LUẬN VĂN:
Phát triển nguồn lực con người
trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Hiện nay, cuộc cạnh tranh giữa các nước có nền kinh tế phát triển đang diễn ra
gay gắt. Trong cuộc cạnh tranh này, phần chiến thắng sẽ thuộc về quốc gia có nguồn lực
con người chất lượng cao, có khả năng sáng tạo và chiếm lĩnh đỉnh cao của tri thức khoa
học tiên tiến. Vì vậy, phát triển NLCN luôn được đặt ở vị trí trung tâm hàng đầu trong
chiến lược phát triển của nhiều quốc gia, nhất là những quốc gia đang tiến hành công
nghiệp hóa.
Quá trình phát triển kinh tế-xã hội nước ta diễn ra khi cuộc cách mạng khoa học-
công nghệ trên thế giới đã đạt tới đỉnh cao. Điều kiện lịch sử này cho phép chúng ta có
thể và cần phải vận dụng tiến bộ KH-CN để có cơ hội phát triển nhanh CNH, HĐH đất
nước theo con đường rút ngắn. Từ thực tế đó, khi bước vào thời kỳ CNH, HĐH, Đảng ta
xác định: “Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững” [17, tr.85]. Sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta không đơn giản chỉ là
công cuộc xây dựng kinh tế, mà chính là quá trình biến đổi sâu sắc trong mọi lĩnh vực
của đời sống xã hội, nhằm đưa xã hội phát triển lên một trạng thái mới về chất, do đó,
đòi hỏi phải có NLCN mạnh về số lượng, phát triển cao về chất lượng, thật sự là động
lực cho sự phát triển nhanh và bền vững. Từ nhận thức đó, Đảng ta khẳng định: “Nâng
cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn của con người Việt Nam là nhân tố
quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [17, tr.21]. Hiện nay,
phát triển NLCN, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng cao, đang là một trong những
hướng ưu tiên và là khâu đột phá để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và đổi
mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Bến Tre là tỉnh đồng bằng cuối nguồn sông Cửu Long, được hợp thành bởi ba cù
lao lớn. Trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm, người Bến Tre đã “Anh dũng Đồng
khởi, thắng Mỹ, diệt Ngụy”. Nhưng trong công cuộc xây dựng quê hương, mặc dù tiềm
năng kinh tế, xã hội có thể nói không thua kém các tỉnh bạn bao nhiêu, nhưng nhiều mặt
đời sống kinh tế, xã hội, văn hóa của Bến Tre vẫn chưa vươn lên ngang bằng với các
tỉnh trong khu vực. Nhận thức sâu sắc vấn đề này, Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ
tỉnh Bến Tre chỉ rõ: “Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế đối với tỉnh ta so với các tỉnh
trong khu vực đồng bằng sông Cửu Long là điều mà chúng ta quan tâm nhất” [22,
tr.44].
Trong những năm gần đây, nhờ biết khai thác thế mạnh kinh tế thuỷ sản và kinh
tế vườn, tốc độ tăng trưởng kinh tế của Bến Tre đã đạt mức tăng trưởng khá (giai đoạn
2000-2004, bình quân tăng 8,7%/năm). Tuy nhiên, so với các tỉnh trong khu vực và cả
nước, Bến Tre vẫn là tỉnh có tốc độ phát triển chậm, đặc biệt là quá trình CNH, HĐH
diễn ra với quy mô nhỏ bé và chậm chạp. Để khai thác có hiệu quả các tiềm năng, thế
mạnh của mình, gần đây, Bến Tre đã bắt đầu quan tâm phát triển NLCN của tỉnh và đã
đạt được những thành tựu quan trọng bước đầu. Nhưng đến nay, nhiều tiềm năng to lớn,
nhất là tiềm năng con người của Bến Tre, vẫn chưa được khai thác có hiệu quả và chưa
chuyển hóa thành nội lực cho sự phát triển nhanh và bền vững, chưa đáp ứng yêu cầu
thực tiễn của quá trình CNH, HĐH ở Bến Tre. Đây là một trong những nguyên nhân
chính cản trở sự phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Do đó, việc nghiên cứu khoa học
nhằm “Phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở tỉnh Bến Tre” là vấn đề đang đặt ra cấp thiết và có ý nghĩa thiết thực đối với tiến
trình phát triển của Bến Tre trong những năm tới.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, NLCN và phát triển NLCN là vấn đề đã được đề cập
nghiên cứu ở nhiều mức độ và góc độ khác nhau. Nhiều công trình đã nghiên cứu một
cách có hệ thống các vấn đề về NLCN, về GD-ĐT, về nâng cao chất lượng và sử dụng
có hiệu quả NLCN, đáng chú ý là những công trình sau:
- “Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa, hiện
đại hóa đất nước” do PTS. Mai Quốc Chánh chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1999. Cuốn sách đã phân tích vai trò của nguồn nhân lực và sự cần thiết phải nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực, từ đó đề xuất những giải pháp chủ yếu nhằm nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực nước ta đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH đất nước.
- “Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới và thực tiễn nước ta” của PGS.
Trần Văn Tùng, Lê Ái Lâm (Viện Kinh tế thế giới), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996.
Quyển sách đã giới thiệu khái quát về vai trò của nguồn nhân lực ở một số nước trên thế giới
dưới tác động của GD-ĐT, đồng thời nêu bật vai trò của GD-ĐT trong việc phát triển nguồn
nhân lực ở Việt Nam.
- “Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam”, của TS. Bùi Thị Ngọc
Lan, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002. Tác giả đã phân tích rõ vị trí, vai trò, chức
năng của nguồn lực trí tuệ - bộ phận trung tâm, làm nên chất lượng và sức mạnh ngày
càng tăng của NLCN và là tài sản vô giá của mỗi quốc gia, dân tộc và của toàn nhân
loại. Trên cơ sở đó, tác giả đưa ra những phương hướng và giải pháp chủ yếu nhằm phát
huy nguồn lực trí tuệ Việt Nam trong công cuộc đổi mới và xây dựng đất nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa.
- “Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam” của TS. Nguyễn Hữu
Dũng, Nxb Lao động-xã hội, Hà Nội, 2003. Tác giả đã trình bày có tính hệ thống một số
vấn đề lý luận và thực tiễn liên quan đến phát triển, phân bố, sử dụng NLCN trong phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN ở nước ta; đồng thời đề xuất các chính
sách và giải pháp nhằm phát triển, phân bố hợp lý và sử dụng có hiệu quả NLCN trong
phát triển kinh tế-xã hội ở nước ta.
Vấn đề con người và NLCN cũng là đề tài nghiên cứu của một số luận văn, luận
án, đáng chú ý như: Luận án tiến sĩ: “Nguồn lực con người trong quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước” của tác giả Đoàn Văn Khái (2000); Luận án tiến sĩ: “Phát huy
nguồn lực thanh niên trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam hiện nay”
của tác giả Nguyễn Thị Tú Oanh (1999); Luận văn thạc sĩ: “Phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay” của
tác giả Vũ Thị Phương Mai (2004)... Nhìn chung, các tác giả đã đi sâu nghiên cứu làm rõ
các vấn đề về NLCN, nguồn lực thanh niên, nguồn nhân lực chất lượng cao và vai trò của
những nguồn lực này trong sự nghiệp CNH, HĐH. Qua phân tích thực trạng, các tác giả đã
đề xuất nhiều giải pháp để phát huy, phát triển những nguồn lực này trong thời gian tới.
Ngoài ra, nhiều nhà khoa học, nhà quản lý đã có những công trình, bài viết về
vấn đề NLCN và đã được đăng tải trên các tạp chí, các kỷ yếu khoa học… Tuy nhiên,
cho đến nay, vẫn chưa có một công trình khoa học nào nghiên cứu trực tiếp về phát triển
NLCN ở tỉnh Bến Tre. Việc đánh giá đúng thực trạng NLCN làm cơ sở thực tiễn quan
trọng để tìm ra những phương hướng, giải pháp phát triển và sử dụng hữu hiệu NLCN
vẫn là một đề tài cần tiếp tục nghiên cứu, nhất là từ góc độ chính trị - xã hội và từ thực
tiễn của một tỉnh như Bến Tre.
3. Mục tiêu, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
Mục tiêu
Trên cơ sở làm rõ thực trạng NLCN của tỉnh Bến Tre và xu hướng vận động cơ
bản của nó, luận văn xây dựng hệ thống những quan điểm cơ bản và giải pháp chủ yếu
nhằm phát triển NLCN trong sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre trong thời gian tới.
Nhiệm vụ
- Làm rõ quan niệm về NLCN và tính tất yếu của việc phát triển NLCN trong
quá trình CNH, HĐH đất nước.
- Khảo sát và phân tích thực trạng NLCN và phát triển NLCN ở Bến Tre hiện
nay, trên cơ sở đó dự báo một số xu hướng vận động cơ bản của nguồn lực này trong
thời gian tới.
- Xây dựng hệ thống quan điểm và giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NLCN ở
Bến Tre trong thời kỳ CNH, HĐH.
Phạm vi nghiên cứu
Từ góc độ chính trị-xã hội, đề tài nghiên cứu quá trình phát triển NLCN ở tỉnh
Bến Tre từ năm 1996 đến nay và tập trung chủ yếu ở lực lượng lao động (hay dân số
hoạt động kinh tế thường xuyên) của tỉnh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Cơ sở lý luận của đề tài
Luận văn được triển khai dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; quan điểm cơ bản của Đảng và Nhà nước ta về con người và
NLCN, kết hợp với chủ trương, chính sách của Đảng bộ và Ủy ban nhân dân tỉnh Bến
Tre… về các vấn đề có liên quan đến đề tài. Ngoài ra, những công trình nghiên cứu gần
đây về vấn đề này được tác giả quan tâm, coi trọng nghiên cứu và kế thừa.
Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng phương pháp duy vật lịch sử, lôgic lịch sử, kết hợp với các
phương pháp khác như phân tích, tổng hợp, thống kê… để nghiên cứu vấn đề phát triển
NLCN ở tỉnh Bến Tre dưới góc độ chính trị - xã hội.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần làm rõ thực trạng NLCN và phát triển NLCN ở tỉnh Bến
Tre trong sự nghiệp CNH, HĐH hiện nay.
- Luận văn đề xuất một hệ thống những giải pháp chủ yếu nhằm phát triển NLCN
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong những năm tới.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ý nghĩa lý luận của luận văn
Những quan điểm, những kết luận và những kiến nghị của luận văn có thể được
sử dụng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu và giảng dạy về vấn đề NLCN nói
chung, cũng như vấn đề phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre nói riêng.
Ý nghĩa thực tiễn của luận văn
Những kết quả đạt được của luận văn có thể là cơ sở thực tiễn đáng tin cậy để
các cấp lãnh đạo, các ngành của tỉnh Bến Tre tham khảo trong quá trình hoạch định các
chủ trương, chính sách phát triển NLCN của tỉnh trong sự nghiệp CNH, HĐH.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 7 tiết.
