỂU KẾT
Chương 1 lần lượt trình bày những vấn đề lí luận cơ bản làm nền tảng cho việc khảo sát phạm trù
NĐ/ NgĐ. Trong phần trình bày về khái niệm VT và phân loại VT, luận án chỉ nêu ra một số quan
niệm tiêu biểu. Về việc phân loại VT, để vừa bảo đảm có hệ thống vừa bảo đảm có trọng tâm, luận án
đã trình bày tổng quan một số cách phân loại trước khi nêu ra lối phân loại gắn với phạm trù NĐ/ NgĐ
– phân loại VT dựa trên khả năng [±BN trực tiếp].
Mối quan hệ cú pháp giữa VT với các thành phần chức năng khác trong câu có liên hệ mật thiết
với cấu trúc nghĩa của VT vì thế chương 1 cũng bàn về tham tố và việc phân loại tham tố. Luận án chú
ý nhiều đến sự phân biệt diễn tố và chu tố – một sự phân biệt có liên quan với một đối lập khác cũng
được thảo luận khá kĩ ở chương này là đối lập giữa BN và trạng ngữ.
Chương 1 cũng dành một phần đáng kể để trình bày về một số vấn đề loại hình và từ đó xác định
những tiêu chí nào thuộc về loại hình học có thể áp dụng vào việc nhận diện phạm trù NĐ/ NgĐ trong
tiếng Việt.
Tiêu chí dùng để xác định phạm trù NĐ/ NgĐ là tiêu chí hình thức cú pháp. Việc dựa vào số
lượng diễn tố, đặc tính các vai nghĩa là nhằm kiểm nghiệm kết quả phân loại do tiêu chí hình thức cú
pháp đưa ra. Vai trò ‘phép thử’ của vai nghĩa đặc biệt có tác dụng trong việc xác định tư cách cú pháp
của VT trong những trường hợp mà dấu hiệu hình thức chưa đủ rõ. Ngoài ra vai nghĩa cũng có tác
dụng quan trọng trong việc phân chia VT bậc 2 (chia VT thành VT NgĐ [±điển hình], VT NĐ [±điển
hình]).
Nói chung, chúng tôi đồng ý với quan niệm coi NĐ/ NgĐ là phạm trù ngữ pháp, nghĩa là nó phải
được xác định dựa trên quan hệ cú pháp giữa VT với BN và mối quan hệ này có thể nhận diện dựa vào
những dấu hiệu hình thức. Tuy nhiên, sự đối lập NĐ/ NgĐ, như nhiều sự đối lập ngữ pháp khác, có cơ
sở sâu xa từ những phân biệt về ngữ nghĩa. Việc dùng vai nghĩa (số lượng và đặc tính) để nhận diện
BN trực tiếp góp phần xác định chính xác tư cách cú pháp của VT không phải là sự lẫn lộn giữa hai
bình diện ngữ pháp và ngữ nghĩa mà nó cho thấy có những tương hợp, những liên hệ mật thiết giữa
chúng. Rõ ràng, có thể dùng những yếu tố thuộc về bình diện ngữ nghĩa để giải thích, bổ sung cho việc
xác định cũng như miêu tả một phạm trù ngữ pháp như phạm trù NĐ/ NgĐ. Đây cũng chính là hướng
đi được tiến hành trong các chương kế tiếp của luận án này.
Chương 2
PHẠM TRÙ NỘI ĐỘNG/ NGOẠI ĐỘNG
TRONG TIẾNG VIỆT
2.1. NHỮNG ĐỐI LẬP CƠ BẢN GIỮA VT NĐ VÀ VT NgĐ
2.1.1. Đối lập VT NĐ/ VT NgĐ dựa trên tiêu chí hình thức cú pháp
2.1.1.1. VT NĐ xét từ tiêu chí hình thức cú pháp
(1) VT NĐ có thể tự mình làm thành phần Thuyết
Các VT NĐ khi tự mình làm thành phần Thuyết có thể kết hợp với phần Đề để tạo thành câu
đơn hai thành phần tối giản mà không cần đến những thành phần khác. Về mặt cấu tạo, VT có thể là
một từ đơn hoặc từ phức. Sự kết hợp trực tiếp giữa Đề với VT kiểu này cho ta một câu trọn nghĩa –
có thể hiểu được mà không cần phải đặt trong ngữ cảnh (context). Phần lớn VT trong cấu trúc này là
những VT trạng thái.
1. a. Hoa tàn.
b. Áo khô.
Tuy nhiên, nhiều VT trạng thái không phải là VT NĐ. Dựa vào tiêu chí hình thức cú pháp, chúng
vẫn có BN trực tiếp (x. mục 2.1.1.2).
Ngoài phần đáng kể các VT trạng thái có khả năng là VT NĐ trong câu đơn hai phần tối giản, rất
nhiều VT hành động, VT quá trình, VT tư thế cũng có thể tham gia vào cấu trúc này.
c. Bé mệt.
2. a. Chim hót.
b. Lan ngồi.
Trong tiếng Việt, có khá nhiều VT NĐ được dùng theo cách NgĐ với một số điều kiện nhất định
(x mục 2.2).
Nói chung VT NĐ tự mình làm phần Thuyết trong một câu đơn thường dễ nhận diện và ít gây
tranh cãi. Trong câu trần thuật bình thường, chúng đứng sau phần Đề và không có trạng ngữ, tuy nhiên,
đôi khi cần có một hư từ đi kèm.
c. Băng tan.
3. a. Họ về rồi.
b. Đầu hắn cúi xuống.
Trong tiếng Việt sẽ không tự nhiên nếu ta nói ?Họ về hay ?Đầu hắn cúi vì thế sự xuất hiện của
rồi, xuống trong các câu trên là cần thiết.
(2) VT NĐ có kết hợp với các thành phần phụ
Ngoài hình thức VT NĐ tự mình làm thành phần Thuyết trong cấu trúc câu đơn hai phần tối
giản, VT NĐ có thể (và thường) được mở rộng bằng sự có mặt của một số thành phần phụ.
4. a. Hắn ngủ trong 15 phút.
b. Gió thổi trên ngọn cây.
c. Con vịt đứng bằng một chân.
Thành phần phụ có thể được dán nhãn khác nhau tùy thuộc vào kiểu ý nghĩa mà chúng thể hiện.
Các loại thành phần phụ của VT thường cung cấp thêm thông tin về thời gian, địa điểm và cách thức
(gọi chung là trạng ngữ). Xét về phương diện thông tin, các thành phần này có vai trò quan trọng bởi
chúng thường chứa đựng cái mới. Tuy nhiên, xét về chức năng cú pháp, xét về tính chất mối quan hệ
với VT, chúng lại chỉ là những thành phần phụ.
Ngoài hình thức cấu tạo phổ biến là một ngữ giới từ, trạng ngữ còn có thể xuất hiện dưới hình
thức là một ngữ danh từ. Đây chính là trường hợp gây khó khăn cho việc xác định tư cách cú pháp của
VT đứng trước nó. Những hiện tượng này sẽ được đề cập chi tiết trong mục 2.1.1.3.
d. Băng tan trên đỉnh núi.
2.1.1.2. VT NgĐ xét từ tiêu chí hình thức cú pháp
(1) VT NgĐ có một BN trực tiếp
Có mặt BN trực tiếp là tiêu chí cơ bản để khẳng định VT đang xét là NgĐ. Trong cách dùng
thông thường, sự có mặt của BN trực tiếp là bắt buộc.
5. a. Nam nấu cơm.
b. Tôi thích hoa hồng.
c. Nó duỗi chân.
Mô hình VT NgĐ có một BN trực tiếp rất dễ nhầm lẫn với mô hình VT NĐ có thành phần trạng
ngữ là những ngữ danh từ (x. mục 2.1.1.3). Nhóm Trần Trọng Kim, do thuần tuý dựa vào dấu hiệu
hình thức nên đã cho rằng tất cả những từ, ngữ “đứng liền với tiếng nó làm cho lọn nghĩa, mà không có
tiếng giới tự gián cách ra” là trực tiếp túc từ: Nó đi hôm qua [43, tr.22]. Phần lớn các nhà ngữ pháp sau
này đã không còn xem thành phần bổ nghĩa cho VT trong ví dụ trên là BN trực tiếp nữa. Tư cách trạng
ngữ của thành phần này hoàn toàn có thể được xác định khi sử dụng thủ pháp cải biến.
d. Gió thổi bạt mái nhà.
Ngoài hình thức là (ngữ) danh từ, trong tiếng Việt, BN trực tiếp cũng có thể là một (ngữ) VT.
6. a. Hắn học vẽ.
BN duy nhất của VT cũng có thể có cấu tạo là một kết cấu Đề-Thuyết như chúng tôi sẽ đề cập ở
mục (2) dưới đây.
b. Đứa bé ấy đang tập nói tiếng Anh.
(2) VT NgĐ có hai BN
Có một số VT NgĐ thuộc nhóm cho, tặng thường kết hợp với hai BN. Lúc này các dấu hiệu hình
thức được thể hiện như sau:
(Đề +) VT + BN trực tiếp + giới từ + BN gián tiếp
7. a. (Nam) tặng quà cho Lan.
Trong cấu trúc này, vị trí của BN gián tiếp là đứng sau BN trực tiếp và sau một giới từ. Những
VT loại này cũng tham gia vào một cấu trúc khác:
b. (Họ) gửi đơn kiện tới toà án.
(Đề +) VT + (giới từ) + BN gián tiếp + BN trực tiếp
8. a. (Nam) tặng (cho) Lan một bông hồng.
b. (Họ) gửi (tới) toà án một tờ đơn kiện.
Dựa vào khả năng vắng mặt của giới từ trong cấu trúc thứ hai trên đây, một số tác giả cho rằng các
VT nhóm này là những VT có hai BN trực tiếp ([57, tr.167]; [100, tr.251]). Quan niệm của các tác giả
trên, mặc dù có nhiều khác biệt so với phần lớn quan niệm của các nhà ngữ pháp khác – vốn coi đây chỉ
là một dạng cải biến của cấu trúc thứ nhất – có ưu điểm quan trọng là triệt để vận dụng những tiêu chí
hình thức (bất kì BN nào không có giới từ phân cách với VT đều phải coi là BN trực tiếp). Vấn đề nan
giải là giữa các VT nhóm này và BN thứ nhất có thể xen một giới từ – một dị biệt đáng kể nếu so với cấu
trúc tương tự trong một số ngôn ngữ khác, chẳng hạn, tiếng Anh (x. chương 3). Vì thế, để có thể sử dụng
tiêu chí hình thức một cách hiệu quả, cần phải tìm một cách lập thức chính xác hơn.
Khác với các VT trong nhóm, cho là một ngoại lệ. Nó chỉ hoạt động trong cấu trúc thứ hai. Nghĩa
là BN gián tiếp luôn đứng ngay sau nó và đứng trước BN trực tiếp. Nếu chỉ dựa vào tiêu chí kết hợp với
giới từ thì VT cho bao giờ cũng đòi hỏi có hai BN trực tiếp. Chẳng hạn, Nam cho Lan một món quà.
Không thể chuyển thành *Nam cho một món quà tới/ cho Lan.
Cấu trúc VT có hai BN cũng cần phải phân biệt với cấu trúc VT có BN là kết cấu Đề-Thuyết, vốn
được coi là cấu trúc có một BN.
c. (Anh ấy) dạy (cho) chúng tôi đánh đàn.
9. a. Họ nói Nam đã cưới vợ.
b. Ai cũng thấy họ đi với nhau.
c. Nam muốn Lan về sớm.
Để xác định thành phần phía sau những VT còn nghi vấn có phải là hai BN hay là một cấu trúc Đề-
Thuyết, chúng ta có thể sử dụng những cách thức nhận diện sau.
(i) Dùng thao tác cải biến
Chúng ta đảo trật tự của hai ngữ đoạn phía sau VT. Sau thao tác cải biến, nếu câu được tạo mới có
thể chấp nhận được và không chuyển đổi ý nghĩa cơ bản thì VT của câu đang xét có hai BN, ngược lại,
chúng có một BN có kết cấu Đề-Thuyết (tức VT có một BN).
d. Tôi đoán (rằng) nó đã có vợ.
10. a. Anh ấy dạy tôi đánh đàn.
a'. Anh ấy dạy đánh đàn cho tôi.
b. Họ nói Nam đã cưới vợ.
b'. Họ nói đã cưới vợ cho Nam.
c. Tôi đoán nó đã có vợ.
Chỉ có sự biến đổi ở câu (a) thành (a’) là có thể chấp nhận và vẫn còn giữ nguyên ý nghĩa cơ bản;
trong khi đó sự biến đổi từ câu (b) thành (b’) dẫn tới sự thay đổi ý nghĩa cơ bản; và sự biến đổi câu (c)
thành (c’) đã tạo ra một câu sai. Theo cách này, ta thấy chỉ có VT trong câu (a) là VT có hai BN trực tiếp
còn VT trong hai câu còn lại là VT có một BN có kết cấu là Đề-Thuyết.
Quan hệ giữa VT với (các) BN phía sau trong hai kiểu cấu trúc trên được thể hiện trên sơ đồ như
sau:
c'. *Tôi đoán đã có vợ cho nó.
(ii) Xét mối quan hệ giữa các ngữ đoạn nằm phía sau VT
Nếu sự kết hợp của chúng diễn đạt một mệnh đề đã được đẩy vào hậu cảnh (xác định tính chất
mệnh đề bằng cách chèn giữa chúng các từ chỉ thời, thể, tình thái) thì chúng là kết cấu Đề-Thuyết.
Ngược lại, chúng cần được xem là hai BN. Theo cách này chúng ta có:
12. a. Tôi đoán nó đã/ muốn/ sẽ có vợ.
b. *Anh ấy dạy tôi đã/ muốn/ sẽ đánh đàn.
(a) là câu chấp nhận được (nghĩa là thành phần “nó có vợ” là một BN có kết cấu Đề-Thuyết) trong
khi đó, (b) không được chấp nhận (nghĩa là “tôi đánh đàn” cần phải xem là hai BN: tôi và đánh đàn).
Tuy nhiên việc dựa vào mối quan hệ ngữ nghĩa giữa các thành phần này để xác định đã vượt khỏi bình
diện cú pháp.
11. a. Anh ấy dạy tôi đánh đàn. b. Tôi đoán nó có vợ.
(3) VT có BN trực tiếp ẩn
Đây là hiện tượng một số VT về bản chất là VT NgĐ nhưng xuất hiện trong một số hoàn cảnh lại
dưới hình thức là VT không có BN trực tiếp.
13. a. Một thằng chạy. Một trăm thằng đuổi.
Đuổi trong câu (a), và ăn trong ví dụ (b) là những VT thuộc kiểu này. Có thể nói không có VT nào
chỉ thuộc về riêng nhóm này. Chúng không thuộc một kiểu VT riêng, tất cả đều có thể xuất hiện dưới
hình thức thiếu BN trong một số hoàn cảnh, điều kiện nhất định. Sự vắng mặt này có thể lí giải từ các
phương diện khác. Đuổi trong (a), sở dĩ không có BN trực tiếp đi kèm bởi vì nó chính là thành phần
trùng với Đề ngữ của câu trước (Một thằng trong “Một thằng chạy”). Ngôn cảnh (co-text) cho phép sự
tỉnh lược này, và quan trọng hơn, lí do phong cách: tránh lặp thừa. Trường hợp ăn trong (b) lại thường
được giải thích ở một hướng khác tách rời với yếu tố ngữ cảnh, đó là nét nghĩa được dùng trong trường
hợp này. Khi người nói muốn dùng một số VT NgĐ theo nghĩa khái quát, chung nhất thì BN có thể (và
thường thường) được lược bỏ. Tuy không nói ra nhưng người nghe và người nói đều có thể ngầm hiểu
ăn ở (b) là ‘ăn cái gì đó’.
Như vậy xét về hình thức thể hiện (có hay không có BN trực tiếp) chúng ta có thể phân VT thành
ba nhóm trong đó nhóm thứ ba bao gồm chính những từ thuộc hai nhóm trên được dùng theo những giới
hạn về cách dùng (ngữ dụng), hoặc nét nghĩa (ngữ nghĩa) nhất định.
b. Ai cũng cần phải ăn mới sống được.
2.1.1.3. Một số khó khăn của việc sử dụng tiêu chí hình thức trong việc xác định VT NĐ, VT
NgĐ
(1) Không phân biệt được ngữ đoạn danh từ trực tiếp đứng sau VT là trạng ngữ hay là BN trực
tiếp. Trong phần lớn các ngôn ngữ, trong đó có tiếng Việt, tồn tại khá phổ biến hiện tượng trạng ngữ có
hình thức là một (ngữ) danh từ. Đây chính là lí do dẫn đến sự khó khăn trong việc xác định tư cách cú
pháp cho những VT kết hợp trực tiếp với chúng. Tính phức tạp của hiện tượng này có thể thấy qua các
câu trong ví dụ dưới đây.
14. a. Hắn ăn đũa.
a'. Hắn ăn cơm.
b. Hắn đi chợ.
b’. Hắn đi máy bay.
c. Hắn đứng lớp.
Rõ ràng về mặt hình thức, thậm chí dựa vào đặc tính ngữ nghĩa của từng ngữ đoạn chức năng, các
câu trên giống nhau. Chúng đều có hai danh từ đứng trước và đứng sau VT; về ngữ nghĩa, danh từ
đứng trước trong các ví dụ trên đều mang tính [+động vật], danh từ đứng sau đều mang tính [–động
vật].
Một khi chứng minh được ngữ đoạn trực tiếp đứng sau VT là trạng ngữ chúng ta sẽ khẳng định
VT đang xét là VT NĐ; ngược lại, chúng ta phải coi chúng là BN trực tiếp của VT NgĐ. Trong giới
Việt ngữ học, một số tác giả đã sớm nhận thấy sự cần thiết xác định tư cách thành phần này và đưa ra
các thủ pháp để xác định chúng ([18, tr. 222-223]; [100, tr.252-253]; [103, tr.593]).
Để xác định tư cách của thành phần đứng sau VT, chúng ta có thể dùng đến một số từ chuyên
dụng để nhận diện, như trong, lúc, khoảng, từ, trên, dưới, với, bằng, v.v. (x. mục 2.1.1.1). Đây chính là
các giới từ thường đứng trước các thành phần trạng ngữ chỉ thời gian, địa điểm, thể cách trong cấu trúc
VT mở rộng. Nếu thành phần đứng sau VT có thể kết hợp với các từ chuyên dụng trên thì VT đó là VT
NĐ, ngược lại, là VT NgĐ. Hạn chế của phương pháp này là có rất nhiều VT NgĐ (chẳng hạn các VT
chuyển động có hướng) có thể kết hợp được với các từ dùng để kiểm chứng cho các thành phần phụ.
Tất nhiên những VT khi kết hợp với các từ trên có thể làm thay đổi tư cách ngữ pháp (những VT có
một BN bắt buộc được dẫn nhập bởi giới từ thì phải xử lí là VT NgĐ). Trong ví dụ dưới, câu (a) không
đồng nghĩa hoàn toàn với (a’).
c'. Hắn đứng một chân.
15. a. […] giết những phút vô liêu bằng cách lên gác xuống nhà, […]
(Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng)
a'. Người chồng say chếnh choáng, lên trên gác đi nằm trước, [...]
Đối với các VT NĐ, việc thêm một giới từ vào trước thành phần phụ (ngữ đoạn đứng sau VT)
thường không gây thay đổi gì về hiệu lực giao tiếp so với hình thức vắng nó. Ngược lại, việc có mặt
hay vắng mặt giới từ trước một BN bắt buộc có thể tạo ra một sự thay đổi đáng kể. Hai hình thức đó
(có hay không có giới từ) khác nhau không chỉ về phương diện phong cách, mà cả ở hiệu lực giao tiếp
(chẳng hạn vấn đề tính nổi trội, khả năng tạo hàm ý... của yếu tố đang xét) đến mức có thể buộc phải
xem có sự thay đổi tư cách cú pháp của VT đứng trước (x. mục 2.2). Bàn về sự khác biệt giữa hai kiểu
cấu trúc có hoặc vắng giới từ, T. Givón cho rằng: “trong trường hợp không có giới từ, BN quan trọng
hơn đối với sự kiện nếu so với nó (khi có giới từ) chỉ là một điểm quy chiếu cho vị trí hoặc chuyển
động của chủ ngữ” [151, tr.99]. Tính nhấn mạnh thông tin nổi trội (salient) nhưng hạn chế lượng thông
tin khi dùng VT có kết hợp với giới từ và đặc tính ngược lại của VT không kết hợp với giới từ cũng
được một số tác giả trong nước có đề cập tới. Chẳng hạn, tác giả Diệp Quang Ban đã thấy sự khác nhau
(Thương nhớ mười hai, Vũ Bằng)
đáng kể giữa phải gắn bằng xi măng thì mới chắc với gắn xi măng chính ở chỗ câu trước có tác dụng
nhấn mạnh [15, tr.110]. Tuy nhiên có tác giả lại cho rằng khi đi với một VT cụ thể nào đó, thì sự có
mặt giới từ sẽ giúp cho câu tăng thêm lượng thông tin [55, tr.126]. Quan niệm này chúng tôi không tán
đồng mà lí do đã giải thích ở trên.
Tóm lại, trong tiếng Việt vì có khá nhiều VT có thể xen hoặc không xen giới từ vào trước thành
phần BN bắt buộc của chúng, chúng ta không thể đề cao hay lạm dụng phương pháp nhận diện này
được.
Để nhận diện thành phần sau các VT chúng ta cũng có thể dùng thủ pháp lược (x. mục 2.1.1.1).
Nói chung nếu thành phần đang xét có thể lược bỏ thì đó là thành phần phụ của một VT NĐ, ngược lại,
nếu việc lược làm câu đang xét trở nên không hoàn chỉnh (cả phương diện ngữ pháp và phương diện ý
nghĩa) thì chúng ta phải xem đây chính là thành phần BN bắt buộc. Thao tác này đã được O. Jespersen
dùng để phân biệt BN trực tiếp với BN gián tiếp trong tiếng Anh (x [98, tr.56-57]) và cũng có thể ứng
dụng đối với tiếng Việt cũng như nhiều ngôn ngữ khác. Thực ra khi dùng thủ pháp lược để nhận diện,
chúng ta đang sử dụng những cơ sở thuộc bình diện khác để phân biệt VT NĐ và VT NgĐ, đó là số
lượng diễn tố (x. mục 2.1.2). Hơn nữa, thủ pháp này chỉ mới cho ta biết thành phần đứng sau có phải là
thành phần bắt buộc hay không mà thôi. Nó chưa đủ cơ sở để ta quyết định VT trước nó là VT NĐ hay
VT NgĐ. Bởi một BN bắt buộc có thể vẫn có giới từ đi trước và điều này có nghĩa rằng VT đi trước nó
vẫn cần phải coi là VT NĐ (theo tiêu chí hình thức ngữ pháp của Jespersen), chẳng hạn: Họ lên trên
lầu. Chỉ khi thành phần BN bắt buộc đồng thời là BN trực tiếp (tức không có giới từ đứng trước),
chúng ta mới có thể kết luận VT chi phối nó là VT NgĐ (x. mục 2.3).
(2) Khó khăn trong việc xác định tư cách cú pháp của VT trong cấu trúc “N + N’ + VT” (trong
đó N, N’ là các (ngữ) danh từ). Cấu trúc này buộc chúng ta, nếu chỉ dùng một tiêu chí cú pháp, sẽ phải
hoặc xử lí VT trong cấu trúc là VT NĐ hoặc là VT NgĐ có BN trực tiếp được chuyển lên trước. Tuy
nhiên tư cách cú pháp của ngữ đoạn N (thường được gọi là khởi ngữ/ từ-chủ đề/ đảo ngữ/ Đề) lại được
hiểu rất khác nhau trong giới Việt ngữ học. Việc xác định tư cách cú pháp của ngữ đoạn N và mối quan
hệ cú pháp với VT (nếu có) sẽ cho phép xác định VT này là VT NĐ hay VT NgĐ. Điều này khó có thể
giải quyết thoả đáng chỉ bằng tiêu chí hình thức cú pháp (chi tiết x. mục 2.3.1).
(3) Khó khăn cuối cùng là hiện tượng giới từ được sử dụng khá linh hoạt, tùy ý. Việc xem nhẹ
tiêu chí [±giới từ] để nhận diện BN sẽ làm mất đi nguyên tắc triệt để của việc phân loại; ngược lại nếu
tuân thủ tiêu chí [±giới từ] để nhận diện BN sẽ phải đưa vào danh sách VT NĐ một số rất lớn VT vốn
thoả mãn các tiêu chí khác của VT NgĐ.
Những khó khăn nêu trên cho thấy sự cần thiết sử dụng vai nghĩa làm “phép thử” để có được sự
phân định chính xác VT thành VT NĐ và VT NgĐ, hạn chế tối đa các ngoại lệ.
2.1.2. Đối lập VT NĐ/ VT NgĐ dựa trên vai nghĩa
Điều cần thấy trước tiên, vai nghĩa không phải là tiêu chí để xác định một VT là NĐ hay NgĐ
bởi vai nghĩa là một phạm trù thuộc về bình diện nghĩa (bình diện cấu trúc nghĩa của VT). Sự lẫn lộn
giữa các bình diện sẽ làm mất đi tính khách quan, triệt để trong việc xác định một phạm trù ngữ pháp
cũng như xác định một phạm trù ngữ nghĩa. Tiêu chí xác định phạm trù NĐ/ NgĐ, nếu vẫn muốn coi
đó là một phạm trù ngữ pháp, là tiêu chí hình thái và cú pháp (với ngôn ngữ không biến hình như tiếng
Việt đó là tiêu chí cú pháp) – tức là tiêu chí đã được giới thiệu trong mục 2.1.1. Tuy nhiên điều này
không có nghĩa là không thể dựa trên những yếu tố thuộc về bình diện nghĩa để kiểm chứng hay để
phân loại chi tiết hơn các phạm trù ngữ pháp. Và thực tế, trong việc phân định đối lập giữa NĐ với
NgĐ, việc dựa vào số lượng và đặc tính ngữ nghĩa của diễn tố trong cấu trúc nghĩa của VT đang xét có
tác dụng đáng kể, trong một số trường hợp, có vai trò quan trọng.
2.1.2.1. Đặc điểm các vai nghĩa của VT NĐ
(1) VT NĐ điển hình
Chúng tôi gọi những VT vô trị và VT đơn trị là những VT NĐ điển hình. Nhóm VT này được
hầu hết các nhà ngữ pháp nhất trí trong việc xác định tư cách cú pháp của chúng (đều xem chúng là VT
NĐ).
Do khả năng tự mình làm thành phần Thuyết, trong phần lớn trường hợp, VT NĐ thường chỉ cần
một diễn tố.
16. a. Bông hoa ấy đang nở.
b. Chiếc ghế đã cũ.
c. Nam ngủ nhiều.
Diễn tố duy nhất ấy thường giữ vai Đề trong cấu trúc cú pháp. Diễn tố ấy là một vai nghĩa tùy ý.
Nó có thể là tham tố động vật (animate) như câu (c), hay bất động vật (inanimate) như câu (a), (b), (d).
Tất nhiên, với một VT cụ thể, sự lựa chọn ấy bao giờ cũng bị giới hạn.
Như vậy, VT có một diễn tố bao giờ cũng là VT NĐ. Đây là một cơ sở quan trọng để góp phần
kiểm chứng những trường hợp khi mà tiêu chí hình thức ngữ pháp không thể xác định (ngữ) danh từ
đứng sau một VT là thành phần BN trực tiếp hay trạng ngữ. Việc ngữ pháp hình thức sử dụng thủ pháp
lược để phân định, về bản chất chính là dựa vào việc xác định thành phần nghi vấn là diễn tố hay chu
tố. Chỉ có thành phần đóng vai trò chu tố trong cấu trúc VT mới có thể lược bỏ, còn thành phần đóng
vai trò diễn tố thì không bao giờ có thể lược bỏ (ngoại trừ câu nói đang xét nằm trong một ngôn cảnh
hay ngữ cảnh nào đó cho phép). Việc nhận diện một VT có một diễn tố, như vậy, có thể coi là một điều
kiện cần và đủ để xác định VT đang xét là VT NĐ.
d. Tuyết trên cành đang tan.
Ngoài ra, VT NĐ có thể là những VT không có diễn tố (VT vô trị). Trong những câu đặc biệt,
những câu chỉ có một thành phần là VT, VT duy nhất đó cũng chính là VT NĐ.
17. Gió.
Mưa.
Não nùng. (Anh Xẩm, Nguyễn Công Hoan)
(2) VT NĐ kém điển hình
Ngoài các VT vô trị hoặc đơn trị, một số VT NĐ có thể có hai hoặc hơn hai diễn tố. Các VT
trong nhóm này có thể xem là những VT NĐ kém điển hình. Lí do của việc dùng khái niệm trên là do
các VT nhóm này vốn là những VT NgĐ theo tiêu chí ngữ pháp miêu tả truyền thống (nghĩa là chúng
thường đi với một BN trực tiếp), tuy nhiên, trong một số trường hợp chúng lại có thể kết hợp với một
giới từ đi trước BN ấy. Để nhất quán với hệ tiêu chí đã đưa ra, chúng tôi gọi các VT này là các VT NĐ.
Tham tố giữ vị trí Đề trong cấu trúc có VT NĐ kém điển hình thường là những tham tố động vật.
Tham tố còn lại là tùy ý về phương diện ngữ nghĩa (có thể có đặc tính [±động vật]) nhưng lại bắt buộc
phải xuất hiện ở bình diện cấu trúc cú pháp (là BN bắt buộc). Các VT tiêu biểu trong nhóm này là: bàn
bạc (về), chửi (vào/ lên), thảo luận (về), nghiên cứu (về), tính toán (về), v.v (x. phụ lục 2).
Cũng thuộc vào nhóm VT NĐ là những từ thuộc nhóm VT tương hỗ có giới từ ngăn cách chúng
với BN (kiểu, nói chuyện với nhau, thương lượng với nhau, thi đấu với nhau, tranh luận với nhau, v.v).
18. a. Họ bàn kế hoạch đánh I rắc.
a'. Họ bàn về kế hoạch đánh I rắc.
b. Hai người tranh luận với nhau suốt ngày.
Sự khác nhau giữa bàn với bàn về ở chỗ chủ thể của VT bàn (họ) có trách nhiệm đối với nội dung
được thể hiện ở BN phía sau (kế hoạch đánh I rắc) trong khi đó bàn về thường không hàm ý điều này.
Điều này có nghĩa là ai cũng có thể bàn về ‘kế hoạch đánh I rắc’, và kế hoạch này không hề bị ảnh
hưởng gì bởi họ cả. Chúng tôi coi sự đối lập giữa các cặp bàn với bàn về, thảo luận với thảo luận về,
nghiên cứu với nghiên cứu về, v.v. là sự đối lập giữa [±thẩm quyền]. Điều này có thể thấy rõ nếu ta
thực hiện một thao tác mở rộng nhỏ: thêm “của Mĩ” vào sau câu (a) và (a’). Kết quả là việc mở rộng
câu (a) thành “Họ bàn kế hoạch đánh I rắc của Mĩ” tạo ra một câu không được chấp nhận; trong khi đó,
việc mở rộng câu (a’) thành “Họ bàn về kế hoạch đánh I rắc của Mĩ” lại tạo ra một câu hoàn toàn có
thể chấp nhận, hơn nữa câu tạo mới này lại còn loại trừ được cách hiểu nước đôi có thể có ở câu gốc
(câu a’). Sự đối lập [±thẩm quyền] có thể nhận thấy trong một số cặp đối lập như đã giới thiệu trên.
Tuy nhiên để xác lập đầy đủ những cặp VT có sự đối lập như vậy, cần phải nghiên cứu đầy đủ, chi tiết
trên phạm vi ngữ liệu rộng hơn.
b'. *Hai người tranh luận nhau suốt ngày.
Câu (b) phản ánh một hiện tượng khá đặc thù trong tiếng Việt, ít nhất là khác với tiếng Anh (x.
mục 3.2), đó là phần lớn các VT tương hỗ có giới từ (với) chèn giữa VT với BN bắt buộc phía sau.
Cách dùng thiếu tự nhiên trong câu (b’) chứng minh cho điều này.
2.1.2.2. Đặc điểm các vai nghĩa của VT NgĐ
Phần lớn VT có hai diễn tố thường là những VT NgĐ. Trong đó một diễn tố đóng vai trò là Đề
trong cấu trúc cú pháp, diễn tố còn lại là một BN trực tiếp. Tuy nhiên cũng có một vài ngoại lệ, chẳng
hạn các VT chuyển động có hướng, VT tồn tại, VT phản thân, v.v. mà chúng tôi sẽ trình bày dưới đây.
Và tư cách cú pháp của các nhóm VT này cũng thường là tâm điểm của các cuộc tranh luận trong giới
Việt ngữ học.
Ngoại trừ một số VT căn cứ vào tiêu chí hình thức không được coi là NgĐ nhưng vẫn có hai diễn
tố (x. (2) mục 2.1.2.1) còn lại tất cả các VT thoả mãn tiêu chí hình thức và có hai diễn tố đều là VT
NgĐ.
Tuy nhiên trong tiếng Việt, những VT thuộc các nhóm: VT chuyển động có hướng, VT phản
thân, VT trạng thái, v.v. lại thường gây nên những cuộc tranh cãi kéo dài về tư cách cú pháp (chúng là
VT NĐ hay là VT NgĐ?). Kết hợp tiêu chí hình thức (x. mục 2.1.1) với tiêu chí vai nghĩa, chúng tôi
cho rằng có thể dùng khái niệm NgĐ điển hình và NgĐ kém điển hình của T. Givón (1984) để miêu tả,
phân loại các VT NgĐ trong tiếng Việt.
(1) VT NgĐ điển hình
Với cố gắng hình thức hoá các khuôn mẫu chứa VT NgĐ, J. Lyons cho rằng: “Một số kết cấu
NgĐ trong ngôn ngữ là cơ bản theo nghĩa là chúng có cả chủ ngữ cấu trúc chìm và tân ngữ (tức BN
trực tiếp) cấu trúc chìm. Các kết cấu khác đều là phái sinh; và tân ngữ của chúng là chủ ngữ cải biến
không tác thể, một chỗ (tức một diễn tố) […]” [58, tr.600]. Cũng suy nghĩ tương tự, T. Givón cho rằng
những VT thoả mãn hai tiêu chí: (i) có chủ ngữ mang vai Tác thể; (ii) có BN mang vai Bị thể biến đổi
(patient of change) là những VT NgĐ. Nội bộ nhóm VT NgĐ điển hình, theo tác giả, có thể phân thành
nhiều tiểu loại phụ thuộc vào kiểu dạng thay đổi được thể hiện ở BN (x. mục 1.3.1.2).
Về việc xác định VT NgĐ điển hình trong tiếng Việt, hai tiêu chí mà T. Givón đưa ra như vừa
trình bày là chưa đủ (và hai tiêu chí này cũng chỉ thuần tuý là cơ sở bổ sung bởi chúng chỉ là những
tiêu chí nghĩa). Tiêu chí VT NgĐ điển hình, theo chúng tôi, phải là những VT vừa thoả mãn tiêu chí
hình thức vừa thoả mãn hai tiêu chí trên (bởi trong tiếng Việt có hiện tượng một số VT có Đề mang
vai Tác thể, có BN mang vai Bị thể biến đổi nhưng xét về mặt hình thức cú pháp thì BN ấy không phải
là BN trực tiếp, x. phần dưới).
Phân loại VT trong tiếng Việt, chúng tôi cũng không dựa trên danh sách các tiểu loại mà T.
Givón, cũng như một số tác giả khác đề xuất. Theo hướng này, các VT NgĐ điển hình trong tiếng Việt
có thể chia thành hai nhóm lớn sau.
- VT hành động chuyển tác
Trong “Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng”, tác giả Cao Xuân Hạo đã dùng khái niệm
chuyển tác để chỉ một trong các nhóm VT hành động [32, tr.235-237], hướng đi này đã được Nguyễn
Thị Quy chi tiết hoá trong chuyên luận “Vị từ hành động trong tiếng Việt và các tham tố của nó” [71,
tr.77-81; 111-147]. Đặc điểm của nhóm VT này như sau. BN trực tiếp của chúng là những tham tố bị
biến đổi, nghĩa là sự vật, người, hiện tượng trong vị trí BN có sự thay đổi so với trước khi hành động
(VT) của chủ thể (Đề) xảy ra. Trong những trường hợp thông thường, các VT loại này thường bao gồm
hai diễn tố. Nói chính xác hơn, về bản chất, một VT thuộc nhóm này đòi hỏi hai diễn tố: một diễn tố
đóng vai trò là Tác thể, một diễn tố đóng vai trò là Bị thể biến đổi. Về dấu hiệu hình thức, trật tự phổ
biến là:
Đề (Tác thể) + VT + BN (Bị thể biến đổi) (+ BN gián tiếp)
Trong cấu trúc này, BN gián tiếp không phải là yếu tố bắt buộc.
Mô hình trên thường là bắt buộc trong những câu khẳng định, trần thuật. Tuy nhiên, vì những lí
do dụng học, vị trí các diễn tố có thể được thay đổi. Chẳng hạn, “Cột điện bị sét đánh kìa!”. Ở đây,
diễn tố chỉ đối tượng (Bị thể biến đổi) đã được chuyển lên đầu câu, còn trật tự Đề và VT thì vẫn giữ
nguyên. Một kiểu câu khác thường làm cho sự xuất hiện các diễn tố không đầy đủ, đó là trường hợp
trong các câu mệnh lệnh. Chẳng hạn, “Đánh chết nó đi!”. Diễn tố chỉ Tác thể lúc này vắng mặt. Ở đây,
cần phải hiểu diễn tố theo cách mà M. Halliday dùng: diễn tố là tham tố cố hữu, có sẵn trong nghĩa của
VT nhưng không nhất thiết lúc nào cũng phải xuất hiện trên bề mặt câu nói (x. mục 1.2.2). Trong ví dụ
19, có một diễn tố ngầm ẩn đóng vai trò là Tác thể và là người giữ ngôi thứ hai trong ngữ cảnh giao
tiếp trên.
19. Nam sửa xe (cho Lan).
– VT quá trình chuyển tác
Loại VT này, giống như VT hành động chuyển tác, cần một BN trực tiếp không có giới từ. Về
đặc điểm ngữ nghĩa, loại VT này cũng cần ít nhất hai diễn tố và Bị thể cũng có biến đổi (bị tác động)
so với trạng thái trước khi quá trình xảy ra. Tuy nhiên vai thứ nhất ở đây không phải là Tác thể chỉ
người mà là một vai nghĩa mang đặc tính như là Lực (force) [32, tr.238-239], hay là một tham tố có đặc
tính tiềm năng (potentiality), theo cách dùng của W. Chafe [10, tr.139-140].
20. a. Gió mở tung cửa sổ.
b. Lửa lớn thiêu trụi cánh rừng.
Liên quan đến VT chuyển tác, có một nhóm VT chuỗi được hình thành từ một số VT thuộc các
loại khác nhau. Chúng tôi xác định những VT chuỗi này được cấu tạo theo mô hình “‘làm’ + X” trong
đó cả làm và X đều là những VT. Thực ra, kết cấu này đã được một số tác giả đề cập đến. Chẳng hạn,
trong chuyên luận “Động từ trong tiếng Việt”, Nguyễn Kim Thản đã đề cập tới một kiểu tạo động từ
ghép theo quan hệ chính phụ mà xét về mặt nghĩa tác giả gọi chúng là những động từ phức. Một trong
số các ví dụ tác giả nêu ra có liên quan đến kiểu tạo từ chúng tôi đang xét: làm già. Theo tác giả, về
cấu trúc “giữa từ ghép loại này thì không xen gì được” – nghĩa là chúng có cấu trúc chặt chẽ; và “xét
về mặt nguồn gốc của các thành tố, A bao giờ cũng là động từ, còn B nói chung là tính từ” [82, tr.48].
Trong ví dụ trên, A = làm, B = già. Nhận xét vừa dẫn mặc dù đúng với những trường hợp được nêu ra
(coi thường, ăn non, ăn gian, làm già, v.v) nhưng chưa bao quát được các kiểu dạng vốn rất phong phú
của cách tạo từ mà chúng ta sẽ đề cập. Như vừa nói ở phần trên, chúng ta không xét đến các kiểu tạo từ
có sử dụng yếu tố làm như làm ăn, làm lụng. Kiểu đầu là từ ghép đẳng lập và là từ phức; kiểu sau là từ
ghép chính phụ và là từ pha theo cách gọi của Nguyễn Kim Thản. Đối tượng chúng ta quan tâm là
những VT chuỗi có làm, nghĩa là cả làm và yếu tố theo sau (X) đều là VT. Dưới đây chúng ta sẽ lần
lượt khảo sát đặc điểm ngữ nghĩa-cú pháp của X để xem có thật sự tồn tại các quy tắc chi phối sự kết
hợp giữa chúng với làm hay không và cũng để xem VT chuỗi tạo mới (làm+ X) có đặc điểm cú pháp
như thế nào.
+ Kết cấu làm + VT tư thế. VT tư thế khi hoạt động ngoài cấu trúc có làm bao giờ cũng kết hợp
với Đề là tham tố động vật. Chúng có thể là VT NĐ hoặc NgĐ.
21. a. Bát Lê cầm gươm […] cúi mặt đứng im. (Chém treo ngành, Nguyễn Tuân)
b. Ngọc nhảy sang bên kia, nghiêng mình trên dòng nước.
Khi kết hợp các VT này với làm, chúng ta có một chuỗi VT dường như khó được chấp nhận:
(Hồn bướm mơ tiên, Khái Hưng)
22. a. *Họ làm nghiêng hắn.
Khi Đề của các VT như nghiêng, co, cúi, ngửa, v.v. là tham tố bất động vật, các VT này thường
là VT NĐ nhưng lúc này chúng không còn là VT tư thế mà là VT trạng thái:
b. *Họ làm co chân.
23. Hai chiếc lọng vàng nghiêng phủ xuống lá cờ […]
Chỉ trong những trường hợp này, các VT nêu trên mới có thể kết hợp với làm để tạo VT chuỗi:
(Khoa thi cuối cùng, Nguyễn Tuân)
24. Hố sụt làm nghiêng và chôn nguyên phần thân cây liễu.
(http://dantri.com/sukien)
Thực ra, nhóm các VT nói trên, khi được được dùng theo nghĩa trạng thái, có khả năng kết hợp
rất hạn chế với làm (x. phần dưới).
Từ những trường hợp đã phân tích trên, chúng ta thấy, X trong kiểu cấu tạo “làm + X” không bao
giờ là VT tư thế.
+ Kết cấu làm + VT trạng thái. Khi hoạt động ngoài cấu trúc làm + X, các VT trạng thái (X) có
thể kết hợp với Đề là tham tố động vật hay bất động vật. X có thể là VT NĐ hoặc VT NgĐ.
25. a. Con mèo này lười.
b. Hắn chán đời.
c. Lọ hoa vỡ.
Khi tham gia vào cấu trúc có làm, X cùng với VT làm chuyển thành tiểu loại VT hành động. Lúc
này Đề của VT chuỗi này có thể là một tham tố động vật, một tham tố động vật tính (từ dùng của W.
Chafe [10, tr.141]) hoặc tham tố mang đặc tính của một Khiến thể (causer). VT tạo mới này bao giờ
cũng là VT NgĐ, nghĩa là nó cần phải có một BN trực tiếp. BN này về phương diện ngữ nghĩa là tham
tố hứng chịu trạng thái mà nghĩa của VT X thể hiện:
d. Thùng đầy nước.
26. a. Nhưng cháu ở chùa làm phiền cụ và làm khó nhọc cho các chú tiểu […].
(Hồn bướm mơ tiên, Khái Hưng)
Như đã đề cập ở mục kết cấu làm + VT tư thế, một số VT như nghiêng, nằm, ngồi, đứng, v.v. có
thể nằm ở hai tiểu loại. Chúng là VT tư thế khi chúng kết hợp với Đề là những tham tố động vật và là
VT trạng thái khi chúng kết hợp với các Đề là tham tố bất động vật. VT chuỗi do kết hợp làm với các
VT vừa nêu bao giờ cũng là VT NgĐ có Đề là tham tố động vật:
b. Thấy hắn toan làm dữ cụ đành dịu giọng… (Chí Phèo, Nam Cao)
Khi là tham tố bất động vật, Đề thường mang đặc tính của một Khiến thể:
27. Họ làm nghiêng bức tường.
28. Sóng hất tung làm nghiêng đổ luôn cái đình làng.
Cũng như trường hợp VT chuỗi có Đề là tham tố động vật, VT chuỗi này có thể tách ra tạo thành
một kết cấu lỏng gồm hai BN trong đó X là một BN.
(Ngôi nhà ác ôn, Dương Đình Hùng)
29. Trận mưa to […] đã làm 6 cây cổ thụ trên địa bàn Hà Nội đổ và nghiêng thân.
Tuy nhiên, dường như việc chuyển nghĩa từ VT tư thế sang VT trạng thái (nghĩa là nhóm các VT
này khi kết hợp với Đề bất động vật) đã làm hạn chế khả năng kết hợp với làm. Các câu trong ví dụ sau
(http://cpv.org.vn)
được coi là không tự nhiên:
30. a. *Ảo thuật gia làm đứng chiếc gậy trên tay.
Có lẽ sẽ tự nhiên hơn nếu chúng ta nói:
b. *Người giúp việc đặt ngồi bức tượng vào góc tường.
31. a. Ảo thuật gia giữ chiếc gậy đứng trên tay.
b. Cô bế thốc cháu lên bộ ván, đặt nó ngồi yên trên đùi mình, [...].
Trong nhóm làm + VT trạng thái, có một số VT dường như là những ngoại lệ: làm duyên, làm bộ,
làm điệu, làm đỏm, làm dáng, làm căng, làm già, làm càn, làm ẩu, làm dữ, làm cứng, v.v. Không giống
với những VT khác trong nhóm, các VT chuỗi này vẫn là VT NĐ:
(Hòn đất, Anh Đức)
32. a. Cô ấy làm duyên với mọi người.
b. Bà ta thích làm dáng.
c.. Mình càng nhân nhượng thì hắn lại càng làm già.
Giải thích những trường hợp này là việc khó. Theo chúng tôi, X trong các ví dụ trên là những VT
trạng thái không mang tính thời đoạn [–durative]. Vì thế một số X trong nhóm VT này khi có thể mang
nghĩa thời đoạn, tức được tri nhận như có quá trình, thì chúng vẫn có thể kết hợp với làm để tạo thành
VT chuỗi NgĐ, tất nhiên, trong những trường hợp này, ý nghĩa của chúng đã có sự chuyển đổi ít nhiều
sang vùng nghĩa của các VT quá trình. Lúc này ngữ đoạn đứng sau VT chuỗi luôn là một tham tố bất
động vật.
d. Tôi không thích làm căng với anh.
33. a. Nam làm căng sợi dây để treo quần áo.
b. Họ nung những cuộn thép này trong thời gian dài để làm già chúng.
+ Kết cấu làm + VT quá trình. Khi ở ngoài cấu trúc có làm, VT quá trình có thể kết hợp với Đề
là tham tố bất động vật hay động vật; chúng cũng có thể là những VT NĐ hay VT NgĐ.
34. a. Đá tan.
b. Chiếc Titanic đang chìm dần.
c. Thằng bé mập ra từng ngày.
Trong trường hợp Đề là tham tố động vật, X hầu như không kết hợp với làm để tạo VT chuỗi.
Câu dưới đây không tồn tại trong tiếng Việt:
d. Sóng đẩy thuyền lên.
Với những trường hợp Đề của X là tham tố bất động vật, X kết hợp với làm để trở thành VT hành
35. *Thuốc bổ làm mập ra thằng bé từng ngày.
động. Khác với đặc tính của X, VT chuỗi được tạo mới kết hợp với Đề là tham tố động vật hoặc có đặc
tính của một Khiến thể. Và chúng bao giờ cũng là VT NgĐ:
36. a. Nam làm tan đá trong tủ lạnh.
b. Tảng băng khổng lồ va mạnh làm chìm chiếc Titanic xấu số.
c. Hắn đâu biết đã phá bao nhiêu cơ nghiệp, […] làm chảy máu và nước mắt của bao nhiêu người
lương thiện. (Chí Phèo, Nam Cao)
+ Kết cấu làm + VT hành động. Theo cách phân loại truyền thống, X là VT “lưỡng tính” – tức là
VT có hai cách dùng: NĐ và NgĐ. Nó là VT NĐ khi Đề là một tham tố không phải là người (non-
human):
Và nó là VT NgĐ khi Đề của nó là một tham tố người (human) hoặc tham tố có thể hiểu dùng chỉ
người:
37. Một gian hàng bé thuê lại của bà lão móm, […] (Hai đứa trẻ, Thạch Lam)
38. a. Cháu đã thuê thằng Sang đi thay cháu.
(Tinh thần thể dục, Nguyễn Công Hoan)
b. Ủy ban thuê mấy anh thợ đấu mỗi người ba ngàn […].
Khi X tham gia làm VT chuỗi thì VT được tạo mới bao giờ cũng là VT NĐ và vẫn thuộc tiểu loại
VT hành động:
(Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường)
Không giống như một số kiểu VT chúng tôi vừa đề cập, kiểu cấu tạo từ này có khả năng sản sinh
quá thấp. Cho đến nay, ngoài thuê, chúng tôi mới chỉ tìm được một VT khác gần nghĩa: mướn ([...]
thầy bòn vườn đất với làm thuê làm mướn thêm cho người ta thế nào cũng đủ ăn […] – Lão Hạc, Nam
Cao).
Dùng một VT kết hợp với làm để tạo VT chuỗi là một hiện tượng phổ biến trong tiếng Việt. Cho
dù hiện tại chúng ta chưa tìm ra được những quy luật có khả năng giải thích trọn vẹn, thuyết phục tất
cả các trường hợp liên quan đến đặc điểm, phương thức tạo từ thú vị này nhưng có những quy tắc nhất
định chi phối chúng. Theo chúng tôi, những nhận xét sơ bộ sau là có cơ sở.
Thứ nhất, X (VT cơ sở) trong kiểu tạo từ này không bao giờ là VT tư thế và cũng rất ít khả năng
là VT hành động. Không tính đến VT tư thế, công thức chung khái quát đặc điểm cấu tạo cho các
nhóm VT còn lại là làm + VT [–hành động] = VT chuỗi.
Thứ hai, ngoài vài ngoại lệ, VT chuỗi tạo mới và VT cơ sở khác nhau về tiểu loại. Nói cách
khác, có một sự chuyển tiểu loại xảy ra từ VT cơ sở khi chuyển sang VT chuỗi được tạo mới. Sự
39. Lão làm thuê để kiếm ăn. (Lão Hạc, Nam Cao)
chuyển loại này đi theo hướng từ VT [–hành động] sang VT [+hành động]. Giải thích điều này có thể
dựa vào cơ sở ngữ nghĩa: làm vốn là VT hành động, nó ngầm ẩn khả năng lựa chọn một tham tố động
vật ở vị trí Đề, do đó, không kết hợp với những VT [+hành động]. Kết hợp với những VT [–hành
động], làm sẽ mở rộng khả năng diễn đạt của các VT này.
Thứ ba, khi một VT có sự chuyển nghĩa (hoặc chuyển tiểu loại), khả năng kết hợp với làm để tạo
thành VT chuỗi cũng bị hạn chế.
Thứ tư, trong phần lớn các trường hợp, “làm + X” thường là VT NgĐ, nghĩa là cần một BN trực
tiếp. Đề của VT chuỗi, xét về đặc tính ngữ nghĩa, thường là các tham tố động vật hoặc có đặc tính của
một Khiến thể.
