T
P CHÍ KHOA HC
TRƯ
NG ĐI HC SƯ PHM TP H CHÍ MINH
Tp 21, S 2 (2024): 230-244
HO CHI MINH CITY UNIVERSITY OF EDUCATION
JOURNAL OF SCIENCE
Vol. 21, No. 2 (2024): 230-244
ISSN:
2734-9918
Websit
e: https://journal.hcmue.edu.vn https://doi.org/10.54607/hcmue.js.21.2.4030(2024)
230
i báo nghiên cứu1
MỘT PHÂN CH TRI THỨC LUẬN LỊCH SỬ HÀM SỐ
Nguyễn Ái Quốc*, Đỗ Dương Anh Thảo
Trường Đại học Sài Gòn, Việt Nam
*Tác gi liên h: Nguyn Ái Quc Email: naquoc@sgu.edu.vn
Ngày nhận bài: 24-11-2023; ngày nhận bài sửa: 02-02-2024; ngày duyệt đăng: 21-02-2024
TÓM TẮT
Bài báo này trình bày một tổng hợp phân tích tri thức luận lịch sử bổ sung một số kết quả
mới về quá trình hình thành và phát triển của hàm số; xác định các quan niệm ảnh hưởng lên quá
trình phát triển và các đặc trưng tri thức luận của hàm số. Nghiên cứu được thực hiện bằng phương
pháp phân tích tri thức luận lịch sử tn các i liệu về lịch sử của Giảich và Hàm số thực. Kết quả
phân tích tri thức luận lịch sử cho thấy hàm số phát triển trong 6 giai đoạn bao gồm thời Cổ đại,
thời kì Trung đại đến cuối thế k XV, thi kì Phục Hưng, thế kỉ XVII, thế kXIX, và từ thế kXX đến
nay; các quan niệm hình học, đại số, giải tích, mêtric, tôpô, shọc a giải tích đã ảnh hưởng mạnh
mẽ lên quá trình hình thành và phát triển của hàm số. Ngoài ra, chướng ngại tri thức luận lịch sử
của hàm số là sự phân biệt giữa định nghĩa và biểu diễn của hàm số. Kết quả nghiên cứu góp phần
cho phân tích tri thức luận lịch sử toán học và làm sở cho các nghiên cứu về những trở ngại của
học sinh và sinh viên khi tiếp cận khái niệm hàm số.
Từ khóa: biểu thức giải tích; hàm số; định nghĩa m số; phân ch tri thức luận lịch sử;
chướng ngại
1. Giới thiệu
Hàm số được sử dụng trong mọi nhánh của toán học, như các phép toán đại số trên số,
các phép biến đổi trên các điểm trong mặt phẳng hoặc trong không gian, giao điểm hợp
của các cặp tập hợp… Hàm số là sự thống nhất khái niệm trong toán học. Mối quan hệ giữa
các hiện tượng trong đời sống hằng ngày, chẳng hạn như mối quan hệ giữa tốc độ của ô
quãng đường đã đi các hàm số theo thời gian. Khái niệm hàm số có một vai trò quan
trọng trong chương trình giảng dạy toán học trường. Khái niệm hàm số hiện diện xuyên
suốt trong chương trình giáo dục phổ thông môn toán từ bậc tiểu học cho đến trung học phổ
thông, nhưng dưới nhiều hình thức khác nhau từ ngầm ẩn cho đến tường minh. Klein
cộng sự quan niệm rằng cần phải đặt khái niệm hàm số vào vị trí trung tâm của việc giảng
dạy (Klein et al., 2016) bởi vì, trong tất cả các khái niệm toán học của hai thế kỉ XVIII
XIX, khái niệm này đóng vai trò chủ đạo bất cnơi nào duy toán học được sử dụng.
Những định hướng chương trình giảng dạy gần đây nhất nhn mnh rõ ràng tầm quan trọng
Cite this article as: Nguyen Ai Quoc, & Do Duong Anh Thao (2024). An historical Epistemological analysis
of function. Ho Chi Minh City University of Education Journal of Science, 21(2), 230-244.