Chương 1
NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP
CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC VÀ ĐẶC ĐIỂM CÔNG
NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH BẾN TRE
1.1. NGUỒN LỰC CON NGƯỜI VÀ TÍNH TẤT YẾU CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA ĐẤT NƯỚC
Tìm hiểu các công trình nghiên cứu gần đây cho thấy, quan niệm về NLCN khá
1.1.1. Quan niệm về nguồn lực con người và phát triển nguồn lực con người Quan niệm về nguồn lực con người “Nguồn lực con người” hay “nguồn nhân lực” là một khái niệm được hình thành trong quá trình nghiên cứu, xem xét nhân tố con người với tư cách là nguồn lực cơ bản thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Ngày nay, để phát triển nhanh và bền vững, bất cứ quốc gia nào cũng cần phải xác định đúng đắn và huy động có hiệu quả tất cả các nguồn lực. Những thành tựu to lớn mà loài người đạt được trong quá trình phát triển chính là do con người biết khơi dậy và phát huy tổng hợp các nguồn lực. Trong toàn bộ các nguồn lực của phát triển thì NLCN được xác định là quan trọng nhất, là nguồn lực của mọi nguồn lực. Trong vài thập kỷ trở lại đây, vấn đề NLCN đã trở thành mối quan tâm hàng đầu của nhiều quốc gia trên thế giới. Vì vậy, những nghiên cứu về NLCN đã đạt những thành tựu đáng kể, đưa lại những quan niệm ngày càng đầy đủ và đúng đắn về NLCN. đa dạng, được đề cập trên nhiều góc độ, theo nhiều nghĩa rộng, hẹp khác nhau.
Trong lý luận về lực lượng sản xuất, con người được coi là lực lượng sản xuất hàng đầu, là yếu tố quan trọng nhất, quyết định sự vận động và phát triển của lực lượng sản xuất, quyết định quá trình sản xuất và do đó, quyết định năng suất lao động và tiến bộ xã hội.
Trong lý luận về “vốn”, con người được đề cập đến như một loại vốn (“vốn
người”, “tư bản người”), một thành tố cơ bản, tất yếu của quá trình sản xuất và kinh
doanh. Từ cách tiếp cận này, Ngân hàng Thế giới cho rằng: NLCN được hiểu là toàn bộ
vốn người (thể lực, trí lực, kỹ năng nghề nghiệp) mà mỗi cá nhân sở hữu, có thể huy
động được trong quá trình sản xuất kinh doanh hay một hoạt động nào đó. Ở đây,
NLCN được coi như một nguồn vốn bên cạnh các loại vốn vật chất khác như tiền, tài
nguyên thiên nhiên… Đầu tư cho con người giữ vị trí trung tâm trong các loại đầu tư và
được coi là cơ sở chắc chắn cho sự phát triển bền vững.
Dựa trên cách tiếp cận này, Liên hợp quốc cho rằng NLCN là tất cả những kiến
thức, kỹ năng và năng lực của con người có quan hệ tới sự phát triển của đất nước.
NLCN ở đây được xem xét chủ yếu ở chất lượng con người và vai trò, sức mạnh của nó
đối với sự phát triển xã hội.
Ở nước ta khái niệm NLCN được sử dụng tương đối rộng rãi kể từ đầu thập niên
90 của thế kỷ XX. Tuy nhiên, trong Từ điển Bách khoa Việt Nam cũng như các Từ điển
Tiếng Việt chưa thấy đưa ra định nghĩa “Nguồn lực con người”. Dù vậy, các nhà khoa
học Việt Nam cũng đã đưa ra nhiều quan niệm khác nhau khi bàn về NLCN, về nguồn
nhân lực.
Giáo sư Viện sĩ TS. Phạm Minh Hạc cho rằng: “Nguồn lực con người là số dân
và chất lượng con người, bao gồm cả thể chất và tinh thần, sức khỏe và trí tuệ, năng lực
và phẩm chất” [25, tr.328]. Giáo sư TS. Hoàng Chí Bảo cũng cho rằng: “Nguồn lực con
người là sự kết hợp thể lực và trí lực, cho thấy khả năng sáng tạo, chất lượng hiệu quả
hoạt động và triển vọng mới phát triển của con người” [4, tr.14]. Ngoài thể lực và trí
lực, theo tác giả "cái làm nên nguồn lực con người là kinh nghiệm sống, đặc biệt là
những kinh nghiệm nếm trải trực tiếp của con người, là nhu cầu và thói quen vận dụng
tổng hợp tri thức và kinh nghiệm của mình, của cộng đồng vào việc tìm tòi, sáng tạo” [4,
tr.15]. Xét theo ý nghĩa đó, NLCN bao hàm trong đó toàn bộ sự phong phú, sự sâu sắc, đổi
mới thường xuyên các năng lực trí tuệ, năng lực thực hành, tổ chức và quản lý… Trong
quan niệm này, tác giả nhấn mạnh đến kết cấu bên trong của NLCN.
Trong lời phát biểu khai mạc Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương
Đảng (khóa VIII), nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười khẳng định:
Nguồn lực con người là quý báu nhất... Nguồn lực đó là người lao động có
trí tuệ cao, có tay nghề thành thạo, có phẩm chất tốt đẹp, được đào tạo, bồi
dưỡng và phát huy bởi một nền giáo dục tiên tiến gắn liền với một nền khoa học
công nghệ hiện đại [18, tr.9].
Quan niệm này nêu lên một cách toàn diện những yếu tố cần có của người lao
động với tư cách là nguồn lao động - nguồn lực quan trọng nhất của quốc gia.
Trong dịp gặp gỡ các nhà doanh nghiệp, các nhà KH-CN các tỉnh, thành phố
phía Bắc, Thủ tướng Phan Văn Khải đã khẳng định: “Nguồn lực con người bao gồm cả
sức lao động, trí tuệ và tinh thần gắn với truyền thống của dân tộc ta” [32, tr.2].
Từ một số cách tiếp cận và những nội dung đã dẫn trên, có thể hiểu: Nguồn lực
con người là phạm trù dùng để chỉ số dân, cơ cấu dân số, đặc biệt là chất lượng người
với tất cả những tiềm năng, năng lực và phẩm chất làm nên sức mạnh của nó trong sự
phát triển xã hội.
Với cách hiểu này, khái niệm “nguồn lực con người” có nội dung rộng, đề cập
đến những mặt cơ bản sau:
Thứ nhất, “nguồn lực con người” được biểu hiện ra là người lao động, là lực
lượng lao động (số người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động), là nguồn lao
động (đội ngũ lao động hiện có và sẽ có). Nói đến NLCN còn nói đến quy mô dân số và
tốc độ tăng dân số trong một thời kỳ nhất định của một quốc gia, một địa phương.
Thứ hai, “nguồn lực con người” phản ánh cơ cấu dân cư, nhất là cơ cấu lao động
trong các ngành, các lĩnh vực kinh tế…
Thứ ba, “nguồn lực con người” chủ yếu nói lên chất lượng dân số, đặc biệt là
chất lượng của lực lượng lao động trong hiện tại và tiềm năng trong tương lai.
Thứ tư, “nguồn lực con người” còn bao hàm cả sự liên hệ tác động lẫn nhau giữa
các yếu tố nội tại cấu thành nó cũng như sự tác động qua lại giữa NLCN với các nguồn
lực khác và với môi trường xung quanh. Đồng thời, nó còn nói lên sự biến đổi về số
lượng, chất lượng, cơ cấu dân cư và lực lượng lao động.
Thứ năm, “nguồn lực con người” còn chỉ ra rằng: con người được xem xét với tư
cách là một nguồn lực, nguồn lực nội tại, cơ bản trong hệ thống các nguồn lực của sự
phát triển xã hội. Sức mạnh của NLCN thể hiện ở sức mạnh của thể lực, trí lực, niềm
tin, ý chí… ở sự thống nhất biện chứng giữa sức mạnh vật chất và sức mạnh tinh thần,
của mỗi cá nhân và của cả cộng đồng, không chỉ có trong hiện tại mà còn ở dạng tiềm
năng.
Như vậy, nói đến NLCN và vai trò của nó phải xem xét con người với tư cách
vừa là chủ thể, vừa là khách thể của quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Là chủ thể bởi
con người khai thác, sử dụng các nguồn lực khác, hơn nữa còn tạo ra nguồn lực mới cho
sự tồn tại và phát triển xã hội. Là khách thể, con người trở thành đối tượng được khai
thác, cả về trí lực và thể lực cho mục tiêu phát triển xã hội. Với ý nghĩa đó, con người
vừa là chủ thể, vừa là khách thể, vừa là động lực, vừa là mục tiêu của các quá trình phát
triển kinh tế-xã hội.
Bên cạnh khái niệm “nguồn lực con người”, các khái niệm “nguồn nhân lực”,
“tài nguyên con người” cũng được sử dụng phổ biến. Theo một số tác giả thì đây là
những khái niệm đều được dịch từ cụm từ Human Resources. Theo TS. Đoàn Văn Khái
thì trong thực tế, khái niệm “nguồn nhân lực” ngoài nghĩa rộng được hiểu như “nguồn
lực con người”, thường còn hiểu theo nghĩa hẹp là nguồn lao động, có khi còn được
hiểu là lực lượng lao động. Khái niệm “tài nguyên con người” được sử dụng với ý nhấn
mạnh phương diện khách thể của con người, coi con người như một nguồn tài nguyên,
một loại của cải quý giá, cần được khai thác triệt để, hợp lý, có hiệu quả, nhất là nguồn
tiềm năng trí tuệ trong đó [10, tr.253].
Ngoài ra, còn có thể hiểu một cách đầy đủ hơn về NLCN thông qua việc tìm hiểu
mối quan hệ giữa NLCN với các nguồn lực khác và cấu trúc của nguồn lực này.
Mối quan hệ giữa nguồn lực con người với các nguồn lực khác
Trong mối quan hệ với các nguồn lực khác, NLCN được xem như nguồn lực cơ bản
và quyết định các nguồn lực khác cũng như quyết định đối với sự phát triển kinh tế-xã hội.
NLCN là nguồn lực của mọi nguồn lực.
Khẳng định vai trò quyết định của NLCN đối với sự phát triển kinh tế-xã hội,
điều đó không có nghĩa là tách NLCN một cách biệt lập với các nguồn lực khác. Ngược
lại, khi khẳng định NLCN đóng vai trò quyết định thì điều đó có nghĩa là đã đặt trên cơ
sở và trong mối quan hệ với các nguồn lực khác.
Sự phát triển nhanh chóng của mỗi quốc gia, dân tộc, nhất là sự thành công của quá
trình CNH, HĐH đòi hỏi ngoài môi trường chính trị ổn định, cần phải có nhiều nguồn lực.
Các nguồn lực như tài nguyên thiên nhiên, nguồn vốn, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý
thuận lợi… đều vô cùng quan trọng, thiếu chúng sẽ gặp rất nhiều khó khăn, gây ảnh hưởng
trực tiếp đến quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Song, các nguồn lực này dù phong phú, đa
dạng và giàu có đến mấy cũng chỉ tồn tại ở dạng tiềm năng và tự nó không thể phát huy tác
dụng. Chúng chỉ thực sự có ý nghĩa và phát huy tác dụng thông qua hoạt động có ý thức,
sáng tạo của con người, nghĩa là được con người sử dụng. Như vậy, chỉ có NLCN mới có
khả năng khởi động và phát huy tác dụng của các nguồn lực khác. Sở dĩ như vậy là vì con
người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và ý chí, biết cải tạo, lợi dụng, khai thác
các nguồn lực khác, gắn kết chúng lại với nhau tạo thành sức mạnh tổng hợp cùng phục vụ
cho nhu cầu, lợi ích của con người. Tất nhiên, quá trình đó phải phù hợp với quy luật khách
quan. Với ý nghĩa đó, con người trở thành yếu tố quan trọng nhất trong các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất, là "lực lượng sản xuất hàng đầu của toàn thể nhân loại"
[37,tr.430].
