BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
PHẠM VI ÁP DỤNG CÔNG ƯỚC VIÊN NĂM 1980
CỦA LIÊN HỢP QUỐC VỀ HỢP ĐỒNG MUA BÁN
HÀNG HÓA QUỐC TẾ
Ngành: LUẬT KINH TẾ
TRỊNH ĐỨC THUẬN
Hà Nội - năm 2019
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG
LUẬN VĂN THẠC SĨ
Phạm vi áp dụng công ước viên năm 1980 của
Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Ngành: Luật Kinh Tế
Mã số: 8380107
Họ và tên học viên: Trịnh Đức Thuận
Người hướng dẫn: TS. Ngô Quốc Chiến
Hà Nội - năm 2019
i
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam kết luận văn này là công trình nghiên cứu khoa học độc lập của
tôi. Các tài liệu, tư liệu được sử dụng trong luận văn có nguồn dẫn rõ ràng, các kết
quả nghiên cứu là quá trình lao động trung thực của tôi.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trịnh Đức Thuận
ii
LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc và xin trân trọng cảm ơn sự hướng dẫn,
giúp đỡ hết sức nhiệt tình, trách nhiệm và hiệu quả của TS. Ngô Quốc Chiến, giảng
viên khoa Luật, Trường Đại học Ngoại thương Hà Nội.
Tôi cũng xin bày tỏ lòng cảm ơn sâu sắc và xin được gửi lời cảm ơn tới tập
thể cán bộ, giảng viên Khoa Luật, tập thể Thầy, Cô giáo Trường Đại học Ngoại
thương Hà Nội đã giảng dạy, truyền thụ kiến thức và giúp đỡ tôi trong suốt khoá
học và thời gian nghiên cứu luận văn.
TÁC GIẢ LUẬN VĂN
Trịnh Đức Thuận
iii
MỤC LỤC
LỜI CAM ĐOAN .......................................................................................................i
LỜI CẢM ƠN ........................................................................................................... ii
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT......................................................................vi
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN ................................. vii
LỜI MỞ ĐẦU ............................................................................................................ 1
1. Tính cấp thiết của đề tài .................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu ........................................................................................ 3
2.1. Trên thế giới ................................................................................................. 3
2.2. Tại Việt Nam ................................................................................................ 4
3. Câu hỏi nghiên cứu ............................................................................................ 6
4. Mục đích nghiên cứu ......................................................................................... 6
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ......................................................................................... 6
6. Đối tượng nghiên cứu ........................................................................................ 6
7. Phạm vi nghiên cứu ........................................................................................... 6
8. Phương pháp nghiên cứu .................................................................................. 7
9. Kết cấu của Luận văn........................................................................................ 7
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CISG VÀ PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CISG .... 8
1.1. Khái quát về CISG ......................................................................................... 8
1.1.1. Lịch sử hình thành CISG ......................................................................... 8
1.1.2. Nội dung cơ bản của CISG ...................................................................... 9
1.1.3. Thành công của CISG ............................................................................ 12
1.1.4. Việt Nam gia nhập CISG ........................................................................ 17
1.2. Khái quát về phạm vi áp dụng của CISG .................................................. 17
iv
1.2.1. Khái quát về các trường hợp áp dụng CISG ......................................... 17
1.2.2. Khái quát về các trường hợp không áp dụng CISG .............................. 21
1.2.3. Ý nghĩa của việc xác định phạm vi áp dụng của CISG ........................ 23
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ PHẠM
VI ÁP DỤNG CỦA CISG ....................................................................................... 26
2.1. Phạm vi áp dụng theo đối tượng ................................................................. 26
2.1.1. Hợp đồng mua bán ................................................................................. 26
2.1.2. Hàng hóa ................................................................................................. 35
2.1.3. Những nội dung bị loại trừ .................................................................... 37
2.2. Phạm vi áp dụng CISG theo không gian .................................................... 42
2.2.1. Khái niệm trụ sở thương mại ................................................................. 42
2.2.2. Trường hợp có nhiều trụ sở thương mại ............................................... 44
2.2.3 Một số bảo lưu ......................................................................................... 46
2.3. Phạm vi áp dụng theo dẫn chiếu của quy phạm tư pháp quốc tế ............ 48
2.3.1. Mở rộng phạm vi áp dụng về không gian .............................................. 48
2.3.2. Giới hạn phạm vi áp dụng theo quy định bảo lưu ................................ 50
2.4. Phạm vi áp dụng theo sự lựa chọn của các bên ......................................... 51
2.4.1. Lựa chọn áp dụng CISG (opting in) ...................................................... 51
2.4.2. Thỏa thuận loại trừ CISG (opting out) .................................................. 53
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CISG ....................... 62
3.1. Một số khuyến nghị chung ........................................................................... 62
3.2. Khuyến nghị về phạm vi áp dụng CISG theo đối tượng ........................... 64
3.2.1. Về hàng hóa không thuộc phạm vi điều chỉnh của CISG .................... 64
3.2.2. Về một số nội dung bị CISG loại trừ...................................................... 65
v
3.2.3. Về khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa .......................................... 65
3.3. Khuyến nghị về phạm vi áp dụng CISG theo lãnh thổ ............................. 66
3.3.1. Về tính quốc tế của hợp đồng mua bán ................................................. 66
3.3.2. Về bảo lưu theo Điều 92 và Điều 93 ...................................................... 67
3.3.3. Về lựa chọn tùy nghi .............................................................................. 67
KẾT LUẬN .......................................................................................................... 69
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
vi
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết tắt Nghĩa đầy đủ
CISG Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế (United Nations Convention on Contracts for
the International Sale of Goods)
HĐMBHHQT Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
ICC Phòng Thương mại Quốc tế (International Chamber of
Commerce)
PECL Bộ Nguyên tắc về Luật Hợp đồng Châu Âu (Principles of
European Contract Law)
PICC Bộ Nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế
(Principles of International Commercial Contract)
UCP Quy tắc và Thực hành thống nhất Tín dụng chứng từ (Uniform
Customs and Practice for Documentary Credits)
UNCITRAL Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế (United
Nations Commission on International Trade Law)
Unidroit Viện nghiên cứu quốc tế về thống nhất luật tư (L'Institut
international pour l'unification du droit privé)
vii
TÓM TẮT KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU CỦA LUẬN VĂN
Tên luận văn: Phạm vi áp dụng Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc
về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
Luận văn đã đạt các kết quả chính như sau:
- Đã trình bày khái quát về CISG và phạm vi áp dụng của CISG.
- Đã phân tích các quy định và thực tiễn áp dụng các quy định về phạm vi áp
dụng của CISG, trong đó nhấn mạnh đến: Phạm vi áp dụng theo đối tượng; phạm vi
áp dụng theo không gian; phạm vi áp dụng theo dẫn chiếu của quy phạm tư pháp
quốc tế; phạm vi áp dụng theo sự lựa chọn của các bên.
- Đã phân tích một số án lệ nhằm cung cấp cách hiểu rõ hơn về một số nội
dung quy định của CISG như: hợp đồng mua bán; hàng hóa là đối tượng của hợp
đồng mua bán; tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa; trụ sở thương
mại, opting in; opting out…
- Đã đưa ra một số khuyến nghị đối với Việt Nam khi áp dụng các quy định về
phạm vi áp dụng của CISG như: hàng hóa không thuộc phạm vi điều chỉnh của
CISG; một số nội dung bị CISG loại trừ; khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa;
tính quốc tế của hợp đồng mua bán; các bảo lưu theo Điều 92 và Điều 93 và lựa
chọn tùy nghi.
Trong quá trình thực hiện Luận văn này, tác giả đã viết một bài báo về phạm
vi áp dụng của CISG và đã được đăng trên Tạp chí Kinh tế Đối ngoại (đính kèm
luận văn này).
1
LỜI MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hợp đồng thương mại quốc tế (HĐTMQT) có đặc trưng là có mối quan hệ
gắn bó với hai hoặc nhiều quốc gia. Mối quan hệ gắn bó này được thể hiện ở nhiều
khía cạnh khác nhau, như các bên có quốc tịch khác nhau, có trụ sở tại các Quốc
gia khác nhau, hợp đồng được ký kết, thực hiện, thay đổi, chấm dứt ở các Quốc
gia khác nhau hoặc hợp đồng có đối tượng ở các Quốc gia khác nhau. Chính vì có
mối liên hệ với hai hoặc nhiều Quốc gia khác nhau, nên HĐTMQT có thể chịu sự
điều chỉnh của tất cả các Quốc gia hữu quan. Trong tư pháp quốc tế người ta gọi
đây là hiện tượng xung đột pháp luật. Có hai cách cơ bản để giải quyết hiện tượng
này, đó là mỗi quốc gia tự xây dựng các quy phạm xung đột trong nội luật cho
phép cơ quan giải quyết tranh chấp dựa vào đó để xác định pháp luật của một quốc
gia cụ thể cần được áp dụng để điều chỉnh HĐTMQT. Cách thứ hai là các quốc
gia đàm phán, ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế nhằm thống nhất luật xung
đột hoặc thống nhất luật nội dung. Công ước Viên 1980 của Liên Hợp quốc về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế (viết tắt theo tiếng Anh là CISG - United Nations
Convention on Contracts for the International Sale of Goods) là nỗ lực thống nhất luật
thực chất (luật nội dung) trong lĩnh vực thương mại hàng hóa thành công nhất trong
trong lịch sử.
Là một công ước do Ủy ban Liên Hợp Quốc về Luật Thương mại quốc tế
(UNCITRAL) soạn thảo và thông qua tại Viên năm 1980, CISG là công ước thành
công nhất trong lĩnh vực này, chấm dứt vai trò (không hiệu quả) của hai công ước
LaHay năm 1964 về mua bán quốc tế động sản hữu hình. Sự thành công của CISG
được thể hiện rõ ở số thành viên 89 hiện tại của nó, bao gồm hầu hết các nền kinh tế lớn trên thế giới như Mỹ, Nhật, Trung Quốc, Đức, Pháp1. Điều chỉnh các giao
dịch chiếm đến 80% thương mại hàng hóa thế giới. Một thống kê được tăng tải
1 Có thể xem danh sách các quốc gia thành viên tại: http://www.uncitral.org/uncitral/en/uncitral_texts/sale_goods/1980CISG_status.html (truy cập ngày 19/11/2018)
trên trang web của CISG cho biết có tới hơn 2500 vụ tranh chấp về hợp đồng mua
2
bán hàng hóa quốc tế được tòa án và trọng tài áp dụng CISG để giải quyết2.
Việt Nam đã trở thành thành viên của công ước này và công ước đã có hiệu
lực ở Việt Nam từ ngày 01/01/2017. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu, phổ biến
các quy định của CISG đến các các doanh nghiệp và các cá nhân, tổ chức có liên
quan tại Việt Nam là hết sức cần thiết, đặc biệt khi mà nền kinh tế Việt Nam ngày
càng hội nhập sâu rộng với nền kinh tế thế giới và các giao dịch mua bán hàng hóa
giữa các doanh nghiệp Việt Nam và các doanh nghiệp nước ngoài ngày càng tăng về
số lượng, về giá trị và đa dạng về đối tác, phức tạp về các vấn đề pháp lý liên quan.
Để hiểu rõ và áp dụng hiệu quả CISG, các chủ thể không chỉ phải nghiên
cứu các quy định về nội dung mà còn phải trả lời câu hỏi đầu tiên mang tính tiên
quyết, đó là khi nào CISG được áp dụng? Mặc dù có đối tượng điều chỉnh là hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng CISG không được áp dụng đối với mọi
loại hàng hóa do Công ước có điều khoản loại trừ một số hàng hóa đặc biệt. Ngoài
ra, do CISG có các quy định khá chung chung về hợp đồng, về yếu tố quốc tế của
hợp đồng, về hàng hóa là đối tượng của hợp đồng…nên đặt ra một số vấn đề cần
được làm rõ hơn thông qua việc nghiên cứu các thực tiễn xét xử cũng như học
thuyết pháp lý về các vấn đề này.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế cho
thấy có rất nhiều các tranh chấp liên quan đến vấn đề phạm vi áp dụng của CISG.
Trong thực tiễn xét xử, các cơ quan tài phán đã diễn giải CISG khá linh động dựa
trên các tình huống cụ thể và chính điều này khiến cho việc nghiên cứu thực tiễn
xét xử trở nên rất cần thiết. Ngoài ra, xung quanh các quy định về phạm vi áp
dụng của Công ước Viên vẫn tồn tại một số ý kiến chưa thống nhất. Vậy nên, câu
hỏi được đặt ra Công ước Viên được áp dụng trong trường hợp nào, trường hợp
nào không được áp dụng, hay nói cách khác, phạm vi áp dụng của Công ước viên
được quy định như thế nào? Bên cạnh đó là việc liệu các bên có thể tự do thỏa
thuận lựa chọn hay loại trừ luật áp dụng hợp đồng là Công ước Viên được không
2https://cisgvn.wordpress.com/2010/11/01/thanh-cong-c%E1%BB%A7a-cisg/ (truy cập ngày 19/11/2018)
và bằng cách nào.
3
Vì những lý do trên, học viên quyết định lựa chọn nghiên cứu đề tài:
“Phạm vi áp dụng Công ước Viên năm 1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế” làm luận văn thạc sỹ. Đề tài này là cần thiết và có ý
nghĩa lý luận, thực tiễn quan trọng trong thời điểm hiện nay và phù hợp với
chương trình đào tạo Thạc sỹ Luật học tại Trường Đại học Ngoại thương.
2. Tình hình nghiên cứu
2.1. Trên thế giới
Trên thế giới đã có rất nhiều nghiên cứu về CISG nói chung và phạm vi áp
dụng CISG nói riêng. Tuy nhiên, các nghiên cứu về CISG nói chung và về phạm
vi áp dụng của CISG nói riêng nhằm đề xuất giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt
Nam cũng như áp dụng CISG ở Việt Nam chưa nhiều. Có thể kể đến các công
trình tiêu biểu sau đây:
Các tác giả Clayton P. Gillette , Steven D. Walt, The UN Convention on
Contracts for the International Sale of Goods: Theory and Practice, Cambridge
University Press, 2016, đã phân tích khái quát quá trình hình thành của CISG,
bình luận các quy định của CISG trong đó có các quy định liên quan tới phạm vi
áp dụng của CISG và đánh giá sự phát triển các quy định đó tại một số quốc gia
điển hình.
Trong cuốn sách mang tựa đề The CISG: A New Textbook for Students and
Practitioners, do Sellier European Law Pub ấn hành năm 2007, tác giả Jacob
Ziegel đã chỉ ra những thành công của CISG bằng cách mô tả và phân tích các
lĩnh vực mà Công ước đề cập, cụ thể là phạm vi áp dụng, các quy tắc hình thành
hợp đồng và các điều khoản bán hàng thực tế.
Một nghiên cứu khác cũng rất đáng chú ý đó là Selected problems concerning the CISG’ Scope of application, của Stefan Kröll năm 2009 đăng trên trang web chính thức của UNCITRAL3 đã phân tích về các trường hợp không áp
3 Có thể xem được tại: https://www.uncitral.org/pdf/english/CISG25/Kroll.pdf (truy cập ngày 19/11/2018).
dụng CISG theo quy định tại Điều 4 và Điều 5 CISG.
4
Về phần mình, Franco Ferrari, 2011, Contracts for the International Sale of
Goods: Applicability and Applications of the 1980 United Nations Convention,
Martinus Nijhoff Publishers, cũng đã phân tích các trường hợp áp dụng của
CISG; các vấn đề liên quan đến sự không phù hợp của hàng hóa được giao; và xác
định tỷ lệ lãi trên số tiền còn thiếu. Cuốn sách nhấn mạnh cách CISG được diễn
giải và áp dụng ở các khu vực pháp lý khác nhau.
Joseph Lookofsky, 2012,Understanding the CISG in the USA 4th Edition,
Kluwer Law International, đã phân tích 5 phụ lục và các văn bản liên quan và
2000 phán quyết của cơ quan tài phán trên cơ sở CISG để làm rõ các nội dung
của CISG như: phạm vi CISG áp dụng; Giải thích công ước, Bồi thường thiệt
hại, quyền miễn trừ…
Tác giả Minh Hang Nguyen, trong luận án tiến sỹ luật học về “La
convention de Vienne de 1980 sur la vente internationale de marchandises et le
droit vietnamien de la vente” (Công ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế và pháp luật Việt Nam về hợp đồng mua bán) đã so sánh các quy
định thực chất của pháp luật Việt Nam với các quy định của CISG để đề xuất các
giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam. Tuy nhiên luận án chỉ tập trung phân
tích và đề xuất các giải pháp liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên chứ
chưa có nhiều phân tích các quy định về phạm vi áp dụng của CISG.
Các nghiên cứu trên tuy chưa trực tiếp giải quyết triệt để các vấn đề về
phạm vi áp dụng của CISG nhưng vẫn sẽ là nguồn tài liệu hữu ích để tác giả đưa
ra các đánh giá các quy định về phạm vi áp dụng của CISG và đưa ra các đề xuất,
khuyến nghị đối với các cơ quan, doanh nghiệp Việt Nam.
2.2. Tại Việt Nam
Ở Việt Nam, tính đến nay, chưa có công trình hay sách chuyên khảo nào
nghiên cứu một cách hệ thống, cụ thể về phạm vi áp dụng CISG. Các nghiên cứu
công bố ở Việt Nam chủ yếu liên quan đến quyền và nghĩa vụ của các bên cũng
như vấn đề vi phạm hợp đồng. Một số ít đã bàn về phạm vi áp dụng của CISG
nhưng còn khá sơ sài. Cụ thể:
5
Bài viết “Phạm vi áp dụng và không áp dụng của Công ước Viên 1980 về
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế” của tác giả Nông Quốc Bình đăng trên tạp
chí Luật học số 10/2011. Bài viết này đề cập phạm vi áp dụng, phạm vi không áp
dụng của Công ước Viên 1980, trên cơ sở đó tác giả có một số đề xuất với Việt
Nam. Bài viết trực tiếp đề cập đến phạm vi áp dụng và không áp dụng của CISG –
chủ đề nghiên cứu của Luận văn - nhưng chỉ dừng lại ở mức độ đưa ra vấn đề mà
chưa có nhiều phân tích về thực tiễn xét xử liên quan đến các vấn đề này chưa
nhiều và cho đến nay đã cũ.
Bài viết “Phạm vi áp dụng của Công ước CISG cho hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế” của tác giả Nguyễn Thị Hồng Trinh đăng trên Tạp chí Tòa án điện tử4cũng chỉ giới thiệu ngắn gọn về Công ước, phân tích tính chất quốc tế của
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế theo quy định của Công ước. Bài viết mặc dù
có tiêu đề là phạm vi áp dụng của Công ước, nhưng dành rất ít thời lượng cho vấn
đề này mà chủ yếu tập trung so sánh việc áp dụng Công ước trong tố tụng tòa án
và tố tụng trọng tài và bình luận những trường hợp Công ước không áp dụng và
phân tích mối quan hệ của công ước với luật quốc gia cũng như khả năng kết hợp
áp dụng của công ước với Điều kiện thương mại quốc tế Incoterms và Bộ nguyên
tắc Unidroit về Hợp đồng thương mại quốc tế. Những công cụ trên dù khác nhau ở
mức độ khái quát và tính cụ thể nhưng có thể sử dụng bổ sung cho nhau điều
chỉnh một hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
Bản thân tác giả của Luận văn này cũng có một bài viết về phạm vi áp dụng
của CISG đăng trên tạp chí Kinh tế Đối ngoại năm 2018, tuy nhiên bài viết này
còn chưa đề cập đến tất cả các trường hợp áp dụng và không áp dụng CISG.
Như vậy, có thể thấy các công trình, bài viết của các tác giả ở Việt Nam chưa
nghiên cứu một cách thấu đáo các quy định về phạm vi áp dụng của CISG. Cho tới
nay mới chỉ xuất hiện một vài bài viết đề cập đơn lẻ đến vấn đề về phạm vi áp dụng
CISG. Kế thừa những nghiên cứu tại cả Việt Nam và thế giới, Luận văn sẽ phân
tích một cách toàn diện và có hệ thống các quy định về phạm vi áp dụng CISG và
các thực tiễn xét xử liên quan. Trên cơ sở đó Luận văn sẽ đưa ra một số khuyến 4 Có thể xem được tại: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/pham-vi-ap-dung-cua-cong-uoc-cisg-cho- hop-dong-mua-ban-hang-hoa-quoc-te (truy cập ngày 19/11/2018).
6
nghị cho các cơ quan và doanh nghiệp Việt Nam khi áp dụng CISG.
3. Câu hỏi nghiên cứu
Để giải quyết vấn đề nghiên cứu nêu ở trên, Luận văn sẽ tìm cách trả lời
cho câu hỏi bao quát nhất là: Phạm vi áp dụng của CISG là gì? Để trả lời được câu
hỏi lớn này, đề tài sẽ trả lời những câu hỏi nhỏ sau:
Thứ nhất, đâu là những trường hợp áp dụng CISG?
Thứ hai, đâu là những trường hợp không áp dụng CISG?
Thứ ba, Việt Nam phải đối mặt với những cơ hội và thách thức gì khi áp
dụng các quy định về phạm vi áp dụng CISG?
Thứ tư, Chính phủ và doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì để có thể thực thi
một cách hiệu quả các quy định về phạm vi áp dụng CISG?
4. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu các quy định về phạm vi áp dụng của CISG, thực tiễn
áp dụng các quy định về phạm vi áp dụng của CISG, Luận văn nhằm mục đích đưa
ra những khuyến nghị đối với Việt Nam, cũng như đề xuất một số giải pháp cụ thể
khi áp dụng các quy định về phạm vi áp dụng của CISG.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu trên, Luận văn sẽ giải quyết hai nhiệm vụ
cụ thể sau:
Thứ nhất, phân tích một cách toàn diện, có hệ thống các quy định về phạm
vi áp dụng của CISG.
Thứ hai, phân tích thực tiễn xét xử liên quan tới phạm vi áp dụng của CISG
nhằm rút ra những kinh nghiệm áp dụng cho Việt Nam.
6. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của Luận văn là quy định về phạm vi áp dụng của
CISG, các phán quyết của cơ quan tài phán (tòa án quốc gia và trọng tài thương
mại quốc tế) liên quan tới phạm vi áp dụng của CISG.
7. Phạm vi nghiên cứu
Phạm vi về nội dung: Luận văn không nghiên cứu tất cả các quy định
của CISG, mà chỉ tập trung nghiên cứu các quy định về phạm vi áp dụng của
7
Công ước này.
Phạm vi về không gian: Luận văn nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy
định về phạm vi áp dụng CISG không chỉ ở Việt Nam mà cả ở nước ngoài.
Phạm vi về thời gian: Do dung lượng có hạn và để đảm bảo tính thời sự,
luận văn sẽ không nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về phạm vi áp dụng
CISG từ khi Công ước này ra đời (1980) mà chủ yếu tập trung nghiên cứu các
thực tiễn xét xử trong thời gian gần đây.
8. Phương pháp nghiên cứu
Để đạt được mục đích nghiên cứu nêu trên, tác giả sẽ sử dụng các phương
pháp nghiên cứu luật học truyền thống như phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh và nghiên cứu thực tiễn xét xử. Cụ thể:
- Phương pháp phân tích, tổng hợp sẽ được sử dụng xuyên suốt Luận văn
nhằm làm sáng tỏ vấn đề về phạm vi áp dụng của CISG.
- Phương pháp so sánh luật học chủ yếu được sử dụng khi tác giả thấy cần
thiết so sánh các quy định của CISG với pháp luật Việt Nam nhằm tạo tiền đề cho
các đề xuất cụ thể.
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn xét xử (case studies) được sử dụng
chủ yếu ở các Chương 2, 3 nhằm làm rõ thực tiễn áp dụng các quy định trong
thực tế.
9. Kết cấu của Luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn được kết cấu gồm 3 chương:
- Chương 1: Khái quát chung về CISG và phạm vi áp dụng của CISG
- Chương 2: Quy định và thực tiễn áp dụng quy định về phạm vi áp dụng của
CISG
- Chương 3: Một số khuyến nghị đối với Việt Nam khi áp dụng các quy định
về phạm vi áp dụng của CISG
8
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT VỀ CISG VÀ PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CISG
1.1. Khái quát về CISG
1.1.1. Lịch sử hình thành CISG
Công ước Viên 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế (viết tắt theo tiếng Anh là CISG - Convention on Contracts for the
International Sale of Goods) được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về
Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL) với nỗ lực hướng tới việc thống nhất nguồn
luật áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế.
Trên thực tế, nỗ lực thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế đã được khởi xướng từ những năm 30 của thế kỷ XX Unidroit
(Viện nghiên cứu quốc tế về thống nhất luật tư). Unidroit đã cho ra đời của hai
Công ước La Hay năm 1964. Công ước thứ nhất là Công ước về Luật thống nhất về
thiết lập hợp đồng mua bán quốc tế các động sản hữu hình. Công ước này điều
chỉnh việc hình thành hợp đồng (chào hàng, chấp nhận chào hàng). Công ước thứ
hai là Công ước về Luật thống nhất cho mua bán quốc tế các động sản hữu hình.