Cuối cùng, chúng ta cũng thấy trong nhiều trường hợp VT chuỗi “làm + X + (ngữ) danh từ”
được coi là tương đương với một kiểu diễn đạt khác, “làm + (ngữ) danh từ + X”, trong đó (ngữ) danh
từ và X có quan hệ Đề-Thuyết với nhau. Tuy nhiên hai cấu trúc này không phải là biến thể của nhau.
Bởi vì ngoài một số cấu trúc “làm + X + (ngữ) danh từ” có thể chuyển sang cấu trúc “làm + (ngữ)
danh từ + X” mà không có sự thay đổi lớn về nghĩa (làm nghiêng, làm cong, làm đổ, v.v), một số VT
khác không thể chuyển sang cấu trúc này (các VT chuỗi là VT NĐ: làm duyên, làm căng (với ai), làm
già (với ai), làm nũng, làm càn, v.v).
Như vậy, những VT chuỗi “làm + X” có thể dùng như VT NgĐ đều là những VT có ý nghĩa tác
động thuộc nhóm VT chuyển tác và là những VT NgĐ điển hình.
(2) VT NgĐ kém điển hình
Như đã trình bày ở mục 1.2, VT có thể được phân loại dựa trên cơ sở ngữ nghĩa. Cũng dựa trên cơ
sở ngữ nghĩa nhưng một số tác giả lại chú ý đến mức độ thoả mãn tính “tác động” của VT đang xét, hoặc
thoả mãn những đặc điểm về ngữ nghĩa của các vai nghĩa tham gia cấu trúc nghĩa của VT. Người đã đặt
một dấu ấn nổi bật trên hướng đi này là P. Hopper và S. Thompson (1980). Thay cho việc đưa ra một
hoặc một vài tiêu chí như ngữ pháp truyền thống đã áp dụng, các tác giả đã đưa ra một chùm mười tiêu
chí để xác định tính NgĐ của VT (cụ thể x. mục 3.3) và điều này cũng đồng nghĩa với việc xem tính
NgĐ của VT chỉ là tương đối – tùy theo mức độ thỏa mãn các tiêu chí [163, tr.252]. Cũng hướng đi trên,
T. Givón đã sử dụng khái niệm NgĐ kém điển hình để chỉ những VT NgĐ có BN không mang vai Bị thể
(x. mục 1.2.2.1). Ông đã đưa ra danh sách bảy nhóm VT NgĐ kém điển hình sau.
(i) Những VT có BN trực tiếp chỉ vị trí (locative direct object);
(ii) Những VT có BN trực tiếp chỉ vị trí hoặc Tiếp thể và một Bị thể ngầm ẩn (implied patient);
(iii) Những VT chỉ một phần chuyển động của chủ ngữ (a moving part of the subject);
(iv) Những VT có chủ ngữ là một Nghiệm thể – Dữ cách (dative-experiencer subject);
(v) Những VT có BN tương hỗ (reciprocal/ associative object);
(vi) VT “have” (có);
(vii) Những VT có BN đồng căn (cognate object).
Khảo sát tiếng Việt chúng tôi nhận thấy có một số khác biệt cả ở số lượng nhóm và danh sách VT
trong từng nhóm. Cụ thể, VT NgĐ kém điển hình có thể chia thành các nhóm sau đây.
- VT chuyển động có hướng kết hợp bổ ngữ chỉ vị trí
Nhóm từ chuyển động có hướng (như: ra, vào, lên, xuống, sang, tới, đến, v.v) đã sớm được các
nhà Việt ngữ học quan tâm. Một số tác giả chú ý tới chúng với tư cách là những VT chuyển động có
hướng, một số tác giả khác lại chú ý tới chúng với tư cách là những yếu tố đi kèm VT, tức phụ VT
(coverb), một số tác giả chú ý tới cả hai tư cách của nhóm từ này. Có tác giả [46, tr.209] còn chú ý đến
mối quan hệ chuyển hoá có tính lịch đại giữa cách dùng như là những phụ VT và cách dùng như là
những VT độc lập của các từ trong nhóm.
Điều dễ nhận thấy qua các công trình nghiên cứu về nhóm từ này là các tác giả đã khảo sát khá
kỹ tư cách phụ VT của chúng. Những đặc điểm ngữ nghĩa, lô gích, tâm lí tri nhận chi phối việc sử
dụng chúng cũng đã được nghiên cứu sâu với nhiều phát hiện lí thú ([37, tr.44-48]; [44, tr.118-127];
[46, tr.104-111]; [66, tr.81-85]; [88, tr.4-8]).
Hoạt động cú pháp của các thành viên trong nhóm từ này với tư cách là những VT độc lập cũng
được một số tác giả đề cập tới ([25]; [66]; [81]; [191]). Chẳng hạn, Nguyễn Kim Thản gọi những VT này
là những “động từ nửa tác động” và là “động từ chỉ phương hướng vận động” [81, 134-138], Đinh Văn
Đức cũng xếp chúng vào loại VT chuyển động và gọi chúng là những “động từ bao hàm cả hướng
chuyển động” [25, tr.120-121]. V. Panfilov cho rằng những từ nhóm này rõ ràng là những động từ bởi
chúng mang những thuộc tính vốn có của động từ, mỗi từ này đều “[…] có thể là hạt nhân của kết cấu
động từ, biểu thị hành động trong động từ tình thái và hành động khách thể trong động từ nguyên nhân,
chẳng hạn, tôi về nhà, tôi muốn về nhà, tôi rủ anh về nhà” [66, tr.81]. S. Srichampa thì khẳng định tư
cách VT độc lập của các VT trong nhóm trên dựa vào ba đặc tính: (i) chúng có thể bị phủ định bởi tác tử
phủ định không; (ii) chúng có thể được bổ nghĩa bởi một số trạng từ đi trước như còn, cũng, v.v; (iii)
chúng có thể kết hợp với các trợ VT sẽ, đã ở phía trước [202, tr.81].
Nói chung, nhiều nhà Việt ngữ học đã đề cập tới nhóm từ chuyển động có hướng ở tư cách là
những phụ VT. Tư cách là những VT độc lập chưa được khảo sát nhiều và thường nghiêng về phương
diện ngữ nghĩa, lô gích, tri nhận. Hoạt động cú pháp của chúng chưa được chú ý đúng mức. Dưới đây
chúng tôi sẽ chú ý xem xét tư cách cú pháp của các VT chuyển động có hướng.
40. a. Dân làng xúm nhau lên rừng để nhìn tận nơi.
(Bắt sấu rừng U Minh Hạ, Sơn Nam)
Đối với các VT trong ví dụ trên, có hai giải pháp: (i) xem chúng là những VT NĐ và ngữ danh từ
đứng sau là thành phần trạng ngữ; (ii) xem chúng là những VT NgĐ và ngữ danh từ đứng sau là BN
trực tiếp.
Nếu chọn giải pháp (i), tiêu chí hình thức quan trọng nhất để xác định VT NĐ sẽ bị vi phạm
(không kết hợp với BN trực tiếp). Hơn nữa, nếu coi các (ngữ) danh từ đứng sau VT là trạng ngữ thì
không giải thích được tư cách diễn tố của chúng. Việc chọn giải pháp (ii) phù hợp với quan niệm của
các nhà ngữ pháp hình thức. Tuy nhiên nhóm VT chuyển động có hướng cần phải xếp vào nhóm VT
NgĐ kém điển hình bởi vai nghĩa do ngữ danh từ làm BN đứng sau VT không phải là Bị thể biến đổi,
chúng đơn giản chỉ là Đích hay Vị trí.
Ngoài đặc điểm hoạt động cú pháp như VT NgĐ thực thụ theo tiêu chí hình thức cú pháp (ví dụ
40), các VT nhóm này còn có thể hoạt động như những VT NĐ.
41. a. Nghe bìm bịp kêu chúng tôi biết nước lên.
b. […] cha ra đằng mũi cầm sào. (Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư)
(Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư)
VT trong các câu trên hoàn toàn không cần BN bắt buộc đứng phía sau và cũng không cần đến
ngữ cảnh (vốn là điều kiện để các phát ngôn có thể lược bỏ các thành phần của chúng). Nói cách khác
chúng hoàn toàn có khả năng tự mình làm thành phần Thuyết. Mặc dù trong các trường hợp trên chúng
ta có thể thêm một ngữ đoạn có chức năng như BN (kiểu, Giá vàng xuống mười ngàn đồng một chỉ,
v.v.) nhưng cách dùng không có BN trong những câu này phổ biến hơn và rất tự nhiên đến mức cần
phải chấp nhận chúng là những kiểu câu độc lập. Tuy nhiên khả năng dùng các VT chuyển động có
hướng mà không có BN theo sau như trên không nhiều và có những quy tắc giới hạn nhất định. Theo
chúng tôi, ý nghĩa của các VT trong cách dùng này thường không còn là ý nghĩa chuyển động có
hướng không gian thuần chất nữa (theo nghĩa một sự chuyển động có hướng trong không gian bao giờ
cũng bao hàm một điểm xuất phát và một điểm đến và đó là hoạt động rời chỗ), ít nhiều chúng đã
chuyển sang ý nghĩa chỉ hướng trừu tượng. Dù sao, việc những VT trên có thể tự mình làm thành vị
ngữ càng thêm củng cố cho việc phải xếp chúng vào nhóm VT có hai cách dùng (x. mục 2.2).
Những VT chuyển động có hướng cũng có thể cho phép một giới từ đứng ngay sau chúng (trước
BN chỉ đích).
(http://24h.com.vn) b. Giá dầu giảm, giá vàng xuống theo.
42. a. Giá dầu lên trên 68 đô la/ thùng […].
(http://petrolimex.com.vn)
b. Tôi phải lên trên Đà Lạt. [128, tr.9]
c. Ra tới đường, Ngạn đi sát vào Năm Tấn, nói [...] (Hòn đất, Anh Đức)
d. Anh ấy ra ngoài Hà Nội.
VT trong các câu của ví dụ trên vẫn cần (ngữ) danh từ đi sau bổ nghĩa, hay đứng từ phương diện
cấu trúc ngữ nghĩa, các VT này vẫn cần phải có một diễn tố chỉ vị trí. Tuy nhiên chúng lại không mang
hình thức của những BN trực tiếp (chúng có giới từ đi trước). BN bắt buộc ở đây không phải là BN
trực tiếp. Sự thiếu vắng BN trực tiếp đã tước đi tư cách NgĐ của các VT trong những câu trên. Bàn về
sự có mặt trong những câu trên, học giả Phan Khôi coi đó là thói quen dùng sai, và là nhược điểm của
tiếng Việt. Bởi theo ông, lên trên Đà Lạt có nghĩa là đi quá Đà Lạt; ra ngoài Hà Nội có nghĩa là ra quá
Hà Nội… [44, tr.124-125]. Cách dùng trên có thể xem là một nét đặc thù của tiếng Việt ở phương diện
tri nhận. Người Việt xem ngữ danh từ chỉ vị trí, nơi chốn phía sau VT vừa như điểm đích của chuyển
động vừa như một điểm quy chiếu không gian xa vị trí người nói. Điều này rất khác với một số ngôn
ngữ khác, chẳng hạn tiếng Anh, mặc dù diễn tả các hoạt động chuyển động có hướng có thể dùng hình
thức VT kết hợp trực tiếp hay gián tiếp với BN (thông qua một giới từ) nhưng hầu như không cho phép
VT có quyền tuỳ ý kết hợp với giới từ.
43. a. Lan went into the classroom already.
[128, tr.96]
‘Lan vô phòng học rồi’
a’. *Lan went the classroom already.
b. I enter the house. [202, tr.78]
‘Tôi vào nhà’
Một đặc điểm khác là các VT chuyển động có hướng không thể tham gia vào ‘cấu trúc bị động’
(khả năng tham gia vào cấu trúc bị động được nhiều nhà ngôn ngữ học xem như là một tiêu chí nhận
diện VT NgĐ).
44. a. Họ lên lầu.
b’. *I enter into the house.
a'. *Lầu được tôi lên/ được lên bởi tôi.
b. Diễn viên ra sân khấu.
Với những đặc điểm về hoạt động cú pháp như trên, chúng ta có thể xem các VT chuyển động có
hướng là những VT kiêm nhiệm, nghĩa là chúng vừa có thể hoạt động như những VT NgĐ (kém điển
hình) vừa có thể hoạt động như những VT NĐ điển hình.
Việc sử dụng VT chỉ hướng theo cách NgĐ hay NĐ như trình bày trên chịu sự chi phối của những
quy tắc nhất định. Cách dùng NgĐ (có một ngữ đoạn danh từ làm BN đứng trực tiếp sau VT) thường
hàm ý chuyển động có đích. Do đó các ngữ đoạn giữ vai trò BN trong ví dụ 40 cần phải xác định là tham
b'. *Sâu khấu được diễn viên ra/ được ra bởi diễn viên.
tố Đích19. Trong khi đó cách dùng NĐ không điển hình (có giới từ xen giữa VT và ngữ đoạn danh từ làm
BN) thường hàm ý bổ sung thêm thông tin vị trí. Do đó các ngữ đoạn giữ vai trò BN trong ví dụ 42 cần
xác định là tham tố Vị trí. Cách dùng NĐ điển hình (không cần tới các ngữ đoạn BN bắt buộc như các
câu trong ví dụ 41) đòi hỏi chủ ngữ phải là một tham tố mang đặc tính [–động vật].
- VT không chỉ hướng nhưng có bổ ngữ chỉ vị trí
Nhóm này cần phân biệt với nhóm VT chỉ hướng có BN chỉ vị trí vừa đề cập ở chỗ các VT nhóm
trên là những VT mà ý nghĩa chỉ hướng thể hiện ngay trong nghĩa của VT – tức những VT thuộc kiểu dạng VT khung “framed verbs” theo cách phân loại của L. Tamy [208]20; trong khi đó những VT nhóm
này không chứa đựng ý nghĩa chuyển động có hướng – chúng chỉ là những VT hành động thuần túy
nhưng có khả năng kết hợp trực tiếp với một BN chỉ vị trí.
45. Hắn cưỡi ngựa.
Có thể nhận thấy sự khác biệt tinh tế về nghĩa giữa cấu trúc không chứa giới từ ở ví dụ trên với
cấu trúc tương tự chứa giới từ chỉ vị trí trong ví dụ dưới.
46. Hắn cưỡi trên lưng ngựa.
Câu 46 chỉ cung cấp về vị trí mà hắn cưỡi là ở đâu (trên lưng con ngựa). Sự có mặt của giới từ
trên có tác dụng nhấn mạnh trọng tâm thông tin về vị trí. Trong khi đó câu 45 không chỉ thông báo hắn
đang ngồi trên lưng ngựa mà còn gợi ra bao nhiêu liên tưởng: hắn điều khiển được ngựa, hắn có can
đảm,… Vì thế, khi nói về một đứa bé, thường ta chỉ nói Hắn cưỡi trên lưng ngựa chứ ít khi nói Hắn
cưỡi ngựa. Chính vì hàm lượng thông tin cao nên câu 45 mới có thể thêm vào các phó từ chỉ mức độ.
Chẳng hạn, ta cảm thấy tự nhiên khi nói: Hắn cưỡi ngựa rất giỏi trong khi sẽ là không tự nhiên thậm
chí không thể chấp nhận sự có mặt của một phó từ như vậy ở câu 46: *Hắn cưỡi trên lưng ngựa rất
giỏi. Cũng chính vì khi có mặt giới từ thì ý nghĩa của câu nói bị hạn chế nên phạm vi sử dụng của
chúng cũng bị thu hẹp. Tính nhấn mạnh thông tin nổi trội (salient) nhưng hạn chế lượng thông tin khi
dùng VT có kết hợp với giới từ và đặc tính ngược lại của VT không kết hợp với giới từ không chỉ quan
trọng ở chỗ tạo ra những khác biệt về phương diện ngữ nghĩa mà còn quan trọng ở chỗ tạo ra sự đối lập
về chức năng cú pháp cho VT trong cấu trúc chứa chúng (đối lập NĐ với NgĐ).
Với một số kết hợp không có giới từ, ý nghĩa chỉ đích của tham tố giữ vai trò BN sau VT bị mờ đi,
lúc này mối quan hệ giữa BN với VT trước nó chặt chẽ hơn đến mức hình thành những kết hợp ít nhiều
có tính thành ngữ. Đó chính là trường hợp của đi chợ, đi chùa, đi nhà thờ, đi biển, đi bệnh viện; đứng
19 Riêng ra, vào có cách dùng đặc biệt hơn so với các từ khác trong nhóm. Chúng vừa có thể kết hợp với một BN chỉ Nguồn (source) lại vừa có khả năng kết hợp với một BN chỉ Đích, như: Hắn vừa ra tù (Nguồn); Hắn (từ Huế) ra Hà Nội (Đích); Cô ta vừa xuống thuyền (thuyền là Nguồn nếu cô ta trên thuyền; thuyền là Đích nếu cô ta ở trên bờ). 20 L. Tamy đã dùng khái niệm VT khung để chỉ những VT chuyển động có chứa sẵn nghĩa chỉ hướng trong VT và VT biên (satellited verbs) để chỉ những VT chuyển động mà hướng chuyển động cần phải nhờ đến một phụ từ đi kèm.
máy, ngồi ghế chủ tọa, v.v. Những kết hợp trên tạo ra sự đối lập rất rõ nét với các cấu trúc tương tự có
kết hợp với giới từ và VT trong những cặp đối lập [±giới từ] cần phải xử lí như những VT có tư cách cú
pháp khác nhau. Để làm rõ những đối lập kiểu này, chúng ta có thể khảo sát VT đi và những cấu trúc có
liên quan.
47. a. Cô ấy đi chợ.
a’. Cô ấy đi tới chợ.
b. Cô ấy đi máy bay.
Đi trong câu (a) là VT NgĐ, nói khác, ngữ đoạn danh từ đứng sau nó (chợ) phải xem là BN trực
tiếp. Trong khi đó, đi trong câu (a’), (b’) là những VT NĐ điển hình. Dù sao, sau VT NĐ này vẫn có
thể có một ngữ đoạn danh từ làm trạng ngữ mà không cần đến giới từ như trong (b). Phía trước BN
trong câu này hoàn toàn có thể thêm vào giới từ mà không làm thay đổi nghĩa, thay đổi cách hiểu. “Cô
ấy đi máy bay” chỉ có thể hiểu là ‘cô ấy đi bằng máy bay’. Sự có mặt hay vắng mặt của giới từ trong
trường hợp này hoàn toàn có tính tuỳ ý (máy bay trong cả câu b và b’ đều mang vai Phương tiện
(means)). Trong khi đó, tình hình đối với những ngữ đoạn kiểu đi chợ và đi tới chợ lại hoàn toàn khác.
Có một sự khác biệt tinh tế và rất quan trọng giữa hai hình thức này. Chúng ta hãy xét các ví dụ sau:
48. a. Anh hãy đi tới chợ rồi rẽ phải.
b’. Cô ấy đi bằng máy bay.
a'. *Anh hãy đi chợ rồi rẽ phải.
b. Em đi chợ rồi mới nấu ăn được.
Đi trong đi chợ chỉ một hoạt động khái quát (khác với hoạt động di chuyển đơn thuần); trong khi
đó đi trong đi tới chợ chỉ mang nét nghĩa cơ bản là hoạt động rời chỗ, di chuyển bình thường. Chính vì
thế (a) và (b), chứ không phải (a’) và (b’), là những câu được chấp nhận.
Thực ra, sự giống nhau giả tạo về cấu trúc hình thức giữa đi chợ và đi máy bay đã che lấp sự khác
biệt bản chất giữa một cấu trúc chứa VT NĐ với một cấu trúc chứa VT NgĐ. Đi trong đi chợ cần đến
đến một diễn tố đóng vai trò BN trong khi đó đi trong đi máy bay không đòi hỏi (đúng hơn là không
có) một diễn tố như vậy. Máy bay trong đi máy bay chỉ là một ngữ đoạn đóng vai trò chu tố trong cấu
trúc nghĩa của VT đi. Đi chợ nằm trong trường liên tưởng đi chùa, đi biển, đi hàng (cấm),… hoặc nằm
trong trường các hoạt động nội trợ như dọn nhà, đón con, v.v. Trong khi đó, đi tới chợ nằm trong
trường các kiểu di chuyển có hướng như đi qua chợ, đi quanh chợ,… hoặc trong trường các kiểu vận
động cơ thể kiểu như nằm ở nhà, bước qua ghế, chạy quanh sân, v.v.
Sự đối lập về ý nghĩa giữa các cặp đi chợ với đi tới chợ, đi chùa với đi tới chùa, đi nhà thờ với đi
tới nhà thờ; đi trường với đi tới trường, v.v. tạo ra sự đối lập về tư cách cú pháp cho VT trong các cặp.
b'. *Em đi tới chợ rồi mới nấu ăn được.
Điều này khác với một số ngôn ngữ khác, chẳng hạn tiếng Anh, nơi mà cũng có sự đối lập tương tự về
ý nghĩa (giữa go to school ‘đi học’ với go to the school ‘đi tới trường’; go to church ‘đi nhà thờ’ với go
to the church ‘đi tới nhà thờ’; go to hospital ‘đi bệnh viện/ đi khám bệnh’ với go to the hospital ‘đi tới
bệnh viện’) nhưng không có sự đối lập về tư cách cú pháp cho VT – VT trong cả hai cách dùng đều là
VT NĐ; sự khác biệt chỉ ở [±mạo từ].
Trong các ngôn ngữ, danh sách những VT nhóm chuyển động không có hướng nhưng có BN chỉ
vị trí thường rất khác nhau. Chẳng hạn, trong tiếng Anh, T. Givón đã xếp vào nhóm này swim (bơi)
trong ví dụ “She swam the Channel” (Cô ta bơi qua Kênh đào) và luận giải nó theo nghĩa chinh phục/
vượt (qua). VT này sẽ chỉ một hoạt động cơ thể (bơi) khi nó không có BN hoặc khi kết hợp với giới từ
chẳng hạn across (ngang qua/ qua) trong “She swim across the Channel” – một câu đơn thuần miêu tả
việc cô bơi qua Kênh đào. Đối với tiếng Việt, bơi chỉ có thể nằm trong cấu trúc thứ hai (có giới từ) chứ
không thể kết hợp trực tiếp với BN chỉ vị trí như trong cấu trúc đầu (không có giới từ). Trong tiếng
Việt, chúng ta nói: “Cô ta bơi qua Kênh đào” chứ không nói “*Cô ta bơi Kênh đào”. Hệ quả là, để thể
hiện hàm ý nỗ lực, khen ngợi (để dịch câu “She swam the Channel”) chúng ta phải dùng đến một VT
khác: “Cô ta đã chinh phục (được) Kênh đào” hoặc nếu muốn giữ nguyên VT bơi cần phải có thêm
giới từ qua để chỉ hướng và phó từ được để chỉ kết quả tích cực: “Cô ta đã bơi qua được Kênh đào”.
- Vị từ chỉ hoạt động của các giác quan
Về hình thức, ngoài một phần nhỏ VT trong nhóm có thể kết hợp với các BN bắt buộc và được
dẫn nhập bằng giới từ (mà chúng tôi đã xếp vào nhóm VT NĐ kém điển hình), phần lớn VT còn lại có
thể kết hợp trực tiếp với BN. Về phương diện ngữ nghĩa, chúng ta không thấy có sự tác động từ chủ thể
của hành động đến đối tượng. Khi ta nhìn một ai hay một vật gì đó, khi ta nghe một tiếng động hay một
âm thanh nào đó thì những đối tượng này không vì hành động của ta vừa thực hiện mà bị thay đổi. Vì
vậy vai chủ thể hành động là Hành thể chứ không phải là Tác thể và đối tượng mà hành động hướng tới
thường được xem là Đích chứ không thể xem là Bị thể biến đổi được.
49. a. Hắn nhìn toà nhà.
b. Tôi nghe nhạc cổ điển.
Rõ ràng các BN toà nhà, nhạc cổ điển, dầu gió không phải là yếu tố bị tác động mà ngược lại là
yếu tố tác động đến chủ thể hành động. Vì thế có tác giả đề nghị xem chúng như là Nguồn hay Kích
thích tố (stimulus) [32, tr.235].
Mặc dù số lượng VT trong nhóm này không nhiều và chúng có hình thức rất giống với các VT
NgĐ điển hình (buộc phải có BN trực tiếp) nhưng với đặc trưng vai nghĩa ở vị trí BN trực tiếp như vừa
bàn VT nhóm này cần phải được xếp thành một nhóm VT NgĐ kém điển hình riêng.
c. Hắn ngửi dầu gió.
- Vị từ tồn tại
Những VT được dùng trong một số mẫu câu nhất định để diễn tả trạng thái tồn tại của một thực
thể trong một thời gian, không gian nào đó gọi là VT tồn tại.
50. a. Trên bàn có một lọ hoa.
b. Ngày xưa có một gia đình nghèo.
c. Trong túi còn mười ngàn đồng.
VT trong các câu trên có liên quan đến hai thành phần. Thành phần đi trước chỉ thời gian, không
gian (trên bàn, ngày xưa, trong túi, trước nhà), thành phần đi sau nêu đối tượng tồn tại (một lọ hoa,
một gia đình nọ, mười ngàn đồng, một bể nước). Đây chính là cấu trúc điển hình của câu tồn tại trong
tiếng Việt. Mặc dù đa phần các tác giả đều cho rằng cả hai thành phần này là cần yếu ([4]; [32]; [90];
[98]; [103]) nhưng chức năng cú pháp của chúng lại được hiểu không thống nhất. Có người cho rằng
không thể xác định chức năng cú pháp của chúng, hoặc không có thành phần nào là chủ ngữ vì VT tồn
tại không có chủ ngữ ([4]; [18]); có người cho rằng thành phần thứ nhất đóng vai trò là trạng ngữ, còn
thành phần thứ hai là chủ ngữ của câu [103]; một số tác giả xem thành phần thứ nhất đóng vai trò BN
bắt buộc còn thành phần thứ hai là chủ ngữ [98]; một số tác giả khác xem thành phần thứ nhất đóng vai
trò khung đề còn thành phần thứ hai đóng vai trò đối tượng tồn tại tức BN chỉ sự vật không xác định
([32]; [62]). Chính sự khác biệt này đã dẫn đến cách xử lí khác nhau về tư cách của VT đang xét. Diệp
Quang Ban xem VT tồn tại thuộc loại VT trạng thái và coi một số VT được dùng trong câu tồn tại đã
có sự chuyển nghĩa từ VT hành động sang VT trạng thái. Tuy nhiên sự chuyển đổi về kiểu loại ý nghĩa
phản ánh sự tình ấy có kéo theo sự chuyển loại từ VT NgĐ sang VT NĐ hay vẫn giữ nguyên lại không
được tác giả nói rõ. Những tác giả xem thành phần đi sau là chủ ngữ ([98]; [103]) đã gián tiếp xem đây
là các VT NĐ bởi khi chuyển ngữ đoạn này về vị trí chủ ngữ thì VT đang xét sẽ không có BN trực tiếp.
Trái với quan niệm trên, một số tác giả cho rằng câu tồn tại không có chủ ngữ ([18, tr.512-513]; [90,
tr.71-72]). Trương Văn Chình & Nguyễn Hiến Lê gọi câu tồn tại là “câu trống”, không có chủ ngữ
(chứ không phải bị tỉnh lược) vì trong ngữ pháp tiếng ta không có phép đảo ngược. Trần Ngọc Thêm
cho rằng “về bản chất” thành phần đứng sau VT chính là chủ thể [90, tr.71], nhưng “xét về mặt ngữ
pháp” và “xét về mặt chức năng”, thành phần đứng sau VT cần phải xử lí là BN bởi: (i) nó có mối quan
hệ gắn bó với VT; và (ii) nó cùng với VT tạo thành phần Thuyết (mà thuyết tính cũng là dấu hiệu điển
hình của BN) [90, tr.72]. Như vậy, dù không hiển ngôn, tác giả đã xem VT tồn tại là VT NgĐ.
Đồng ý với quan niệm cho rằng câu tồn tại không có Chủ đề (nhưng có Khung đề – một loại Nội
đề), thành phần đi sau VT là BN, chúng tôi xếp VT tồn tại là VT NgĐ nhưng là VT NgĐ kém điển
hình.
d. Trước nhà là một bể nước.
Nếu xem thành phần đứng sau VT tồn tại là chủ ngữ đảo sẽ không thể giải thích được sự thiếu tự
nhiên nếu không nói là dùng sai khi chúng ta chuyển thành phần “chủ ngữ” trở về vị trí “điển hình” của
chúng (đứng trước VT).
51. a. *Trên bàn một lọ hoa có.
a’. *Một lọ hoa có trên bàn.
b. *Ngày xưa một gia đình nọ có.
b’. *Một gia đình nọ có ngày xưa.
c. *Trong túi mười ngàn đồng có.
c'. ?Mười ngàn đồng có trong túi.
d. *Trước nhà một bể cá có.
Những ví dụ bất khả chấp trên càng khẳng định cần phải xử lí VT tồn tại như là VT NgĐ trong đó
thành phần đứng sau VT chính là thành phần BN.
d'. *Một bể cá có trước nhà.
- Vị từ có bổ ngữ đồng nguyên
Trong tiếng Việt, một ngôn ngữ không có sự phân biệt giữa căn tố (root) với tiếp tố (affix), khái
niệm “cognate object” (BN đồng căn) cần được hiểu là BN có chứa danh từ mang hình thức giống với VT phía trước nó21. Đứng trước danh từ đó thường có một danh từ chỉ loại đóng vai trò trung tâm về
cú pháp.
52. a. Hắn nhảy một điệu nhảy rất đẹp.
VT có BN đồng nguyên thường được phân thành hai loại chính: (i) loại vốn là VT NĐ (ví dụ a),
BN đồng nguyên lúc này về hình thức là BN nhưng có giá trị tương đương với một phó từ (điệu nhảy
rất đẹp = đẹp); (ii) loại vốn là VT NgĐ (ví dụ b), BN đồng nguyên với nó là những BN chính danh,
trong cấu trúc nghĩa của VT chúng là những diễn tố. Một số nhà ngôn ngữ học không xem các từ loại
(ii) là VT có BN đồng nguyên cho dù về hình thức chúng không có gì khác biệt với loại (i). Những
VT nhóm này vẫn được xem là VT NgĐ điển hình.
Danh sách cũng như hoạt động cú pháp của các VT có BN đồng nguyên trong các ngôn ngữ
thường rất khác nhau. Biểu hiện của điều này là ở ngôn ngữ L1, A có thể là một VT có BN đồng
nguyên trong khi đó ở ngôn ngữ L2, A lại thuộc về một loại khác. Điều này quan trọng ở chỗ, trong
21 Quan hệ ý nghĩa giữa danh từ này với VT trước nó khá phức tạp. Nếu xem chúng là đồng âm thì khó giải thích sự gần gũi về ý nghĩa giữa chúng. Sự giống nhau về hình thức giữa VT và danh từ trung tâm về ngữ nghĩa trên được chúng tôi xem là hiện tượng ‘nhất tự đa loại’ – nghĩa là hai hình thức xuất hiện đó là hai cách dùng (khác về từ loại) của một từ. Chúng tôi tạm gọi BN trong cấu trúc này là BN đồng nguyên.
b. Hắn hát một bài hát trữ tình.
tiếng Việt, chẳng hạn, vẽ trong “Hắn vẽ một bức tranh” là một VT NgĐ điển hình bởi không có sự
tương đồng nào về ý nghĩa cũng như hình thức giữa vẽ với bức tranh cả – bức tranh đơn giản là sản phẩm của hành động vẽ mà thôi; trong khi đó với tiếng Anh, paint trong “He painted a paint”22 là một
VT NgĐ kém điển hình bởi VT (paint) và danh từ làm BN (paint) có cùng hình thức (cùng gốc). Tuy
nhiên nếu ta đồng ý theo hướng phân chia VT đồng nguyên thành hai loại như trên thì vẽ trong cả hai
ngôn ngữ đều là VT NgĐ điển hình.
Hoa Pham (1999) đã chứng minh khá thuyết phục BN đồng nguyên trong tiếng Việt có thể đảm
nhận hai vị trí trong cấu trúc VT NgĐ: (i) BN trực tiếp (kiểu: Nó bó một bó củi); (ii) BN gián tiếp
(kiểu: Tôi nhớ Hiền với một nỗi nhớ sâu sắc). Mỗi loại này đều có những hoạt động cú pháp riêng. Tác
giả cũng chứng minh BN đồng nguyên trong những cấu trúc trên hoàn toàn có đầy đủ tư cách là những
tham tố do đó chúng là những ‘BN thực’ (từ dùng của tác giả) chứ không phải chỉ là yếu tố hình thức
trên bề mặt cú pháp [188, tr.229-245]. Tác giả cũng cho rằng những đặc điểm đó là dấu hiệu phản ánh
sự khác biệt giữa tiếng Việt với các ngôn ngữ khác. Những luận điểm đề xuất của tác giả về các kiểu
BN đồng nguyên và về tư cách NgĐ của VT có BN loại này có thể được chứng minh dễ dàng trong
thực tiễn sử dụng tiếng Việt.
Việc tách VT có BN đồng nguyên làm một tiểu nhóm của VT NgĐ nói riêng và việc tách VT
NgĐ ra thành VT NgĐ điển hình và kém điển hình rõ ràng là hữu ích về mặt khoa học cũng như thực
tiễn nhưng dù sao chúng ta cũng không quên rằng những khác biệt giữa VT NgĐ kém điển hình nói
chung và VT có BN đồng nguyên nói riêng so với VT NgĐ điển hình “chỉ là sự phân biệt ở phương
diện từ vựng chứ không phải là sự phân biệt về mặt hình thức ngữ pháp” – điều mà C. Fries [143,
tr.184] đã từng lưu ý.
- Vị từ có BN tương hỗ
Đây là những VT mà BN trực tiếp là một tham tố chỉ người cùng tham gia hoạt động. Hoạt động
thực hiện ở VT được thực hiện bởi cả tham tố ở vị trí chủ ngữ và vị trí BN.
Gặp trong ví dụ này có bản chất hoàn toàn khác với một VT như thấy, mặc dù cả hai có cấu trúc
bề mặt rất giống nhau. “Tôi gặp Lan” có nghĩa là Lan cũng “gặp” tôi, tuy nhiên “tôi thấy Lan” chưa
hẳn là Lan “thấy” tôi.
Có một khác biệt đáng kể giữa tiếng Việt với tiếng Anh trong những cặp câu tương đương kiểu
dưới đây.
53. Tôi gặp Lan.
22 Hiện tượng dùng He painted a paint ‘Anh ấy (đã) vẽ một bức tranh’ và She sang a song ‘Cô ấy (đã) hát một bài hát’ thay cho He painted ‘Anh ấy (đã) vẽ’ và She sang ‘Cô ấy (đã) hát’ được G. Leech và J. Svartvik [169, tr.184] giải thích như là biểu hiện của nguyên tắc đặt trọng tâm vào cuối câu (end-weight) của tiếng Anh – một cách tránh dùng cấu trúc VT NĐ quá giản lược – tạo ra cảm giác VT của một mệnh đề cần phải dài hơn, phức tạp hơn về mặt ngữ pháp so với chủ ngữ.
54. a. Lan and Nam met. [132, tr.326]
Lan và Nam (đã) gặp
“Nam và Lan đã gặp nhau”
Trong ví dụ (a), meet (met là hình thức quá khứ của meet: gặp/ gặp nhau) được xem là một VT
NĐ. Tuy nhiên, ở ví dụ (b), gặp lại cần phải xem là một VT NgĐ kém điển hình bởi nó phải cần đến một BN (nhau23). Để thể hiện cùng một sự tình, trong tiếng Việt có hai cách thể hiện (Nam gặp Lan và
Nam và Lan gặp nhau) và trong cả hai cách, VT đều được dùng như một VT NgĐ kém điển hình;
trong khi đó ở tiếng Anh, bên cạnh hai cách dùng tương đương với tiếng Việt (Nam met Lan và Lan
and Nam met each other) còn một cách VT lại được dùng như một VT NĐ điển hình (Nam and Lan
met) (x. chi tiết ở mục 3.2).
Trong tiếng Việt, một số VT có giới từ với đứng trước BN tương hỗ (Nam trò chuyện với Lan;
Chúng tôi thảo luận với nhau,…). Trong những câu có các VT kiểu này, chúng ta không thể lược bỏ
giới từ (*Nam trò chuyện Lan; *Chúng tôi thảo luận nhau,…). Tính bắt buộc có mặt giới từ đòi hỏi
cần phải xử lí VT trong những cấu trúc này là những VT NĐ kém điển hình. Đây cũng là một khác biệt
đáng kể, xét về hình thức thể hiện, giữa tiếng Việt với nhiều ngôn ngữ khác, chẳng hạn tiếng Anh.
Như vậy, nếu không chấp nhận nhau là BN trực tiếp thì chỉ có một số ít VT có BN tương hỗ
trong tiếng Việt được xem là VT NgĐ kém điển hình. Phần lớn VT tương hỗ được chúng tôi xếp vào
nhóm VT NĐ kém điển hình.
b. Nam và Lan đã gặp nhau.
- Vị từ ‘là’
Là là một VT có vai trò, cách dùng khá đặc biệt trong tiếng Việt. Trong giới Việt ngữ học đã từng
có một cuộc tranh luận kéo dài về cấu trúc phổ biến gắn với VT này (cấu trúc ‘Danh + là + danh’).
Phần lớn các tác giả thường coi nó là VT nối (linking verb) và thường đưa nó ra khỏi danh sách VT
NĐ/ NgĐ. Lí do tách các VT nối ra khỏi sự lưỡng phân NĐ/ NgĐ là do quan hệ đồng nhất giữa chủ
ngữ và BN (cùng sở chỉ). Thực ra, nếu đã lấy tiêu chí hình thức ngữ pháp làm tiêu chí chính để phân
chia bậc một thì không thể loại là ra khỏi bảng phân loại.
Mặc dù trong tiếng Việt là có đảm nhận chức năng “nối” nhưng xét các trường hợp sử dụng cơ
bản của từ này chúng ta thấy vai trò của nó rất khác với VT to be trong tiếng Anh.
Cho dù to be trong một số cách dùng có thể tương đương với vài VT khác (như become ‘trở nên’,
intent ‘có ý định’, exist ‘tồn tại’, v.v) nhưng cách dùng trước hết và chủ yếu vẫn là để nối chủ ngữ với
các bộ phận khác trong câu và dùng để thể hiện các phạm trù ngữ pháp (thời, thể, dạng…). Trong khi
23 Theo “Từ điển tiếng Việt” (Hoàng Phê cb, 2006, tr.706), nhau là danh từ chỉ dùng làm bổ ngữ để biểu thị quan hệ tác động qua lại giữa các bên. Chúng tôi xem nhau là một đại từ tương hỗ. Tuy nhiên điều này không ảnh hưởng gì đến tư cách NgĐ của VT chi phối nó.
đó là không đảm nhận những nhiệm vụ này hoặc đảm nhận với tư cách một yếu tố hoàn toàn tuỳ ý24;
cách dùng thường xuyên, chủ yếu của là lại thường thể hiện đầy đủ tư cách của một VT ngôn liệu.
55. a. Anh ta là trưởng phòng nhân sự.
a'. Anh ta đã là trưởng phòng nhân sự rồi.
b. Anh ta là cánh chim đầu đàn của đơn vị này.
Là trong 55a hoàn toàn tương đương với “đảm nhiệm”; dùng khác một chút như trong (a’), là
tương đương với “trở thành”; trong (b), là có vai trò định tính về chủ thể, nó tương đương với “có
phẩm chất”, “xứng đáng”; trong (c), là lại là một VT tồn tại (cùng nhóm với có, còn, tồn tại, hiện ra).
Một khi chúng ta đã xem các VT đảm nhiệm, trở thành, xứng đáng và các VT thuộc nhóm VT tồn tại
là những VT ngôn liệu thì không lí gì gạt bỏ là ra khỏi danh sách này. Việc so sánh trên, dù sao cũng
chủ yếu dựa trên tiêu chí nghĩa. Tư cách NgĐ của là chính ở chỗ sự cần thiết phải có mặt của nó trong
cấu trúc, và sự cần thiết phải có mặt của ngữ đoạn danh từ phía sau nó. Trong các ví dụ trên, nếu lược
bỏ là, hoặc lược bỏ các ngữ đoạn danh từ phía sau là, chúng ta sẽ có những câu không được chấp nhận.
Đây chính là lí do để có thể xếp là vào nhóm VT NgĐ. Tuy nhiên vì ngữ đoạn làm BN cho là thường
có cùng sở chỉ hoặc thường thể hiện một số đặc điểm, phẩm chất gắn với chính chủ thể chứ không phải
là một đối tượng/ thực thể khác nên chúng tôi xếp là vào một nhóm riêng nằm trong số những VT NgĐ
kém điển hình.
Bàn về cương vị của các trợ động từ (auxiliaries) trong các ngôn ngữ trên thế giới, S. Steele
(1978), S. Steele, Akmajian, Wasow (1979) cho rằng các trợ từ là một phạm trù cú pháp phổ quát
nhưng các tác giả giải thích tính phổ quát theo cái nghĩa chúng là cái gì đó ‘có sẵn’ trong các ngôn ngữ
loài người chứ không phải là cái cần thiết phải xảy ra trong các ngôn ngữ loài người. W. Croft (1991),
đồng ý với một số tác giả khác, cho rằng các trợ động từ cần giải thích như một phạm trù trung gian về
mặt lịch đại, mà ở trạng thái trước kia (hoặc trong trạng thái hiện nay của một số ngôn ngữ) chúng vốn
là các động từ, hoặc trạng từ đầy đủ [133, tr.142]. Điều này có lẽ rất đúng với tiếng Việt khi mà là
đang còn giữ rất nhiều đặc tính của một VT, và việc thể hiện các các ý nghĩa thời, thể, v.v. của tiếng
Việt không phải dựa trên các “trợ động từ” mà dựa vào chính các nhóm từ khác và dựa vào cách tổ
chức các thành tố cú pháp.
c. Trước tòa biệt thự là một dòng suối.
- Vị từ trạng thái, tính chất
Một số VT chỉ trạng thái, tính chất (phần lớn trùng với các tính từ theo cách phân loại truyền
thống) có cách dùng NgĐ. BN của chúng lúc này chính là một tham tố mang vai Phạm vi (range) theo
24 Không chỉ tiếng Việt mà nhiều ngôn ngữ khác không cần thiết phải có VT nối, thậm chí là không có (chẳng hạn, tiếng Tagalog); hoặc có từ nối nhưng không phải là VT (chẳng hạn, tiếng Hausa) [193, tr. 11].
cách hiểu của M. Halliday.
56. a. Lan đỏ mặt […]
(Hồn bướm mơ tiên, Khái Hưng)
b. [...] chứng tỏ chủ nhà không cầu kỳ màu mè, rất giàu tính thực tiễn!
(Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường)
c. Điền dặn tôi […] đừng mặc áo quá rộng cổ […].
(Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư)
d. Khi thấy đã chậm giờ, ông lý trưởng nghiến răng nói [...].
Trong câu (a), đỏ ảnh hưởng đến Lan nhưng không phải ảnh hưởng đến toàn bộ cơ thể mà chỉ
một phạm vi mà thôi (mặt); ở câu (b), tính thực tiễn lúc này chỉ một phương diện, một nét phẩm chất
của chủ thể và VT giàu cho ta biết về mức độ, tính chất đó như thế nào; trong câu (c), rộng chỉ là đặc
tính chỉ áp dụng với cổ mà thôi; tương tự, chậm (muộn) trong (d) chỉ nói về giờ giấc.
Do BN chỉ đóng vai trò chỉ ra phạm vi ảnh hưởng đến chủ thể mà nghĩa của VT thể hiện chứ
không phải chỉ một thực thể khác, do đó chúng tôi xếp VT trong những kiểu câu này là VT NgĐ kém
điển hình.
Các VT trạng thái cũng có thể có BN là một (ngữ) VT. Lúc này đặc tính của VT trạng thái cũng
tác động vào tính chất của (ngữ) VT đứng sau nó.
(Tinh thần thể dục, Nguyễn Công Hoan)
57. a. Ở đây, khó giữ thiên lương cho lành vững […].
(Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân)
b. Thằng bé này chậm nói.
c. Thánh mẫu bèn bảo Nguyễn Kiêm một mặt báo cho bọn quân sĩ hãy chậm khởi sự lại vài ngày.
Nói chung các từ in đậm trong ví dụ trên không thể được hiểu là phó từ được. Nếu trong câu (a)
khó giữ thiên lương có thể tạm xem là gần nghĩa với giữ thiên lương khó thì trong câu (b) chậm nói
hoàn toàn không thể xem là tương đương với nói chậm; tương tự, chậm khởi sự (chưa vội khởi sự)
không thể coi là tương đương với khởi sự chậm (bắt đầu công việc một cách từ từ). Các câu trong ví dụ
trên hướng người ta đến đặc tính của chủ thể, đến phạm vi áp dụng của đặc tính đó lên VT được đề cập
ở BN chứ không phải hướng tới các hành động.
Một điểm cần lưu ý là cách dùng NgĐ của những VT nhóm này chỉ là cách dùng phái sinh, cách
dùng cơ bản (cách dùng mà người bản ngữ nghĩ đến trước tiên) của chúng vẫn chính là cách dùng NĐ.
Khả năng mang BN của ‘tính từ’ đã được nhiều tác giả đề cập tới. Chẳng hạn, Nguyễn Kim Thản
[81] đã bàn tới một số cấu trúc ngữ đoạn tính từ (tr. 157-162), Đinh Văn Đức [25] đề cập tới các thành
(Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái)
tố phụ có tính chất ‘thực’ sau tính từ (tr. 164-165), Diệp Quang Ban [4] cũng bàn tới các thực từ đứng
sau tính từ và cho rằng xu thế chung rất giống với thành phần đứng sau ‘động từ’ (tr. 104-105), v.v.
2.2. CHUYỂN ĐỔI DIỄN TRỊ VÀ HIỆN TƯỢNG VỊ TỪ CÓ HAI CÁCH DÙNG TRONG
TIẾNG VIỆT
Cũng như trong nhiều ngôn ngữ khác, hiện tượng VT có hai cách dùng NĐ và NgĐ (từ nay, gọi là
VT có hai cách dùng) cũng tồn tại trong tiếng Việt. Hơn thế, hiện tượng này trong tiếng Việt còn tồn tại
với sự phong phú cả về số lượng và kiểu dạng. Những biểu hiện bề mặt như vừa trình bày (VT có hai
cách dùng) có nguồn gốc sâu xa với hiện tượng bề sâu là sự chuyển đổi diễn trị (valency change).
Chuyển đổi diễn trị là hiện tượng một VT có thể tham gia vào những cấu trúc với số lượng diễn tố khác
nhau. Sự thay đổi số lượng diễn tố phần lớn kéo theo sự thay đổi tư cách cú pháp của VT đang xét. Một
VT NĐ khi thay đổi diễn trị có thể trở thành VT NgĐ và ngược lại. Như vậy thay đổi diễn trị thường gắn
với hiện tượng mà các tài liệu ngữ pháp truyền thống gọi là VT có hai cách dùng/ VT kiêm chức/ VT
trung tính.
Lí thuyết về thay đổi diễn trị với nội hàm như trên đã tạo ra một bước tiến quan trọng trong việc
giải thích hiện tượng VT có hai cách dùng. Lí thuyết này mặc dù cơ bản dựa trên lí thuyết ngữ pháp tạo
sinh (về mối quan hệ giữa cấu trúc bề mặt và cấu trúc sâu) nhưng lại giải thích một cách có cơ sở hơn
và thuyết phục hơn khi dùng đến cấu trúc nghĩa của VT, đến khái niệm diễn trị.
Hiện tượng thay đổi diễn trị được S. Dik [138] khái quát thành hai hình thức cơ bản25: rút gọn diễn
trị (valency reduction) và mở rộng diễn trị (valency extension).
2.2.1. Rút gọn diễn trị và sự chuyển loại VT trong tiếng Việt
2.2.1.1. Rút gọn diễn trị
Rút gọn diễn trị là hiện tượng một VT nguyên thủy bị rút gọn số lượng diễn tố ở cấu trúc nghĩa
ban đầu trở thành một VT mới có số lượng diễn tố ít hơn và có thể có sự chuyển đổi tư cách cú pháp.
58. a. Mary is washing these clothes.
‘Mary đang giặt quần áo’
b. These clothes wash easily. [138, tr.1]
Trong ví dụ trên, VT ở câu (a) có hai diễn tố (Mary là Tác thể; these clothes là Bị thể); trong khi
đó, cũng cùng VT này ở câu (b) chỉ có một diễn tố trong cấu trúc nghĩa là còn giữ lại: these clothes. Và
cương vị cú pháp của vai nghĩa này cũng thay đổi. Ngữ đoạn giữ vai Bị thể trong câu (a) vốn có tư
25 Thực ra còn một hình thức chuyển đổi diễn trị mà không xác định được chiều chuyển đổi, nghĩa là không biết đó là hiện tượng rút gọn hay mở rộng (x. [130, tr.322]).
‘Quần áo này dễ giặt’
cách là BN nay đã đảm nhiệm cương vị chủ ngữ trong câu (b) (tuy nhiên, trạng ngữ trong câu (b)
(easily) là yếu tố bắt buộc). Quy trình rút gọn diễn trị được S. Dik khái quát thành ba bước như sau:
[1] Rút gọn diễn tố (argument reduction): Một vị trí tham tố của khung VT ban đầu (gốc) bị
chuyển đi;
[2] Chuyển đổi diễn tố (argument shift): một diễn tố nguyên thủy chuyển tới vị trí diễn tố khác;
[3] Chuyển hóa chu tố (satellite absorption): Một tham tố có cương vị chu tố trong khung VT
nguyên thủy đảm nhiệm cương vị của một diễn tố trong khung VT tạo mới.
Hệ quả của sự chuyển đổi này, theo ông, là tạo ra một VT NĐ phái sinh (derived intransitive).
59. a. These houses sell very well.
[138, tr.6]
‘Những căn nhà này dễ bán’.
b. These houses sell like hot pancakes.
‘Những căn nhà này bán dễ như bán bánh kếp’
c. These houses don’t sell.
Sell (bán) trong các câu trên là VT NĐ. Vì nét nghĩa cơ bản của VT trong các câu này vẫn có liên
hệ với nét nghĩa cơ bản của VT NgĐ nguyên thủy tương ứng (chẳng hạn nét nghĩa của sell, trong: John
sells these houses [John bán những căn nhà này]) nên chúng cần được xem là những VT NĐ phái sinh.
Dựa trên ngữ liệu tiếng Anh, S. Dik cho rằng cấu trúc như trên chỉ được chấp nhận một cách giới
hạn. Thường thì sự chuyển đổi này chỉ được chấp nhận nếu có sự xuất hiện của một thành tố chỉ thể
cách hoặc một yếu tố phủ định [138, tr.6].
‘Những căn nhà này không bán được’
2.2.1.2. Rút gọn diễn trị và sự chuyển loại VT trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt hiện tượng rút gọn diễn tố kéo theo sự chuyển loại (cụ thể là chuyển một VT
NgĐ thành một VT NĐ) rất phổ biến. Theo thống kê của chúng tôi, trong tiếng Việt có khoảng 730 VT
thuộc loại này (x. phụ lục 1). Các VT này có thể chia thành hai nhóm: (i) VT hành động chuyển thành
VT trạng thái; (ii) VT tư thế chuyển thành VT trạng thái.
(1) VT hành động chuyển thành VT trạng thái
Nhóm VT này chiếm khoảng 76% trong số 730 VT có hai cách dùng. Trong cách dùng NgĐ,
chúng là VT hành động có Đề là tham tố [+động vật] và BN trực tiếp là một tham tố [–động vật].