Hơn nữa, các nguồn lực khác đều là hữu hạn và dần dần sẽ bị cạn kiệt trong quá
trình khai thác và sử dụng, thậm chí nếu khai thác bừa bãi sẽ gây hậu quả nghiêm trọng,
đe doạ sự sống còn của loài người. Trong khi đó, NLCN mà bộ phận cốt lõi là trí tuệ, lại
có tiềm năng vô tận, không bao giờ bị cạn kiệt trong quá trình khai thác, sử dụng. Thậm
chí, nó còn có khả năng phục hồi và tái sinh, tự đổi mới, phát triển không ngừng nếu
biết chăm lo, bồi dưỡng và khai thác hợp lý.
Trong thời đại ngày nay, việc khẳng định vai trò quyết định của NLCN so với các
nguồn lực khác và xem nó là động lực quan trọng nhất thúc đẩy xã hội phát triển là hoàn
toàn đúng đắn. Tuy nhiên, sẽ là sai lầm nếu không thấy vai trò quan trọng của các nguồn
lực khác đối với sự phát triển NLCN. Điều đó có nghĩa là NLCN luôn bị quy định bởi các
nguồn lực khác. Bởi lẽ, con người là một thực thể tự nhiên - xã hội. Để tồn tại và phát triển,
con người phải quan hệ với tự nhiên, khai thác tài nguyên thiên nhiên, kết hợp với sức lao
động và trí tuệ của mình nhằm cải tạo tự nhiên tạo ra của cải vật chất nuôi sống con người.
Mặt khác, chính từ thực tiễn cuộc sống và hoạt động lao động sản xuất, con người không
ngừng phát triển trí tuệ cũng như hoàn thiện về thể chất. Như vậy, trong mối quan hệ với
các nguồn lực khác, NLCN giữ vai trò quyết định. Các nguồn lực khác chỉ phát huy tác
dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi được kết hợp với NLCN. Xét đến cùng, nếu thiếu sự
hiện diện của NLCN với trí tuệ và lao động của họ, thì mọi nguồn lực đều trở nên vô nghĩa,
thậm chí, khái niệm nguồn lực cũng không còn ý nghĩa.
Cấu trúc của nguồn lực con người
Việc xác định cấu trúc của NLCN là quá trình xem xét từng bộ phận cấu thành
NLCN theo một hệ thống chỉnh thể, từ đó phát hiện ra cơ cấu và mối quan hệ giữa
chúng tạo thành hệ thống, cấu trúc của NLCN.
Nói đến NLCN là nói đến số lượng và chất lượng con người, là sự kết hợp giữa
trí lực, thể lực, đạo đức và những năng lực, phẩm chất khác của con người như ý chí,
tình cảm… Mỗi yếu tố có vị trí và vai trò nhất định trong cấu trúc NLCN, song giữa
chúng có mối quan hệ gắn bó, tác động qua lại với nhau, tạo nên sự phát triển toàn diện
của NLCN.
Trước hết, NLCN được xem xét ở mặt số lượng. Số lượng NLCN chính là lực
lượng lao động và khả năng cung cấp sức lao động cho xã hội. Các chỉ số về số lượng
NLCN của một quốc gia, một địa phương được xác định trên qui mô dân số thông qua
số lượng dân cư, tốc độ tăng dân số, cơ cấu dân cư, cơ cấu lao động trong các ngành,
các khu vực kinh tế… Trong đó, số dân trong độ tuổi lao động là chỉ số phản ánh một
cách rõ nhất về số lượng NLCN. Số lượng NLCN đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển kinh tế-xã hội. Nếu số lượng không tương xứng với tốc độ phát triển (hoặc
thừa hoăc thiếu) đều tác động xấu tới sự phát triển kinh tế-xã hội.
Yếu tố quan trọng nhất trong NLCN của một quốc gia được thể hiện ở chất
lượng của nó. Trước đây, có lúc chúng ta hiểu NLCN có phần đơn giản, thường cho
rằng: có nguồn lao động dồi dào, người lao động cần cù, chịu khó, thông minh và sáng
tạo là có thể tạo ra nhiều của cải vật chất, tăng năng suất lao động xã hội. Từ thực tiễn
công cuộc xây dựng đất nước ở Việt Nam, cũng như sự phát triển nhanh chóng của cuộc
cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại cho thấy, sự dồi dào nguồn lao động và sự
cần cù của con người là yếu tố quan trọng nhưng chưa thể tạo nên động lực mạnh mẽ
thúc đẩy sự phát triển kinh tế-xã hội, nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH. Vì vậy, hiểu một
cách đúng đắn và toàn diện về NLCN, không chỉ nói đến mặt số lượng mà chủ yếu là
nhấn mạnh mặt chất lượng của nó. Đây mới là yếu tố quyết định, nói lên sức mạnh và
tiềm năng to lớn của NLCN trong phát triển. Chất lượng NLCN là một khái niệm tổng
hợp bao gồm những yếu tố về thể lực, trí lực, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật,
năng lực, phẩm chất, về tâm lý, đạo đức… của người lao động. Trong các yếu tố đó thì
phẩm chất đạo đức và trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật là quan trọng nhất, nó
phản ánh mức độ trưởng thành của con người. Có thể nói, chất lượng NLCN được phản
ánh ở hàm lượng trí tuệ kết tinh trong sản phẩm làm ra trong quá trình sản xuất và năng
suất lao động xã hội. Giữa số lượng và chất lượng của NLCN có quan hệ chặt chẽ với
nhau. Nếu số lượng nguồn nhân lực quá ít sẽ gây khó khăn cho quá trình phân công lao
động xã hội và do vậy chất lượng lao động sẽ bị hạn chế. Chất lượng NLCN nâng cao sẽ
góp phần làm giảm số lượng người lao động trong một đơn vị sản xuất, kinh doanh hay
trong một tổ chức xã hội, và như vậy là năng suất lao động xã hội sẽ được nâng cao.
Ngược lại, nguồn nhân lực đông nhưng không mạnh, chất lượng thấp, sẽ là gánh nặng
cho xã hội và kìm hãm xã hội phát triển.
Trong số các yếu tố làm nên chất lượng của NLCN, nguồn lực trí tuệ được xem
bộ phận sáng giá nhất, vì nó “bao gồm những tiềm năng, năng lực và tập hợp các giá trị
sáng tạo về tinh thần của mỗi cá nhân, của các tập thể, của các cộng đồng người… trong
một xã hội nhất định” và “có khả năng tạo ra sức mạnh tổng hợp của quá trình phát triển
tự nhiên, xã hội và bản thân con người” [33, tr.35]. Thực vậy, xét ở cả phương diện cá
thể cũng như xã hội, trí tuệ đóng vai trò trung tâm chỉ đạo mọi hành vi và quyết định
phần lớn khả năng sáng tạo của con người trong quá trình hoạt động thực tiễn cũng như
trong việc lựa chọn phương pháp, giải pháp thích hợp nhằm phát huy tác dụng của các
yếu tố khác trong cấu trúc NLCN.
Cuộc cách mạng KH-CN hiện nay đang đặt ra những yêu cầu rất cao ở trí tuệ của
con người - những người lao động. Họ không chỉ có khả năng tiếp thu tri thức mới, vận
dụng có hiệu quả vào sản xuất mà còn phải biết thường xuyên tự bổ sung, bồi dưỡng tri
thức để không bị lạc hậu trước sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng KH-CN.
Vì vậy, NLCN đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH phải bao gồm những người lao động có sự
phát triển cao về năng lực trí tuệ, đủ sức làm chủ và tiếp thu công nghệ mới, có khả
năng làm việc chủ động sáng tạo, có khả năng sử dụng các công cụ, phương tiện tiên
tiến, hiện đại. Nói cách khác, ngày nay tri thức trở thành yếu tố không thể thiếu của
người lao động.
Theo Tổng Bí thư Đỗ Mười: “Trí tuệ là tài sản quý giá nhất trong mọi tài sản,
nhưng chính sức khỏe là một tiền đề cần thiết để làm ra tài sản đó” [42, tr.92]. Thực
vậy, sức khỏe là vốn quý nhất của mỗi con người. Vì vậy, nói đến chất lượng NLCN,
ngoài trí tuệ, sức khỏe (thể lực) là yếu tố hết sức cần thiết. Sức khỏe là điều kiện để duy
trì và phát triển trí tuệ, là phương tiện để chuyển tải tri thức vào hoạt động thực tiễn,
biến tri thức thành sức mạnh vật chất.
Với tư cách là một yếu tố cấu thành NLCN, sức khỏe là sự phát triển hài hòa của
con người cả về thể chất lẫn tinh thần.Vì vậy, yếu tố này bao gồm sức khỏe cơ thể và
sức khỏe tinh thần. Sức khỏe cơ thể là sự cường tráng, phát triển cân đối hài hòa các cơ
quan trong cơ thể theo quy luật “tạo hóa” của tự nhiên, đồng thời, còn là sự hoạt động
dẻo dai của cơ bắp, sự nhạy bén của các giác quan. Các chỉ số sinh học biểu hiện trạng
thái sức khỏe thể chất của mỗi người như chiều cao, cân nặng, khả năng hoạt động của
cơ bắp, của các giác quan…
Tục ngữ Nga có câu: “Một tinh thần lành mạnh trong một cơ thể khoẻ mạnh”. Sự
khoẻ mạnh của cơ thể là tiền đề cho một tinh thần minh mẫn, sáng suốt. Sức khỏe tinh
thần là sự linh hoạt, khoẻ mạnh của hệ thống thần kinh, là sức mạnh của sự sáng tạo,
của niềm tin và ý chí. Như vậy, điều kiện vật chất để hoạt động trí tuệ của con người
nhạy bén, sâu sắc và hoạt động thực tiễn hiệu quả đó chính là sự khoẻ mạnh cả về thể
chất lẫn tinh thần. Chính vì vậy, chăm sóc sức khỏe cho con người là nhiệm vụ rất cơ
bản để nâng cao chất lượng NLCN, tạo tiền đề phát huy có hiệu quả tiềm năng trí tuệ
của con người.