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM
Tập 21, Số 2 (2024): 230-244
231
của hàm số (National Council of Teachers of Mathematics, 1989). Tùy thuộc vào quan điểm
toán học thống trị, khái niệm hàm số thể được xem xét theo nhiều cách khác nhau, mỗi
cách có những hàm ý giáo dục khác nhau.
Ponte (1992) xem xét một số khía cạnh nổi bật hơn trong lịch sử của khái niệm m
số, xem xét mối quan hệ của nó với các ngành khoa học khác và thảo luận về việc sử dụng
trong nghiên cứu các tình huống trong thế giới thực. Luận án của Burnett-Bradshaw
(2007) khám phá các quy trình reification encapsulation2 khi chúng áp dụng cho khái
niệm hàm và cố gắng xác định cách cả hai quy trình góp phần giải thích sự hình thành khái
niệm m số. Theo Burnett-Bradshaw, quy trình reification về bản một quy trình ba
bước gồm chủ quan hóa, cô đọng hóa và cụ thể hóa. Trong quy trình ba bước này,
đầu tiên phải có một quy trình được thực hiện trên các đối ợng đã quen thuộc, sau đó ý tưởng
biến quy trình này thành một tổng thể chặt chẽ, nhỏ gọn và khép kín n sẽ xuất hiện và cuối
cùng phải được khả năng coi thực thể mới này như một đối tượng nh viễn theo đúng nghĩa
của nó. (Sfard, 1992, p.64).
Mặt khác, quy trình encapsulation về bản một kiểu trừu tượng phản ánh (ch
quan hóa, phối hợp, đóng gói, khái quát a và đảo ngược) trong đó một hành động được áp
dụng cho một quy trình để thay đổi nó thành một đối tượng và do đó được đóng gói. Rogers
Pope (2016) giới thiệu khám phá sự phát triển của các ý tưởng toán học trong quá trình
hình thành khái niệm hàm số (Rogers & Pope, 2016). Mendes (2021) nghiên cứu nhận thức
luận-lịch s về sự sáng tạo toán học, nhằm mục đích tả các phương thức của các giai
đoạn sáng tạo này, tập trung vào sự phát triển của phép nh vi phân khái niệm hàm số.
Theo Sierpinska (1987), chướng ngại tri thức luận liên quan đến việc học hàm số là
khái niệm về giới hạn. Murillo Lopez (2008) đưa ra một ví dụ khác về chướng ngại tri thức
luận: khái niệm hàm số ngược. Theo Parmentier (1989) Chauvat (1999), khái niệm đưng
cong là một trngại tri thức luận đối với khái niệm hàm số. Theo họ, đường cong một trở
ngại vì thực sự là kiến thức hữu ích để giải các bài toán hình học. Trong một số trường
hợp nhất định, đường cong còn giúp giải bài toán liên quan đến hàm số khi chúng ta tìm giao
điểm giữa hai đường phương trình. Theo Janvier (1998), một chướng ngại tri thc luận khác
liên quan đến khái niệm hàm số khái niệm thời gian như một biến số. Theo Sierpinska
(1992), việc xác định các biến số là một yếu tố có thể gây ra những chướng ngại về tri thức
luận nhiều học sinh không thấy được tầm quan trọng của việc phân biệt biến nào phụ
thuộc và biến nào là độc lập.
2. Phương pháp nghiên cứu
2.1. Nghiên cứu tri thức luận lịch sử
Phương pháp nghiên cứu tri thức luận lịch sử được sử dụng để phân tích các i liệu
trong ngoài nước về lịch sử của Giải tích nói chung hàm số nói riêng để làm sáng tỏ
quá trình hình thành và phát triển của hàm số. Trong đó, làm rõ nguyên nhân ra đời của hàm
2 Tạm dịch lần lượt là Quy trình vật chất hóa Quy trình đóng gói.
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM
Nguyễn Ái Quốc và tgk
232
số, c quan niệm ảnh hưởng n quá trình nh thành phát triển của hàm số; xác định
chướng ngại cho quá trình phát triển của hàm số, và các đặc trưng tri thức luận của hàm số.