Trong cách dùng NĐ, những VT này thuộc loại VT trạng thái và chỉ có một diễn tố đóng vai Đề trong
cấu trúc cú pháp. Phần Đề này là một tham tố [–động vật] và có thể trở thành BN trực tiếp trong cấu
trúc VT NgĐ tương ứng.
60. a. Họ bàn việc cưới hỏi.
a'. Việc cưới hỏi đã bàn.
b. Nó bổ củi.
Sự khác nhau của các cặp câu trên thường được một số tác giả xem là sự đối lập về dạng (voice):
dạng chủ động (active voice) và dạng bị động (passive voice). Tuy nhiên theo quan niệm của chúng tôi
(x. mục 2.3.2), VT trong hai cấu trúc trên cần xử lí là những kiểu VT khác nhau và trong tiếng Việt
không tồn tại phạm trù bị động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp.
Cơ sở biện luận cho sự tồn tại của phạm trù dạng trong tiếng Việt chính là vai trò của bị, được
(một số tác giả thêm phải) trong dạng bị động. Thực ra ở cấu trúc câu phái sinh có VT rút gọn diễn trị
(các câu a’, b’) bị, được có thể xuất hiện tuy nhiên với vai trò hoàn toàn khác. Chúng tôi xem khả năng
có mặt hoặc vắng mặt của bị, được như một dấu hiệu hình thức để phân biệt nhóm “VT hành động
chuyển sang VT trạng thái” (bị, được có thể xuất hiện) với nhóm “VT tư thế chuyển sang VT trạng
thái” (bị, được không thể xuất hiện) (x. mục (2)).
Khả năng thêm bị, được trong nhóm “VT hành động chuyển thành VT trạng thái” thể hiện rất đa
dạng. Nhìn vào các cặp câu trong ví dụ 60, chúng ta có thể nhận thấy một số đặc điểm sau.
(i) Sự có mặt của bị, được là tùy ý, nghĩa là chúng có thể bị lược bỏ mà không có sự thay đổi ý
nghĩa sự tình. Bị, được có thể xuất hiện trong cách dùng NĐ nhưng cũng có thể xuất hiện ở cả cách
dùng NgĐ. Tiếng Việt có thể chấp nhận cách nói: Họ được bàn việc cưới hỏi, Nó được bổ củi.
(ii) Các vai nghĩa làm phần Đề của các câu (a), (b) là tham tố [+động vật], trong khi vai nghĩa làm
phần Đề của các câu (a’), (b’) là tham tố [–động vật].
(iii) VT trong (a), (b) xét từ phương diện nghĩa phản ánh sự tình là các VT hành động trong
khi VT ở các ví dụ (a’), (b’) thì lại mang ý nghĩa trạng thái. Có một sự chuyển đổi nghĩa kéo theo
sự chuyển loại khi những VT này được dùng theo hai cách.
(iv) Trong từng cặp câu trên, BN trực tiếp của câu đầu thường có thể trở thành phần Đề trong câu
sau. Đây cũng chính là lí do khiến cho nhiều tác giả xem sự đối lập của hai cách dùng này là sự đối lập
về dạng ([2, tr.164-165]; [69, tr.166]; [104, tr.181]). Tuy nhiên, có rất nhiều lí do để chúng ta không
nên coi sự đối lập giữa chúng là sự đối lập về dạng. Nếu chú ý đến sự khác biệt rõ ràng giữa khả năng
thể hiện ý nghĩa bị động (vốn thuộc phạm trù ngữ nghĩa) và phạm trù bị động (vốn là một phạm trù
ngữ pháp) là hai vấn đề thuộc hai bình diện khác nhau thì chúng ta phải thấy rằng, trong tiếng Việt, VT
trong các cặp câu trên khác nhau ở vai trò cú pháp (khả năng chi phối, kết hợp với BN trực tiếp). Nói
cách khác, VT trong các cặp câu trên cần xử lí là những cách dùng khác nhau của cùng một VT.
Khảo sát sâu hơn nhóm các VT có hai cách dùng có thể thêm bị, được, chúng ta thấy có một số
hiện tượng sau.
b'. Củi đã bổ xong.
Trong các VT nhóm này có khoảng 27% VT có thể thêm cả bị lẫn được. Chẳng hạn băm, bóc, bổ,
cạo, chặt, chôn, đóng, gom, gò, hái, mổ, v.v.
61. a. Thịt đã bị băm.
a'. Thịt đã được băm.
b. Cây đã bị chặt.
Có nhiều lí do chi phối việc một VT có thể kết hợp với cả bị và được. Tuy nhiên là những VT
tình thái, các từ bị, được chỉ có thể cùng xuất hiện trước những VT có khả năng được nhìn nhận theo
cả hai hướng: bất lợi hoặc có lợi cho/ theo nhận thức của người nói: chẳng hạn, thịt cần băm để nấu
canh thì băm là hợp lí, có lợi cho/ theo ý người nói; nhưng thịt để luộc mà ai đó lỡ băm thì băm đã tạo
ra một kết quả bất lợi theo/ cho người nói. Vì thế hai từ bị, được có thể kết hợp với băm tùy theo hoàn
cảnh giao tiếp cụ thể. Tương tự, một cái cây cần phải đốn hạ để làm gì đó, dùng được chặt là hợp lí;
nhưng cây ấy sẽ có ích hơn nếu để cho nó sống thì dùng bị chặt là hợp lí. Cũng chính vì bị, được gắn
với vấn đề lợi – hại, tính tích cực – tiêu cực, thuận lẽ – trái lẽ, mong muốn – không mong muốn, v.v.
nên nói một cách chặt chẽ, trong một trường hợp nhất định, chúng ta chỉ có thể lựa chọn một trong hai
VT tình thái này. Việc cho rằng một số VT có thể kết hợp với cả bị và được là căn cứ vào tiềm năng
của chúng mà thôi.
Các VT trong nhóm hai cách dùng có thể kết hợp với được chiếm tỉ lệ cao nhất. Chưa tính đến số
VT thuộc nhóm luôn có BN bắt buộc (mà phần lớn đều có thể đi với được: Tôi được lên Đà Lạt; Họ
được nghiên cứu về kế hoạch tác chiến…), trong số 730 VT có hai cách dùng được thống kê ở phụ lục
1 có khoảng 56% có khả năng kết hợp với được. Một số VT tiêu biểu của nhóm này là ban, băng, bao,
bọc, chải, chiên, chỉnh lí, chuốt, chữa, cung cấp, cử hành, tiêu, dịch, dọn dẹp, khởi động, cất giữ, v.v.
b'. Cây đã được chặt.
62. a. Vết thương đã được băng rồi.
b. Quốc thiều đã được cử hành.
c. Cuốn sách đã được chỉnh lí.
Là VT tình thái, được trong các ví dụ này có thể lược bỏ mà không làm thay ý nghĩa nội dung sự
tình của câu. Sự thay đổi chỉ ở ý nghĩa tình thái: được bị lược bỏ sẽ làm cho sự tình đang xét chuyển
sang sắc thái trung tính.
Khác với được, từ bị có khả năng kết hợp khá hạn chế (khoảng 37%). Ngoài số VT chiếm khoảng
27% số VT trong phụ lục 1 có thể đi với cả bị, được, 10% VT trong phụ lục này chỉ kết hợp được với
bị, chẳng hạn: chửi, dỡ, dứ, đọng, đứt, gãy, giải thể, giảm sút, giết, lạc, lây, thụt, v.v.
d. Nhà cửa đã được dọn dẹp.
63. a. Tay hắn bị đứt.
b. Con chó này bị giết rồi.
c. Trường này bị giải thể.
Các VT kết hợp với bị thường chứa sẵn nét nghĩa xấu, âm tính, bất thuận, bất lợi, không như
mong muốn.
Khả năng dùng được cao hơn hẳn dùng bị (như trình bày ở trên) cần nghiên cứu kĩ hơn. Có lẽ do
tâm lí dân tộc, thói quen thích nhìn sự vật theo hướng tích cực... Nhưng có điều chắc chắn là ngoài nét
nghĩa tích cực, có lợi, v.v. được thường tham gia vào những kết cấu trung tính về nghĩa tình thái. Khi
người viết thấy không cần hoặc không muốn đề cập tới chủ thể hành động thì một kết cấu trạng thái
với đối tượng giữ vị trí phần Đề được sử dụng; lúc đó, bị, được (đặc biệt được) thường được dùng
trước VT. Trong các văn bản hành chính, khoa học, chính luận, báo chí, xu hướng này thể hiện rất rõ.
d. Chân tôi bị thụt trong bùn.
64. a. Biên bản cuộc họp đã được thông qua.
b. Kiến thức về máy tính đã được phổ cập rộng khắp.
c. Từ này được dùng theo nghĩa phái sinh.
Trong khi khẳng định bị, được bổ sung ý nghĩa tình thái, cũng cần thấy có một số trường hợp
không thể bỏ bị, được nếu không ý nghĩa cơ bản của câu sẽ bị thay đổi. Lúc này cần xử lí bị, được là
những VT NgĐ.
d. Tạp chí này được xuất bản định kì hàng tháng.
65. a. Hắn yêu.
a'. Hắn được/ bị yêu.
b. Hắn đánh.
Học giả Phan Khôi đã sớm nhận thấy sự khác nhau giữa (b) và (b’). Theo ông, nếu coi bị, được là
yếu tố chỉ bị động thì trong trường hợp hắn bị đánh không gây mơ hồ nhưng trường hợp hắn được
đánh thì ngoài cái nghĩa theo cách ông gọi là phản ngữ, câu này hoàn toàn có thể hiểu theo nghĩa ‘chủ
động’ – tức hắn là chủ thể của hành động đánh [44, tr.147-148]. Tương tự, hắn trong (a) là chủ thể tâm
trạng (Nghiệm thể), nhưng trong (a’) ngoài khả năng là Nghiệm thể (theo cách hiểu phản ngữ), hắn có
thể lại là đối tượng của một nghiệm thể ngầm ẩn (Hắn được ai đó yêu).
Việc tách các VT có hai cách dùng vào nhóm có thể kết hợp với bị hay nhóm có thể kết hợp với
được chỉ là tương đối và dựa trên những nét nghĩa quen thuộc có thể thấy trong các từ điển. Như nhiều
lần chúng tôi đã đề cập, chỉ cần có một ngữ cảnh đặc biệt hoặc vì một lí do tu từ, dụng pháp nào đó các
VT trong các nhóm trên có thể tham gia vào nhóm đối lập. Các trường hợp dùng kết hợp khác thường
b'. Hắn bị/ được đánh.
phần lớn thuộc lối nói phản ngữ vốn rất hay xuất hiện trong ngôn ngữ sinh hoạt hàng ngày và văn
chương.
66. a. Sao được chết một cách im lặng như vậy?
(Hoàng Lê nhất thống chí, Ngô gia văn phái)
Cuối cùng cũng cần lưu ý đến xu hướng thích dùng bị theo nghĩa tích cực (trái với cách dùng
quen thuộc lâu nay). Chẳng hạn Cô ấy hơi bị đẹp đấy; Đồ này dùng hơi bị tốt đấy. Cách dùng mang
đậm xúc cảm, dí dỏm, khôi hài này thường chỉ tồn tại trong hoàn cảnh giao tiếp tự nhiên, thân mật.
Hơn nữa, đây mới chỉ là xu hướng sử dụng của một nhóm người, ở một số vùng nhất định, do đó, còn
quá sớm để khẳng định đó là cách dùng mới của tiếng Việt hiện đại.
Việc rút gọn diễn trị đối với VT hành động để chuyển sang cách dùng trạng thái không hoàn toàn
đơn giản là tương đương với việc chuyển thành phần BN chỉ đối tượng, chỉ đích lên vị trí Đề. Chẳng
hạn, khi bàn về cách khử tính chất hành động của một VT hành động để chuyển nó sang VT tồn tại
(một loại VT trạng thái), Diệp Quang Ban đã đưa ra sáu điều kiện: (i) điều kiện về khuôn hình (“giới từ
+ danh từ vị trí + động từ + danh từ”); (ii) không được dùng những từ chỉ sự mong muốn, chỉ sự cần
thiết, chỉ khả năng; (iii) loại bỏ những yếu tố chỉ mục đích; (iv) không được có mặt các yếu tố hạn định
chỉ phương thức của hành động; (v) loại bỏ những yếu tố biểu thị công cụ dùng tiến hành hành động;
(vi) loại bỏ các thứ chỉ tính chất hoàn thành [4, tr.151-156].
b. Giết người vì bị yêu quá. (http://vietbao.vn)
(2) VT tư thế chuyển thành VT trạng thái
Trong tiếng Việt, các VT tư thế thường có hình thức là VT NgĐ và thuộc vào nhóm các VT NgĐ
kém điển hình. Khi rút bớt một diễn tố các VT tư thế có thể được dùng như VT trạng thái. Trong ví dụ
dưới đây, VT trong các câu (a), (b) dùng theo cách NgĐ, VT trong các câu (a’), (b’) dùng theo cách
NĐ.
67. a. Thằng bé xoạc chân.
a'. Chân (thằng bé) xoạc ra.
b. Lan nhắm mắt.
VT trong các câu (a), (b) là những VT tư thế. Ngoài một diễn tố giữ vai trò Đề trong cấu trúc cú
pháp, các VT này còn có một diễn tố giữ vai trò BN trực tiếp chỉ đối tượng mà tư thế áp dụng đến
(xoạc cái gì? xoạc chân; nhắm cái gì? nhắm mắt). Chính vì thế những VT này được dùng theo cách
NgĐ. Tuy nhiên, đối tượng mà những VT này chi phối đến lại chính là một bộ phận của chủ thể vì thế
chúng tôi xếp chúng vào nhóm những VT NgĐ kém điển hình.
b'. Mắt (Lan) nhắm lại.
Trong khi đó, VT trong các câu (a’), (b’) là những VT trạng thái. Chúng dùng để chỉ trạng thái
các bộ phận cơ thể của những tham tố [+động vật]. Do những VT trong cấu trúc này chỉ có một diễn tố
(là Đề trong cấu trúc cú pháp) chúng tôi xem chúng là những VT NĐ.
Những VT tư thế có thể dùng như VT trạng thái, như vừa đề cập, cần phải có một số điều kiện
sau: (i) diễn tố giữ vị trí Đề trong cấu trúc VT trạng thái là một tham tố [–động vật] và nó chính là danh
từ chỉ một bộ phận của chủ thể vốn làm Đề trong cấu trúc VT tư thế (ii) phải có sự xuất hiện của một
từ chỉ hướng như lên, xuống, ra, vào, sang, qua, lại phía sau VT.
Tuy nhiên, trong tiếng Việt, cũng tồn tại những cách diễn đạt sau:
68. a. Mắt nó không nhắm.
b. Đầu Nam hơi cúi.
Tính khả chấp của những câu trên cho thấy, ngoài những từ chỉ hướng, sự xuất hiện của những từ
phủ định (a), những từ chỉ thể cách (b), thì những ngữ đoạn làm thành phần phụ mở rộng miêu tả thể
cách (c) và sự có mặt của một tham tố bất động vật (chỉ bộ phận của cơ thể) đứng trước làm Đề sẽ biến
một VT tư thế trở thành một VT trạng thái. Sự có mặt của các thành phần phụ mở rộng trên đã làm
nhòe đi ý nghĩa tư thế vốn có của VT. Đây là một cách dùng khá đặc biệt của tiếng Việt mà ít nhất là
khác biệt với tiếng Anh – nơi mà những tham tố làm chủ ngữ là những (ngữ) danh từ chỉ bộ phận cơ
thể bao giờ cũng gắn với một VT tư thế ở dạng bị động hoặc gắn với cấu trúc “VT nối + tính từ”.
Nhóm “VT tư thế rút gọn diễn trị chuyển thành VT trạng thái” phân biệt với nhóm “VT hành
động rút gọn diễn trị chuyển thành VT trạng thái”, như đã đề cập ở mục (1), ở chỗ nhóm này không có
khả năng kết hợp với các từ bị, được. Thêm bị, được vào các câu trong ví dụ trên, ta sẽ có các câu sai
hoặc thiếu tự nhiên như trong ví dụ dưới.
c. Lưng hắn cong như lưng tôm.
69. a. *Thằng bé được/ bị xoạc chân.
a'. *Chân (thằng bé) được/ bị xoạc ra.
b. *Lan được/ bị nhắm mắt.
Tổng quan bức tranh về rút gọn diễn trị, có thể thấy trong tiếng Việt hiện tượng phổ biến nhất là
một VT NgĐ có diễn tố giữ vai Đề mang đặc tính ngữ nghĩa [+động vật] trong câu khi tham gia vào
cấu trúc VT có diễn tố giữ vai Đề mang đặc tính ngữ nghĩa là [–động vật] thì rút gọn diễn trị. Hiện
tượng này chính là hiện tượng chuyển đổi từ cấu trúc chủ động sang cấu trúc bị động trong một số
ngôn ngữ khác. Những VT thuộc loại này là những VT hành động khi rút gọn diễn trị trở thành những
VT trạng thái. Trong tiếng Việt, những VT nằm trong cấu trúc câu thể hiện ý nghĩa bị động cần được
xem là những VT bị rút gọn diễn tố và đã chuyển loại thành VT NĐ chỉ trạng thái. Điều này khác với
b'. *Mắt (Lan) được/ bị nhắm lại.
tiếng Anh, nơi mà có sự phân biệt giữa hai hình thức rút gọn: rút gọn diễn trị trong cấu trúc bị động và rút gọn trong cấu trúc nghịch gây khiến (anticausative)26. Khảo sát tiếng Việt, chúng tôi cũng nhận
thấy thêm rằng, ngoài VT hành động (là VT NgĐ) rút gọn diễn trị sẽ dẫn đến sự hình thành VT trạng
thái và là VT NĐ phái sinh như S. Dik đã đề cập, trong tiếng Việt còn có hiện tượng VT tư thế (vốn có
hình thức là VT NgĐ kém điển hình) khi rút gọn diễn trị sẽ trở thành những VT trạng thái và là VT NĐ.
2.2.2. Mở rộng diễn trị và sự chuyển loại VT trong tiếng Việt
2.2.2.1. Mở rộng diễn trị
Mở rộng diễn trị là hiện tượng một VT khi tham gia vào một số cấu trúc sẽ cần thêm diễn tố. Có
hai trường hợp chuyển loại VT cơ bản gắn với hiện tượng mở rộng diễn trị: (i) VT tham gia vào cấu
trúc gây khiến (causative); (ii) VT NĐ dùng như VT NgĐ mà không tham gia vào cấu trúc gây khiến.
Trong hai cấu trúc trên, cấu trúc cơ bản tạo nên sự thay đổi diễn trị theo hướng mở rộng thường
được đề cập tới chính là cấu trúc gây khiến.
Thực ra vấn đề gây khiến đã được đề cập tới từ lâu. Một số nhà ngữ pháp tạo sinh chẳng hạn R.
Lees (1960) xem hiện tượng gây khiến là kết quả của một quá trình biến đổi. Theo ông, một câu như
John broke the window (‘John làm vỡ cửa sổ’) được phái sinh từ một cấu trúc sâu [John CAUSE
[break the window]] ([John GÂY RA [vỡ cửa sổ]]). Các tác giả sau đó như R. Jackendoff (1975), J.
Bresnan (1978) đưa vấn đề gây khiến vào lĩnh vực từ vựng học. Theo R. Jakendoff (1975), break trong
John broke the window và The window broke (‘Cửa sổ bị vỡ’) là hai VT khác nhau, chúng thuộc hai
mục từ từ vựng riêng biệt. Một VT nằm trong cấu trúc [NP1 break] ([Ngữ đoạn danh từ 1 vỡ]) và một
VT nằm trong cấu trúc [NP2 CAUSE [NP1 break]] ([Ngữ đoạn danh từ 2 GÂY RA [ngữ đoạn danh từ
1 vỡ]]). Ngoài việc xem vấn đề gây khiến gắn với từ vựng tức là sử dụng một số VT có ý nghĩa gây
khiến (như cause ‘gây ra’ hoặc make ‘làm, làm cho’), có tác giả (chẳng hạn, B. Comrie 1981) còn mở
rộng, tìm hiểu vấn đề gây khiến gắn với sự thay đổi hình thái của VT đang xét (“morphological
causatives”). Vai trò quan trọng của S. Dik (1980) là đã sớm gắn cấu trúc gây khiến với vấn đề mở
rộng diễn trị và sự thay đổi ý nghĩa của VT chính trong cấu trúc này (x. [168, tr.235]).
Mô tả khá đầy đủ về sự thay đổi diễn trị nói chung và mở rộng diễn trị nói riêng có thể tìm thấy ở
B. Comrie [130]. Trên cơ sở những nghiên cứu trước đó của mình cũng như tham khảo các công trình
có liên quan của các tác giả khác, ông đã khái quát sự thay đổi diễn trị thành hai kiểu cơ bản: (i) thay
đổi diễn trị chỉ liên quan đến BN; và (ii) thay đổi diễn trị bao gồm cả chủ ngữ.
26 Một số tác giả, chẳng hạn B. Comrie (1985) phân biệt cấu trúc bị động (kiểu: The door was opened ‘Cửa (này) đã (được) mở’) với cấu trúc nghịch gây khiến (kiểu: The door opened ‘cửa này (đã) mở’). Mặc dù cả hai đều là cấu trúc rút gọn diễn trị, nhưng chúng khác nhau ở nhiều phương diện. Chẳng hạn, cấu trúc nghịch gây khiến không có ngữ đoạn chỉ Tác thể; cấu trúc bị động, về mặt cấu trúc, nghiêng về lĩnh vực cú pháp trong khi nghịch gây khiến nghiêng về lĩnh vực hình thái học, v.v. [130, 325-326].
– Thay đổi diễn trị chỉ có liên quan đến BN là hiện tượng một số VT tham gia vào cấu trúc câu
có số lượng ngữ đoạn danh từ làm BN khác nhau mà không có bất kì sự thay đổi nào đối với chủ ngữ
của câu.
70. a. Mary is reading.
‘Mary đang đọc sách’
b. Mary is reading the book to John.
Trong hai câu trên, VT read (đọc) vẫn giữ nguyên diễn tố ở vị trí chủ ngữ nhưng số lượng BN
khác nhau. Ở câu (a), read không có BN trong khi đó cũng VT này trong câu (b) lại có thêm một diễn
tố làm BN trực tiếp (và một chu tố làm BN gián tiếp). Ông cũng chỉ rõ với một số ngôn ngữ sự thay
đổi diễn trị được đánh dấu trên hình thức của VT, với một số ngôn ngữ khác (tiếng Anh…) sự thay đổi
đó chỉ được đánh dấu bằng: (i) sự rút gọn số lượng BN; (ii) sự gia tăng số lượng BN; (iii) sự sắp xếp
lại các BN.
– Thay đổi diễn trị bao gồm chủ ngữ là hiện tượng thay đổi diễn trị liên quan tới mối quan hệ
giữa một VT NĐ với một VT NgĐ; trong đó chủ ngữ của VT NĐ giống với BN của VT NgĐ.
‘Mary đang đọc cuốn sách đó cho John nghe’
71. a. The water boils. [130, tr.322]
‘Nước nấu’
b. John boils the water.
Ông cũng xem xét cả hướng chuyển đổi giữa hai hình thức trên. Đó là: (a) chuyển từ một NĐ
sang NgĐ; (b) chuyển từ một NgĐ sang NĐ; và (c) không theo hướng nào. Các hình thức chuyển đổi
được thể hiện bằng cách: (i) mỗi thành viên có một tiếp tố khác nhau; hoặc (ii) chỉ thể hiện bằng sự
thay đổi bên ngoài chứ không phải bằng hình thức tiếp tố. Trong loại thay đổi diễn trị gắn với chủ ngữ
ông khảo sát khá kĩ sự gia tăng diễn trị thể hiện trong cấu trúc gây khiến và sự rút gọn diễn trị trong
cấu trúc nghịch gây khiến và cấu trúc tương hỗ, phản thân.
Riêng về mở rộng diễn trị ông đề cập tới những hiện tượng cơ bản như sau.
(i) VT NĐ được dùng như NgĐ mà không tham gia vào cấu trúc gây khiến:
‘John nấu nước’
72. a. The water is boiling. [130, tr.312]
‘Nước đang nấu’
b. John is boiling the water.
‘John đang nấu nước’
(ii) VT NĐ dùng như NgĐ khi tham gia vào cấu trúc gây khiến. Ví dụ dưới đây của tác giả lấy từ
tiếng Thổ Nhĩ Kì :
[130, tr.323] 73. a. Hasan öl-dü
Hasan chết-(QK)
‘Hasan đã chết’
b. Ali Hasan-i öl-dür-dü
Ali Hasan-(BNTT) chết-làm/gây ra-(QK)
Việc thêm tiếp tố -dür vào sau VT NĐ öl (chết) ở ví dụ (a) đã chuyển VT này thành NgĐ öl-dür
(làm chết/ giết) ở ví dụ (b) và cũng làm thay đổi diễn trị của nó (từ một lên thành hai diễn tố).
Dựa trên hướng gợi mở trong một bài viết trước đó của B. Comrie (1981), J. Junger [168] đã
khảo sát những hiện tượng gây khiến thể hiện bằng dấu hiệu hình thái (morphological causatives) của
VT trong một số ngôn ngữ tiêu biểu thuộc nhóm ngôn ngữ Semitic. Từ việc khảo sát các VT tham gia
cấu trúc này (xét ở góc độ phân loại VT theo nghĩa phản ánh sự tình), ông đã lập thức được sự phân bố
của cấu trúc gây khiến trong tiếng Hifil và Piel như sau:
“Nếu vị từ gốc là một động từ, vị từ gây khiến tạo mới có thể sẽ có trong tiếng Hifil và những sự
tình tạo ra sẽ là một Hành động, Quá trình hoặc Tư thế (ngoại trừ đối với một số ít động từ tiếp nhận và
tri nhận nơi mà ‘trạng thái sự tình tạo ra’ là một Trạng thái).
Nếu vị từ gốc là tính từ hoặc danh từ tính, vị từ gây khiến tạo mới sẽ có trong tiếng Piel, và ‘trạng
thái sự tình tạo ra’ luôn luôn là một Trạng thái” (tr.243).
Công trình cũng đã đưa ra một số kết luận về những giới hạn ngữ nghĩa đối với các VT khi tham
gia cấu trúc này cũng như những dấu hiệu hình thái thể hiện ý nghĩa gây khiến. Nghiên cứu của ông đã
cho ta một cái nhìn toàn diện hơn về sự chuyển loại VT gắn với sự thay đổi diễn trị gắn với ý nghĩa
gây khiến trong một số ngôn ngữ cụ thể.
‘Ali đã làm Hasan chết/giết Hasan’
2.2.2.2. Mở rộng diễn trị và sự chuyển loại VT trong tiếng Việt
Trong tiếng Việt vấn đề chuyển loại VT không gắn với những dấu hiệu hình thái. Do đó, việc tìm
hiểu hiện tượng mở rộng diễn trị và sự chuyển loại VT, như chúng tôi trình bày dưới đây, sẽ tập trung
vào việc khảo sát khả năng của các VT khi tham gia vào các cấu trúc có sự mở rộng diễn trị và có sự
thay đổi cấu trúc cú pháp. Chúng tôi nhận thấy trong tiếng Việt có các hiện tượng mở rộng diễn trị sau.
(1) VT NĐ trở thành VT NgĐ khi tham gia vào cấu trúc gây khiến
Hiện tượng thú vị này đã được đề cập khá chi tiết trong mục 2.1.2.2. Hiện tượng này có thể khái
quát thành mô hình “làm + X” trong đó, làm được xem là VT NgĐ trong VT chuỗi, X là VT thuộc vào
một số tiểu loại VT chia theo nghĩa biểu hiện sự tình.
Qua việc khảo sát cụ thể chúng tôi đã đi đến một số kết luận về hiện tượng mở rộng diễn trị liên
quan đến cấu trúc “làm + X” như sau. X (VT cơ sở) hiếm khi là VT hành động và VT tư thế. Như vậy,
X rơi chủ yếu vào nhóm các VT quá trình và trạng thái. Những VT trạng thái thuộc loại VT NĐ, khi
tham gia vào cấu trúc có làm thì chuyển thành VT NgĐ. Trong mục 2.1.2.2, chúng tôi cũng kết luận
VT chuỗi tạo mới và VT cơ sở khác nhau về tiểu loại và sự chuyển loại này đi theo hướng từ VT [–
hành động] sang VT [+hành động]. Điều này có thể giải thích dựa vào cơ sở ngữ nghĩa: làm vốn là VT
hành động, nó ngầm ẩn khả năng lựa chọn một tham tố động vật ở vị trí Đề, do đó, không kết hợp với
những VT [+hành động]. Kết hợp với những VT [–hành động], làm sẽ mở rộng khả năng diễn đạt của
những VT này. Ngoại trừ một số trường hợp ‘X’ sau khi kết hợp với làm vẫn không chuyển loại (tức
vẫn là VT NĐ) kiểu như làm duyên, làm nũng, làm căng, làm càn, v.v phần lớn các trường hợp còn lại
có sự chuyển loại. Dưới là một số ví dụ cho sự chuyển loại của VT khi tham gia vào cấu trúc có làm.
(Số đỏ, Vũ
74. a. Nó đã quen cái mồm đàn áp, chinh phục, và làm rung động công chúng...
Trọng Phụng)
b. Cơn mưa buổi xế chiều làm tắt rụi ánh mặt trời […]
(Cánh đồng bất tận, Nguyễn Ngọc Tư)
c. Một tháng Ngọc ở chùa làm biến cải hẳn sinh hoạt của mấy người tu hành. (Hồn
bướm mơ tiên, Khái Hưng)
d. Tiếng kêu thất thanh của bác làm giật mình lũ trẻ [...].
Cấu trúc này nói chung tương đương với một kiểu diễn đạt khác, “làm + (ngữ) danh từ + X”,
trong đó (ngữ) danh từ và X có quan hệ Đề-Thuyết với nhau.
(Nhà mẹ Lê, Thạch Lam)
75. a. Đàn bà không có men như rượu, nhưng cũng làm người ta say.
(Chí Phèo, Nam Cao)
b. Then ngang chiếc gông bị giật mạnh, đập vào cổ năm người sau, làm họ nhăn mặt. (Chữ
người tử tù, Nguyễn Tuân)
c. Câu trả lời của Mai làm Lộc nghĩ ngợi.
(Nửa chừng xuân, Khái Hưng)
d. Mồi thuốc làm ông Hàm tê mê bần thần cả chân tay đầu óc.
(Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường)
(2) VT NĐ chuyển sang cách dùng NgĐ mà không nằm trong cấu trúc gây khiến
Trước khi đi vào khảo sát hiện tượng này, chúng tôi muốn lưu ý hiện tượng mà B. Comrie [130]
xem là VT NĐ dùng như NgĐ qua ví dụ từ tiếng Anh (x. ví dụ 72) là không tương đồng với hiện tượng
VT NĐ dùng như NgĐ trong tiếng Việt. B. Comrie cho rằng chiều chuyển loại của VT trong những ví dụ
này là từ cách dùng NĐ sang cách dùng NgĐ (hiện tượng mở rộng diễn trị) trong khi đó VT trong những
ví dụ tương tự ở tiếng Việt lại được chúng tôi xem là có chiều chuyển loại ngược lại (hiện tượng rút gọn
diễn trị). Những VT NĐ được dùng như NgĐ như trình bày ở dưới có bản chất hoàn toàn khác. Nhóm
VT này được phân thành hai tiểu nhóm.
– VT NĐ chuyển sang cách dùng NgĐ chỉ có sự chuyển nghĩa chứ không có sự thay đổi tiểu
loại (theo tiêu chí nghĩa biểu hiện sự tình)
Nhóm VT này chủ yếu gồm một số VT hành động vô tác và VT trạng thái.
76. a. Thằng bé đang tắm.
a'. Thằng bé đang tắm nắng.
b. Ông ấy rất giàu.
‘Tắm’ trong câu (a) và (a’) có nét nghĩa chung là cơ thể đón nhận một tác động từ ngoại cảnh,
nhưng trong câu (a), tắm được dùng theo nghĩa cơ bản: giội nước lên người hoặc ngâm mình trong
nước cho sạch sẽ; trong khi ở câu (a’), tắm được dùng theo nghĩa mở rộng: phơi mình dưới nắng…;
giàu trong câu (b) và (b') đều có nét nghĩa chung: có nhiều hơn mức bình thường, trong câu (b) giàu
được dùng theo nghĩa nguyên thuỷ: có nhiều tiền của, còn giàu trong câu (b’) được dùng theo nét
nghĩa thu hẹp: nhiều hơn mức bình thường về phương diện tinh thần.
VT trong các ví dụ (a), (b) chỉ có một diễn tố. Tuy nhiên, VT trong các câu (a’), (b’) lại có đến
hai diễn tố trong đó diễn tố thứ hai – vai Phạm vi – xác định phạm vi đặc tính trạng thái, hành động
mà VT ảnh hưởng tới.
Chúng tôi gọi những VT có hai cách dùng như trên là những VT chuyển nghĩa không đồng loạt vì
chúng chỉ khác nhau về tư cách cú pháp (NĐ hay NgĐ) và có sự chuyển nghĩa (theo hướng mở rộng
hay thu hẹp) chứ không khác nhau về tiểu loại xét theo tiêu chí nghĩa biểu hiện sự tình. Tắm trong các
câu (a) và (a’) vẫn là các VT hành động, giàu trong các câu (b) và (b’) và hẹp trong các câu (c) và (c’)
vẫn là những VT trạng thái.
Tiếng Việt đã thể hiện khá phong phú những cách dùng kiểu này. Những nghĩa mới của từ
thường được hình thành từ những thử nghiệm, mà đi tiên phong là các nhà văn. Vì những cách dùng
mới mang tính sáng tạo của người nói, người viết, do đó vấn đề VT có hai cách dùng, đôi khi được coi
là vấn đề phong cách cá nhân.
b'. Nguyễn Du giàu lòng nhân đạo.
77. a. Chạy Tây. (Nguyễn Đình Chiểu)
b. Tuần phu… chạy hết mâm, bát, chai, chén xuống đình.
(Tắt đèn, Ngô Tất Tố)
c. Chúng tắm các cuộc khởi nghĩa của ta trong bể máu.
(Tuyên ngôn độc lập, Hồ Chí Minh)
Chạy gạo, chạy giặc, chạy tiền, v.v là cách dùng NgĐ của VT NĐ chạy. Điều này không có gì lạ
nhưng “chạy + tên riêng” như chạy Tây là cách dùng NgĐ theo lối rất riêng của Nguyễn Đình Chiểu.
Và chạy mâm, bát, chai, chén cũng có thể coi là cách dùng riêng, là sáng tạo của Ngô Tất Tố. Tương
tự, tắm các cuộc khởi nghĩa cũng là cách dùng đầy sáng tạo của Hồ Chí Minh. Trường hợp khóc
Dương Khuê cũng vậy. Khóc vợ, khóc người yêu, khóc bạn, v.v là cách dùng quen thuộc nhưng “khóc
+ tên riêng” như cách mà Nguyễn Khuyến đã làm cũng cần phải coi là cách dùng sáng tạo.
Bên cạnh một số VT hành động vô tác và VT trạng thái, một số VT quá trình cũng có thể thuộc
loại này.
d. Khóc Dương Khuê. (Nguyễn Khuyến)
78. a. Trên bắp chân người mẹ, máu đỏ chảy ròng ròng.
(Nhà mẹ Lê, Thạch Lam)
b. Chị Hoàng cười nhiều quá, phát ho, chảy cả nước mắt ra.
VT của câu (a) dùng theo cách NĐ. Trong khi đó, VT câu (b) dùng theo cách NgĐ.
Những VT quá trình như trên được xếp vào nhóm VT chuyển nghĩa không đồng loạt bởi ở cách
dùng nào, nếu xét ở lối phân loại VT theo nghĩa sự tình, chúng vẫn giữ nguyên là VT quá trình.
Dù sao, với VT quá trình, chiều chuyển loại không thể xác định là từ VT NĐ sang NgĐ hay
ngược lại (tức là chúng ta khó có thể xác định cách dùng nào của VT trong hai câu trên được xem là cơ
bản hơn).
(Đôi mắt, Nam Cao)
– VT NĐ chuyển sang cách dùng NgĐ có cả sự thay đổi tiểu loại (theo tiêu chí nghĩa biểu hiện
sự tình)
Nhóm này bao gồm một số VT trạng thái và các VT tư thế.
79. a. Cằm hắn bạnh ra.
a'. Hắn bạnh cằm ra.
b. Hắn đứng trên lầu.
Trong câu (a), bạnh là VT trạng thái và là VT NĐ. Nó cần diễn tố giữ vai Đề có đặc tính [–động]
và [–chủ ý]; trong câu (a’) VT bạnh cần một diễn tố giữ vai Đề có đặc tính [+động] và [+chủ ý], nghĩa
là VT trong câu (a’) được dùng như VT hành động. Tuy ý nghĩa cơ bản của VT bạnh không khác nhau
b'. Hắn đứng máy số 3.
trong hai cách dùng vì thế chúng tôi xem đây là một VT có hai cách dùng. Trong câu (b), đứng là VT
tư thế và là VT NĐ; trong câu (b’) đứng được dùng như là VT hành động (đứng = điều khiển/ phụ
trách). Diễn tố vai Đề trong cả hai câu không thay đổi nếu xét ở đặc tính [±chủ ý] tuy nhiên xét ở tiêu
chí [±động] thì lại có sự thay đổi: diễn tố trong câu (b) có đặc tính [–động] trong khi đó diễn tố trong
câu (b’) lại có đặc tính [+động].
Như vậy, nếu không tính đến những VT quá trình bởi khó xác định chiều chuyển loại của chúng,
chúng ta có thể xác lập sự mở rộng diễn trị và sự chuyển loại VT trong nhóm đầu tiên như sau. Những
VT hành động NĐ khi mở rộng diễn trị và chuyển sang cách dùng NgĐ sẽ vẫn là VT hành động.
Những VT tư thế khi mở rộng diễn trị và chuyển sang cách dùng NgĐ thì trở thành VT hành động.
Riêng những VT trạng thái có sự phân tách thành hai nhóm: (i) phần lớn VT trạng thái khi dùng theo
cách NgĐ không thay đổi tiểu loại; (ii) một số VT trạng thái thuộc nhóm chỉ trạng thái của một bộ
phận cơ thể khi có sự mở rộng diễn trị và chuyển sang cách dùng NgĐ sẽ trở thành VT hành động.
Nói chung VT trong các nhóm trên vốn là VT NĐ (thể hiện trong các từ điển nét nghĩa này được
coi là nét nghĩa cơ bản, nét nghĩa gốc), khi được dùng theo cách NgĐ, ý nghĩa có sự thay đổi ít nhiều
và trong cách dùng mới này chúng cần có một đối tượng để chỉ ra phạm vi mà ý nghĩa VT chi phối đến
(tức cần thêm một diễn tố – Phạm vi).
Chúng ta có thể xác lập sự hình thành VT tạo mới này là khi một VT NĐ được dùng theo một
nghĩa phái sinh và người nói muốn đề cập tới phạm vi mà ý nghĩa đó chi phối tới thì VT này được
dùng như một VT NgĐ.
Bên cạnh hiện tượng thay đổi diễn trị kéo theo sự chuyển loại VT, trong tiếng Việt cũng tồn tại
hiện tượng thay đổi diễn trị không kéo theo sự chuyển loại và hiện tượng chuyển loại VT mà không
liên quan đến sự thay đổi diễn trị.
(3) Hiện tượng thay đổi diễn trị không kéo theo sự chuyển loại VT
Xu hướng phổ biến là thay đổi diễn trị thường kéo theo sự thay đổi tư cách cú pháp của VT, tuy
nhiên trong tiếng Việt, có một số trường hợp chỉ có sự thay đổi ở bình diện cấu trúc nghĩa (thay đổi
diễn trị) chứ không kéo theo sự chuyển loại VT. Hiện tượng này có thể thấy trong một số kiểu câu sai
khiến.
80. a. Tôi báo tin cho mọi người rằng Lan đã lấy chồng.
Trong câu (a), VT báo tin có 3 diễn tố: ‘tôi’ (Hành thể), ‘Lan đã lấy chồng’ (Đề – theme), ‘mọi
người’ (Tiếp thể). Trong câu (b), VT báo tin có thêm một diễn tố: ‘bà ấy’ (Khiến thể – causer). Tuy
nhiên, VT trong cả hai cấu trúc vẫn là VT NgĐ.
b. Bà ấy sai tôi báo tin cho mọi người rằng Lan đã lấy chồng.
(4) Hiện tượng chuyển loại VT mà không có sự thay đổi diễn trị
- Nhóm VT khi dùng ở NĐ hay NgĐ đều cần BN bắt buộc
Đây chính là những VT có thể tham gia vào cả nhóm VT NgĐ và nhóm VT NĐ kém điển hình.
Sự khác nhau giữa cách dùng NgĐ và NĐ thể hiện ở chỗ cách dùng NgĐ không có giới từ dẫn nhập
cho BN bắt buộc còn cách dùng NĐ thì BN bắt buộc phải có sự dẫn nhập của giới từ. Diễn trị của
VT trong cả hai cách dùng là bằng nhau. Ở đây, thuật ngữ ‘tham tố trực tiếp’ và ‘tham tố gián tiếp’
(x. mục 1.2.2) rất hữu ích trong việc giải thích những khác biệt trong từng cặp câu trong ví dụ dưới.
81. a. Bà xuống bếp để mang xôi lên cho đội kèn dùng bữa đêm.
(Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường)
a'. Hai đứa xuống dưới nhà nói chuyện để ở đây ta bàn việc khác.
(Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường)
b. Hắn cưỡi ngựa.
b'. Hắn cưỡi trên lưng ngựa.
c. Rồi lão vác mai bình bịch bước đi, mặc những gì diễn ra ở nhà lão.
c'. Những tiếng (Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nguyễn Khắc Trường)
gắt gỏng ở trong nhà lại đưa ra. (Trăng sáng, Nam Cao)
d. Họ bàn kế hoạch rút quân.
Các VT thuộc nhóm này có thể thuộc vào nhiều kiểu loại VT khác nhau, tuy nhiên tỉ lệ cao rơi
vào nhóm các VT chuyển động có hướng và một số VT chỉ vị trí. Sự khác nhau giữa các câu (a), (b),
(c), (d) với các câu (a’), (b’), (c’), (d’) là ở chỗ nhóm các câu đầu giữa VT với BN đứng sau không
có giới từ trong khi đó thì nhóm các câu sau thì lại có giới từ ở vị trí này. Vấn đề đặt ra ở đây là sự có
mặt của giới từ có vai trò như thế nào hay đó chỉ là vấn đề hình thức? Theo một số tác giả, các ngôn
ngữ dù thuộc loại hình nào (phân tích tính hay tổng hợp tính) đều sử dụng giới từ như một phương
tiện ngữ pháp do đó không thể xem việc dùng giới từ chỉ là vấn đề tùy ý, vấn đề hình thức thuần tuý
[33, tr.57]. Mặc dù trong một số trường hợp, hai cách diễn đạt này có thể thay thế nhau nhưng giữa
chúng ít nhất có sự khác nhau về phương diện dụng pháp (nhấn mạnh yếu tố nào – tức yếu tố nổi
trội) và phương diện phong cách (bảo đảm tiết tấu, nhịp điệu, “thuận tai”). Những yêu cầu từ phương
diện ngữ nghĩa, dụng pháp đã chi phối đến sự xuất hiện hay vắng mặt của các giới từ giữa VT và BN
trên bình diện cú pháp. Việc đối lập các VT có hai cách dùng chỉ dựa trên tiêu chí [±giới từ] một mặt
tuân thủ tính triệt để, khách quan trong thao tác, mặt khác tôn trọng những khác biệt về ngữ nghĩa rất
đáng kể giữa hai cách dùng này.
d’. Họ bàn về kế hoạch rút quân.
Mục 2.1.1 đã đề cập đến sự khác nhau giữa cưỡi ngựa và cưỡi trên (lưng) ngựa, gắn xi măng và
gắn bằng xi măng và sự khác nhau (dù rất tinh tế) giữa lên Đà Lạt và lên trên Đà Lạt. Sự khác nhau
giữa chúng chủ yếu được phân tích từ phương diện dụng pháp (vấn đề nổi trội), cách tri nhận của
người bản ngữ. Sự khác nhau đó còn ở cả phương diện phong cách, tạm hiểu theo nghĩa: cách diễn
đạt phù hợp, “thuận tai”, dễ tiếp nhận27. Nhiều tác giả đã đề cập đến vai trò cần thiết của giới từ
trong việc nâng cao tính chính xác, hiệu quả của các phát ngôn ([15, tr.111]; [18, tr.255]; [57,
tr.169;204]; [61, tr.29-35]; [69, tr.138-140]). Chẳng hạn, Hoàng Trọng Phiến cho rằng “những phát
ngôn dài lại có các từ với nghĩa mơ hồ thì bắt buộc phải có giới từ và ngược lại” và sự có mặt hay
vắng mặt của giới từ còn bị quy định bởi cả “đặc tính cấu trúc của BN và vị ngữ” nữa [69, tr.139-
140]. Tuy nhiên tác giả không nói rõ sự xuất hiện hay vắng mặt giới từ có làm thay đổi tư cách ngữ
pháp của VT không và trước đó tác giả cho rằng “sự có mặt hay vắng mặt hư từ cũng không phải là
cơ bản” (tr 139) trong việc xác định một BN là BN trực tiếp hay BN gián tiếp nên dường như [±BN]
không được xem là tiêu chí cơ bản để nhận diện, phân loại VT. Chúng tôi cho rằng những khác biệt
do giới từ đem lại cũng góp phần khẳng định sự có mặt của chúng không phải là vấn đề tùy ý, mà có
những lí do từ nhiều phương diện chi phối.
82. a. Tôi nghiên cứu văn học Việt Nam.
Trong câu (b), sự có mặt của giới từ (về), như nhận xét tinh tế của Nguyễn Tài Cẩn (1975), có
tác dụng “biểu thị thái độ khiêm tốn của người nói”. Chúng tôi cho rằng sự khác biệt giữa nghiên cứu
và nghiên cứu về cũng nằm trong hệ thống đối lập giữa bàn và bàn về, thảo luận và thảo luận về, v.v.
Đó là sự khác biệt giữa [±thẩm quyền] như chúng tôi đã đề cập trong mục 2.1.2.1. Phải chăng hàm ý
“biểu thị thái độ khiêm tốn” có trong câu (b) là bởi chủ thể của nghiên cứu về thường được hiểu là
người không có thẩm quyền tham gia vào hành động được đề cập đến – người nói tự xem mình là
người ‘ngoại đạo’? Trong khi đó, câu (a) có hàm ý rằng người nói là người ‘có thẩm quyền’ tham gia
vào hành động được nói đến.
b. Tôi nghiên cứu về văn học Việt Nam.
- VT tư thế chuyển thành VT hành động
Trong tiếng Việt nhóm VT tư thế có thể dùng như VT hành động. Ở cả hai cách dùng, chúng
đều thuộc loại VT NgĐ kém điển hình.
83. a. Thằng bé xoạc chân.
27 Ở đây chúng tôi sẽ không đề cập đến sự khác nhau của các cặp câu như: “mua cho con nào bánh nào quà” và “mua con cái bánh nhé” [15, tr.111]. Việc thêm hay bớt giới từ trong những câu trên không làm thay đổi tư cách cú pháp của VT đang xét – chúng vẫn là những VT NgĐ. Chúng tôi chỉ xét đến vai trò của những giới từ làm thay đổi tư cách của VT mà thôi (chuyển một VT từ NĐ sang NgĐ và ngược lại).
a'. Thằng bé xoạc chân ra.
b. Lan nhắm mắt.
b'. Lan nhắm mắt lại.
d. Nam cúi đầu.
Những VT tư thế (vốn: [–động]) kết hợp với một từ chỉ hướng (vốn là những VT như xuống,
lên, vào, ra, sang, lại) sẽ mang nghĩa của những VT hành động [71, tr.57-59]. Mặc dù loại này không
có sự thay đổi VT ở phương diện cú pháp (tức từ cách dùng NĐ sang cách dùng NgĐ) nhưng lại có
sự thay đổi VT xét từ tiêu chí nghĩa phản ánh sự tình.
d’. Nam cúi đầu xuống.
2.3. PHẠM TRÙ NĐ/ NgĐ TRONG HỆ THỐNG CÁC VẤN ĐỀ NGỮ PHÁP TIẾNG VIỆT
2.3.1. Phạm trù NĐ/ NgĐ và cấu trúc Đề-Thuyết trong tiếng Việt
Mang đặc tính của một ngôn ngữ thiên chủ đề trong tiếng Việt, mối quan hệ giữa cấu trúc Đề-
Thuyết với phạm trù NĐ/ NgĐ thể hiện đa dạng và khá phức tạp.
Để gắn việc khảo sát vào mối quan hệ trên, chúng tôi sẽ không đề cập tới những cấu trúc câu
không chứa (ngữ) VT, chẳng hạn cấu trúc mà Thuyết là một (ngữ) danh từ (kiểu như: Anh ấy người Hà
Nội, Đồng hồ này ba kim).
Từ các cấu trúc câu có chứa (ngữ) VT, chúng tôi mô hình hoá thành hai kiểu chính: (i) “N + (bị/
được) + V (+N’)”; (ii) “N + N’ + V (+N’’)” trong đó N, N’, N’’ là các (ngữ) danh từ; V là VT. Tìm hiểu
mối quan hệ giữa cấu trúc Đề-Thuyết với phạm trù NĐ/ NgĐ chính là chỉ ra mối quan hệ cú pháp giữa
VT làm nòng cốt phần Thuyết với các ngữ đoạn danh từ trong cấu trúc Đề-Thuyết trong đó những ngữ
đoạn danh từ đứng đầu câu đóng vai trò quan trọng (vì chúng thường là tiêu điểm của những cuộc tranh
luận về tư cách cú pháp). Phần tiếp theo sẽ lần lượt đề cập tới mối quan hệ giữa phạm trù NĐ/ NgĐ với
cấu trúc Đề-Thuyết thể hiện trong hai cấu trúc trên.
2.3.1.1. Cấu trúc “N + V (+ N’)”
Liên quan đến cấu trúc này có hai trường hợp chính cần xét.
Trường hợp thứ nhất, N là một tham tố giữ các vai Hành thể, Tác thể, Nghiệm thể, Lực, v.v. trong
cấu trúc nghĩa của VT. Những câu kiểu này được một số tác giả xem là có trật tự “bình thường”. Trong
cấu trúc này, V có thể là VT NĐ hay VT NgĐ.
84. a. Nam thường dậy trước 5 giờ.
b. Lan vẽ tranh rất đẹp.
c. Gió thổi tốc mái nhà.
Trong các câu trên, mối quan hệ nghĩa giữa N với (ngữ) VT làm Thuyết thể hiện rất đa dạng (x.
[32, tr.115-117]). Về quan hệ cú pháp, hầu hết các nhà nghiên cứu tiếng Việt đều nhận thấy N không
nằm trong cấu trúc ngữ VT do VT trong phần Thuyết làm trung tâm, nghĩa là, Đề/ chủ ngữ không phải
là một BN của VT này. Tư cách cú pháp của VT trong các câu trên nhìn chung là không gây tranh
luận.
Trường hợp thứ hai, N là một tham tố bất động vật và là Bị thể trong cấu trúc nghĩa của V; phía
trước VT này có thể có VT tình thái (bị, được, phải). Đây là cấu trúc gây nhiều tranh cãi trong giới
Việt ngữ học. Một số tác giả cho rằng đây là cấu trúc bị động và VT trong cấu trúc này bao giờ cũng là
những VT NgĐ trong đó Đề vốn là BN được đảo lên trước do đó cấu trúc này được coi là phái sinh từ
một cấu trúc chủ động của cùng VT. Tuy nhiên, như đã đề cập trong mục 2.2, chúng tôi cho rằng đây
là một kiểu câu mà VT của nó xét về nghĩa thường là những VT trạng thái. Về phương diện cú pháp,
chúng có thể là VT NĐ hay là VT NgĐ.