Bên cạnh trí tuệ và sức khỏe, yếu tố góp phần quan trọng tạo ra chất lượng toàn
diện của NLCN chính là nhân cách. Xét ở phương diện cá thể, trong cấu trúc nhân cách
thì đạo đức và năng lực (đức và tài) là hai thành tố cốt yếu tạo nên nhân cách một con
người. Trong đó, đạo đức là cái gốc rất quan trọng, là cơ sở hình thành và phát triển thế
giới quan, nhân sinh quan của mỗi người. Đức là sự nỗ lực cống hiến to lớn cho xã hội,
là sự trung thành tận tuỵ với chế độ xã hội mà họ phục vụ, trách nhiệm công dân, lương
tâm nghề nghiệp của mỗi người… Đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH còn đòi hỏi ở người lao
động những phẩm chất lao động và nghề nghiệp như: kỷ luật tự giác, tinh thần hợp tác
và tác phong lao động công nghiệp, tiết kiệm nguyên liệu và thời gian… Tất cả những
phẩm chất này được sử dụng trong một tiêu chí tổng hợp là yếu tố văn hóa lao động
công nghiệp. Đây cũng được xem là một yếu tố quan trọng để đánh giá chất lượng
NLCN. Như vậy, nhân cách đạo đức cùng những phẩm chất lao động và nghề nghiệp
góp phần tạo nên chất lượng toàn diện của NLCN.
Việc xem xét cấu trúc NLCN một cách toàn diện gồm trí lực, thể lực và nhân cách
đã đặt ra yêu cầu đối với GD-ĐT là phải phát triển cân đối giữa dạy chữ - dạy nghề - dạy
người. Trong đó, dạy người phải xem là mục tiêu cuối cùng nhằm “tạo ra những con người
phát triển cao về trí tuệ, cường tráng về thể chất, phong phú về tinh thần, trong sáng về đạo
đức” [15, tr.5] đủ sức thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta.
Quan niệm về phát triển nguồn lực con người
Cho đến nay, do xuất phát từ nhiều cách tiếp cận khác nhau nên khi bàn về phát
triển NLCN đã có nhiều cách hiểu khác nhau.
Phát triển NLCN hay phát triển nguồn nhân lực, hoặc phát triển nguồn tài
nguyên người là những cách dịch khác nhau từ cụm từ Human Resources Development
- HRD. Khái niệm này hình thành và phát triển từ những năm 70 của thế kỷ trước, dựa
trên quan niệm mới của Liên hợp quốc về phát triển và vị trí con người trong phát triển.
Liên hợp quốc sử dụng khái niệm “phát triển nguồn lực con người” theo nghĩa
rộng bao gồm giáo dục, đào tạo và sử dụng tiềm năng con người nhằm thúc đẩy phát
triển kinh tế-xã hội và nâng cao chất lượng cuộc sống. UNESCO sử dụng khái niệm
“phát triển nguồn lực con người” theo nghĩa hẹp, đó là làm cho toàn bộ sự lành nghề
của dân cư luôn luôn phù hợp trong mối quan hệ với sự phát triển của đất nước. Còn tổ
chức Lao động Quốc tế (ILO) lại cho rằng phát triển nguồn nhân lực không chỉ là có sự
chiếm lĩnh trình độ lành nghề hoặc vấn đề đào tạo nói chung mà còn là phát triển năng lực
và sử dụng năng lực đó của con người để tiến tới có được việc làm hiệu quả, cũng như thoả
mãn nghề nghiệp và cuộc sống cá nhân.
Nhìn chung, cách hiểu của Liên hợp quốc bao quát hơn và nhấn mạnh khía cạnh
xã hội của vấn đề: NLCN vừa là yếu tố của sản xuất, của tăng trưởng kinh tế vừa là mục
tiêu của phát triển. Cách tiếp cận này xuất phát từ lý thuyết mới về phát triển con người,
trong đó phát triển NLCN thuộc phạm trù phát triển con người.
Thuật ngữ “phát triển con người” được sử dụng từ lâu trong các ngôn ngữ khác
nhau. Nhưng phải đến năm 1990, khái niệm “phát triển con người” (Human Development)
mới xuất hiện trong báo cáo về phát triển con người (HDR) được Chương trình phát triển
của Liên hợp quốc (UNDP) công bố. Theo UNDP “Của cải đích thực của một quốc gia là
con người của quốc gia đó. Và mục đích của phát triển là để tạo ra một môi trường thuận
lợi cho phép con người được hưởng cuộc sống lâu dài, khoẻ mạnh và sáng tạo” [26, tr.140].
Phát triển con người - là quan điểm về phát triển, trong đó lấy con người làm
trung tâm. Đó là phát triển của con người, vì con người và do con người. Phát triển của
con người có nghĩa là đầu tư vào phát triển tiềm năng của con người như giáo dục, y tế,
kỹ năng… để con người có thể làm việc một cách sáng tạo và có năng suất cao nhất.
Phát triển vì con người là bảo đảm sự tăng trưởng kinh tế mà con người tạo ra phải
được phân phối rộng rãi và công bằng. Phát triển do con người là hướng vào việc tạo
cho con người có cơ hội tham gia vào mọi hoạt động của đời sống xã hội (kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội ).
Như vậy, theo quan điểm của Liên hợp quốc, khái niệm “phát triển con người”
nhấn mạnh đến mục tiêu hơn là phương tiện của sự phát triển. Mục tiêu của sự phát triển
không chỉ là phát triển xã hội mà chính là phát triển con người. Bởi vì, trong xã hội hiện
đại, sự phát triển xã hội chưa hẳn đã đồng nghĩa với sự phát triển con người. Thực tế cho
thấy, ở nhiều nước trên thế giới, xã hội phát triển cao nhưng con người lại bị quên lãng,
không được quan tâm. Ở những nước này diễn ra nghịch lý: GDP tăng nhưng thất nghiệp
và đói nghèo cũng tăng, khoa học và công nghệ tiến bộ nhưng thất học và dốt nát lại trở nên
phổ biến, tiện nghi vật chất xã hội hiện đại hơn nhưng quyền con người lại bị vi phạm
nhiều hơn, nhiều người không được chăm sóc tối thiểu về y tế… Điều này cách đây 2 thế
kỷ, Sáclơ Phuriê (1772-1837) đã chỉ ra: trong xã hội tư bản “sự nghèo khổ được sinh ra từ
chính sự thừa thãi”.
Như vậy, mục đích thật sự của sự phát triển là cần phải tạo ra một môi trường
đảm bảo cho con người phát huy khả năng sáng tạo, được hưởng một cuộc sống khoẻ
mạnh, được học hành và trường thọ, các quyền tự do chính trị, quyền con người và
cá nhân được bảo đảm. Quan điểm phát triển con người như vậy hoàn toàn phù hợp
với quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về phát triển con người toàn diện mà cách
đây hơn 150 năm C.Mác đã nói tới.
Ở nước ta, cho đến nay, thuật ngữ “Phát triển nguồn lực con người” hay “Phát
triển nguồn nhân lực” được các nhà khoa học Việt Nam nêu khá nhiều trong các công
trình nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác nhau.
GS.VS.TS Phạm Minh Hạc cho rằng:
Phát triển nguồn nhân lực được hiểu về cơ bản là gia tăng giá trị cho
con người, trên các mặt như đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, tâm hồn, thể lực… làm
cho con người trở thành những người lao động có những năng lực phẩm chất
mới và cao, đáp ứng được những yêu cầu to lớn của sự phát triển kinh tế-xã
hội, của sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước [25, tr.285].
TS. Nguyễn Hữu Dũng cho rằng: phát triển NLCN được coi là “quá trình làm
biến đổi về số lượng, chất lượng và cơ cấu nguồn nhân lực ngày càng đáp ứng tốt hơn
yêu cầu của phát triển kinh tế-xã hội” [14, tr.13]. Theo tác giả, quá trình này bao gồm sự
phát triển về thể lực, trí lực, khả năng nhận thức và tiếp thu kiến thức, tay nghề, tính
năng động xã hội và sức sáng tạo của con người. Trong đó, nền văn hóa truyền thống,
lịch sử dân tộc góp phần quan trọng hun đúc nên bản lĩnh, ý chí của mỗi người.
Như vậy, phát triển NLCN không phải là một khái niệm trừu tượng mà nó gắn
với phát triển con người cụ thể. Theo C.Mác, con người là yếu tố quan trọng nhất, cách
mạng nhất trong các yếu tố cấu thành lực lượng sản xuất. Người lao động trong lực
lượng sản xuất phải là con người ngày càng được phát triển cao về trí tuệ, khoẻ mạnh về
thể chất, trong sáng về đạo đức, linh hoạt và văn minh trong ứng xử, có kinh nghiệm sản
xuất và kỹ năng lao động nhất định. Do đó phát triển NLCN có mối quan hệ biện chứng
với phát triển con người. Phát triển NLCN phải được hiểu là quá trình phát triển toàn
diện con người cả thể lực, trí lực, cả khai thác, sử dụng, tái tạo và phát triển tiềm năng,
năng lực của mỗi người, của cả cộng đồng người nhằm đóng góp nhiều nhất vào sự
nghiệp phát triển kinh tế-xã hội, bởi lẽ, NLCN được cấu thành từ nguồn nhân lực của
mỗi cá nhân cũng như nguồn nhân lực của cả cộng đồng. Vì vậy, nếu cho rằng, phát
triển NLCN chỉ là quá trình làm gia tăng tri thức, kỹ năng và năng lực của mỗi người là
chưa đầy đủ, mới chỉ đề cập ở khía cạnh khai thác năng lực của con người mà thiếu đi
quá trình tái tạo, phát triển và sử dụng lâu dài tiềm năng con người, cũng như tạo ra giá trị
đích thực cho cuộc sống của con người.
Tóm lại, có thể hiểu: Phát triển nguồn lực con người là quá trình làm biến đổi về
số lượng, chất lượng, cơ cấu nguồn nhân lực, đồng thời làm gia tăng các giá trị tinh
thần, đạo đức, trí tuệ, kỹ năng, thể chất… cho con người nhằm đáp ứng những yêu cầu
của sự phát triển kinh tế-xã hội.
Mỗi một giai đoạn lịch sử đều có nhu cầu về NLCN phù hợp giai đoạn lịch sử
đó. Quá trình CNH, HĐH ở nước ta hiện nay đang đặt ra yêu cầu khách quan về sự phát
triển số lượng, cơ cấu, chất lượng, cũng như những năng lực, phẩm chất cần thiết của
NLCN. Do đó, phát triển NLCN là một đòi hỏi tất yếu hiện nay ở nước ta.
1.1.2. Tính tất yếu của việc phát triển nguồn lực con người trong sự nghiệp
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
Trong điều kiện cuộc cách mạng KH-CN hiện đại đang diễn ra như vũ bão, CNH,
HĐH được coi là phương thức cơ bản, con đường tất yếu để cải biến một xã hội nông
nghiệp lạc hậu thành một xã hội công nghiệp văn minh. CNH, HĐH là quá trình tạo ra
những biến đổi về chất trong toàn bộ các hoạt động của đời sống xã hội, trước hết là hoạt
động sản xuất vật chất. Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa VII
(1994) đã thông qua đường lối CNH, HĐH đất nước, trong đó Đảng ta xác định:
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi căn bản, toàn
diện các hoạt động sản xuất, kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế, xã hội từ
sử dụng lao động thủ công là chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao
động cùng với công nghệ, phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại,
dựa trên sự phát triển của công nghiệp và tiến bộ khoa học-công nghệ, tạo ra
năng suất lao động xã hội cao [16, tr.65].