Mt phânch tri thc lun lịch sử hàm số, hay phân tích tri thức luận hàm số là nhằm
c đnh nguyên nhân và c quan niệm ảnh hưởng lên quá trình hình thành phát triển;
c đặc trưng tri thức luận của hàm số, cho phép làm cơ sở cho phân tích các trở ngại và sai
lm của người học khi tiếp cận hàm số theo quan điểm didactic Toán. Đó cũng là mc đích
ca nghiên cu trình bày trong i viết này.
2.2. Cơ chế hoạt động và các hình thức thể hiện của khái niệm
Theo Douady (1984,1986), một khái niệm toán học có ba cơ chế hoạt động: Công cụ
tường minh, trong đó khái niệm được chủ thể sử dụng, thể trình bày giải thích việc sử
dụng; Công cụ ngầm ẩn, trong đó khái niệm được chủ thể sử dụng ngầm ẩn, nhưng không
thể trình bày giải thích việc sử dụng chúng; Đối tượng nghiên cứu, trong đó khái niệm
được chủ thể nghiên cứu (được định nghĩa, được khai thác các tính chất…).
Theo Chevallard (1991), một khái niệm toán học thể th hiện dưới ba hình thức:
Khái niệm tiền toán học (protomathématique), trong đó khái niệm không tên, không được
định nghĩa, hoạt động như một công cụ ngầm n; Khái niệm gần toán (paramathématique),
trong đó khái niệm tên, không được định nghĩa, công cụ được vận dụng để giải quyết
vấn đề; Khái niệm toán học, trong đó khái niệm tên, được định nghĩa, vừa đối tượng
nghiên cứu, vừa là công cụ được vận dụng để giải quyết vấn đ.
3. Kết quả và thảo luận
3.1. Phân tích tri thức luận lịch sử hàm s
Tổng quan các giai đoạn phát triển của lịch sử hàm số
Khi khám phá lch s v s hình thành và phát trin ca hàm s xuyên sut t thi c
đại đến nay, trước tiên khái nim hàm s được hiu thông qua toán hc hiện đại và thc ra
không có trong toán hc c đại ca nời Babylon và người Hi Lp. Th hai, kh năng xuất
hin khái nim hàm s như một mi quan h ph thuc sau đó mi quan h gia các
đại ng khác nhau. Th ba, s xut hin ca khái nim hàm s thông qua các biu din kí
hiệu và đồ th. Th tư, có s đấu tranh trong vic đnh nghĩa thuật ng hàm s t quan điểm
đại s sang vic định nghĩa từ quan đim da trên thuyết tp hp. Cui cùng, các nhà toán
hc thiết lp mt định nghĩa ở dng tng quát: “Mt hàm f : S T bao gm hai tp hp S
T cùng vi mt “quy tc” gán cho mi x S vi mt phn t c th ca T, hiu là f
(x)”, được gi là định nghĩa Dirichlet-Bourbaki (Marsden & Hoffman, 1993, p. 3).
Thi c đại (2000 TCN – 1299): Hàm s ngm ẩn dưới dng bng s và lưng giác
Khái nim hàm s có t 4000 năm đến khong 2000 năm trưc Công nguyên, tuy
nhiên, không phi tt c 4000 m đó đều đáng đưc ghi nhn. O’Connor và Robertson
(2005) khám phá nhng đóng góp toán học của người Babylon và người Hi Lp c đại đi
vi s phát trin ca khái nim hàm s và nhn mnh hai đim chính. Trưc tiên, toán hc
của ngưi Babylon (khong 1700 TCN) rt phong phú v các bng, chng hạn như “bảng
bình phương của các s t nhiên, lập phương của các s t nhiên, các nghch đo ca các s
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM
Tập 21, Số 2 (2024): 230-244
233
t nhiên và bng các b 3 s Pythagore…”. Nhng bng này chc chn xác đnh các hàm t
tp hp N đến N, nhưng không có dấu hiu nào cho thy ni Babylon đang làm bt c điu
gì khác ngoài vic ghi li nhng phát hin ca h, không tìm kiếm bt kì loi mi quan h nào
gia các s bình phương hoặc lp phương ca chúng. Th hai, Ptolemy (khong năm 150),
người đã đóng góp cho toán học ca ni Hi Lạp, đã khảo sát và tính toán dây cung ca
mt đưng tròn, mà ngày nay có th đưc coi liên quan đến khái nim m ng giác.