85. a. Cơm đã (được) nấu.
b. Cả dãy nhà ấy (bị) tốc mái.
2.3.1.2. Cấu trúc “N + N’ + V (+N’’)”
Cấu trúc “N + N’ + V (+N’’)”, đặc biệt là tư cách cú pháp của ngữ đoạn N là đề tài gây nên
những cuộc tranh luận dai dẳng trong giới nghiên cứu tiếng Việt. Nhiều tác giả đã có những kiến giải
đáng chú ý liên quan tới vấn đề này ([3], [5]; [13]; [18]; [32], [33]; [81]; [85]; [140]; [211]). Sự tranh
luận xung quanh việc ngữ đoạn N (thường được gọi là BN đảo/ khởi ngữ/ từ bổ đề/ khởi ý/ từ-chủ đề,
chủ đề, v.v) có vai trò gì trong cấu trúc câu “N + N’ + V (+N’’)” (về các quan niệm này trong giới Việt
ngữ học, x. [5]; [32]; [85]). Việc xác định tư cách cú pháp của thành phần này sẽ dẫn đến những kết
luận khác nhau về cấu trúc cú pháp đang xét và quan trọng hơn nó cho biết thái độ của các nhà nghiên
cứu về đặc tính loại hình tiếng Việt. Việc xem N trong cấu trúc trên là thành phần phụ, là một bộ phận
trong câu được đảo lên (đảo ngữ) thường gắn với quan niệm xem cấu trúc cú pháp tiếng Việt là cấu
trúc chủ vị; trong khi đó, việc xem thành phần này là thành phần cú pháp cơ bản thường gắn với quan
niệm cho rằng cấu trúc cú pháp tiếng Việt là cấu trúc Đề-Thuyết. Tư cách của các thành tố khác trong
cấu trúc trên thường bị quyết định bởi cách hiểu vai trò cú pháp của ngữ đoạn N. Căn cứ vào những
liên hệ có thể có giữa ngữ đoạn N với các thành tố còn lại trong cấu trúc “N + N’ + V (+N’’)”, chúng
tôi sẽ khảo sát một số kiểu dạng có liên quan.
Kiểu thứ nhất, N có quan hệ lỏng với các thành phần còn lại. N là thành phần in đậm trong các
câu dưới.
86. a. Thằng cha Nam hả, tôi đã từ (hắn) rồi.
b. Cuốn sách này phỏng, tôi đã đọc (nó) rồi.
N được một số tác giả xem là thành phần khởi ngữ (đề ngữ/ từ-chủ đề/ BN giới hạn) một số tác
giả khác gọi chúng là Ngoại đề. Tuy có tên gọi khác nhau nhưng ngữ đoạn này đều được các nhà
nghiên cứu xem là thành phần phụ, nằm ngoài cấu trúc cú pháp. Đặc điểm chung của thành phần này là
có thể lược bỏ mà không làm thay đổi cấu trúc cơ bản của câu. Thành phần này (phần được in đậm)
bao giờ cũng có thể có mặt trong cấu trúc câu cơ bản phía sau, tất nhiên dưới hình thức là những đại từ
hồi chỉ. Xét về mặt chức năng thông tin, sự có mặt của ngữ đoạn này nhằm phục vụ cho mục chuyển
tiếp, duy trì đối thoại, v.v chứ không chứa nội dung thông báo cơ bản. Thành phần này được được tách
rời với các thành phần còn lại bằng dấu phẩy (hay bằng một sự ngắt hơi, dấu ngừng khá dài trên văn
bản nói) và kết thúc bởi một tiểu từ tình thái [32, tr.79-81].
Kiểu thứ hai, N chỉ có quan hệ nghĩa với N’ chứ không có quan hệ nghĩa trực tiếp với V (quan hệ
phi tham tố).
87. a. Bộ đội họ đánh giặc giỏi lắm.
Trong các câu trên, N (phần in đậm) và N’(phần in đứng) có quan hệ với nhau theo một kiểu nào
đó. Trong các câu trên, chúng có cùng vật quy chiếu. VT trong những câu này có thể có tư cách khác
nhau, chẳng hạn, ở câu (a) VT là VT NgĐ điển hình còn ở (b) VT là VT NgĐ kém điển hình. Về tư
cách cú pháp, N được một số tác giả xem là khởi ngữ (thậm chí đánh đồng với trường hợp N là Ngoại
đề tức là kiểu thứ nhất vừa đề cập ở phần trên). Theo quan điểm ngữ pháp chức năng, N trong cấu trúc
này được xem là Chủ đề (một loại Nội đề) có chức năng là thành phần chính trong cấu trúc cú pháp. N’
là Tiểu đề cùng với V tạo thành tiểu cú (Đề-Thuyết bậc 2) làm thành phần Thuyết cho ngữ đoạn N (làm
Đề). Về phương diện chức năng, cấu trúc này hoàn toàn giống với cấu trúc sẽ đề cập dưới đây. Tuy
nhiên, không giống với kiểu dưới, N ở cấu trúc này không có quan hệ tham tố với V (VT) trong phần
Thuyết. Do không gắn trực tiếp với vấn đề đang tìm hiểu, kiểu cấu trúc này sẽ không được đề cập
thêm.
Kiểu thứ ba, N có quan hệ nghĩa trực tiếp với V (quan hệ tham tố) và N, N’ không bao giờ có
cùng sở chỉ. Trường hợp này thể hiện rõ nhất mối quan hệ giữa phạm trù NĐ/ NgĐ với cấu trúc Đề-
Thuyết.
88. a. Làng ta chúng đốt trụi hết.
b. Nam Bắc hai miền ta có nhau.
b. Cuốn sách ấy tôi thích lắm.
c. Sa Pa tôi đến một lần rồi.
N trong các câu trên được một số tác giả xem là hiện tượng đảo ngữ (BN của VT trong câu được
đảo lên phía trước) hoặc được gọi là thành phần khởi ngữ (đề ngữ) và nó cũng bị xem là thành phần
d. Thằng Nam (bị) bạn gái chơi xỏ.
ngoài cấu trúc nòng cốt câu. Thực ra, thành phần này có vai trò cú pháp rất quan trọng, mà những
người theo khuynh hướng ngữ pháp chức năng gọi là Chủ đề (một loại Nội đề). Nhiệm vụ mà chúng
tôi đặt ra là xác định đặc điểm cú pháp của VT trong cấu trúc này (chúng là VT NĐ hay VT NgĐ).
Việc xác định đặc điểm cú pháp của N (và N’) trong các câu trên sẽ góp phần giải đáp vấn đề này.
Việc gọi N là thành phần phụ, là BN của VT NgĐ được đảo lên có vẻ hợp lí. Tuy nhiên, một số
nhà Việt ngữ học đã chứng minh việc xem N trong các câu ở ví dụ 88 là thành phần phụ nằm ngoài cấu
trúc cú pháp cơ bản là không hợp lí vì tính chất bắt buộc của chúng trong cấu trúc (không thể lược bỏ),
hơn nữa, việc N có các thuộc tính của chủ đề (tương đương với những thuộc tính của chủ ngữ trong các ngôn ngữ thiên chủ ngữ)28, càng khẳng định việc xem N là thành phần đảo (BN đảo), và là thành phần
phụ ngoài cấu trúc là giải pháp khó có thể chấp nhận. Tư cách cú pháp của N trong ví dụ trên, như
nhiều nhà loại hình học đã chứng minh, là Đề trong cấu trúc cú pháp [32, tr.106]. Câu hỏi còn lại là VT
trong những câu như vậy thuộc loại nào: NĐ hay NgĐ?
89. a. Ngôi nhà này chúng tôi xây trong ba tháng.
Xem VT trong các câu trên là VT NĐ dường như khó được chấp nhận. Là những VT hành động
có chủ thể mang đặc tính [+chủ ý] (chúng tôi, quốc hội), những VT này được người Việt cảm nhận
chưa hoàn chỉnh (cả về ý nghĩa và cú pháp) do đó chúng cần có thêm một ngữ đoạn tuy nhiên vì những
lí do nhất định (được hiểu ngầm, hay do tình huống) ngữ đoạn này có thể không được hiện thực hoá
(vắng mặt). Và trên thực tế, không nhà Việt ngữ học nào xem VT trong các câu trên là VT NĐ.
Theo chúng tôi, những VT kiểu này hoàn toàn có đủ tư cách là những VT NgĐ. Vấn đề cần xác
định là BN trực tiếp của chúng ở đâu. Câu trả lời ở đây rõ ràng chỉ có thể là: (i) BN trực tiếp chính là N
(tức là ngữ đoạn làm Đề); (ii) BN trực tiếp đã bị tỉnh lược (BN zero). Giải pháp thứ nhất, theo chúng
tôi là không hợp lí. Trên cùng một bình diện, một ngữ đoạn không thể đảm nhiệm hai chức năng (“một
thể hai ngôi”). Nói cách khác, N đã đảm nhận cương vị Đề thì không thể cũng là BN trực tiếp “đảo”
lên được bởi cả Đề và BN trực tiếp đều là những đơn vị cú pháp (cho dù chúng không cùng bậc). Vì lí
do này, chúng tôi chọn giải pháp thứ 2: xem BN trực tiếp được tỉnh lược còn N là ngữ đoạn đảm nhận
vai Đề. Lí do của việc vắng mặt BN này là do sở chỉ của nó trùng với sở chỉ của Đề trong cấu trúc cú
pháp. Trong việc tổ chức mệnh đề trên bề mặt cú pháp, Đề được ưu tiên nên chúng xuất hiện (nói đúng
ra là bắt buộc phải xuất hiện, vì nếu ngữ đoạn làm Đề bị tỉnh lược đi, chúng ta có sẽ có kiểu câu khác).
Việc xác định tư cách cú pháp các VT trong những câu kiểu như 88, 89 không tạo ra mâu thuẫn giữa
28 Trong “Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng” (1991), sau khi khẳng định những thuộc tính quan trọng của Đề: vị trí đầu câu, một vị trí “tự nhiên”, phổ biến [32, tr 90], Cao Xuân Hạo đã chỉ ra những thuộc tính cú pháp cơ bản của Chủ Đề. Đó là: “1. Quyền kiểm định lược bỏ những danh ngữ (kể cả đại từ) đồng sở chỉ trong câu (và đôi khi cả ngoài câu); 2. Quyền kiểm định việc sử dụng đại từ “tự kỉ” mình; và 3. Quyền kiểm định chỉ tố số phức đều” (tr 106).
b. Luật giáo dục quốc hội thông qua từ lâu rồi.
cấu trúc cú pháp với cấu trúc nghĩa của VT và phù hợp với các tiêu chí phân loại mà chúng tôi đưa ra ở
mục 2.1.2.
Việc tỉnh lược BN trực tiếp (tức N’’) trong cấu trúc “N + N’ + V (+N’’)", không phải chỉ là vấn
đề tiết kiệm mà đó còn là “một biện pháp liên kết các thành phần của câu lại để tạo được mạch lạc
trong câu và do đó mà làm nên tính đơn vị, tính nhất thể của câu (…)” [32, tr.109]. Nếu cần, BN này
có thể xuất hiện dưới hình thức một đại từ hồi chỉ (‘nó’, ‘chúng’, v.v).
2.3.2. Phạm trù NĐ/ NgĐ và vấn đề cấu trúc bị động trong tiếng Việt
Bị động có mối liên hệ chặt chẽ với phạm trù NĐ/ NgĐ bởi nó thường được xem là cấu trúc có
liên hệ mật thiết với VT NgĐ. Bị động được xem là một hình thức phái sinh, là kết quả của quá trình
biến đổi (bị động hóa – passivization) từ một cấu trúc chứa VT NgĐ. Bị động cũng liên quan đến
những tranh luận về cương vị VT NĐ của VT trong cấu trúc bị động. Đặc biệt bên cạnh tiêu chí nhận
diện phạm trù NĐ/ NgĐ dựa trên các đặc điểm thuộc về hình thái cú pháp học (sự đánh dấu hình thái
học, trật tự từ, hư từ), bị động hóa được xem là một tiêu chí được chấp nhận rộng rãi trong việc kiểm chứng tư cách NgĐ cũng như tư cách của BN trực tiếp29. Quan hệ giữa bị động và NĐ/ NgĐ chặt chẽ
đến mức, theo A. Slewlerska (1985), không thể nói đến khái niệm này mà không nói đến khái niệm
kia [189, tr.8]. Tuy nhiên, trong thực tế, bên cạnh phần lớn những ngôn ngữ tồn tại cả hai phạm trù
này, có một số ngôn ngữ có phạm trù này nhưng không có phạm trù kia và ngược lại.
Theo nghiên cứu của Ch. Li và S. Thompson (1976), trong những ngôn ngữ thiên chủ ngữ
(subject prominent languages) cấu trúc bị động rất phổ biến. Trái lại, trong những ngôn ngữ thiên chủ
đề (topic prominent languages), dạng bị động được coi là vắng mặt hoặc là hiện tượng ngoại biên [178,
tr.461]. Vậy với một ngôn ngữ thiên chủ đề như tiếng Việt, dạng bị động tồn tại hay không? Cho đến
nay, câu trả lời cho vấn đề này vẫn chưa có sự thống nhất trong giới Việt ngữ học. Nguyễn Phú Phong
(1976) cho rằng trong tiếng Việt, bị động tồn tại như một phạm trù ngữ pháp độc lập bởi chúng ta có
thể tạo ra những cặp câu chuyển dịch tương đương những cặp câu chủ động – bị động trong các ngôn
ngữ khác (như tiếng Pháp chẳng hạn) và tiếng Việt có những yếu tố cụ thể hoá các dạng câu này (dẫn
lại [140, tr.49]). Mô hình đầy đủ và mô hình rút gọn của những câu có dạng bị động trong tiếng Việt,
theo Nguyễn Phú Phong, thể hiện như sau.
90. a. Quang được Bảo thương.
a'. Quang được thương.
b. Thuốc A được chế năm 1973.
29 Dựa trên hướng phân tích này, một ngữ đoạn danh từ được xem là BN trực tiếp và một mệnh đề được xem là NgĐ nếu ngữ đoạn danh từ này có thể xuất hiện với tư cách là chủ ngữ của cấu trúc bị động tương ứng. Tiêu chí này thậm chí còn được đánh giá cao hơn cả tiêu chí dựa trên các đặc điểm hình thái học [200, tr.10-11].
b'. Thuốc A chế năm 1973.
Theo ông, các câu (a’) và (b’) là hình thức phái sinh, được rút gọn lần lượt từ các câu (a) và (b).
Diệp Quang Ban thì cho rằng dạng bị động trong tiếng Việt là “toàn bộ kiến trúc chủ-vị có khuôn
hình “chủ ngữ danh từ khách thể – vị ngữ động từ hành động NgĐ” và bao giờ cũng có thể xen các từ
như bị, được vào giữa, nhưng chúng không có mặt, chứ dạng bị động không được biểu thị bằng một
hình thái nào đó của động từ như trong các ngôn ngữ biến từ Ấn-Âu” [2, tr.164-165].
Cũng hướng đi tương tự, Nguyễn Hồng Cổn & Bùi Thị Diên cho rằng với tính chất là ngôn ngữ
phân tích tính điển hình, tiếng Việt dù không tồn tại dạng bị động với tư cách một phạm trù hình thái
học thuần túy nhưng vẫn tồn tại cấu trúc bị động, câu bị động với tư cách là một loại ý nghĩa ngữ pháp
và nó được biểu hiện bằng các phương tiện ngữ pháp như hư từ, trật tự từ [20, tr.17].
E. Keenan (1985) trong một công trình bàn về phạm trù bị động trong các ngôn ngữ trên thế giới cũng xem tiếng Việt có dạng bị động và thuộc nhóm bị động có sử dụng VT trợ (auxiliaries)30 và thận
trọng lưu ý nếu “chấp nhận những cấu trúc này là dạng bị động” (từ dùng của tác giả – chúng tôi nhấn
mạnh) thì cần phải thấy có nhiều VT trợ có thể thực hiện vai trò này, và những VT trợ này trong nhiều
trường hợp được dùng như VT độc lập [169, tr.260-261].
Một số tác giả khác có đề cập đến dạng bị động ở những mức độ và khía cạnh khác nhau ([18,
tr.416-419]; [57, tr.78-84]; [69, tr.138], v.v.). Có tác giả, đứng từ góc độ ngữ pháp chức năng hệ thống,
xem dạng bị động tồn tại trong tiếng Việt nhưng dạng này được thể hiện ở cấp độ câu và có thể nhận
diện ở nhiều bình diện: chuyển tác, thức và đề ngữ [105, tr. 229].
Trái với các quan niệm trên, nhiều tác giả khác đã khẳng định tiếng Việt không có phạm trù dạng
([1, tr.36-47]; [33, tr.397-398]; [81, tr.237-240]; [97, tr.204-207]; [141, tr.73]; [211, tr.217]). Chẳng
hạn, L. Thompson, dùng khái niệm “bị động lô gích” (logical passive) [211, tr.217] khi bàn về vấn đề
bị động trong tiếng Việt. Tác giả đã nhận thấy phần lớn hệ thống trật tự sắp xếp trong ngữ pháp tiếng
Việt không có tương ứng trong tiếng Anh và cho rằng “sự tương phản giữa chủ ngữ và BN vốn quá
quan trọng trong tiếng Anh – lại đơn giản, không có vai trò trong hệ thống tiếng Việt. Điều này rõ ràng
có liên hệ với sự thiếu ý nghĩa ngữ pháp dạng (voice) (chúng tôi nhấn mạnh) trong VT” (tr.226).
Gần đây, Nguyễn Đình Hòa (1996), trong một công trình bàn về VT đăng trên Tạp chí nghiên
cứu Mon-Khmer (“Mon-Khmer Studies Journal”), đã có một ý kiến đáng lưu ý về vấn đề dạng trong
tiếng Việt. Theo tác giả, phạm trù này chỉ có thể nhận diện được trong ngữ cảnh; và “nói một cách chặt
chẽ, tiếng Việt chỉ sử dụng dạng chủ động mà thôi” [187, tr.143]. Như vậy theo tác giả, tiếng Việt
không có sự đối lập về dạng (giữa chủ động và bị động).
30 Từ phương diện cú pháp, tác giả chia các dạng bị động (trong những ngôn ngữ có phạm trù này) trên thế giới ra làm hai loại: loại có sử dụng VT trợ – “bị động vòng” (periphrastic passives) và loại thể hiện phạm trù dạng bằng các yếu tố gắn với VT (tiếp tố, biến đổi ngữ âm…) – “bị động hình thái chặt” (strict morphological passives) [170, tr.251].
Những người cho rằng phạm trù bị động tồn tại trong tiếng Việt chủ yếu căn cứ vào hai cơ sở: (i)
sự có mặt của một số chỉ tố chỉ dạng như bị, được (và phải, mắc, chịu) trong cấu trúc bị động; (ii) sự
chuyển đổi vị trí của BN chỉ đối tượng từ sau VT lên vị trí Đề/ chủ ngữ. Gắn mối quan hệ của phạm trù
NĐ/ NgĐ với những hiện tượng liên quan đến vấn đề cấu trúc bị động, chúng tôi sẽ bàn thêm về tư
cách cú pháp của các từ bị, được và đặc trưng cú pháp của VT trong cấu trúc “BN chỉ khách thể (+ bị,
được) + VT”.
2.3.2.1. Tư cách cú pháp của các từ ‘bị’, ‘được’
Giới Việt ngữ học phần lớn đều cho rằng bị, được l à VT ngôn liệu khi chúng đứng trước một
(ngữ) danh từ (kiểu như: Hắn bị nạn, Hắn được tiền thưởng). Trong cấu trúc này, bị, được có đầy đủ tư
cách là những VT NgĐ.
Sự tranh luận chủ yếu xoay quanh hiện tượng bị, được đứng trước (ngữ) VT. Nhìn chung có hai
cách giải quyết về tư cách cú pháp của bị, được. Một số người cho rằng bị, được là phụ từ/ trợ từ đánh
dấu dạng bị động, một số người khác cho rằng bị, được là những VT. Trong nhóm những người xem
bị, được là VT, một số người xem chúng vẫn là yếu tố quan trọng trong cấu trúc câu bị động và “thể
hiện ý nghĩa bị động” [80, tr.173-175], trong khi nhiều tác giả khác lại xem bị, được là những VT NgĐ
đích thực và là VT tình thái [33, tr.397-398]. Chẳng hạn, Nguyễn Minh Thuyết đã đưa ra bốn lí do để
phủ nhận tư cách hư từ và cũng là để khẳng định tư cách VT của bị, được: (i) chúng có thể xuất hiện ở
nhiều bối cảnh (trước danh từ, trước VT NĐ, trước VT NgĐ) trong khi nếu là hư từ chỉ xuất hiện trong
một kiểu loại bối cảnh nhất định; (ii) chúng là thành tố chính, chi phối ngữ đoạn được coi là có vai trò
chính đứng phía sau; (iii) không thể giải thích được tư cách hư từ của bị, được khi chúng đứng trước
một chuỗi VT phía sau; (iv) sau kết cấu “bị/ được + VT (được coi là ‘NgĐ’)” vẫn có khả năng BN trực
tiếp. Từ đó tác giả cho rằng “xếp các từ bị, được vào từ loại động từ là hướng giải quyết có sức thuyết
phục hơn” [97, tr.204-206]. Nguyễn Đình Hòa (1996) không chỉ tán đồng việc xem bị, được, phải, chịu
là VT mà “nói một cách chặt chẽ” (từ dùng của tác giả), các VT này còn là những VT NgĐ [187,
tr.143].
Gắn với mục đích của luận án, ở đây chúng tôi sẽ tập trung làm rõ tư cách cú pháp của bị, được
và gắn chúng với với phạm trù NĐ/ NgĐ.
Trước hết chúng ta cũng thấy một thực tế không thể phủ nhận là tần số xuất hiện của bị, được khá
cao trong những câu thể hiện sự tình thụ động. Bị, được trong nhiều trường hợp thường được chuyển
dịch tương đương với trợ động từ (như to be trong tiếng Anh) dùng để đánh dấu dạng bị động trong
một số ngôn ngữ có dạng bị động. Tuy nhiên, nếu xem bị, được là yếu tố đánh dấu dạng bị động thì
không thể giải thích được tại sao chúng là yếu tố không bắt buộc; hơn nữa, cũng khó giải thích khả
năng xuất hiện linh hoạt của chúng trong nhiều kiểu cấu trúc, đôi khi trái ngược nhau, trong đó có
những cấu trúc hoàn toàn không thể hiện ý nghĩa bị động. Thực ra, giống như các VT tình thái khác, bị,
được có thể bị lược đi mà “câu vẫn còn đúng ngữ pháp và có nghĩa, tuy trong cái nghĩa này có mất cái
gì đó. ‘Cái gì’ bị mất do khi lược bỏ như vậy ta gọi tạm là một ý nghĩa tình thái” [33, tr.398].
Định nghĩa về VT tình thái, T. Givón cho rằng chúng là “[…] những VT đứng trước VT ngôn liệu
có cùng chủ thể” [147, tr.117]. Theo cách hiểu này, bị, được có đầy đủ tư cách của VT loại này. Nhìn lại
lịch sử nghiên cứu tiếng Việt, ý nghĩa tình thái của bị, được cũng đã được khá nhiều tác giả đề cập tới.
Nhóm Trần Trọng Kim từ năm 1940 đã xem bị, được là những động từ diễn tả phần lợi hay phần hại [43,
tr.93]. Học giả Phan Khôi [44, tr.146] cũng đã có một bài viết về ý nghĩa của bị, được trong tiếng Việt,
mà theo ông, chúng đã tạo ra đặc điểm “thể hiện sự yêu ghét chủ quan” – một trong ba đặc điểm của
tiếng Việt. Hầu hết các tác giả về sau đều nhận thấy ý nghĩa tình thái của bị, được ([1, tr.37]; [18, tr.416-
419]; [57, tr.78-79]; [81, tr.239]; [105, tr.234]).
Xét từ tiêu chí hình thức cú pháp, bị, được cũng đã được nhiều tác giả chứng minh là những VT
NgĐ ([1, tr.36-47]; [33, tr.397-398]; [97, tr.204-207]; [140, tr.51-52]). Quy luật hình thành cụm từ vốn
nhất quán trong tiếng Việt (một ngôn ngữ SVO) cũng như những trắc nghiệm kiểu Jakhontov cũng
hoàn toàn khẳng định tư cách VT NgĐ của bị, được. Với những câu trong ví dụ 65 trên, chúng ta có:
Cô ta được gì? Lan được gì? Hắn bị gì? Tôi bị gì? Sơ đồ phân tích cho câu chứa bị, được, chẳng hạn
câu 64a, có thể được thể hiện như sau:
Cuối cùng, việc bị, được tạo ra những cách hiểu mơ hồ (ambiguous) cũng góp phần phủ định vai
trò làm chỉ tố đánh dấu dạng bị động của những từ này. Ví dụ quen thuộc (“được đánh”) mà Phan Khôi
đã từng đưa ra cách đây nửa thế kỷ là một dẫn chứng. Được đánh có phải chứa đựng ý nghĩa bị động
hay không? Trong một câu như “Tôi được thầy đánh cho một roi mà trưởng thành” thì ý nghĩa bị động
là phù hợp. Nhưng “chồng được đánh vợ, vợ không được đánh chồng” thì được đánh rõ ràng không hề
có ý nghĩa bị động mà hoàn toàn mang nghĩa chủ động. Rõ ràng được đánh trong câu đi sau không
phải là “nhận lấy” mà là “có thể”, “được phép” theo cách giải thích rất hợp lí của Phan Khôi [44,
tr.146].
Tóm lại, theo quan điểm của chúng tôi, bị và được là những VT kiêm chức. Xét từ tiêu chí nghĩa
biểu hiện, chúng vừa là VT ngôn liệu vừa là VT tình thái. Chúng là VT ngôn liệu khi BN trực tiếp của
chúng là (ngữ) danh từ, tiểu cú, (ngữ) VT không có cùng chủ thể. Trong những trường hợp này sự có
mặt của bị, được là bắt buộc. Chúng là VT tình thái khi có BN trực tiếp là (ngữ) VT có cùng chủ thể.
Khi hoạt động với tư cách là những VT tình thái chúng thường mang nghĩa có lợi, hợp mong muốn
(với được) và bất lợi, không như mong muốn đối với người nói hoặc chủ thể hành động (với bị). Khi là
Cô ta được hát
VT tình thái, bị, được có thể bị tỉnh lược mà không dẫn đến hiện tượng không được chấp nhận (tức sai
ngữ pháp) – tất nhiên phải có sự mất mát về phương diện ý nghĩa, dụng pháp. Xét về tư cách cú pháp,
dù khi bị, được là VT ngôn liệu hay VT tình thái, chúng đều có đủ tư cách là những VT NgĐ. Không
thể xem bị, được là chỉ tố của dạng bị động trong tiếng Việt bởi trong những cấu trúc thể hiện sự tình
thụ động sự có mặt của chúng là không bắt buộc; hơn nữa trong rất nhiều trường hợp, bị, được có thể
xuất hiện trong những cấu trúc mang nghĩa chủ động. Việc xem chúng như những hư từ đánh dấu dạng
bị động một mặt xem nhẹ tư cách cú pháp vốn rất rõ ràng của chúng mặt khác lại phản ánh sai lệch vai
trò rất đa dạng của bị, được ở những cấu trúc phản ánh các ý nghĩa sự tình khác nhau trong tiếng Việt.
2.3.2.2. Đặc trưng cú pháp của VT trong cấu trúc “BN chỉ khách thể (+ bị, được) + VT”
Một số tác giả cho rằng trong tiếng Việt dạng bị động được đánh dấu bằng việc có mặt của bị,
được và sự đảo vị trí của BN chỉ khách thể lên vị trí Đề/ chủ ngữ ở trước VT. Thậm chí một số tác giả
còn cho rằng câu bị động trong tiếng Việt được tạo thành chỉ nhờ việc đảo vị trí của BN khách thể lên
vị trí Đề/ chủ ngữ chứ không đề cập tới vai trò của bị, được [104, tr.181].
Theo chúng tôi cách gọi tên cấu trúc trên cần xem xét lại. Việc coi ngữ đoạn đầu trong cấu trúc
trên là “BN chỉ đối tượng” là không hợp lí vì đã giả định VT phía sau là một VT NgĐ. Một cách khách
quan, ngữ đoạn đầu tiên trong cấu trúc này nên gọi là “N” (ngữ đoạn danh từ) và nếu cần có thể giải
thích thêm đặc tính ngữ nghĩa của chúng (chẳng hạn, tham tố động vật).
Với cấu trúc này, chúng tôi tạm chia thành hai loại: (i) cấu trúc N là tham tố động vật; (ii) cấu
trúc mà N là tham tố bất động vật.
Với cấu trúc câu “N (tham tố động vật) (+ bị/ được) + VT”, chúng tôi nhận thấy VT trong kiểu
này có thể là VT NĐ và cũng có thể là VT NgĐ. Chẳng hạn:
91. a. Anh ấy được học tiếng Đức.
a'. Anh ấy học tiếng Đức.
b. Lan bị trễ chuyến bay hôm nay.
b'. Lan trễ chuyến bay hôm nay.
c. Nam được ngồi trên hàng ghế đầu.
VT trong các câu (a), (a’), (b), (b’) là những VT NgĐ, trong khi đó VT trong khi câu (c) và (c’) là
những VT NĐ. Bị, được trong các câu (a), (b), (c) là những VT tình thái.
Trong cấu trúc “N (tham tố bất động vật) (+ bị/ được) + VT”, như ví dụ dưới, VT đứng sau VT
tình thái bị, được là VT NĐ. Về phương diện nghĩa, VT trong kiểu câu này là VT trạng thái (x. mục
2.2).
c'. Nam ngồi trên hàng ghế đầu.
92. a. Cuốn sách (được) đặt trên bàn.
b. Cơm (được) nấu rồi.
Những VT ngôn liệu trong các câu trên (đặt, nấu, tịch thu), như vậy, là những VT có hai cách
dùng. Nằm trong cấu trúc có N là tham tố động vật, những VT này có tư cách là những VT NgĐ điển
hình còn khi nằm trong cấu trúc có N là tham tố bất động vật, chúng là những VT được dùng theo cách
NĐ. Đặc tính NĐ của những VT này sẽ hoàn toàn thấy rõ khi chúng ta lược bỏ VT tình thái bị, được.
Trong mỗi cách dùng (NĐ hay NgĐ), những VT này đều bị chi phối bởi một số giới hạn ngữ nghĩa
nhất định (x. mục 2.3.2.1).
c. Hàng hoá (bị) tịch thu hết.
2.4. TIỂU KẾT
Chương 2, chương trọng tâm của luận án, tập trung khảo sát những đối lập liên quan đến phạm
trù NĐ/ NgĐ và những vấn đề hữu quan trong tiếng Việt.
Phần đầu của chương đề cập khái lược đặc điểm cú pháp của VT NĐ và VT NgĐ sau đó đi sâu
khảo sát VT NĐ [±điển hình] và VT NgĐ [±điển hình]. Với các nhóm VT NĐ và VT NgĐ điển hình,
nhìn chung việc nhận diện cũng như phân loại thường ít gây tranh luận. Tùy mục đích cụ thể, nhóm
VT NĐ điển hình, VT NgĐ điển hình có thể được phân chia nhỏ hơn. VT NgĐ kém điển hình là nhóm
được khảo sát khá chi tiết.
Qua khảo sát các kiểu VT NĐ, VT NgĐ trong tiếng Việt, chúng tôi nhận thấy khá nhiều VT có
thể tham gia vào những nhóm VT khác nhau. Hiện tượng này dẫn đến việc xếp một số VT vào một
nhóm nào đó, về thực chất, là xếp một vài nét nghĩa của chúng vào các mô hình cú pháp có thể có. T.
Givón đã rất đúng khi khẳng định: “Chúng ta nói rằng một từ thuộc một loại cụ thể nào đó, cần phải
hiểu là một nghĩa cụ thể của VT ấy thuộc loại đó” [152, tr.126].
Trong chương này, chúng tôi cũng đã khảo sát hiện tượng thay đổi diễn trị và quan hệ của nó đối
với sự chuyển loại VT trong tiếng Việt. Quan hệ này là quan hệ đa chiều, bao gồm những hiện tượng
sau:
– Rút gọn diễn trị kéo theo sự chuyển đổi tư cách cú pháp của VT;
– Mở rộng diễn trị kéo theo sự chuyển đổi tư cách cú pháp của VT;
– Thay đổi diễn trị không kéo theo sự thay đổi tư cách cú pháp của VT;
– Thay đổi tư cách cú pháp của VT nhưng không có sự thay đổi diễn trị.
Những biểu hiện này thể hiện mối quan hệ cơ bản trong ngôn ngữ: quan hệ giữa ngữ nghĩa với ngữ
pháp; quan hệ giữa cấu trúc bề sâu với cấu trúc bề mặt, trong đó ngữ nghĩa, cấu trúc sâu thường đóng
vai trò chi phối. Hai hiện tượng đầu cho thấy mối quan hệ chặt chẽ giữa hai bình diện, hai cấp độ;
trong khi đó, hai hiện tượng sau, cho thấy tính độc lập tương đối của từng bình diện. Tóm lại, nguyên
nhân sâu xa của hiện tượng VT có hai cách dùng chính là sự thay đổi cấu trúc tham tố mà nói một cách
giản đơn hơn, như E. Gordon & I. Krylova (1980), là do sự tồn tại của các VT đa nghĩa (polysemantic
verbs). Một khi còn hiện tượng VT đa nghĩa hiển nhiên sẽ tồn tại khả năng VT có hai cách dùng.
Về những vấn đề có liên quan với phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt, chương này tập trung vào
hai vấn đề: phạm trù NĐ/ NgĐ và vấn đề “cấu trúc Đề-Thuyết”; phạm trù NĐ/ NgĐ và vấn đề “dạng/
câu bị động”.
Nói chung sự phân biệt NĐ/ NgĐ không phải bao giờ cũng cần phải đặt ra khi nghiên cứu tất cả
các cấu trúc cú pháp tiếng Việt bởi hiện tượng câu không có VT xuất hiện khá nhiều trong tiếng Việt.
Với cấu trúc “N + N’ + V (+ N’’)” trong đó N có quan hệ tham tố với VT, V luôn được xem là VT
NgĐ, và N’’ (BN trực tiếp) đã được lược bỏ vì nó có cùng sở chỉ với Đề. Hiện tượng BN trực tiếp vắng
mặt trên bình diện cú pháp và ngữ danh từ đồng sở chỉ đảm nhiệm chức năng cú pháp cơ bản (Đề)
trong câu có thể xem là một đặc điểm nổi bật của cấu trúc cú pháp tiếng Việt.
Phần cuối của chương bàn về vấn đề ‘dạng/ câu bị động’ trong tiếng Việt. Luận án cho rằng, cấu
trúc tương đương với kiểu câu bị động trong các ngôn ngữ có phạm trù dạng chính là kiểu câu trạng
thái trong tiếng Việt. VT trong những câu này, do đó, là những VT NĐ (và là VT trạng thái, xét theo
nghĩa phản ánh sự tình). R. Jacobson khi bàn về ngôn ngữ đã cho rằng “các ngôn ngữ khác nhau chủ
yếu là ở chỗ nó bị bắt buộc phải biểu đạt cái gì, chứ không phải ở chỗ nó có thể biểu đạt cái gì” (x. [32,
tr.263]). Tiếng Việt như bất kì ngôn ngữ nào khác, có thể diễn đạt ý nghĩa bị động cũng như tất cả mọi
kiểu ý nghĩa mà các ngôn ngữ khác có thể diễn đạt. Tuy nhiên, tiếng Việt không có những dấu hiệu
hình thức ngữ pháp chuyên biệt có tính bắt buộc để thể hiện ý nghĩa bị động, vì thế, tiếng Việt (ở trạng
thái hiện tại) không có dạng bị động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp và trong tiếng Việt không
có sự đối lập ngữ pháp giữa dạng chủ động và dạng bị động.
Chương 3
ĐỐI CHIẾU PHẠM TRÙ NỘI ĐỘNG/ NGOẠI ĐỘNG
TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TRONG TIẾNG ANH
3.1. CƠ SỞ VÀ MỤC ĐÍCH ĐỐI CHIẾU
Đối chiếu với các ngôn ngữ khác là thao tác cần thiết để nhận thức đầy đủ đặc điểm của một ngôn
ngữ cụ thể. Việc đối chiếu đem lại kết quả là phát hiện về những tương đồng, dị biệt giữa các ngôn ngữ
được đối chiếu. Qua nghiên cứu phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Anh, chúng tôi tìm thêm những luận
cứ để biện giải cho phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt.
Xét từ phương diện loại hình, tiếng Việt và tiếng Anh có nhiều khác biệt nhưng cũng có một số
tương đồng. Về khác biệt, tiếng Việt thuộc ngôn ngữ không biến hình (đơn lập), thiên chủ đề trong khi
đó tiếng Anh thuộc ngôn ngữ biến hình, thiên chủ ngữ. Tuy nhiên căn cứ vào trật tự sắp xếp các thành
tố của câu, cả hai ngôn ngữ đều thuộc nhóm ngôn ngữ SVO. Đi sâu hơn vào những đặc điểm cú pháp,
cả hai ngôn ngữ này đều chia sẻ một số phạm trù chung trong đó có phạm trù NĐ/ NgĐ. Đây là những
cơ sở cần thiết và rất quan trọng cho việc đối chiếu giữa hai ngôn ngữ.
Việc đối chiếu tiếng Việt với tiếng Anh có nhiều thuận lợi. Với tư cách là một trong những ngôn
ngữ được sử dụng phổ biến nhất trên thế giới, tiếng Anh đã được nghiên cứu khá kĩ lưỡng. Ngay cả
trong những công trình nghiên cứu các ngôn ngữ khác trên thế giới, tiếng Anh cũng thường được dùng
như là ngôn ngữ đối chiếu cơ bản. Điều này dẫn tới việc nghiên cứu các phạm trù cơ bản nói chung và
phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Anh nói riêng đã có những thành tựu nhất định. Vì thế, trong phần tiếp
theo, luận án chỉ tập trung vào việc đối chiếu sự thể hiện phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt và tiếng
Anh dựa trên một số tiêu chí cơ bản đã được đề cập trong mục 1.5.
3.2. ĐỐI CHIẾU PHẠM TRÙ NĐ/ NgĐ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH TỪ
PHƯƠNG DIỆN CÁC ĐẶC ĐIỂM LOẠI HÌNH HỌC
Trong mục 1.4 và 1.5, chúng tôi đã có dịp đề cập tới việc nhận diện phạm trù NĐ/ NgĐ từ
phương diện loại hình học. Nhìn chung, các ngôn ngữ trên thế giới có thể xác định phạm trù NĐ/ NgĐ
từ một hoặc một vài tiêu chí sau:
(i) Dựa trên sự đánh dấu cách của một hoặc các ngữ đoạn chức năng (chủ ngữ [chủ ngữ NĐ/ chủ
ngữ NgĐ], BN);
(ii) Dựa trên sự phù ứng của VT đối với các ngữ đoạn chức năng trên;
(iii) Dựa trên trật từ các thành tố cú pháp trong câu;
(iv) Dựa vào sự có mặt hoặc vắng mặt của giới từ (tức dựa trên tiêu chí [±BN trực tiếp]). Nói một
cách chặt chẽ, sự vắng mặt hay có mặt của giới từ cũng có thể coi là một hình thức đánh dấu cách (tức
thuộc về tiêu chí (i)). Khác chăng trong các ngôn ngữ biến hình tiêu biểu thì sự đánh dấu này nằm ngay
trong các ngữ đoạn chức năng hoặc gắn với chúng như là các hình vị ràng buộc (các tiếp tố), còn với
các ngôn ngữ khác, chẳng hạn các ngôn ngữ đơn lập, ‘sự đánh dấu’ thể hiện chính ở sự có mặt hay
vắng mặt của giới từ. Tuy nhiên, để nhấn mạnh sự khác biệt của hai hình thức đánh dấu này chúng tôi
tạm tách hình thức sau ra thành một tiêu chí riêng.
Dưới đây, chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát sự thể hiện phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt và tiếng
Anh dựa trên các tiêu chí trên.
Trước hết, có thể thấy, với tiếng Việt, một ngôn ngữ đơn lập điển hình, hai tiêu chí (i) và (ii) hoàn
toàn không có vai trò gì trong việc xác định phạm trù NĐ/ NgĐ. Với tiếng Anh, tình hình có một chút
khác biệt. Mặc dù là một ngôn ngữ biến hình nhưng danh từ trong tiếng Anh dù ở bất kì vị trí cú pháp
nào (chủ ngữ, BN hay trạng ngữ) đều không có sự biến hình để diễn đạt cách. Với VT, mặc dù có sự
biến hình nhưng những biến tố (derivational affixes) gắn với VT trong tiếng Anh chỉ cho biết một số
thông tin về thì, dạng, thức, thể chứ không cho biết sự đối lập giữa NĐ và NgĐ. Chúng ta hoàn toàn
không thể dựa vào hình thức của VT để kết luận nó là VT NĐ hay VT NgĐ.
Thực ra, trong tiếng Anh cũng có sự biến cách đối với nhóm đại từ (ngoại trừ đại từ chỉ ngôi ngôi
3 số ít “it” và ngôi 2 “you”). Tuy nhiên, sự biến đổi hình thái của đại từ ở vị trí BN chỉ có tác dụng
phân biệt với hình thái đại từ chỉ ngôi tương ứng ở vị trí chủ ngữ. Sự biến đổi này hoàn toàn không có
tác dụng phân biệt các loại BN – đại từ chỉ ngôi khi ở vị trí BN trực tiếp hay BN gián tiếp đều có hình
thức giống nhau, hơn nữa, đại từ chỉ ngôi trong vị trí BN cho giới từ làm trạng ngữ cũng có cùng hình
thái. Điều này phản ánh đặc tính biến hình không điển hình, không triệt để của tiếng Anh. Các câu
trong ví dụ dưới sẽ minh hoạ cho đặc điểm này.
1. a. I followed him.
‘Tôi [đi] theo anh ta’.
b. I gave a book to him.
‘Tôi đã tặng một cuốn sách cho anh ấy’.
c. The car was cleaned by him.
‘Chiếc xe này đã được anh ấy rửa’.
d. I will go for a walk with him.
Đại từ chỉ ngôi 3 số ít trong cả bốn câu trên đều có cùng hình thái dù chức năng trong từng câu
hoàn toàn khác nhau. Ở câu (a), him đóng vai trò là BN trực tiếp của VT see, ở câu (b), him giữ chức
‘Tôi sẽ đi dạo với anh ấy’.
năng là BN gián tiếp, ở câu (c), mặc dù là chủ thể hành động nhưng trong cấu trúc cú pháp này, him chỉ
là thành phần bổ nghĩa cho giới từ đóng vai trò là thành phần phụ, vai trò của nó trong câu (d) cũng chỉ là
thành phần bổ nghĩa cho giới từ with và cả ngữ giới từ này cũng chỉ đóng vai trò là thành phần phụ (trạng
ngữ). Như vậy, sự biến đổi hình thái của đại từ chỉ ngôi trong tiếng Anh chỉ tạo ra được sự phân biệt, đối
lập khi ở vị trí chủ ngữ so với khi ở các vị trí cú pháp khác trong câu (vị trí BN cho VT hay giới từ).
Hình thức biến đổi của đại từ không khác nhau khi ở các vị trí BN trực tiếp, BN gián tiếp và BN của giới
từ. Điều này cũng có nghĩa là sự biến đổi hình thái của đại từ chỉ ngôi trong tiếng Anh không có tác dụng
phân biệt BN của VT với các vị trí thành phần phụ khác của câu và quan trọng hơn chúng không thể là
tiêu chí để đối lập VT NĐ với VT NgĐ.
Như vậy, cả tiếng Việt và tiếng Anh đều không thể dựa vào tiêu chí đánh dấu hình thái trên các ngữ đoạn chức năng (tức tiêu chí (i)) và tiêu chí sự phù ứng của VT (tức tiêu chí (ii)31). Phần dưới đây
chúng tôi sẽ lần lượt khảo sát, đối chiếu vai trò của hai tiêu chí còn lại (tiêu chí (iii) và tiêu chí (iv))
trong việc nhận diện phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt và tiếng Anh.
3.2.1. Đối chiếu trật tự thành tố trong các cấu trúc NĐ và NgĐ
Dựa trên hướng phân loại ngôn ngữ theo trật tự các thành tố (x. mục 1.4), cả tiếng Việt và tiếng
Anh đều thuộc về nhóm các ngôn ngữ SVO. Đây là cơ sở thuận lợi để đối chiếu hai ngôn ngữ.
2. a. They are reading a novel.
‘Họ đang đọc [một cuốn] tiểu thuyết’.
S V O
b. Họ đang đọc tiểu thuyết.
Tuy nhiên đi sâu vào các mẫu câu trong từng ngôn ngữ, chúng ta sẽ nhận thấy giữa tiếng Việt và
tiếng Anh có một số khác biệt đáng kể, ít nhất đó là những khác biệt trong quan điểm, trong cách giải
quyết vấn đề của các nhà nghiên cứu Việt ngữ và Anh ngữ.
S V O
3.2.1.1. Vấn đề cấu trúc câu tồn tại (existential sentences)
Về cấu trúc câu tồn tại trong tiếng Việt, chúng tôi đã có dịp đề cập trong mục 2.1.2. Trong đó
chúng tôi đã chứng minh, trật tự các thành tố trong câu tồn tại là trật tự hợp quy tắc, nghĩa là thành
31 Xét về mặt lịch đại, theo ý kiến một số tác giả, trong tiếng Việt cũng như trong tiếng Anh trước đây có sự phân biệt NĐ với NgĐ ở hình thức VT. Chẳng hạn, trong tiếng Việt có sự phân biệt giữa các cặp chết – giết, chìm – dìm [x. 8, tr.52]; trong tiếng Anh hiện đại dấu vết có thể còn thấy ở những đối lập kiểu như bite – bait, fall – fell, rise – raise, fare – ferry, quail – quell, sit – set, lie – lay, v.v. [132, tr.311]; [185, tr.69]; [193, tr.3].
phần đứng đầu câu được chúng tôi xem là khung đề (một loại nội Đề)32, thành phần đứng sau VT được
xem là BN trực tiếp và VT tồn tại được xem là VT NgĐ và là VT NgĐ kém điển hình.
3. a. Trên bàn có một lọ hoa.
S V O
b. Ngày xửa ngày xưa có một cậu bé mồ côi.
Trong tiếng Anh, câu tồn tại là một cấu trúc nhận được rất nhiều sự chú ý của các nhà nghiên
cứu. Lý do cơ bản là kiểu câu này gắn chặt với mô hình câu có từ there, một mô hình rất phổ biến
trong tiếng Anh.
Quan niệm về câu tồn tại rất khác nhau trong giới nghiên cứu Anh ngữ. Có người đã xếp cả một
số cấu trúc có động từ to have (có) vào nhóm câu tồn tại [191, tr.131-132], có người đồng nhất tất cả
các câu có từ there vào nhóm câu tồn tại (x. [158, tr.145-146]). Theo cách hiểu quá rộng như trên,
các ví dụ dưới đều là câu tồn tại.
S V O
4. a. My pocket has a hole in it.
‘Túi tôi bị thủng một lỗ’
b. There stepped in front of the car a small child.
Một số tác giả hiểu câu tồn tại theo nghĩa hẹp hơn, theo đó, chỉ những câu có mô hình “there +
verb of being (VT tồn tại) + NP” mới là câu tồn tại. Từ đó, căn cứ vào tiêu chí ngữ nghĩa, câu tồn tại
tiếp tục được chia thành hai loại nhỏ: (i) câu tồn tại thuần túy (bare existential sentences); và (ii) câu
tồn tại định vị (locative existential sentences) [158, tr.143-170].
‘Bước tới phía trước xe là một đứa trẻ’
5. a. There are no ghosts.
‘Không có ma’
b. There is a strange looking woman in the house.
Trong ví dụ trên, câu (a) được coi là câu tồn tại thuần túy, còn câu (b) là câu tồn tại định vị. Sự
khác biệt giữa hai loại câu này chính là câu tồn tại định vị, ngoài việc xác định sự tồn tại của đối
tượng, còn cho biết vị trí của đối tượng nữa. Câu tồn tại được coi là kiểu câu không có đề
(themeless), chủ ngữ thực chính là ngữ danh từ đứng phía sau VT tồn tại. Việc đặt chủ ngữ thực về
phía sau VT thường được giải thích là do tuân thủ qui tắc phổ biến trong tiếng Anh là dồn thông tin
mới, thông tin quan trọng vào cuối câu (post cycle rule) và chủ ngữ hoàn toàn có thể đưa lại vị trí
“gốc” của nó. Tư cách chủ ngữ của ngữ đoạn danh từ thể hiện ở chỗ nó chi phối VT tồn tại ở giống
32 ‘Khung đề’ cũng như ‘Đề’, ‘Thuyết’, v.v. được chúng tôi xem là các đơn vị chức năng cú pháp.
‘Có một người phụ nữ lạ trong nhà’
và số. Trong ví dụ (a), ngữ đoạn danh từ đứng sau VT tồn tại là danh từ số nhiều, vì thế to be được
chia ở số nhiều. Trong khi ở ví dụ (b), danh từ trung tâm của ngữ đoạn danh từ đứng sau VT mang số
ít, và danh từ này chi phối VT tồn tại chia ở số ít. Cấu trúc tồn tại đòi hỏi ngữ đoạn danh từ phía sau
phải có đặc tính [–xác định]. There trong câu tồn tại được xử lí như là chủ ngữ hình thức (formal
subject). Sự tồn tại của chủ ngữ hình thức là tất yếu đối với một ngôn ngữ biến hình đòi hỏi cao về
mặt hình thức.
So sánh cấu trúc câu tồn tại giữa tiếng Việt và tiếng Anh chúng tôi nhận thấy, mặc dù cả hai
ngôn ngữ đều có những phương tiện để thể hiện đầy đủ các kiểu ý nghĩa tồn tại nhưng xét về phương
diện cấu trúc ngữ pháp, hai ngôn ngữ có sự khác biệt ít nhiều. Cụ thể, trật tự các thành tố trong cấu
trúc tồn tại ở tiếng Việt là SVO (tức không thay đổi); trong khi đó, trật tự thành tố trong tiếng Anh,
có sự thay đổi (ít nhất là theo quan niệm của một số tác giả). Sự tồn tại song song một chủ ngữ hình
thức (ở cấu trúc bề mặt) với một chủ ngữ thực (ở cấu trúc sâu) trong tiếng Anh có thể coi là một biểu
hiện của tính biến hình kém tiêu biểu của ngôn ngữ này.
Ngoài ra, sự gần gũi giữa cấu trúc câu tồn tại trong cả hai ngôn ngữ với những cấu trúc câu
miêu tả (descriptive sentences), câu sở hữu (possessive sentences) đòi hỏi phải có sự thận trọng trong
sử dụng cũng như trong việc biên phiên dịch.
3.2.1.2. Vấn đề cấu trúc “N + N’ + V (+N’’)”
Trong tiếng Việt và tiếng Anh đều tồn tại mô hình câu “N + N’ + V (+N’’)”. Mô hình câu này
khái quát rất nhiều kiểu câu có trong hai ngôn ngữ. Nó có thể là kết quả của việc chủ đề hóa
(topicalization), xác lập tiêu điểm thông tin (information focus) hoặc là hiện tượng đồng vị
(apposition).
6. a. Con tôi đứa thì đi học đứa thì đi làm. [32, tr.41]
b. Ông Tư (í mà), vợ ông í khuyên can ông í mãi, nhưng ông í vẫn cứ rượu chè.