Công ước này đề cập đến quyền và nghĩa vụ của người bán, người mua và các biện
pháp được áp dụng khi một trong các bên vi phạm hợp đồng. Tuy vậy, hai Công
ước này rất ít được áp dụng trong thực tế do nhiều nguyên nhân khác nhau như: (1)
Hội nghị La Hay chỉ có 28 nước tham dự với rất ít đại diện từ các nước xã hội chủ
nghĩa và các nước đang phát triển, vì thế người ta tin rằng các Công ước này được
soạn có lợi hơn cho người bán từ các nước tư bản; (2) Các Công ước này sử dụng
các khái niệm quá trừu tượng và phức tạp, rất dễ gây hiểu nhầm; (3) Các Công ước
này thiên về thương mại giữa các quốc gia cùng chung biên giới hơn là thương mại
quốc tế liên quan đến vận tải biển; (4) Quy mô áp dụng của chúng quá rộng, vì
chúng được áp dụng bất kể có xung đột pháp luật hay không.
Năm 1968, trên cơ sở yêu cầu của đa số các thành viên Liên Hợp Quốc,
UNCITRAL đã khởi xướng việc soạn thảo một Công ước thống nhất luật nội dung
áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nhằm thay thế cho hai Công ước
9
La Hay năm 1964. Công ước Viên ra đời năm 1980, được soạn thảo dựa trên hai
Công ước La Hay, song có những điểm đổi mới và hoàn thiện cơ bản.
Cho tới nay, CISG đã trở thành một điều ước quốc tế được thừa nhận rộng
rãi trên thế giới. Tuy nhiên, để có được sự thừa nhận đó CISG cũng phải trải qua
một khoảng thời gian tương đối dài. Trong tám năm đầu tiên sau khi CISG được
thành lập (1980), CISG thậm chí chưa thể phát sinh hiệu lực vì không đủ số quốc
gia thành viên phê chuẩn. Bởi lẽ, theo Điều 99 (1) CISG chỉ có hiệu lực khi tối thiểu
10 quốc gia phê chuẩn CISG. Phải đợi đến năm 1988 thì yêu cầu này đã được thỏa
mãn khi có đủ số lượng quốc gia, trong đó có Mỹ, chấp nhận và phê chuẩn CISG.
Từ năm 1988 đến cuối thế kỷ số lượng quốc gia thành viên Công ước tăng
chậm nhưng tiến độ ổn định. Tuy nhiên, trong những năm gần đây, đã chứng kiến
sự tăng tốc rõ rệt về số lượng các bên sử dụng CISG. Ngoài ra, các chủ thể của các
Quốc gia chưa là thành viên của CISG đã lựa chọn CISG điều chỉnh hợp đồng của
mình đã thúc đẩy ngày càng nhiều Quốc gia phê chuẩn Công ước này. Vì vậy, CISG
đã hoàn thành mục tiêu của những người sáng tạo trong việc thiết lập luật thống
nhất rộng rãi về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và thường được coi là cung
cấp hệ thống quy tắc cân bằng và trung lập.
1.1.2. Nội dung cơ bản của CISG
CISG gồm 101 Điều, chia làm 4 phần với các nội dung chính sau:
Phần 1: Phạm vi áp dụng và các quy định chung (từ Điều 1 đến Điều 13).
Như tên gọi của nó cho thấy, phần này quy định các trường hợp CISG được áp dụng
(từ Điều 1 đến Điều 6), đồng thời nêu rõ nguyên tắc trong việc áp dụng CISG,
nguyên tắc diễn giải các tuyên bố, hành vi và xử sự của các bên, nguyên tắc tự do
về hình thức của hợp đồng. Công ước cũng nhấn mạnh đến giá trị của tập quán
trong các giao dịch mua bán hàng hóa quốc tế.
Phần 2: Xác lập hợp đồng (trình tự, thủ tục ký kết hợp đồng, từ Điều 14 đến
Điều 24). Trong phần này, với 11 điều khoản, Công ước đã quy định khá chi tiết,
đầy đủ các vấn đề pháp lý đặt ra trong quá trình giao kết hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế. Điều 14 của Công ước định nghĩa chào hàng, nêu rõ đặc điểm của chào
hàng và phân biệt chào hàng với các“lời mời chào hàng”. Các vấn đề hiệu lực của
10
chào hàng, thu hồi và hủy bỏ chào hàng được quy định tại các Điều 15, 16 và 17.
Đặc biệt, tại các Điều 18, 19, 20 và 21 của Công ước có các quy định rất chi tiết, cụ
thể về nội dung của chấp nhận chào hàng; khi nào và trong điều kiện nào, một chấp
nhận chào hàng là có hiệu lực và cùng với chào hàng cấu thành hợp đồng; thời hạn
để chấp nhận, chấp nhận muộn; kéo dài thời hạn chấp nhận. Ngoài ra, Công ước còn
có quy định về thu hồi chấp nhận chào hàng, thời điểm hợp đồng có hiệu lực…
Về vấn đề xác lập hợp đồng mua bán, CISG ghi nhận quy tắc chào hàng -
chấp nhận chào hàng (offer-acceptance rule). Công ước quy định một chào hàng
phải được gửi đến một hay một số người cụ thể, xác định và miêu tả đầy đủ về hàng
hóa, số lượng, giá cả. Chào hàng có thể được thu hồi nếu thư thu hồi đến khách
hàng trước hoặc cùng lúc với thư chào hàng, hoặc trước khi khách hàng gửi lại thư
chấp thuận. Bất kỳ sự thay đổi nào với thư chào hàng ban đầu đều được xem như sự
từ chối thư chào hàng trừ khi các điều khoản sửa chữa không làm thay đổi những
điều khoản thiết yếu của thư chào hàng.
Phần 3: Mua bán hàng hóa (từ Điều 25 đến Điều 88) quy định các vấn đề
pháp lý trong quá trình thực hiện hợp đồng. Phần này được chia thành 5 chương với
những nội dung cơ bản như sau:
Chương I: Những quy định chung; Chương II: Nghĩa vụ của người bán;
Chương III: Nghĩa vụ của người mua; Chương IV: Chuyển rủi ro; Chương V: Các
điều khoản chung về nghĩa vụ của người bán và người mua, đây là chương có số
lượng điều khoản lớn nhất, cũng là chương chứa đựng những quy phạm hiện đại,
tạo nên ưu việt của CISG. Nghĩa vụ của người bán và người mua được quy định chi
tiết, trong hai chương riêng, giúp cho việc đọc và tra cứu dễ dàng hơn. Về nghĩa vụ
của người bán, Công ước quy định rất rõ nghĩa vụ giao hàng và chuyển giao chứng
từ, đặc biệt là nghĩa vụ đảm bảo tính phù hợp của hàng hóa được giao (về mặt thực
tế cũng như về mặt pháp lý).
CISG nhấn mạnh đến việc kiểm tra hàng hóa được giao (thời hạn kiểm tra,
thời hạn thông báo các khiếm khuyết của hàng hóa). Những quy định này, rất phù
hợp với thực tiễn và đã góp phần giải quyết có hiệu quả các tranh chấp phát sinh có
11
liên quan. Nghĩa vụ của người mua, gồm nghĩa vụ thanh toán và nghĩa vụ nhận
hàng, được quy định tại các điều từ Điều 53 đến Điều 60.
CISG không có một chương riêng về vi phạm hợp đồng và chế tài do vi
phạm hợp đồng. Các nội dung này được lồng ghép trong Chương II, Chương III và
Chương V. Trong các chương này, sau khi nêu các nghĩa vụ của người bán và người
mua, CISG đề cập đến các biện pháp áp dụng trong trường hợp người bán/người
mua vi phạm hợp đồng.
Các biện pháp mà CISG cho phép người bán và người mua áp dụng khi một
bên vi phạm hợp đồng bao gồm buộc thực hiện đúng hợp đồng, đòi bồi thường thiệt
hại, hủy hợp đồng. Ngoài ra còn có một số biện pháp không có tính chất chế tài
hoặc nhằm mục đích trừng phạt bên vi phạm, ví dụ biện pháp giảm giá (Điều 50),
biện pháp bên bị vi phạm gia hạn thời hạn thực hiện nghĩa vụ để tạo điều kiện cho
bên vi phạm tiếp tục thực hiện hợp đồng (khoản 1 Điều 47 và khoản 1 Điều 63) hay
những biện pháp mà bên vi phạm có thể đưa ra nhằm khắc phục những thiệt hại do
hành vi vi phạm của mình gây ra (khoản 1 Điều 48). Công ước cũng quy định rõ
trường hợp áp dụng các biện pháp cụ thể (ví dụ biện pháp hủy hợp đồng hay đòi
thay thế hàng chỉ được áp dụng trong trường hợp vi phạm cơ bản - khái niệm vi
phạm cơ bản được nêu tại Điều 25).
Chương V của Phần 3 quy định về vấn đề tạm ngừng thực hiện nghĩa vụ hợp
đồng, vi phạm trước hợp đồng, việc áp dụng các biện pháp pháp lý trong trường hợp
giao hàng từng phần, hủy hợp đồng khi chưa đến thời hạn thực hiện nghĩa vụ. Các
Điều 74, 75, 76, 77, 78 của CISG là những điều khoản được dẫn chiếu đến rất nhiều
trong các tranh chấp được áp dụng CISG, vì các điều khoản này quy định rất chi tiết
về một biện pháp được áp dụng phổ biến nhất trong giải quyết tranh chấp về hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế, đó là tính toán tiền bồi thường thiệt hại. Các điều
khoản khác trong chương này đề cập đến vấn đề miễn trách nhiệm, hậu quả của việc
hủy hợp đồng và bảo quản hàng hóa trong trường hợp có tranh chấp.
Phần 4: Các quy định cuối cùng (từ Điều 89 đến Điều 101). Phần này quy
định về các thủ tục để các quốc gia ký kết, phê chuẩn, gia nhập Công ước, các bảo
12
lưu có thể áp dụng, thời điểm Công ước có hiệu lực và một số vấn đề khác mang
tính chất thủ tục khi tham gia hay từ bỏ Công ước này.
1.1.3. Thành công của CISG
Có hiệu lực từ ngày 01/01/1988, cho đến nay, CISG đã trở thành một trong
các công ước quốc tế về thương mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất.
Trong phạm vi hẹp hơn, so với các công ước đa phương khác về mua bán hàng hóa
(như các công ước La Hay năm 1964), CISG là Công ước quốc tế có quy mô lớn
hơn hẳn về số quốc gia tham gia và mức độ được áp dụng. Với 89 Quốc gia thành
viên, ước tính Công ước này điều chỉnh các giao dịch chiếm đến ba phần tư thương
mại hàng hóa thế giới (Ủy ban Đối ngoại Quốc Hội, 2015, tr. 6). Trong danh sách
89 Quốc gia thành viên của CISG, có sự góp mặt của các Quốc gia thuộc các hệ
thống pháp luật khác nhau, các Quốc gia phát triển cũng như các Quốc gia đang
phát triển, các Quốc gia tư bản chủ nghĩa cũng như các Quốc gia theo đường lối xã
hội chủ nghĩa nằm trên mọi châu lục. Hầu hết các cường quốc về kinh tế trên thế
giới (Hoa Kỳ, Pháp, Đức, Canada, Australia, Nhật Bản…) đều đã tham gia CISG.
Vai trò của CISG còn thể hiện ở chỗ CISG là nguồn tham khảo quan trọng
của Bộ nguyên tắc UNIDROIT về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Bộ
nguyên tắc của Luật Hợp đồng Châu Âu (PECL).Trên cơ sở nền tảng của CISG, các
nguyên tắc này đã trở thành các văn bản thống nhất luật quan trọng về hợp đồng,
được nhiều quốc gia và doanh nhân tham khảo và sử dụng trong các giao dịch
thương mại quốc tế. Năm 2008 đánh dấu sự thành công mới của CISG tại Châu Á,
khi mà Nhật Bản tham gia Công ước này. Với ảnh hưởng mạnh mẽ và rộng lớn về
thương mại hàng hóa của Nhật Bản ở Châu Á và trên thế giới, các chuyên gia dự
báo việc Nhật Bản- nền kinh tế hùng mạnh nhất Châu Á gia nhập Công ước Viên
1980 sẽ kéo theo nhiều hồ sơ gia nhập hay phê chuẩn từ các quốc gia khác, đặc biệt
là các quốc gia Châu Á.
Theo các chuyên gia và các doanh nghiệp, có nhiều yếu tố lý giải tại sao
CISG lại là một trong những Công ước thống nhất về luật tư thành công nhất:
Thứ nhất, CISG được soạn thảo và thực thi dưới sự bảo trợ của Liên Hợp
Quốc - tổ chức quốc tế liên chính phủ lớn nhất hành tinh. Được Liên Hợp Quốc bảo
13
trợ soạn thảo và thực thi, CISG không chỉ tạo được sự tin cậy từ phía các quốc gia
(trong quá trình soạn thảo) mà còn nhận được sự tin tưởng từ đông đảo doanh
nghiệp (trong quá trình thực thi). Đây là yếu tố rất cần thiết đối với một văn bản
nhất thể hóa pháp luật về một vấn đề quan trọng và vốn có nhiều khác biệt giữa các
quốc gia, chủ thể có tập quán khác nhau.
Thứ hai, cách thức soạn thảo CISG cho thấy những nỗ lực thực sự trong việc
tạo ra các quy phạm thực chất thống nhất về mua bán hàng hóa quốc tế. Đại diện
của các quốc gia thuộc các hệ thống pháp luật khác nhau (Common Law, Civil
Law), tại các châu lục khác các tài liệu lịch sử về các phiên làm việc khác nhau của UNCITRAL5 cho thấy quá trình đàm phán để soạn thảo CISG đã trải qua rất nhiều
khó khăn do sự khác biệt của pháp luật của các quốc gia cũng như những mối quan
tâm khác nhau của các quốc gia này khi tham gia vào việc soạn thảo một công ước
thống nhất luật thực chất như CISG (Nguyen Trung Nam, 2010). Mỗi quy định
trong văn bản cuối cùng đều là kết quả của quá trình thảo luận chi tiết, với việc xem
xét đầy đủ và hợp lý các yêu cầu, tập quán thương mại của các bên. Ví dụ như một
chào hàng có bắt buộc phải có giá xác định trước hay không? Đây là câu hỏi mà các
đại diện của Civil Law và Common Law đã có những tranh cãi rất gay gắt. Đại diện
của Pháp và Cộng hòa liên bang Đức cho rằng giá cả cần phải được xác định trước
hoặc có thể xác định trước (có các yếu tố để xác định giá). Trong khi đó, theo luật
các nước Common law (Anh, Hoa Kỳ), nếu bên chào hàng chưa đưa ra giá trong
hợp đồng thì điều này không ảnh hưởng đến hiệu lực của chào hàng. Giá của hợp
đồng sẽ được xác định theo giá hợp lý trên thị trường vào thời điểm giao hàng.
Để hài hòa các quy phạm xung đột của hai hệ thống Civil law và Common
law, các nhà soạn thảo CISG đã phải rất khéo léo bằng cách đưa ra 2 điều khoản về
xác định giá trong hợp đồng mua bán. Điều 14 đòi hỏi giá cả phải được quy định rõ
ràng hay cần phải xác định được theo các điều khoản trong chào hàng, trong khi đó,
Điều 55 quy định rằng nếu các điều kiện về giá cả theo Điều 14 không được thỏa
5 “United Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods (Vienna, 1980)”. Có thể xem được tại: http://www.uncitral.org/uncitral/fr/uncitral_texts/sale_goods/1980CISG_travaux.html (truy cập ngày 19/11/2018)
mãn thì hợp đồng vẫn có hiệu lực và giá của hợp đồng được hiểu là giá trên thị
14
trường vào thời điểm giao hàng, tại địa điểm giao hàng. Như vậy, Công ước Viên
1980, một mặt, yêu cầu một chào hàng bắt buộc phải có giá có thể xác định được,
mặt khác, đưa ra quy định căn cứ xác định giá cho các hợp đồng mà giá cả chưa
được xác định. Quy định này là phù hợp với thực tiễn thương mại quốc tế khi mà
các hợp đồng có giá mở (open price contract) ngày càng phổ biến. Một điều đáng
lưu ý khác là trong quá trình soạn thảo Công ước cũng như ngay trong nội dung
Công ước, các soạn giả luôn nêu cao tính chất quốc tế của Công ước và vì thế, cố
gắng dùng ngôn ngữ trung tính, đơn giản, tránh sử dụng các khái niệm riêng của
từng hệ thống luật của các quốc gia. Với cách thức soạn thảo như vậy, các điều
khoản của CISG thể hiện được sự thống nhất, hài hòa các quy phạm khác nhau
trong pháp luật của các quốc gia tham gia soạn thảo, phản ánh được mối quan tâm
chung của các quốc gia này.
Thứ ba, nội dung của Công ước được đánh giá là hiện đại, linh hoạt, phù hợp
với thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế. Nhìn chung, các chuyên gia đánh giá CISG
là tập hợp các quy phạm khá hiện đại, thể hiện được sự bình đẳng giữa bên mua và
bên bán trong quan hệ mua bán hàng hóa quốc tế. Các quy phạm này cũng phù hợp
với thực tiễn mua bán hàng hóa quốc tế do được soạn thảo dựa trên một nguồn luật
quan trọng là các tập quán thương mại quốc tế, trong đó có các Incoterms của
Phòng Thương mại quốc tế (ICC). Những giải pháp mà Công ước Viên 1980 đưa ra là khá hợp lý, hiện đại. Hoặc các quy định về thời hạn hiệu lực của chào hàng6, về các điều khoản chủ yếu của hợp đồng 7, về các trường hợp được hủy hợp đồng, về
khái niệm vi phạm cơ bản…, đều được soạn thảo nhằm tạo sự phù hợp ở mức cao
nhất với thực tiễn hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Đặc biệt, tính linh hoạt của
các quy phạm là một trong yếu tố tạo nên sự thành công của CISG. Sự linh hoạt này 6 Khoản 2 Điều 18 quy định: “Chấp nhận chào hàng có hiệu lực từ khi người chào hàng nhận được chấp nhận. Chấp thuận chào hàng không phát sinh hiệu lực nếu sự chấp nhận ấy không được gửi tới người chào hàng trong thời hạn mà người này đã quy định trong chào hàng, hoặc nếu thời hạn đó không được quy định như vậy, thì trong một thời hạn hợp lý, xét theo các tình tiết của sự giao dịch, trong đó có xét đến tốc độ của các phương tiện liên lạc do người chào hàng sử dụng. Một chào hàng bằng miệng phải được chấp nhận ngay trừ phi các tình tiết bắt buộc ngược lại.” 7 Điều 14 quy định: “Một đề nghị ký kết hợp đồng gửi cho một hay nhiều người xác định được coi là một chào hàng nếu có đủ chính xác và nếu nó chỉ rõ ý chí của người chào hàng muốn tự ràng buộc mình trong trường hợp có sự chấp nhận chào hàng đó. Một đề nghị là đủ chính xác khi nó nêu rõ hàng hóa và ấn định số lượng về giá cả một cách trực tiếp hoặc gián tiếp hoặc quy định thể thức xác định những yếu tố này. Một đề nghị gửi cho những người không xác định chỉ được coi là một lời mời làm chào hàng, trừ phi người đề nghị đã phát biểu rõ ràng điều trái lại.”
15
thể hiện trước hết ở quy định tại Điều 6 CISG, theo đó, hầu hết các điều khoản
của CISG đều là các điều khoản tùy nghi, nghĩa là các bên trong hợp đồng có thể
thỏa thuận khác so với các quy định tại các điều khoản đó. Hơn nữa, Điều 6 cho
phép các bên loại trừ việc áp dụng Công ước cho hợp đồng của mình, ngay cả khi
các bên là doanh nghiệp tại các quốc gia thành viên của CISG. Quy định “mềm
dẻo” này tạo điều kiện để các thương nhân có quyền tự do thỏa thuận các nội
dung trong hợp đồng cũng như lựa chọn cho mình nguồn luật áp dụng phù hợp
nhất trong trường hợp họ thấy rằng một/một số các quy định của CISG là chưa
phù hợp đối với họ (ví dụ trong những lĩnh vực đặc thù, đối với những hàng hóa
đặc thù).
Ngoài ra, nhiều điều khoản cụ thể của CISG cũng có cách tiếp cận rất linh
hoạt để phù hợp với thực tiễn rất phong phú về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế. Ví dụ về thời hạn hiệu lực của chào hàng, CISG quy định tại Điều 18 khoản 2
rằng nếu trong đơn chào không quy định thì thời gian hiệu lực được xác định là
một thời gian hợp lý (reasonable time). Đó là thời gian cần thiết thông thường để
chào hàng đến được người được chào hàng và thời gian để người này trả lời chào
hàng đó, tùy theo tính chất của hợp đồng, khoảng cách giữa hai bên và có tính đến
các phương tiện chào hàng khác nhau (thư, telex, fax, thư điện tử…). Thật vậy, sẽ
là không hợp lý nếu đưa ra một thời hạn chào hàng chung cho các loại chào hàng
với tính chất phức tạp khác nhau, với các mặt hàng khác nhau (từ các sản phẩm
nhanh hỏng như rau hoa quả cho đến máy móc thiết bị), cũng như cho các giao
dịch khác nhau mà khoảng cách địa lý giữa các bên là khác nhau. Việc đưa ra một
thời hạn hợp lý thể hiện sự linh hoạt và khả năng phù hợp của quy phạm này với
các giao dịch mua bán hàng hóa có tính chất khác nhau.
Thứ tư, CISG có được sự ủng hộ rất lớn từ phía các trọng tài quốc tế và
của ICC. Các trọng tài quốc tế thường được suy đoán tự do hơn các tòa án quốc
gia trong việc lựa chọn luật áp dụng để giải quyết tranh chấp (đặc biệt trong các
trường hợp không có quy định hoặc không quy định rõ ràng về luật áp dụng cho
tranh chấp). Sự ủng hộ của các trọng tài quốc tế đối với CISG trong nhiều vụ
16
tranh chấp về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế thể hiện chủ yếu thông qua
việc dẫn chiếu CISG như một lựa chọn ưu tiên cho việc giải quyết các tranh chấp
này khi các bên không lựa chọn luật áp dụng. Điều này cho thấy trong đánh giá
của nhiều trọng tài, CISG là một nguồn luật thích hợp để giải quyết tranh chấp.
Ngoài ra, CISG cũng thường được các trọng tài áp dụng theo Điều 1 (1) (b) của Công ước8. Sự ủng hộ này của các trọng tài quốc tế khiến cho việc áp dụng Công
ước ngày càng rộng rãi hơn, đặc biệt khi mà phương thức giải quyết tranh chấp
bằng trọng tài ngày càng phổ biến hơn.
ICC thể hiện sự ủng hộ của mình đối với văn bản thống nhất luật này bằng
việc đưa CISG vào điều khoản luật áp dụng mẫu có trong Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mẫu của ICC9. Điều 1.2 của phần “Các quy định chung”
(General Conditions) về luật áp dụng đã dẫn chiếu trực tiếp đến CISG (xem trong
Phụ lục 3). Nhờ việc dẫn chiếu đến CISG mà khi soạn Hợp đồng mẫu này cung
cấp một khung pháp lý có thể áp dụng đối với mọi giao dịch mua bán hàng hóa,
đặc biệt là các hàng hóa được sản xuất nhằm mục đích bán lại. Mục đích của Hợp
đồng mẫu của ICC là đơn giản hóa quá trình soạn thảo hợp đồng cũng như giải
quyết các tranh chấp liên quan. Qua nghiên cứu của các chuyên gia, với sự ảnh
hưởng và uy tín của ICC đối với các doanh nghiệp, các hợp đồng mẫu này đã
được tham khảo và sử dụng rất rộng rãi trong mua bán hàng hóa quốc tế. Hầu hết
các văn phòng tư vấn luật và các luật sư, chuyên gia pháp lý trong các doanh
nghiệp đều có mẫu hợp đồng này của ICC để tham khảo và tư vấn cho doanh
nghiệp (Hans van Houtte, 2003). Đây là một yếu tố quan trọng góp phần thúc đẩy
8Ví dụ, phán quyết n° 7197 (năm 1992) của trọng tài ICC xét xử tranh chấp về hợp đồng giữa một công ty Áo và một công ty Bulgari. Vào thời điểm đó, Bulgari chưa tham gia CISG. Tuy vậy, CISG vẫn được áp dụng theo Điều 1 (1) (b), vì khi áp dụng quy phạm xung đột của Bulgari thì luật áp dụng sẽ là luật của Áo, mà Áo là thành viên CISG. 9 International Chamber of Commerce (1997), Model International Sale Contract- Manufactured Goods Intended for Resale, ICC Publication No. 556, 1997 Edition
việc áp dụng CISG tại các doanh nghiệp.