Tuy nhiên, điều này không nghĩa Ptolemy bất kì kiến thc thc s o v các hàm
ng giác, hoc thm chí v khái nim hàm s (O’Connor & Robertson, 2005). Do đó,
v như các ý tưng toán hc của 3300 năm đầu tiên ch ging vi quan nim hin ti ca
chúng ta v khái niệm hàm khi nhìn qua lăng kính của toán hc hiện đại.
Như vy, trong thi kì này, khái nim hàm s chưa có tên gọi hay định nghĩa. Do đó,
hình thc th hin ca hàm s trong giai đoạn này là tin toán hc, tc là không có tên, không
được định nghĩa. Nó chỉ xut hin như mt công c ngm n đ gii quyết các bài tn thuc
v thiên văn học, toán hc… Trong đó, vấn đề nghiên cu v s ph thuc đưc th hin
trên các bng s, cho biết mi liên h gia hai tp hp hu hn, ri rc. Yếu t đầu tiên ca
khái nim hàm s được ưu tiên đề cp là tính “ph thuc” gia hai đại lưng, mặc dù đặc
tính ph thuc này không xut hin tưng minh. Tương t, đc trưng tương ng và đc trưng
biến thiên ca các đi ng ch th hin mt cách ngm n. Như vy, khái nim “biến” yếu
t bn cu thành khái nim hàm s chưa xut hin. Hơn na, s ph thuc gia hai đi ng
ch đưc mô t i hình thc các bng s. Như vy, khái nim hàm s trong giai đon này có
các đc trưng tri thc lun là: khái nim tin toán hc, công c ngm n, biu din bng bng s.
Thi trung đại đến cui thế k XV (1300 – 1499): Mối quan hệ phụ thuộc
Thời Trung đại, có sự tiếp tục nghiên cứu về sự phụ thuộc giữa hai đại lượng, đặc biệt
các đại lượng liên quan tới chuyển động như: vận tốc, quãng đường, thời gian... Các
chuyển động này được nghiên cứu chủ yếu về mặt định tính bằng ch mô tả chiều biến thiên
nhưng không đi tới các quan hệ số lượng. Mặt định lượng được đề cập vào cuối thời bằng
cách tả vài giá trị tách rời của hiện tượng xu hướng che đậy mặt biến thiên liên tục.
Tính phụ thuộc giữa các đại ợng được mô tả bằng lời, nhưng chủ yếu bằng các bảng số hoặc
bằng hình học. Như vậy, thời này bắt đầu những nghiên cứu nét n về đặc trưng
biến thiên, biểu diễn bằng hình học. Điều này đánh dấu một bước tiến về khái niệm hàm số
với cách biến phụ thuộc. Tuy nhiên, bản thân thuật ngữ “biến thiênkhái niệm biến
chưa xuất hiện một cách ràng. Nicole Oresme (1323-1382) đã tiến gn hơn khái nim hàm
s vào năm 1353 trong một tác phẩm tựa đề Tractatus de configurationibus Qualitatum
et motum (Chuyên luận về Cấu hình của Đặc tính Chuyển động). Ông mô t “các quy lut
t nhiên là nhng quy lut đưa ra s ph thuc ca mt đing này vào mt đi lưng
khác” (O'Connor & Robertson, 2005). Điều đó đưc coi là đã thy tc và tiến gần đến
cách trình bày hin đi v khái nim hàm s do mi quan h ph thuc. Oresme đã phát trin
Tạp chí Khoa học Trường ĐHSP TPHCM
Nguyễn Ái Quốc và tgk
234
mt thuyết hình hc v các đ ca các hình dng th hin các mc đ v ng đ
v độ m rng khác nhau3.