Quan điểm này, về cơ bản, đã phản ánh được phạm vi rộng lớn, lâu dài, phức tạp
cũng như chỉ ra cốt lõi của quá trình CNH, HĐH ở nước ta là cải biến lao động thủ
công, lạc hậu thành lao động sử dụng kỹ thuật tiên tiến, hiện đại để đạt tới năng suất lao
động xã hội cao. Trên cơ sở quan điểm này, Đảng ta chỉ rõ, sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta hiện nay là một cuộc cách mạng toàn diện và sâu sắc trong tất cả các lĩnh vực
của đời sống kinh tế-xã hội, nhằm mục tiêu:
Xây dựng nước ta thành một nước công nghiệp có cơ sở vật chất - kỹ thuật
hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp với trình độ
phát triển của lực lượng sản xuất, đời sống vật chất và tinh thần cao, quốc
phòng, an ninh vững chắc, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, văn minh
[17, tr.80].
Như vậy, đặc điểm của quá trình CNH, HĐH ở Việt Nam là hướng tới mục tiêu
xây dựng chủ nghĩa xã hội. Chính điều này đã quy định sự khác biệt cả về nội dung,
hình thức, quy mô, cách thức tiến hành CNH, HĐH ở nước ta so với nhiều nước tư bản
chủ nghĩa đã tiến hành trước đây. Sự khác biệt này đã làm nên đặc trưng của CNH,
HĐH ở nước ta, đồng thời tự nó cũng đặt ra những yêu cầu khách quan về số lượng và
chất lượng đối với NLCN Việt Nam - nhân tố quyết định thành công sự nghiệp CNH,
HĐH đất nước.
Trong mối quan hệ tác động qua lại với quá trình CNH, HĐH, NLCN luôn giữ vị
trí, vai trò quyết định. Mặt khác, NLCN cũng không ngừng biến đổi, phát triển dưới tác
động của quá trình CNH, HĐH đất nước. Phát triển NLCN Việt Nam là một yêu cầu
khách quan trong quá trình CNH, HĐH.
Thứ nhất, con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa
Đảng ta đã khẳng định: đẩy mạnh CNH, HĐH nhằm hướng tới mục tiêu “tăng
trưởng kinh tế đi liền với phát triển văn hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội” [19, tr.89]. Như vậy,
trong quá trình phát triển đất nước theo định hướng XHCN, CNH, HĐH là phương tiện,
phương thức để đạt đến mục tiêu cao cả, đó là vì cuộc sống hạnh phúc ngày càng tốt đẹp
của con người, vì sự giải phóng và phát triển toàn diện của con người.
Trong sự nghiệp đổi mới và thực hiện CNH, HĐH đất nước, quan niệm coi con
người là “vừa là mục tiêu,vừa là động lực” của sự phát triển kinh tế-xã hội đã trở thành
quan niệm phổ biến. Phát triển NLCN được coi là một bộ phận quan trọng hàng đầu trong
chiến lược phát triển kinh tế-xã hội của đất nước. Bởi vì, con người là động lực cơ bản
của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Động lực của sự nghiệp CNH, HĐH được hiểu là những gì thúc đẩy quá trình
này vận động và phát triển. Khi nói con người là động lực của quá trình CNH, HĐH là
chủ yếu nói đến sức mạnh, năng lực sáng tạo to lớn của con người trong việc thực hiện
CNH, HĐH và thúc đẩy quá trình này phát triển.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa sẽ không thể thành công nếu thiếu vai trò động
lực của con người. Chính con người với tri thức, trí tuệ, có khả năng hoạch định chiến
lược, đề ra mục tiêu, lựa chọn phương thức tiến hành CNH, HĐH cho phù hợp với hoàn
cảnh và điều kiện của mình. Con người còn sáng tạo ra những thành tựu KH-CN hiện
đại và ứng dụng chúng vào quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, sản xuất vật chất, quản
lý kinh tế, xã hội. Trong quá trình CNH, HĐH, những giải pháp do con người đề ra cho
phép điều chỉnh và giải quyết các mâu thuẫn phát sinh, cũng như dự báo những nguy
cơ, hậu quả có thể xảy ra và khuynh hướng phát triển trong tương lai để từ đó thúc đẩy
quá trình CNH, HĐH tiến lên.
Bài học kinh nghiệm rút ra từ những thành công trong quá trình phát triển của
Nhật Bản và các nước công nghiệp mới (NICs) ở châu Á cho thấy, người ta không chỉ
chú trọng ứng dụng các tiến bộ khoa học, kỹ thuật, công nghệ mới hoặc đầu tư phát
triển cơ sở hạ tầng, mà vấn đề then chốt hơn cả là biết khơi dậy và phát huy năng lực trí
tuệ và sức sáng tạo to lớn của con người. Trong xu thế toàn cầu hóa và mở rộng giao
lưu quốc tế như hiện nay, các quốc gia có thể khắc phục sự yếu kém về kỹ thuật, công
nghệ thông qua con đường chuyển giao, nhập khẩu. Nhưng người ta không thể nhập
khẩu hay vay mượn được khả năng sáng tạo của con người. Vì thế, có thể khẳng định
rằng, năng lực sáng tạo nói riêng và chất lượng NLCN nói chung là yếu tố nội sinh, là
động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển xã hội, đưa sự nghiệp CNH, HĐH đến thành
công.
Nếu con người là động lực, là phương tiện để tiến hành CNH, HĐH, thì những
thành quả do CNH, HĐH tạo ra phải nhằm phục vụ cho nhu cầu con người. Nói cách
khác, con người có quyền thụ hưởng những thành quả do chính tài năng và sức sáng tạo
của mình tạo ra. Vì vậy, phát triển NLCN phải nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi để con
người được thụ hưởng những thành quả của mỗi bước CNH, HĐH. Nghĩa là con người
có được đời sống vật chất và tinh thần ngày càng cao, môi trường và điều kiện làm việc
thuận lợi, có điều kiện học tập, lao động sáng tạo và cống hiến tài năng cho sự phát triển
của xã hội và hạnh phúc của con người.
Thứ hai, con người vừa là chủ thể vừa là sản phẩm của quá trình công nghiệp
hóa, hiện đại hóa
Giữa CNH, HĐH và phát triển NLCN có mối quan hệ gắn bó chặt chẽ nhau,
trong đó NLCN luôn giữ vị trí, vai trò quyết định trình độ, tốc độ phát triển của tiến
trình CNH, HĐH. Đến lượt mình, NLCN cũng không ngừng biến đổi và phát triển dưới
tác động của quá trình CNH, HĐH. Nói cách khác, CNH, HĐH đặt ra yêu cầu khách
quan đối với việc phát triển NLCN ở trình độ ngày càng cao, bởi vì con người vừa là
sản phẩm của tự nhiên, của xã hội vừa là chủ thể cải biến tự nhiên và xã hội, đồng thời,
là chủ thể của các quá trình phát triển kinh tế-xã hội. Thông qua hoạt động thực tiễn,
con người đã để lại dấu ấn sâu đậm trong tiến trình phát triển và sáng tạo ra lịch sử của
mình.
Xét dưới gốc độ kinh tế, xã hội hay kỹ thuật, công nghệ, yếu tố con người vẫn
luôn là chủ thể của quá trình CNH, HĐH. Từ thực tế cho thấy, quá trình CNH, HĐH sẽ
không thể thành công nếu thiếu NLCN với số lượng và chất lượng ngày càng cao, cơ
cấu hợp lý. Bởi vì, chính con người là lực lượng duy nhất có khả năng phát hiện, xác
định mục tiêu, nội dung, hình thức, bước đi và những giải pháp thích hợp để tiến hành
CNH, HĐH. Từ thực tiễn của các nước đi trước cũng như ở nước ta đã cho thấy, quá
trình CNH, HĐH diễn ra với tốc độ nhanh hay chậm, đạt hiệu quả cao hay thấp là do sự
quy định của nhiều yếu tố, trong đó, trước hết và chủ yếu tuỳ thuộc vào năng lực của
con người, vào chất lượng của NLCN. Vì vậy, phát triển NLCN trở thành yếu tố quan
trọng nhất có tính chất quyết định đối với sự thành bại của sự nghiệp CNH, HĐH ở
nước ta hiện nay.
Trong khi nhấn mạnh vai trò và sự tác động có tính chất quyết định của phát
triển NLCN đối với tiến trình CNH, HĐH, cần khẳng định rằng CNH, HĐH cũng tác
động trở lại đối với mục tiêu phát triển NLCN.
Thực tế cho thấy, mặc dù nước ta hiện nay không còn là một nước thuần nông,
nhưng có lẽ còn khá xa so với những tiêu chí, đặc trưng của một xã hội công nghiệp
hiện đại. Trong điều kiện ấy con người Việt Nam còn chịu ảnh hưởng nặng nề bởi tư
duy, thói quen của người sản xuất nhỏ tiểu nông. Vì thế, tiến hành CNH, HĐH là tiền
đề, điều kiện vật chất cần thiết để từng bước cải biến nếp nghĩ, cách làm vốn còn mang
nặng dấu ấn tiểu nông, sản xuất nhỏ của một bộ phận đáng kể trong lực lượng lao động
xã hội. Chính sự hình thành và phát triển của các yếu tố hiện đại trong các lĩnh vực của
đời sống xã hội, trước hết là trong sản xuất do đẩy mạnh CNH, HĐH, sẽ tạo nên một
cuộc cách mạng đối với lực lượng lao động xã hội. Hơn nữa, trong mỗi giai đoạn cũng
như trong suốt tiến trình, CNH, HĐH vừa tạo ra điều kiện và cơ hội phát triển, vừa đặt
ra những yêu cầu ngày càng cao đối với người lao động, trước hết là ở trình độ học vấn,
chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động công nghiệp hiện đại. Điều này thể hiện ở chỗ,
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH sẽ tạo ra những điều kiện, cơ hội thuận lợi cho người
lao động được tiếp cận với những dịch vụ xã hội ngày càng đầy đủ và hoàn thiện như giáo
dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe, nâng cao mức sống… đồng thời, CNH, HĐH lại đặt ra
những yêu cầu mới về phương thức lao động, kỹ năng lao động, buộc người lao động phải
thường xuyên, không ngừng học tập, bồi dưỡng cả về trình độ học vấn, chuyên môn kỹ
thuật, nhân cách đạo đức, năng lực sáng tạo và khả năng thích nghi với những điều kiện lao
động mới. Như vậy, CNH, HĐH tạo ra môi trường mà ở đó con người được phát triển toàn
diện, thể hiện năng lực sáng tạo cũng như khẳng định vai trò quyết định sự phát triển kinh
tế-xã hội của mình.
Thứ ba, phát triển NLCN là vấn đề chiến lược hàng đầu của Đảng và Nhà
nước ta nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
Trong lịch sử dân tộc, nhất là trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm, ông
cha ta luôn thực hiện phương châm “lấy yếu chống mạnh, lấy ít địch nhiều”. Sức mạnh
của Việt Nam là con người, do đó khâu then chốt là phải biết phát huy trí tuệ con người.