17
1.1.4. Việt Nam gia nhập CISG
Ngày 18/12/2015, Việt Nam đã chính thức phê duyệt việc gia nhập CISG
và trở thành viên thứ 84 của Công ước này. Điều đáng chú ý là Việt Nam đã đi
trước nhiều nước ASEAN khác để trở thành thành viên thứ 2 sau Singapore gia
nhập Công ước quan trọng này. Công ước Viên bắt đầu có hiệu lực ràng buộc tại
Việt Nam từ ngày 1/1/2017.
Việc gia nhập CISG đã đánh dấu một mốc mới trong quá trình tham gia
vào các điều ước quốc tế đa phương về thương mại, tăng cường mức độ hội nhập
của Việt Nam, góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam về mua bán
hàng hóa quốc tế và cho các doanh nghiệp Việt Nam một khung pháp lý hiện đại,
công bằng và an toàn để thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế.
1.2. Khái quát về phạm vi áp dụng của CISG
1.2.1. Khái quát về các trường hợp áp dụng CISG
Khoản 1 Điều 1 CISG quy định:
“Công ước này áp dụng cho các hợp đồng mua bán hàng hoá giữa các bên
có trụ sở kinh doanh tại các Quốc gia khác nhau:
a) Khi các Quốc gia này là các Quốc gia thành viên của Công ước; hoặc
b) Khi các quy tắc tư pháp quốc tế dẫn đến việc áp dụng luật của một
Quốc gia thành viên Công ước này”.
Với quy định như trên thì việc áp dụng CISG được xác định trong hai
trường hợp. Trường hợp thứ nhất căn cứ vào dấu hiệu trụ sở thương mại của chủ
thể có quan hệ với nước là thành viên của Công ước và trường hợp thứ hai liên
quan tới nguyên tắc chọn luật áp dụng của tư pháp quốc tế.
Trong trường hợp thứ nhất, khi trụ sở kinh doanh của các chủ thể được xác
định đặt ở các quốc gia thành viên của Công ước thì Công ước sẽ áp dụng. Ví dụ,
nếu một công ty có trụ sở kinh doanh ở Đức ký hợp đồng bán bột mì cho một
18
công ty có trụ sở kinh doanh tại Việt Nam thì CISG áp dụng bởi vì cả Đức và
Việt Nam đều là thành viên của CISG.
Tuy nhiên, trong thực tế có trường hợp chủ thể trong quan hệ thương mại
quốc tế có thể có nhiều trụ sở kinh doanh đặt ở nhiều quốc gia khác nhau. Để xử
lí các trường hợp này, Điều 10 Công ước Viên 1980 quy định rằng trụ sở kinh
doanh được xem xét ở đây là trụ sở có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng
và việc thực hiện hợp đồng đó, có tính đến những tình huống mà các bên đều biết
hoặc đều dự đoán được vào bất kì thời điểm nào trước hoặc vào thời điểm giao
kết hợp đồng.
Như vậy, khi chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có nhiều trụ
sở kinh doanh thì CISG sẽ được áp dụng nếu trụ sở kinh doanh đó có quan hệ gắn
bó nhất với hợp đồng được đặt tại quốc gia là thành viên của Công ước. Tuy
nhiên, mối quan hệ gắn bó nhất ở đây khá khó để xác định không chỉ riêng trong
CISG. Khi xác định luật áp dụng cho trường hợp hợp đồng không có thỏa thuận
luật áp dụng của các bên, cơ quan tài phán cũng phải tìm luật của nước có mối
liên hệ gắn bó với hợp đồng. Mối quan hệ gắn bó nhất có nghĩa gì? Điều 4 Nghị
định Rome I về luật áp dụng cho hợp đồng của Liên minh Châu Âu sử dụng một
loạt các tiêu chí để xác định nước có mối liên hệ gắn bó nhất, như nơi thực hiện
nghĩa vụ đặc trưng, nơi cư trú thường xuyên, địa điểm kinh doanh chính…Cũng
theo Nghị định Rome I, những tiêu chí này sẽ không áp dụng nếu nghĩa vụ đặc
trưng của hợp đồng không xác định được hoặc rõ ràng có nước khác có mối liên
hệ gắn bó hơn với hợp đồng. Tóm lại, mối liên hệ gắn bó này nhìn chung không
rõ ràng và có thể bị sử dụng để biện luận theo hướng kết quả mà chủ thể biện luận
mong muốn. Đối với Điều 10 CISG, mối quan hệ gắn bó nhất phải được xem xét
đối với việc giao kết và thực hiện hợp đồng. Toàn bộ giai đoạn chào hàng, chấp
nhận chào hàng đến quá trình thực hiện hợp đồng có liên hệ nhiều nhất với địa
điểm kinh doanh nào? Một yếu tố cũng có thể được đưa vào xem xét để xác định
mối quan hệ gắn bó nhất với một địa điểm kinh doanh là khả năng để duy trì tính
quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa, tức là địa điểm kinh doanh ở nước khác
19
với nước có địa điểm kinh doanh của đối tác sẽ là một yếu tố cân nhắc thiên về
địa điểm kinh doanh ở nước khác đó
Trong trường hợp các bên không có trụ sở kinh doanh thì sẽ lấy nơi cư trú
thường xuyên của họ làm cơ sở xác định. Theo đó, nếu nơi cư trú thường xuyên
của các chủ thể nằm trên lãnh thổ của nước là thành viên CISG thì Công ước sẽ
được áp dụng. Với nội dung quy định trên đây, có thể thấy trong trường hợp nếu
một bên hoặc cả hai bên trong quan hệ hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế không
có trụ sở kinh doanh hoặc không có nơi cư trú thường xuyên ở quốc gia thành
viên CISG thì Công ước sẽ không áp dụng. Tuy nhiên, trên phương diện lí luận
cũng như trên thực tế thì trong trường hợp này quy định của CISG vẫn có thể áp
dụng. CISG có thể áp dụng trong hai trường hợp cụ thể sau: Trường hợp thứ nhất,
khi các bên chủ thể trong quan hệ hợp đồng thoả thuận áp dụng CISG. Việc các
bên đã thoả thuận chọn CISG được xem như các bên đã chuyển các điều khoản
của Công ước thành điều khoản của hợp đồng. Trường hợp thứ hai, khi một bên
là chủ thể trong hợp đồng có mối quan hệ với một nước là thành viên của CISG.
Trong trường hợp này, nếu cả hai bên chủ thể thỏa thuận áp dụng CISG thì đương
nhiên CISG sẽ được áp dụng. Nhưng nếu các bên không thoả thuận áp dụng
CISG thì khả năng áp dụng Công ước vẫn có thể xảy ra. Bởi vì theo quy định tại
điểm b khoản 1 Điều 1, khi đã áp dụng nguyên tắc của tư pháp quốc tế thì vấn đề
dẫn chiếu luật áp dụng sẽ được đặt ra. Do đó, sự xuất hiện một bên chủ thể của
hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế đến từ nước thành viên Công ước Viên 1980
sẽ là cơ sở để quy phạm xung đột dẫn chiếu đến việc áp dụng Công ước Viên
1980. Vấn đề này sẽ được phân tích cụ thể dưới đây.
Theo điểm b khoản 1 Điều 1 thì việc có áp dụng Công ước hay không phụ
thuộc vào nguyên tắc của tư pháp quốc tế. Theo đó, các quy phạm xung đột sẽ
được sử dụng để xác định pháp luật áp dụng cho quan hệ hợp đồng giữa các bên.
Nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến hệ thống pháp luật nào thì hệ thống pháp
luật đó sẽ được áp dụng. Theo tinh thần của điểm b khoản 1 Điều 1 thì khi quy
phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật của quốc gia thành viên CISG thì Công
20
ước này sẽ được áp dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể. Ví
dụ, nếu doanh nghiệp có trụ sở kinh doanh tại Pháp (là thành viên của CISG) giao
kết hợp đồng mua bán hàng hóa với doanh nghiệp của Indonesia (chưa là thành
viên của CISG). Hai bên thỏa thuận chọn luật pháp của Pháp là luật của hợp
đồng. Trường hợp này, CISG sẽ thường được áp dụng bởi vì Pháp là quốc gia
thành viên CISG. Với sự phân tích trên đây, có thể thấy quy định của điểm b
Khoản 1 Điều 1 đã tạo ra hành lang pháp lí khá rộng cho việc áp dụng Công ước
Viên 1980. Theo đó nếu có quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế dẫn chiếu
đến pháp luật của bất cứ nước thành viên nào đó của CISG thì Công ước sẽ được
áp dụng.
Trên cơ sở lí luận của tư pháp quốc tế thì có rất nhiều hệ thuộc trong quy
phạm xung đột dùng để xác định pháp luật áp dụng khi có xung đột pháp luật
trong lĩnh vực hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế. Ví dụ hệ thuộc luật nước
người bán, hệ thuộc luật nước người mua, hệ thuộc luật nơi kí kết hợp đồng, hệ
thuộc luật nơi thực hiện hợp đồng… Trong trường hợp nếu các hệ thuộc này được
quy phạm xung đột dẫn chiếu đến và được xác định là luật của một trong các
thành viên CISG thì Công ước sẽ được áp dụng. Việc áp dụng nội dung của điểm
b khoản 1 Điều 1, như đã phân tích trên đây, sẽ dẫn đến hệ quả là khả năng áp
dụng CISG rất cao.
Tuy nhiên, khả năng áp dụng của CISG cũng có thể bị thu hẹp. Việc mở
rộng hoặc thu hẹp khả năng áp dụng Công ước có thể bị phụ thuộc vào quan điểm
của các quốc gia thành viên. Bởi vì, theo Điều 95 của CISG, các Quốc gia thành
viên có quyền tuyên bố không áp dụng điểm b khoản 1 Điều 1 của Công ước.
Việc tuyên bố không áp dụng điều khoản này sẽ hạn chế việc áp dụng CISG để
điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các chủ thể trong hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế. Bởi vì trong trường hợp này việc chọn luật áp dụng sẽ được đặt ra theo
nguyên tắc của tư pháp quốc tế mà không áp dụng các quy định của CISG.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp trong mua bán hàng hoá quốc tế còn xảy ra
trường hợp cần xác định có áp dụng CISG hay không khi các bên trong hợp đồng
21
có trụ sở tại các Quốc gia thành viên CISG nhưng các bên lại lựa chọn áp dụng
pháp luật của một Quốc gia khác nhưng cũng là thành viên của CISG. Liệu sự lựa
chọn này có đồng nghĩa với việc các bên loại trừ áp dụng CISG hay không? Đây
là trường hợp xảy ra đối với các bên tranh chấp của các doanh nghiệp có trụ sở tại
Canada và Italia. Cụ thể, vào năm 1991 một công ty của Canada đã kí hợp đồng
mua bán hàng hoá với công ty của Italia. Trong hợp đồng các bên đã thoả thuận
“luật áp dụng với các điều kiện bán hàng là luật của Pháp”. Trên thực tế, CISG có
hiệu lực ở Pháp và ở Italia từ ngày 01 tháng 01 năm 1988 nhưng có hiệu lực tại
Canada vào ngày 01 tháng 05 năm 1992 tức là sau ngày kí kết hợp đồng nói trên.
Như vậy, nếu căn cứ vào điểm a khoản 1 Điều 1 thì Công ước Viên 1980 sẽ
không áp dụng nhưng nếu dựa vào điểm b khoản 1 Điều 1 thì Công ước Viên
1980 có thể áp dụng. Tuy nhiên, trong hợp đồng các bên đã thoả thuận áp dụng
luật của Pháp. Do đó, câu hỏi được đặt ra là sự thoả thuận này có phải là cơ sở để
khẳng định rằng các bên trong hợp đồng đã sử dụng Điều 6 CISG nhằm loại trừ
việc áp dụng Công ước này hay không? Về vấn đề này, nhiều ý kiến cho rằng
“việc dẫn chiếu chung đến một nội luật nào đó không nên hiểu là một loại trừ
ngầm việc áp dụng Công ước”. Đối với vụ việc trên đây, sau khi xem xét, phân
tích và đánh giá, Hội đồng trọng tài xét xử vụ việc này đã quyết định CISG được
áp dụng để xử lí tranh chấp này.
1.2.2. Khái quát về các trường hợp không áp dụng CISG
Việc xác định các trường hợp không áp dụng Công ước Viên 1980 dựa vào
một số dấu hiệu cơ bản trong giao dịch mua bán hàng hoá như: Mục đích của việc
mua bán hàng hoá, hình thức của việc mua bán, bản chất của việc mua bán, bản
chất của hàng hóa, hậu quả không mong muốn của việc mua bán hàng hoá gây ra.
1.2.2.1. Mục đích của hành vi mua bán hàng hoá
Theo quy định của CISG thì hành vi mua bán hàng hoá quốc tế phải xuất
phát từ mục đích kinh doanh, sinh lời. Một quan hệ hợp đồng mua bán mặc dù
các bên chủ thể có trụ sở kinh doanh ở các nước khác nhau thuộc thành viên của
CISG nhưng mục đích của giao dịch mua bán này chỉ nhằm thỏa mãn nhu cầu cho
22
cá nhân, gia đình thì CISG sẽ không được áp dụng bởi vì đây là các giao dịch
mua bán hàng hoá không nhằm mục đích sinh lời.
1.2.2.2. Hình thức mua bán hàng hoá
Trong thực tiễn thương mại quốc tế có nhiều hình thức giao dịch mà ở đó
các chủ thể có thể thoả thuận để giao kết hợp đồng. Trong các hình thức giao dịch
này, các bên chủ thể phải tuân thủ theo những nguyên tắc và thủ tục nhất định.
Tuy nhiên, trong thương mại quốc tế cũng có những hình thức giao dịch rất đặc
biệt. Theo đó, các chủ thể phải tuân thủ các quy chế cụ thể đặc thù do đặc tính của
giao dịch này. Ví dụ, trường hợp bán đấu giá, các bên phải tuân thủ các quy chế
về bán đấu giá. Theo quy định của CISG thì bán đấu giá được coi là trường hợp
mà Công ước sẽ không áp dụng bởi vì giao dịch bán đấu giá có các quy định đặc
thù trong pháp luật của các quốc gia nên nên để những giao dịch này tiếp tục
được điều chỉnh bởi những quy định đó mặc dù người đấu giá thành công có thể
đến từ một quốc gia khác. Thêm nữa, những giao dịch này không cấu thành một
phần quan trọng của thương mại quốc tế và vì thế có thể được xem như những
giao dịch nội địa. Điều 2.d loại trừ các giao dịch mua bán chứng khoán, bởi vì
những giao dịch này liên quan đến những vấn đề khác với thương mại hàng hóa
thông thường, và một số hệ thống pháp luật không xem chứng khoán là một loại
hàng hóa.
1.2.2.3. Bản chất của việc mua bán hàng hoá
Hợp đồng mua bán hàng hoá được phân biệt khá rạch ròi đối với các hợp
đồng cung cấp dịch vụ. Với mục đích điều chỉnh thành mua bán hàng hoá nên
theo quy định của CISG thì Công ước chỉ áp dụng đối với các hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế mà không áp dụng đối với hợp đồng dịch vụ hoặc hợp đồng lao
động. Tuy nhiên, trên thực tiễn thương mại quốc tế, có những hợp đồng mua bán
hàng hoá đồng thời là hợp đồng trao đổi dịch vụ. Theo đó có thể giá trị trao đổi
dịch vụ lớn hơn giá trị của trao đổi hàng hoá trong hợp đồng này. Như vậy có thể
thấy, đây là hợp đồng mang nặng tính chất của một hợp đồng cung ứng dịch vụ
hơn là một hợp đồng mua bán hàng hoá. Theo quy định của khoản 2 Điều 3 CISG
23
thì “Công ước không áp dụng cho các hợp đồng trong đó phần lớn nghĩa vụ của
bên cung cấp hàng hoá là cung ứng lao động hoặc thực hiện các dịch vụ khác”.
1.2.2.4. Đặc tính của hàng hoá là đối tượng của việc mua bán
Hàng hoá là đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế phải là
hàng hoá phổ biến được mua bán trên thị trường quốc tế. Những hợp đồng mua
bán các loại hàng hoá có tính chất đặc biệt thì CISG sẽ không điều chỉnh. Những
hàng hoá có tính chất đặc biệt là các hàng hoá như máy bay, tàu thủy, cổ phiếu,
cổ phần… CISG sẽ không điều chỉnh các hợp đồng liên quan tới việc mua bán
các loại hàng hoá đặc biệt này. Tuy nhiên, thực tiễn xét xử về CISG khẳng định
nếu hàng hóa là máy bay thì không áp dụng CISG, nhưng nếu hàng hóa là thiết bị
thay thế cho máy bay thì được coi là hàng hóa thông thường. Theo giải thích của
Ủy ban Liên hợp quốc về Luật thương mại quốc tế (UNCITRAL), sở dĩ có quy
định trên đây là do hiện nay ở nhiều quốc gia trên thế giới việc mua bán các loại
hàng hoá đặc biệt này được điều chỉnh bởi các quy định đặc biệt đáp ứng những
tính chất đặc biệt của hàng hoá.
1.2.2.5. Hậu quả xảy ra sau khi mua bán hàng hoá hoặc hậu quả xảy ra
không mong muốn
Với mục đích của CISG là chỉ điều chỉnh việc giao kết hợp đồng, các
quyền, nghĩa vụ của bên bán và bên mua phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế. Do đó CISG sẽ không điều chỉnh những vấn đề xảy ra sau khi mua bán
hàng hoá. Ví dụ: Hệ quả phát sinh liên quan tới quyền sở hữu đối với hàng hoá đã
bán hoặc trường hợp hàng hoá là đối tượng của hợp đồng đã gây thiệt hại về sức
khỏe hoặc tính mạng đối với bất cứ một người nào đó.
1.2.3. Ý nghĩa của việc xác định phạm vi áp dụng của CISG
Phạm vi áp dụng Công ước và phạm vi không áp dụng CISG là những vấn
đề pháp lí quan trọng. Những quy định của CISG về nội dung này là cơ sở pháp lí
để Công ước có thể điều chỉnh hoặc không điều chỉnh một quan hệ mua bán hàng
24
hoá quốc tế. Để tận dụng tối đa những lợi thế mà CISG mang lại việc nghiên cứu
nội dung Công ước là hết sức cần thiết.
Việc xác định phạm vi áp dụng CISG có thể tiết kiệm được chi phí và
tránh được các tranh chấp trong việc lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Đây là
lợi ích lớn khi các bên đã có một nguồn luật thống nhất để áp dụng. Dù các bên
trong hợp đồng không thỏa thuận về luật áp dụng thì CISG sẽ được tự động áp
dụng cho hợp đồng mua bán giữa các bên và vì thế giảm bớt các khó khăn và chi
phí có thể phát sinh do luật được lựa chọn để áp dụng cho hợp đồng là luật nước
ngoài. Nếu phải áp dụng luật nước ngoài thương nhân Việt Nam có thể mất thời
gian để tự mình tìm hiểu hoặc mất chi phí thuê tư vấn luật để tìm hiểu luật nước
ngoài đó. Ngoài ra, luôn tiềm ẩn những rủi ro pháp lý cho thương nhân Việt Nam
do thiếu sự hiểu biết đầy đủ về luật nước ngoài cũng như cách áp dụng luật nước
ngoài. Trong khi đó, chi phí và thời gian để tìm hiểu CISG là ít hơn rất nhiều so
với luật quốc gia nước ngoài, vì các doanh nghiệp/luật sư tư vấn có thể tham khảo
rất dễ dàng (và miễn phí) các hệ thống cơ sở dữ liệu vô cùng phong phú về CISG
như đã trình bày ở trên.
Xác định phạm vi áp dụng CISG góp phần hạn chế việc phải sử dụng đến
quy phạm xung đột trong tư pháp quốc tế để xác định luật áp dụng cho hợp đồng.
Khi các bên trong hợp đồng không lựa chọn, hoặc không thể lựa chọn được luật
áp dụng cho hợp đồng, cơ quan giải quyết tranh chấp có thể sử dụng quy phạm
xung đột luật để xác định một nguồn luật nhằm giải quyết tranh chấp có liên
quan. Quy phạm luật xung đột thường là khác nhau ở các quốc gia, vì thế, việc áp
dụng các quy phạm này thường dẫn đến tính khó dự đoán trước được về nguồn
luật áp dụng, gây khó khăn đáng kể cho các bên tranh chấp.
Việc xác định rõ phạm vi áp dụng của CISG còn góp phần tạo được sự
bình đẳng về nội dung giữa người mua và người bán trong quan hệ hợp đồng,
giúp các bên bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình khi giao kết và
thực hiện hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vì thế, dù là bên bán hay bên mua,
25
Công ước này đều trở thành một khung pháp lý hữu hiệu và an toàn để giải quyết
các tranh chấp phát sinh, nếu có.
Thực tiễn áp dụng CISG cho thấy Công ước này cung cấp một khung pháp
lý thống nhất, hiện đại về mua bán hàng hóa quốc tế, có thể được áp dụng tại
nhiều quốc gia không phân biệt truyền thống pháp luật hay trình độ phát triển
kinh tế của các quốc gia.
Tóm lại, việc xác định được phạm vi áp dụng của CISG sẽ giúp ích rất lớn
cho các bên để thỏa thuận nội dung của hợp đồng, biết mình có quyền và nghĩa vụ
gì để thực hiện tốt hợp đồng và nhanh chóng tìm hướng giải quyết khi tranh chấp
phát sinh. Việc xác định được khả năng áp dụng CISG có ý nghĩa lớn đối với cơ
quan giải quyết tranh chấp vì nó sẽ giúp thúc đẩy nhanh quá trình giải quyết tranh
chấp, một nhu cầu rất lớn đối với các thương nhân.
26
CHƯƠNG 2. QUY ĐỊNH VÀ THỰC TIỄN ÁP DỤNG QUY ĐỊNH VỀ
PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CISG
Các quy định về phạm vi áp dụng của CISG nằm rải rác ở nhiều điều
khoản khác nhau, sử dụng một số khái niệm chưa rõ ràng và đòi hỏi phải được
diễn giải trong thực tiễn áp dụng. Ngoài ra, Công ước này còn có các quy định về
loại trừ và bảo lưu. Vì vậy, trong Chương này, Luận văn sẽ làm rõ các quy định
về phạm vi áp dụng của CISG cũng như thực tiễn áp dụng các quy định này để
tạo cơ sở cho các giải pháp và đề xuất sẽ được trình bày trong Chương 3.
2.1. Phạm vi áp dụng theo đối tượng
CISG quy định Công ước này được áp dụng đối với hợp đồng mua bán
hàng hóa quốc tế, tuy nhiên không định nghĩa thế nào là hàng hóa, thế nào là hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Vì vậy, trong mục này tác giả sẽ phân tích các
quy định cũng như thực tiễn áp dụng các quy định về hợp đồng mua bán, về hàng
hóa là đối tượng của của hợp đồng cũng như các loại hàng hóa được Công ước
loại trừ.
2.1.1. Hợp đồng mua bán
Điều 3 CISG là một trong những điều khoản xác định phạm vi áp dụng
Công ước. Theo đó, CISG áp dụng đối với hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
thỏa mãn các quy định mà Công ước đã đặt ra, cụ thể là:
“Các hợp đồng cung cấp hàng hóa để chế tạo hoặc sản xuất được xem là
hợp đồng mua bán, trừ trường hợp bên đặt hàng có nghĩa vụ cung cấp phần lớn
các nguyên liệu cần thiết cho việc chế tạo hoặc sản xuất hàng hóa đó”.
Để hiểu rõ quy định này, cần lưu ý hai cụm từ “phần lớn” và “nguyên liệu
cần thiết cho”. Do có tính mềm dẻo, nên hai cụm từ này gây ra khá nhiều khó
khăn khi xác định phạm vi áp dụng của CISG.
2.1.1.1. Hợp đồng mua bán hàng hóa để sản xuất
a) Khái niệm “phần lớn” (substantial part)
27
Hiểu được “phần lớn” (“substantial part” trong tiếng Anh và “part
essentielle” trong tiếng Pháp) là một trong những điểm mấu chốt để hiểu được nội
dung của Điều 3. Điều 3 không đưa ra tiêu chí nào để đánh giá thế nào là “phần
lớn”. Theo một số tác giả (Franco Ferrari, 1995; Martin Karollus, 1995; Frank
Diedrich, 1996), “phần lớn” được nhìn nhận từ hai khía cạnh “giá trị kinh tế” và
tiêu chí “cần thiết, thiết yếu”. Theo cách hiểu này, nguyên liệu do bên đặt hàng
cung cấp có được coi là “phần lớn” hay không sẽ xác định dựa trên giá trị của nó
so với giá trị nguyên liệu cho việc chế tạo hay sản xuất hàng hóa đó. Theo ý kiến số 10 (mục 4) của Ủy ban tư vấn CISG10, trong trường hợp không có bất kỳ chỉ
dẫn khác trong hợp đồng, giá của nguyên liệu được xem xét là của thị trường nơi
người mua vào thời điểm ký kết hợp đồng.