Như vy, khái nim hàm s trong thi kì này chu ảnh hưởng ca quan nim hình hc;
có đặc trưng tri thức luận là đại ng biến độc lp, đại ng biến ph thuc, đ ha, tu t
(mô t bng li), mô hình hóa chuyn động, hình thc th hin tin tn hc, cơ chế hot
động là công c ngm n.
Thi kì Phục hưng (Thế k XVI – XVII)
Trong giai đoạn lch s t thế k XVI -XVII, vic gia tăng mạnh m nhng phép tính
toán hc và đc bit s ra đời ca các hiu ch đóng vai trò quyết định đối vi s phát
trin sau này ca lí thuyết các hàm s.
Công trình ca Oresme đưc ni tiếp bi công trình ca Galileo (1564-1642), trong đó
ông nghiên cu khái nim v chuyển động. Nghiên cu v chuyển động cho phép Galileo
nghiên cu mi quan h gia hai đại ng biến đổi (Malik, 1980), mà cũng có thể được
xem là có liên quan đến khái nim hàm s. Mt ln na, mt phn toán hc khác ca ông
cho thấy ông đã bắt đu nm bt đưc khái nim v ánh x gia các tp hợp như thế nào.
Năm 1638, ông nghiên cứu bài toán hai đường tròn đồng tâm tâm O, đường tròn ln A
đường kính gp đôi đường tròn nh B. Công thc quen thuc cho chu vi ca A gp đôi chu
vi ca B. Nhưng khi lấy bt kì đim P o trên đường tròn A thì PA ct đưng tròn B ti mt
điểm. Vì vậy Galileo đã xây dng mt ánh x biến mỗi điểm ca A thành mt đim ca B.
Tương tự, nếu Q là một điểm trên B tOQ cắt đường tròn A tại đúng một điểm. Mt ln
na, ông li có mt hàm s, ln này là t các đim ca B đến các đim ca A. Mc dù chu vi
ca A gấp đôi chiều dài chu vi ca B nhưng chúng cùng số đim. Ông cũng tạo ra s
tương ng 1-1 tiêu chun gia các s nguyên dương bình phương của chúng, điu này
(theo thut ng hiện đại) to ra s song ánh gia tp N và mt tp con thc s.
Như vậy, khái nim hàm s ra đời t vic gii quyết bài toán hai đường tròn đồng tâm
và bài toán chuyển động của Galileo. Trong giai đoạn này, khái nim hàm s đc trưng
tri thc lun là tính ph thuc, mô hình hóa hin tượng t nhiên, tu t (mô t bng li), ánh
xạ, tương ng 1-1; và vn còn chu ảnh hưởng ca quan nim hình hc, mặc dù đã có s thay
đổi quan nim t hình học sang đại s.
Gần như cùng thời đim Galileo ny ra nhng ý tưng v s ph thuc trong hàm s,
Descartes (1596-1650) đưa đại s vào hình hc trong La Géométrie (Hình hc). Descartes
đã phát biu rng một phương trình hai ẩn, đưc biu din v mt hình hc bng mt đưng
cong, biu th s ph thuc ln nhau gia hai đại ng biến thiên, c th là “Bng cách ly
lần lượt và vô hạn các đại lưng khác nhau đối vi đưng y ta cũng có vô hạn các đi ng
3 Rất lâu trước khi pháp tính vi tích phân xuất hiện, Nicole Oresme, đã phát triển cái mà ông gọi vĩ độ của
các hình dạng, là cách biểu diễn bằng đồ họa làm sáng tỏ mối liên hệ cơ bản giữa diện tích và cái mà ngày nay
chúng ta gọi là tích phân. Trong khóa học giải tích, vĩ độ của các hình dạng có thể được sử dụng để giới thiệu
ý tưởng về tích phân dưới dạng diện tích, đồng thời giới thiệu ý tưởng rằng quãng đường đi được là tích phân
của vận tốc (Theo Từ điển Cambridge).