[32, tr.110]
c. Fred Long, a neighbour of yours, will be visiting us this evening.
[175, tr.204]
‘Fred Long, người hàng xóm của các bạn, sẽ thăm chúng tôi vào chiều nay’
d. More building we do not want. [11, tr.593]
‘Xây dựng thêm dinh thự thì chúng tôi không muốn’
g. His face I’m not fond of but his character I despise. [175, tr.177]
‘Mặt hắn tôi không thích và tính cách hắn tôi cũng chẳng xem ra gì’
Sự thay đổi trật tự các thành tố cấu trúc trong các phát ngôn trên hoàn toàn là vấn đề có tính dụng
pháp. Khả năng chuyển đổi vị trí theo kiểu này vì mục đích giao tiếp là khả năng có ở mọi ngôn ngữ. Tiếng Việt cũng như tiếng Anh đều có nhiều phương thức để thực hiện mục đích này33. Chúng tôi sẽ
không bàn về những cấu trúc kiểu này.
Trong tiếng Việt, như đã trình bày trong mục 2.3.2, có ba kiểu câu gắn với mô hình “N + N’ + V
(+N’’)”. Tuy nhiên chỉ có cấu trúc thứ ba, cấu trúc mà N có quan hệ nghĩa với VT, mới là cấu trúc gây
nhiều tranh cãi và cũng là cấu trúc mà trong đó tư cách cú pháp của các thành tố cần phải xác định.
Đây cũng là kiểu câu trong tiếng Việt cần xem là kiểu câu bình thường, phổ biến, một kiểu câu riêng.
7.
a. Phim này tôi đã xem rồi.
Chúng tôi cũng đã xác định ngữ đoạn danh từ ở đầu câu (phim này, biệt thự ấy) là Đề bởi chúng
có đầy đủ tư các đặc tính của Đề. VT trong kiểu câu này cũng cần xử lí là VT NgĐ. Nó chính là phần
Thuyết cho tiểu Đề để cùng với ngữ đoạn này hợp thành tiểu cú và là Thuyết của câu. Trong cấu trúc
này, BN trực tiếp đã được tỉnh lược mà lí do là nó có cùng sở chỉ với phần Đề. Nếu cần chúng có thể
xuất hiện dưới dạng các đại từ hồi chỉ (nó, chúng, v.v.).
b. Biệt thự ấy này họ xây trong ba tháng.
3.2.2. Đối chiếu phạm trù NĐ/ NgĐ từ tiêu chí [±BN trực tiếp]
Phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt và tiếng Anh, cũng như tất cả các ngôn ngữ khác, đều được
nhận diện từ tiêu chí [±BN trực tiếp]. Tuy nhiên trong cả hai ngôn ngữ có một số hiện tượng cần lưu ý
như sau.
3.2.2.1. Trong tiếng Anh và tiếng Việt đều có hiện tượng một số VT thường không kết hợp với
BN trực tiếp nhưng đôi khi lại có thể kết hợp. Nói cách khác có một số VT NĐ có thể dùng như VT
NgĐ trong một số cách dùng cụ thể.
8.
a. Anh ấy chạy.
a'. Anh ấy chạy máy này.
b. He walked.
‘Anh ấy [đã] đi’
b'. He walked the horse. [58, tr.575]
Chạy và walk (đi) vốn là những VT NĐ (các ví dụ a, b) tuy nhiên chúng lại có thể kết hợp với BN
trực tiếp như trong (a’), (b’) và lúc này mang hình thức cú pháp đầy đủ của những VT NgĐ. VT trong
33 Trong tiếng Anh ngoài biện pháp đảo ngữ (inversion), một số cách thức khác cũng thường được dùng để thể hiện mục đích nhấn mạnh, đó là dùng cấu trúc chẻ dùng it (“It-cleft”), cấu trúc chẻ dùng “Wh” (“Wh-cleft”), cấu trúc bị động (passive structure), ngữ điệu (intonation), v.v.
‘Anh ấy dẫn ngựa đi’
trường hợp (b’) được một số nhà ngữ pháp tiếng Anh xem là hiện tượng chuyển đổi cách dùng từ NĐ
sang cách dùng NgĐ mang nghĩa gây khiến (causal sense). “He walked the horse” có nghĩa là “He
causes the horse to walk” (anh ấy ‘khiến cho’ ngựa đi) [185, tr.68]. Cách giải thích này cũng có thể
chấp nhận cho một số trường hợp trong tiếng Việt (ví dụ a’). Tuy nhiên, trong tiếng Việt có nhiều
trường hợp VT NĐ dùng như VT NgĐ mà không hề (đúng hơn là không được hiểu) mang ý nghĩa gây
khiến.
9.
a. Chạy tiền làm tàu điện ngầm. (http://vietnamnet.vn)
b. Năm 1995, ông ngồi ghế chủ tịch của Time Warner.
Hai câu trong ví dụ trên hoàn toàn không thể hiểu theo nghĩa gây khiến. Trong những trường hợp
này chỉ có sự chuyển nghĩa ít nhiều của VT. Chẳng hạn, chạy từ nghĩa gốc là chỉ hoạt động di chuyển
nhanh của người hoặc động vật ở 8a sang nghĩa cố gắng nhanh chóng để có được cái gì đó ở 9a.
Tương tự, trong ví dụ 9b, ngồi từ nghĩa gốc chỉ tư thế đặt đít trên mặt nền hoặc chân gập lại để đỡ
toàn thân; phân biệt với ‘đứng’, ‘nằm’ chuyển sang nghĩa ở nơi, ở vị trí nào đó trong một thời gian
tương đối dài để làm việc gì đó, hoặc đảm nhiệm một công việc gì đó.
Trong tiếng Việt VT NĐ được dùng như NgĐ khá phong phú và gắn liền với hiện tượng chuyển
đổi diễn trị (x. mục 2.2). Số lượng VT NĐ có thể dùng theo cách NgĐ trong tiếng Việt khoảng 120 từ
(x. phụ lục 2).
Trong tiếng Anh còn có một hiện tượng mà không thấy trong tiếng Việt, đó là một số VT NĐ khi
kết hợp với một giới từ sẽ được dùng như VT NgĐ nghĩa là lúc này chúng có thể kết hợp với một BN
trực tiếp đứng sau và giới từ này gắn chặt với VT cả về phương diện nghĩa và kết cấu (đi cùng với VT
trong các kết cấu biến đổi tạo sinh).
10. a. We act on this rule.
(http://vnexpress.net)
‘Chúng tôi thực thi luật này’
b. This rules is acted on by us.
J. Nesfield đã phân tích một cách thuyết phục cách dùng NgĐ của những kết hợp này khi ông cho
rằng trong câu (b) on không thể xem là giới từ bởi nó không có BN đứng sau. Sự có mặt bắt buộc của
nó cũng như tính thành ngữ của kết hợp giữa nó với VT cho thấy cần xử lí kết hợp này là VT NgĐ.
Chính sự có mặt của giới từ đã làm cho VT NĐ được dùng như VT NgĐ [185, tr.69]. Hiện tượng VT
NĐ kết hợp với một giới từ được dùng như VT NgĐ cần phân biệt với hiện tượng VT NĐ kết hợp với
tiểu từ nhưng vẫn dùng như VT NĐ và hiện tượng VT vốn đã là VT NgĐ kết hợp với một tiểu từ được
dùng như VT NgĐ (x.3.2.2.4).
‘Luật này được [chúng tôi] thực thi’.
3.2.2.2. Trong cả tiếng Việt và tiếng Anh đều có hiện tượng một số VT NgĐ có thể được dùng
như VT NĐ.
11. a. Họ đã lăn/ chuyển hòn đá.
a'. Hòn đá đã được lăn/ chuyển.
b. He moved the stone.
‘Anh ấy đã lăn/ chuyển hòn đá này’
b’. The stone moved. [58, tr.569]
‘Hòn đá đã chuyển đi rồi’
c. The stone was moved.
Trong tiếng Anh thường có sự phân biệt giữa hình thức bị động (câu c) với hình thức nghịch gây
khiến (anticausitive) (câu b’). Hình thức trước – hình thức bị động – được coi là hình thức phổ biến
hơn.
Để diễn tả một sự tình trạng thái, trong tiếng Việt, cấu trúc câu không có bị, được mới là hình
thức phổ biến, và VT trong cấu trúc cần xử lí là những VT NĐ. Theo thống kê của chúng tôi, tiếng
Việt có 730 VT thuộc loại này (x. phụ lục 1). Những cách dùng không có bị, được tự nhiên và phổ biến
đến mức cần phải xem là những cách dùng riêng. Chúng tôi xem VT trong cách dùng này là những VT
trạng thái. Đặc điểm ngữ nghĩa của ngữ đoạn đảm nhiệm vai Đề (hay chủ ngữ) là [–động vật]. Trong
tiếng Anh, hiện tượng này cũng tồn tại nhưng không nhiều. Phần lớn các câu kiểu này của tiếng Việt
được dịch sang tiếng Anh bằng các cấu trúc bị động.
3.2.2.3. Trong hai ngôn ngữ cũng có hiện tượng một số VT thường dùng như NgĐ nhưng trong
một số cách dùng lại có giới từ xen giữa chúng với BN bắt buộc. Đó là những trường hợp như thí dụ
dưới.
‘Hòn đá đã được chuyển đi rồi’
12.
a. Ông ấy nghiên cứu Hán Nôm.
a'. Ông ấy nghiên cứu về Hán Nôm.
b. John climbed the moutain.
‘John leo lên được/ chinh phục ngọn núi [này]’
b'. John climbed up the moutain.
‘John leo lên ngọn núi này’
chúng tôi đã bàn kĩ về hiện tượng này. Chúng tôi đã xem VT trong (a), (b) được dùng theo cách NgĐ
trong khi VT trong (a’) và (b’) được dùng theo cách NĐ (NĐ không điển hình). Cho dù sự khác biệt
Trong mục 2.1.2 và 2.2, khi bàn về hiện tượng VT NgĐ kém điển hình và VT có hai cách dùng,
giữa một vị từ trong nhiều trường hợp là rất nhỏ, nhưng để bảo đảm tính nhất quán trong việc vận dụng
tiêu chí, chúng tôi đã xếp các VT như trong ví dụ trên là VT có hai cách dùng.
3.2.2.4. Riêng trong tiếng Anh còn tồn tại một hiện tượng rất phổ biến mà thoạt nhìn rất giống với
trường hợp trên, nghĩa là có những VT có lúc hoạt động một mình có lúc kết hợp với tiểu từ (particles)34. Phần lớn kết hợp kiểu này (như: give in (đầu hàng), make up (sáng tạo), put up with
(nhẫn nhịn), turn on (mở) v.v.) đã tạo ra những tổ hợp có tính cố định về cấu trúc và ngữ nghĩa.
13. a. We act on this rule
‘Chúng tôi thực thi quy định này’.
b. This rule is acted on
‘Qui định này được thực thi’.
c. She looked after the boy
‘Cô ấy đã chăm sóc đứa bé’.
d. The boy was looked after
Trong tiếng Anh, nhóm kết hợp “VT + tiểu từ” có lúc hoạt động độc lập (không cần bất kì ngữ
đoạn nào bổ nghĩa cho nó) – tức là hoạt động như VT NĐ (kiểu như come in (bước vào), go ahead (bắt
đầu đi), wake up (tỉnh giấc), v.v.).
14. a. When she came in, we stood up.
‘Đứa bé đã được chăm sóc’.
‘Khi cô ấy bước vào, chúng tôi đứng lên [chào]’
b. When I woke up this morning, I had a terrible headache.
Những trường hợp này không gây tranh cãi, đơn giản bởi tư cách cú pháp của VT khi không kết
hợp với tiểu từ hay khi kết hợp với tiểu từ đều không thay đổi (vẫn là VT NĐ). Với một số kết hợp có
thể dùng theo cả cách NĐ và dùng cả với một ngữ đoạn danh từ làm BN.
15. a. Before I got on the bus, I had breakfast.
‘Sáng nay khi [tôi] tỉnh dậy, tôi nhức đầu kinh khủng’
‘Trước khi [tôi] đón xe bus, tôi đã ăn sáng’
b. I got on an hour ago, but the bus hasn’t left yet.
Trong ví dụ trên, got on (lên xe) ở câu (a) có ngữ đoạn danh từ làm BN cho nó; trong khi ở 14b,
nó được dùng một mình. Hiện tượng kết hợp “VT + tiểu từ” được dùng theo hai cách như thế này cũng
khá phổ biến trong tiếng Anh.
34 Chuùng toâi taïm duøng thuaät ngöõ “tieåu töø” (particle) ñeå chæ yeáu toá hö töø thöôøng ñi sau VT vaø tröôùc ngöõ ñoaïn laøm BN. Chuùng toâi khoâng duøng “giôùi töø” ñeå traùnh hieåu nhaàm noù coù lieân heä chaët cheõ vôùi ngöõ ñoaïn danh töø phía sau; khoâng duøng “traïng töø” ñeå traùnh hieåu nhaàm noù coù quan heä chaët cheõ vôùi VT ñöùng tröôùc noù; chuùng toâi cuõng khoâng duøng “hö töø” vì “hö töø” coù nghóa quaù roäng.
‘Tôi lên xe một giờ rồi nhưng [xe] vẫn chưa tới’.
Những tranh luận trong giới Anh ngữ liên quan đến “VT + tiểu từ” tập trung ở những kết hợp đòi
hỏi phải có một ngữ đoạn chức năng bổ nghĩa cho nó. Với loại này lại có hai nhóm chính: (i) nhóm mà
giữa VT gốc và tiểu từ có thể tách ra được (kiểu như call in (mời vào, take off (cởi bỏ), pick up (mua),
v.v.); và (ii) nhóm mà giữa VT gốc và tiểu từ không thể tách ra được (kiểu như wait on (phục vụ), look
for (chăm sóc), go with (phù hợp), v.v.). Tâm điểm tranh luận nằm chủ yếu ở nhóm trước (nhóm (i)).
Hiện nay có ít nhất hai giải pháp cho hiện tượng này.
(i) Xem VT và tiểu từ đó là đơn vị từ vựng tức xem chúng là những từ ghép từ vựng (lexical
compounds). Theo quan niệm này, khi tiểu từ tách xa VT để đứng sau danh từ, chúng và VT được coi
là một biến thể từ vựng, một hình thức VT gián cách (discontinuous verb) hoặc từ vị gián cách
(discontinuous lexeme). Cả hai hình thức này được coi là cấu trúc bề mặt của cấu trúc sâu trong đó VT
và tiểu từ gắn chặt với nhau. Trực giác của người bản ngữ cũng như kết quả các nghiên cứu một số nhà
ngôn ngữ học như A. Kennedy (1920), A. Live (1965), D. Bolinger (1971), D. Dowty (1996), v.v. cho
thấy tiểu từ được coi như là một phần của từ được tách ra. Cách xử lí VT nhóm kiểu turn on (‘mở,
bật’) trong tiếng Anh có thể được mô hình hóa, theo P. Farrel (2005), như sau:
Từ vị: turn on
hoặc
hoặc
VP
VP
V
DP
V DP
P
V P the lights
turn the lights on
turn
on
VT ghép
VT gián cách [139, tr.98]
(ii) Xem tiểu từ và ngữ đoạn danh từ đứng sau VT là một tiểu cú (small clause). Tiểu cú được
hiểu là “… một ngữ đoạn được hiểu như một cú (hoặc mệnh đề) nhưng thiếu các biến tố (hình vị biến
hình) của một câu” [131, tr.47]. Ngữ danh từ được hiểu là chủ ngữ, còn tiểu từ được hiểu là vị ngữ của
nó. Quan niệm này có thể thấy trong nghiên cứu của các nhà ngữ pháp tạo sinh gần đây, chẳng hạn, R.
Kayne (1985), B. Aarts (1989), J. Guéron (1990), P. Svenonies (1994), D. Dikken (1995), L.
Haegeman & J. Guéron (1999), v.v.. Quan niệm này cũng xử lí VT đứng trước là VT NgĐ và BN của
nó là một tiểu cú, tiểu từ chính là VT của tiểu cú làm BN. Cấu trúc VT nhóm, được những người theo quan niệm này phân tích như sau35:
Cấu trúc cơ bản
Cấu trúc chuyển DP về hướng phải
← hoặc VP
hoặc →
VP
Cấu trúc sát nhập
V
SC
V
SC
V’
DP
P DP P
turn DP P V SC
the lights
V
the lights on turn DP P
turn on the lights t
on
[139, tr.98]
Chúng tôi đồng ý với quan niệm thứ nhất, vì các lý do sau: (i) mối quan hệ gắn bó giữa VT với
tiểu từ (nhất là phương diện nghĩa – cả hai tạo thành một đơn vị có tính thành ngữ); (ii) cả hai đi với
nhau trong những cấu trúc cải biến (cấu trúc bị động, cấu trúc chủ đề hóa) ([172, tr. 69]; [175, tr.27]).
16. a. He turn on the light.
VP
‘Anh ấy bật đèn’
b. He turn the light on.
‘Anh ấy bật đèn’
c. The light is turned on.
‘Đèn đã được bật [bởi anh ấy]’
d. The light, He turn on.
(Đèn này anh ấy bật)
Trong câu (c), turn on vẫn đi với nhau trong cấu trúc bị động và trong (d), on vẫn đi với turn chứ
không đi với the light. Điều này cho thấy mối quan hệ giữa tiểu từ với VT chặt chẽ hơn so với quan hệ
giữa tiểu từ với danh từ. Nói cách khác, tiểu từ trong những trường hợp như thế này không thể xử lí là
giới từ.
35 Các kí hiệu trong mô hình trên như sau: VP là ngữ đoạn VT; DP là ngữ đoạn định từ (tác giả quan niệm về mặt ngữ pháp, ngữ đoạn chức năng này có định từ [determiner] “the” là hạt nhân) – tức ngữ đoạn danh từ theo quan niệm truyền thống; V, V’ là những VT; P là tiểu từ.
‘Đèn đã được anh ấy bật’
Những phân tích cho thấy, trong tiếng Anh, những kết hợp giữa VT với tiểu từ có tính chất thành
ngữ như vậy có thể xem là đã hình thành một đơn vị ghép đặc biệt và nếu những kết hợp này đòi hỏi
một BN thì BN đó có tư cách là BN trực tiếp – nói cách khác, những kết hợp này có thể coi là VT
NgĐ. Hiện tượng này cần được coi là một hiện tượng đặc thù của tiếng Anh, ít nhất là so với tiếng
Việt.
Liên quan đến hiện tượng này cũng cần thấy, về phương diện ý nghĩa, VT kết hợp với tiểu từ hầu
như đồng nghĩa với một số VT NgĐ đơn tương ứng. Sự khác nhau giữa hai hình thức chỉ ở phương
diện phong cách: hình thức có giới từ, trạng từ dùng nhiều trong phong cách thân mật (informal) còn
hình thức VT đơn dùng chủ yếu trong phong cách xã giao (formal). Những cặp đối lập sau chỉ là một
số trong khá nhiều trường hợp thường gặp trong tiếng Anh: blow up – explode (nổ), come across –
encounter (đương đầu), find out – discover (khám phá), give in – surrender (đầu hàng), go in (to) –
enter (đi vào), look down – despise (xem thường), look into – investigate (điều tra), make up – invent
(sáng tạo), put up with – tolerate (nhẫn nhịn) [175, tr.24].
17. a. We put up with his behavior.
a'. We tolerated his behavior.
‘Chúng tôi đã phải chịu đựng lối xử sự của anh ta’
b. John looked down such people.
b'. John despised such people.
Các cặp câu trên được coi là đồng nghĩa (về nghĩa phản ánh sự tình). Tuy nhiên những câu chứa
VT đơn (a’, b’) được dùng trong phong cách trang trọng, xã giao trong khi những VT nhóm (a, b) lại
được dùng phổ biến trong hoàn cảnh xã giao thân mật.
3.2.2.5. Cả tiếng Việt và tiếng Anh đều tồn tại một hiện tượng rất phổ biến là VT NĐ có thể kết
hợp với một trạng ngữ là ngữ danh từ. Điều này dễ tạo ra nhầm lẫn giữa cấu trúc này với với cấu trúc
NgĐ.
‘John (đã) xem thường những người như thế’
18.
a. Hắn viết một lá thư.
b. Họ đứng một chân.
c. The dog died this morning.
‘Con chó này chết hồi sáng’
d. The dog bit a children.
‘Con chó này đã cắn một thằng bé’
Trong các câu trên, nếu dựa vào dấu hiệu hình thức chúng ta hoàn toàn không thể chỉ ra sự khác
biệt giữa các câu (a) với (b), (c) với (d). Các cặp câu này đều có một ngữ đoạn danh từ đứng ngay sau
VT. Thủ pháp để phân biệt sự khác nhau giữa chúng thường được sử dụng là dùng một giới từ chèn
vào giữa VT và ngữ đoạn danh từ. Nếu ý nghĩa câu không bị thay đổi thì ngữ đoạn sau là trạng ngữ hay
nói cách khác, VT phía trước là VT NĐ ngược lại cần xử lí ngữ đoạn danh từ phía sau giới từ là BN
trực tiếp còn VT phía trước là VT NgĐ.
3.2.2.6. Trong cả tiếng Anh và tiếng Việt đều tồn tại số lượng khá lớn VT mang đặc điểm: thường
dùng với BN trực tiếp nhưng có thể lược bỏ thành phần này.
19. a. John is eating.
‘John đang ăn’
Khác với nhóm VT ở mục 3.2.2.1, chủ ngữ (Đề) của VT trong nhóm này vẫn không thay đổi
(thường vẫn là các tham thể [+động vật]), tham thể giữ vai BN vẫn được coi là tồn tại nhưng không
được (không cần) hiện thực hóa. Các VT thuộc nhóm này thường dùng chỉ những hoạt động mang
nghĩa khái quát. Trong ví dụ trên, mặc dù không được người nói nêu ra nhưng khi luận giải nghĩa của
phát ngôn, người nghe ai cũng hiểu eat (ăn), ăn là ăn cái gì đó, mặc là mặc cái gì đó. L. Mackenzie
cho rằng khi dùng cấu trúc không có BN người nói muốn nhấn mạnh tới hành động (VT là tiêu điểm
thông tin) trong khi đó dùng cấu trúc có BN người nói muốn nhấn mạnh tới đối tượng của hành động
(BN là tiêu điểm thông tin) (x. [213, tr.2]).
Vắng BN là một hiện tượng phức tạp nhưng khá phổ biến trong ngôn ngữ vì thế nó đã và đang
nhận được sự chú ý đặc biệt của giới ngôn ngữ học. Hiện tượng này thường được đề cập tới dưới nhiều
thuật ngữ khác nhau, như: BN không hiện hữu (null object) (D. Massam 1989; 1992), BN được hiểu
ngầm (understood object) (D. Valesco 2002), hoặc tham tố hiểu ngầm (understood argument) (M.
Groefsema 1995), tham tố ngầm ẩn (implicit argument) (G. Mauner et al 1995), v.v. Cho đến nay, theo
D. Valesco [213], có năm hướng cơ bản được đề xuất nhằm giải thích khả năng lược bỏ BN (/ tham tố)
của VT như sau.
(i) Kiểu và bản chất BN của VT (type and nature of verbal object);
(ii) Loại VT và cấu trúc ngữ nghĩa (verbal class and semantic structure);
(iii) Tham tố mang đặc tính thông tin cũ/ mới (given/new participant);
(iv) Sự lược bỏ cấu trúc (structural omission);
(v) Các khung và ngữ cảnh tình huống (frames and situational context).
b. Người ta ai cũng cần phải ăn, mặc.
Năm hướng giải thích trên, theo tác giả, có thể gom thành hai nhóm lớn: nhóm thứ nhất nghiêng
về từ vựng học (kiểu i, ii), nhóm thứ hai nghiêng về diễn ngôn (kiểu iii, iv, v) [213, tr.7]. Tổng hợp
chung các quan niệm trên, tác giả đưa ra 5 giả thiết làm cơ sở cho việc giải thích về những trường hợp
có thể lược bỏ BN hoặc không được phép lược bỏ thành phần này như sau.
Giả thiết 1: Những BN không xác định không cần xuất hiện (nếu) chiếu vật của nó có sẵn trong
ngữ cảnh siêu ngôn ngữ hoặc ngữ cảnh đang đề cập tới.
Giả thiết 2: Một BN càng có thể tiên đoán thì càng có khả năng được lược bỏ.
Giả thiết 3: Các VT NgĐ có kết hợp với một tiểu từ chỉ sự hoàn tất (perfective particle) (kiểu eat
up ‘ăn hết’, use up ‘dùng hết’, v.v.) không thể lược bỏ các BN.
Giả thiết 4: BN được hiểu ngầm của các VT được phép lược bỏ nếu nó là một thực thể có trật tự
xuất hiện không phải là lần đầu. Những VT này lựa chọn các thực thể không phải là lần đầu xuất hiện
cho vị trí tham tố thứ hai của chúng (tức BN).
Giả thiết 5: Ngữ cảnh có thể cho phép lược bỏ ngay cả với những BN thể hiện các thực thể xuất
hiện lần đầu tiên.
Tác giả cũng đề xuất hai kiểu cơ bản về BN được lược bỏ. Kiểu thứ nhất, hoàn toàn thuộc về từ
vựng về mặt bản chất, chủ yếu là dùng để chuyển một sự tình hoàn tất (accomplishment) (kiểu, John is
eating an apple ‘John đang ăn táo’) sang một sự tình hành động (activity) (kiểu, John is eating ‘John
đang ăn’). Kiểu thứ hai, dùng để tạo cho thông điệp hiệu quả và tiết kiệm bằng cách lược bỏ những yếu
tố có sẵn trong ngữ cảnh [213, tr.22].
Đồng ý với nhiều nhà nghiên cứu khác, J. Lyons gọi những VT lược bỏ BN là những VT NgĐ cố
hữu [58, tr.569]. Một số tác giả, ngược lại, cho rằng nên xem cách dùng không có BN trực tiếp là cách
dùng NĐ. Chúng tôi cho rằng giải pháp sau có vẻ triệt để tôn trọng tiêu chí hình thức (không có mặt
BN trực tiếp) tuy nhiên nhược điểm ở chỗ nó không phản ánh đúng cảm thức của người bản ngữ (khi
sử dụng, ai cũng nghĩ đến sự tồn tại của BN nhưng không cần thiết phải nói ra); hơn nữa, nó không
thấy được sự khác biệt rất quan trọng giữa nhóm VT này với nhóm VT có hai cách dùng đã đề cập ở
phần đầu của chương (mục 3.2.2.1).
3.3. ĐỐI CHIẾU PHẠM TRÙ NĐ/ NgĐ TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH TỪ GÓC ĐỘ
VAI NGHĨA
Trong việc nhận diện phạm trù NĐ/ NgĐ, nhiều tác giả đã dựa trên các tiêu chí thuộc về bình diện
nghĩa. Như đã đề cập trong mục 2.1.2, P. Hopper & S. Thompson (1980) đã đề xuất đưa ra mười tiêu
chí liên quan đến đặc điểm các vai nghĩa để xác định tính NgĐ của cú và cũng là của VT. Tùy theo
mức độ thỏa mãn các tiêu chí trên, tính NgĐ của các cú sẽ được định vị trên thang độ đang xét. Cụ thể,
các tiêu chí mà mức độ [±thỏa mãn] được nêu ra như sau.
Thấp Cao
A (Tác thể) & O36 (BN)
A. Tham tố >= 2 tham tố 1 tham tố
B. Dạng hành động hành động không hành động
C. Thể hữu đích vô đích
D. Điểm tính có điểm tính không có điểm tính
E. Ý nguyện có ý nguyện không có ý nguyện
F. Xác quyết xác quyết phủ định
G. Phương thức thực hữu vô thực
H. Tính tác động A có tiềm năng cao A có tiềm năng thấp
I. Mức O bị ảnh hưởng O hoàn toàn bị ảnh hưởng O không bị ảnh hưởng
[163, tr.252]
Theo cách hiểu của các tác giả, NgĐ là một phạm trù có tính thang độ và được nhận diện dựa trên
những tiêu chí thuộc về phương diện ngữ nghĩa (đặc tính ngữ nghĩa của các tham tố). Các tác giả đã
đưa ra giả thiết về tính phổ quát của phạm trù NgĐ như sau:
“Nếu hai cú (a) và (b) trong một ngôn ngữ khác nhau ở chỗ cú (a) có tính NgĐ cao hơn ở bất kì
đặc tính nào từ A - J, thì (nếu những khác nhau về ngữ nghĩa và ngữ pháp cùng xảy ra trong cú này) sự
khác nhau đó cũng sẽ cho thấy cú (a) là có tính NgĐ cao hơn” (tr.255).
Điều này có nghĩa là các cú sẽ khác nhau về tính NgĐ phụ thuộc vào số lượng nhiều hay ít các
đặc tính ở cột bên trái trong bảng trên. Cú nào càng thỏa mãn nhiều đặc tính ở cột bên trái sẽ càng có
tính NgĐ cao hơn, càng đi gần tới trạng thái NgĐ điển hình (cardinal transitivity).
Nhiều tác giả khác cũng đi theo hướng này để nhận diện và phân loại VT. Chẳng hạn, T. Givón
cho rằng những VT có hai tham tố: Tác thể và Bị thể biến đổi được gọi là những VT NgĐ điển hình,
những VT có BN trực tiếp nhưng không có đặc tính bị biến đổi/ bị ảnh hưởng được ông xếp vào nhóm
các VT NgĐ kém điển hình [152, tr.96-106].
Có thể nói, những đặc tính ngữ nghĩa của các tham tố trong cấu trúc VT, như nhiều tác giả đã
khẳng định, là mang tính phổ quát. Tuy nhiên sự phổ quát này cũng chỉ giới hạn trong một số phương
36 O (BN) được tác giả dùng không phải để chỉ BN với tư cách là một thành tố cú pháp mà với tư cách là một vai nghĩa. A (Tác thể) và O là hai tham tố trong một cú có hai tham tố.
J. Tính cá biệt của O O có tính cá biệt cao O không có tính cá biệt
diện mà rõ rệt nhất là sự chi phối của VT đến số lượng các tham tố bắt buộc37. Trong tiếng Anh, cũng
như trong các ngôn ngữ khác, nghĩa của VT trong phần lớn trường hợp sẽ chi phối đến số lượng diễn
tố. Tuy nhiên các diễn tố thể hiện trên bề mặt cú pháp như thế nào (đóng vai trò cú pháp gì, có cấu tạo
cú pháp như thế nào) thì lại thường không giống nhau giữa các ngôn ngữ. Như trong những ngôn ngữ
thiên chủ ngữ khác, VT tiếng Anh phù ứng về hình thái rất chặt chẽ với chủ ngữ của câu tạo ra một số
khác biệt nhất định so với mối quan hệ giữa VT với phần Đề của câu trong những ngôn ngữ thiên chủ
đề như tiếng Việt. Trong tiếng Anh, một trong những ngôn ngữ đã có sự tách xa giữa cấu trúc mệnh đề
so với cấu trúc cú pháp, xu hướng hình thức hoá đã dần dần hình thành những sự bất xứng giữa cấu
trúc cú pháp với cấu trúc mệnh đề. Điều này đã tạo ra sự đa dạng (cũng là phức tạp) của mối quan hệ
giữa cấu trúc ngữ nghĩa với cấu trúc cú pháp. Tuy nhiên ở một phương diện khác, yêu cầu hình thức
hoá cao đã tạo ra những giới hạn chặt chẽ về ngữ nghĩa cho các tham tố khi đảm nhận những vị trí cú
pháp trong câu [32, tr.27-29]. Mối liên hệ này thể hiện rất rõ ở việc phần lớn các tham tố đóng vai trò
chủ ngữ trong câu (của các ngôn ngữ thiên chủ ngữ) thường mang đặc tính ngữ nghĩa do nghĩa VT chi
phối. Chẳng hạn, các VT chỉ hành động, tư thế trong tiếng Anh (ngoại trừ vài nhóm từ đặc biệt) luôn
cần đến một tham tố giữ vị trí chủ ngữ có đặc tính động vật. Khi tham tố bất động vật giữ vị trí chủ
ngữ, trong phần lớn trường hợp, VT cần phải ở dạng bị động.
20. a. They cooked the potatoes.
‘Họ nấu khoai tây’
b. John stood on the chair.
‘John đứng trên ghế’
c. The potatoes were cooked.
‘Khoai tây đã nấu’
d. John’s leg was kept on the chair.
Trong tiếng Anh, dù sao cũng tồn tại những câu như trong ví dụ dưới.
‘Chân của John gác trên ghế’
21. a. The books sold out quickly. [58, tr.578]
‘Những [cuốn] sách này đã sớm bán hết’
b. Such houses rent easily.
37 Thực ra ngay cả số lượng diễn tố cũng không giống nhau trong các ngôn ngữ. Cùng thể hiện một sự tình, các dân tộc có thể tri nhận chúng theo những cách khác nhau. Hệ quả là, số lượng diễn tố mà một VT đòi hỏi có thể khác nhau (x. [16]; [86]).
‘Những căn nhà như thế dễ thuê/ mướn’
Các tham tố giữ vai trò chủ ngữ trong các câu trên là những tham tố bất động vật trong khi những
VT chi phối chúng vốn mang nghĩa hành động ([+chủ ý] và [+động]). Câu (a), (b) được coi là tương
đương với những câu có dạng bị động như các 22a, 22b trong ví dụ dưới.
22. a. The books were sold out quickly.
‘Những [cuốn] sách này [được] bán hết rất nhanh’
b. Such houses are rent easily.
Thực ra, các trường hợp như ví dụ 21 chính là hiện tượng rút gọn diễn trị mà S. Dik đã từng đề
cập đến (x. mục 2.2). Theo tác giả, tham tố ở vị trí thứ nhất trong cấu trúc cú pháp (vai Tác thể trong vị
trí chủ ngữ) của một số VT hành động có thể bị rút gọn và cấu trúc điển hình vốn có sẽ trở thành một
cấu trúc phái sinh (derived construction). Trong cấu trúc mới này, một trong các tham tố còn lại (Đích
thể hay Tiếp thể) vốn giữ vị trí BN sẽ đảm nhận vị trí trống mà vai Tác thể để lại. Sự chuyển đổi hình
thức cấu trúc cú pháp kéo theo sự thay đổi chức năng ngữ nghĩa của các tham tố, thay đổi ý nghĩa cơ
bản của câu. Cấu trúc tạo mới, không còn mang nghĩa hành động thông thường mà đã chuyển sang
nghĩa trạng thái hoặc quá trình. Trong các ngôn ngữ hiện tượng này thể hiện khác nhau và được sử
dụng với mức độ, tần số cũng khác nhau. Ông cũng cho rằng trong tiếng Anh hiện tượng VT hành
động bị rút gọn diễn tố để trở thành VT có nghĩa quá trình, trạng thái không phổ biến, không được ưa
dùng [138, tr. 4-11].
Cho dù kiểu câu như trong ví dụ 22 được xem là chuẩn mực, phổ biến hơn nhưng việc có thể
dùng hai cấu trúc (hình thức chủ động nhưng mang nghĩa bị động như ví dụ 21 và cấu trúc bị động chính danh như ví dụ 22)38 đã phản ánh đặc tính không điển hình của tiếng Anh với tư cách là một
ngôn ngữ thiên chủ ngữ.
Cũng dựa vào diễn trị, vào cấu trúc tham tố của VT, một số tác giả đã phân loại và miêu tả VT
NĐ và VT NgĐ. Chẳng hạn, trên cơ sở những phân tích riêng rẽ của nhiều nhà ngôn ngữ học, T.
Chung (2000) đã đề xuất một hướng miêu tả VT NĐ trong tiếng Anh hoàn toàn dựa trên đặc điểm
của các tham tố. Theo tác giả, VT NĐ trong ngôn ngữ này có thể chia thành 6 loại chính như sau.
‘Những căn hộ như thế dễ thuê/ mướn’
23. a. John walked.
(inergative)
‘John đi’ (phi tác cách)
b. The temperature has fallen. (unaccusative)
‘Nhiệt độ đã xuống’ (phi đối cách)
38 Trong tiếng Anh bên cạnh cấu trúc có VT trung tính (middle verbs) như trên, còn một một cấu trúc khác cũng dùng hình thức chủ động nhưng diễn tả sự tình bị động. Đó là hình thức VT khiển động (ergative verbs) (chi tiết x. mục 3.4 và ví dụ 23).
c. The book was written by Chomsky (verbal passive)
‘Cuốn sách này được viết bởi Chomsky’ (bị động động từ)
d. The strike was unexpected. (adjectival passive)
‘Cuộc đình công này ngoài ý muốn’ (bị động tính từ)
e. The girl photographs well. (middle)
‘Cô bé này chụp hình [trông] đẹp’ (trung tính)
g. The government moved. (ergative)
Hai kiểu đầu được coi là VT NĐ cơ bản; bốn kiểu sau được coi là hình thức NĐ phái sinh từ
hình thức NgĐ tương ứng.
Tác giả đã dựa vào các kiểu tham tố như tham tố nội tại, tham tố ngoại tại, tham tố trực tiếp,
tham tố gián tiếp, tham tố ngầm ẩn, tham tố lược bỏ, tham tố sự kiện (về các kiểu tham tố này, x.
mục 1.2.2) để khu biệt tất cả các kiểu VT NĐ. Mỗi loại VT trên đều được phân biệt với các loại
còn lại ít nhất ở sự có mặt hay vắng mặt một kiểu tham tố vừa nêu – nói cách khác, mỗi loại trên
đều có cấu trúc tham tố riêng (x. [126, tr.418-420]).
Tiếng Việt, theo chúng tôi, có bốn kiểu VT chia theo cấu trúc tham tố. Ba trong số bốn kiểu
này tương đồng với ba kiểu được T. Chung giới thiệu (kiểu (i), (ii), (iii)), kiểu thứ 4 bao gồm ba
kiểu còn lại trong danh sách trên (chi tiết x. mục 3.4).
Sự khác biệt liên quan đến phạm trù NĐ/ NgĐ giữa tiếng Việt và tiếng Anh còn thể hiện ở đặc
điểm các vai nghĩa, ở sự hiện thức hóa các vai nghĩa trong các nhóm VT kém điển hình. Trong giới
nghiên cứu tiếng Anh, một số tác giả đã xếp nhóm VT có BN là đại từ phản thân, BN là đại từ
tương hỗ, BN đồng căn vào loại VT NĐ trong khi những VT này về mặt cú pháp hoàn toàn có tư
cách là VT NgĐ (nghĩa là kết hợp với BN một cách trực tiếp không thông qua giới từ). Cơ sở của
việc xếp loại các kiểu VT trên là dựa vào mối quan hệ ngữ nghĩa giữa tham tố giữ vai chủ ngữ với
tham tố giữ vai BN (hành động của chủ thể không tác động đến đối tượng khác mà tác động trở lại
chính chủ thể hoặc bộ phận của chủ thể). Cách phân loại này rõ ràng đã vi phạm nghiêm trọng yêu
cầu nhất quán trong tiêu chí phân loại, lẫn lộn giữa các bình diện.
Dù sao một số nhà ngôn ngữ học khác đã thấy được hạn chế của lối phân loại trên và đưa ra
giải pháp triệt để hơn. Chẳng hạn, T. Givón đã xếp những VT có các loại BN như trên vào nhóm
NgĐ, nhưng là nhóm NgĐ kém điển hình [152, tr.98-106].
Dưới đây chúng tôi sẽ điểm qua hiện tượng VT NgĐ kém điển hình trong tiếng Việt và tiếng
Anh để thấy được những tương đồng cũng như khác biệt giữa hai ngôn ngữ.
Về cơ bản, hiện tượng NgĐ kém điển hình tồn tại khá phổ biến trong hai ngôn ngữ.
‘Nội các đã thay đổi’ (khiển động)
So sánh 7 nhóm VT NgĐ kém điển hình mà T. Givón đã đề xuất và 8 nhóm VT NgĐ kém
điển hình trong tiếng Việt (x. mục 2.1.2) chúng tôi nhận thấy có một số điểm đáng lưu ý sau.
Về nhóm VT chuyển động có hướng, cả hai ngôn ngữ đều thuộc vào nhóm trung gian theo
cách phân loại của L. Talmy [208], nghĩa là trong cả hai ngôn ngữ đều tồn tại một số VT khung
(framed verbs) – nghĩa chuyển động có hướng chứa sẵn trong nghĩa của VT, và một số VT biên
(satellited verbs) – nghĩa chuyển động có hướng cần đến phụ từ đi kèm. Trong tiếng Việt cả hai
hiện tượng đều rất phong phú.
Về hiện tượng VT trong cấu trúc tồn tại, trong tiếng Anh VT tiêu biểu được dùng là to be, và
như đã đề cập trong mục 2.1.1, VT này được xem là VT nối, với một số ít tác giả, chúng là VT NĐ;
không thấy tác giả nào xử lí chúng là VT NgĐ. Một số nhà ngôn ngữ học xem chúng (be và các VT
đồng nghĩa với nó: exist, arise, occur) là nhóm trung gian giữa VT hành động và VT trạng thái
[138, 254-255]. Trong khi đó, các VT tồn tại cơ bản trong tiếng Việt (có, còn, là, v.v.) được chúng
tôi xem là những VT NgĐ kém điển hình.
Về hiện tượng VT tương hỗ, trong tiếng Anh có khá nhiều cách dùng VT để diễn đạt ý nghĩa
tương hỗ; trong khi ở tiếng Việt, phần lớn cách dùng đều cho thấy VT tương hỗ được dùng như VT
NgĐ kém điển hình.
Trong tiếng Việt, chúng tôi xếp VT là vào một nhóm riêng và xem đây là VT NgĐ kém điển
hình.
Một hiện tượng đáng lưu ý khác là VT trạng thái trong tiếng Việt (mà phần nhiều là ‘tính từ’
theo cách phân loại truyền thống) có khả năng rất cao trong việc tham gia vào các cấu trúc NgĐ
(tức có BN trực tiếp); trong khi đó, mặc dù một số tính từ tiếng Anh có thể có BN nhưng không thể
có được cương vị như các từ tương ứng trong tiếng Việt bởi chúng không thể tự mình (hoặc kết
hợp với BN) trực tiếp đảm nhiệm vị trí vị ngữ trong câu mà không cần đến các VT nối.
Ngoài những khác biệt và tương đồng trong các nhóm VT cụ thể như vừa đề cập trên, xét ở
quan hệ giữa VT với các tham tố của chúng, trong tiếng Việt và tiếng Anh mức độ, tầm chi phối
cũng có nhiều khác biệt nhất là ở bình diện cú pháp. Ch. Li và S. Thompson (1976) trong khi
nghiên cứu về loại hình đã nhận thấy trong các ngôn ngữ thiên chủ ngữ, VT chi phối mạnh mẽ đến
tham tố đóng vai trò chủ ngữ; trong khi những ngôn ngữ thiên chủ đề, sự chi phối này là không
đáng kể [177, tr.464]. Điều này thể hiện khá đầy đủ trong hai ngôn ngữ Việt, Anh. VT trong tiếng
Anh chi phối mạnh mẽ đến tham tố giữ vai trò chủ ngữ trong cấu trúc cú pháp dẫn đến hệ quả là
tham tố giữ vị trí chủ ngữ chịu rất nhiều giới hạn ngữ nghĩa (x. mục 2.1.3). Ở tiếng Việt, tham tố
đóng vai trò Đề ở cấu trúc cú pháp có khả năng linh hoạt hơn nhiều, chẳng hạn, sự lệ thuộc về đặc
tính [±động vật] do VT quy định là không đáng kể. Điều này đã tạo ra hiện tượng VT kiêm chức
(có hai cách dùng) phổ biến hơn nhiều so với tiếng Anh.
24. a. Người hắn tựa vào tường.
a'. Hắn tựa người vào tường.
b. Chiếc xe đã sơn.
Với các VT tư thế hay VT hành động như trên (tựa, sơn), trong tiếng Anh, chủ ngữ của chúng
cần phải là những tham tố động vật (hay [+chủ ý] như tiêu chí của S. Dik) hoặc nếu chủ ngữ là
tham tố bất động vật thì VT phải có dạng bị động. Các câu trên tương đương với các câu trong ví
dụ dưới.
b'. Hắn đã sơn chiếc xe.
25. a. His body was leaned against the wall.
a'. He leaned against the wall.
b. The car was painted.
Trong cả hai ngôn ngữ, đặc tính cũng như số lượng vai nghĩa tỏ ra đặc biệt có giá trị đối với
hai trường hợp mà nếu chỉ dựa vào tiêu chí hình thức cú pháp chúng ta không thể xác định được
VT đang xét là VT NĐ hay VT NgĐ.
Trường hợp thứ nhất, vai nghĩa mà cụ thể là số lượng diễn tố cho phép chúng ta xác định
trong cả hai ngôn ngữ, VT có một (ngữ) danh từ theo sau (mà lại không có một giới từ nào xen
giữa) là VT NĐ hay là VT NgĐ.
b’. He painted the car.
26. a. Tất nhiên, đứng một chân ắt sẽ tê mỏi. (http://vae.org.vn)
a’. Hậu quả là em Hà bất tỉnh, gãy một chân. (http://dantri.com.vn)
b. He walks this way.
‘Anh ta đi đường này’
b'. He likes this way.
Nếu chỉ dựa vào tiêu chí hình thức cú pháp, chúng ta không thể thấy được sự khác nhau giữa
các câu trên và phải xếp chung chúng là những VT NgĐ. Rõ ràng muốn có một kết luận chính xác,
cần phải xác định tư cách của ngữ đoạn danh từ phía sau những VT trong các câu trên xem chúng
là BN trực tiếp hay trạng ngữ. Bằng việc xác định số lượng tham tố cần yếu của VT đang xét vấn
đề sẽ được giải quyết. Ở đây (ngữ) danh từ trong các câu (a), (b) đóng vai trò là những chu tố trong
‘Anh ta thích con đường/ cách này’
cấu trúc nghĩa của VT đứng trước; trong khi đó, (ngữ) danh từ trong các câu (a’), (b') đóng vai trò
là những diễn tố. Dựa theo mối quan hệ giữa các thành phần trong cấu trúc nghĩa với các thành
phần trong cấu trúc cú pháp (x. mục 1.5), chúng ta thấy những ngữ đoạn làm chu tố trong cấu trúc
nghĩa (như một chân, this way) chính là thành phần trạng ngữ trong cấu trúc cú pháp và những ngữ
đoạn làm diễn tố trong cấu trúc cú pháp (như một chân, this way) chính là thành phần BN trong cấu
trúc cú pháp. Câu trả lời cuối cùng có được là VT trong các câu (a), (b) là những VT NĐ còn VT
trong các câu (a’), (b') là những VT NgĐ. Cũng cần nói thêm, trong mục 2.1.1.3, khi bàn về những
thủ pháp hình thức trong việc nhận diện VT NĐ/ NgĐ, chúng tôi cho rằng phép lược (lược bỏ
thành phần nghi vấn mà câu vẫn được chấp nhận về mặt cú pháp) về bản chất, chính là dựa vào khả
năng lược bỏ một tham tố không cần yếu trong cấu trúc nghĩa của VT.
Trường hợp thứ 2, số lượng diễn tố cho phép chúng ta xác định VT không có (ngữ) danh từ
theo sau là VT NĐ hay đó là VT NgĐ mà BN trực tiếp đã được lược bỏ.
27. a. Hắn đang đọc chăm chú quá. (Đời thừa, Nam Cao)
a'. Thầy thơ lại xin phép đọc công văn. (Chữ người tử tù, Nguyễn Tuân)
b. Men eat to preserve life.
‘Con người ta ăn để sống’
b'. She eats an apple.
Nếu chỉ dựa vào tiêu chí hình thức cú pháp, VT trong các câu (a), (b) buộc phải xử lí là những
VT NĐ. Thực tế, những VT này cũng là VT NgĐ nhưng BN trực tiếp của chúng đã bị lược bỏ. Đối
với hiện tượng này, ngữ pháp truyền thống thường chỉ có thể giải thích dựa vào ngữ cảnh. Tách rời
ngữ cảnh, ngữ pháp cấu trúc không thể lí giải được hiện tượng này hoặc phải xem những VT trong
các câu trên là những VT NĐ hoặc VT NgĐ có cách dùng NĐ. Chẳng hạn, tác giả Hoàng Trọng
Phiến, đã cho rằng đọc trong Tôi đọc sách là VT NgĐ còn đọc trong Tôi đọc là VT NĐ [69, tr.111],
Nguyễn Kim Thản cũng có suy nghĩ tương tự khi cho rằng VT đuổi trong ví dụ: Một thằng chạy.
Một trăm thằng đuổi là VT NĐ [82, tr.94].
‘Cô ta ăn táo’
3.4. VẤN ĐỀ DẠNG BỊ ĐỘNG, CÂU BỊ ĐỘNG TRONG TIẾNG VIỆT VÀ TIẾNG ANH
Do vai trò đặc biệt của dạng bị động và câu bị động trong tiếng Anh, cũng như những tranh luận
liên quan trong tiếng Anh cũng như trong tiếng Việt, chúng tôi dành riêng phần này để thảo luận chi
tiết.
Trong tiếng Anh, quan niệm về phạm trù dạng (voice) có một số bất đồng. Một số tác giả cho
rằng phạm trù dạng thể hiện không rõ ràng. Mc. Kewon cho rằng: “Nếu bây giờ lần đầu tiên ta bắt đầu
xây dựng một ngữ pháp cho tiếng Anh hiện đại, không có kiến thức hay tham chiếu nào về các nhà cổ
điển, thì có thể không bao giờ ta giả định có dạng bị động. Đối với tôi hình như là đáng ngờ rằng trong
khẩu ngữ tiếng Anh hiện nay thật sự có một điều như thế, và mặc dù vì lí do tiện lợi nên có thể là tốt
khi bảo lưu nó trong ngữ pháp của ta, tôi nghi ngờ khi người ta cho nó một vị trí ưu thế hoàn toàn như
nó đôi khi có được.” (dẫn lại [58, tr.587]). Hầu hết các tác giả đều chấp nhận sự tồn tại của dạng bị
động trong ngôn ngữ này, và có thể nói không có tài liệu ngữ pháp tiếng Anh nào không bàn về phạm
trù này. Phạm trù này cũng được khảo sát từ rất nhiều đường hướng khác nhau: theo quan điểm Ngữ
pháp truyền thống, theo quan điểm Ngữ pháp cải biến - tạo sinh, theo quan điểm Loại hình học cú
pháp, theo quan điểm Ngữ pháp ngữ nghĩa chức năng (x. [20, tr.1-12]). Căn cứ vào yếu tố đánh dấu
phạm trù bị động, bị động tiếng Anh thuộc nhóm bị động vòng (periphrastic passive) – nghĩa là sự thể
hiện phạm trù bị động phải cần đến cả yếu tố ngoài VT, tức cần đến các trợ VT.
Có thể nói, dù được nhìn nhận từ những quan điểm khác nhau, nhưng rõ ràng dạng đã có vai trò
khá quan trọng trong hệ thống các phạm trù ngữ pháp của tiếng Anh. Nhiều tác giả đã lấy tiêu chí có
thể hay không thể tham gia vào cấu trúc bị động để phân loại VT (thành VT NĐ và VT NgĐ) [141,
tr.344].
Về dấu hiệu nhận diện, dạng bị động thường được thể hiện bằng hình thức trợ VT to be kết hợp
với hình thức quá khứ phân từ (past participle) của VT chính. Đôi khi hình thức to get hay (hiếm hơn
là) to become, to grow, to turn có thể dùng thay cho to be trong cấu trúc bị động. Tuy nhiên hai hình
thức sau này ít dùng, bị giới hạn hơn và một số tác giả coi là không chuẩn mực. Hình thức trợ VT to be
được coi là mang sắc thái trung hòa và có thể thay thế cho bất kì trợ VT còn lại trong kết cấu bị động;
trong khi đó, các trợ VT còn lại thường chỉ được sử dụng trong một số hoàn cảnh sử dụng và thường
chứa đựng một hàm ý nào đó ([121, tr.176]; [147, tr.335]; [175, tr.237-239]; [200, tr.134-139]).