Vụ tranh chấp VB/9413111được phân tích dưới đây sẽ cho thấy điều này.
Trong tranh chấp này, bên bán có trụ sở kinh doanh tại Hungary đã ký kết một
hợp đồng mua bán hàng hóa với bên mua Áo và có nghĩa vụ cung cấp “waste
containers” (container chứa chất thải do người bán sản xuất). Tại thời điểm này,
cả Hungary và Áo đều là thành viên của CISG. Các bên đã thỏa thuận với nhau
rằng bên mua Áo sẽ cung cấp một phần nguyên liệu cần thiết cho việc sản xuất
cho bên bán Hungary. Để xác định hợp đồng này có thuộc phạm vi điều chỉnh của
CISG hay không, cần phải so sánh giữa hai giá trị. Thứ nhất là giá trị nguyên vật
liệu mà bên mua có nghĩa vụ cung cấp để sản xuất một container và thứ hai là giá
trung bình của một container được sản xuất ra. Cụ thể, trong vụ việc này, Bên
mua Áo đã cung cấp kim loại và phụ tùng giá trị 23.000sA (giá trị của lượng kim
loại và phụ tùng mà bên bán phải sử dụng để sản xuất một container) để sản xuất
12 container. Và như vậy, Áo cung cấp không tới 2.000 sA cho mỗi
container. Trong khi, giá trị trung bình của lượng kim loại và phụ tùng để sản
xuất một containerlà từ 12.000 sA đến 20.000 sA. Rõ ràng, con số 2000 sAso với
10 CISG Advisory Council Opinion No. 10, Agreed Sums Payable upon Breach of an Obligation in CISG Contracts, có thể truy cập được tại: http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/CISG-AC-op10.html (truy cập ngày 19/11/2018). 11 Có thể xem tại: http://www.unilex.info/case.cfm?pid=1&do=case&id=181&step=FullText (truy cập ngày 19/11/2018).
12.000 sAđến 20.000sA là không đáng kể, nên hội đồng trọng tài đã kết luận rằng
28
trường hợp này không thỏa mãn yếu tố “phần lớn các nguyên liệu” theo Điều 3.1.
Vì thế, hợp đồng này chịu sự điều chỉnh của CISG.
Một câu hỏi khác đặt ra là giá trị kinh tế sẽ được định lượng như thế nào?
Khi định lượng thì tỉ lệ phần trăm có thể được sử dụng và “phần lớn” được hiểu là từ 50% trở lên. Trong thực tế có không ít các cơ quan tài phán12 đã xem xét tính
giá trị kinh tế theo cách định lượng ra phần trăm. Tuy nhiên, theo Ủy ban tư vấn
CISG, không nên định lượng theo tỷ lệ phần trăm định trước; giá trị kinh tế phải
được xác định linh hoạt tùy thuộc từng trường hợp cụ thể và chính vì lẽ đó nó phải được xác định dựa trên cơ sở đánh giá tổng thể13. Ý kiến trên thực ra không
mâu thuẫn với việc sử dụng yếu tố phần trăm. Nó có ý nghĩa củng cố thêm khi
nhấn mạnh cần phải dựa trên đánh giá khái quát cũng như tình hình cụ thể và
không quá cứng nhắc theo một tỷ lệ phần trăm nhất định cho trước mà cần phải
có sự linh hoạt tùy theo đối tượng, hoàn cảnh và tính chất khác nhau.
Ngoài ra, “phần lớn” còn được dựa trên cơ sở “tính thiết yếu” của hàng
hóa. Trong một số trường hợp, xem xét “phần lớn” bằng cách định lượng theo giá
trị kinh tế thì không phù hợp, ví dụ như đối với trường hợp nguyên liệu vô hình.
Lúc này, việc căn cứ theo “tính thiết yếu” sẽ tỏ ra phù hợp hơn. Như vậy, các
nguyên liệu bên mua cung cấp sẽ được xác định theo chất lượng, chức năng, tính
cần thiết của nó so với tổng thể nguyên liệu chế tạo, sản xuất ra hàng hóa. Tuy
nhiên, theo Ủy ban tư vấn CISG, tiêu chí “tính thiết yếu” được xếp sau “giá trị
kinh tế”. Nói cách khác, chỉ khi không xác định được “giá trị kinh tế” hoặc “giá
trị kinh tế” tỏ ra không phù hợp với hoàn cảnh, thì mới sử dụng tiêu chí “tính thiết yếu”14. Quan điểm này tạo thuận lợi cho cơ quan xét xử, bởi tiêu chí định lượng
bao giờ cũng dễ xác định hơn tiêu chí định tính.
Ví
tranh
chấp
dụ
vụ
VB/94131:
12 http://www.unilex.info/case.cfm?pid=1&do=case&id=181&step=FullText (truy cập ngày 19/11/2018). 13 CISG Advisory Council Opinion No. 10, tlđd. 14 CISG Advisory Council Opinion No. 10, tlđd.
b) Khái niệm “nguyên liệu cần thiết cho”
29
Bên cạnh tiêu chí “phần lớn”, Điều 3 CISG còn sử dụng tiêu chí “nguyên
liệu cần thiết cho” (“materials necessary for” trong tiếng Anh và “éléments
matériels nécessaires à” trong tiếng Pháp). Hiểu theo cách đơn giản, trước hết,
những nguyên liệu không cần thiết, không đóng vai trò quan trọng cho việc chế
tạo, sản xuất hàng hóa không được tính đến trong trường hợp này. Những phụ
kiện như vật liệu cần thiết cho bao bì và vận chuyển hàng hóa, hoặc vật liệu cần
thiết cho kiểm tra nghiệm thu... cũng sẽ không được coi là “nguyên liệu cần thiết
cho”. Tuy nhiên, một vấn đề đặt ra khi “nguyên liệu” là các yếu tố như công
nghệ, bí quyết kỹ thuật, bản vẽ, công thức và thiết kế cần thiết cho sản xuất hàng
hóa có được coi là hàng hóa không? Theo Bình luận số 4 của Uỷ ban tư vấn Công ước Viên15, Tòa phúc thẩm Chambéry ngày 25/5/1993 đã quyết định không áp
dụng CISG với lập luận rằng, để thuộc phạm vi áp dụng của Điều 3, sản xuất
hàng hóa phải được thực hiện theo thiết kế do người mua cung cấp, thiết kế phải
chiếm một phần đáng kể các tài liệu và trở thành nguyên liệu duy nhất mà người
đặt hàng cung cấp. Tuy nhiên, cần xác định rõ rằng không phải mọi thiết kế, bản
vẽ… đều được coi là vật liệu để sản xuất hàng hóa. Chỉ những thiết kế, bản vẽ….
cần thiết cho sản xuất hàng hóa và đóng góp đặc biệt hoặc dành riêng cho hàng
hóa. Ví dụ như một trong các bên đóng góp tài liệu, bản vẽ… thể hiện quyền sở
hữu công nghiệp hoặc quyền sở hữu trí tuệ (ví dụ: bằng sáng chế hoặc quyền sở
hữu công nghiệp…)
Ngoài ra, còn một vấn đề khác liên quan đến những nguyên liệu vô hình
không thể nhìn nhận được bằng giác quan thông thường. Các quốc gia ngay từ khi
CISG trong giai đoạn xây dựng đã muốn biết “nguyên liệu” có tồn tại dưới dạng vô hình được không, như bí quyết kinh doanh16. CISG không có điều khoản nào
cập
15 CISG Advisory Council Opinion No. 10, tlđd. 16 Về vấn đề này, xem: http://cisg.com.vn/index.php/2017-05-14-10-37-49/2011-12-05-04-54-02/196-ban- v-khai-ni-m-h-p-d-ng-mua-ban-hang-hoa-qu-c-t-theo-di-u-3-c-a-cong-u-c-vienna-1980(truy ngày 19/11/2018).
quy định các giao dịch đó có thuộc phạm vi áp dụng của CISG hay không.
30
2.1.1.2. Hợp đồng bao gồm cả mua bán hàng hóa và cung ứng nhân lực và
dịch vụ
Khoản 2 Điều 3 quy định: “Công ước này không áp dụng cho các hợp
đồng trong đó phần lớn nghĩa vụ của bên cung cấp hàng hóa là cung ứng lao
động hoặc thực hiện các dịch vụ khác.”
Cần lưu ý rằng Công ước Viên chỉ áp dụng cho hợp đồng mua bán hàng
hóa mà không điều chỉnh hợp đồng cung ứng dịch vụ. Trong thực tế, có những
hợp đồng có đối tượng vừa là mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ khi bao
gồm cả nghĩa vụ cung ứng dịch vụ và cung cấp hàng hóa. Khi hợp đồng có đối
tượng là mua bán hàng hóa, nhưng lại kèm theo đó là những dịch vụ, hay yêu cầu
thực hiện một công việc nào đó liên quan đến hàng hóa, thì cần phải xem xét các
hợp đồng đó có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa theo quy định của Công ước
hay không?
Trong thực tiễn, bên bán thường phải thực hiện các dịch vụ phụ trợ cho
việc giao hàng như đóng gói, vận chuyển hàng hóa, ký hợp đồng với người vận
chuyển… Ngoài ra, hợp đồng mua bán hàng hóa còn có thể kèm theo nghĩa vụ lắp
đặt hay việc hướng dẫn lắp đặt. Trong những trường hợp này, hợp đồng vẫn thuộc
đối tượng điều chỉnh của CISG, bởi các nghĩa vụ đó không phải là nghĩa vụ chính của hợp đồng mua bán hàng hóa17. Tương tự, một hợp đồng mua bán hàng hóa có
nghĩa vụ bán hàng kèm theo lắp ráp hàng hóa nói chung không thuộc trường hợp loại trừ theo Điều 3.218. Điều này cũng đúng đối với các hợp đồng mua bán hàng
hóa có nghĩa vụ đào tạo nhân viên, hay cung cấp các dịch vụ bảo trì, nếu những nghĩa vụ bổ sung này phụ thuộc vào nghĩa vụ chính là bán hàng19. Các dịch vụ
này không làm thay đổi bản chất hợp đồng là mua bán hàng hóa hay cũng không
làm thay đổi quan hệ giữa các bên trong quan hệ mua bán hàng hóa. Ví dụ như
trong vụ tranh chấp giữa nguyên đơn là bên bán Thụy Sỹ với bị đơn là bên mua
17 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/990225s1.html (truy cập ngày 19/11/2018). 18 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/060110i3.html (truy cập ngày 19/11/2018). 19 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/061108s1.html (truy cập ngày 19/11/2018).
Đức. Tòa án đã nhận thấy rằng hai bên đã thực hiện về việc bán hàng kèm theo
31
với nghĩa vụ liên quan đến việc lắp đặt container. Tòa án đã xem xét và kết luận
rằng Công ước Viên có thể áp dụng được vì việc cung cấp các dịch vụ, tức là việc
lắp đặt container, không được ưu tiên hơn, hay không phải là nghĩa vụ chủ yếu.
Tuy nhiên trong một số trường hợp người bán thực hiện phần dịch vụ
nhiều hơn phần mua bán, khi đó, dịch vụ hoàn toàn có thể trở thành đối tượng của
một hợp đồng độc lập. Chẳng hạn như người bán đào tạo nhân viên của người
mua để sử dụng hàng hóa là đối tượng của hợp đồng. Trong tranh chấp số 8/199720, trọng tài cho rằng phần cung ứng dịch vụ trội hơn phần mua bán hàng
hóa. Cụ thể, trọng tài đã lập luận rằng “hợp đồng mua bán hàng hóa có trả phí lắp
đặt” bao gồm một số điều khoản mà hợp đồng mua bán hàng hóa thông thường
không có, ví dụ như lưu kho, thông tin bán hàng, dịch vụ markerting, trả lại hàng
hóa khi không bán được... Nhìn chung, cần phải xem xét việc thực hiện nghĩa vụ
này tương quan như thế nào so với nghĩa vụ cung cấp hàng hóa.
Ngược lại, theo tinh thần của Điều 3.2, một hợp đồng tuy là có sự trao đổi
hàng hóa, nhưng nhiệm vụ của bên giao hàng lại chủ yếu là thực hiện một công
việc, dịch vụ khác, thì sẽ không chịu sự điều chỉnh của CISG. Để hiểu được nội
dung của quy định này, cần phải làm sáng tỏ ý nghĩa của cụm từ “phần lớn nghĩa
vụ” (“preponderant part of the obligations” trong tiếng Anh và “la part
prépondérante de l’obligation” trong tiếng Pháp). Tương tự như cách tiếp cận
thuật ngữ “phần lớn” của Điều 3.1 đã phân tích ở trên, “phần lớn nghĩa vụ” trong
trường hợp này cũng được xét trên cơ sở định lượng, và trong một chừng mực
nào đó trên bản chất của hợp đồng.
Nếu dựa trên cơ sở định lượng, thường sẽ căn cứ vào tỷ lệ phần trăm. Một
con số tỷ lệ phần trăm nhất định không thể đúng đối với mọi trường hợp, nên nếu
chỉ xem xét riêng con số đó thì chưa thể đưa ra kết luận chính xác. Ngay cả đối
với một tỷ lệ lớn hơn 50% cũng không đủ để coi là yếu tố quyết định cho việc
CISG có được áp dụng hay không. Ngoài ra, còn phải xem xét ý định của các bên
20 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/980305r1.html (truy cập ngày 19/11/2018).
khi giao kết và trong khi thực hiện hợp đồng. Trong thực tế, một số yếu tố khác ví
32
dụ như mệnh giá và toàn bộ nội dung của hợp đồng cũng được tòa án và trọng tài
xem xét bổ sung. Trong mọi trường hợp, khi so sánh giá trị dịch vụ, cần so sánh
giá trị của toàn bộ hợp đồng, chứ không phải chỉ với giá của hàng hóa. Con số
trên 50% sẽ không thể quyết định chung cho tất cả các tranh chấp để loại trừ
CISG nhưng nếu sử dụng một tỷ lệ cố định, con số dưới 50% sẽ khó được tính
đến để loại trừ CISG. Trong một số vụ tranh chấp, khi nghĩa vụ liên quan đến
việc cung cấp lao động hoặc dịch vụ chiếm dưới 50% nghĩa vụ của người bán, thì
CISG được áp dụng.
Thực tiễn xét xử cho thấy, việc xác định nghĩa vụ chủ yếu của Điều 3.2
căn cứ trên việc định lượng theo giá trị kinh tế được công nhận và áp dụng. Tranh chấp 2008/AR/91221 ngày 14/11/2008 là một ví dụ. Bên giao hàng Đức đã thực
hiện nghĩa vụ liên quan đến dịch vụ được quy ra giá trị kinh tế là 12.570 Euro,
trong khi giá trị kinh tế của hợp đồng giữa bên bán Đức và bên mua Bỉ là 52.000
Euro. So sánh hai con số này ta được tỷ lệ phần trăm tương ứng khoảng 24%,
chiếm một phần giá trị không lớn, có thể hiểu nghĩa là bên giao hàng không thực
hiện phần lớn nghĩa vụ. Vì vậy, hợp đồng này chịu sự điều chỉnh của CISG.
Ngoài yếu tố giá trị kinh tế, một số cơ quan giải quyết tranh chấp còn xem
xét các yếu tố khác, đặc biệt bản chất của hợp đồng, hoàn cảnh xung quanh việc
ký kết hợp đồng, mục đích của hợp đồng, v.v… để xác định xem đó có được coi
là hợp đồng mua bán hàng hóa hay không. Ví dụ như trong vụ tranh chấp Germany 26 November 1998 District Court Mainz22 giữa người bán Thụy Điển
và người mua Đức liên quan đến hợp đồng mua bán “cylinder” để sản xuất giấy.
Các bên đã thỏa thuận giá mua bao gồm bốc xếp, vận chuyển, bốc dỡ, lắp đặt và
chi phí bảo hiểm cho đến khi kết thúc công việc lắp đặt hàng hóa. Tòa án đã xem
xét mục đích của hợp đồng và các hoàn cảnh khác dẫn đến sự hình thành hợp
đồng và kết luận rằng, việc mua bán cylinder là cần thiết nhất trong thỏa thuận
của các bên. Các nhiệm vụ bổ sung có liên quan khác bao gồm các dịch vụ được
21 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/081114b1.html (truy cập ngày 19/11/2018). 22 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/981126g1.html (truy cập ngày 19/11/2018).
coi là một phần của nghĩa vụ đưa ra sản phẩm cuối cùng. Bên cạnh đó, các hoạt
33
động còn lại cụ thể như lắp đặt, vận chuyển và các dịch vụ khác theo thỏa thuận
có tầm quan trọng thấp hơn và chỉ để phục vụ cho mục đích chính là cung cấp
hàng hóa. Ngoài việc xem xét mục đích, còn có thể xem xét tính thiết yếu của hợp
đồng dựa trên lợi ích mỗi bên nhận được đối với dịch vụ đó, và nhìn nhận việc
cung ứng dịch vụ đó liệu có phải quyền ưu tiên hơn cung cấp hàng hóa.
Theo Ủy ban tư vấn CISG:
“Việc giải thích phần lớn nghĩa vụ quy định trong Điều 3.2 phải được thực
hiện dựa trên tiêu chí kinh tế. Tiêu chí về bản chất hợp đồng chỉ được áp dụng khi
việc đánh giá dựa trên giá trị kinh tế là không thể hoặc không phù hợp, tùy theo từng trường hợp”23.
Như vậy, tiêu chí về bản chất hợp đồng chỉ được xếp sau tiêu chí giá trị
kinh tế, và sẽ được áp dụng trong trường hợp không thể sử dụng tiêu chí giá trị
kinh tế hoặc áp dụng tiêu chí kinh tế gặp khó khăn trong trường hợp cụ thể.
Một trường hợp điển hình cho việc xác định hợp đồng dựa trên bản chất là trường hợp hợp đồng “chìa khóa trao tay”. Tòa Thương mại Zurich24 trong bản án
HG 000120/U/zs ngày 9 tháng 7 năm 2002 đã kết luận rằng Công ước Viên sẽ
không được áp dụng trong vụ này, bởi hoạt động trao đổi hàng hóa không chiếm
phần lớn, khi hàng hóa ở đây là nhà máy sản xuất, mà hai bên là Thụy Sỹ (bên
bán) và Đức (bên mua) đã giao kết. Việc chuyển giao một nhà máy không đơn
giản như trao đổi hàng hóa thông thường. Đó là cả một hoạt động vô cùng lớn và
phức tạp, gồm việc chuyển giao rất nhiều các bộ phận riêng lẻ để có thể cấu thành
nên một nhà máy. Các công việc, dịch vụ ở đây không phải chỉ là một phần nhỏ,
mà trái lại đóng vai trò chủ chốt đối với một dự án chuyển giao nhà máy. Việc lắp
đặt, lắp ráp và công việc hướng dẫn, giám sát chiếm phần lớn trong việc thực hiện
hợp đồng. Có thể nói việc thực hiện hợp đồng này bao gồm rất nhiều nhiệm vụ
xen kẽ, tạo nên một mạng lưới lớn các công việc, không đơn thuần chỉ như một
23 CISG Advisory Council Opinion No. 10, tlđd. 24 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/020709s1.html (truy cập ngày 19/11/2018).
việc mua bán hàng hóa. Tuy nhiên, trong thực tế xét xử cho thấy, các cơ quan tài
34
phán có ý kiến trái chiều về loại hợp đồng này. Có tòa án đã cho rằng hợp đồng chìa khóa trao tay vẫn thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước Viên25.
Một câu hỏi khác cũng cần được trả lời: hợp đồng phân phối (distribution
contract) có thể được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa thuộc phạm vi điều chỉnh
của CISG không? Về vấn đề này, cần phân biệt hai loại hợp đồng là hợp đồng
phân phối “framework distribution contract” và hợp đồng mua bán hàng hóa
mang tính cá nhân giữa nhà cung cấp và nhà phân phối được ký kết dựa trên hợp
đồng “framework”. Hợp đồng “framework distribution” thiết lập mối quan hệ lâu
dài giữa các bên, chủ yếu liên quan đến quyền và nghĩa vụ phát sinh từ quan hệ
phân phối, còn hợp đồng mua bán cụ thể thì liên quan trực tiếp đến hàng hóa và có thể chịu sự điều chỉnh của CISG26. Tuy nhiên, ranh giới giữa hợp đồng phân
phối “framework” và hợp đồng bán hàng khó xác định nếu hợp đồng
“framework” đã chứa hầu hết các nghĩa vụ điển hình của người bán và người
mua, nhà phân phối yêu cầu giao hàng vào một ngày nhất định, với số lượng được chỉ định và chỉ để xác nhận nghĩa vụ của người bán27. Vì thế, một số tác giả cho
rằng không thể loại trừ khả năng loại hợp đồng này chịu sự điều chỉnh của CISG28.
Trong tranh chấp Imperial v. Sanitari29, một công ty Ý và một công ty của
Anh đã ký kết một thỏa thuận cung cấp để bán và phân phối hàng hóa. Bên
nguyên đơn là công ty Ý đã kiện công ty Anh về tuyên bố hủy hợp đồng. Quyết
định của Tòa án Tối cao Ý cho rằng CISG không chỉ áp dụng cho việc bán hàng
mà còn cho các thỏa thuận phân phối, miễn là chúng có thể được hiểu là các điều
thể xem được
(2011)
số 3,
Goods”,
Vienna.
được
Nxb
xem
thể
Có
of
25 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/091214s1.html(truy cập ngày 19/11/2018). 26 Jelena Perovi, 2011, “Selected Critical Issues Regarding the Sphere of Application of the CISG”, tại: tr. 181-195. Có Belgrade Law Review, Year LIX http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/perovic.html (truy cập ngày 28/7/2018). 27 Jelena Perovi, 2011, tlđd. 28 Peter Schlechtriem, 1986, “Uniform Sales Law - The UN-Convention on Contracts for the International tại: Manz, Sale https://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/schlechtriem.html (truy cập ngày 19/11/2018). 29 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/991214i3.html(truy cập ngày 19/11/2018). 30 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/960621g1.html(truy cập ngày 19/11/2018).
khoản phụ cho hợp đồng mua bán. Một tranh chấp khác cũng liên quan đến hợp đồng phân phối là tranh chấp Chinese goods case30 giữa nguyên đơn là bên bán
35
Hong Kong và bị đơn là bên mua Đức. Bên bán là một công ty Hong Kong và bên
mua, một công ty của Đức, đã ký kết thỏa thuận phân phối độc quyền hàng hóa
Trung Quốc. Theo thỏa thuận này, người bán chịu trách nhiệm về quan hệ kinh
doanh với các nhà sản xuất Trung Quốc trong khi người mua chịu trách nhiệm
phân phối hàng hóa ở châu Âu. Trên cơ sở đó, các bên đã ký kết các hợp đồng
mua bán riêng thường xuyên. Do khó khăn về tài chính, một nhà sản xuất Trung
Quốc không thể giao hàng đã đặt cho người bán, do đó người bán không thể thực
hiện nghĩa vụ hợp đồng của mình với người mua. Người bán yêu cầu thanh toán
số tiền đến hạn đối với các hàng hóa đã giao trước đây. Tòa trọng tài trong trường
hợp này đã áp dụng CISG.
2.1.2. Hàng hóa
2.1.2.1. Các hàng hóa bị loại trừ
Điều 2 Công ước đã đưa ra những quy định nhằm loại trừ việc áp dụng
Công ước trong một số trường hợp nhất định; tuy nhiên, những loại trừ này cần
được phải giải thích một cách chặt chẽ dựa trên ý chí của người làm luật cũng như
thực tiễn áp dụng tại những nước thành viên. Những loại trừ áp dụng được liệt kê
tại Điều 2 từ điểm a đến f, được gọi chung thành ba nhóm chính như sau: (i) loại
trừ dựa trên mục đích mua bán, trao đổi hàng hóa; (ii) loại trừ dựa vào loại giao
dịch của các bên và (iii) loại trừ dựa vào loại hàng hóa giao dịch.
Điều 2.a Công ước đưa ra loại trừ áp dụng đối với những hợp đồng mua
bán hàng hóa vì mục đích tiêu dùng (“hàng hóa dùng cho cá nhân, gia đình hoặc
nội trợ”). Tuy nhiên, vấn đề cần lưu ý trong quy định này là “ý định” của bên
mua. Chính ý định mua bán hàng hóa này, tại thời điểm giao kết hợp đồng, mới là
nhân tố quyết định phạm vi áp dụng của Công ước mà không phải là thực tế sử
dụng hàng hóa của bên mua. Như vậy, giao dịch mua ô tô để sử dụng cá nhân hay
trong gia đình, không nằm trong phạm vi áp dụng của Công ước. Tuy nhiên,
ngược lại, nếu giao dịch mua bán được thực hiện bởi một cá nhân với mục đích
thương mại thì giao dịch này lại nằm trong phạm vi áp dụng của Công ước. Do
đó, giao dịch mua bán máy quay phim, chụp ảnh của một nhà nhiếp ảnh để thực
36
hiện công việc kinh doanh của anh ta hay giao dịch mua bán đồ dùng trong văn
phòng của chủ doanh nghiệp cho nhân viên sử dụng; là những ví dụ mà những
hợp đồng mua bán này được điều chỉnh bởi Công ước.