Chính tài năng trí tuệ, sự thông minh và sức sáng tạo to lớn của con người Việt Nam đã
làm nên những thắng lợi vẻ vang trong lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước, ngày
nay là trong sự nghiệp đổi mới. Vì vậy, ngay khi khởi xướng công cuộc đổi mới, Đảng
ta đã nhấn mạnh tầm quan trọng đặc biệt của nhân tố con người và xác định: “Con
người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển kinh tế-xã hội”. Ngày nay, để
đẩy mạnh CNH, HĐH, đi vào kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, Việt Nam
càng phải đi lên chủ yếu bằng con đường phát triển NLCN, bằng trí tuệ của con người
Việt Nam.
Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò có ý nghĩa quyết định của NLCN và tiềm năng to
lớn của con người Việt Nam, tại các kỳ Đại hội VIII, IX và các Hội nghị Trung ương,
Đảng Cộng sản Việt Nam đã nhiều lần khẳng định: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự
nghiệp của toàn dân” [17, tr.85], “Nâng cao dân trí, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực to lớn
của con người Việt Nam là nhân tố quyết định thắng lợi của công cuộc công nghiệp hóa,
hiện đại hóa” [17, tr.21]. Tổng kết thực tiễn 15 năm đổi mới và nghiên cứu lý luận, một
lần nữa trong Nghị quyết Đại hội IX, Đảng ta khẳng định: “Con người và nguồn nhân
lực là nhân tố quyết định sự phát triển đất nước trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” [19, tr.201]. Vì vậy, “Phát triển mạnh nguồn lực con người Việt Nam với yêu cầu
ngày càng cao” [19, tr.165] là vấn đề có tính chiến lược trong công cuộc đổi mới và là
yêu cầu cấp bách của sự nghiệp CNH, HĐH ở nước ta hiện nay.
Thực hiện vai trò chủ thể, động lực của quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH theo
định hướng XHCN, NLCN nước ta phải đủ về số lượng, hợp lý về cơ cấu, đảm bảo về
chất lượng. Muốn vậy, phát triển NLCN phải được xác định là vấn đề chiến lược và tập
trung mọi nguồn lực để đầu tư mạnh vào “vốn con người”. Phải xem đây là bước chuẩn
bị quan trọng và là khâu đột phá để thực hiện thắng lợi các mục tiêu kinh tế-xã hội và
thực hiện mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Như vậy, phát triển NLCN là vấn đề có tính chiến lược, điều đó không chỉ xác
định trên phạm vi cả nước mà phải được nhận thức và chủ động thực hiện ở từng địa
phương, đơn vị cụ thể. Đối với Bến Tre, để xây dựng chiến lược phát triển NLCN phù
hợp, nhằm đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh trong những năm tới, trước
hết cần phải xác định rõ đặc điểm của CNH, HĐH cũng như chỉ ra những yêu cầu cơ
bản về phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre hiện nay.
1.2. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở TỈNH
BẾN TRE VÀ NHỮNG YÊU CẦU CƠ BẢN VỀ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI BẾN TRE
1.2.1. Đặc điểm của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre
Cũng như nhiều địa phương trong vùng, Bến Tre bắt tay xây dựng lại quê hương
từ sau ngày thống nhất đất nước, thực hiện CNH, HĐH theo chủ trương của Đảng.
Ngoài những điểm chung như CNH, HĐH ở các tỉnh trong vùng, do vị trí địa lý, điều
kiện kinh tế-xã hội có nhiều đặc thù, điều đó đã làm cho nội dung, hình thức, quy mô,
tốc độ CNH, HĐH ở Bến Tre có nhiều điểm khác biệt. Sự khác biệt này đã nói lên đặc
điểm CNH, HĐH ở Bến Tre.
Trên thực tế, CNH, HĐH ở Bến Tre tiến hành trong điều kiện nền kinh tế chậm
phát triển, cơ sở hạ tầng yếu kém, sản xuất nông nghiệp lạc hậu, công nghiệp chưa phát
triển, đầu tư nước ngoài còn hạn chế… Vì vậy, CNH, HĐH ở Bến Tre mà trọng tâm là
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn là yêu cầu cấp bách để giải quyết hợp lý mối quan hệ
giữa nông nghiệp và công nghiệp trong cơ cấu kinh tế nông - công nghiệp - dịch vụ đang
phát triển theo hướng CNH, HĐH. Từ thực tế đó, có thể thấy CNH, HĐH ở Bến Tre có
những đặc điểm sau:
Thứ nhất, CNH, HĐH ở Bến Tre tập trung chủ yếu vào CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn
Trước yêu cầu phải rút ngắn thời gian tiến hành CNH, HĐH, phấn đấu đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại, Đại hội IX
của Đảng chủ trương: "Tăng cường sự chỉ đạo và huy động các nguồn lực cần thiết để
đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn" [19, tr.86].
Trên cơ sở vận dụng quan điểm, mục tiêu, nội dung Nghị quyết của Đảng, Tỉnh
ủy Bến Tre đã đề ra Chương trình hành động nhằm xác định nhiệm vụ, giải pháp chủ
yếu nhằm đẩy nhanh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre thời kỳ 2001-2010.
Trong đó chỉ rõ nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre là:
Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa, hiệu
quả, bền vững có sức cạnh tranh trên cơ sở ứng dụng các thành tựu khoa học,
công nghệ tiên tiến vào sản xuất; xây dựng nông thôn giàu đẹp, dân chủ,
công bằng, văn minh, có cơ cấu kinh tế hợp lý, lực lượng sản xuất năng
động, quan hệ sản xuất phù hợp, kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội phát triển và
an ninh nông thôn được bảo đảm [53, tr.2].
Tỉnh Bến Tre là vùng đất hẹp, người đông, sản xuất nông nghiệp là chủ yếu, diện
tích đất nông nghiệp chiếm 70%, do đó việc khai thác tiềm năng đất đai và lao động
nông thôn là vấn đề có tính chiến lược trong quá trình phát triển. CNH, HĐH nông
nghiệp, nông thôn là con đường ngắn nhất để “đưa Bến Tre đi lên từ kinh tế nông nghiệp
toàn diện thành một trong những tỉnh sản xuất hàng hóa có tỷ trọng cao trong khu vực
đồng bằng sông Cửu Long” [22, tr.45].
Thứ hai, so với các tỉnh trong khu vực và cả nước, CNH, HĐH ở Bến Tre diễn ra
với tốc độ chậm, quy mô nhỏ bé, công nghệ, trang thiết bị còn lạc hậu
Năm 1996, cùng với cả nước, theo chủ trương của Đảng, Bến Tre thực hiện
CNH, HĐH trong điều kiện nền kinh tế còn nhiều khó khăn. Cùng với chủ trương coi
trọng phát triển nông nghiệp toàn diện, lãnh đạo tỉnh luôn xác định công nghiệp - tiểu
thủ công nghiệp là lĩnh vực phải được tập trung đầu tư để Bến Tre vươn lên sánh vai với
các tỉnh bạn trong khu vực. Sau hơn 7 năm thực hiện Nghị quyết 03 của Tỉnh ủy Bến
Tre “Về phát triển công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh 1996-2000-
2010”, đến nay, công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp ở Bến Tre có bước phát triển đáng
kể, góp phần quan trọng đưa nền kinh tế của tỉnh phát triển, tạo động lực thúc đẩy chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Từ chỗ chưa có gì, đến nay (2004) toàn tỉnh có
14 doanh nghiệp Nhà nước, 4 công ty đầu tư nước ngoài, 39 hợp tác xã, 94 doanh nghiệp tư
nhân và 7182 hộ sản xuất cá thể, giải quyết việc làm cho trên 31.000 lao động [13]. Năng
lực chế biến thủy, hải sản hiện tăng gấp 3 lần so với năm 1996 với một hệ thống các nhà
máy chế biến thủy sản trang thiết bị khá hiện đại. Công nghiệp ở Bến Tre phát triển đã
tác động tích cực đến CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn, nhiều làng nghề được sắp
xếp, củng cố và không ngừng phát triển; đã cơ giới hóa 90% khâu làm đất, 80% khâu
tưới tiêu trong sản xuất nông nghiệp. Việc sử dụng máy móc thay thế lao động chân tay
trong kinh tế vườn khá phổ biến. Đến năm 2000, 160/160 xã, phường trong tỉnh đều có
lưới điện quốc gia về đến trung tâm xã, nâng số hộ sử dụng điện lên 81% vào cuối năm
2004 [54, tr.4].
Tuy nhiên, so với mục tiêu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp theo hướng hiện đại, thì CNH, HĐH ở Bến tre cần phải đẩy nhanh với tốc
độ và quy mô rộng lớn hơn. Hiện nay, tỷ trọng công nghiệp trong GDP toàn tỉnh còn
nhỏ và chuyển biến chậm, chưa đủ sức đóng vai trò động lực thúc đẩy nền kinh tế phát
triển và chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế. Năm 1996, tỷ trọng công nghiệp chiếm 7,66%
trong GDP; năm 2000 là 12,09% và năm 2004 là 15,65 % [13]. Ngoài ra, do kết cấu hạ
tầng phục vụ phát triển công nghiệp đầu tư chưa đồng bộ, nguồn nhân lực yếu và thiếu...
chưa đáp ứng yêu cầu các nhà đầu tư trong và ngoài nước, do đó, nhiều dự án khu, cụm
công nghiệp đã được xác định nhưng chỉ dừng lại ở quy hoạch.
Thực trạng trên phần nào cho thấy CNH, HĐH ở Bến Tre hiện còn nhỏ bé và tốc
độ khá chậm, vì vậy đang rất cần sự tác động tích cực của nhiều nhân tố nhằm tạo động
lực mạnh mẽ thúc đẩy quá trình này diễn ra nhanh hơn. Một trong những nhân tố quyết
định đó là Bến Tre cần gấp rút chuẩn bị NLCN, đặc biệt là nguồn nhân lực chất lượng
cao có khả năng làm cuộc “bứt phá” đưa Bến Tre phát triển nhanh và bền vững hơn,
tiến tới thực hiện thắng lợi mục tiêu CNH, HĐH ở tỉnh.
Thứ ba, CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn trên cơ sở gắn bó chặt chẽ giữa nông
nghiệp với công nghiệp, phát triển mạnh công nghiệp chế biến
Xây dựng và phát triển một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa hiệu quả, bền
vững, có sức cạnh tranh là một nội dung và cũng là nhiệm vụ quan trọng của CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn ở Bến Tre. Nông nghiệp có một vị trí hết sức quan trọng
trong nền kinh tế, hiện chiếm trên 60% trong tổng sản phẩm toàn tỉnh. Thế nhưng, tự
bản thân nông nghiệp cũng không thể phát triển nhanh được nếu thiếu sự tác động tích
cực của công nghiệp. Địa vị của nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế tùy thuộc vào trình độ
phát triển và tốc độ CNH, HĐH. Với tư cách là một bộ phận hợp thành trong cơ cấu
kinh tế thống nhất, sự phát triển của nông nghiệp có mối quan hệ tương hỗ với sự phát
triển của công nghiệp và dịch vụ. Trong mối quan hệ đó, công nghiệp hỗ trợ đắc lực và
phục vụ cho nông nghiệp phát triển theo hướng CNH, HĐH. Đảng ta đã chỉ rõ: “Phát
triển công nghiệp, dịch vụ phải gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ đắc lực và phục vụ có hiệu quả
cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn” [20, tr.94].