28. a. The house was built.
‘Căn nhà đã xây’
b. He gets killed.
‘Hắn ta bị giết’
c. John became admired by all.
Trong những ngôn ngữ có phạm trù bị động, phạm trù này thường được áp dụng cho VT NgĐ.
Đa số VT NgĐ trong tiếng Anh đều có hai dạng: chủ động (active voice) và bị động (passive voice).
‘John được mọi người ái mộ’
29. a. She cleans this room every day.
‘Cô ấy dọn phòng này mỗi ngày’
a'. This room is cleaned every day.
‘Căn phòng được dọn mỗi ngày’
b. They gave me the book.
‘Họ tặng tôi cuốn sách này’
b'. I was given the book.
Tuy nhiên, dạng bị động của tiếng Anh không thể hiện đầy đủ, triệt để như một số ngôn ngữ biến
hình tiêu biểu (chẳng hạn, tiếng Nga, tiếng Hi Lạp, v.v). Tính không điển hình, không triệt để thể hiện
qua một số biểu hiện sau.
(i) Dạng bị động không chỉ áp dụng đến những VT NgĐ đơn (single transitive verbs) mà còn áp
dụng đến cả những VT kết hợp với tiểu từ (x. mục 3.2.2.4).
‘Tôi được tặng cuốn sách này’
30. a. The lights were turned on (by her).
‘Đèn đã được [cô ấy] bật’
b. The room was cleaned (out).
‘Căn phòng này được dọn sạch’
c. These facts were come by only yesterday.
‘Những sự kiện này mới chỉ được biết hôm qua’
d. He was looked upon as a hero.
VT trong các câu ở ví dụ trên đều có kết hợp với tiểu từ. Những kiểu kết hợp này đều cùng xuất
hiện trong cấu trúc bị động ([147, tr.265-268]; [175, tr.265]) và có số lượng khá lớn trong tiếng Anh.
Do mối quan hệ chặt chẽ, có tính thành ngữ giữa VT với tiểu từ theo sau, những kết hợp này thường
được xử lí như là những mục từ riêng trong các từ điển (x. mục 3.2.2.4).
(ii) Với một số VT có hai BN (ditransitive verbs), cả hai BN đều có thể đảm trách vị trí chủ
ngữ trong cấu trúc bị động.
‘Anh ấy được ngưỡng mộ như một anh hùng’
31. a. John gave her a new car.
‘John tặng cô ấy một chiếc xe hơi mới’
b. She were given a new car.
‘Cô ấy được tặng một chiếc xe hơi’
c. A new car was given to her.
VT give có hai BN: her (BN gián tiếp) và a new car (BN trực tiếp). Hai BN này lần lượt trở
thành chủ ngữ trong câu (b) và (c).
‘Một chiếc xe hơi được tặng cho cô ấy’
Trong nhiều ngôn ngữ khác, chẳng hạn tiếng Nga, tiếng Đức, tiếng Italia, chủ ngữ trong cấu
trúc bị động chỉ có thể là BN mang vai Bị thể trong cấu trúc chủ động tương ứng [146, tr.306]. Nói
cách khác, trong những ngôn ngữ này, chỉ có một BN được xuất hiện ở vị trí chủ ngữ trong cấu trúc
bị động mà thôi – và BN này cũng bị giới hạn về đặc tính nghĩa. M. Blokh (1983) khi bàn về vấn
đề dạng trong tiếng Anh cũng cho rằng cả ba kiểu BN cơ bản (BN trực tiếp, BN có giới từ, và BN
chỉ người nhận) đều có thể đảm nhận vị trí chủ ngữ của các cấu trúc bị động tương đương với cấu
trúc chủ động [121, tr.99].
(iii) Trong tiếng Anh cũng tồn tại một số VT trung gian. Chúng là VT NgĐ khi nhận một BN
trực tiếp, nhưng là VT NĐ khi không được dùng ở dạng bị động. Danh sách các VT này gồm
belong ‘thuộc về’, cost ‘tổn phí’, equal ‘tương đương’, fail ‘thất bại’, fit ‘thích hợp’, have ‘có’,
lack ‘thiếu’, last ‘kéo dài’, measure ‘đo lường’, misgive ‘bối rối’, possess ‘sở hữu’, resemble
‘giống’, suit ‘phù hợp’, weigh ‘cân’ ([121, tr.177]; [159, tr.163]).
32. a. Mary resembles her father.
‘Mary giống cha cô ấy’
a'.*Her father is resembled by Mary.
b. That dress fits her perfectly.
‘Chiếc đầm đó rất thích hợp với cô ấy’
VT trong các câu (a), (b), (c), về mặt hình thức có BN trực tiếp (her father, her) nhưng không thể
tham gia vào cấu trúc bị động. Câu chứa hình thức bị động của những VT này không được chấp nhận
trong tiếng Anh (các câu còn lại).
(iv) Trong tiếng Anh còn có hiện tượng những cặp cấu trúc hoàn toàn giống nhau đến nỗi khó
mà xác định chúng là cấu trúc bị động hay cấu trúc chứa VT nối (to be) kết hợp với một quá khứ
phân từ đảm nhận chức năng của một tính từ bổ nghĩa cho chủ ngữ (hiện tượng “bị động giả” –
pseudo-passive).
b'.*She is fitted by that dress perfectly.
33. a. You are mistaken.
‘Bạn nhầm rồi’
b. They were seized in their homes.
‘Họ bị bắt tại nhà’
c. The house was built by experts.
‘Căn nhà được các chuyên gia xây’
d. The house was built of wood.
‘Căn nhà này làm bằng gỗ’
Cùng hình thức giống nhau (đều có dạng quá khứ phân từ) nhưng mistaken trong câu (a) được
coi là tính từ đóng vai trò bổ nghĩa cho chủ ngữ (subjective complement) trong khi ‘seized’ ở câu
(b) được coi là hình thức phân từ cùng với were tạo dạng bị động. Với trường hợp (c), (d) tình hình
có vẻ phức tạp và khó phân định hơn. Cả hai câu đều chứa một kết hợp gồm to be đã chia ở ngôi 3
số ít (was) cộng với hình thức phân từ của to build. Việc xác định ở đây không thể dựa vào hình
thức của VT mà phải dựa vào các thành phần khác của câu. Cụ thể, chúng ta chỉ có thể xác định to
be + VT (was built) ở câu (c) tạo thành dạng bị động nhờ phía sau kết hợp này có một ngữ giới từ
bắt đầu bằng giới từ by chỉ Tác thể; còn trong câu (d), to be + VT (was built) không tạo thành dạng
bị động vì ngữ đoạn giới từ phía sau chúng không phải là ngữ đoạn chỉ Tác thể. Ở đây, cả ngữ đoạn
was built of wood được coi là vị ngữ trong đó was có vai trò là VT nối còn built là phân từ được
dùng như tính từ (và được bổ nghĩa bởi ngữ giới từ of wood) có chức năng bổ nghĩa cho chủ ngữ.
Trước tình huống lưỡng khả này, một số tác giả cho rằng phạm trù dạng cần phải coi là phạm trù
của câu ([121, tr.183-184]; [167, tr.165-166]).
Những hiện tượng trình bày trên cho thấy không có sự trùng khớp giữa VT NgĐ với những
VT có thể tham gia cấu trúc bị động và VT NĐ với những VT không thể tham gia vào cấu trúc bị
động. Điều này đã khiến một số nhà nghiên cứu đề xuất một cặp khái niệm bổ sung cho việc miêu
tả, phân loại VT tiếng Anh là nhóm VT có thể bị động hoá (passivized verbs) và nhóm VT không
thể bị động hoá (non-passivized verbs) [121, tr.177].
Trong tiếng Việt, như đã bàn ở mục 2.3.3.2, dạng bị động không tồn tại. Dù sao đi nữa, như tất cả
các ngôn ngữ khác, tiếng Việt hoàn toàn có những phương thức để thể hiện mọi khái niệm, đối tượng,
kiểu ý nghĩa trong đó có ý nghĩa bị động. Cũng trong mục 2.2 khi bàn về hiện tượng thay đổi diễn trị
và sự chuyển loại VT chúng tôi đã xử lí những VT phái sinh từ những VT hành động trong cấu trúc
NgĐ (mà một số tác giả quan niệm là dạng chủ động) là VT trạng thái (mà một số tác giả quan niệm là
dạng bị động). Như vậy, cấu trúc bị động trong tiếng Anh có thể xem tương đương với một số cấu trúc
câu chỉ trạng thái trong tiếng Việt. Sự chuyển dịch kiểu này phản ánh sự tương ứng bề sâu ngữ nghĩa
của câu bị động với câu trạng thái. Ở bề sâu ngữ nghĩa, câu bị động cũng chính là một kiểu câu trạng
thái, trong đó nó được sử dụng vì lí do dụng học, vì mục đích chủ đề hóa. Cụ thể cấu trúc bị động
(trong các ngôn ngữ có dạng này) thường được sử dụng khi người nói không muốn đề cập đến Tác thể
hoặc muốn nhấn mạnh kết quả do hành động đó mang lại, nhấn mạnh đến trạng thái của đối tượng (Bị
thể), nhấn mạnh đến thực thể bị ảnh hưởng bởi hành động ([139]; [146]; [175]). Sự thiếu hụt các yếu tố
chuyên dụng để biểu hiện phạm trù bị động khiến cho trong tiếng Việt chỉ có thể dùng trật tự từ để thể
hiện ý nghĩa bị động.
Những cấu trúc câu trạng thái trong tiếng Việt được xem tương ứng với câu trúc bị động trong tiếng
Anh thường có cấu trúc “NP1 (+ bị/ được) + V + NP2”. Trong đó ngữ đoạn danh từ đầu tiên (NP1) luôn
có đặc tính là một tham tố [–động vật]. Khi ngữ đoạn này là một tham tố [+động vật], chúng đã trở thành
kiểu câu khác trong đó nếu bị/ được xuất hiện thì bị/ được chính là VT có vai trò trung tâm về cú pháp.
Nếu phản ánh tương quan giữa câu bị động trong tiếng Anh với các cấu trúc tương đương trong
tiếng Việt, ta có mô hình chuyển dịch tương đương sau.
Cấu trúc câu bị động trong tiếng Anh, gồm hai mô hình: một mô hình đầy đủ (bị động có tác thể –
agent passive); một mô hình giản lược (bị động không có tác thể – agentless passive):
(i) S + verb of being (hình thức chia của to be) + V-ed (PP) + by + NP (ngữ đoạn danh từ mang vai Tác
thể/ tức chủ ngữ trong cấu trúc tương ứng) (x. ví dụ 34a);
Cấu trúc (i) sẽ được dịch sang tiếng Việt tương đương với một cấu trúc Đề - tiểu cú (tức tiểu Đề +
tiểu Thuyết). Tiểu cú này chính là phần Thuyết của Đề. Diễn đạt theo hệ thống thuật ngữ truyền thống,
cấu trúc (i) của tiếng Anh tương đương với cấu trúc chủ-vị trong tiếng Việt trong đó vị ngữ có cấu tạo
là một chủ-vị bị bao hàm (x. ví dụ 34a’).
Trong lối nói, viết trên các phương tiện truyền thông gần đây, trật tự (i) được giữ nguyên, nghĩa
là gồm có Đề (chủ ngữ) (+ bị/ được) + VT + bởi + ngữ đoạn danh từ (Tác thể). Dù sao, chúng thường
được coi là không tự nhiên, hoặc nếu được chấp nhận thì cũng cần thấy đó là một hiện tượng mới chỉ
xuất hiện gần đây (x. ví dụ 34a’’).
Cấu trúc (ii) được dịch sang tiếng Việt tương đương một cấu trúc Đề-Thuyết trong đó VT cần
được xem là VT trạng thái. Trong ví dụ 34b’, mở không được hiểu là một VT hành động mà được hiểu
là một VT trạng thái: ‘ở trạng thái mở’.
Trong ví dụ dưới, chúng tôi mô phỏng các hình thức tương đương trong hai ngôn ngữ.
34. a. The door is opened by John.
(ii) S + Verb of being + V-ed (PP). (x. ví dụ 34b)
a'. Cửa (được) John mở rồi.
a’’. ?Cửa đã được mở bởi John.
b. The door is opened.
Bị động trong tiếng Anh, như nhiều lần đã đề cập, được coi là hình thức phái sinh từ cấu trúc chủ
động tương ứng. Cấu trúc bị động có nhiều khác biệt về hoạt động cú pháp cũng như về phương diện ý
nghĩa so với hai hình thức phái sinh khác rất gần gũi là cấu trúc có VT khiển động (ergative verbs) và
cấu trúc có VT trung tính (middle verbs).
b'. Cửa đã (được) mở.
35. a. The door opened.
‘Cửa [đã] mở’
b. The shirt washes easily.
Cấu trúc có VT khiển động (a) và VT trung tính (b) giống nhau ở chỗ chúng mang ý nghĩa thụ
động nhưng lại có hình thức chủ động. VT khiển động tự mình kết hợp với chủ ngữ mà không cần đến
một trạng từ hay những yếu tố bổ nghĩa khác như VT trung tính. Rất nhiều tác giả đã tìm hiểu, so sánh
các cấu trúc này trong tiếng Anh. T. Chung (2000) cho rằng cả ba cấu trúc này có thể phân biệt nhau
dựa trên cấu trúc nghĩa: cấu trúc bị động có một tham tố Tác thể vốn là tham tố ngoại tại có thể xuất
hiện như một tham tố tùy ý (xuất hiện trong ngữ đoạn có by); cấu trúc khiển động không bao giờ có
tham tố Tác thể; trong khi đó, cấu trúc trung tính được xem có một tham tố Tác thể lược bỏ (nghĩa là nó không được phép xuất hiện trên bề mặt cú pháp)39 [126, tr.413].
Ba loại cấu trúc trên không chỉ khác nhau về khả năng kết hợp các kiểu tham tố mà còn khác
nhau ở cả đặc điểm cú pháp. Chẳng hạn, VT trung tính chỉ dùng ở thì hiện tại trong khi đó VT khiển
động có thể dùng cả ở thì hiện tại, quá khứ và tiếp diễn, v.v.
Ba loại cấu trúc trên mặc dù đều thể hiện sự tình trạng thái nhưng giữa chúng có những khác biệt
tinh tế về ý nghĩa. Chẳng hạn, cấu trúc bị động thường nhấn mạnh đến trạng thái sự tình cụ thể; trong
khi đó, cấu trúc chứa VT trung tính lại thường nhấn mạnh đến những đặc tính cố hữu của sự vật. Cấu
trúc khiển động thường dùng để diễn tả trạng thái sự vật nhưng không liên quan gì đến một tác thể bên
ngoài nào cả, v.v.
Trong tiếng Việt, về cơ bản, cả ba hình thức trên đều được thể hiện bằng một hình thức duy nhất
đó là cấu trúc NĐ chứa VT chỉ trạng thái và tham tố ở vị trí Đề là một tham tố bất động vật (x. mục
2.2.1 và 2.3.1).
‘Áo sơ mi này dễ giặt’
3.5. TIỂU KẾT
Việc so sánh các biểu hiện của phạm trù NĐ/ NgĐ trong hai ngôn ngữ Việt, Anh cho thấy những
tương đồng và dị biệt quan trọng. Phạm trù này trong cả hai ngôn ngữ đều được xem là không điển
hình. Tính không điển hình thể hiện ở sự tồn tại khá phổ biến những hiện tượng trung gian. Tính không
điển hình còn thể hiện ở sự tồn tại khá phong phú các biểu hiện của hiện tượng VT NgĐ và VT NĐ
kém điển hình trong cả hai ngôn ngữ. Tiếng Anh đã có sự thay đổi khá lớn giữa cấu trúc Đề-Thuyết
với tư cách là cấu trúc nghĩa phản ánh cấu trúc mệnh đề so với cấu trúc chủ vị với tư cách là cấu trúc
cú pháp; trong khi đó, mối quan hệ giữa giữa cấu trúc mệnh đề và cấu trúc cú pháp trong tiếng Việt có
39 Về các kiểu tham tố này, x. mục 1.2.2.
những tương ứng đều đặn, gần gũi, đến mức có thể xem Đề-Thuyết vừa là cấu trúc ngữ nghĩa của
mệnh đề vừa là cấu trúc cú pháp. Sự khác biệt này đã ảnh hưởng đến một số khác biệt ở hai ngôn ngữ
mà biểu hiện rõ nhất là trong tiếng Anh tồn tại phạm trù bị động với tư cách là một phạm trù ngữ pháp
(cho dù không điển hình) trong khi tiếng Việt không tồn tại phạm trù này.
Những tương đồng, khác biệt giữa hai ngôn ngữ cho thấy mối quan hệ bề sâu giữa một ngôn ngữ
đơn lập, phân tích tính điển hình (tiếng Việt) với một ngôn ngữ biến hình, phân tích tính không điển
hình (tiếng Anh). Tất cả những điều này đòi hỏi người nghiên cứu, học tập hai ngôn ngữ cần có những
lưu ý đặc biệt.
Nghiên cứu về phạm trù NĐ/ NgĐ cũng như tìm hiểu những kiến giải của các tác giả khác nhau
về phạm trù này trong tiếng Anh đã gợi ra hướng xử lí cho việc nghiên cứu phạm trù NĐ/ NgĐ trong
tiếng Việt và những vấn đề ngữ pháp có liên quan. Đó cũng chính là kết quả lớn nhất mà luận án đạt
được từ việc đối chiếu phạm trù NĐ/ NgĐ trong hai ngôn ngữ Anh, Việt.
KẾT LUẬN
Phạm trù NĐ/ NgĐ là một vấn đề lớn mà phạm vi một luận án, cũng như khả năng có hạn của
người viết không thể bao quát đầy đủ được. Tuy nhiên chúng tôi cũng đã cố gắng tiếp cận một số khía
cạnh quan trọng của phạm trù này. Dưới đây là những kết quả cơ bản đã thực hiện được và những vấn
đề chưa giải quyết được liên quan đến đề tài.
1. Việc nghiên cứu phạm trù NĐ/ NgĐ trên thế giới đã được đề cập đến từ lâu và vẫn được hầu
hết các trường phái ngôn ngữ học hiện đại tiếp tục nghiên cứu. Đây là những thuận lợi cho người viết
luận án về mặt lí luận cũng như nguồn ngữ liệu để đối chiếu với phạm trù tương ứng trong tiếng Việt.
Trong giới nghiên cứu Việt ngữ, phạm trù NĐ/ NgĐ cũng đã được đề cập từ khá sớm tuy nhiên vì
nhiều lí do nó chưa được khảo sát một cách hệ thống. Cho đến nay, chưa có một chuyên luận nào bàn
sâu về phạm trù này. Tuy nhiên, rất nhiều vấn đề có liên quan, như vấn đề dạng/ câu bị động, cấu trúc
đảo ngữ, cấu trúc Đề-Thuyết, các thành phần câu, và việc phân loại VT trong tiếng Việt, v.v đã được
nhiều nhà Việt ngữ khảo sát. Đó chính là những điều kiện quan trọng, mà thiếu nó, người viết luận án
này đã không thể hoàn thành những nhiệm vụ đã đề ra.
Trên cơ sở những nghiên cứu xoay quanh phạm trù NĐ/ NgĐ của các tác giả trong và ngoài nước
và trên cơ sở khảo sát thực tiễn sử dụng tiếng Việt, luận án đã xác lập một cách hệ thống những đối lập
cơ bản giữa VT NĐ và VT NgĐ.
Trong tiếng Việt, một ngôn ngữ không biến hình, việc thể hiện các phạm trù ngữ pháp, các chức
năng ngữ pháp, các ý nghĩa ngữ pháp, v.v. phải dựa chủ yếu vào trật từ sắp xếp các thành tố (trật tự từ),
vào các hư từ. Chính điều này đã tạo ra rất nhiều biểu hiện phức tạp ở bình diện ngữ pháp. Những khó
khăn như việc sử dụng giới từ khá tùy ý, sự đa dạng các kiểu cấu trúc (cấu trúc “đảo ngữ”, tỉnh lược,
v.v.) đã dẫn đến việc hoặc phải chấp nhận rất nhiều ngoại lệ, hoặc phải tìm một hướng phân loại khác
trong việc thiết lập các đối lập NĐ với NgĐ cũng như phân loại chi tiết các tiểu loại VT trong từng
nhóm này. Hướng phân loại VT thành VT điển hình và kém điển hình được một số nhà ngôn ngữ học
phương Tây đề xuất tỏ ra thích hợp đối với tiếng Việt. Đi theo hướng này, sau khi phân đôi VT thành
VT NĐ và VT NgĐ chúng tôi đã tiếp tục chia tách nội bộ các nhóm này thành các tiểu nhóm, cụ thể là,
chia VT NĐ thành VT NĐ điển hình và VT NĐ kém điển hình; chia VT NgĐ thành VT NgĐ điển hình
và VT NgĐ kém điển hình. Luận án đặc biệt lưu ý đến các tiểu nhóm VT NgĐ kém điển hình. Rất
nhiều VT trước đây không được đưa vào nhóm VT NgĐ đã được xếp vào nhóm này. Cho dù còn nhiều
điểm phải thảo luận thêm, rõ ràng việc phân chia dựa trên mức độ điển hình hay kém điển hình là một
hướng giải quyết có nhiều triển vọng. Trong quá trình phân loại, luận án không dừng ở việc liệt kê mà
đã cố gắng miêu tả, giải thích những đặc điểm chủ yếu của từng tiểu nhóm.
Theo hướng đề xuất của luận án, phạm trù NĐ/ NgĐ được áp dụng cho tất cả VT. Phạm trù này
cũng được áp dụng không chỉ đối với lớp từ được gọi là động từ mà còn cả đối với lớp tính từ.
2. Trong tiếng Việt tồn tại khá nhiều VT có hai cách dùng (NĐ và NgĐ). Tiếp cận hiện tượng
này, luận án không đi sâu theo hướng truyền thống (xem xét, đối lập NĐ với NgĐ từ phương diện hoạt
động cú pháp) mà chú ý nhiều hơn đến mối quan hệ giữa nó (VT có hai cách dùng) với hiện tượng thay
đổi diễn trị. Có thể nói, hiện tượng VT có hai cách dùng là biểu hiện bề nổi của một hiện tượng bề sâu
ở cấu trúc nghĩa của VT – hiện tượng thay đổi diễn trị.
Trong khi khẳng định hiện tượng VT có hai cách dùng khá phổ biến, luận án cho rằng sự đối lập
giữa NĐ và NgĐ có đầy đủ những phương tiện ngữ pháp để đánh dấu và sự lưỡng phân này vẫn có
nhiều ý nghĩa trong nghiên cứu tiếng Việt.
3. Trong tiếng Việt, một ngôn ngữ thiên chủ đề, vấn đề dạng/ câu bị động không có mối liên hệ
mật thiết với phạm trù NĐ/ NgĐ. Tiếng Việt, như tất cả các ngôn ngữ khác, hoàn toàn có đủ phương
tiện để thể hiện ý nghĩa bị động nhưng bị động không tồn tại với tư cách là một phạm trù ngữ pháp.
Về cấu trúc Đề-Thuyết, trong tiếng Việt có một số cấu trúc có liên hệ mật thiết với phạm trù NĐ/
NgĐ (chẳng hạn cấu trúc “N + N’ + V (+N’’)” trong đó N có quan hệ nghĩa với V). VT trong cấu trúc
kiểu này được chúng tôi xử lí là VT NgĐ. Tuy nhiên không phải cấu trúc Đề-Thuyết nào trong tiếng
Việt cũng gắn với phạm trù NĐ/ NgĐ (chẳng hạn, cấu trúc có Thuyết là một ngữ danh từ).
4. Đối chiếu phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Việt và trong tiếng Anh cho thấy đặc điểm nổi bật
nhất là phạm trù NĐ/ NgĐ trong cả hai ngôn ngữ đều không điển hình. Nếu biểu diễn mức độ tính điển
hình của phạm trù này trong các ngôn ngữ trên thế giới trên một thang độ thì cả tiếng Việt và tiếng
Anh đều không nằm ở hai đầu thái cực. Tuy nhiên, phạm trù NĐ/ NgĐ trong tiếng Anh sẽ nằm gần
hơn phía cực điển hình so với tiếng Việt. Điều này thể hiện ở nhiều khác biệt mà cụ thể là: (i) tiếng
Anh có phạm trù bị động (cho dù không điển hình) trong khi tiếng Việt không tồn tại phạm trù này; (ii)
những giới hạn ngữ nghĩa mà VT trong tiếng Anh chi phối đến các ngữ đoạn làm chủ ngữ mạnh hơn
những giới hạn ngữ nghĩa mà VT trong tiếng Việt chi phối đến ngữ đoạn làm Đề; (iii) hiện tượng VT
có hai cách dùng trong tiếng Anh không phổ biến như trong tiếng Việt. Tất cả những khác biệt này là
biểu hiện bề nổi của sự khác biệt bản chất, sâu xa hơn: tiếng Anh là ngôn ngữ thiên chủ ngữ còn tiếng
Việt là ngôn ngữ thiên chủ đề.
5. Trong quá trình khảo sát phạm trù NĐ/ NgĐ chúng tôi nhận thấy có một số vấn đề quan trọng
có liên quan mà vì nhiều lí do luận án chưa đề cập tới.
Luận án đã chưa đi sâu vào việc khảo sát, phân loại nhóm VT tình thái mặc dù xét từ bình diện cú
pháp, chúng hoàn toàn có đầy đủ tư cách là những VT NgĐ. Việc đặt ra ngoài trọng tâm khảo sát nhóm
VT tình thái trước hết là bởi VT nhóm này trong tiếng Việt có nhiều đặc điểm rất phức tạp cả ở
phương diện ý nghĩa và thái độ cú pháp do đó chúng cần được khảo sát trong những chuyên luận riêng.
Một vấn đề khác mà chúng tôi nhận thấy chưa đề cập thích đáng là việc xử lí hư từ đi sau VT
trong tiếng Việt và trong tiếng Anh. Việc này là cần thiết để xác định tư cách cú pháp của rất nhiều VT
trong hai ngôn ngữ đặc biệt trong tiếng Anh.
Mối quan hệ giữa VT với ngữ đoạn làm Đề trong tiếng Việt cũng đặt ra một số vấn đề cần được
nghiên cứu kĩ hơn. Trong quá trình khảo sát một số cấu trúc câu, chúng tôi nhận thấy nghĩa của VT chi
phối rất ít đến đặc tính ngữ nghĩa của ngữ đoạn làm Đề (ngữ đoạn này có thể mang đặc tính [±động
vật]). Hệ quả là số lượng VT có hai cách dùng trong tiếng Việt rất lớn. Điều này phù hợp với luận điểm
mà Ch. Li & S.A. Thompson (1976) đưa ra về mối quan hệ giữa Chủ đề với VT trong các ngôn ngữ
thiên chủ đề. Tuy nhiên, nếu hiện tượng này được khẳng định thì câu hỏi có thể đặt ra là lối phân loại
VT (và câu) dựa vào nghĩa thể hiện sự tình với các tiêu chí [±động] và [±chủ ý] mà S. Dik (1981) đưa
ra có ý nghĩa như thế nào đối với những ngôn ngữ thiên chủ đề như tiếng Việt?
Trên đây là một số kết quả và những vấn đề còn tồn tại liên quan đến luận án. Chắc chắn có nhiều
vấn đề mà hướng giải quyết của luận án không phải là tối ưu, cần bổ khuyết hoặc cần phải được nghiên
cứu kĩ hơn trong tương lai. Chúng tôi chỉ hi vọng những cố gắng của bản thân thể hiện ở kết quả khảo
sát, ở những suy nghĩ, đề xuất trong luận án đã đi đúng hướng mà rất nhiều bậc thầy đi trước đã vạch
ra. Cái đích mà những người nghiên cứu ngôn ngữ hướng tới: những quy tắc phản ánh đúng cách dùng
ngôn ngữ của người bản ngữ vẫn còn ở rất xa phía trước.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tiếng Việt
1. Nguyễn Thị Ảnh (2000), “Tiếng Việt có ‘Thái bị động’ không?”, Ngôn ngữ số 5, Hà Nội, tr. 36-47.
2. Diệp Quang Ban (1987), Câu đơn tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
3. Diệp Quang Ban (1992), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 2, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
4. Diệp Quang Ban (1998), Một số vấn đề về câu tồn tại trong tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
5. Diệp Quang Ban (2004), Ngữ pháp Việt Nam – Phần câu, Nxb Đại học Sư phạm, Hà Nội.
6. Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1991), Ngữ pháp tiếng Việt, tập 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
7. Dương Hữu Biên (2003), Câu có vị từ chuyển tác trong tiếng Việt: cấu trúc ngữ nghĩa-cú pháp, Luận án tiến
sĩ Ngữ văn, Tp. Hồ Chí Minh.
8. Barinova A.N. (1966), “Lặp hoàn toàn và lặp bộ phận trong tiếng Việt”, Những vấn đề Ngôn ngữ học,
Quyển 2, Tài liệu đánh máy của trường ĐHTH Hà Nội, 1972.
9. Bưxtrov I.X (1961), “Một vài kết cấu động từ trong tiếng Việt”, Những vấn đề Ngôn ngữ học, Quyển 3,
Tài liệu đánh máy của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1972, tr. 59-66.
10. Chafe. W. L. (1970), Ý nghĩa và cấu trúc của ngôn ngữ, (Nguyễn Văn Lai dịch, 1999), Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
11. Chalker. S., Weiner. E. (2000), Từ điển văn phạm tiếng Anh (Võ Trọng Thủy, Võ Thị Hồng Vân dịch),
Nxb Tp. Hồ Chí Minh.
12. Nguyễn Tài Cẩn (1975), Ngữ pháp tiếng Việt, Tiếng – Từ ghép – Đoản ngữ, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
13. Nguyễn Tài Cẩn (1978), “Quá trình hình thành thế đối lập giữa ba từ được, bị, phải”, Ngôn ngữ số 2, Hà
Nội, tr. 19-22.
14. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983a), Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, tập 1,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
15. Lê Cận, Phan Thiều, Diệp Quang Ban, Hoàng Văn Thung (1983b), Giáo trình ngữ pháp tiếng Việt, tập 2,
Nxb Giáo dục, Hà Nội.
16. Đỗ Hữu Châu (1979), “Cách xử lý những hiện tượng trung gian trong ngôn ngữ”, Ngôn ngữ số1, Hà
Nội, tr. 21-31.
17. Đỗ Hữu Châu (1981), Từ vựng – ngữ nghĩa tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
18. Trương Văn Chình và Nguyễn Hiến Lê (1963), Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam, Nxb Đại học Huế.
19. Trần Chút (1986), “Trở lại vấn đề câu bị động trong tiếng Việt”, Những vấn đề ngôn ngữ học về các
ngôn ngữ phương Đông, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội.
20. Nguyễn Hồng Cổn, Bùi Thị Diên (2004), “Dạng bị động và vấn đề câu bị động trong tiếng Việt”, Ngôn
ngữ số 7-8, Hà Nội, tr.1-12;8-18.
21. Nguyễn Đức Dân (2005), “Những giới từ không gian: sự chuyển nghĩa và ẩn dụ”, Ngôn ngữ số 9, Hà
Nội, tr. 42-50.
22. Nguyễn Đức Dương (2002), “Câu trong tiếng Việt: cấu trúc cú pháp”, Ngôn ngữ và Đời sống số 5, Hà Nội,
tr. 2-5.
23. Lê Đông, Nguyễn Văn Hiệp (2003), “Khái niệm tình thái trong ngôn ngữ học”, Ngôn ngữ số 7-8, Hà
Nội, tr. 17-26; 56-65.
24. Đinh Văn Đức (1978), “Về một cách hiểu ý nghĩa các từ loại trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 2, Hà Nội,
tr. 31-39.
25. Đinh Văn Đức (1986), Ngữ pháp tiếng Việt (từ loại), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà
Nội.
26. Nguyễn Thiện Giáp (1985), Từ vựng học tiếng Việt, Hà Nội, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp,
Hà Nội.
27. Nguyễn Thiện Giáp (ed., 2004), Lược sử Việt ngữ học (tập 1), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
28. Glazova M.G. (1967), “Các kết cấu động từ trong các ngôn ngữ vùng Đông Dương”, Những vấn đề Ngôn
ngữ học, Quyển 3, Tài liệu đánh máy của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1972, tr. 38-51.
29. Halliday, M.A. K (1994), Dẫn luận ngữ pháp chức năng (Hoàng Văn Vân dịch, 2001), Nxb Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
30. Hwan, Ahn Kyong (1996), “Tiểu từ cách trong tiếng Hàn”, Ngôn ngữ số 2, Hà Nội, tr. 30-35.
31. Cao Xuân Hạo (1991a), “Mấy tiền đề cho việc phân tích cú pháp”, Ngôn ngữ số 2, Hà Nội, tr.1-9.
32. Cao Xuân Hạo (1991b), Tiếng Việt – Sơ thảo ngữ pháp chức năng, Quyển I, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
33. Cao Xuân Hạo (1998), Tiếng Việt – Mấy vấn đề ngữ âm, ngữ pháp, ngữ nghĩa, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
34. Cao Xuân Hạo (2001), “Hai phép tính cộng và trừ trong ngôn ngữ học”, Ngôn ngữ số 10, Hà Nội, tr. 1-
12.
35. Cao Xuân Hạo (2002), “Bắt buộc và tùy ý về hai cách biểu đạt nghĩa trong ngôn ngữ”, Ngôn ngữ số 9, Hà
Nội, tr. 1-23.
36. Cao Xuân Hạo (ed., 2005), Nguyễn Văn Bằng, Hoàng Xuân Tâm, Bùi Tất Tươm, Ngữ pháp chức năng
tiếng Việt, Quyển 2 – Ngữ đoạn và từ loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
37. Lê Anh Hiền (1973), “Tìm hiểu ý nghĩa và cách dùng của từ đến (hoặc tới) theo sau động từ”, Ngôn
ngữ số 1, Hà Nội, tr. 44-48;72.
38. Nguyễn Văn Hiệp (2003), “Cấu trúc câu tiếng Việt nhìn từ góc độ ngữ nghĩa”, Ngôn ngữ số 3, Hà Nội, tr. 26-
35.
39. Lê Trung Hoa (1985), “Nhận xét về cách dùng các từ được, bị, phải, mắc, chịu trong một số văn bản của thế
kỷ XVIII”, Ngôn ngữ số 3, Hà Nội, tr. 22-27.
40. Nguyễn Đình Hoà (1962), Bài giảng ngôn ngữ nhập môn, tập 1, Đại học Văn khoa Sài Gòn.
41. Phạm Thị Hòa (2000), “Sự chuyển biến ý nghĩa của các động từ biểu thị hành động vật lý sang biểu thị
hành động nói năng”, Ngôn ngữ số 5, tr. 48-53.
42. Bùi Mạnh Hùng (2008), Ngôn ngữ học đối chiếu, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
43. Trần Trọng Kim, Bùi Kỷ, Phạm Duy Khiêm (1940), Việt Nam văn phạm, Sài Gòn (in lại 1973).
44. Phan Khôi (1955), Việt ngữ nghiên cứu. Nxb Đà Nẵng, Đà Nẵng (tái bản, 1997).
45. Jakontov S.E. (1957), “Về động từ trong tiếng Hán”, Những vấn đề Ngôn ngữ học, Quyển 3, Tài liệu đánh
máy của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1972, tr. 1-20.
46. Nguyễn Lai (2001), Nhóm từ chỉ hướng vận động trong tiếng Việt hiện đại, Nxb Đại học và Trung học
chuyên nghiệp, Hà Nội.
47. Lưu Vân Lăng (1970), “Nghiên cứu ngữ pháp tiếng Việt theo quan điểm tầng bậc có hạt nhân”, Ngôn
ngữ, số 3, tr. 49-62.
48. Lưu Vân Lăng (1998), “Về nguyên tắc phân định từ loại tiếng Việt”, Ngôn ngữ và tiếng Việt, Nxb Khoa
học Xã hội, Hà Nội, tr. 204-207.
49. Lưu Vân Lăng, “Lý luận dịch thuật trước hiện tượng di chuyển đảo thành tố cú pháp”, Ngôn ngữ và
tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 255-259.
50. Nguyễn Hiến Lê (1952), Để hiểu văn phạm, Nxb Phạm Văn Tươi, Sài Gòn.
51. Hồ Lê (1976), Vấn đề cấu tạo từ của tiếng Việt hiện đại, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
52. Hồ Lê (1992), Cú pháp tiếng Việt, quyển 2 (Cú pháp cơ sở), Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
53. Kasevich, V.B. (1977). Những yếu tố cơ sở của ngôn ngữ học đại cương, (Trần Ngọc Thêm (ed.) dịch,
1998), Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà Nội.
54. Lêkomtxêv Yu.K (1964), “Một số vấn đề có liên quan đến lược đồ câu đơn giản Việt Nam”, Những vấn đề
Ngôn ngữ học, Quyển 3, Tài liệu đánh máy của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1972, tr. 105-
111.
55. Nguyễn Văn Lộc (1995), Kết trị của động từ tiếng Việt, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
56. Lê Văn Lý (1948), “Kết cấu hình thái học theo chức năng” (trích dịch từ: “Le parlé Vietnamien”), Những
vấn đề Ngôn ngữ học, Quyển 3, Tài liệu đánh máy của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1972, tr.
117-155.
57. Lê Văn Lý (1968), Sơ thảo ngữ pháp Việt Nam, Trung tâm học liệu Bộ Giáo dục, Sài Gòn.
58. Lyons J. (1968), Nhập môn ngôn ngữ học lý thuyết, (Vương Hữu Lễ dịch, 1996), Nxb Giáo dục, Hà Nội.
59. Hà Quang Năng (1988), “Đặc trưng ngữ pháp của hiện tượng chuyển từ loại trong tiếng Việt”, Những
vấn đề ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, tr. 78-89.
60. Dư Ngọc Ngân (2001), “Về giới ngữ trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 1, Hà Nội, tr. 29-35.
61. Dư Ngọc Ngân (2002), “Bàn thêm về câu tồn tại trong tiếng Việt”, Những vấn đề cơ sở lí luận của ngữ pháp
tiếng Việt (Kỉ yếu HNKH), Tp. Hồ Chí Minh, tr. 114-122.
62. Trà Ngân (1949), Văn phạm Việt Nam, Nxb Cộng Lực, Sài Gòn.
63. Bùi Trọng Ngoãn (2004), Khảo sát các động từ tình thái trong tiếng Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà
Nội.
64. Bùi Trọng Ngoãn (2004), “Tầm tác động của động từ tình thái đối với động từ làm bổ ngữ”, Ngôn ngữ
và Đời sống số 5, Hà Nội, tr. 1-5.
65. Đái Xuân Ninh (1978), Hoạt động của từ tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
66. Panfilov V.S. (1967), “Các mođificateur và các giới từ động từ trong tiếng Việt”, Những vấn đề Ngôn ngữ
học, Quyển 3, Tài liệu đánh máy của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1972, tr. 81-85.
67. Panfilov V.S. (2002), “Một lần nữa về phạm trù thì trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 7, Hà Nội, tr. 1-7.
68. Hoàng Phê (ed., 2006), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
69. Hoàng Trọng Phiến (1980), Ngữ pháp tiếng Việt – Câu, Nxb Đại học và Trung học chuyên nghiệp, Hà
Nội.
70. Nguyễn Phú Phong (1999), “Những phương tiện hình thái trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 3, Hà Nội, tr.
19-24.
71. Nguyễn Thị Quy (1994), “Tiêu chí phân loại các vị từ hành động tiếng Việt” (Theo quan điểm ngữ
pháp chức năng), Ngôn ngữ số 1, Hà Nội, tr. 42-45.
72. Nguyễn Thị Quy (1995), Vị từ hành động trong tiếng Việt và các tham tố của nó, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
73. Rozdextvenxki, I.U. (1997), Những bài giảng ngôn ngữ học đại cương, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
74. Saussure F.de. (1973), Giáo trình ngôn ngữ học đại cương, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
75. Doãn Quốc Sỹ – Đoàn Viết Bửu (?), Lược khảo về ngữ pháp tiếng Việt, Trường Sư phạm Sài Gòn.
76. Vũ Thế Thạch (1985), “Ngữ nghĩa và cấu trúc của động từ tiếng Việt (khuynh hướng định danh trong nghiên
cứu ngữ nghĩa)”, Ngôn ngữ số 3, Hà Nội, tr.10-20.
77. Vũ Thế Thạch (1988), “Ngữ nghĩa và chức năng của các từ được, bị, phải trong tiếng Việt hiện đại”,
Ngôn ngữ số 1, Hà Nội, tr. 54-59.
78. Lê Xuân Thại (1985), “Về trợ từ là trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 2, Hà Nội, tr. 61-66.
79. Lê Xuân Thại (1989), “Câu bị động trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 3, Hà Nội, tr. 13-15.
80. Lê Xuân Thại (1994), Câu chủ vị tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
81. Nguyễn Kim Thản (1963-1964), Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt, tập 1 & 2, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội (in lại 1997, Nxb Giáo dục, Hà Nội).
82. Nguyễn Kim Thản (1977), Động từ trong tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
83. Lưu Nhuận Thanh (2004), Các trường phái ngôn ngữ học phương Tây, (Đào Hà Ninh dịch), Nxb Đại học
Ngoại ngữ Hà Nội.
84. Lý Toàn Thắng (1981), “Về một phương hướng nghiên cứu trật tự từ trong câu”, Ngôn ngữ số 3-4; tr. 25-32.
85. Lý Toàn Thắng, Nguyễn Thị Nga (1982), “Tìm hiểu thêm về loại câu “N2 – N1 – V”, Ngôn ngữ, số 1, Hà
Nội, tr. 21-29.
86. Lý Toàn Thắng (2000), “Về cấu trúc nghĩa của câu”, Ngôn ngữ số 5, Hà Nội, tr. 1-8.
87. Lý Toàn Thắng (2003), Lý thuyết về trật từ trong cú pháp. Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội.
88. Lý Toàn Thắng (2004), “Ngôn ngữ học tri nhận: thử khảo sát ý niệm RA”, Ngôn ngữ và Đời sống số 9,
Hà Nội, tr. 4-8.
89. Nguyễn Tất Thắng (2004), “Sự đa dạng về ngữ nghĩa và cấu trúc ngữ pháp của từ có”, Ngôn ngữ số 7,
Hà Nội, tr. 13-19.
90. Trần Ngọc Thêm (1985), Hệ thống liên kết văn bản tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
91. Lê Quang Thiêm (2008), Nghiên cứu đối chiếu các ngôn ngữ, (In lần thứ hai), Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội.
92. Phan Thiều (1998), “Đảo ngữ và vấn đề phân tích thành phần câu”, Những vấn đề ngữ pháp tiếng Việt.
Nxb Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Hà Nội, tr. 119-128.
93. Nguyễn Thị Thuận (2003), Các động từ tình thái “nên”, “cần”, “phải”, “bị”, “được” trong câu tiếng
Việt, Luận án tiến sĩ Ngữ văn, Hà Nội.
94. Nguyễn Minh Thuyết (1981), “Câu không chủ ngữ với tân ngữ đứng đầu”, Ngôn ngữ số 1, tr. 40-46, Hà
Nội.
95. Nguyễn Minh Thuyết (1983), “Về một kiểu câu có chủ ngữ đứng sau vị ngữ”, Ngôn ngữ số 3, tr. 50-56;64,
Hà Nội.
96. Nguyễn Minh Thuyết, Trần Thị Nhàn (1986a), “Vài nhận xét về các tổ hợp có + N và những câu chứa
chúng”, Ngôn ngữ số 1, Hà Nội, tr. 56-62.
97. Nguyễn Minh Thuyết (1986b), “Vai trò của từ được, bị trong câu bị động tiếng Việt”, Những vấn đề về
các ngôn ngữ phương Đông, Viện Ngôn ngữ học, Hà Nội, tr. 204-207.
98. Nguyễn Minh Thuyết, Nguyễn Văn Hiệp (1998), Thành phần câu tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà
Nội.
99. Huỳnh Văn Thông (2004), Vị từ tình thái tiếng Việt (Đối chiếu với tư liệu tiếng K’Ho-Mạ ở Lâm Đồng).
Luận án Tiến sĩ, Tp Hồ Chí Minh.
100. Bùi Đức Tịnh (1952), Văn phạm Việt Nam, Nxb Phạm Văn Tươi, Sài Gòn.
101. Bùi Minh Toán (1981), “Câu có các vị ngữ liên hợp được biểu hiện bằng động từ trong tiếng Việt”,
Ngôn ngữ số 4, Hà Nội.
102. Bùi Minh Toán (2002), “Nhận diện cụm chủ-vị trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ số 6, Hà Nội, tr. 73-80.
103. Hoàng Tuệ (1963), Hoàng Tuệ – Tuyển tập ngôn ngữ học, Nxb Đại học Quốc gia Tp.Hồ Chí Minh.
104. UBKHXH (1983), Ngữ pháp tiếng Việt, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
105. Hoàng Văn Vân (2002), Ngữ pháp kinh nghiệm của cú tiếng Việt mô tả theo quan điểm chức năng hệ
thống, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
106. Xonxeva N.V. (1967), “Phạm trù ngữ pháp trong các ngôn ngữ đơn lập”, Những vấn đề Ngôn ngữ học,
Quyển 3, Tài liệu đánh máy của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1972, tr. 21-28.
107. Xontxev, V.M (1969), “Những thuộc tính về loại hình của các ngôn ngữ đơn tố”, Những vấn đề Ngôn ngữ
học, Quyển 3, Tài liệu đánh máy của trường Đại học Tổng hợp Hà Nội, 1972, tr. 29-37.
Tiếng Anh
108. Aissen, J. (2000), “Differential Case Marking: Iconicity vs. Economy”, http://phil.fak.uni-
duesseldorf.de/summerschool2000/aissen7.pdf.
109. Anderson, J. (1984), “Objecthood”, Plank, F. (ed.) Objects. Towards a Theory of Grammatical Relations:
29-54, Academic Press, London, New York.
110. Anderson, J. (1998), “The Domain of Semantic Roles”, Andor J, et al (eds.), The Diversity of Linguistic
Description. Studies in Linguistics in Honour of Béla Korponay: 1-38.
111. Anderson, S.R. (1985), “Inflectional Morphology”, Shopen. T (ed.), vol 3: 150-201.
112. Andrews, A.D. (1985), “The Major Functions of the Noun Phrase”, Shopen. T (ed.), vol 1: 62-150.
113. Andrews, A.D. (1988), “Lexical Structure”, Newmeyer, F.J. (ed.): 60-88.
114. Asher, R.E. (ed., 1994), The Encyclopedia of Language and Linguistics, Vol. 9, Pergamon Press Ltd.
115. Arnold, D., Atkinson M., Durand J., Grover C., Sadler L. (ed., 1990), Essays on Grammatical Theory and
Universal Grammar, Clarendon Press, Oxford.
116. Aoun, J., Li, Y.A. (1994), Syntax of Scope, The MIT Press, Cambridge, Massachusetts, London.
117. Bach, E. & Harms, R. (eds, 1968), Universals in Linguistic Theory, Holt, Rinehart, Winnton, New
York.
118. Bach, E. (1968), “Nouns and Noun Phrases”, Bach, E. & Harms R. (eds): 91-124.
119. Baker, M.C. (1997), “Thematic Roles and Syntactic Structure”, Haegeman L (ed.), Elements of Grammar,
Kluwer a Cademic Publisher: 1-47.
120. Baker M.C. (2003), Lexical Categories – Verbs, Nouns, and Adjectives, Cambridge.
121. Blokh, M.Y. (1983), A Course in Theoritical English Grammar, Moscow.
122. Bolkestein, A.M., Groot C. de, Mackenzie J.L (eds.) (1985), Predicates and Terms in Functional
Grammar , Foris publications.
123. Böhm, R., (1993), Predicate-Argument Structure, Relational Typology and (Anti)passives: Towards
an Intergrated Localist Case Grammar Account, University of Hamburg.
124. Bresnan, J. (1995), “Lexicality and Argument Structure”, Paris Syntax and Semantics Conference,
Paris.
125. Chafe, W.L. (1968), “Some Indeterminances in Language”, Geogetown University Round Table
Selected Paper on Languistics 1961-1965, Geogetown University of Languages and Linguistics:
43-48.
126. Chung, T. (2000), “Argument Structure of English Intransitive Verbs”, Studies in Generative Grammar,
Vol. 10, Korea: 398-425.
127. Chung, T. (2003), “Reflexive Constructions in English”, Studies in Generative Grammar, Vol. 12, Korea:
461-480.
128. Clark, M. (1978), Coverbs and Case in Vietnamese, Pacific Linguistics Series B, No 48, The
Australian National University, Canberra.
129. Comrie, B. (1981), Language Universals and Linguistic Typology, Basil Blackwell, Oxford.
130. Comrie, B. (1985), “Causative Verb Formation and Other Verb – Deriving Morphology”, Shopen, T.
(ed.), vol 3: 309-348.
131. Comrie, B. (1988), “Linguistic Typology”, Newmeyer, F.J. (ed.): 447-461.
132. Croft, W. (1990), Typology and Universals, Cambridge University Press, New York.
133. Croft, W. (1991), Syntactic Categories and Grammatical Relations: The Cognitive Oganization of
Information, The University of Chicago Press, Chicago and London.
134. Croft, W. (2001), Radical Construction English (Syntactic Theory in Typological Perspective), Oxford
University Press.
135. Culicover, W.P. (1997), Principles and Parameters (An Introduction to Syntactic Theory), Oxford
University Press.
136. Dinneen, F.P. (1967), An Introduction to General Linguistics, Holt, Rinehart and Winston, INC, New
York, Chicago, San Francisco, Toronto, London.
137. Dik, S.C. (1981), Functional Grammar, North-Holland (3rd printing, Dordrecht: Foris), Amsterdam.
138. Dik, S.C. (1985), “Formal and Semantic Adjustment of Derived Constructions”, Bolkestein, A.M.,
Groot C. de, Mackenzie J.L. (eds.): 1-27.
139. Dixon, R.M.W. (1990), “Subject and Object in Universal Grammar”, Arnold, D., Atkinson M., Durand
J., Grover C., Sadler L. (ed.): 91-118.
140. Dyvik H.J.J. (1984), Subject or Topic in Vietnamese? University of Bergen, Bergen.
141. Emeneau, M.B. (1951), Studies in Vietnamese (Annamese) Grammar, University of California,
Publications in Linguistics.
142. Eggins, S. (1995), An Introduction to Systemic Functional Linguistics, Pinter publishers, London.
143. Farrell, P. (2005), “English Verb-Preposition Constructions: Constituency and Order”, Language,
Vol. 81, No1: 96-137.
144. Fillmore, Ch. (1968), “The Case for Case”, Bach E. & Harms R. (eds): 1-88.
145. Finch, G. (2000). Linguistic Terms and Concepts, Macmillan Press.
146. Foley W. A, Van Valin R. D (1985), “Information Packaging in the Clause”, Shopen, T. (ed.), vol 1:
282-364.
147. Francis, W.N. (1958), The Structure of American English, The Ronal Press Company, New York.
148. Fries, C.C. (1952), The Structure of English, Harcourt, Brace & World, INC, New York and
Burlingame.
149. Fromkin, V., Rodman R. (1974), An Introduction to Language, Harcourt-Brace College Publishers.
Philadelphia, San Diego, New York, Orlando, Austin, Santonio, Toronto, Montreal, London,
Sydney, Tokyo.