Riêng đối với hợp đồng tiêu dùng, yếu tố quyết định cho việc CISG không
áp dụng là ý định sử dụng của hàng hóa. Một hợp đồng tiêu dùng thuộc trường
hợp loại trừ áp dụng CISG khi ý định dùng cho cá nhân hoặc gia đình được bên
bán biết được trước hoặc vào thời điểm giao kết hợp đồng. Nghĩa vụ chứng minh
rằng bên bán không biết hoặc không có nghĩa vụ phải biết ý định tiêu dùng của người mua thuộc về bên yêu cầu áp dụng CISG (Peter Henseler, 2007)31.
Ngoài ra, để tránh xung đột với luật các quốc gia thành viên, CISG được
loại trừ không áp dụng đối với một số loại giao dịch đặc thù như bán đấu giá, bán
hàng hóa để thi hành luật hoặc các quyết định tư pháp, hay mua bán chứng khoán.
Đối với các giao dịch này, do tính chất đặc thù nên các quốc gia thường có các
quy định riêng và có nhiều điểm khác biệt với giao dịch mua bán hàng hóa thông
thường.
Về loại hàng hóa, Công ước không áp dụng trong những giao dịch mua
bán tàu thủy, máy bay, các máy chạy trên đệm không khí và điện năng. Tuy vậy,
thực tiễn xét xử CISG cho thấy có trường hợp hợp đồng mua bán thành phần, bộ
phận riêng lẻ của tàu thủy, máy bay, có thể quy định luật áp dụng là Công ước.
2.1.2.2. Hàng hóa là động sản hoặc tài sản vô hình
CISG không quy định những điều kiện cụ thể về hàng hóa. Tuy nhiên
thông qua các bình luận pháp lý và vụ việc cụ thể trên thực tế, đối tượng được coi
là “hàng hóa” theo CISG phải là các tài sản hữu hình và có thể di chuyển được.
Trong thực tiễn áp dụng CISG, phần mềm máy tính (computer software)
có thể được coi là hàng hóa nếu đó là một phần mềm tiêu chuẩn. Phần mềm sẽ
không được coi là hàng hóa trên cơ sở CISG chỉ trong trường hợp phần mềm đó
31http://www.hp-legal.com/images/stories/aktuelles/cisg_application.pdf (truy cập 19/11/2018).
được sản xuất theo nhu cầu của một khách hàng cụ thể (custom-made software).
37
Cụ thể, tại vụ tranh chấp giữa hai công ty Pháp và Đức theo đó, bên mua có trụ sở
kinh doanh tại Đức đặt mua các phần mềm vi tính của bên bán có trụ sở kinh
doanh tại Pháp độc quyền sở hữu hợp pháp chương trình Graphiplus. Các chương
trình phần mềm được giao đến cho bên mua và lắp đặt. Các bên cũng dự định
giao kết tiếp hợp đồng thứ hai về việc sử dụng chương trình vi tính, nhưng không
đạt được thỏa thuận. Bên mua sau đó từ chối thanh toán tiền mua hàng. Bên bán
khởi kiện yêu cầu thanh toán tiền và lãi do chậm trả.
Tòa án nhận thấy rằng “việc giao kết hợp đồng liên quan đến mua bán
chương trình phần mềm vi tính thuộc phạm vi điều chỉnh của CISG. Việc mua
bán phần mềm tiêu chuẩn với giá cả theo thỏa thuận của hai bên được coi là hợp
đồng mua bán hàng hóa theo Điều 1 Công ước. Một số tác giả cũng cho rằng phần mềm vi tính là hàng hóa theo CISG”32.
2.1.3. Những nội dung bị loại trừ
2.1.3.1. Hiệu lực của hợp đồng và hậu quả của hợp đồng đối với quyền sở
hữu hàng hóa đã bán
a) Hiệu lực của hợp đồng, của các điều khoản hợp đồng và thói quen giữa
các bên
CISG không điều chỉnh hiệu lực của hợp đồng cũng như các điều khoản cụ
thể trong hợp đồng và thói quen giữa các bên trong hợp đồng. Điều 4 của Công
ước quy định:“trừ khi có quy định cụ thể, Công ước không điều chỉnh tính hiệu
lực của hợp đồng hoặc của bất cứ điều khoản nào của hợp đồng hoặc của bất kỳ
tập quán nào”. Về những nội dung này CISG để cho các nước tham gia tùy nghi
chọn lựa luật Quốc gia để quy định trong hợp đồng.
Điều 4 Công ước chỉ điều chỉnh “việc ký kết hợp đồng mua bán và các
quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua phát sinh từ hợp đồng đó” mà
không liên quan đến (i) tính hiệu lực của hợp đồng hay bất kỳ điều khoản nào
32 Xem thêm vụ Germany 8 February 1995 District Court München (Standard software case) tại https://cisgw3.law.pace.edu/cases/950208g4.html (truy cập ngày 19/11/2018).
trong hợp đồng và (ii) việc chuyển quyền sở hữu hàng hóa. Ngoài ra, trong CISG
38
chưa có các quy định về một số vấn đề pháp lý khác như: trách nhiệm của các bên
trong giai đoạn đàm phán, vấn đề ủy quyền, vấn đề thời hiệu, vấn đề chuyển giao
nghĩa vụ, chuyển giao hợp đồng, phạt vi phạm hợp đồng.
Khi hợp đồng được điều chỉnh bởi CISG, các bên có thể dự kiến một
nguồn luật bổ sung cho những vấn đề mà CISG không đề cập đến, hoặc trường
hợp các bên không lựa chọn nguồn luật bổ sung cho CISG thì cơ quan giải quyết
tranh chấp sẽ lựa chọn. Các nguồn luật bổ sung cho CISG có thể bao gồm: Luật
quốc gia của nơi người bán hoặc người mua đặt trụ sở kinh doanh, hoặc bất kỳ
quốc gia nào mà các bên có thỏa thuận lựa chọn. Ví dụ: Trong Hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế mẫu của Phòng Thương mại quốc tế ICC (ấn bản của ICC số
738E năm 2013) gợi ý quy định điều khoản “Luật áp dụng” trong hợp đồng như
sau:“Bất kỳ vấn đề nào liên quan đến hợp đồng này mà không được qui định một
cách rõ ràng hay ngầm hiểu trong các điều khoản của hợp đồng thì sẽ được điều
chỉnh bởi Công ước Viên năm 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế, và nếu những vấn đề đó cũng không thuộc phạm vi điều chỉnh
của Công ước thì sẽ tham chiếu tới luật của quốc gia nơi người bán đặt địa điểm
kinh doanh”.
Các bộ nguyên tắc về hợp đồng (không mang tính ràng buộc) như Bộ
Nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (PICC) và Bộ Nguyên tắc
về Luật Hợp đồng châu Âu (PECL). Ví dụ: trong mẫu Hợp đồng cho doanh
nghiệp nhỏ (Model Contracts for Small Firms) do Trung tâm Thương mại quốc tế
(ITC) đưa ra có đưa ra gợi ý về cách quy định điều khoản luật áp dụng CISG tại Điều 2333. Những vấn đề mà CISG không quy định sẽ được điều chỉnh bởi Bộ
Nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế (sau đây gọi là Bộ Nguyên
tắc Unidroit), và với những vấn đề mà Bộ Nguyên tắc Unidroit không quy định
33 Điều 23. 1 CISG quy định: “Những vấn đề liên quan đến hợp đồng này mà chưa được quy định trong các điều khoản của hợp đồng thì sẽ được điều chỉnh bởi Công ước của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế”.
thì sẽ được giải quyết theo luật quốc gia của nước nơi người bán có địa điểm kinh
39
doanh thương mại hoặc luật quốc gia của nước nơi người mua có địa điểm kinh
doanh thương mại hoặc luật quốc gia của nước thứ ba.
Liên quan đến các tập quán thương mại quốc tế, khi các bên không có thỏa
thuận về nguồn luật bổ sung cho CISG, thì việc lựa chọn các nguồn luật này có sự
khác nhau giữa tòa án và trọng tài. Tòa án thường có xu hướng ưu tiên áp dụng
luật quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ nhất với tranh chấp (ví dụ luật của nước nơi
người bán/người mua có trụ sở thương mại). Ngược lại, trọng tài quốc tế thường
ưu tiên áp dụng các quy tắc và tập quán thương mại đã phát triển và được thừa
nhận rộng rãi trong cộng đồng kinh doanh quốc tế như PICC hoặc PECL.
Trong vụ tranh chấp Geneva Pharmaceuticals Technology Corp v. Barr
Laboratories, Inc.29, người mua New Jersey đã kiện người bán Canada với lý do
vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, bị đơn một mực khẳng định rằng hợp đồng không
có hiệu lực do không đáp ứng nghĩa vụ đối ứng (consideration) giữa hai bên. Để
giải quyết vấn đề này, Tòa án cho rằng: “Đối với vấn đề hiệu lực của hợp đồng,
Công ước CISG xem xét đến những quy định của pháp luật nội địa về vấn đề vô
hiệu hợp đồng hoặc không thể thực hiện được”. Sau khi Tòa án áp dụng nguyên
tắc xung đột luật, Tòa án xác định pháp luật New Jersey là luật áp dụng; theo đó,
nghĩa vụ đối ứng (consideration) ảnh hưởng đến hiệu lực hợp đồng nên hợp đồng này bị tuyên vô hiệu34.
Trong vụ tranh chấp giữa người bán Đức (nguyên đơn) và người mua Áo
(bị đơn) liên quan đến, thỏa thuận mua bán đá tối màu làm bia mộ, người mua sau
khi kiểm tra hàng, nhận thấy hàng hóa không phù hợp đã cầm giữ tiền, không
thanh toán cho người bán. Hợp đồng quy định: “người mua không có quyền cầm
giữ tiền (ngưng thanh toán) ngay cả khi hàng không phù hợp”. Người mua cho
rằng điều khoản này trong hợp đồng vô hiệu, còn người bán cho rằng điều khoản
34 Trường hợp này xem thêm Vụ Geneva Pharmaceuticals v. Barr Laboratories 10 May 2002 / 16 August 2002. Có thể xem được tại: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/020821u1.html (truy cập ngày 19/11/2018)
này có hiệu lực. Áp dụng Điều 4.a CISG, Tòa án cho rằng hiệu lực của điều
40
khoản này được điều chỉnh bởi pháp luật của Đức: theo luật Đức, điều khoản này có hiệu lực đối với hai bên35.
b) Hậu quả của hợp đồng đối với quyền sở hữu hàng hóa đã bán
Trong Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, việc xác định thời điểm
chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa từ người bán sang người mua có ý nghĩa
pháp lý hết sức quan trọng, không những cho vai trò các bên của hợp đồng mà
còn cho người thứ ba. Ý nghĩa pháp lý của việc xác định thời điểm chuyển quyền
sở hữu đối với hàng hóa thể hiện ở chỗ, sau thời điểm chuyển quyền sở hữu,
người bán hết quyền định đoạt hàng hóa, còn người mua có được thẩm quyền của
người chủ sở hữu đối với hàng hóa, tức là có thể bán lại cho người thứ ba, thế
chấp ngân hàng hay trong trường hợp hàng hóa bị mất mát hay hư hỏng thì chỉ có
chủ sở hữu mới có quyền yêu cầu người gây ra tổn thất hay công ty bảo hiểm
(nếu hàng hóa có bảo hiểm) bồi thường thiệt hại.
Ngoài ra, sau thời điểm đó, hàng hóa trở thành tài sản của người mua và
chủ nợ của người mua có thể có quyền yêu cầu đối với tài sản đó. Cuối cùng, sau
thời điểm đó, người mua phải chịu trách nhiệm trước người thứ ba về những tổn
thất do hàng hóa gây ra. Hoạt động mua bán hàng hóa cho thấy, việc xác định thời
điểm chuyển quyền sở hữu đối với hàng hóa được chuyển từ người bán sang
người mua phụ thuộc vào đối tượng của hợp đồng là hàng hóa đặc định (hàng hóa
không thể thay thế cho nhau được) hay hàng hóa đồng loại (tất cả các loại hàng
hóa có thể thay thế cho nhau).
Trong tất cả các hệ thống pháp luật, điều kiện cần thiết để quyền sở hữu
đối với hàng hóa đồng loại được chuyển từ người bán sang người mua là hàng
hóa đó phải được cá thể hóa cho mục đích của hợp đồng, tức là khi đối tượng của
hợp đồng là hàng hóa không đặc định thì quyền sở hữu không thể được chuyển
35 Trường hợp này xem thêm Vụ Oberster Gerichtshof, 8 Ob 22 / 00v, ngày 7 tháng 9 năm 2000. Có thể xem được tại: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/000907a3.html (truy cập ngày 23/11/2018).
sang người mua trước thời điểm hàng hóa được cá thể hóa cho mục đích của hợp
41
đồng. Hành vi cá thể hóa được quy định trong hợp đồng là việc xếp hàng hóa vào
nơi riêng biệt, đóng gói, đánh dấu bằng ký hiệu, mã hiệu hay những hành vi khác
có mục đích đưa hàng hóa vào một tình trạng để có thể giao cho người mua như
là hàng đặc định.
Với mục đích của CISG là chỉ điều chỉnh việc giao kết hợp đồng, các
quyền, nghĩa vụ của bên bán và bên mua phát sinh từ hợp đồng mua bán hàng hoá
quốc tế. Do đó, Công ước CISG sẽ không điều chỉnh những vấn đề xảy ra sau khi
mua bán hàng hoá. Ví dụ: hệ quả phát sinh liên quan tới quyền sở hữu đối với
hàng hóa đã bán hoặc trường hợp hàng hoá là đối tượng của hợp đồng đã gây thiệt hại về sức khỏe hoặc tính mạng đối với bất cứ một người nào đó36. Tuy
nhiên, xuất phát từ quy định về thời điểm chuyển rủi ro, có thể hiểu rằng đối với
hàng hóa là hàng đồng loại quyền sở hữu không thể được chuyển sang người mua
trước thời điểm hàng hóa đó được cá thể hóa cho mục đích của hợp đồng.
2.1.3.2. Trách nhiệm sản phẩm
Theo quy định tại Điều 5 CISG thì Công ước này không áp dụng cho trách
nhiệm của người bán trong trường hợp hàng của người bán gây thiệt hại về thân
thể hoặc làm chết một người nào đó cho dù bên bị thiệt hại là bên mua hay bên
thứ ba. Như vậy, Công ước không áp dụng trong giải quyết bồi thường thiệt hại
do hàng hóa gây ra cho bất kỳ người nào, bất kể bên bị thiệt hại là người mua hay
bên thứ ba. Điều này không có nghĩa là người mua không có biện pháp bồi
thường cho những tổn thất đó. Việc bồi thường thiệt hại sẽ được điều chỉnh bởi
luật áp dụng bởi các quy tắc của tư pháp quốc tế. Nếu, ngoài thiệt hại cá nhân, các
thiệt hại khác như mất lợi nhuận hoặc thiệt hại về tài sản cũng do hàng hóa đó gây
ra, luật pháp quốc gia được áp dụng cho trách nhiệm của người bán đối với
thương tích cá nhân, trong khi CISG áp dụng cho trách nhiệm của người bán đối
36Điều 4(b) CISG quy định: “Công ước này chỉ điều chỉnh việc ký kết hợp đồng mua bán và các quyền và nghĩa vụ của người bán và người mua phát sinh từ hợp đồng đó. Trừ trường hợp có quy định khác được nêu trong Công ước, Công ước không liên quan tới: a. Tính hiệu lực của hợp đồng, hoặc bất cứ điều khoản nào của hợp đồng, hoặc bất kỳ tập quán nào. b. Hậu quả mà hợp đồng có thể đối với quyền sở hữu các hàng hóa đã bán”.
với các loại thiệt hại khác.
42
2.2. Phạm vi áp dụng CISG theo không gian
CISG chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ 01/01/2017. Tuy
nhiên, không phải mọi hợp đồng mua bán hàng hóa có một bên là thương nhân
Việt Nam đều chịu sự điều chỉnh của Công ước này. CISG chỉ áp dụng đối với
hợp đồng có mối quan hệ giữa với các quốc gia thành viên hoặc được các bên lựa
chọn. Trong Chương này, tác giả sẽ làm rõ các quy định cũng như thực tế áp dụng
các quy định của CISG về khả năng áp dụng CISG dựa trên tính chất quốc tế của
hợp đồng mua bán hàng hóa và dựa trên sự dẫn chiếu của các quy phạm tư pháp
quốc tế.
Điều 1 CISG quy định rằng Công ước này “áp dụng cho các hợp đồng
mua bán hàng hóa giữa các bên có trụ sở thương mại tại các quốc gia khác
nhau”. Như vậy, cần xác định thế nào là các bên có “trụ sở thương mại tại các
quốc gia khác nhau”. Ngoài ra cũng cần tính đến trường hợp doanh nghiệp có
nhiều trụ sở thương mại. Thậm chí, có trường hợp chủ thể trong quan hệ thương
mại quốc tế không có trụ sở thương mại nào.
2.2.1. Khái niệm trụ sở thương mại
Bản tiếng Anh của Công ước sử dụng từ place of business, trong khi bản
tiếng Pháp sử dụng khái niệm établissement và từ được sử dụng trong tiếng Việt
là “trụ sở thương mại”. Tuy nhiên, trong các văn bản giải thích, từ tiếng Anh hay
được dùng là establishment, với nghĩa là nơi hoạt động kinh doanh chính của các
bên. Mặc dù khái niệm trụ sở, nơi hoạt động chính rất quan trọng trong việc xác
định tính chất quốc tế của hợp đồng cũng như xem xét phạm vi áp dụng CISG,
nhưng Công ước lại không đưa ra định nghĩa. Điều này có thể gây nên các cách
tiếp cận, giải thích dưới các góc độ khác nhau giữa các cơ quan tài phán.
Trong thực tiễn xét xử, địa điểm để coi là trụ sở phải là nơi diễn ra hoạt
động kinh doanh trong một khoảng thời gian dài. Độ dài của thời gian được đánh giá tùy theo hoàn cảnh cụ thể. Một số Tòa án37 cho rằng trụ sở, nơi hoạt động
chính là nơi hoạt động kinh doanh được thực hiện trong một khoảng thời gian 37 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/040225i3.html(truy cập ngày 23/11/2018).
43
nhất định, có sự ổn định cũng như thể hiện được một mức độ tự chủ nhất định.
Xét trên khía cạnh thời gian, trụ sở hay địa điểm kinh doanh chính là nơi mà bên
ký kết có tổ chức kinh doanh ổn định và là nơi mà công ty đã thực hiện các hoạt
động được một thời gian dài nhất định với những quyền hạn nhất định. Mặc dù
vậy, địa điểm kinh doanh không đòi hỏi nhất thiết phải là trụ sở chính của một công ty. Một số tòa án38 đã tuyên bố nơi kinh doanh phải là nơi có một tổ chức
kinh doanh lâu dài và ổn định chứ không phải nơi chỉ diễn ra việc ký kết hợp
đồng.
Một địa điểm chỉ mang tính tạm thời sẽ không được coi là trụ sở/ nơi hoạt động chính. Một cơ quan tài phán39 đã xét kết luận rằng “một địa điểm chỉ là nơi
ký hợp đồng hay diễn ra quá trình đàm phán thì không phải là nơi kinh doanh”.
Như vậy, địa điểm kinh doanh không thể được coi là những nơi có hoạt động tạm
thời như nơi triển lãm, trưng bày giới thiệu sản phẩm. Thực tế giải quyết tranh
chấp cho thấy đã có cơ quan tài phán cho rằng một văn phòng liên lạc không thể được coi là nơi kinh doanh theo CISG. Bên cạnh đó, một Tòa án40 cũng tuyên bố
rằng nơi lưu kho hàng hóa không phải là nơi kinh doanh theo tinh thần của CISG.
Nói tóm lại, mặc dù trụ sở/nơi hoạt động chính trong nhiều trường hợp được xác
định khác nhau nhưng nhìn chung lại đều đảm bảo về mặt thời gian nhất định,
không thể là một nơi tạm thời.
Ngoài ra, cần phân biệt giữa quốc gia đặt trụ sở/nơi hoạt động chính của
một bên với quốc tịch. Cụ thể, khoản 3, Điều 1 CISG quy định: “Quốc tịch của
các bên, quy chế dân sự hoặc thương mại của họ, tính chất dân sự hay thương mại
của hợp đồng không được xét tới khi xác định phạm vi áp dụng của Công ước
này”. Như vậy, một bên có quốc tịch Pháp không có ý nghĩa là bên đó có trụ
sở/nơi hoạt động chính tại Pháp. Nói cách khác, CISG không sử dụng tiêu chí
38 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/009781i1.html(truy cập ngày 23/11/2018). 39 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/009781i1.html(truy cập ngày 23/11/2018). 40 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/060523s1.html(truy cập ngày 23/11/2018).
quốc tịch mà chỉ dựa trên tiêu chí địa điểm kinh doanh.
44
2.2.2. Trường hợp có nhiều trụ sở thương mại
Trong trường hợp có nhiều địa điểm kinh doanh, địa điểm kinh doanh
được chọn phải là địa điểm có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng. Cụ thể,
Ðiều 10.a quy định:
“Nếu một bên có hơn một trụ sở thương mại trở lên thì trụ sở thương mại
của họ sẽ được coi là trụ sở nào đó có mối liên hệ chặt chẽ nhất đối với hợp đồng
và đối với việc thực hiện hợp đồng đó, có tính tới những tình huống mà các bên
đều biết hoặc đều dự đoán được vào bất kỳ lúc nào trước hoặc vào thời điểm hợp
đồng”.
Như vậy, khi chủ thể của hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế có nhiều trụ
sở thương mại thì CISG sẽ áp dụng nếu trụ sở thương mại đó có quan hệ gắn bó
nhất với hợp đồng được đặt tại quốc gia là thành viên của CISG.
Cần lưu ý trụ sở thương mại liên quan mật thiết với cả hợp đồng cũng như
việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, mối liên hệ chặt chẽ sẽ phải tính đến toàn bộ
giao dịch, chứ không chỉ là một phần nào đó như nơi ký kết, hay chỉ căn cứ dựa
trên thỏa thuận trên giấy tờ, hợp đồng. Việc xem xét trụ sở nào có mối liên hệ mật
thiết nhất phải được thực hiện một cách toàn diện, tính đến cả những yếu tố trước
khi xác lập hợp đồng, như chào hàng hay chấp nhận chào hàng... để có thể thấy
được bản chất của sự việc.
Trong một tranh chấp41, Tòa án đã tuyên bố rằng, theo Điều 10.a, địa điểm
kinh doanh được xác định là tại Liên bang Nga, với lý do "Nga có mối liên hệ gắn
bó với hợp đồng vì hàng hóa sẽ được sản xuất tại Nga, theo tiêu chuẩn của Nga và
giao cho các tàu Nga, tất cả những chi tiết này đều được các bên biết đến". Trong một tranh chấp42 khác, Tòa án đã sử dụng Điều 10.a để xác định địa điểm kinh
doanh. Hợp đồng được giao kết giữa người mua với địa điểm kinh doanh tại Pháp
với một cá nhân, cũng thuộc Pháp, đại diện cho người bán có trụ sở tại Đức. Tòa
41 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/010928i3.html(truy cập ngày 23/11/2018). 42 Xem: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/001024f1.html(truy cập ngày 23/11/2018).
án lưu ý rằng "xác nhận đơn hàng phát sinh từ bên bán, hóa đơn, và giao hàng
45
được thực hiện từ địa điểm của người bán ở Đức”. Do đó, Tòa án đã cho rằng
"nơi kinh doanh" có mối quan hệ gắn bó nhất với hợp đồng và việc thực hiện hợp
đồng đó, có tính đến các tình huống được biết đến hoặc dự tính bởi các bên tại bất
kỳ thời gian trước hoặc khi kết thúc hợp đồng là ở Đức.
Cuối cùng, cần lưu ý là có thể xảy ra trường hợp một bên không có trụ sở
thương mại. Đó có thể là trường hợp cá nhân không có trụ sở kinh doanh nhưng
tham gia ký kết hợp đồng với mục đích thương mại, chứ không chỉ đơn giản là
mục đích cá nhân, gia đình, nội trợ như quy định tại Điều 2.a. Trong trường hợp
này, sẽ coi nơi cư trú thường xuyên của cá nhân đó như trụ sở kinh doanh để xác
định phạm vi áp dụng công ước. Cụ thể, Điều 10.b. quy định: “Nếu một bên
không có trụ sở thương mại thì sẽ lấy nơi cư trú thường xuyên của họ”.