Trong những năm gần đây, Bến Tre đã chọn và đầu tư đúng hướng cho lĩnh vực
công nghiệp chế biến, nâng cao năng lực chế biến hàng nông sản, đưa công nghiệp chế
biến dừa và thủy sản lên trình độ tiên tiến. Việc phát triển công nghiệp chế biến và các
hoạt động dịch vụ trên địa bàn nông thôn đã tạo điều kiện cho trồng trọt, đánh bắt và
nuôi trồng thuỷ sản đạt năng suất chất lượng cao và phát triển mạnh, tăng nhanh sản
phẩm và thu nhập cho nền kinh tế. Trạng thái khép kín, trì trệ, lạc hậu vốn có của nền
nông nghiệp nhỏ từng bước bị phá vỡ. Hơn nữa, đẩy mạnh phát triển công nghiệp chế
biến, ngoài việc tạo ra giá trị gia tăng cho nông sản hàng hóa, còn tạo thêm nhiều việc
làm tại chỗ và tăng thu nhập cho dân cư nông thôn. Song song với quá trình đó, các hoạt
động dịch vụ ở nông thôn, bao gồm cả các hoạt động dịch vụ cho sản xuất và dịch vụ
đời sống cũng phát triển, tạo điều kiện đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế hàng hóa,
đồng thời là điều kiện để từng bước giảm dần tỷ trọng sản xuất nông nghiệp, tăng dần tỷ
trọng sản xuất công nghiệp và dịch vụ ở Bến Tre.
Như vậy, sự gắn bó chặt chẽ, hỗ trợ lẫn nhau giữa nông nghiệp với công nghiệp,
đặc biệt là công nghiệp chế biến trong quá trình phát triển là điều kiện bảo đảm tính ổn
định và phát triển bền vững của nền kinh tế nói chung, cũng như kinh tế nông nghiệp
nói riêng, đặc biệt là phát triển mạnh một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa như ở Bến
Tre hiện nay.
Thứ tư, phát huy truyền thống cách mạng của quê hương, người dân Bến Tre tiến
hành CNH, HĐH trong khí thế của phong trào “Đồng khởi mới”
Tháng 1 năm 1960, phong trào Đồng khởi của quân và dân Bến tre nổ ra và
nhanh chóng trở thành phong trào đấu tranh cách mạng lan rộng khắp các tỉnh Nam Bộ.
“Đồng khởi” đã trở thành dấu ấn lịch sử, tạo mốc quan trọng trong cuộc kháng chiến
chống Mỹ cứu nước của dân tộc, được nhân dân cả nước khâm phục. Chiến tranh đã đi
qua, phát huy phong trào Đồng khởi “huyền thoại” với ý nghĩa và tinh thần mới, cuối
năm 1999, Tỉnh ủy Bến Tre đã ra Nghị quyết 08 phát động phong trào "Đồng khởi mới"
đẩy mạnh công cuộc CNH, HĐH, thực hiện thắng lợi các mục tiêu phát triển kinh tế-xã
hội của tỉnh.
Như luồng gió mới, phong trào "Đồng khởi mới" đã khơi dậy truyền thống Đồng
khởi năm xưa, phát huy tinh thần tự lực, tự cường, vươn lên không cam chịu đói nghèo
lạc hậu, người dân Bến tre đã làm bật dậy những tiềm năng của một miền quê ven biển
còn nghèo khó này.
Kết quả từ phong trào Đồng khởi mới đã làm thay đổi bộ mặt nông thôn Bến Tre
với hơn 1.500 km (chiếm 46%) đường giao thông nông thôn được nhựa hóa, bê tông
hóa với phương thức “Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Xây dựng mới 1.240 cây cầu
(trong tổng số 2.495 cầu toàn tỉnh) tạo điều kiện giao thông thuận lợi trên địa bàn của
tỉnh. Tỉnh đã hình thành được các vùng kinh tế trọng điểm gắn với điều kiện tự nhiên và
tiềm năng từng vùng như đánh bắt, nuôi trồng, chế biến thủy sản và vườn cây ăn quả.
Các huyện Bình Đại, Ba Tri, Thạnh Phú tập trung phát triển nuôi trồng thủy sản, đánh
bắt xa bờ và chế biến thủy sản xuất khẩu; các huyện Mỏ Cày, Châu Thành và Chợ Lách
nổi trội với những vườn chuyên cây ăn quả chất lượng cao và du lịch sinh thái, làng
nghề thủ công, mỹ nghệ. Năm 2004, cũng là năm đầu tiên tỉnh Bến Tre đạt tỷ lệ tăng
trưởng vượt hai con số: 10,08%, xuất khẩu đạt 80 triệu đôla (tăng 44,9% so với năm
2003), nuôi hơn 42.000 ha thủy sản, giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5% (theo chuẩn cũ).
Trong điều kiện còn nhiều khó khăn, những thành tựu đó chính là kết quả của
tinh thần cách mạng tiến công, ý chí vươn lên của người dân “quê hương Đồng khởi”
quyết tâm tiến kịp và hội nhập với xu thế phát triển chung của khu vực và cả nước trong
sự nghiệp CNH, HĐH.
Tóm lại, công cuộc CNH, HĐH ở một tỉnh nông nghiệp giàu tiềm năng nhưng
cũng lắm khó khăn, dẫu còn chậm phát triển, nhưng đang trên đà tăng trưởng kinh tế
như hiện nay, cùng với việc chuẩn bị một nguồn nhân lực đủ về số lượng, mạnh về chất
lượng, Bến Tre sẽ tiến nhanh hơn trong sự nghiệp CNH, HĐH, xây dựng Bến Tre văn
minh, giàu mạnh hơn.
1.2.2. Những yêu cầu cơ bản về phát triển nguồn lực con người trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa tự bản thân nó luôn đặt ra những đòi hỏi khách
quan về số lượng, cơ cấu và chất lượng NLCN với những năng lực và phẩm chất cần
thiết. Sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong điều kiện còn nhiều khó khăn, trình độ
công nghệ lạc hậu, quy mô, tốc độ nhỏ bé, chậm chạp, vì thế, phát triển NLCN ở Bến
Tre càng là yêu cầu cấp thiết, nhằm tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy nhanh quá trình
này. Quá trình phát triển NLCN phục vụ CNH, HĐH ở một tỉnh như Bến Tre cần phải
đáp ứng những yêu cầu cơ bản sau:
Thứ nhất, phát triển mạnh NLCN của Bến Tre cả về số lượng và chất lượng,
đủ sức đẩy nhanh quá trình CNH, HĐH với quy mô, tốc độ nhanh và rộng lớn hơn
Nguồn lực con người Bến Tre chính là nhân tố quyết định thắng lợi sự nghiệp
CNH, HĐH ở Bến Tre. Nhưng nếu chỉ với một lực lượng lao động đông, đầy lòng nhiệt
tình và ý chí cách mạng thì chưa đủ để người Bến Tre thành công trong công cuộc CNH,
HĐH. Trước yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ CNH, HĐH, đòi hỏi Bến Tre phải gấp
rút đào tạo ngay lực lượng lao động có tri thức khoa học, nắm vững chuyên môn kỹ thuật,
năng động sáng tạo, có phẩm chất đạo đức tốt... Bến Tre có nguồn lao động khá dồi dào
(trên 60% dân số), nhưng nguồn nhân lực - với tư cách là động lực của CNH, HĐH, xét ở
số lượng, cơ cấu nghề nghiệp và cả chất lượng đều chưa đáp ứng được yêu cầu của quá
trình này. Tình trạng thiếu và yếu trong đội ngũ cán bộ lãnh đạo, cán bộ quản lý kinh tế,
sản xuất kinh doanh và nhất là cán bộ KH-CN là một thực tế. Đây lại là lực lượng nòng
cốt tham gia vào quá trình hoạch định chiến lược, đề ra mục tiêu, phương hướng, giải
pháp cũng như tổ chức, triển khai quá trình CNH, HĐH. Có thể nói, CNH, HĐH diễn ra
với tốc độ nhanh hay chậm, hiệu quả cao hay thấp... là do sự quy định của nhiều yếu tố,
trong đó trước hết tùy thuộc vào năng lực của đội ngũ cán bộ này. Trong tổng số lực
lượng lao động của toàn tỉnh, đến nay chỉ có 22,12% lao động qua đào tạo. Trong đó, lực
lượng lao động có trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật cao phần lớn tập trung ở các ngành
y tế, GD-ĐT, quản lý nhà nước. Trong các ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh như nông - ngư
nghiệp, đội ngũ lao động có trình độ còn rất hạn chế, đa số là lao động phổ thông, chưa
qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật.
Trong những năm tới, tỉnh Bến Tre phấn đấu: “Đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh
tế-xã hội nhanh và bền vững, tạo sự chuyển động mới mạnh mẽ trong sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa” [23, tr.108]. Để đạt được mục tiêu đề ra, vấn đề cấp bách là phải
nhanh chóng đào tạo nguồn nhân lực mạnh cả về số lượng và chất lượng, hợp lý về cơ cấu
đủ khả năng đưa Bến Tre vượt ra khỏi tình trạng "tụt hậu", vươn lên sánh vai cùng các
tỉnh bạn, góp phần cùng cả nước thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.
Thứ hai, yêu cầu thực hiện chuyển dịch cơ cấu lao động phù hợp với chuyển đổi
cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH
Trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 10 năm (2001-2010), Đảng ta chỉ rõ:
“Phát triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu
lao động theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [19, tr.92]. Hiện nay, nước ta đang
trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH. Đó là quá trình tăng
dần tỷ trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ, giảm dần tỷ trọng ngành nông
nghiệp trong cơ cấu nền kinh tế.
Bến Tre hiện đang phát triển toàn diện kinh tế-xã hội theo cơ cấu nông - công
nghiệp - dịch vụ, trong đó kinh tế thủy sản và kinh tế vườn là hai ngành kinh tế mũi
nhọn của tỉnh. Trong những năm gần đây, mặc dù còn chậm, song, cơ cấu kinh tế của
Bến Tre đang dần chuyển dịch theo hướng CNH, HĐH. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
từ một tỉnh có cơ cấu nông - công nghiệp - dịch vụ theo hướng tăng dần tỷ trọng công
nghiệp và dịch vụ, thực chất là quá trình chuyển từ nền kinh tế truyền thống, trình độ
thấp dựa vào nông nghiệp là chủ yếu, sang nền kinh tế hiện đại, trình độ cao. Sự chuyển
dịch này đã tác động tích cực đến chuyển dịch cơ cấu lao động và tạo ra mối quan hệ tác
động giữa chúng với nhau. Chuyển dịch cơ cấu lao động là quá trình giảm dần số lượng lao
động nông nghiệp, tăng số lượng lao động công nghiệp và dịch vụ, theo hướng nâng cao
trình độ văn hóa, chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao động của lực lượng lao động. Nói cách
khác, đó là quá trình phân công lại lao động trong toàn xã hội phù hợp với cơ cấu kinh tế
đang chuyển đổi theo hướng CNH, HĐH. Thực tế đó đặt ra yêu cầu phát triển NLCN ở
Bến Tre phải hướng tới đào tạo lực lượng lao động lành nghề, nắm vững chuyên môn kỹ
thuật, đồng bộ về cơ cấu, thích ứng với nghề nghiệp, phục vụ tốt yêu cầu phân công lại lao
động trong toàn tỉnh.