150. Givón, T. (1976), “Topic, Pronoun, and Grammatical Agreement”, Li Ch. N (ed.): 149-188.
151. Givón, T. (1978), “Definiteness and Referentiality”, Greenberg J.H. (ed.): 291-330.
152. Givón, T. (1984), Syntax: A Functional-Typological Introduction, Vol 1 John Benjamins Publishing
Company, Amsterdam, Philadelphia.
153. Givón, T. (1990), Syntax: A Functional-Typological Introduction, Vol 2 John Benjamins Publishing
Company, Amsterdam, Philadelphia.
154. Gleason, H. A. (1955), An Introduction to Discriptive Linguistics, Holt Rinehart Winston, New York,
Chicago, San Francisco, Toronto, London.
155. Gleason, H.A. (1963), Linguistics and English Grammar, Holt Rinehart Winston, New York, Chicago,
San Francisco, Toronto, London.
156. Greenberg, J.H. (ed., 1978), Universals of Human Language, Vol. IV, Syntax, Standford University
Press.
157. Groot, C. de (1985), “Predicates and Features”, Bolkestein, A.M., Groot C. de, Mackenzie J.L (eds.):
71-84.
158. Grzegorek, M. (1981). "English Sentences with Introductory ‘There’ and Their Polish Counterparts",
Fisiak, J (ed) Contrastive Linguistics- Prospects and Problems, Mounton Publisher, Berlin, New York,
Amsterdam: 143-170.
159. Gordon, E.M., Krylova I.P. (1980), A Grammar of Present-Day English (Parts of Speech), Moscow.
160. Hale, K. & Keyser, J. (1998), “The basic Elements of Argument Structure”, Harley, H. (ed.), MIT
Working Papers in Linguistics 32, 73-118.
161. Haspelmath, M. (2001), “Word Classes and Parts of Speech”, Smelser N. J, Baltes, P. B (eds.),
International Encyclopedia of Social & Behavioral Sciences”, Elsevier Science Ltd: 16538-16545.
162. Honey, P.J. (1956), “Word Classes in Vietnamese”, Tham luận về từ pháp và cú pháp Việt ngữ, Nxb
Hoàn Vũ (1965): 11-25.
163. Hopper, P.J., Thompson, S.A. (1980), “Transitivity in Grammar and Discourse”, Language, Vol. 56,
No 2: 251-299.
164. Ikeya, A., “Predicate-Argument Structure of English Adjectives”, http://dspace.wul.waseda.ac.jp.
165. Jackendoff, R. “Argument Structure”, http://cog.jhu.edu.
166. Jackson, H.T. (1981), Analyzing English – An Introduction to Descriptive Linguistics, Pergamon
Institute of English.
167. Jacobs, R.A. (1995), English Syntax – A Grammar for English Language Professionals, Oxford
University Press.
168. Junger, J. (1985). “Morphological Causatives in Modern Hebrew”, Bolkestein, A.M., Groot C. de,
Mackenzie J.L (eds.): 235-258.
169. Keenan, E.L. (1976), “Towards a Universal Definition of ‘Subject’”, Li Ch. N (ed.): 303-334.
170. Keenan, E.L. (1985), “Passive in the World’s Languages”, Shopen, T. (ed.), vol 1: 243-280.
171. Kulikov, L. & Vater, H. (ed., 1998), Typology of Verbal Categories, Max Niemeyer Verlag, Tübingen.
172. Lado, R. & Fries Ch.C. (1966), English Sentence Pattern, Ann Arbor, University of Michigan Press.
173. Ladusaw, W.A. (1988), “Sematic Theory”, Newmeyer, F.J. (ed.): 89-112.
174. Langacker R. W. (1991), Foundations of Cognitive Grammar, vol 2 (Descriptive Application),
Stanford University Press, Stanford, California.
175. Leech, G & Svartvik, J. (1979), A Communicative Grammar of English, Longman.
176. Li, Ch.N (ed., 1976), Subject and Topic, Academic Press Inc, New York, San Francisco, London.
177. Li, Ch.N & Thompson S.A. (1976), “Subject and Topic: A New Typology of Language”, Li, Ch. N
(ed., 1976): 457-490.
178. Li, Ch.N., Thompson S.A. (1981), Mandrin Chinese – A Function Reference Grammar, University of
California Press, Berkeley, Los Angeles, London.
179. Lohse, B., Hawkins, J.A., Wasow T. (2004), “Domain Minimization in English Verb-Particle
Constructions”, Language, Vol. 80, No2: 238-261.
180. Mackenzie J.L. (1985), “Nominalization and Valency Reduction”, Bolkestein, A.M., Groot C.de,
Mackenzie J.L (eds.): 29-48.
181. Moravcsik, E.A. (1978a), “On the Case Marking of Objects”, J.H. Greenberg (ed.): 249-91.
182. Moravcsik, E.A. (1978b), “Agreement”, J.H. Greenberg (ed.): 249-91.
183. Napoli, N.J. (1996), Linguistics – An Introduction, Oxford University Press, New York.
184. Nedjalkov, V.P. (ed., 1988), Typology of Resultative Constructions, John Benjamins Publishing
Company, Amsterdam, Philadelphia.
185. Nesfield, J.C. (1898), Idiom and Grammar, Macmillian and Co., London.
186. Newmeyer, F.J. (ed., 1988), Linguistic Theory: Foundations, Cambridge University Press, New York,
Port Chester, Melbourne Sydney.
187. Nguyễn Đình Hòa (1996), “Vietnamese Verbs”, Mon-Khmer Studies Journal, Vol.25: 141-159.
188. Pham Hoa (1999), “Cognate Objects in Vietnamese Transitive Verbs”, Toronto Working Papers in
Linguistics, Vol. 17: 227-246.
189. Quirk, R., Greenbaum, S., Leech, G., and Svartvik, J. (1972), A Grammar of Contemporary English,
Longman, London.
190. Radford, A. (1997), Syntactic Theory and the Structure of English: A Minimalist Approach, Cambridge
University Press.
191. Richards, J.C, et al. (1985), Dictionary of Language Teaching and Applied Linguistics, Longman.
192. Roberts, P. (1958), Understanding Grammar, Harper & Bros, New York.
193. Schachter. P. (1985), “Part-of-Speech Systems”, Shopen, T. (ed.), vol 1: 3-61.
194. Schlesinger I.M (1995), Cognitive Space and Linguistic Case, Cambridge.
195. Shchibsbye K. (1965), A Modern English Grammar, Oxford University Press, Amen House, London.
196. Shibatani, M., Thompson S.A. (eds, 1996), Grammatical Constructions – Their Form and Meaning,
Oxford University Press, New York.
197. Shibatani, M. (1998), “Voice Parameters”, Kulikov, L. & Vater, H. (ed., 1998): 117-138.
198. Shopen, T. (ed., 1985a), Language Typology and Syntactic Discription, Vol. I: Grammatical Catergories
and the Lexicon, Cambridge University Press, Cambridge, London, New York, New Rochelle,
Melbourne, Syney.
199. Shopen, T. (ed., 1985b), Language Typology and Syntactic Discription, Vol. III: Grammatical
Catergories and the Lexicon, Cambridge University Press, Cambridge, London, New York, New
Rochelle, Melbourne, Sydney.
200. Slewlerska, A. (1984), The Passive – A Comparative Linguistic Analysis, Croom Helm, London, Sydney,
Dover, New Hampshire.
201. Slobin, D.I. (1996), “Two Ways to Travel: Verbs of Motion in English and Spanish”, Shibatani M.,
Thompson S.A (eds): 192-220.
202. Srichampa, S. (1997), “Prepositional vs. Directional Coverbs in Vietnamese”, Mon-khmer Studies
Journal, Vol.28: 63-83.
203. Stageberg N.C. (1965), An Introductory English Grammar, State College of Iowa.
204. Stassen L. (1997), Intransitive Predication, Clarendon Press, Oxford.
205. Steele, S. (1978), “Word Order Variation: A Typological Study”, J.H. Greenberg (ed.): 249-91.
206. Sweet, H. (1891), A New English Grammar – Logical and Historical, Oxford, Claredon Press, London.
207. Talmy, L. (1985), “Lexicalization Patterns: Semantic Structure in Lexical Forms”, Shopen. T (ed.),
vol 3: 57-138.
208. Talmy, L. (1991), “Path to Realization: A Typology of Event Conflation”, Proceedings of the
Seventeenth Annual Meeting of the Berkeley Linguistics Society, pp. 480-519.
209. Taylor J.R. (1989), Linguistic Categorization – Prototypes in Linguistic Theory, Clarendon Press,
Oxford.
210. Testelec, Y.G. (1998), “On Two Parameters of Transitivity”, L. Kulikov & H. Vater (ed.): 29-45.
211. Thompson, L.C. (1965), A Vietnamese Grammar, University of Washington.
212. Thompson S.A. (ed., 1996), Grammatical Constructions – Their Form and Meaning, Clarendon Press
Oxford.
213. Valesco, D.G., Muñoz, C.P. (2002), “Understood Objects in Functional Grammar”, Working Papers in
Functional Grammar, No. 76: 1-24, Madrid, Spain.
214. Valin, V.R.D., Wilkins, Jr. and Wilkins D.P. (1996), “The Case for ‘Effector’: Case Roles, Agents, and
Agency Rivisited”, Shibatani M. Y., Thompson S. A. (eds): 289-322.
215. Wee, H. (2006), “Information Structure of English Middles”, Korean Journal of English Language and
Linguistics 6-3: 597-614.
216. Woolford, E. (2006), “Lexical Case, Inherent Case, and Argument Structure”, Linguistic Inquiry: 1-20.
DANH MỤC BÀI VIẾT CỦA TÁC GIẢ
CÓ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Lê Kính Thắng (2004), “Về kiểu cấu tạo “Làm + X” trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ & Đời sống, số 7,
Hà Nội; tr. 1-4.
2. Lê Kính Thắng (2004), “Về một kiểu ngoại động kém điển hình trong tiếng Việt”, Tạp chí Khoa
học, Trường ĐHSP T.p Hồ Chí Minh, số 3; tr. 128-134.
3. Lê Kính Thắng (2004), “Vấn đề phạm trù nội động/ ngoại động trong tiếng Việt”, Hội thảo khoa
học Các nhà Ngữ văn trẻ lần 2, Trường ĐHSP T.p Hồ Chí Minh; tr. 127-132.
4. Lê Kính Thắng (2005), “Phạm trù nội động/ ngoại động và cấu trúc Đề-Thuyết trong tiếng Việt”,
Hội nghị khoa học mừng thọ GS Nguyễn Tài Cẩn 80 xuân, Hội Ngôn ngữ học T.p Hồ Chí Minh,
tr.82-86.
5. Lê Kính Thắng (2006), “Rút gọn diễn trị và sự chuyển loại vị từ trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 5,
Hà Nội; tr. 57-60.
6. Lê Kính Thắng (2007), “Mở rộng diễn trị và sự chuyển loại vị từ trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2,
Hà Nội; tr. 40-45.
7. Lê Kính Thắng (2008), “Trật tự từ và việc nhận diện một số cấu trúc ngoại động trong tiếng Việt”,
Tạp chí Khoa học, Trường ĐHSP Tp. Hồ Chí Minh, số 13.
8. Lê Kính Thắng (2008), “Về một số vị từ có hai cách dùng trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ & Đời sống,
số 1+2, Hà Nội; tr.12-15.
9. Lê Kính Thắng (2008), “Vị từ ngoại động kém điển hình trong tiếng Việt”, Ngôn ngữ, số 2, Hà Nội;
tr. 24-32.
10. Lê Kính Thắng (2008), “Phạm trù nội động/ ngoại động trong tiếng Việt đối chiếu tiếng Anh – từ
các tiêu chí loại hình học”, Hội thảo khoa học Giáo dục ngôn ngữ tại Việt Nam, Hội Ngôn ngữ
học Tp Hồ Chí Minh, tr. 163-167.
NGUỒN NGỮ LIỆU TRÍCH DẪN
1. Vũ Bằng, Thương nhớ mười hai, Nxb Văn học & Hội NCGDVH Tp Hồ Chí Minh, 1984.
2. Nam Cao, Chí Phèo, in trong “Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam (1930-1945)”, Tập 3, Nxb
ĐH&THCN, H. 1986.
3. Nam Cao, Đôi mắt, in trong “Tư liệu tham khảo văn học Việt Nam (1945-1954), Nxb Giáo Dục,
1981.
4. Nam Cao, Đời thừa, in trong “Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam (1930-1945)”, Tập 3, Nxb
ĐH&THCN, H. 1986.
5. Nam Cao, Lão Hạc, in trong “Tuyển tập truyện ngắn Việt Nam (1930-1945)”, Tập 3, Nxb
ĐH&THCN, H. 1986.
6. Nguyễn Công Hoan, Bữa no…đòn, http://vantuyen.net.
7. Dương Đình Hùng, Ngôi nhà ác ôn, http://vantuyen.net.
8. Khái Hưng, Hồn bướm mơ tiên, in trong tập “Văn xuôi lãng mạn Việt Nam”, tập 1, Nxb Khoa học
xã hội, H. 1989.
9. Khái Hưng, Nửa chừng xuân, Nxb Tổng hợp Đồng Nai, 2006.
10. Thạch Lam, Hai đứa trẻ, in trong tập “Văn xuôi lãng mạn Việt Nam”, tập 5, Nxb KHXH, H. 1989.
11. Thạch Lam, Nhà mẹ Lê, in trong tập “Văn xuôi lãng mạn Việt Nam”, tập 5, Nxb KHXH, H. 1989
12. Hồ Chí Minh, Tuyên ngôn độc lập, in trong “Tác phẩm văn của Hồ Chủ tịch”, Nxb Giáo Dục,
1982.
13. Sơn Nam, Bắt sấu rừng U Minh Hạ, http://vantuyen.net.
14. Ngô gia văn phái, Hoàng Lê nhất thống chí, Nxb Văn học, 1984.
15. Nguyễn Khắc Trường, Mảnh đất lắm người nhiều ma, Nxb Hội Nhà văn, 2005.
16. Ngô Tất Tố, Tắt đèn, Nxb Giáo Dục, H. 1986.
17. Nguyễn Tuân, Chữ người tử tù, in trong tập “Vang bóng một thời”, Nxb Văn học, H. 1988.
18. Nguyễn Ngọc Tư, Cánh đồng bất tận, Nxb Trẻ, 2005.
CHỈ MỤC
chuyển loại, 8, 14, 93, 106, 115, 117, 119, 126,
bất động vật, 63, 65, 82, 88-92, 125, 142, 154,
130, 131, 132, 135, 136, 137, 156
155, 166, 167, 172
bị động, 3, 10, 17, 21, 39, 45, 99, 118, 119, 122, 125, 126, 142, 147-157, 166-169, 172-176
bị động giả, 179 Bị thể, 5, 52, 181 BN, 4, 35-37, 39, 45-49, 50-87, 90, 94, 95, 97- 100, 102-114, 116, 118, 119, 120, 123, 124, 127, 128, 137, 138, 139, 142, 143, 145-159, 161-165, 167, 169-171, 173, 174 BN biến đổi, 12, 85
chuyển tác, 5, 17, 86, 87, 94, 149 cố hữu, 43, 72, 87 Công cụ, 44, 50 dạng bị động, 148, 149, 151, 153, 158, dạng chủ động, 118, 150, 158 danh cách, 61 đánh dấu cách, 4, 52, 53, 60-63, 66, 68, 145 Đề, 13, 32, 33, 45, 46, 48, 57, 70, 71, 73-76, 80, 82-86, 88-92, 94, 118, 119, 121, 123, 124, 125, 131, 132, 135, 137, 140-146, 150, 154, 155, 157, 166, 172, 174, 175
BN đồng căn, 169 BN đồng nguyên, 108, 109 BN gián tiếp, 9, 10, 33, 34, 48, 51, 54, 55, 56, 58, 73, 79, 86, 109, 128, 139, 146, 147
Đích, 33, 44, 45, 50, 55, 98, 100, 105, 167 Điểm tính, 164 diễn tố, 5, 12, 13, 17, 27, 31-34, 36, 41, 42, 43, 45, 46, 58, 72, 74, 76, 77, 79, 81, 82, 84, 85, 86, 87, 97, 99, 103, 108, 115-118, 123-126, 128, 129, 133, 135, 136, 137, 165, 167, 173, 174
BN trực tiếp, 4, 6, 9, 15, 16, 17, 34, 35, 47, 48, 50-56, 62, 63, 64, 67, 72, 73, 74, 76, 79, 85, 99, 105, 106, 109, 118, 119, 128, 139, 146, 153, 157 BN zero, 146 cái mới, 10, 72 cấu trúc
diễn trị, 6, 16, 21, 22, 31, 34, 43, 52, 115-118, 123, 125-132, 135, 136, 137, 156, 167, 168, 173
cấu trúc bề mặt, 157 cấu trúc cú pháp, 37, 39, 40, 44, 46, 83, 124, 130, 143, 144, 146, 147, 157, 166, 167, 172, 173, 174
cấu trúc Đề-Thuyết, 57, 141, 143, 172, 174 cấu trúc nghĩa, 19, 36, 40, 46, 56, 81, 103,
điều khiển, 6, 101, 135 đối cách, 61, 63, 64, 67, 168 đối thể, 16 đơn trị, 31, 32, 81, 82 đồng sở chỉ, 145, 157 động từ, 2, 4-18, 21, 24, 25, 38, 41, 42, 68, 74,
75, 87, 96, 104, 112, 114, 123, 130, 133, 148, 151, 152, 168, 173 động từ NĐ, 3, 6, 10, 14 động từ NgĐ, 3, 6, 10, 14
115, 147, 173 cấu trúc nội tại, 46 cấu trúc phái sinh, 167 cấu trúc sâu, 75, 115, 157, 150, 157 cấu trúc tham tố, 37
động vật, 6, 53, 63, 64, 72, 77, 82, 83, 88, 89,
90, 92, 94, 100, 118, 119, 124, 125, 131, 153, 154, 155, 166, 172, 175
cấu trúc chìm, 85 chỉ tố, 66, 145, 150, 152, 153 chủ đề, 4, 67, 70, 75, 80, 141, 143, 145, 148,
144, 166, 172, 174, 175
Dữ cách, 52, 95 dụng pháp, 4, 122, 138, 153 Đường dẫn, 44 giới từ, 10, 19, 23, 38, 39, 44, 46, 48, 51, 54,
55, 57, 59, 65, 70, 71-75, 78, 79, 80, 83, 84, 87, 98-102, 104, 110, 123, 137, 138, 139, 145, 146, 147, 155, 160, 170, 173
chủ ngữ, 4, 8, 9, 15, 16, 20, 26, 30, 32, 33, 39, 40, 42, 45, 46, 47, 53, 59, 60- 63, 65, 66, 68, 70, 72, 79, 85, 95, 100, 106, 107, 108, 110, 111, 116, 127, 128, 142, 145-150, 154, 155, 158, 166, 167, 168, 170, 172 chủ ngữ hình thức, 42 chủ ngữ NĐ, 61, 65, 66, 145 chủ ngữ NgĐ, 60, 61, 62, 66, 145
chu tố, 5, 13, 31, 36, 41, 43, 45, 56, 58, 74, 76,
82, 103, 116, 128, 173
Chủ ý, 29 chuyển đổi diễn trị, 43, 115
gốc từ, 63 Hướng, 44, 69, 172 kết tố, 16 kết trị, 16 Khiến thể, 89, 90, 92, 94, 137 Kích thích tố, 105
loại hình, 4, 6, 19, 22, 26, 51, 52, 53, 58, 59, 60,
Thời gian, 44 Thuyết, 15, 46, 48, 57, 70, 71, 73, 74, 75, 76,
62, 69, 70, 77, 138, 143-146, 171
81, 94, 98, 132, 140, 141, 142, 144, 145, 151, 157, 174 tiền tố, 65, 66 tính thang độ, 164 vai nghĩa, 5, 7, 15, 33, 34, 36, 37, 42, 43, 45,
48, 49, 51, 53, 56, 63, 72, 77, 80-85, 87, 95, 97, 105, 116, 119, 164, 169, 172, 173
loại hình học, 59, 60, 77 mở rộng diễn trị, 115, 126, 127, 130, 135 NĐ, 1-20, 22, 23, 27, 34, 35, 38, 41, 45, 47, 52, 56, 58, 60, 61, 62, 65, 66, 69-73, 76-84, 88, 89, 91-94, 97, 98, 100, 102, 103, 104, 106, 108, 110, 111, 114, 115, 117, 118, 119, 123, 124, 126, 128-139, 140-147, 150-157, 160, 161, 163, 164, 168, 169, 171, 173-176 NĐ điển hình, 100, 110, 156, 173 NĐ kém điển hình, 47, 72, 82, 83, 104, 111,
137, 173
NgĐ, 1-22, 27, 34, 35, 41, 45, 46, 47, 49, 52, 54, 56, 58, 60, 61, 62, 65, 66, 69, 70-73, 76- 81, 83-86, 88-92, 94-100, 102, 103, 105-115, 117, 118, 119, 122-126, 128-137, 139-142, 144-148, 150-161, 163, 164, 165, 168, 169, 170, 171, 173, 174, 176 NgĐ điển hình, 5, 12, 85, 94, 108, 109, 156,
165, 173
NgĐ kém điển hình, 5, 72, 85, 94, -97, 105, 107-112, 114, 123, 124, 126, 140, 148, 155, 156, 165, 170, 171, 173
Người hưởng lợi, 48, 55 Nguồn, 19, 44, 45, 100, 105 nội hướng, 11, 16 Phạm vi, 113, 133, 136 phân tích tính, 138 phù ứng, 4, 60, 61, 65, 66, 68, 75, 145, 147, 166 phụ VT, 15, 96, 97 Phương tiện, 102 rút gọn diễn trị, 43, 115, 125, 129, 132 sở chỉ, 65, 67, 111, 144, 146, 157 sở hữu cách, 63 song trị, 31, 32 tác cách, 61, 62, 66, 168 Tác thể, 2, 33, 43, 45, 71, 85, 86, 87, 104, 116,
141
tam trị, 31, 33 Tần suất, 44 tạo tác, 6, 49, 51, 52 thẩm quyền, 83, 139 tham tố, 5, 16, 19, 22, 31, 32, 34, 36-44, 46, 63, 72, 74, 75, 76, 82, 83, 86-92, 94, 100, 102, 109, 113, 116, 118, 119, 124, 125, 131, 137, 141, 142, 144, 154, 155, 157, 162-170, 172, 173 tham tố ngoại tại, 38, 39, 40, 41, 169 tham tố nội tại, 38, 169
Thời lượng, 44
vị ngữ, 15, 25, 26, 33, 35, 38, 39, 41, 43, 45, 46,
47, 74, 75, 98, 139, 148, 158 vị ngữ mở rộng, 43
VT biên, 101, 170 VT chuỗi, 35, 87-94, 131 VT kiêm nhiệm, 100 VT phức đoạn, 20, 21 VT tình thái, 29, 30, 49, 120, 142, 151, 152,
vô trị, 31, 32, 81, 82 VT, 1, 3-7, 10, 11, 12, 14-22, 21, 22, 24-52, 54-
153, 155
67, 70-175
PHỤ LỤC
- Phụ lục 1: Danh sách các VT NgĐ được dùng với tư cách VTNĐ
- Phụ lục 2: Danh sách các VT NĐ được dùng với tư cách VTNgĐ
- Phụ lục 3: Danh sách các VT [±giới từ] Phụ lục 1:
DDAANNHH SSÁÁCCHH CCÁÁCC VVTT NNggĐĐ ĐĐƯƯỢỢCC DDÙÙNNGG VVỚỚII TTƯƯ CCÁÁCCHH VVTT NNĐĐ
Số Cách dùng Từ TT Ngoại động Nội động
Hắn ăn cơm rồi. Cơm ăn rồi. 1 ăn
Hắn bác trứng. Trứng đã bác. 2 bác
Hắn ban mô đất. Mô đất đã ban. 3 ban
4 ban hành Chính phủ đã ban hành luật này. Luật này đã ban hành.
Họ đã bàn xong kế hoạch. Kế hoạch đã bàn xong. 5 bàn
Hắn đã bán nhà. Nhà đã bán. 6 bán
Hắn banh miệng ra. Miệng hắn banh ra. 7 banh
Hắn cặm bành ra. Cằm hắn bạnh ra. 8 bạnh
9 bành trướng Hắn bành trướng thế lực. Thế lực ngày một bành trướng.
10 bao Hắn bao sách vở. Sách vở bao rồi.
11 bào chế Hắn bào chế thuốc. Thuốc đã bào chế rồi.
12 bảo hành Hắn bảo hành xe. Xe này đã bảo hành.
Hắn bày tiệc rồi. Tiệc bày ra rồi. 13 bày
Hắn băm thịt. Thịt băm rồi. 14 băm
Hắn bặm môi lại. Môi hắn bặm lại. 15 bặm
Hắn bằm thịt. Thịt bằm rồi. 16 bằm
Hắn băng vết thương. Vết thương băng rồi. 17 băng
Hắn bấm chân xuống đất. Chân (hắn) bấm xuống đất. 18 bấm
Hắn bật đèn rồi. Đèn bật rồi. 19 bật
Hắn bịa chuyện. Chuyện này bịa. 20 bịa
21 biến Hắn biến sắc mặt. Số tiền biến đâu mất.
22 biểu quyết Họ biểu quyết chỉ tiêu. Chỉ tiêu đã được biểu quyết.
23 bĩu Hắn bĩu môi ra. Môi hắn bĩu ra.
24 bóc Hắn bóc bánh. Bánh bóc rồi.
25 bọc Hắn bọc gói hàng. Gói hàng bọc rồi.
26 bổ Hắn đã bổ củi xong. Củi đã bổ xong.
27 bố trí Hắn bố trí công việc. Công việc bố trí rồi.
28 bốc Hắn bốc thuốc. Thuốc bốc rồi.
29 bới Hắn bới cơm. Cơm bới rồi.
30 bơm Hắn bơm ga. Ga bơm rồi.
31 bụm Hắn bụm chặt môi. Môi hắn bụm chặt.
32 búng Hắn búng tay. Tay hắn búng tanh tách.
33 buông Hắn buông rèm xuống. Chiếc rèm buông xuống.
34 bửa Hắn bửa củi. Củi bửa rồi.
35 cào Hắn đã cào cỏ, rác trong vườn. Cỏ, rác đã được cào lại.
36 cạo Hắn cạo râu. Râu đã cạo.
37 cáu Hắn cáu tôi. Tính hắn cáu lắm.
38 cày Hắn cày ruộng. Ruộng đã cày xong.
39 cắm Hắn cắm hoa. Hoa đã cắm.
40 cắn Hắn đang cắn hạt dưa. Hạt dưa này cắn khó.
41 cắt Hắn cắt lúa. Lúa đã cắt.
42 căng Hắn căng dây. Dây căng rồi.
43 cân Hắn cân thịt. Thịt cân rồi.
44 cất Hắn cất cao đầu. Đầu cất cao lên.
45 cất giấu Hắn cất giấu tài liệu. Tài liệu đã cất giấu rồi.
46 cất giữ Hắn cất giữ tiền bạc rồi. Tiền bạc đã cất giữ rồi.
47 cẩu Hắn cẩu hàng đi rồi. Hàng đã cẩu.
48 cấp Y tá đã cấp thuốc. Thuốc đã cấp rồi.
49 cấy Họ đã cấy lúa. Lúa đã cấy xong.
50 chải Hắn chải tóc. Tóc chải rồi.
Tủ chạm rồi. 51 chạm Hắn chạm tủ.
52 chạm trổ Hắn chạm trổ bàn ghế. Bàn ghế đã chạm trổ.
53 chan Hắn chan canh. Canh chan rồi.
54 chan chứa Hắn chan chứa tình cảm. Tình cảm chan chứa.
55 chan hòa Cánh đồng chan hòa ánh sáng. Nước mắt chan hòa.
56 chán ngán Hắn chán ngán cuộc sống. Cuộc sống chán ngán quá.
57 chạng Hắn chạng chân ra. Chân hắn chạng ra.
58 chàng ràng Hắn chàng ràng công việc. Công việc chàng ràng mãi.
59 chành Hắn chành môi ra. Môi hắn chành ra.
60 chau Hắn chau mặt lại. Mặt hắn chau lại.
61 chảy Hắn chảy nước mắt. Nước mắt hắn chảy dài.
62 chạy Hắn đã chạy tiền xong. Tiền đã chạy xong.
63 chằm Hắn chằm áo. Áo chằm rồi.
64 chăng Nhện chăng tơ. Tơ nhện chăng đầy nhà.
65 chằng Hắn chằng hàng. Hàng đã chằng xong.
66 chắp Hắn chắp hai tay lại. Hai tay hắn chắp lại.
67 chắt Hắn chắt nước. Nước chắt lại.
68 chặt Hắn chặt mía. Mía đã chặt xong.
69 châm Hắn châm ngòi nổ. Ngòi nổ đã châm.
70 chấm Cô giáo chấm bài thi. Bài thi chấm rồi.
71 chần Hắn chần áo bông. Áo bông chần lại rồi.
72 chất Hắn chất củi vào nhà. Củi đã chất rồi.
73 chất chứa Đầu hắn chất chứa căm thù. Nỗi đau chất chứa trong lòng.
74 châu Chúng châu đầu lại. Đầu châu lại.
75 chẻ Hắn chẻ củi. Củi đã chẻ rồi.
76 chen Hắn chen chân vào công việc. Hắn chen vào đám đông.
77 chèn Hắn chèn đất, đá quanh cái cột. Đất đá đã chèn quanh cây cột.
78 chẹn Chiếc xe chẹn lối vào nhà. Lối vào nhà đã (bị) chẹn.
79 chế Hắn chế bom. Bom đã chế xong.
80 chế Hắn chế trà rất ngon. Chà đã chế xong.
81 chế biến Hắn chế biến thức ăn. Thức ăn đã chế biến.
82 chế giễu Hắn thích chế giễu người ta. Hắn không thích chế giễu.
83 chế ngự Hắn chế ngự cảm xúc. Vụ hỏa hoạn đã chế ngự xong.
84 chế tạo Họ chế tạo robot. Robot đã chế tạo xong.
85 chêm Hắn chêm cán cuốc. Cán cuốc đã chêm.
86 chết Xe hắn chết máy. Máy bị chết.
87 chi Hắn đã chi tiền. Tiền chi rồi.
88 chia Hắn chia tài sản cho cô ta. Tài sản đã chia rồi.
89 chìa Hắn chìa tay ra. Tay hắn chìa ra.
90 chỉa Hắn chỉa tay ra ngoài. Tay hắn chĩa ra ngoài.
91 chiên Mẹ chiên cá. Cá chiên rồi.
92 chiếu Họ chiếu phim. Phim chiếu rồi.
93 chìm Hắn bị chìm xuồng. Xuồng bị chìm.
94 chỉnh Hắn chỉnh bình xăng xe này. Bình xăng xe này đã chỉnh.
95 chỉnh đốn Họ chỉnh đốn hàng ngũ. Hàng ngũ đã chỉnh đốn.
96 chỉnh lý Họ chỉnh lý sách giáo khoa. Sách này đã chỉnh lý.
97 chỉnh lưu Hắn chỉnh lưu dòng điện. Dòng điện đã chỉnh lưu.
98 chỉnh sửa Hắn chỉnh sửa bài viết rồi. Bài viết đã được chỉnh sửa.
99 chít Hắn chít vách. Vách đã chít rồi.
100 choài Hắn choài người ra. Người hắn choài ra.
101 choãi Hắn choãi chân ra. Chân hắn choãi ra.
102 chong Hắn chong đèn suốt đêm. Đèn chong suốt đêm.
103 chôn Hắn chôn vàng. Vàng đã chôn.
104 chôn cất Họ đã chôn cất hắn. Hắn đã được chôn cất.
105 chôn vùi Hắn chôn vùi kỉ niệm. Kỷ niệm đã chôn vùi.
106 chổng Thằng bé chổng mông lên. Mông thằng bé chổng lên.
107 chốt Hắn chốt cửa. Cửa chốt chặt.
108 chớp Cô ấy chớp mắt. Mắt chớp lia lịa.
109 chu tất Hắn chu tất công việc. Công việc chu tất.
110 chùi Hắn chùi chân vào cỏ. Chân chùi vào cỏ.
111 chúi Hắn chúi đầu xuống. Đầu hắn chúi xuống.
112 chúm Hắn chúm miệng lại. Miệng hắn chúm lại.
113 chùng chình Hắn chùng chình công việc. Công việc chùng chình mãi.
114 chuộc Hắn chuộc xe. Xe đã chuộc.
115 chuội Hắn chuội miếng thịt. Miếng thịt chuội rồi.
116 chuồn Hắn chuồn hàng. Hắn đã chuồn rồi.
117 chuốt Hắn chuốt đũa. Đũa chuốt rồi.
118 chụp Hắn chụp hình. Hình đã chụp.
119 chuyển đổi Hắn chuyển đổi công việc. Công việc đã chuyển đổi.
120 chuyển giao Họ chuyển giao công nghệ. Công nghệ đã chuyển giao.
121 chừa Hắn chừa thức ăn cho vợ. Thức ăn đã chừa rồi.
122 chữa Hắn chữa đồng hồ rồi. Đồng hồ đã chữa rồi.
123 chứa chất Lòng hắn chứa chất hận thù. Hận thù chứa chất.
124 chưng Hắn chưng trứng. Trứng đã chưng rồi.
125 chưng cất Họ chưng cất rượu. Rượu đã chưng cất.
126 chứng minh Họ đã chứng minh định lý này. Học thuyết đã chứng minh.
127 co Hắn co tay lại. Tay hắn co lại.
128 co rúm Hắn co rúm người lại. Người hắn co rúm lại.
129 co quắp Hắn co quắp chân tay. Tay chân hắn co quắp.
130 cọ Hắn cọ nồi. Nồi đã cọ rồi.
131 coi Hắn đến coi mặt cô ta. Cô ta coi được.
132 cô Hắn đang cô đường. Đường đã cô.
133 cô đọng Bài thơ cần cô đọng ngôn từ. Ngôn từ bài thơ cô đọng.
134 cô đúc Tác phẩm cô đúc hiện thực. Tác phẩm này cô đúc.
Mặt biển cồn sóng. Sóng biển cồn lên. 135 cồn
Họ cống vàng bạc cho vua. Vàng bạc cống hết rồi. 136 cống
Hắn cột hai cây lại với nhau. Bó cây này đã cột rồi. 137 cột
Cảnh sát cùm tội phạm. Hắn đã bị cùm. 138 cùm
Chúng cụm đầu bàn bạc. Quân địch cụm lại. 139 cụm
140 cung cấp Hắn cung cấp tài liệu cho tôi. Tài liệu cung cấp rồi.
141 cung đốn Họ cung đốn rượu thịt cho y. Rượu thịt cung đốn hết rồi.
Hắn cụng đầu vào tường. Đầu hắn cụng vào tường. 142 cụng
Mẹ cuốc đất. Đất đã cuốc xong. 143 cuốc
Hắn cuộc tiền cho tôi. Hắn không thích cuộc. 144 cuộc
Hắn cuốn chiếu vào. Chiếu cuốn rồi. 145 cuốn
Hắn cuộn bức tranh lại. Bức tranh đã cuộn. 146 cuộn
Nhà đèn cúp điện. Điện cúp rồi. 147 cúp
Hắn bị cụt tay. Tay hắn bị cụt. 148 cụt
149 cử hành Họ cử hành tang lễ. Tang lễ cử hành.
Hắn cưa gỗ. Gỗ đã cưa xong. 150 cưa
Hắn chưa dã rượu. Rượu dã rồi. 151 dã
Hắn dàn sách vở ra bàn. Sách vở dàn khắp bàn. 152 dàn
153 dàn dựng Hắn dàn dựng vở kịch. Vở kịch dàn dựng rồi.
Hắn bị dãn gân chân. Gân chân hắn bị dãn. 154 dãn
Hắn dán nhãn vở. Nhãn vở đã dán. 155 dán
Hắn day lưng lại. Lưng day lại. 156 day
Hắn dằn từng tiếng. Cơn giận dằn xuống. 157 dằn
Họ ra sức dập lửa. Lửa dập rồi. 158 dập
Hắn dận chân xuống nền nhà. Chân hắn dận mạnh. 159 dận
160 dập dờn Ngôi nhà dập dờn ánh lửa. Anh lửa dập dờn.
161 dây dưa Hắn dây dưa công việc. Công việc dây dưa mãi.
162 dấy Họ dấy quân nổi loạn. Khởi nghĩa dấy lên.
163 dậy Khúc sông dậy sóng. Hắn dậy sớm.
164 dè Hắn nói năng dè miệng. Tiền tiêu dè sẻn.
165 dệt Hắn dệt vải. Vải đã dệt xong.
166 di Hắn di tay lên bàn. Tay di lên bàn.
167 di Hắn di mộ vào nghĩa trang. Mộ đã di vào nghĩa trang.
168 di chuyển Hắn di chuyển bàn ghế. Bàn ghế đã di chuyển.
169 di dời Hắn di dời nhà cửa. Nhà cửa đã di dời.
170 di tản Họ đã di tản dân cư. Dân cư đã được di tản.
171 dịch Hắn dịch tác phẩm. Tác phẩm này đã dịch xong.
172 diễn Họ diễn vở kịch này. Vở kịch này đã diễn xong.
173 diện Hắn diện quần áo mới. Quần áo mới diện quá.
174 diễu Họ đang diễu binh. Họ diễu qua lễ đài.
175 díu Hắn díu mắt lại. Mắt hắn díu lại.
176 doãi Hắn doãi người ra. Người hắn doãi ra.
177 doạng Hắn doạng chân ra. Chân hắn doạng ra.
178 dõi Hắn dõi mắt nhìn theo. Mắt hắn dõi theo.
179 dọn Hắn dọn vườn. Vườn đã dọn rồi.
180 dọn dẹp Hắn dọn dẹp nhà cửa. Nhà cửa đã dọn dẹp.
181 dóng Hắn dóng chữ cho thẳng. Chữ đã dóng thẳng.
182 dỏng Hắn dỏng tai lên. Tai hắn dỏng lên.
183 dốc Hắn dốc hết tiền vào cờ bạc. Tiền dốc hết vào cờ bạc.
184 dồi Hắn dồi bóng. Bóng dồi.
185 dội Máy bay dội bom. Bom dội suốt ngày.
186 dồn Hắn dồn tiền. Tiền đã dồn đủ.
187 dồn tụ Thủ đô dồn tụ tinh hoa cả nước. Mọi người dồn tụ lại một chỗ.
188 dỡ Hắn dỡ nhà. Nhà dỡ rồi.
189 dời Hắn dời nhà. Nhà đã dời.
190 du di Họ du di giá cả. Giá cả du di đôi chút.
191 du nhập Họ du nhập loại xe này. Loại xe này mới du nhập.
192 duỗi Hắn duỗi chân ra. Chân hắn duỗi ra.
193 dứ Hắn dứ lưỡi dao vào mặt cô ta. Lưỡi dao dứ vào mặt cô ta.
194 dự trù Hắn đã dự trù kinh phí đại hội. Kinh phí đại hội đã dự trù.
195 dừng Hắn dừng kế hoạch. Kế hoạch đã tạm dừng.
196 dựng Hắn dựng lều. Lều đã dựng xong.
197 dượt Hắn dượt bài hát. Bài hát đã dượt.
198 đãi Hắn đãi gạo. Gạo đãi rồi.
199 đại tu Hắn đại tu xe. Xe đại tu rồi.
200 đan Hắn đan rổ. Rổ đã đan xong.
201 đào Hắn đào giếng. Giếng đã đào xong.
202 đảo Hắn đảo cơm. Cơm đảo rồi.
203 đạt Họ đã đạt chỉ tiêu. Chỉ tiêu đã đạt.
204 đau Hắn đau chân. Chân hắn bị đau.
205 đẵn Hắn đẵn cây. Cây đẵn rồi.
206 đắp Họ đắp đê. Đê đã đắp.
207 đâm Cây đã đâm rễ. Rễ cây đâm xuống đất.
208 đấu Hắn đấu dây điện. Dây điện đã đấu.
209 đậu Hắn đậu xe lại. Xe đậu lại rồi.
210 đậu Cây đã đậu quả. Quả đậu rất sai.
211 đẩy Hắn đẩy xe vào nhà. Xe đẩy vào nhà rồi.
212 đậy Hắn đậy thức ăn lại. Thức ăn đậy lại rồi.
213 đầy Ly đã đầy nước. Nước đầy rồi.
214 đẻ Cây đẻ nhánh. Nhánh (cây) đã đẻ.
215 đẽo Hắn đẽo cày. Cày đã đẽo xong.
216 để Hắn để tiền trong két. Tiền để trong két.
217 để dành Hắn để dành tiền. Tiền này để dành.
218 đệ Hắn đã đệ đơn lên cấp trên. Đơn đã đệ lên cấp trên.
219 đếm Hắn đếm tiền. Tiền đã đếm.
220 đi đứt Hắn đi đứt mấy sào ruộng. Mấy sào ruộng đi đứt.
221 điền Hắn điền tên vào danh sách. Tên đã điền rồi.
222 điều chế Hắn điều chế thuốc. Thuốc đã điều chế.
223 đính Hắn đính khuy áo. Khuy áo đã đính.
224 định dạng Hắn định dạng văn bản. Văn bản đã định dạng.
225 đoạn Hắn đoạn tình đoạn nghĩa. Tình nghĩa đã đoạn.
226 đoạn tuyệt Họ đã đoạn tuyệt tình nghĩa. Tình nghĩa đã đoạn tuyệt.
227 đong Hắn đong gạo. Gạo đã đong.
228 đong đưa Hắn đong đưa mắt. Mắt hắn đong đưa.
229 đóng Hắn đóng cửa. Cửa đóng rồi.
230 đọng Cống đọng nước. Nước cống bị đọng.
231 đổ Hắn đổ nước xuống rãnh. Nước (dơ) đã đổ.
232 đổ vỡ Hắn làm đổ vỡ hạnh phúc. Hạnh phúc đổ vỡ rồi.
233 đổi Hắn đổi tiền. Tiền đã đổi.
234 đổi thay Hắn đã đổi thay số liệu này. Số liệu này đã đổi thay.
235 đối Mặt đối mặt. Lá mọc đối.
236 đôn Cô giáo đôn tiết dạy. Tiết dạy được đôn lên.
237 đốn Hắn đốn củi. Củi đốn rồi.
238 động Hắn thích động chân động tay. Biển động.
239 động đậy Hắn động đậy chân tay. Tay chân hắn động đậy.
240 đột Hắn đột lỗ. Lỗ đột rồi.
241 đột biến Hắn đột biến gen. Gen này đột biến.
Hắn đã đỡ bệnh. Bệnh hắn đã đỡ. 242 đỡ
Hắn đơm cơm. Cơm đơm rồi. 243 đơm
Hắn đơm khuy áo. Khuy áo đơm rồi. 244 đơm
Hắn đủ tiền rồi. Tiền đã đủ. 245 đủ
Họ đúc chuông đồng. Chuông đồng đã đúc xong. 246 đúc
Hắn đùn việc cho em. Mây đen đùn lên. 247 đùn
248 đung đưa Hắn đung đưa chiếc võng. Chiếc võng đung đưa.
249 đưa Hắn đưa tiền cho mẹ. Tiền đưa rồi.
250 đưa đẩy Gió đưa đẩy ngọn tre. Ngọn tre đưa đẩy trước gió.
Hắn bị đứt tay. Tay hắn bị đứt. 251 đứt
Hắn cố ém nỗi buồn lại. Nỗi buồn ém. 252 ém
Hắn ép ván cho thẳng. Ván đã ép rồi. 253 ép
Họ gả con gái. Con gái gả rồi. 254 gả
255 gả bán Ông ta gả bán con gái. Con gái gả bán cho người ta.
Hắn gác chân lên bàn. Chân hắn gác lên bàn. 256 gác
Hắn gán tội cho tôi. Tội gán hết cho hắn. 257 gán
Hắn gãy chân. Cành cây gãy. 258 gãy
259 gằm Hắn gằm mặt xuống. Mặt hắn gằm xuống.
260 gấp gay Hắn gấp gay cặp mắt. Cặp mắt hắn gấp gay.
261 ghếch Hắn ghếch chân lên bàn. Chân hắn ghếch lên bàn.
262 ghịt Hắn ghịt dây lại. Dây đã ghịt chặt.
263 gia giảm Hắn gia giảm mắm muối. Mắm muối gia giảm rồi.
264 gia hạn Họ gia hạn hợp đồng. Hợp đồng đã gia hạn thêm.
265 gia tăng Họ gia tăng tiền phạt. Tiền phạt gia tăng rồi.
266 giã Hắn giã gạo. Gạo giã xong rồi.
267 giã biệt Hắn giã biệt người yêu về quê. Người yêu giã biệt rồi.
268 giã từ Hắn giã từ tôi về nước. Họ hàng đã giã từ rồi.
269 giá Hắn giá mạnh roi lên lưng ngựa. Roi giá mạnh vào lưng ngựa.
270 giải Hắn giải bài toán đó rồi. Bài toán đã giải.
271 giải phẫu Bác sĩ giải phẫu bệnh nhân. Bệnh nhân giải phẫu rồi.
272 giải tán Họ giải tán cuộc mitting. Cuộc mitting đã giải tán.
273 giải thể Họ giải thể công ty. Công ty đã giải thể.
274 giải trình Hắn giải trình phương án này. Phương án mới đã giải trình.
275 giảm Họ làm giảm năng xuất. Năng xuất đã giảm.
276 giảm sút Hắn giảm sút ý chí. Ý chí của hắn đã giảm sút.
277 giảm thiểu Chúng ta cần giảm thiểu chi phí. Chi phí đã giảm thiểu.
278 giàn giụa Hắn giàn giụa nước mắt. Nước mắt hắn giàn giụa.
279 giảnh Con chó giảnh tai lên. Tai con chó giảnh lên.
280 giao Hắn giao hàng. Hàng đã giao rồi.
281 giao khoán Hắn giao khoán việc cho họ. Công việc đã giao khoán rồi.
282 giao nhận Hắn giao nhận hàng hóa. Hàng hóa đã giao nhận.
283 giao nộp Hắn giao nộp sản phẩm. Sản phẩm đã giao nộp.
284 giãy Bé giãy chân khóc đòi mẹ. Cá giãy trên thớt.
285 giằm Hắn giằm ớt. Ớt giằm rồi.
286 giăng Hắn giăng lưới. Lưới giăng rồi.
287 giặt Hắn giặt quần áo. Quần áo giặt rồi.
288 giẫm Hắn giẫm chân lên lúa. Chân giẫm lên lúa.
289 giần Hắn giần gạo. Gạo giần rồi.
290 giấu Hắn giấu tiền trong tủ. Tiền giấu trong tủ.
291 giấu giếm Hắn giấu giếm tội lỗi. Tội lỗi giấu giếm đã lâu.
292 gieo Hắn gieo mạ. Mạ gieo rồi.
293 gieo cấy Hắn đã gieo cấy lúa. Lúa đã gieo cấy.
294 gieo rắc Chúng reo rắc tội ác khắp nơi. Tội ác gieo rắc khắp nơi.
295 giọt Vợ hắn giọt hắn một trận. Búa giọt trên đe.
296 giũ Hắn giũ áo. Áo giũ rồi.
297 giương Hắn giương mắt lên. Mắt hắn giương lên.
298 giũa Hắn giũa cưa. Cưa giũa rồi.
Hắn gò thùng tôn. Thùng tôn đã gò xong. 299 gò
300 gói Cô ấy gói quà. Quà gói rồi.
301 gom Hắn gom rác lại. Rác đã gom lại.
302 gom góp Hắn gom góp tiền bạc. Tiền bạc gom góp cũng khá.
303 gọt Hắn gọt khoai. Khoai gọt rồi.
304 gội Hắn đã gội đầu. Đầu hắn đã gội.
305 gồng Hắn gồng người lên. Người hắn gồng lên.
306 gột Hắn gột hồ. Hồ gột rồi.
307 gợn Mặt hồ gợn sóng. Sóng gợn.
308 gợt Hắn gợt váng. Váng đã gợt rồi.
309 gục Hắn gục đầu xuống. Đầu hắn gục xuống.
310 gửi Hắn gửi tiền. Tiền gửi rồi.
311 gửi gắm Hắn gửi gắm nhà cửa cho tôi. Nhà cửa gửi gắm rồi.
312 gườm Hắn gườm mắt nhìn tôi. Mắt hắn gườm gườm.
313 hạ Hắn hạ giọng xuống. Giọng hắn hạ xuống.
314 há Hắn há mồm ra. Mồm hắn há ra.
315 há hốc Hắn há hốc mồm ra. Mồm hắn há hốc.
316 hái Hắn hái rau. Rau đã hái.
317 ham Hắn ham tiền. Tiền không nên ham.
318 hãm Hắn hãm tiết canh. Tiết canh đã hãm.
319 hàn Hắn hàn nồi. Nồi đã hàn.
320 háy Hắn háy mắt liên tục. Mắt hắn háy liên tục.
321 hao Mua thứ này hao tiền lắm. Tiền cứ hao dần.
322 hằn Trán hắn hằn những nếp nhăn. Vài nếp nhăn hằn trên trán.
323 hất Hắn hất tay lên. Tay hắn hất lên.
324 hé Hắn hé mắt nhìn. Mắt hắn hé lên.
325 hẹn Họ hẹn một cuộc gặp. Cuộc gặp đã hẹn rồi.
326 héo Nắng lớn làm héo rau. Rau đã héo.
327 hệch Hắn hệch mồm ra cười. Mồm hắn hệch ra cười.
328 hết Hắn hết tiền rồi. Tiền hết rồi.
329 hiến Hắn hiến thận. Thận đã hiến rồi.
330 hiếng Hắn hiếng mắt lên. Mắt hắn hiếng lên.
331 hình thành Hắn hình thành một kế hoạch. Kế hoạch đã hình thành.
332 hoạch định Hắn hoạch định chi phí. Chi phí đã hoạch định.
333 hoàn Hắn hoàn tiền lại cho tôi. Tiền đã hoàn lại.
334 hoãn Hắn hoãn chuyến bay. Chuyến bay đã hoãn.
335 hoạn Hắn hoạn lợn. Lợn đã hoạn xong.
336 học Hắn học Toán rất giỏi. Toán đã học rồi.
337 họp Họ họp hội đồng hương. Hội đồng hương đã họp.
Hắn hộc máu. Con lợn hộc lên. 338 hộc
Con khiếu hót tiếng nỉ non. Con khiếu hót suốt ngày. 339 hót
Hắn hớt tóc. Tóc đã hớt. 340 hớt
Hắn húi đầu. Đầu hắn húi trọc. 341 húi
342 huy động Hắn huy động vốn. Vốn đã huy động.
Hắn đã in sách. Sách đã in rồi. 343 in
Hắn kẻ chữ. Chữ đã kẻ xong. 344 kẻ
Hắn kéo rèm cửa. Rèm cửa đã kéo rồi. 345 kéo
Hắn kẹp chân lại. Chân hắn kẹp lại. 346 kẹp
347 kể Hắn kể truyện tiếu lâm. Truyện tiếu lâm kể rồi.
348 kết Hắn kết xong cái bè. Cái bè đã kết xong.
349 kết thúc Chủ tọa kết thúc hội nghị. Hội nghị đã kết thúc.
350 khai mạc Ông ấy khai mạc hội nghị. Hội nghị đã khai mạc.
351 khai trương Hắn khai trương cửa hàng. Cửa hàng đã khai trương.
352 khắc Hắn khắc chữ. Chữ đã khắc xong.
353 khâm liệm Họ khâm liệm thi hài hắn. Thi hài hắn đã khâm liệm.
354 khép Họ khép chặt vòng vây. Vòng vây đã khép chặt.
355 khêu Hắn khêu bấc đèn. Bấc đèn đã khêu.
356 kho Hắn kho cá. Cá kho rồi.