Tuy nhiên, có thể coi đây cũng là một quy định rất mở của Công ước, khi
không cung cấp thông tin gì thêm để xác định nơi cư trú thường xuyên, mặc dù cụm từ này cũng được nhắc đến tại Điều 2443. Có thể thấy chữ “thường xuyên” ở
đây sẽ thể hiện thời gian cư trú của “một bên” đó phải là một thời gian đáng kể,
hay sự cư trú mang tính ổn định, nhìn chung trường hợp này cũng cần sự nhìn
nhận linh hoạt đối với từng bối cảnh cụ thể.
Như vậy, theo quy định của CISG thì yếu tố quốc tế của hợp đồng mua bán
hàng hoá quốc tế được xác định bởi yếu tố là trụ sở thương mại của các bên phải
đặt tại các quốc gia khác nhau mà không phụ thuộc vào địa điểm kí kết hợp đồng
và cũng không xét đến việc hàng hoá có được dịch chuyển qua biên giới hay
không. Quy định như vậy là khác so với quy định về tính quốc tế của hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế theo Luật thương mại năm 2005 của Việt Nam. Cụ thể,
Luật thương mại năm 2005 không định nghĩa về hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế nhưng có quy định về các hình thức mua bán hàng hoá quốc tế tại Điều
43 Theo tinh thần của Phần II Công ước này, một chào hàng, một thông báo chấp nhận chào hàng hoặc bất cứ một sự thể hiện ý chí nào cũng được coi là "tới nơi" người được chào hàng khi được thông tin bằng lời nói với người này, hoặc được giao bằng bất cứ phương tiện nào cho chính người được chào hàng tại trụ sở thương mại của họ, tại địa chỉ bưu chính hoặc nếu họ không có trụ sở thương mại hay địa chỉ bưu chính thì gửi tới nơi thường trú của họ.
27. Cụ thể, khoản 1 Điều 27 quy định: “Mua bán hàng hoá quốc tế được thực hiện
46
dưới các hình thức xuất khẩu, nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và
chuyển khẩu”. Sau đó, các Điều 28 và 29 đưa ra các định nghĩa về xuất khẩu,
nhập khẩu, tạm nhập, tái xuất, tạm xuất, tái nhập và chuyển khẩu. Theo các quy
định này thì tính chất quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa được xác định dựa
trên sự dịch chuyển của hàng hóa qua biên giới.
Trong trường hợp một bên có nhiều hơn một địa điểm kinh doanh thì, theo
Điều 10, địa điểm kinh doanh được xác định là nơi có mối quan hệ gắn bó nhất
với việc giao kết và thực hiện hợp đồng, có xem xét đến hoàn cảnh mà các bên
biết hoặc dự liệu vào bất kì thời điểm nào trước hoặc vào thời điểm giao kết hợp
đồng. Một yếu tố cũng có thể được đưa vào xem xét để xác định mối quan hệ gắn
bó nhất với một địa điểm kinh doanh là khả năng để duy trì tính quốc tế của hợp
đồng mua bán hàng hóa, tức là địa điểm kinh doanh ở nước khác với nước có địa
điểm kinh doanh của đối tác sẽ là một yếu tố cân nhắc thiên về địa điểm kinh
doanh ở nước khác đó.
2.2.3 Một số bảo lưu
Như trên đã trình bày, khi hợp đồng được ký kết giữa các chủ thể có trụ sở
tại các quốc gia khác nhau là thành viên của CISG và các bên không thỏa thuận
lựa chọn loại trừ CISG thì công ước này sẽ được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng
đó. Tuy nhiên, cần phải lưu ý rằng CISG có quy định cho phép các Quốc gia bảo
lưu khi gia nhập Công ước. Cụ thể, theo quy định tại Điều 92, Quốc gia thành
viên của Công ước này có quyền tuyên bố, vào thời điểm ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia nhập, rằng họ không bị ràng buộc bởi Phần II44 hoặc Phần III45 của Công ước này. Quốc gia thành viên đưa ra tuyên bố bảo lưu đối với
Phần II hoặc Phần III của Công ước này theo quy định tại khoản trên không được
xem là Quốc gia thành viên theo nghĩa của khoản 1 Điều 1 Công ước này đối với
các vấn đề pháp lý thuộc đối tượng điều chỉnh của Phần mà họ đưa ra tuyên bố
44 Tức là các quy định về ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, từ Điều 14 đến Điều 24. 45 Tức là các quy định về nội dung của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và một số vấn đề khác, từ Điều 25 đến Điều 88.
bảo lưu.
47
Ngoài ra, theo quy định tại Điều 93 thì nếu Quốc gia thành viên của Công
ước này mà có hai hoặc nhiều hơn hai đơn vị lãnh thổ mà, theo quy định trong
Hiến pháp của Quốc gia đó, các hệ thống pháp luật khác nhau áp dụng đối với các
vấn đề pháp lý thuộc đối tượng điều chỉnh của Công ước này thì Quốc gia đó có
quyền tuyên bố, vào thời điểm ký, phê chuẩn, chấp thuận, phê duyệt hoặc gia
nhập, rằng Công ước này áp dụng đối với tất cả các đơn vị lãnh thổ của họ hoặc
chỉ một hoặc chỉ một số đơn vị lãnh thổ của họ và có quyền sửa đổi tuyên bố đó
bằng cách đưa ra một tuyên bố khác vào bất kỳ thời điểm nào (khoản 1).
Nếu dẫn chiếu theo tuyên bố được đưa ra theo quy định tại Điều này, Công
ước này áp dụng đối với một hoặc nhiều nhưng không phải tất cả các đơn vị lãnh
thổ của một Quốc gia thành viên và nếu địa điểm kinh doanh của một bên là tại
Quốc gia đó thì địa điểm kinh doanh đó, vì các mục đích của Công ước này,
không được xem là tại một Quốc gia thành viên của Công ước này, trừ trường
hợp địa điểm kinh doanh đó là tại một đơn vị lãnh thổ mà Công ước này áp dụng
(khoản 3).
Nếu Quốc gia thành viên của Công ước này không đưa ra tuyên bố theo
quy định tại khoản 1 Điều này thì Công ước này áp dụng đối với tất cả các đơn vị
lãnh thổ của Quốc gia đó (khoản 4).
Theo quy định tại Điều 94, nếu hai hoặc nhiều Quốc gia thành viên của
Công ước này có các quy tắc pháp lý tương đồng hoặc tương tự đối với các vấn
đề pháp lý thuộc đối tượng điều chỉnh của Công ước này thì họ có quyền tuyên
bố, vào bất kỳ thời điểm nào, rằng Công ước này không áp dụng đối với hợp đồng
mua bán hoặc đối với việc giao kết hợp đồng mua bán giữa các bên có địa điểm
kinh doanh tại các Quốc gia đó. Họ có thể đưa ra tuyên bố chung hoặc trao đổi
qua lại các tuyên bố đơn phương (khoản 1).
Như vậy, khi xem xét khả năng áp dụng của CISG, các cơ quan tài phán và
doanh nghiệp phải tìm hiểu xem các Quốc gia của các bên có liên quan có bảo lưu
hay không. Việc này có thể thực hiện được bằng cách tra cứu các ghi chú trong
48
Danh sách các Quốc gia thành viên của CISG, truy cập được từ trang web chính
thức của Liên hợp quốc.
2.3. Phạm vi áp dụng theo dẫn chiếu của quy phạm tư pháp quốc tế
2.3.1. Mở rộng phạm vi áp dụng về không gian
Như đã phân tích ở trên, CISG sẽ được áp dụng nếu các quốc gia liên quan
đều là thành viên của CISG. Tuy nhiên, nếu một trong hai quốc gia liên quan hoặc
cả hai bên đều không có trụ sở kinh doanh hoặc không có nơi cư trú thường
xuyên ở quốc gia thành viên thì CISG có thể được áp dụng không? Vấn đề này
được quy định tại Điều 1 (1) (b), theo đó CISG vẫn có thể được áp dụng nếu
“theo các quy tắc tư pháp quốc tế thì luật được áp dụng là luật của quốc gia
thành viên Công ước”.
Theo đó, các quy phạm xung đột sẽ được sử dụng để xác định pháp luật áp
dụng cho quan hệ hợp đồng giữa các bên. Nếu quy phạm xung đột dẫn chiếu đến
hệ thống pháp luật nào thì hệ thống pháp luật đó sẽ được áp dụng. Theo tinh thần
của điểm b khoản 1 Điều 1 thì khi quy phạm xung đột dẫn chiếu đến pháp luật
của quốc gia thành viên CISG thì toàn bộ quy định của Công ước này sẽ được áp
dụng để điều chỉnh quyền và nghĩa vụ của các bên chủ thể.
Có thể thấy quy định của điểm b khoản 1 Điều 1 đã tạo ra hành lang pháp
lí khá rộng cho việc áp dụng CISG. Theo đó nếu có quy phạm xung đột trong tư
pháp quốc tế dẫn chiếu đến pháp luật của bất cứ nước thành viên nào đó của
CISG thì Công ước sẽ được áp dụng. Ví dụ, một hợp đồng mua bán hàng hóa
giữa một công ty có trụ sở tại Việt Nam (bên bán) và một công ty có trụ sở tại
Campuchia (bên mua). Một tranh chấp xảy ra và được đưa ra phân xử trước Tòa
án Việt Nam. Do các bên không có thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp dụng đối với
hợp đồng của mình và Campuchia chưa là thành viên của CISG nên Tòa án Việt
Nam sẽ xác định pháp luật áp dụng theo quy phạm xung đột pháp luật của Việt
Nam. Cụ thể, khoản 1 Điều 683 Bộ luật Dân sự năm 2015 của Việt Nam quy
định: “Trường hợp các bên không có thoả thuận về pháp luật áp dụng thì pháp
luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng đó được áp dụng”. Sau đó,
49
khoản 2 của điều luật này quy định: “Pháp luật của nước sau đây được coi là pháp
luật của nước có mối liên hệ gắn bó nhất với hợp đồng: a) Pháp luật của nước nơi
người bán cư trú nếu là cá nhân hoặc nơi thành lập nếu là pháp nhân đối với hợp
đồng mua bán hàng hóa”. Do bên bán có trụ sở tại Việt Nam nên CISG được áp
dụng do Việt Nam là thành viên của Công ước này.
Trong tư pháp quốc tế có rất nhiều hệ thuộc trong quy phạm xung đột dùng
để xác định pháp luật áp dụng khi có xung đột pháp luật trong lĩnh vực hợp đồng
mua bán hàng hoá quốc tế. Ví dụ hệ thuộc luật nước người bán, hệ thuộc luật
nước người mua, hệ thuộc luật nơi kí kết hợp đồng, hệ thuộc luật nơi thực hiện
hợp đồng… Trong trường hợp nếu các hệ thuộc này được quy phạm xung đột dẫn
chiếu đến và được xác định là luật của một trong các thành viên CISG thì Công
ước sẽ được áp dụng. Việc áp dụng nội dung của điểm b khoản 1 Điều 1, như đã
phân tích trên đây, sẽ dẫn đến hệ quả là khả năng áp dụng CISG cao hơn.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây đó là cụm từ “các quy tắc tư pháp quốc tế”
được hiểu là các quy phạm xung đột, hay là rộng hơn nữa, bao gồm cả nguyên tắc về quyền tự do lựa chọn luật áp dụng cho hợp đồng46?
Thực tiễn giải quyết tranh chấp cho thấy khuynh hướng thứ hai ngày càng
được thừa nhận rộng rãi hơn và một sự loại trừ CISG cần phải được thể hiện một cách rõ ràng. Vụ Arbitration case47 đã chứng minh điều này. Hợp đồng mua bán
được ký kết giữa người bán Ý (quốc gia thành viên) và người mua Séc (lúc đó
chưa phải thành viên); tranh chấp xảy ra khi thực hiện hợp đồng và người mua đã
kiện người bán ra trọng tài. Sau khi xem xét hồ sơ, Tòa trọng tài khẳng định rằng:
“Dựa theo hợp đồng, luật Áo là luật giải quyết tranh chấp”. Do CISG đã có hiệu
lực ở Áo tại thời điểm hợp đồng được ký kết nên bằng việc áp dụng Điều 1 (1)
46 Trung tâm Trọng tài Quốc tế Việt Nam (VIAC), 2016, 101 câu hỏi đáp về Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, , http://viac.vn/an-pham/101-cau-hoi-dap-ve-cong-uoc-cua-lien-hop- quoc-ve-hop-dong-mua-ban-hang-hoa-quoc-te-(cisg)-a627.html ngày 5/8/2018 47ICC Arbitration case no 7660, 23/8/1994, tại: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/947660i1.html (truy cập ngày 15/10/2018).
(b), Tòa trọng tài quyết định CISG là luật điều chỉnh hợp đồng.
50
Tuy nhiên, cần lưu ý rằng không phải quốc gia nào cũng mong muốn điều
này, thậm chí chính điều này lại trái ngược với ý chí của một số quốc gia. Vì vậy,
các quốc gia đó có thể lựa chọn giới hạn việc áp dụng này thông qua việc lựa
chọn bảo lưu Điều 1 (1) (b). Có khá nhiều Quốc gia bảo lưu Điều 1 (1) (b), chẳng hạn như Trung Quốc, Mỹ, Singapore48... Trong những trường hợp bảo lưu như
vậy các hợp hợp đồng ký kết giữa một bên có trụ sở tại Quốc gia thành viên bảo
lưu với một bên khác có trụ sở tại Quốc gia không là thành viên, sẽ không chịu sự
điều chỉnh của CISG. Nội dung này sẽ được phân tích kỹ hơn trong phần ngày
tiếp theo đây.
2.3.2. Giới hạn phạm vi áp dụng theo quy định bảo lưu
Điều 95 Công ước quy định: “Mọi Quốc gia có thể tuyên bố [...] rằng
Quốc gia đó sẽ không bị ràng buộc bởi các quy định tại điểm b khoản 1 Điều thứ
nhất của Công ước này”. Quy định này có nghĩa rằng, nếu một Quốc gia thành
viên tuyên bố bảo lưu Điều 1 (1) (b) thì CISG sẽ không được áp dụng cho hợp
đồng ký kết giữa một bên có địa điểm kinh doanh tại Quốc gia này và một bên có
địa điểm kinh doanh tại Quốc gia không phải thành viên Công ước. Ví dụ, doanh
nghiệp X có trụ sở tại Singapore ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế với
doanh nghiệp Y có trụ sở tại Indonesia. Do Singapore bảo lưu Điều 1 (1) (b), còn
Indonesia không phải là thành viên CISG, nên nếu bên bán là Singapore, thì Tòa
án Singapore không áp dụng CISG, vì Singapore không bị ràng buộc bởi Điều 1
(1) (b).
Trong trường hợp các bên chọn luật các nước này thì CISG sẽ không áp
dụng ưu tiên so với luật quốc gia. Nói cách khác, đây là một trường hợp loại trừ
áp dụng Công ước. Khi một Quốc gia A bảo lưu Điều 1 (1) (b) thì quốc gia A sẽ
áp dụng Công ước chỉ khi giao dịch thỏa mãn Điều 1 (1) (a). Vì Điều 1 (1) (b) đã
không
Điều
này.
bảo
(truy
cập
bị loại trừ, quy tắc tư pháp quốc tế dẫn chiếu đến luật của quốc gia A nên nước
này sẽ áp dụng nội luật thay vì CISG. Ví dụ, CISG sẽ không được áp dụng cho 48 Trong danh sách các Quốc gia thành viên, những Quốc gia bảo lưu Điều 1 (1) (b) được ghi chú (b). Việt Xem: Nam lưu http://www.uncitral.org/uncitral/fr/uncitral_texts/sale_goods/1980CISG_status.html ngày 28/7/2018)
51
hợp đồng giữa một bên Trung Quốc và một bên Indonesia vì Trung Quốc là thành
viên đã bảo lưu điều này. Hợp đồng chỉ có thể được điều chỉnh bởi CISG khi bên
giao kết hợp đồng với bên Trung Quốc cũng có trụ sở tại Quốc gia thành viên
CISG.
Hiện nay, chỉ có năm quốc gia bảo lưu gồm: Hoa Kỳ, Trung Quốc,
Singapore, Cộng hòa Séc và Slovakia (Đức cũng đã thông qua một phiên bản giới
hạn của Điều 95). Tuy nhiên, hai trong số các quốc gia bảo lưu Điều 95 là hai
cường quốc với nền kinh tế lớn là Trung Quốc và Hoa Kỳ thực sự đã tác động
không nhỏ tới hiệu quả áp dụng CISG. Nếu hợp đồng mua bán giữa một công ty
có trụ sở tại một quốc gia thành viên và một công ty có trụ sở tại một Quốc gia
chưa phải là thành viên và hai bên thỏa thuận áp dụng luật của một Quốc gia thứ
ba là thành viên của CISG nhưng đã bảo lưu việc áp dụng CISG theo Điều 1 (1)
(b) thì CISG cũng không được áp dụng mà thay vào đó là luật Quốc gia được lựa
chọn.
2.4. Phạm vi áp dụng theo sự lựa chọn của các bên
Quy định tại Điều 6 phản ánh tính chất mềm dẻo và linh hoạt của CISG
cũng như khẳng định nguyên tắc tự do thỏa thuận của các bên trong hợp đồng
thương mại quốc tế nói chung và mua bán hàng hóa quốc tế nói riêng. Việc các
bên lựa chọn áp dụng ít nhất một điều khoản của CISG để điều chỉnh hợp đồng
thương mại (do các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế phần lớn được phép
chọn nhiều luật để áp dụng cho hợp đồng) vẫn đem lại hiệu quả cao hơn việc để
các bên không lựa chọn áp dụng CISG vì lý do một số điều khoản của Công ước
không phù hợp với họ (trong những lĩnh vực đặc thù, hàng hóa đặc thù). Theo
Điều 6 của Công ước, các bên có quyền được tự do sửa đổi các quy tắc của Công
ước hoặc lựa chọn không áp dụng Công ước.
2.4.1. Lựa chọn áp dụng CISG (opting in)
Việc lựa chọn áp dụng CISG có thể xảy ra trong hai trường hợp.
Trường hợp thứ nhất, các bên có trụ sở tại các Quốc gia không phải là
thành viên của CISG nhưng lựa chọn áp dụng CISG. Các bên trong trường hợp
52
này cũng có thể lựa chọn pháp luật của một Quốc gia là thành viên của CISG và
khi đó CISG cũng có thể được áp dụng theo Điều 1 (1) (b).
Trường hợp thứ hai, các bên cũng có thể thỏa thuận lựa chọn áp dụng
CISG mặc dù hợp đồng của họ không phải là hợp đồng mua bán hàng hóa theo
CISG. Cụ thể, các bên trong hợp đồng mua bán tàu thủy, mặc dù bị loại trừ khả
năng áp dụng CISG theo Điều 2 (e), vẫn có thể lựa chọn áp dụng CISG. Trong
các hợp đồng hỗn hợp, có thể không rõ liệu CISG có áp dụng hay không, thì các
bên vẫn có thể lựa chọn áp dụng CISG. Tuy nhiên, việc lựa chọn áp dụng CISG
có giới hạn nhằm bảo vệ các giá trị cơ bản của một hệ thống pháp luật hoặc một
bên yếu thế trong hợp đồng.
Cần lưu ý rằng tố tụng trọng tài có nhiều điểm khác biệt so với tố tụng tòa
án quốc gia. Nếu vụ kiện được xét xử bởi trọng tài, câu hỏi thường đặt ra là trọng
tài sẽ xác định liệu vụ việc thuộc phạm vi áp dụng của CISG không bằng cách
nào? Thông thường, vấn đề sẽ ít phức tạp hơn khi các bên trong hợp đồng mua
bán hàng hóa quốc tế chọn luật áp dụng cho hợp đồng. Họ có thể chọn luật của
một nước thành viên Công ước (khi đó CISG sẽ áp dụng) hoặc loại trừ việc áp
dụng Công ước. Nếu không có thỏa thuận chọn luật của các bên, hội đồng trọng
tài không giống tòa án quốc gia và không chịu ràng buộc Điều 1 (1) (a) Công ước
dù cho tổ chức trọng tài có nằm ở nước thành viên hay không. Tuy nhiên, nếu các
quy tắc trọng tài yêu cầu hội đồng trọng tài áp dụng các quy tắc xung đột dẫn
chiếu đến luật của một nước thành viên Công ước thì hội đồng trọng tài sẽ phải áp
dụng CISG theo Điều 1 (1) (b). Trong trường hợp này nếu nước thành viên đưa ra
bảo lưu theo Điều 95 CISG, hội đồng trọng tài phải tôn trọng sự bảo lưu này, tức
là sẽ không áp dụng CISG mà áp dụng luật quốc gia đó. Ngoài ra, trọng tài cũng
có thể không cần áp dụng các quy phạm xung đột mà chọn Công ước áp dụng
ngay cả khi trường hợp đó nằm ngoài phạm vi áp dụng của Công ước.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp của trọng tài trực thuộc Phòng thương mại
và công nghiệp Budapest, bên mua là thương nhân Hungary đã cung cấp một số
lượng kim loại và phụ tùng cho bên bán là thương nhân Áo để sản xuất 12
53
container cho bên mua. Số lượng kim loại và phụ tùng này có giá trị 23.000 sA,
như vậy, chia trung bình cho mỗi container, bên mua đã cung cấp một có lượng
nguyên liệu có giá trị chưa tới 2000 sA cho việc sản xuất của một đơn vị hàng
hóa. Trong khi đó, để sản xuất một container, bên bán phải sử dụng một lượng
kim loại và phụ tùng có giá trị vào khoảng từ 12.000 sA đến 20.000. Kết quả,
Trọng tài vẫn áp dụng CISG để giải quyết tranh chấp giữa các bên, theo đó, trọng
tài đã kết luận việc mà bên mua cung cấp cho bên bán một số lượng kim loại nói
trên không cấu thành “phần lớn các nguyên liệu”.
Ví dụ như Phán quyết trọng tài ICC số 8502 tháng 11/1996 xét xử tranh
chấp giữa người bán Việt Nam và người mua Pháp. Hai bên đã thỏa thuận áp
dụng Incoterms 1990 và UCP 500 của ICC. Trọng tài nhận định rằng, việc các
bên dẫn chiếu đến Incoterms và UCP cho thấy ý định của các bên là hợp đồng sẽ
được điều chỉnh bởi các tập quán thương mại quốc tế. Trọng tài đã quyết định áp
dụng CISG do Công ước này được soạn thảo dựa trên các tập quán thương mại
quốc tế và phản ánh các tập quán thường được áp dụng rộng rãi trong thương mại quốc tế49.
2.4.2. Thỏa thuận loại trừ CISG (opting out)
Khi nghiên cứu phạm vi các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế có thể
được CISG điều chỉnh, câu hỏi đặt ra là liệu các quy định về phạm vi áp dụng
CISG có làm mất hiệu lực của quyền chọn luật áp dụng của các bên cho hợp đồng
của mình? Tức là, nếu các bên dù đến từ các quốc gia thành viên công ước, nhưng
không muốn CISG áp dụng mà muốn áp dụng luật một quốc gia cụ thể thì có
được không? Điều 6 đưa ra câu trả lời, nhưng chỉ trả lời một phần.
(a) Thứ nhất, các bên có thể chọn luật của một nước không phải thành viên
CISG, ví dụ như một doanh nghiệp có trụ sở tại Việt Nam và một doanh nghiệp
có trụ sở tại Đức ký kết hợp đồng mua bán thiết bị y tế có thể chọn không tham
gia CISG bằng cách chọn luật pháp Anh để điều chỉnh hợp đồng của họ. Vì Anh
49 http://www.unilex.info/case.cfm?pid=1&id=395&do=case
không phải thành viên của CISG nên Công ước này không được áp dụng.
54
Đối với trường hợp chọn hệ thống pháp luật quốc gia không phải là thành
viên (với điều kiện việc chọn luật này phải đáp ứng các điều kiện chọn luật của
nước nơi có Tòa án) xuất phát từ nguyên tắc tự do hợp đồng trong thương mại
quốc tế, vì các bên đã thể hiện ý chí rõ ràng chọn các quy định (nội luật) quốc gia
đó chứ không phải CISG nên thỏa thuận chọn luật của Quốc gia không phải là
thành viên CISG được xem là thỏa thuận loại bỏ hoàn toàn CISG một cách ngầm định. Thực tiễn xét xử cũng khẳng định quan điểm đó50. Trong vụ BSC Footwear
Supplies v. Brumby SL, Tòa phúc thẩm Audiencia Provincial de Alicante (Tây
Ban Nha) đã nhận định CISG không thể được áp dụng để điều chỉnh hợp đồng
giữa người bán (Tây Ban Nha) và người mua (Anh) vì các bên không có ý định
lựa chọn CISG. Cụ thể, một trong những tình tiết được tòa án xem xét đó là theo
một điều khoản mẫu được in ra theo yêu cầu của người mua, hợp đồng của họ sẽ
được giải thích theo các quy tắc giải thích pháp luật của hệ thống pháp luật Anh,
biết rằng Anh không phải là một thành viên của CISG.