357 khoa Hắn khoa tay trước mặt tôi. Tay hắn khoa trước mặt tôi.
358 khóa Hắn khóa cửa. Cửa đã khóa.
359 khoác Hắn khoác áo mưa. Áo mưa đã khoác.
360 khom Hắn khom lưng xuống. Lưng hắn khom xuống.
361 khoán Hắn khoán việc cho thợ. Công việc khoán rồi.
362 khoanh Hắn khoanh tay trước ngực. Tay hắn khoanh trước ngực.
363 khôi phục Hắn đã khôi phục trí nhớ. Trí nhớ của hắn đã khôi phục.
364 khơi Hắn khơi thông cống rãnh. Cống rãnh đã khơi rồi.
365 khởi động Hắn khởi động máy. Máy đã khởi động.
366 khua Hắn khua tay. Tay hắn khua lên.
367 khuất Hắn đi cho khuất mắt. Cánh buồm đã khuất.
368 khuấy Hắn khuấy bột. Bột đã khuấy rồi.
369 khui Hắn khui bia. Bia đã khui.
370 khum Hắn khum lưng. Lưng hắn khum xuống.
371 khuỳnh Hắn khuỳnh chân ra. Chân hắn khuỳnh ra.
372 khuỵu Hắn khuỵu chân xuống. Chân hắn khuỵu xuống.
373 khuýp Hắn khuýp hai gọng kìm lại. Hai gọng kìm khuýp lại.
374 kiễng Hắn kiễng chân lên. Chân hắn kiễng lên.
375 ký Hắn ký đơn này. Đơn này đã ký.
376 kiểm Hắn kiểm hàng. Hàng đã kiểm.
377 kiểm tra Hắn kiểm tra sổ sách. Sổ sách đã kiểm tra.
378 kiệt Hắn đã kiệt sức. Sức hắn đã kiệt.
379 là Hắn là quần áo. Quần áo là rồi.
380 lã chã Hắn lã chã nước mắt. Nước mắt lã chã.
381 lạc Hắn bị lạc giọng. Giọng hắn lạc đi.
382 lan truyền Hắn lan truyền tin tức. Tin tức lan truyền.
383 lạng Hắn lạng miếng thịt. Miếng thịt lạng rồi.
384 lao Hắn lao người về phía trước. Chiếc xe lao xuống vực.
385 láo liên Hắn láo liên đôi mắt. Mắt hắn láo liên.
386 lau Hắn lau nhà. Nhà lau sạch bóng.
387 lay động Bài thơ lay động lòng người. Ngọn lửa khẽ lay động.
388 lăn Hắn lăn hòn đá. Hòn đá lăn.
389 lắc Hắn lắc đầu lia lịa. Đầu hắn lắc lia lịa.
390 lắng Hắn lắng tai nghe. Tình cảm lắng xuống.
391 lần khân Hắn lần khân không đi. Nợ nần lần khân mãi.
Hắn lẩn đi chơi. Hắn lẩn như trạch. 392 lẩn
Hắn lắp xe đạp. Xe đạp lắp rồi. 393 lắp
Hắn lấp đoạn mương này. Đoạn mương này lấp rồi. 394 lấp
Hắn lập danh sách lớp. Danh sách lớp đã lập rồi. 395 lập
396 lất phất Trời lất phất mưa. Mưa lất phất suốt ngày.
Hắn lật ngược thế cờ. Thế cờ đã lật ngược. 397 lật
Hắn lây bệnh cho vợ. Bệnh này dễ lây. 398 lây
Hắn lè lưỡi ra. Lưỡi hắn lè ra. 399 lè
Hắn lèn hàng. Hàng lèn chặt. 400 lèn
Hắn kéo chân lê trên đất. Chân hắn kéo lê trên đất. 401 lê
Vàng lên giá. Giá vàng lại lên. 402 lên
403 lênh láng Mặt sân lênh láng nước. Nước lênh láng.
Hắn liếc mắt. Mắt hắn liếc dọc liếc ngang. 404 liếc
Hắn lĩnh tiền thưởng rồi. Tiền thưởng đã lĩnh rồi. 405 lĩnh
Hắn ló đầu ra. Đầu hắn ló ra. 406 ló
Hắn lọc nước. Nước đã lọc sạch. 407 lọc
Hắn chỉ lòe thiên hạ. Ánh chớp lòe lên. 408 lòe
Hắn lóe lên niềm hi vọng. Niềm hi vọng lóe lên. 409 lóe
Hắn lòi mắt ra. Mắt hắn lòi ra. 410 lòi
411 long Hắn long mắt nhìn tôi. Mắt hắn long lên.
Hắn lơi tay ra. Tay hắn lơi ra. 412 lơi
Hắn cười lộ hai hàng răng trắng. Một vầng trăng lộ ra. 413 lộ
414 lồng Hắn lồng ảnh vào khung kính. Ảnh lồng vào khung kính.
Hắn lột vỏ sắn. Vỏ sắn đã lột. 415 lột
Hắn lùa tay ra phía sau. Tay hắn lùa ra phía sau. 416 lùa
417 luận bàn Hắn luận bàn kế hoạch. Kế hoạch đã luận bàn.
Hắn lùi xe lại. Xe hắn lùi lại. 418 lùi
Hắn luộc rau. Rau luộc rồi. 419 luộc
Hắn luồn tờ giấy qua khe cửa. Nắng luồn qua kẽ lá. 420 luồn
Đèn đã lụt bấc. Bấc đèn đã lụt. 421 lụt
422 luyện Hắn luyện thép. Thép đã luyện.
Hắn lừ mắt lên nhìn tôi. Mắt hắn lừ lên nhìn tôi. 423 lừ
Hắn lựa áo cưới. Áo cưới lựa rồi. 424 lựa
Hắn lườm mắt nhìn tôi. Mắt hắn lườm lườm. 425 lườm
Hắn lượm tờ báo dưới đất. Tờ báo này lượm dưới đất. 426 lượm
Hắn lượn máy bay trên trời. Máy bay lượn trên trời. 427 lượn
Hắn lưu số điện thoại của tôi. Số điện thoại đã lưu. 428 lưu
429 lưu chuyển Họ lưu chuyển hàng hóa. Hàng hóa đã lưu chuyển.
430 lưu hành Hắn lưu hành tài liệu cấm. Tài liệu đã lưu hành.
431 lưu thông Hắn lưu thông hàng hóa. Hàng hóa đã lưu thông.
432 mài Hắn mài dao. Dao mài rồi.
Hắn mang hành lý theo mình. Hành lý mang theo người. 433 mang
Hắn máng chiếc nón trên vách. Chiếc nón máng trên vách. 434 máng
435 mạng Hắn mạng lại chỗ rách. Chỗ rách đã mạng rồi.
436 may Hắn may quần áo. Quần áo đã may rồi.
437 mắc Hắn mắc võng. Võng mắc rồi.
438 mất Hắn bị mất cả tiền cọc. Tiền cọc đã mất.
439 mẻ Hắn làm mẻ lưỡi dao. Lưỡi dao mẻ rồi.
440 mê Hắn mê bài bạc. Bài bạc mê lắm.
441 mím Hắn mím môi lại. Môi hắn mím lại.
442 mọc Hắn mọc răng. Răng đã mọc.
Hắn mỏi nhừ cả lưng. Lưng hắn mỏi nhừ. 443 mỏi
444 mổ Hắn mổ dạ dày. Bệnh nhân mổ rồi.
445 mở Hắn mở khóa. Khóa mở rồi.
446 mua Hắn mua xe. Xe mua rồi.
Hắn múa gậy loạn xạ. Gậy múa loạn xạ. 447 múa
448 múc Hắn múc cơm. Cơm đã múc.
449 muối Hắn muối dưa. Dưa muối rồi.
450 mượn Hắn mượn tiền. Tiền mượn rồi.
451 nạo Hắn nạo đu đủ. Đu đủ nạo rồi.
452 nảy sinh Hắn nảy sinh lòng tham. Lòng tham của hắn nảy sinh.
Hắn nặn bánh trôi. Bánh trôi đã nặn. 453 nặn
454 nấu Hắn nấu cơm. Cơm nấu rồi.
455 nén Hắn nén cà. Cà nén rồi.
456 nêm Hắn nêm canh. Canh đã nêm.
457 ngào Hắn ngào bột. Bột đã ngào.
458 ngăn Hắn ngăn phòng làm hai. Phòng hắn đã ngăn.
459 ngắt Hắn ngắt cầu chì. Cầu chì đã ngắt.
460 ngâm Hắn ngâm rượu. Rượu ngâm rồi.
461 nghiệm thu Hắn nghiệm thu công trình. Công trình đã nghiệm thu.
462 nghiền Hắn nghiền bột. Bột nghiền rồi.
463 nguôi Hắn nguôi cơn giận. Cơn giận đã nguôi.
464 nhào Hắn nhào bột. Bột nhào rồi.
465 nhoẻn Hắn nhoẻn miệng cười. Miệng hắn nhoẻn cười.
466 nhổ Hắn đã nhổ răng. Răng (hắn) đã nhổ.
467 nhớm Hắn nhớm người lên. Người hắn nhớm lên.
468 nhuộm Hắn nhuộm vải. Vải đã nhuộm.
469 nhướn Hắn nhướn người lên. Người hắn nhướn lên.
470 ních Hắn ních hàng chật bao. Hàng ních chặt bao.
471 niêm Hắn niêm phong bì lại. Phong bì đã niêm.
Hắn nói hắn bị đau đầu. Thằng bé không thể nói. 472 nói
473 nổ Hắn nổ lựu đạn. Lựu đạn nổ.
474 nối Hắn nối đoạn dây. Dây đã nối.
475 nộp Hắn nộp tiền thuế. Tiền thuế nộp rồi.
476 nới Hắn nới áo. Áo đã nới rồi.
477 nung Hắn nung gạch. Gạch đã nung.
478 nướng Hắn nướng cá. Cá đã nướng.
479 ọc Hắn ọc nước. Nước ọc ra.
480 ộc Hắn ộc máu. Máu từ vết thương ộc ra.
481 ôn Hắn ôn bài. Bài đã ôn rồi.
482 pha Hắn pha cà phê. Cà phê đã pha.
483 pha chế Hắn pha chế thuốc. Thuốc đã pha chế.
484 phà Hắn phà khói thuốc. Khói thuốc phà ra.
485 phát Hắn phát tiền cho nhân viên. Tiền công đã phát.
486 phát Hắn phát cỏ. Cỏ đã phát.
487 phát sinh Họ phát sinh mâu thuẫn. Nhiều mâu thuẫn phát sinh.
488 phát triển Hắn phát triển sản xuất. Sản xuất đã phát triển.
489 phân chia Hắn phân chia hàng hoá. Hàng hoá đã phân chia.
490 phân công Hắn phân công nhiệm vụ cho tôi. Nhiệm vụ đã phân công.
491 phân định Họ phân định ranh giới. Ranh giới đã phân định.
492 phân phát Hắn phân phát quà. Quà đã phân phát.
493 phân tán Họ phân tán lực lượng. Lực lượng đã phân tán.
494 phân tích Hắn phân tích hoá chất. Hoá chất này đã phân tích.
495 phần Hắn phần cơm cho mẹ. Cơm cho mẹ đã phần ra.
496 phê Cô giáo phê học bạ. Học bạ đã phê.
497 phí hoài Hắn phí hoài công sức. Công sức đã phí hoài.
498 phóng Hắn phóng to ảnh ra. Ảnh phóng to rồi.
499 phổ cập Nước ta đã phổ cập tiểu học. Tiểu học đã phổ cập.
500 phồng Hắn phồng má ra. Má hắn phồng ra.
501 phơi Hắn phơi quần áo. Quần áo đã phơi.
502 phụng phịu Hắn phụng phịu mặt. Mặt hắn phụng phịu.
503 phùng Hắn phùng má ra. Má hắn phùng ra.
504 phưỡn Hắn phưỡn bụng ra. Bụng hắn phưỡn ra.
505 quạc Hắn quạc mồm ra cãi lại. Mồm hắn quạc ra.
506 quành Hắn quành xe lại. Xe (hắn) quành lại.
507 quay Hắn quay vốn để làm ăn. Trái đất quay.
508 quắc Hắn quắc mắt lên. Mắt hắn quắc lên.
509 quắp Con chó quắp đuôi lại. Đuôi chó quắp lại.
510 quất Hắn quất roi vào mình ngựa. Roi quất đen đét.
511 quấy Hắn quấy bột. Bột đã quấy xong.
512 què Hắn bị què chân rồi. Chân hắn bị què rồi.
513 quen Hắn quen phát âm sai. Phát âm sai quen rồi.
514 quét Hắn quét sân. Sân đã quét rồi.
515 quét dọn Hắn quét dọn nhà cửa. Nhà cửa quét dọn rồi.
516 quyệt Hắn bị quyệt xe. Xe hắn bị quyệt.
517 rà Hắn rà mìn. Máy bay rà trên cây.
518 rã rời Hắn rã rời chân tay. Chân tay hắn rã rời.
Hắn rán trứng. Trứng rán rồi. 519 rán
Hắn rang lạc. Lạc đã rang. 520 rang
Hắn ràng hàng lên xe. Hàng ràng lên xe. 521 ràng
522 rạo rực Hắn rạo rực niềm vui. Niềm vui rạo rực.
Hắn ráp cánh cửa vào khung. Cánh cửa đã ráp vào khung. 523 ráp
Hắn rạp người xuống. Người hắn rạp xuống. 524 rạp
Hắn rắc dầu lên đĩa rau. Dầu đã rắc rồi. 525 rắc
526 rấm Hắn rấm na. Na rấm rồi.
527 rân rấn Hắn rân rấn nước mắt. Nước mắt hắn rân rấn.
Hắn rèn dao. Dao đã rèn xong. 528 rèn
Hắn rim thịt. Thịt rim rồi. 529 rim
Hắn ríu lưỡi lại. Lưỡi hắn ríu lại. 530 ríu
531 rọ rậy Hắn rọ rậy đầu. Đầu hắn rọ rậy.
Hắn róc mía. Mía đã róc xong. 532 róc
Hắn rọc phách. Phách đã rọc. 533 rọc
Hắn rọi đèn xuống sân. Đèn đã rọi xuống sân. 534 rọi
Hắn rót nước sôi vào phích. Nước sôi đã rót vào phích. 535 rót
Hắn rơi nước mắt lã chã. Nước mắt hắn rơi lã chã. 536 rơi
Hắn rớt tiền xuống đất. Tiền vừa rớt. 537 rớt
Hắn run tay. Tay hắn run lên. 538 run
539 run rẩy Hắn run rẩy tay chân. Tay chân hắn run rẩy.
Hắn rùn người xuống. Người hắn rùn xuống. 540 rùn
Hắn rụng răng. Răng hắn rụng rồi. 541 rụng
Hắn rụt tay lại. Tay hắn rụt lại. 542 rụt
Hắn rút tiền. Tiền đã rút. 543 rút
544 rút gọn Hắn rút gọn phân số. Phân số đã rút gọn.
545 rút lui Hắn rút lui ý kiến. Quân địch đã rút lui.
546 rửa Hắn rửa rau. Rau rửa rồi.
547 rưng rưng Hắn rưng rưng nước mắt. Nước mắt rưng rưng.
548 rưới Hắn rưới hành mỡ lên xôi. Hành mỡ đã rưới lên xôi.
549 rướn Hắn rướn người lên. Người hắn rướn lên.
550 sa sầm Hắn sa sầm mặt. Mặt hắn sa sầm.
551 sạ Hắn sạ lúa. Lúa sạ rồi.
552 sã Hắn sã tay xuống. Tay hắn sã xuống.
553 san Hắn san mô đất. Mô đất đã san phẳng.
554 sàng Hắn sàng gạo. Gạo đã sàng rồi.
555 sao Hắn sao cà phê. Cà phê đã sao.
556 sát trùng Hắn sát trùng vết thương. Vết thương đã sát trùng.
557 sảy Hắn sảy gạo. Gạo đã sảy rồi.
558 sắc Hắn sắc thuốc. Thuốc đã sắc rồi.
559 sắm Hắn sắm xe hơi. Xe hơi đã sắm.
560 sắm sửa Hắn sắm sửa quần áo. Quần áo đã sắm sửa.
561 sắp Hắn sắp thức ăn ra mâm. Thức ăn đã sắp ra mâm.
562 sắp đặt Hắn sắp đặt công việc. Công việc đã sắp đặt xong.
563 sắp xếp Hắn sắp xếp quần áo. Quần áo đã sắp xếp rồi.
564 sập Hắn sập bẫy. Bẫy sập rồi.
565 sây sát Hắn bị sây sát chân tay. Chân tay hắn bị sây sát.
566 sấy Hắn sấy chuối. Chuối sấy rồi.
567 sẩy Cô ấy bị sẩy thai. Thai bị sẩy rồi.
568 se Hắn se lòng. Lòng hắn se lại.
569 sểnh Hắn đã sểnh tên cướp. Tên cướp đã sểnh mất.
570 siết Hắn siết chặt gói hàng. Gói hàng đã siết chặt.
571 so Hắn so vai lại. Vai hắn so lại.
572 soạn Hắn soạn hành lý. Hành lý soạn rồi.
573 sôi sục Hắn sôi sục tinh thần đấu tranh. Tinh thần đấu tranh sôi sục.
574 sơ chế Hắn sơ chế chè. Chè đã sơ chế.
575 sơn Hắn sơn cửa. Cửa sơn rồi.
576 súc Hắn súc chai lọ. Chai lọ súc rồi.
577 suốt Hắn suốt lúa. Lúa suốt rồi.
578 sụp Hắn sụp người xuống. Người hắn sụp xuống.
579 suy nghĩ Hắn suy nghĩ vấn đề này mãi. Vấn đề này cần suy nghĩ thêm.
580 suy sụp Hắn suy sụp tinh thần. Tinh thần hắn bị suy sụp.
581 sửa Hắn sửa nhà. Nhà sửa rồi.
582 sửa đổi Hắn sửa đổi kế hoạch. Kế hoạch đã sửa đổi.
583 sực nức Hắn sực nức nước hoa. Mùi nước hoa sực nức.
584 sưng Hắn bị sưng mặt. Mặt hắn sưng lên.
585 tạc Hắn tạc tượng. Tượng đã tạc xong.
586 tạm ứng Hắn tạm ứng tiền công. Tiền công đã tạm ứng.
587 tan Họ tan cuộc họp. Cuộc họp đã tan.
588 tán Hắn tán thuốc. Thuốc tán rồi.
589 tạnh Trời đã tạnh mưa. Mưa đã tạnh.
590 tạo dựng Hắn tạo dựng cơ nghiệp. Cơ nghiệp đã tạo dựng.
591 tạt Hắn tạt bóng vào trung lộ. Bóng tạt vào trung lộ.
592 táy máy Hắn táy máy tay chân. Tay chân hắn táy máy.
593 tăng Ngân hàng tăng lãi suất. Lãi suất đã tăng.
594 tắt Hắn tắt đèn. Đèn tắt rồi.
595 tẩm Hắn tẩm hương vị. Hương vị đã tẩm.
596 tẩy Hắn tẩy vết mực. Vết mực đã tẩy.
597 tém Hắn tém màn. Màn tém rồi.
598 teo Hắn teo chân. Chân (hắn) đã teo.
599 têm Hắn têm trầu. Trầu têm rồi.
600 thả Hắn thả gà. Gà thả rồi.
601 thái Hắn thái thịt bò. Thịt bò thái rồi.
602 thảo Hắn thảo chương trình làm việc. Chương trình đã thảo xong.
603 thay đổi Hắn thay đổi kế hoạch. Kế hoạch đã thay đổi.
604 thắng Hắn thắng đường. Đường thắng rồi.
605 thắp Hắn thắp đèn. Đèn đã thắp rồi.
606 thắt Hắn thắt cà vạt. Cà vạt đã thắt.
607 thè Hắn thè lưỡi ra. Lưỡi hắn thè ra.
608 thêm Hắn thêm gạo vào nồi. Gạo đã thêm rồi.
609 thế chấp Hắn thế chấp tài sản. Tài sản đã thế chấp.
610 thêu Hắn thêu gối cưới. Gối cưới đã thêu.
611 thiến Hắn thiến gà trống. Gà trống thiến rồi.
612 thít Hắn thít chặt dây trói. Dây trói thít chặt.
613 thò Hắn thò đầu ra. Đầu hắn thò ra.
614 thọc Hắn thọc tay vào túi. Tay hắn thọc vào túi.
615 thòng Hắn thòng tay xuống. Tay hắn thòng xuống.
616 thót Hắn thót tim. Tim hắn thót lại.
617 thổ lộ Hắn thổ lộ tâm tình với vợ. Tâm tình đã thổ lộ hết.
618 thổi Hắn thổi kèn suốt ngày. Kèn thổi suốt ngày.
619 thông qua Mọi người thông qua biên bản. Biên bản đã được thông qua.
620 thống nhất Họ thống nhất ý kiến. Ý kiến đã thống nhất.
621 thu Hắn thu tiền nợ. Tiền nợ thu rồi.
622 thu dọn Hắn thu dọn đồ đạc. Đồ đạc đã thu dọn.
623 thu hoạch Hắn thu hoạch vụ mùa. Vụ mùa đã thu hoạch.
624 thu thập Hắn thu thập chứng cớ. Chứng cớ đã thu thập đủ.
625 thu xếp Hắn thu xếp công việc của mình. Công việc đã thu xếp.
626 thuê Hắn thuê nhà. Nhà đã thuê.
627 thui Hắn thui bê. Bê thui rồi.
628 thuộc Hắn thuộc bài. Bài thuộc rồi.
629 thuôn Hắn thuôn thịt. Thịt đã thuôn.
630 thụt Hắn thụt chân xuống rãnh. Chân thụt xuống rãnh.
631 thức tỉnh Lời khuyên đã thức tỉnh hắn. Hắn đã thức tỉnh.
Hắn tì lưng vào tôi. Lưng hắn tì vào tôi. 632 tì
633 tỉa Hắn tỉa hoa. Hoa tỉa rồi.
634 tiêu Hắn tiêu tiền. Tiền tiêu hết rồi.
635 tiêu thụ Họ tiêu thụ hàng cấm. Hàng cấm đã tiêu thụ.
636 tỏa Hoa tỏa hương ra. Hương hoa tỏa ra.
637 toác Hắn toác miệng ra. Miệng hắn toác ra.
638 toe Hắn toe miệng ra. Miệng hắn toe ra.
639 tòe Hắn tòe chân ra. Chân hắn tòe ra.
640 tóe Hòn đá tóe lửa. Lửa tóe ra.
641 toét Hắn toét miệng ra. Miệng hắn toét ra.
642 tô Hắn tô màu. Màu đã tô.
643 tôi Hắn tôi vôi. Vôi đã tôi.
644 tồn tại Cơ quan còn tồn tại tiêu cực. Tiêu cực vẫn còn tồn tại.
645 tra Hắn tra đậu. Đậu tra hết rồi.
646 trả Hắn trả lãi suất. Lãi suất trả rồi.
647 trải Hắn trải chiếu. Chiếu trải rồi.
Răng đã trám. 648 trám Hắn trám răng.
649 trang điểm Họ trang điểm cô dâu. Cô dâu trang điểm rồi.
650 trang hoàng Hắn trang hoàng phòng khách. Phòng khách đã trang hoàng.
651 trang trải Hắn trang trải nợ nần. Nợ nần đã trang trải.
652 tráng Hắn tráng bánh. Bánh tráng rồi.
Hắn treo tranh. Tranh treo rồi. 653 treo
Hắn trét thuyền. Thuyền trét rồi. 654 trét
Hắn trề môi ra. Môi hắn trề ra. 655 trề
Hắn tróc da. Da hắn tróc. 656 tróc
Hắn trố mắt lên. Mắt hắn trố lên. 657 trố
Hắn trộn vữa. Vữa đã trộn. 658 trộn
Rau trồng rồi. 659 trồng Hắn trồng rau.
Hắn trợn ngược mắt lên. Mắt hắn trợn ngược. 660 trợn
Hắn trục đất xong. Đất đã trục xong. 661 trục
662 trùm Hắn trùm chăn lên đầu. Bóng tối trùm xuống.
663 truy cứu Công an đang truy cứu hắn. Hắn đang bị truy cứu.
664 truyền Hắn truyền tin đi. Tin đã truyền đi.
665 trừng Hắn trừng mắt lên. Mắt hắn trừng lên.
666 trườn Hắn trườn người trên cỏ. Người hắn trườn trên cỏ.
667 trượt Hắn bị trượt chân. Chân hắn trượt dài.
668 tu bổ Hắn tu bổ nhà cửa. Nhà cửa đã tu bổ.
669 tu chỉnh Hắn tu chỉnh bài viết. Bài viết đã tu chỉnh.
670 tu sửa Hắn tu sửa nhà cửa. Nhà cửa đã tu sửa.
Hắn tuôn nước mắt. Nước mắt hắn tuôn ra. 671 tuôn
Hắn tuồn hàng qua biên giới. Con rắn tuồn qua hàng rào. 672 tuồn
Hắn tuốt lúa. Lúa tuốt xong rồi. 673 tuốt
Hắn tuột giày. Giày bị tuột. 674 tuột
Hắn tụt quần xuống. Quần hắn tuột xuống. 675 tụt
Hắn tứa nước mắt. Nước mắt hắn tứa ra. 676 tứa
677 tưới Hắn tưới hoa. Hoa tưới rồi.
Hắn ủ chuối. 678 ủ Chuối đã ủ.
Hắn ủi quần áo. 679 ủi Quần áo ủi rồi.
Hắn ùn việc cho chị. Công việc ùn lại. 680 ùn
681 ủy thác Hắn ủy thác công việc cho tôi. Công việc đã ủy thác cho tôi.
682 ứ Nước cống bị ứ. Cống ứ nước.
683 ứa Nước mắt ứa ra. Hắn ứa nước mắt.
684 ứng Tiền đã ứng. Hắn ứng tiền trước.
685 ươm Lan đã ươm. Hắn ươm lan.
686 ướp Thịt ướp rồi. Hắn ướp thịt.
687 ưỡn Hắn ưỡn ngực ra. Ngực hắn ưỡn ra.
688 vá Hắn vá áo. Áo vá rồi.
689 vã Hắn vã mồ hôi ra. Mồ hôi vã ra.
690 vạc Hắn vạc cỏ. Cỏ đã vạc.
691 vàng Hắn bị vàng mắt. Mắt hắn bị vàng.
692 vay Hắn vay tiền. Tiền đã vay rồi.
693 vặn Hắn vặn ốc. Ốc đã vặn.
694 văng Hắn văng câu chửi thề. Câu chửi thề văng ra.
695 vắt Hắn vắt chanh. Chanh vắt rồi.
696 vặt Hắn vặt lông gà. Lông gà đã vặt.
697 vận chuyển Hắn vận chuyển hàng hóa. Hàng hóa đã vận chuyển.
698 vẫy Chó vẫy mạnh đuôi. Đuôi chó vẫy mạnh.
699 vẽ Hắn vẽ tranh. Tranh vẽ rồi.
700 vếch Chó vếch mõm lên. Mõm chó vếch lên.
701 vênh Hắn vênh mặt lên. Mặt hắn vênh lên.
702 vểnh Mèo vểnh cao đuôi. Đuôi mèo vểnh cao.
703 viết Hắn viết thư. Thư viết rồi.
704 vo Hắn vo gạo. Gạo vo rồi.
705 vót Hắn vót tăm. Tăm vót rồi.
706 với Hắn với tay lên trần. Tay hắn với lên trần.
707 vục Hắn vục mặt xuống. Mặt hắn vục xuống.
708 vung Hắn vung tay lên. Tay hắn vung lên.
709 vụt Hắn vụt xe qua trước mặt tôi. Xe vụt qua trước mặt tôi.
710 vương Nhện vương tơ. Tơ vương trên trần nhà.
711 xả Hắn xả quần áo. Quần áo xả rồi.
712 xào Hắn xào thịt bò. Thịt bò xào rồi.
713 xát Hắn xát đậu. Đậu xát rồi.
714 xay Hắn xay bột. Bột đã xay.
715 xắn Hắn xắn tay áo lên. Tay áo xắn lên.
716 xắt Hắn xắt thịt. Thịt xắt rồi.
717 xây Hắn xây nhà. Nhà xây rồi.
718 xẻ Hắn xẻ ván. Ván xẻ rồi.
719 xem Hắn đã xem phim này. Phim này đã xem.
720 xén Hắn xén vải. Vải xén rồi.
721 xên Hắn đã xên đường rồi. Đường đã xên rồi.
722 xìu Hắn xìu mặt lại. Mặt hắn xìu lại.
723 xỏ Hắn xỏ kim. Kim xỏ rồi.
724 xõa Hắn xõa tóc ra. Tóc hắn xõa ra.
725 xòe Hắn xòe quạt ra. Quạt đã xòe ra.
726 xông Hắn xông mũi. Mũi đã xông.
727 xởi Hắn xởi cơm. Cơm xởi rồi.
728 xới Hắn xới đất. Đất xới xong rồi.
729 xù Nhím xù lông. Lông nhím xù lên.
730 xử Họ xử vụ án này. Vụ án đã xử.
Phụ lục 2:
DANH SÁCH CÁC VT NĐ ĐƯỢC DÙNG VỚI TƯ CÁCH VT NgĐ
STT Vị từ Ví dụ về cách dùng nội động Ví dụ về cách dùng ngoại động
Hắn biến rồi. Hắn biến sắc mặt. 1 biến
Hắn bơi rất giỏi. Hắn bơi thuyền rất giỏi. 2 bơi
Hắn buồn lắm. Hắn buồn tình. 3 buồn
Suối đã cạn. Suối đã cạn nước. 4 cạn
Hắn đã chết. Hắn đã chết cõi lòng. 5 chết
Hắn bị cháy nhà. cháy Nhà bị cháy. 6
Hắn chạy rất nhanh. Hắn chạy chức. 7 chạy
Chuối đã chín. Chuối chín hai nải. 8 chín
731 chói Mắt bị chói. Ánh sáng làm chói mắt.
9 chơi Hắn rất ham chơi. Hắn rất ham chơi xổ số.
10 chúm Họ chúm lại. Hắn chúm miệng lại.
11 chụm Họ chụm lại. Họ chụm đầu lại.
12 chuồi Con cá chuồi xuống ao. Hắn chuồi gói quà vào túi.
13 chửa Cô ấy có chửa. Cô ấy chửa con so.
14 chìm Họ bị (chết) chìm. Họ bị chìm xuồng.
15 co rúm Hắn co rúm. Hắn co rúm người.
16 co quắp Hắn co quắp lại. Hắn co quắp chân tay lại.
17 cúi Hắn cúi xuống. Hắn cúi đầu xuống.
18 cúm rúm Hắn cúm rúm lại. Hắn cúm rúm chân tay lại.
19 cười Hắn đang cười. Họ đang cười hắn.
20 dài Chiếc cầu này dài. Chiếc cầu này dài 1 km.
21 dạo Hắn đi dạo. Hắn dạo phố.
22 day dứt Hắn cảm thấy day dứt. Hắn day dứt lòng.
23 đau Hắn cảm thấy đau. Hắn cảm thấy đau đầu.
24 đau đớn Hắn thấy đau đớn. Hắn thấy đau đớn cả người.
25 đậu Tất cả đã đậu rồi Hắn đậu trường Bách khoa rồi.
26 đen Thằng đó số đen quá. Hắn đen bạc (đỏ tình).
27 đẹp Cô ấy rất đẹp. Cô ấy rất đẹp nết.
28 đến Hắn đã đến. Hắn đã đến số.
29 đi Hắn đã đi rồi. Hắn đã đi con xe.
30 điên Hắn điên rồi. Hắn điên đầu vì nợ.
31 đỏ Hắn số đỏ quá! Hắn (đen bạc) đỏ tình.
32 đói Hắn rất đói. Hắn rất đói thông tin.
33 đọng Cống bị đọng. Cống đọng nước.
34 đứng Hắn đang đứng. Hắn đứng máy số 1.
35 đứt Thằng ấy đứt rồi. Thằng ấy đứt môn Anh rồi.
36 giảnh Tai con chó giảnh lên. Con chó giảnh tai lên.
37 giàu Hắn rất giàu. Họ rất giàu lòng nhân đạo.
38 giật Gió giật mạnh. Gió giật mạnh cành cây.
39 giỡn Hắn thích giỡn. Hắn giỡn mặt tôi.
40 gội Đầu hắn đã gội. Đầu hắn đã gội dầu.
41 gồng Hắn gồng mạnh. Hắn gồng mạnh người lên.
42 gớm Hắn gớm lắm. Hắn gớm mặt lắm.
43 gục Hắn gục xuống. Hắn gục đầu xuống.
44 gườm Hắn gườm gườm. Hắn gườm mắt nhìn tôi.
45 há hốc Hắn há hốc. Hắn há hốc mồm ra.
46 hẹp Nhà này hơi hẹp. Hắn hẹp van tim.
47 hét Hắn hét ầm lên. Hắn hét tôi dậy.
48 hôi Thịt này bị hôi. Hắn hôi nách.
49 kêu Hắn kêu nhức cả óc. Hắn kêu trời.
50 khóc Cô ấy lại khóc. Cô ấy khóc chồng.
51 khô Suối đã khô. Suối đã khô nước.
52 khuỵu Hắn khuỵu xuống. Hắn khuỵu chân xuống.
53 kiễng Chân hắn kiễng lên. Hắn kiễng chân lên.
54 kiệt Sức hắn đã kiệt rồi. Hắn đã kiệt sức rồi.
55 la Hắn la ầm lên. Hắn la làng.
56 lạc Hắn bị lạc. Hắn bị lạc đường.
57 lấm Quần áo lấm bê bết. Hắn lấm bùn khắp cả người.
58 lấm tấm Mưa rơi lấm tấm. Hắn lấm tấm mồ hôi.
59 lên Hắn vừa mới lên. Hắn vừa mới lên chức.
60 liếc Hắn liếc dọc liếc ngang. Hắn liếc mắt.
61 liên kết Họ liên kết lại. Họ liên kết các tổ chức lại.
62 lim dim Hắn lim dim. Hắn lim dim mắt.
63 lịm Hắn lịm đi. Hắn lịm người.
64 ló Hắn ló ra. Hắn ló đầu ra.
65 lơi Hắn lơi ra. Hắn lơi tay.
66 lùi Hắn lùi lại. Hắn lùi xe.
67 lườm Hắn lườm lườm. Hắn lườm mắt nhìn tôi.
68 lượn Họ lượn đi lượn lại. Họ lượn máy bay trên trời.
69 mê Hắn đang mê. Hắn đang mê làm ca sĩ.
70 mệt Hắn đang mệt. Hắn thấy mệt người.
71 mơ Hắn đang mơ. Hắn đang mơ gặp ma.
72 múa máy Hắn múa máy suốt ngày. Hắn múa máy chân tay.
73 mừng Hắn (cảm thấy) rất mừng. Hắn mừng sinh nhật.
ngả Hắn ngả xuống sàn. Hắn ngả người xuống sàn. 74
ngã Hắn (bị) ngã. Hắn ngã ngựa. 75
ngắn Chiếc áo này ngắn. Chiếc áo này ngắn tay. 76
ngẩng Hắn ngẩng lên. Hắn ngẩng đầu lên. 77
nghèo Hắn rất nghèo. Hắn rất nghèo tiền bạc. 78
nghếch Con chó nghếch lên. Con chó nghếch mũi lên. 79
nghiêng Căn nhà nghiêng. Căn nhà nghiêng vách bên trái. 80
ngoảnh Hắn ngoảnh lại. Hắn ngoảnh đầu lại. 81
Hắn ngoi lên mặt nước. Hắn ngoi đầu lên mặt nước. ngoi 82
Hắn bị ngộ. Hắn ngộ tình. ngộ 83
Hắn ngồi suốt buổi. Ông ấy ngồi ghế chủ tịch hội nghị này. ngồi 84
Mưa đã ngớt. Mưa đã ngớt hạt. ngớt 85
Cá nhảy. Hắn nhảy lớp. nhảy 86
Gói hàng này rất nhẹ. Anh làm ơn nhẹ chân một chút. nhẹ 87
nhiều Tiền của hắn rất nhiều. Hắn nhiều tiền. 88
Xác chết nổi lên. Nước nổi váng. nổi 89
Hắn bị ói. Hắn thường ói ra máu. ói 90
phụng phịu Hắn phụng phịu. Hắn phụng phịu mặt. 91
Hắn bị què. Hắn bị què chân. què 92
Kim đồng hồ quay nhanh. Kim đồng hồ quay hai vòng. quay 93
Hắn cảm thấy rã rời. Hắn cảm thấy rã rời chân tay. rã rời 94
Mặt trời rọi xuống. Mặt trời rọi những tia nắng ấm áp. rọi 95
Quần này hơi rộng. Quần này rộng ống. rộng 96
Hắn (bị) run. Hắn (bị) run tay. run 97
98 run rẩy Hắn run rẩy. Hắn run rẩy toàn thân.
99 rùn Hắn rùn xuống. Hắn rùn người xuống.
100 rụng rời Hắn cảm thấy rụng rời. Hắn cảm thấy rụng rời chân tay.
101 sa sầm Hắn sa sầm. Hắn sa sầm mặt.
102 sập Nhà của hắn bị sập. Nhà của hắn bị sập hai phòng.
103 se Hắn se lại. Hắn se lòng.
104 sụp Hắn sụp xuống. Hắn sụp người xuống.
105 suy sụp Hắn cảm thấy suy sụp. Hắn suy sụp tinh thần.
106 sưng Môi hắn bị sưng. Hắn sưng môi.
107 sướng Hắn rất sướng. Hắn nói cho sướng miệng.
108 táy máy Hắn rất táy máy. Hắn táy máy tay chân.
109 tắm Họ đang tắm. Họ đang tắm nắng.
110 thổi Hắn thổi phì phì. Hắn thổi sáo.
111 toi Hắn đã toi rồi. Hắn đã toi mạng rồi.
112 trượt Hắn trượt dài. Hắn trượt chân.
113 ứ Cống bị ứ. Cống ứ nước.
114 ưỡn Hắn ưỡn ra. Hắn ưỡn ngực ra.
115 vắt Quần áo đã vắt. Quần áo đã vắt nước.
116 vặt Gà đã vặt. Gà đã vặt lông.
117 xấu Cô ta rất xấu. Cô ta rất xấu tính.
118 xịu Hắn xịu lại. Hắn xịu mặt lại.
119 xuống Giá vàng đã xuống. Giá vàng xuống hai ngàn.
120 yêu Hắn đang yêu. Hắn đang yêu Lan.
121 yếu Hắn rất yếu. Hắn yếu tim.
Phụ lục 3:
DANH SÁCH CÁC VT [±GIỚI TỪ]
Các giới từ STT Vị từ Ví dụ minh họa thường kết hợp
ăn từ Hắn ăn tiền hối lộ. 1 Hắn ăn từ tiền hối lộ.
ấn vào/ lên/ xuống Hắn ấn chiếc công tắc. 2 Hắn ấn xuống chiếc công tắc.
ẩy vào/ tới Hắn ẩy vai tôi. 3 Hắn ẩy vào vai tôi.
bám vào/ lên/ dưới/ Hắn bám cái cọc tre. 4 trên Hắn bám vào cái cọc tre.
ban vào/ lên/ qua/ Xe ban đống đá. 5 xuống Xe ban qua đống đá.
bàn bạc về Họ bàn kế hoạch tổng tấn công. 6 Họ bàn về kế hoạch tổng tấn công.
bắn vào/ qua Hắn bắn con chim. 7 Hắn bắn vào con chim.
bạt vào Hắn bạt tai thằng bé. 8 Hắn bạt vào tai thằng bé.
bay trên/ qua/ dưới/ Gió bay mái nhà. 9 quanh/ vào Gió bay trên mái nhà.
bệt vào/ lên/ xuống Hắn bệt sơn (vào tường). 10 Hắn bệt vào sơn một lớp hóa chất.
buột khỏi/ xuống Hắn buột tay. 11 Hắn buột khỏi tay tôi.
bửa vào/ lên/ xuống Hắn bửa cây gỗ. 12 Hắn bửa vào cây gỗ.
bước lên/ xuống/ sang Lịch sử đã bước một bước dài. 13 Hắn bước lên tàu.
buồn cho/ vì 14 Hắn buồn tình. Hắn buồn cho số phận.
bung lên/ ra/ vào 15 Hắn bung quả lựu đạn. Hắn bung ra một quả lựu đạn.
bỏ vào/ lên/ xuống Hắn bỏ nhúm muối. 16 Hắn bỏ vào nhúm muối một ít đường.
bốc vào Hắn bốc chỗ cơm thừa. 17 Hắn bốc vào chỗ cơm thừa.
buông khỏi Hắn buông cây gỗ. 18 Hắn buông khỏi cây gỗ.
bôi lên/ vào/ xuống/ Họ bôi lớp sơn đỏ. 19 quanh Họ bôi vào lớp sơn đỏ một ít sơn vàng.
buộc vào/ quanh Tôi buộc hắn vào gốc cây. 20 Tôi buộc vào hắn một cái khăn (để làm dấu).
bó vào/ quanh Hắn bó cây chả. 21 Hắn bó vào cây chả một ít lá rau.
cán lên/ qua/ vào/ Xe cán đinh. 22 xuống Xe cán qua đinh.
cầm trong/ vào/ tới Hắn cầm tay. 23 Hắn cầm vào tay tôi.
cặp vào Họ cặp tài liệu của tôi vào hồ sơ chung. 24 Họ cặp vào tài liệu của tôi một lá thư.
cắt từ/ trên/ trong/ ở Tôi cắt tờ báo. 25 Tôi cắt từ tờ báo (một tấm hình).
chạm lên/ vào Họ chạm tủ chè. 26 Họ chạm lên tủ chè (một dòng chữ).
chan vào/ lên Bát cơm chan đầy nước mắt. 27 Nước mắm chan lên đĩa rau.
chán cho Hắn chán đời. 28 Hắn chán cho đời.
chán cho/ với Hắn chán nản chuyện học thêm. 29 nản Hắn chán nản với những lời đường mật lắm rồi.
chặn lên/ xuống/ vào/ Họ chặn tờ giấy lại (để khỏi rơi). 30 trước/ sau Họ chặn lên tờ giấy.
chặt vào/ lên/ xuống/ Họ chặt cây. 31 quanh Họ chặt lên cây (mấy nhát búa).
chém vào/ lên/ xuống Họ chém đầu tội phạm. 32 Họ chém lên đầu tội phạm (mấy nhát dao).
Họ chêm vào dầu nhớt một dung dịch chống hao mòn.
chêm vào/ lên/ giữa/ Họ chêm dầu nhớt. 33 quanh
chết vì/ do 34 Xe chết máy. Xe chết vì máy (hỏng).
chiết vào/ từ Họ chiết cây. 35 Họ chiết từ cây một cành nhỏ.
chọc vào 36 Hắn chọc mắt con vật đáng thương. Hắn chọc vào mắt con vật đáng thương.
chống 37 vào/ lên/ bên/ dưới Hắn chống (chân) chiếc xe máy. Hắn chống vào chiếc xe máy (một cái dù).
chuốt lên/ vào/ xuống Cô gái chuốt sợi giang. 38 Cô gái chuốt vào sợi giang.
chui vào/ qua/ xuống Hắn chui lỗ chó. 39 Hắn chui qua lỗ chó.
chửi vào/ lên Hắn chửi tôi. 40 Hắn chửi vào mặt tôi.
cụp vào Hắn cụp người. 41 Hắn cụp vào người (tôi).
cười với/ vào Hắn cười tôi. 42 Hắn cười với tôi.
cưỡi trên Hắn cưỡi ngựa. 43 Hắn cưỡi trên ngựa.
cướp ở/ bên/ trong/ gần Hắn cướp ngân hàng. 44 Hắn cướp ở ngân hàng.
dán vào/ quanh/ lên/ Hắn dán tường. 45 xuống Hắn dán lên tường một bức tranh.
Hắn dát lên lớp vàng trên mũ một số hạt kim cương.
dát lên/ quanh/ vào Hắn dát lớp vàng lên mũ. 46
dèm pha với/ về Hắn thường dèm pha tôi. 47 Hắn thường dèm pha với tôi (về cô ta).
dời qua/ tới Họ dời nhà tôi. 48 Họ dời tới nhà tôi.
dúi vào/ lên/ xuống Hắn dúi đầu tôi xuống đất. 49 Hắn dúi vào đầu tôi một cái mũ.
đá vào/ lên/ xuống/ Hắn đá chiếc ghế. 50 vào/ qua Hắn đá vào chiếc ghế.
đạp vào/ lên/ xuống Hắn đạp tôi. 51 Hắn đạp vào tôi.
đánh vào/ lên/ xuống Hắn đánh tôi. 52 Hắn đánh vào tôi.
đánh giá về/ với Họ đánh giá dự án. 53 Họ đánh giá về dự án.
đập vào/ lên/ xuống Hắn đập tường. 54 Hắn đập lên tường.
đắp lên/ xuống/ trên Hắn đắp chăn. 55 Hắn đắp lên chăn (một cái chăn khác).
đẩy vào Hắn đẩy tôi. 56 Hắn đẩy vào tôi.
đè xuống/ lên 57 Hắn đè thằng bé (xuống đất). Hắn đè lên thằng bé một bao cát.
đẽo lên/ vào 58 Hắn đẽo tường. Hắn đẽo vào tường.
đớp vào/ quanh/ dưới/ Cá đớp chân bèo. 59 bên Cá đớp dưới chân bèo.
đục lên/ qua/ vào Hắn đục tường. 60 Hắn đục vào tường (một cái lỗ).
đứng trên/ trước/ cạnh Tôi đứng lớp. 61 Tôi đứng trên lớp.
vào Hắn đùn hàng (vào xe). đùn 62 Hắn đùn vào hàng một gói bột trắng.
xuống/ vào Hắn đổ gang. đổ 63 Hắn đổ vào gang (một ít chì).
vào Hắn gạt tay tôi. gạt 64 Hắn gạt vào tay tôi.
vào Hắn gập người tôi. gập 65 Hắn gập vào người tôi.
vào Họ gắp con cá lớn. gắp 66 Họ gắp vào con cá lớn (do nhầm lẫn).
giẫm lên/ vào Đừng giẫm chân người khác. 67 Đừng giẫm lên chân người khác.
giắt vào/ ở Tiền giắt lưng. 68 Tiền giắt vào lưng.
giỡn với Hắn giỡn tôi. 69 Hắn giỡn với tôi.
gõ lên/ vào Đừng gõ đầu trẻ. 70 Đừng gõ lên đầu trẻ.
gom vào Hắn gom người vào góc nhà. 71 Hắn gom vào người tất cả đồ đạc.
gục vào Hắn gục đầu. 72 Hắn gục vào đầu (tôi).
hi sinh vì/ cho Hắn hi sinh vợ con (để trục lợi). 73 Hắn hi sinh vì vợ con.
kéo vào Họ kéo nhà (cho sập). 74 Họ kéo vào nhà.
khảo sát về/ với Họ khảo sát dự án này. 75 Họ khảo sát về dự án này.
khóc cho/ với/ vì 76 Nguyễn Khuyến khóc Dương Khuê. Nguyễn Khuyến khóc cho Dương Khuê.
khoát vào Hắn khoát tay. 77 Hắn khoát vào tay (tôi).
lách qua/ sang 78 Hắn lách người/ luật. Hắn lách qua đám đông.
lên/ vào lăn 79 Họ lăn tay. Họ lăn vào tay (một ít sơn).
vào Hắn lèn gói hàng vào xe. lèn 80 Hắn lèn vào gói hàng một ít quần áo.
vào/ tới Hắn lôi gốc cây lên. lôi 81 Hắn lôi tới gốc cây một cái võng xếp.
ép vào Hắn ép tôi. 82 Hắn ép vào tôi.
nắm vào/ lên/ xuống Anh nắm tay em. 83 Anh nắm vào tay em.
ngẫm về/ tới Tôi ngẫm nghĩ lời hắn nói. 84 nghĩ Tôi ngẫm nghĩ về lời hắn nói.
ngắm vào/ tới/ qua Anh ấy ngắm trúng đích. 85 Anh ấy ngắm vào đích.
nhảy vào/ qua Hắn nhảy lớp. 86 Hắn nhảy vào lớp.
nhìn vào/ qua Hắn nhìn tôi. 87 Hắn nhìn vào tôi.
nghiên về Tôi nghiên cứu văn chương. 88 cứu Tôi nghiên cứu về văn chương.
ngồi lên/ vào/ xuống Hắn ngồi ghế giám đốc. 89 Hắn ngồi xuống ghế (của) giám đốc.
nói về, với Tôi không thích họ nói tôi. 90 Tôi không thích họ nói với tôi.
nối vào/ với Hắn nối dây. 91 Hắn nối vào sợi dây một cái bóng đèn.
núp vào Hắn núp bóng người cha. 92 Hắn núp vào bóng người cha.
phệt lên/ vào Hắn phệt lớp sơn mới. 93 Hắn phệt lên lớp sơn mới một lớp dầu bóng.
rắc lên/ vào Hắn rắc một lớp dầu ăn lên đĩa rau. 94 Hắn rắc lên lớp dầu ăn một ít rau thơm.
rót vào/ xuống/lên Họ rót nước. 95 Họ rót vào nước một ít đường.
rờ vào Hắn rờ tay tôi. 96 Hắn rờ vào tay tôi.
rời khỏi 97 Hắn rời nhiệm sở. Hắn rời khỏi nhiệm sở.
rút từ/ khỏi Họ đã rút tiền tài trợ. 98 Họ đã rút từ tiền tài trợ một số tiền lớn.
quét lên/ xuống 99 Họ quét sơn. Họ quét lên sơn một lớp dầu bóng.
sập vào/ xuống 100 Họ sập bẫy. Họ sập xuống bẫy.
sờ vào Hắn sờ tay tôi. 101 Hắn sờ vào tay tôi.
tách khỏi Hắn tách đám đông thành hai nhóm. 102 Hắn tách khỏi đám đông.
thả xuống/ vào Họ thả hàng. 103 Họ thả vào hàng một ít hóa chất chống ẩm.
thấm vào/ xuống Mồ hôi thấm đất. 104 Mồ hôi thấm vào đất.
thổi vào/ qua/ dưới/ Gió thổi mái tôn. 105 trên Gió thổi trên mái tôn.
treo lên/ dưới/ trên Hắn treo tấm hình. 106 Hắn treo trên tấm hình (một bức tranh).
trừ vào/ trong Họ trừ nợ. 107 Họ trừ vào nợ.
tưới lên/ vào Họ tưới cây. 108 Họ tưới lên cây (một ít thuốc chống rệp).
tuồn vào Họ tuồn hàng. 109 Họ tuồn vào hàng một khẩu súng.
tớp vào Con chó tớp chân tôi. 110 Con chó tớp vào chân tôi.
túm vào Họ túm cổ tên trộm. 111 Họ túm vào cổ tên trộm.
vẫy vào/ lên Họ vẫy mực vào áo tôi. 112 Họ vẫy vào mực một ít cồn.
véo vào Hắn véo tay thằng bé. 113 Hắn véo vào tay thằng bé.
vỗ vào/ lên/ xuống/ Hắn vỗ tay. 114 trên Hắn vỗ vào tay.
vục vào/ xuống Hắn vục mặt khóc. 115 Hắn vục vào mặt vợ khóc.
vun vào/ lên Hắn vun luống khoai. 116 Hắn vun vào luống khoai (ít đất mùn).
ủi vào Xe ủi nhà. 117 Xe ủi vào nhà.
xây 118 ở/ trên/ trong/ quanh Họ xây nhà. Họ xây trong nhà.
xoắn vào/ quanh Hắn xoắn dây thừng. 119 Hắn xoắn quanh dây thừng (một vòng thép).
xót xa cho/ vì 120 Hắn xót xa tiền bạc. Hắn xót xa vì tiền bạc.