(b) Thứ hai, nếu các bên muốn chọn luật quốc gia của một nước thành viên
CISG, ví dụ như luật Việt Nam, thì các bên phải nêu cụ thể trong điều khoản chọn
luật trong hợp đồng không những rằng các bên chọn luật Việt Nam mà còn rõ
ràng rằng CISG không áp dụng để điều chỉnh các vấn đề của hợp đồng giữa họ.
Như vậy, các bên phải loại bỏ rõ ràng sự áp dụng của CISG, nếu không CISG vẫn
được áp dụng vì Việt Nam là một nước thành viên. Và như vậy là, CISG thực ra
không hề tiêu trừ quyền chọn luật của các bên. Ưu tiên đầu tiên trong thứ tự chọn
luật áp dụng vẫn dành cho nguyên tắc đó. Đây là ý nghĩa cốt lõi của Điều 6 của
CISG. Mặc dù điều này cũng có thể được bắt nguồn từ việc giải thích một điều
khoản không rõ ràng loại trừ CISG, các bên cũng được thông báo rõ ràng về vấn
đề này.
Thực tiễn giải quyết tranh chấp trong mua bán hàng hoá quốc tế cho thấy
50Có 6 bản án được báo cáo cho UNCITRAL công nhận thỏa thuận chọn luật của quốc gia không phải là thành viên CISG được xem là thỏa thuận loại bỏ hoàn toàn Công ước Viên một cách ngầm định. Xem: Bernard Audit (2012), “The International Sale of Goods”, UNCITRAL, 2012 edition.
có thể xảy ra trường hợp cần xác định có áp dụng CISG hay không khi các bên
55
hợp đồng đến từ các nước thành viên CISG nhưng đã viện dẫn tới việc áp dụng
pháp luật của nước khác là thành viên CISG. Đây là trường hợp xảy ra đối với các
bên tranh chấp đến từ Canada và Italia. Theo vụ việc này, vào năm 1991 một
công ty của Canada đã kí hợp đồng mua bán hàng hoá với công ty của Italy.
Trong hợp đồng các bên đã thỏa thuận “luật áp dụng với các điều kiện bán hàng
là luật của Pháp”. Trên thực tế, CISG có hiệu lực ở Pháp và ở Italy từ ngày 01
tháng 01 năm 1988 nhưng có hiệu lực tại Canada vào ngày 01tháng 05 năm 1992
tức là sau ngày kí kết hợp đồng nói trên. Như vậy, nếu căn cứ vào điểm a khoản 1
Điều 1 thì CISG sẽ không áp dụng nhưng nếu dựa vào điểm b khoản 1 Điều 1 thì
CISG có thể áp dụng. Tuy nhiên, trong hợp đồng các bên đã thoả thuận áp dụng
luật của Pháp. Do đó, câu hỏi được đặt ra là sự thỏa thuận này có phải là cơ sở để
khẳng định rằng các bên trong hợp đồng đã sử dụng Điều 6 CISG nhằm loại trừ
việc áp dụng Công ước này hay không? Về vấn đề này, nhiều ý kiến cho rằng
“việc dẫn chiếu chung đến một nội luật nào đó không nên hiểu là một loại trừ
ngầm việc áp dụng Công ước”. Đối với vụ việc trên đây, sau khi xem xét, phân
tích và đánh giá, Hội đồng trọng tài xét xử vụ việc này đã quyết định cùng với
luật của Pháp, CISG cũng được áp dụng để xử lí tranh chấp này.
2.4.2.1. Opting out ngầm định
Trong thực tế không hiếm trường hợp các bên chỉ lựa chọn cơ quan giải
quyết tranh chấp mà không lựa chọn pháp luật áp dụng cho hợp đồng của mình.
Khi tranh chấp xảy ra và được giải quyết trước tòa án, một bên lập luận rằng thỏa
thuận lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp tại tòa án nước A hàm nghĩa lựa
chọn pháp luật của nước A áp dụng cho hợp đồng, còn bên kia phản đối. Câu hỏi
đặt ra đó là “Thỏa thuận lựa chọn tòa án của một Quốc gia cụ thể thì có đồng
nghĩa với việc các bên đã lựa chọn pháp luật của Quốc gia đó hay chưa?” Đây
cũng là một vấn đề được tranh luận rất nhiều trong lĩnh vực chọn luật áp dụng
trong hợp đồng thương mại quốc tế. Nó xoay quanh việc liệu có thể xem thỏa
thuận chọn tòa án của các bên là sự thỏa thuận ngầm để loại bỏ hoàn toàn CISG
bằng cách chọn lex fori (luật của nước tòa án) làm luật điều chỉnh hợp đồng hay
không. Trên bình diện quốc gia, một nghiên cứu so sánh (Ngô Quốc Chiến, 2018,
56
tr. 209) cho biết tư pháp quốc tế của nhiều nước không có quy định cho trường
hợp này. Trên bình diện quốc tế, một số văn kiện quốc tế đã tìm cách giải quyết
vấn đề này. Cụ thể, Công ước Liên Mỹ về luật áp dụng cho hợp đồng quốc tế năm 199451 giải quyết vấn đề này. Cụ thể, Điều 7 Công ước này quy định: “[…] Sự
lựa chọn cơ quan giải quyết tranh chấp không nhất thiết đồng nghĩa với sự lựa
chọn pháp luật áp dụng”. Bộ Nguyên tắc La Hay năm 2015 về thỏa thuận lựa
chọn pháp luật áp dụng đối với hợp đồng thương mại quốc tế cũng không coi thỏa
thuận trao thẩm quyền cho tòa án hoặc trọng tài tương đương với việc chọn pháp
luật áp dụng cho hợp đồng. Cụ thể, Điều 4 Bộ Nguyên tắc quy định: “[…] Thỏa
thuận giữa các bên về cơ quan giải quyết tranh chấp là tòa án quốc gia hay trọng
tài tự bản thân nó không tương đương với thỏa thuận lựa chọn pháp luật áp
dụng”. Nói cách khác, thỏa thuận chọn tòa án không liên quan đến việc lựa chọn
hay loại bỏ ngầm định CISG. Trong khi đó, các bản án của CISG (như Quyết định
số 166 trong Tập án lệ của UNCITRAL- Quyết định ngày 21/3, 21/6/1996 của
Tòa trọng tài thuộc Phòng thương mại Hamburg, Đức) vẫn ủng hộ hướng cho
phép việc loại bỏ ngầm định CISG bằng một thỏa thuận chọn tòa án nhưng phải
đáp ứng 2 điều kiện như sau: (i) Phải có ý định rõ ràng của các bên chọn nội luật
của quốc gia nơi có tòa án để điều chỉnh hợp đồng giữa họ và (ii) Tòa án được các
bên trao thẩm quyền giải quyết tranh chấp không được đặt tại một quốc gia thành
viên của CISG. Chỉ khi hội đủ cả hai điều kiện này thì thỏa thuận lựa chọn cơ
quan giải quyết tranh chấp mới đồng nghĩa với việc loại bỏ áp dụng CISG.
Nhiều tòa án và trọng tài đã công nhận việc các bên được phép loại bỏ
hoàn toàn CISG một cách ngầm định. Điển hình, Phòng dân sự số 1 Tòa án tối cao Pháp52, trong vụ người mua (Pháp) kiện người bán (Scotland - Vương quốc
Anh) về hợp đồng mua bán giấy, đã nhận định như sau: “như vậy, Công ước này
bắt buộc thẩm phán Pháp phải áp dụng Công ước này trừ trường hợp bị loại bỏ
theo Điều 6, được giải thích theo hướng cho phép các bên loại bỏ một cách ngầm
51Còn được gọi tắt là Công ước Mêhico 1994, vì được ký tại thành phố này năm 1994. 52Tòa Dân sự 1, Tòa tối cao Pháp, ngày 26 tháng 6 năm 2001, số vụ việc: 99-16118.
định bằng việc không viện dẫn Công ước này trước thẩm phán Pháp…”.
57
Đồng quan điểm với Tòa tối cao Pháp, Tòa tối cao Áo, trong quyết định
ngày 22/10/2001 liên quan đến vụ người bán (Hungari) kiện người mua (Áo) về
hợp đồng cung cấp xăng và khí đốt. Hungari và Áo là 2 quốc gia thành viên
CISG. Tòa tối cao Áo cũng ghi nhận quyền loại bỏ ngầm định của các bên trong
hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế khi lập luận: “Trong trường hợp CISG được
áp dụng, các bên nếu không đồng ý thì có thể thỏa thuận loại bỏ một cách thích hợp, việc loại bỏ có thể được quy định rõ ràng hoặc ngầm định…”53.
Chúng ta thấy rằng việc loại bỏ một cách ngầm định hiệu lực áp dụng của
CISG theo Điều 6 đã được công nhận rộng rãi, tuy nhiên thỏa thuận không phải
được tiến hành một cách tự do mà không chịu bất cứ hạn chế nào. Khi nghiên cứu
các bản án của tòa án nước ngoài cũng như phán quyết của trọng tài thương mại
quốc tế, tác giả nhận thấy nguyên tắc chung được rút ra là việc loại bỏ tuy có thể
được thực hiện một cách ngầm định nhưng phải đủ rõ ràng. Vậy như thế nào là đủ
rõ ràng, chúng ta lần lượt xem xét các điều kiện tương ứng với các trường hợp: (i)
Thỏa thuận chọn pháp luật quốc gia; (ii) Thỏa thuận chọn tập quán thương mại
quốc tế; (iii) Thỏa thuận chọn tòa án; (iv) Thông qua hành động của các bên.
Ý định rõ ràng theo điều kiện (i) có thể được thể hiện thông qua một điều
khoản trong hợp đồng hay có thể được suy ra từ hành động của các bên theo Điều
8 CISG, trong đó phải xem xét đến mọi tình tiết liên quan, kể cả các đàm phán,
thói quen mà các bên đã thiết lập với nhau, các tập quán và mọi hành vi sau đó
của các bên. Còn trong trường hợp tòa án đặt tại quốc gia thành viên CISG, mặc
dù các bên có thỏa thuận rõ ràng chọn nội luật của quốc gia nơi có tòa án thì
CISG vẫn được áp dụng do không thỏa mãn điều kiện (ii). Điều này cho phép rút
ra kết luận rằng nếu các bên muốn thỏa thuận chọn Tòa án trở thành sự loại bỏ
ngầm định CISG theo Điều 6 thì phải đáp ứng điều kiện khắt khe hơn so với
trường hợp chọn pháp luật quốc gia nêu trên. Như vậy, tốt nhất các bên trong hợp
53Quyết định của Tòa án Oberster Gerichtshof số Ob 77/01g. Tại ttp://www.unilex.info/case.cfm?id=764 ngày 5/8/2018
đồng thương mại quốc tế không nên cố gắng loại bỏ CISG thông qua thỏa thuận
58
chọn tòa án (forum) vì nó chứa đựng nhiều rủi ro hơn so với việc loại bỏ CISG
thông qua thỏa thuận chọn pháp luật quốc gia.
Trong thực tiễn giao dịch thương mại quốc tế, các bên có thể thỏa thuận áp
dụng tập quán thương mại quốc tế để điều chỉnh quan hệ hợp đồng. Tuy nhiên,
việc lựa chọn áp dụng các tập quán thương mại quốc tế (ví dụ Incoterms của
Phòng Thương mại quốc tế - ICC) có thể loại bỏ ngầm định CISG hay không?
Trong thực tế, khi các bên không có thỏa thuận về nguồn luật bổ sung cho
CISG, việc lựa chọn các nguồn luật này có sự khác nhau giữa tòa án và trọng tài.
Tòa án thường có xu hướng ưu tiên áp dụng luật quốc gia có mối liên hệ chặt chẽ
nhất với tranh chấp (ví dụ luật của nước nơi người bán/người mua có trụ sở
thương mại). Ngược lại, trọng tài quốc tế thường ưu tiên áp dụng các quy tắc và
tập quán thương mại đã phát triển và được thừa nhận rộng rãi trong cộng đồng
kinh doanh quốc tế như PICC hoặc PECL.
Từ một số vụ việc cụ thể như: Tòa án Tribunale di Padova (Italy) trong Quyết định ngày 11/01/200554 đã nhận định thỏa thuận của các bên chọn “luật và
các quy định của Phòng thương mại quốc tế - ICC” trong điều khoản chọn luật áp
dụng (electio juris) không được xem như sự loại bỏ một cách ngầm định CISG
bởi lẽ các bên trong hợp đồng thương mại quốc tế có quyền tự do chọn luật nhưng
phải chọn luật quốc gia. Tòa tối cao Áo, trong quyết định ngày 22/10/2001 nêu
trên (liên quan đến vụ người bán Hungari kiện người mua Áo về hợp đồng cung
cấp xăng và khí đốt) cũng không công nhận thỏa thuận chọn Incoterms của các
bên trong hợp đồng chính là sự loại bỏ ngầm định CISG.
Thực tế là những điều kiện cơ sở giao hàng của Incoterms điều chỉnh một
số vấn đề về giao nhận, vận chuyển và bảo hiểm, chuyển rủi ro. Trong khi những
vấn đề như giao hàng và chuyển rủi ro cũng được CISG điều chỉnh, nhưng mức
độ cụ thể và tinh tế không bằng Incoterms; và vì vậy các bên thường ưu tiên lựa
http://www.unilex.info/dynasite.cfm?dssid=2376&dsmid=13356&x=1
(truy
cập
ngày
54 Xem: 23/11/2018).
chọn các điều kiện Incoterms. Trong những trường hợp đó, các điều khoản
59
Incoterms được chọn sẽ chiếm ưu thế so với các quy định liên quan của CISG.
Incoterms lúc đó thường được tích hợp vào hợp đồng như là một phần của hợp
đồng, và vì vậy sẽ được ưu tiên áp dụng so với CISG (theo quy định tại Điều 6
CISG). Hoặc là incoterms được sử dụng như tập quán thương mại và cũng được
áp dụng ưu tiên so với CISG (theo quy định tại Điều 9(2) CISG).
Ngoài Incoterms, Bộ nguyên tắc Unidroit về hợp đồng thương mại quốc tế
(PICC) cũng có thể được áp dụng kết hợp với CISG. Tuy nhiên CISG lại chiếm
ưu thế so với PICC. Thực ra, PICC có mức độ bao trùm cho các vấn đề về hợp
đồng cao hơn CISG. PICC có quy định cho khá nhiều vấn đề mà CISG không
điều chỉnh như: hiệu lực của hợp đồng, giải thích hợp đồng hay quyền đại diện.
Nếu một hợp đồng có quy định rằng, hợp đồng của họ sẽ chịu sự điều chỉnh của
CISG, Incoterms và PICC, thứ tự ưu tiên áp dụng sẽ là Incoterms rồi đến CISG
sau cùng là PICC. Và sự kết hợp điều chỉnh hợp đồng của cả ba công cụ trên là
hoàn toàn khả thi và hợp lý.
Trong thực tế, khi các bên có thỏa thuận lựa chọn tập quán thương mại
quốc tế để giải quyết tranh chấp như: trong vụ tranh chấp Geneva
Pharmaceuticals Technology Corp v. Barr Laboratories, Inc.29, người mua New
Jersey đã kiện người bán Canada với lý do vi phạm hợp đồng. Tuy nhiên, bị đơn
khẳng định rằng hợp đồng vô hiệu do không đáp ứng nghĩa vụ đối ứng
(consideration-vốn là một trong những điều kiện hiệu lực của hợp đồng theo pháp
luật Mỹ). Để giải quyết vấn đề này, Tòa án cho rằng: “Đối với vấn đề hiệu lực
của hợp đồng, CISG xem xét đến những quy định của pháp luật nội địa về vấn đề
vô hiệu hợp đồng hoặc không thể thực hiện được”. Sau khi Tòa án áp dụng
nguyên tắc xung đột luật, Tòa án xác định pháp luật New Jersey là luật áp dụng;
theo đó, nghĩa vụ đối ứng (consideration) ảnh hưởng đến hiệu lực hợp đồng nên
hợp đồng này bị tuyên vô hiệu.
Trong tranh chấp giữa người bán Đức (nguyên đơn) và người mua Áo (bị
đơn) liên quan đến thỏa thuận mua bán đá tối màu làm bia mộ, người mua sau khi
kiểm tra hàng, nhận thấy hàng hóa không phù hợp đã cầm giữ tiền, không thanh
60
toán cho người bán. Hợp đồng quy định: “người mua không có quyền cầm giữ
tiền (ngưng thanh toán) ngay cả khi hàng không phù hợp”. Người mua cho rằng
điều khoản này trong hợp đồng vô hiệu, còn người bán cho rằng điều khoản này
có hiệu lực. Áp dụng Điều 4 (a) CISG, Tòa án cho rằng hiệu lực của điều khoản
này được điều chỉnh bởi pháp luật của Đức: theo luật Đức, điều khoản này có
hiệu lực đối với hai bên.
Tóm lại, các tập quán thương mại quốc tế như Incoterms, UCP…chỉ có giá
trị khi các bên thỏa thuận lựa chọn và thường được áp dụng bổ sung. Các tập
quán này chỉ điều chỉnh một số vấn đề trong hợp đồng chứ không toàn diện như
CISG. Do đó, việc thỏa thuận áp dụng các tập quán thương mại quốc tế không thể
được xem là một trường hợp loại bỏ hoàn toàn CISG theo Điều 6. Hơn nữa, các
bên hoàn toàn có thể chọn tập quán thương mại quốc tế như Incoterms để điều
chỉnh một vài điều khoản trong hợp đồng như chuyển rủi ro, nghĩa vụ thuê người
vận chuyển, nghĩa vụ thông quan…và đó là trường hợp làm trái hoặc sửa đổi các
điều khoản của CISG chứ không phải là loại trừ hoàn toàn CISG.
2.4.2.3. Opting out sau khi ký kết hợp đồng
Liên quan đến loại trừ CISG sau khi ký kết hợp đồng phải đáp ứng các quy
định tại Điều 11, 14-24 và điều 6 CISG. Giá trị áp dụng ban đầu của CISG không
xuất phát từ “ý chí của các bên” vì CISG đã được áp dụng theo quy định tại Điều
1.1. Khả năng áp dụng tiếp theo của CISG có thể bị thay đổi bởi sự thỏa thuận
của các bên. Trong trường hợp này, thỏa thuận loại trừ CISG được xác định dựa
trên thỏa thuận thay đổi luật áp dụng cho hợp đồng theo đúng quy định tại các
Điều 6, 11, 14-24 và 29 CISG. Mục đích của các bên về việc loại trừ CISG phải
được xác định phù hợp với Điều 8 CISG về nguyên tắc giải thích các tuyên bố
hay các xử sự khác của các bên của hợp đồng. Mục đích như vậy nên được thể
hiện rõ ràng, cho dù tại thời điểm kết thúc hợp đồng hoặc bất kỳ thời điểm nào
sau đó. Ví dụ Phán quyết trọng tài thương mại Serbia về việc người bán Serbia đã
bán sản phẩm nông nghiệp cho người mua Bosnia. Thỏa thuận trọng tài có trong
điều khoản trọng tài tại Điều 13 của Hợp đồng ngày 16 tháng 6 năm 2008, được
61
ký kết giữa các Bên với tranh chấp này quy định như sau: "Các Bên ký kết đồng ý
rằng các quy định của Luật Trọng tài của Cộng hòa Serbia cũng như Quy tắc của
Tòa án Trọng tài Ngoại thương gắn liền với Phòng Thương mại Serbia sẽ được
áp dụng đối với thủ tục trước FTCA, trong khi luật áp dụng của Cộng hòa Serbia
sẽ được áp dụng đối với nội dung tranh chấp. " Các Bên ký kết đã lựa chọn luật
của Cộng hòa Serbia để áp dụng cho vụ tranh chấp này, theo Điều 13 khoản 2 của
Hợp đồng. Điểm đáng quan tâm ở đây đó là tranh chấp phát sinh từ hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, các quy định liên quan của luật pháp Serbia trong lĩnh
vực này được bao gồm cả CISG mà Serbia là thành viên. Điều 1 (1) của Công
ước này quy định rằng Công ước áp dụng cho các hợp đồng bán hàng giữa các
bên có địa điểm kinh doanh ở các quốc gia khác nhau khi các quốc gia này là các
quốc gia thành viên. Do Công ước được áp dụng ở Bosnia và Herzegovina kể từ ngày 6 tháng 3 năm 199255. Tuy nhiên, thừa nhận nguyên tắc thỏa thuận, tự
nguyện tại Điều 6 CISG "các bên có thể loại trừ việc áp dụng Công ước này hoặc,
tùy theo Điều 12, vi phạm hoặc thay đổi hiệu lực của bất kỳ điều khoản nào của
nó". Nếu loại trừ là rõ ràng, hợp đồng bán hàng hóa quốc tế sẽ được điều chỉnh
bởi luật quốc gia một trong các bên, được áp dụng bởi các quy tắc xung đột pháp
luật. Trong vụ việc này, tòa trọng tài đã tổ chức cho các bên thỏa thuận lựa chọn
luật pháp của Serbia, một quốc gia thành viên, đã áp dụng CISG.
Tóm lại, quy định về phạm vi áp dụng của CISG rất mềm dẻo, các bên có
thể loại trừ việc áp dụng Công ước này hoặc loại trừ hoặc thay đổi hiệu lực của
bất kì điều khoản nào của Công ước. Có hai trường hợp loại trừ: đó là loại trừ
toàn bộ việc áp dụng Công ước hoặc loại trừ hiệu lực của một vài điều khoản
riêng lẽ của Công ước. Quyền loại trừ sự áp dụng của Công ước cho hợp đồng
của các bên là một quyền được thừa nhận trong Tư pháp quốc tế, thể hiện nguyên
tắc tự do hợp đồng. Việc loại trừ có thể được thực hiện trong quá trình ký kết, sau
khi ký kết thậm chí trong quá trình giải quyết tranh chấp của cơ quan tài phán
55 Xem thêm tại: www.uncitral.org/uncitral/en/uncitral_texts/sale_goods/1980CISG_status.html (truy cập ngày 23/11/2018).
miễn là đáp ứng được các quy định của Công ước.
62
CHƯƠNG 3. MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ ĐỐI VỚI VIỆT NAM KHI ÁP
DỤNG CÁC QUY ĐỊNH VỀ PHẠM VI ÁP DỤNG CỦA CISG
Các phân tích ở Chương 1 và Chương 2 đã cho thấy CISG đã có những ý
nghĩa tích cực về thống nhất luật thực chất, “có tính ảnh hưởng cao nhất trên toàn
cầu đối với luật thương mại xuyên quốc gia và trở thành văn kiện quốc tế thành
công nhất tính đến thời điểm hiện tại về luật mua bán hàng hóa quốc tế (Peter
Schlechtriem, 2005, tr. 781). Mặc dù vậy, Công ước Viên cũng có những điểm
hạn chế vì có “khá nhiều quy định mơ hồ và thỏa hiệp không phù hợp với lợi ích
thương mại” (Clayton Gillette and Robert Scott, 2005, tr. 446). Vì vậy, Việt Nam
cần chú ý tìm hiểu các quy định của Công ước một cách kỹ càng cũng như nghiên
cứu thực tiễn xét xử để thấy xác thực nhất sự thể hiện của Công ước trên thực tế.
3.1. Một số khuyến nghị chung
Trước hết, cần phải chú ý rằng Công ước Viên còn nhiều quy định chung
chung dẫn đến sự áp dụng không thống nhất. Các quy định về phạm vi áp dụng sử
dụng một số thuật ngữ chưa rõ ràng và không có hướng dẫn cụ thể kèm theo.
Nhìn theo hướng tích cực, điều này thể hiện sự mềm dẻo của CISG, nhưng trên
một góc độ khác CISG chưa thực sự là một bộ quy tắc minh bạch và rõ ràng các
nguyên tắc phổ quát về luật bán hàng hóa và như vậy đã làm phát sinh trên thực tế
việc các thẩm phán phát triển các định nghĩa khác nhau (Arthur Rosett, 1988, tr.
575).
Có thể nói sự linh hoạt sẽ giúp cho quy định của Công ước có thể thích
ứng được trong nhiều hoàn cảnh khác nhau. Nhưng cũng chính sự linh hoạt này
khiến cho thực tế áp dụng sẽ gây ra những kết quả khác nhau, hay nói cách khác, dù cùng một vấn đề nhưng quan điểm không nhất quán56. Sự khác nhau này sẽ
gây ra những sự bất lợi và khó đoán riêng. Một số người ủng hộ Công ước cũng
thể xem nội dung hai vụ
tranh chấp này
lượt
lần
56 Ví dụ về quyết định không nhất quán giữa các cơ quan tài phán như trong hai vụ tranh chấp VIII ZR 159/94 và 93/4126. Có tại: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/950308g3.html và https://cisgw3.law.pace.edu/cases/950913f1.html (truy cập ngày 23/11/ 2018).
tỏ ra e ngại khi một số thẩm phán giải thích Công ước nhưng áp dụng các phương
63
pháp từ chính quốc gia của họ vì tính chất quen thuộc (Nicholas Whittington,
2005, tr. 809) thay vì cố gắng áp dụng các nguyên tắc chung của Công ước hay
các quy tắc của luật tư. Chính vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức lưu
ý những nội dung này, để có thể áp dụng một cách thông minh linh hoạt. Bên
cạnh đó cũng cần chú ý những cụm từ mang tính chất khá chung. Không có tiêu
chí rõ ràng cụ thể nào để xác định giải thích các cụm từ đó, cách duy nhất là Việt
Nam nên tìm hiểu các phán quyết khác nhau của các cơ quan tài phán khác nhau.
Có thể thấy, không phải mọi vấn đề liên quan đến hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế đều thuộc phạm vi điều chỉnh của Công ước. Hơn nữa, điều quan
trọng là Công ước Viên chưa có các quy phạm điều chỉnh các vấn đề pháp lý mới
phát sinh trong thương mại quốc tế. Công ước Viên không điều chỉnh hết các khía
cạnh của hoạt động mua bán hàng hóa quốc tế cũng như chưa cập nhật các quy
phạm pháp luật điều chỉnh những vấn đề pháp lý mới. Công ước hiện tại cũng
chưa có các quy định về một số vấn đề pháp lý như chuyển giao hợp đồng hay về
vấn đề ủy quyền. Điều này có thể lý giải bởi việc ra đời đã mấy chục năm của
Công ước, việc không thể dự liệu hết được những thay đổi và biến chuyển trong
tương lai là dễ hiểu. Việc sửa đổi Công ước Viên lại không thể nhanh chóng và dễ
dàng thực hiện do cần sự phê chuẩn cũng như tán thành của tất cả các thành viên
ký kết. Vì vậy, khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà xuất hiện các
vấn đề pháp lý mới, các doanh nghiệp cần chú ý thỏa thuận lựa chọn nguồn luật
bổ sung.
Bên cạnh đó, Việt Nam cần đặc biệt lưu ý đến một số quốc gia là đối tác
kinh tế quan trọng chưa tham gia Công ước hay Công ước Viên tỏ ra chưa được
đánh giá cao. Điển hình phải kể đến là tại Hoa Kỳ, một quốc gia lớn và thực hiện
tương đối nhiều các giao dịch thương mại quốc tế với Việt Nam, nhưng CISG
chưa thể hiện được sự hiệu quả cũng như thực tế không được áp dụng nhiều tại
64 quốc gia này57. Điều đáng quan tâm thứ hai là các quốc gia trong khu vực
ASEAN, số nước gia nhập ít hơn rất nhiều so với số lượng chưa gia nhập.
3.2. Khuyến nghị về phạm vi áp dụng CISG theo đối tượng
3.2.1. Về hàng hóa không thuộc phạm vi điều chỉnh của CISG
CISG tuy đã liệt kê khá rõ ràng những trường hợp hàng hóa không chịu sự
điều chỉnh của Công ước nhưng vẫn rất cần phải lưu ý để tránh nhầm lẫn một số
trường hợp.
Trước tiên, cần lưu ý tài sản để được coi là hàng hóa theo tinh thần của
CISG thì phải là các tài sản hữu hình và có khả năng di chuyển được. Tuy vậy,
một số cơ quan tài phán cho rằng một phần mềm tiêu chuẩn vẫn được coi là hàng
hóa, chỉ trừ trường hợp phần mềm chỉ sản xuất phục vụ yêu cầu của riêng cá nhân
mới không được coi là hàng hóa. Thực tiễn xét xử cho thấy quan điểm của các cơ
quan tài phán về vấn đề liệu phần mềm máy tính là dịch vụ hay hàng hóa vẫn
chưa thống nhất. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam cần hết sức lưu ý điều này.
Ngoài ra cần lưu ý là việc xác định hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
mua bán có được CISG điều chỉnh hay không phải dựa trên mục đích của mua
bán chứ không phải chủ thể mua bán. Ví dụ: Giám đốc công ty X mua máy in của
công ty Y nhưng để dùng với mục đích cá nhân tại nhà riêng thì không thuộc
phạm vi điều chỉnh của CISG. Ngược lại, cá nhân A làm việc cho công ty X mua
máy tính của công ty Y nhưng để sử dụng cho công ty X thì thuộc phạm vi điều
chỉnh của CISG.
Cuối cùng, cần lưu ý CISG quy định hàng hóa không điều chỉnh là tàu
thủy, máy bay, một số loại phương tiện đặc biệt khác. Tuy nhiên, những bộ phận
thành phần tách rời riêng lẻ của chúng, hay những vật dụng này khi đã bị loại bỏ
do hết công dụng và có thể trở thành phế liệu thì có thể trở thành đối tượng thuộc
phạm vi điều chỉnh của CISG. Ngoài ra, tiền tệ không phải là đối tượng được
57http://www.trungtamwto.vn/vandedacbiet/cong-uoc-vien/nhung-diem-bat-cap-cua-cong-uoc-vien-1980- ma-viet-nam-can-luu-y-0 (truy cập ngày 23/11/2018).
CISG điều chỉnh nhưng trường hợp tiền được sử dụng theo một đặc tính hoặc
65
mục đích khác như để lưu niệm mà không phải giá trị thật của nó, và được mua
bán dựa trên đặc tính đó cũng có thể được CISG điều chỉnh.
3.2.2. Về một số nội dung bị CISG loại trừ
CISG điều chỉnh các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, nhưng không
phải mọi vấn đề pháp lý liên quan đến hợp đồng đều được CISG điều chỉnh. Nói
cách khác, một số khía cạnh không được CISG điều chỉnh, như tính hiệu lực của
hợp đồng, trách nhiệm sản phẩm…Vì vậy, ngoài việc xem xét khả năng áp dụng
CISG các bên còn nên tính đến việc lựa chọn một nguồn luật bổ sung cho CISG.
Nguồn luật bổ sung khá đa dạng, từ luật trong nước đến các tập quán quốc tế. Tùy
theo nội dung và bản chất của hợp đồng mà các bên có thể thỏa thuận lựa chọn
nguồn luật thích hợp nhất. Các doanh nghiệp Việt Nam không nên hiểu rằng hợp
đồng đã được CISG là có thể giải quyết được mọi vấn đề, mà trái lại, cần phải chủ
động tìm hiểu kỹ càng và có sự chuẩn bị cho việc áp dụng các nguồn luật bổ
sung.
3.2.3. Về khái niệm hợp đồng mua bán hàng hóa
Việc xác định một hợp đồng có phải là hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tế để có thể thuộc phạm vi chịu điều chỉnh của CISG hay không phải được tiến
hành dựa trên các tình tiết cụ thể, trong đó phải tính đến các khái niệm như “phần
lớn”, “cần thiết cho”. Các vụ tranh chấp đã được phân tích ở Chương 2 cho thấy
để xác định bên mua có cung cấp phần lớn nguyên liệu cần thiết hay không, tiêu
chí xác định có thể dựa trên định lượng giá trị kinh tế hoặc dựa vào tính thiết yếu,
cơ bản của nguyên liệu. Tuy nhiên, tiêu chí định lượng sẽ đặt lên hàng đầu, chỉ
khi trong trường hợp cụ thể, tiêu chí này tỏ ra không hữu hiệu, mới xét đến tính
cơ bản của nguyên liệu. Bên cạnh đó, để xác định yếu tố “phần lớn” dựa theo việc
định lượng, thông thường sẽ so sánh hai giá trị và quy về một con số phần trăm cụ
thể, nhưng con số này không được sử dụng chung cho mọi trường hợp. Cần xét
theo tình tiết hoàn cảnh cụ thể. Do vậy, doanh nghiệp Việt Nam cần tham khảo
cũng như tìm hiểu thêm nhiều tranh chấp, phân tích nhiều luận án liên quan để có
thể tự bảo vệ tốt nhất cho mình. Tòa án Việt Nam cũng đặc biệt lưu ý đến các vụ
66
việc liên quan đến vấn đề này, để trên thực tế nếu có xét xử sẽ đưa ra được những
quyết định đúng đắn công bằng nhất đối với những hợp đồng mua bán hàng hóa
quốc tế.
Khi tham gia ký kết một hợp đồng gồm cả hoạt động mua bán hàng hóa
cũng như kèm theo những công việc cung ứng dịch vụ, cần phải chú ý xem hợp
đồng hỗn hợp này có được coi là hợp đồng mua bán hàng hóa hay không. Để tăng
tính an toàn pháp lý, trong những hợp đồng này, các doanh nghiệp có thể thỏa
thuận rõ ràng trong hợp đồng như thêm phần phụ lục quy định chi tiết rõ ràng về
các nghĩa vụ liên quan đến mua bán hàng hóa và cung cấp dịch vụ, từ đó sẽ đưa ra
định lượng giá trị kinh tế cụ thể. Khi xảy ra tranh chấp, đó sẽ là cơ sở để cơ quan
tài phán có thể xác định được đó là hợp đồng gì và liệu CISG có được áp dụng
hay không.
3.3. Khuyến nghị về phạm vi áp dụng CISG theo lãnh thổ
3.3.1. Về tính quốc tế của hợp đồng mua bán
CISG xác định tính quốc tế của hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế dựa
trên tiêu chí trụ sở thương mại của các bên ở các Quốc gia khác nhau. Đây là quy
định khá khác biệt so với pháp luật Việt Nam. Cụ thể, Luật thương mại sử dụng
tiêu chí sự dịch chuyển qua biên giới của hàng hóa là đối tượng của hợp đồng
mua bán, trong khi Bộ luật Dân sự năm 2015 sử dụng nhiều tiêu chí hơn, đó là
quốc tịch của các bên tham gia hợp đồng; nơi xác lập, thực hiện, thay đổi, chấm
dứt hợp đồng ở nước ngoài; đối tượng của hợp đồng ở nước ngoài (Điều 663).
Việt Nam không bảo lưu điều 1 (1) (b), nên nếu một hợp đồng được ký kết
giữa một doanh nghiệp có trụ sở tại Việt Nam và một doanh nghiệp có trụ sở tại
một quốc gia chưa phải là thành viên thì sẽ có hai trường hợp CISG được áp
dụng. Trường hợp thứ nhất là khi trong hợp đồng không có sự quy định về luật áp
dụng, và theo quy tắc tư pháp quốc tế của nước có tòa án dẫn chiếu đến pháp luật
Việt Nam thì CISG được áp dụng. Trường hợp thứ hai hai bên thỏa thuận trong
hợp đồng luật áp dụng là luật Việt Nam và khi đó các cơ quan tài phán có khuynh
hướng áp dụng CISG. Trường hợp doanh nghiệp có trụ sở tại Việt Nam ký kết
67
hợp đồng với một bên có trụ sở tại Quốc gia X không phải là thành viên và các
bên lựa chọn pháp luật của Quốc gia X thì CISG sẽ không được áp dụng.
3.3.2. Về bảo lưu theo Điều 92 và Điều 93
Khi ký kết hợp đồng mua bán hàng hóa với những Quốc gia đã là thành
viên của Công ước Viên, thì điều này không có nghĩa là hợp đồng sẽ được điều
chỉnh bởi CISG. Các doanh nghiệp Việt Nam cần lưu ý tìm hiểu xem những Quốc
gia đó có thực hiện bảo lưu nào theo Điều 92 hay Điều 93 hay không. Đối với
phần được bảo lưu theo Điều 92, thì CISG không được áp dụng theo quy định tại
Điều 1 (1) (a). Liên quan đến bảo lưu theo Điều 93, cần lưu ý những Quốc gia
tuyên bố chỉ áp dụng CISG đối với một số đơn vị lãnh thổ nhất định, do đó khi ký
kết hợp đồng với các bên có trụ sở kinh doanh đặt tại những vùng lãnh thổ không
được điều chỉnh bởi CISG, thì Công ước này sẽ không được áp dụng theo nguyên
tắc quy định tại Điều 1 (1) (a). Đặc biệt, có thể những nước liên bang sẽ thực hiện
bảo lưu này nên cần lưu ý. Bên cạnh đó là những vùng lãnh thổ đặc biệt như
Hong Kong, Ma Cao, Đài Loan cần lưu ý là thực tế có những quan điểm khác
nhau xoay quanh vấn đề liệu có coi những vùng lãnh thổ này như quốc gia thành
viên hay không. Do đó, khi ký kết hợp đồng với một bên có trụ sở tại các vùng
lãnh thổ này, nên quy định rõ ràng luật áp dụng, đặc biệt khi muốn luật áp dụng là
CISG.
3.3.3. Về lựa chọn tùy nghi
Trong trường hợp doanh nghiệp Việt Nam ký kết hợp đồng với doanh
nghiệp có trụ sở tại Quốc gia X cũng là thành viên của CISG thì khi đó CISG sẽ
được tự động áp dụng. Trong trường hợp này, nếu không muốn áp dụng CISG thì
các bên phải thỏa thuận loại trừ áp dụng CISG bằng một điều khoản loại trừ rõ
ràng CISG. Ví dụ các bên muốn lựa chọn pháp luật nước X để áp dụng cho hợp
đồng của mình thì không nên chỉ nêu chung rằng “Hợp đồng này chịu sự điều
chỉnh của nước X”, bởi nước X cũng là thành viên của CISG nên CISG sẽ vẫn
được áp dụng. Vì vậy, trong trường hợp này, các bên nên quy định rõ trong hợp
đồng rằng “Hợp đồng này không chịu sự điều chỉnh của Công ước Viên năm
68
1980 của Liên hợp quốc về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế mà chịu sự điều
chỉnh của pháp luật quốc gia của nước X”.
Trường hợp các bên lựa chọn tập quán thương mại mà không phải luật
quốc gia, thì cần lưu ý rằng các cơ quan tài phán hiện nay vẫn chưa có quan điểm
thống nhất, và vẫn có quan điểm cho rằng việc lựa chọn tập quán thương mại
không ảnh hưởng đến khả năng áp dụng của CISG. Vì vậy, nếu muốn lựa chọn
tập quán và pháp luật quốc gia áp dụng cho hợp đồng thì các bên cần thỏa thuận
loại trừ CISG.
Các cơ quan tài phán Việt Nam khi xét xử tranh chấp liên quan đến vấn đề
loại trừ Công ước, cần lưu ý tìm hiểu để có thể xác định được ý định của các bên,
đồng thời cần nghiên cứu kỹ các điều khoản loại trừ Công ước, ví dụ như Điều 6.
Bên cạnh đó, khi các bên tự thỏa thuận luật áp dụng, các cơ quan tranh chấp cần
áp dụng các quy tắc tư pháp quốc tế để quyết định xem có chấp nhận sự lựa chọn
đó không.
69
KẾT LUẬN
Công ước Viên năm 1980 của Liên Hợp Quốc về hợp đồng mua bán hàng
hóa quốc tế được soạn thảo bởi Ủy ban của Liên Hợp Quốc về Luật thương mại
quốc tế là một nỗ lực thành công nhất về thống nhất nguồn luật áp dụng cho hợp
đồng mua bán hàng hóa quốc tế. Là một trong những công ước quốc tế về thương
mại được phê chuẩn và áp dụng rộng rãi nhất hiện nay với 89 thành viên, CISG
điều chỉnh khoảng 3/4 giao dịch thương mại quốc tế. Việt Nam đã gia nhập CISG
và Công ước này đã có hiệu lực đối với Việt Nam từ 01/01/2017. Kể từ thời điểm
này, các hợp đồng mua bán hàng hóa giữa doanh nghiệp có trụ sở tại Việt Nam
với một doanh nghiệp khác có trụ sở tại một quốc gia thành viên của Công ước thì
Công ước có thể sẽ được áp dụng, trừ trường hợp các bên thỏa thuận khác.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá các quy định về phạm vi áp dụng của CISG
cũng như đối chiếu, so sánh với thực tiễn xét xử, có thể kết luận rằng các quy
định này còn khá chung chung nên khó áp dụng và làm phát sinh khá nhiều tranh
chấp. Trong bối cảnh đó, việc nghiên cứu các án lệ, các giải thích của Ủy ban tư
vấn CISG là rất cần thiết để hiểu rõ các quy định này.
Đối với Việt Nam, với tư cách là thành viên của CISG, liên quan đến vấn
đề xác định phạm vi áp dụng của chính Công ước này, theo tác giả cần lưu ý một
số điểm như sau: Xét về phạm vi áp dụng theo không gian, Khái niệm “mua bán
hàng hoá quốc tế” theo pháp luật Việt Nam chưa tương thích với CISG. Việt Nam
cần xây dựng, sửa đổi hệ thống khái niệm “mua bán hàng hoá”, “mua bán hàng
hoá quốc tế” và “hợp đồng mua bán hàng hoá quốc tế” của Luật thương mại năm
2005 sao cho tương thích với các quy định của CISG, thay vì căn cứ vào điều
kiện dịch chuyển hàng hoá qua biên giới (xuất khẩu, nhập khẩu) như quy định tại
khoản 1 Điều 27 Luật thương mại năm 2005 như hiện nay. Việc xác định phạm vi
áp dụng dựa trên đối tượng của hợp đồng mua bán hàng hóa, cơ quan nhà nước có
thẩm quyền cần nghiên cứu kỹ nội dung, kinh nghiệm xét xử tại các nước. Trên
cơ sở đó, xác định phạm vi áp dụng của CISG rộng nhất có thể góp phần bảo đảm
an toàn pháp lý cho các bên trong giao dịch thương mại quốc tế.
70
Căn cứ vào phạm vi áp dụng theo đối tượng, tác giả cho rằng khi ký kết
các hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế nên thỏa thuận rõ ràng trong hợp đồng
hoặc trong phụ lục hợp đồng về giá trị của từng nghĩa vụ cụ thể. Như vậy sẽ đảm
bảo được nghĩa vụ chứng minh khi có tranh chấp xảy ra và cũng giúp tòa án xác
định được phạm vi áp dụng CISG một cách chính xác dựa trên tiêu chí định lượng
giá trị kinh tế của nguyên liệu hay của các phần nghĩa vụ mang tính chất dịch vụ.
Và cuối cùng, để tận dụng tối đa những lợi thế mà CISG mang lại, Việt
Nam cần đẩy mạnh hơn nữa việc nghiên cứu, phổ biến nội dung Công ước cho
các doanh nghiệp Việt Nam, đặc biệt là các quy định về phạm vi áp dụng và
không áp dụng CISG./.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Tài liệu bằng tiếng Việt
1. Nông Quốc Bình, Phạm vi áp dụng và không áp dụng của Công ước Viên
1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Luật học số 10/2011.
2. Ngô Quốc Chiến, Luật tư pháp quốc tế: Hướng đến xây dựng một mô hình
lập pháp ở Việt Nam, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội tháng 1/2018.
3. Nguyễn Minh Hằng (Chủ biên), 101 Câu hỏi đáp về Công ước của Liên Hợp
Quốc về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế, Nhà xuất bản Thanh niên,
2016
4. Võ Sỹ Mạnh, Áp dụng điều 19 Công ước Viên với các giao dịch mua bán
hàng hóa quốc tế có sử dụng điều khoản soạn sẵn, Tạp chí Kinh tế đối ngoại,
số 41 năm 2010.
5. Nguyễn Thị Hồng Trinh,Phạm vi áp dụng của Công ước CISG cho hợp đồng
mua bán hàng hóa quốc tế, Tạp chí Tòa án nhân dân điện tử năm 2018, tại
địa chỉ: https://tapchitoaan.vn/bai-viet/phap-luat/pham-vi-ap-dung-cua-cong-
uoc-cisg-cho-hop-dong-mua-ban-hang-hoa-quoc-te (truy cập ngày
19/11/2018).
6. Trường Đại học Ngoại thương và Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, 101
câu hỏi đáp về Công ước Viên 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc
tếnăm 2016, tại địa chỉ: http://viac.vn/an-pham/101-cau-hoi-dap-ve-cong-
uoc-cua-lien-hop-quoc-ve-hop-dong-mua-ban-hang-hoa-quoc-te-(cisg)-
a627.html (truy cập ngày 19/11/2018).
7. Ủy ban Đối ngoại Quốc hội Việt Nam, Báo cáo nghiên cứu khả năng Việt
Nam gia nhập Công ước Viên 1980 về Hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế
(CISG) năm 2015, tại địa
chỉ:http://quochoi.vn/uybandoingoai/content/tulieu/Lists/Tulieu/Attachments/
11/Bao%20cao%20tong%20hop%20ket%20qua%20nghien%20cuu%20Con
g%20uoc%20Vien%201980%20(final).pdf (truy cập ngày 19/11/2018).
Tài liệu bằng tiếng nước ngoài
8. Arthur Rosett, CSIG laid Bare: A Lucid Guide to a Muddy Code, Cornell
International Law Journal 1988.
9. Clayton P. Gillette , Steven D. Walt, The UN Convention on Contracts for
the International Sale of Goods: Theory and Practice,Cambridge University
Press, 2016, doi:10.1017/CBO9781316570364.003.
10. Clayton Gillette and Robert Scott,The Political Economy of International
Sales Law, International Review of Law and Economics,Vol 1/2005.
11. CISG Advisory Council Opinion No. 10, Agreed Sums Payable upon Breach
of an Obligation in CISG Contracts,tại địa
chỉ: http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/CISG-AC-op10.html (truy cập ngày
19/11/2018).
12. Franco Ferrari, Contracts for the International Sale of Goods: Applicability
and Applications of the 1980 United Nations Convention, Martinus Nijhoff
Publishers 2011.
13. Franco Ferrari, Specific Topics of the CISG in the Light of Judicial
Application and Scholarly Writing, Journal of Law and Commerce (1995) 1-
126, tại địa chỉ: https://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/2ferrari.html (truy
cập ngày 19/11/2018).
14. Frank Diedrich, Maintaining Uniformity in International Uniform Law Via
Autonomous Interpretation: Software Contracts and the CISG, 1996, 8 Pace
International L. Rev (1996) 303-338,tại địa
chỉ: https://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/Diedrich.html (truy cập ngày
19/11/2018)
15. Hans van Houtte, ICC Model Contracts, Journal of International Business
Law, số 3/2003.
16. Jacob Ziegel, The CISG: A New Textbook for Students and Practitioners,
Sellier European Law Pub 2007.
17. Jelena Perovi,Selected Critical Issues Regarding the Sphere of Application of
the CISG”, Belgrade Law Review, Year LIX (2011) số 3, tr. 181-195. Có thể
xem được tại: http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/perovic.html (truy
cập ngày 19/11/2018).
18. Joseph Lookofsky,Understanding the CISG in the USA 4th Edition, Kluwer
Law International 2012.
19. Martin Karollus, Judicial Interpretation and Application of the CISG in
Germany 1988-1994, Cornell Review of the Convention on Contracts for the
International Sale of Goods, (1995) 51-94. Có thể xem được
tại: https://cisgw3.law.pace.edu/cisg/wais/db/editorial/karollus940118g1.html
(truy cập ngày 19/11/2018)
20. Minh Hang Nguyen, La convention de Vienne de 1980 sur la vente
internationale de marchandises et le droit vietnamien de la vente” (Công
ước Viên năm 1980 về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế và pháp luật Việt
Nam về hợp đồng mua bán hàng hóa quốc tế), luận án tiến sỹ luật học, ĐH
François-Rabelais de Tours, mars 2009.
Arbitration case no 7660, 23/8/1994,tại địa 21. ICC
chỉ: http://cisgw3.law.pace.edu/cases/947660i1.html (truy cập ngày
19/11/2018).
22. International Chamber of Commerce,Model International Sale Contract- Manufactured Goods Intended for Resale, ICC Publication no 556, 1997
edition.
23. Model International Sale Contract- Manufactured Goods Intended for Resale,
ICC Publication No. 556, 1997 Edition.
24. Nguyen Trung Nam, Future of Harmonisation and Unification in Contract
Law Regarding "Battle of Forms", University of the West of England 2009,
68 p. Có thể xem được
tại:http://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/nam.html(truy cập ngày
19/11/2018).
25. Nicholas Whittington, Comment on Professor Schwenzer’s Paper, 36
Victoria University of Wellington Law Review 2005, tại địa
chỉ: https://heinonline.org/HOL/LandingPage?handle=hein.journals/vuwlr36
&div=44&id=&page=(truy cập ngày 19/11/2018).
26. Peter Henseler,The application in the contracting states of the United
Nations Convention on Contracts for the International Sale of Goods
(CISG), Henseler & Partners Duesseldorf/Germany 2007, tại địa
chỉ: http://www.hp-
legal.com/images/stories/aktuelles/cisg_application.pdf(truy cập ngày
19/11/2018).
27. Peter Schlechtriem, Requirements of Application and Sphere of Applicability
of the CISG, Victoria University of Wellington Law Review 2005.
28. Peter Schlechtriem, Uniform Sales Law - The UN-Convention on Contracts
for the International Sale of Goods, Nxb Manz, Vienna 1986m, tại địa
chỉ: https://www.cisg.law.pace.edu/cisg/biblio/schlechtriem.html (truy cập
ngày 19/11/2018).
Selected problems concerning the CISG’ Scope of 29. Stefan Kröll,
application,2009tại địa
chỉ: https://www.uncitral.org/pdf/english/CISG25/Kroll.pdf (truy cập ngày
19/11/2018).