Bến Tre là tỉnh có ngành công nghiệp chưa phát triển, tốc độ đô thị hóa chậm, do đó
không thể hy vọng giải quyết hết lao động trong nông nghiệp bằng cách chuyển sang khu
vực công nghiệp và dịch vụ. Vấn đề này cũng đặt ra yêu cầu trong phát triển NLCN của
tỉnh cần chú trọng đào tạo ngành nghề phù hợp, nhằm cung cấp lao động cho các ngành
công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và dịch vụ ngay tại địa bàn nông thôn. Ngoài ra, Bến Tre
còn là vùng đất giàu ngành nghề truyền thống, đặc biệt những nghề chế biến các sản phẩm
từ dừa và hàng thủ công mỹ nghệ. Do đó, khôi phục và phát triển các làng nghề truyền
thống, kết hợp với việc "cấy ghép" nghề mới trong nông thôn là một hướng đi quan trọng
và là cơ sở để đi vào CNH, HĐH. Từ đây mở ra hướng mới cho việc phát triển NLCN
trong lĩnh vực mở rộng hình thức truyền nghề, bồi dưỡng, kèm cặp nghề... nhằm nâng cao
tay nghề và giải quyết việc làm cho lao động ở nông thôn trong các làng nghề.
Nằm trong khu vực ĐBSCL, Bến Tre có thế mạnh về kinh tế thuỷ sản và kinh tế
vườn. Những năm gần dây, phong trào nuôi thuỷ sản và cải tạo vườn tạp để trồng cây ăn
quả ở Bến Tre phát triển mạnh, hình thành những vùng kinh tế trọng điểm về đánh bắt,
nuôi trồng, chế biến thuỷ hải sản và vườn cây ăn quả tập trung chất lượng cao. Hiện
nay, thuỷ sản đang là mặt hàng xuất khẩu chủ lực, đem lại nguồn ngoại tệ lớn cho tỉnh
và góp phần xoá đói giảm nghèo cho một bộ phận đông đảo dân cư các huyện vùng
biển. Kinh tế vườn với mô hình trồng cây ăn quả và sản xuất cây giống đem lại hiệu quả
kinh tế cao cho các nhà vườn. Tuy nhiên, tình trạng ô nhiễm môi trường do mở rộng
diện tích nuôi thuỷ sản, nhất là nuôi tôm công nghiệp đã làm cho ngành này trở nên kém
bền vững do phụ thuộc nhiều vào điều kiện sinh thái. Các mặt hàng trái cây của Bến Tre
mặc dù được thị trường trong nước ưa chuộng, nhưng do dư lượng thuốc bảo vệ thực
vật cao và chất lượng trái cây chưa cao làm hạn chế năng lực cạnh tranh, nên chưa tìm
được chỗ đứng vững chắc trên thị trường các nước.
Để tiếp tục khẳng định là những ngành kinh tế mũi nhọn của tỉnh và phát triển
bền vững, việc nâng cao chất lượng hàng nông, thuỷ sản nhằm tăng năng lực cạnh tranh
của sản phẩm trên thị trường quốc tế là nhu cầu cấp thiết đặt ra. Đáp ứng nhu cầu này,
ngoài việc đầu tư công nghệ mới, vấn đề quan trọng nhất trong chiến lược phát triển
nguồn nhân lực của tỉnh là nhanh chóng đào tạo một đội ngũ chuyên gia KH-CN trong
các lĩnh vực công nghệ thông tin, công nghệ sinh học, công nghệ chế biến đủ khả năng
nắm vững, ứng dụng và sáng tạo những thành tựu khoa học tiên tiến để cải tiến kỹ thuật,
nâng cao năng suất, chất lượng, bảo đảm nông sản "sạch" đáp ứng yêu cầu thị trường
trong và ngoài nước. Mặt khác, phải nâng cao trình độ, kiến thức cho người sản xuất để
họ nắm vững kỹ thuật nuôi, trồng, bảo vệ, chăm sóc cây trồng vật nuôi, nhằm bảo đảm
qui trình nuôi thuỷ sản sạch, trái cây sạch có giá trị xuất khẩu cao.
Tóm lại, phát triển NLCN cho CNH, HĐH một mặt phải đáp ứng yêu cầu chuyển
đổi cơ cấu lao động, mặt khác phải thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng CNH, HĐH. Điều đó đòi hỏi trong chiến lược phát triển NLCN cần phải có quy
hoạch trong đào tạo, định hướng ngành, nghề phù hợp với chiến lược, kế hoạch phát triển
kinh tế-xã hội của tỉnh, trong đó, giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực nói chung, đào tạo lao
động kỹ thuật, công nhân lành nghề nói riêng phải đi trước một bước.
Thứ ba, quá trình CNH, HĐH đặt ra yêu cầu phải tập trung phát triển nguồn
nhân lực chất lượng cao - bộ phận quan trọng nhất, tinh túy nhất trong NLCN của
tỉnh Bến Tre
Nguồn nhân lực chất lượng cao là khái niệm để chỉ một lực lượng lao động có học
vấn, có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, có kỹ năng lao động và nhất là có khả năng
thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của công nghệ sản xuất. Có thể hiểu nguồn
nhân lực chất lượng cao bao gồm: đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề; những nông dân
được trang bị tri thức khoa học - kỹ thuật và có khả năng ứng dụng những tri thức đó vào
sản xuất nông nghiệp, giàu kinh nghiệm trong sản xuất; nòng cốt là đội ngũ trí thức khoa
học và công nghệ, quản lý kinh tế-xã hội, văn hóa - văn nghệ...
Hiện nay, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao thông qua con đường phát
triển GD-ĐT, khoa học và công nghệ được xem là khâu then chốt để đưa nước ta vượt
qua tình trạng nước nghèo và kém phát triển, đạt mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở
thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Điều này được khẳng định bởi vai trò to
lớn của nguồn nhân lực này đối với sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Trước yêu cầu phải
“rút ngắn thời gian” tiến hành CNH, HĐH so với các nước đi trước, nguồn nhân lực
chất lượng cao ở nước ta có vai trò xung kích đi đầu trong việc tiếp nhận, chuyển giao
công nghệ tiên tiến; lựa chọn hướng đi cho những lĩnh vực KH-CN then chốt; đặc biệt
họ là hạt nhân trong việc ứng dụng các thành tựu KH-CN hiện đại vào các lĩnh vực kinh
tế-xã hội... Có thể nói, nguồn nhân lực chất lượng cao ở nước ta là lực lượng trực tiếp
thực hiện “đi tắt” “đón đầu” trong quá trình CNH, HĐH, rút ngắn dần khoảng cách tụt hậu
của nước ta so với các nước tiên tiến. Hơn nữa, chính nguồn nhân lực tinh hoa này góp
phần cực kỳ quan trọng vào quá trình đào tạo, bồi dưỡng, thu hút các tài năng khoa học trẻ,
tạo ra lực lượng chuyên gia, các nhà khoa học giỏi, bổ sung vào đội ngũ kế cận, cung cấp
cho yêu cầu CNH, HĐH.
Như các tỉnh ở vùng ĐBSCL, Bến Tre tiến hành CNH, HĐH ở một vùng đất giàu
tiềm năng kinh tế, nhưng vẫn còn nghèo và chậm phát triển. Điều đó có nhiều nguyên nhân,
mà một trong những nguyên nhân chính là thiếu một nguồn nhân lực chất lượng cao đủ sức
làm bật dậy những tiềm năng to lớn để đưa vào phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Vì vậy,
Bến Tre đang rất cần tài năng và trí tuệ của những cán bộ KH-CN giỏi, cán bộ lãnh đạo,
quản lý tài năng và một lực lượng lao động có trình độ lành nghề. Nhu cầu đó đang đặt ra
cho chiến lược phát triển NLCN của tỉnh phải chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao và coi đó là chính sách ưu tiên hàng đầu, bởi chính nguồn nhân lực này sẽ tạo ra
động lực to lớn thúc đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH ở Bến Tre trong những năm tới.
Như vậy, thực tiễn đang đặt ra nhu cầu cấp bách đối với Bến Tre trong việc xây
dựng, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao phù hợp với điều kiện của tỉnh, phục vụ
yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội và đẩy nhanh CNH, HĐH lên quy mô và tốc độ mới
cao hơn.
Thứ tư, phát triển NLCN ở Bến Tre trên nền tảng kế thừa, phát huy truyền
thống văn hóa, giá trị đạo đức tốt đẹp của con người vùng ĐBSCL nói chung, người
dân Bến Tre nói riêng
Đảng ta khẳng định: văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy sự nghiệp
phát triển kinh tế-xã hội. Với tư cách là động lực, văn hóa là yếu tố tinh thần tạo nên
chất lượng nguồn nhân lực. Sự thành công của Nhật Bản là kết quả của sự kết hợp giữa
văn hóa truyền thống dân tộc với việc khơi dậy và phát huy có hiệu quả NLCN.
Ở nước ta, văn hóa truyền thống dân tộc có sức sống mãnh liệt, nuôi dưỡng ý chí
và sức mạnh con người Việt Nam trong lịch sử dựng nước và giữ nước. Ngày nay, coi
trọng, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, gắn với tinh hoa văn hóa nhân loại, đó chính là
môi trường văn hóa lành mạnh của quá trình CNH, HĐH đất nước. Môi trường văn hóa
là cơ sở phát triển con người, phát triển NLCN đúng hướng, hạn chế những tác động
tiêu cực của cơ chế thị trường đối với NLCN.
Cũng như con người vùng ĐBSCL, con người Bến Tre vốn có truyền thống quý
báu, từng được thử thách trong lịch sử khai phá và chiến đấu chống ngoại xâm. Lòng yêu
nước, tinh thần bất khuất kiên cường, không khuất phục trước mọi kẻ thù đã được con
người Bến Tre chứng thực qua những chiến công oanh liệt trong hai cuộc kháng chiến
chống thực dân và đế quốc. Sự khắc nghiệt của điều kiện tự nhiên trong những ngày đầu đi
khai phá vùng đất mới cùng với những gian khổ trong chiến tranh ác liệt đã hình thành
trong mỗi con người nơi đây tính sáng tạo, ý chí tự lực tự cường và tinh thần đoàn kết gắn
bó, tương trợ nhau để vượt qua muôn vàn thử thách. Một đặc tính văn hóa nổi trội của con
người vùng đất này là tinh thần tự chủ, phong cách giao lưu cởi mở, nhạy cảm với cái mới
và không bị gò bó trong những khuôn mẫu giáo điều khô cứng. Có thể nói, ngoài kế thừa
những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của con người Việt Nam, con người Bến Tre nói
riêng, con người vùng ĐBSCL nói chung, còn có những nét văn hóa truyền thống và đức
tính tốt đẹp được hình thành từ chính điều kiện tự nhiên và hoàn cảnh lịch sử của vùng đất
đồng bằng sông nước phương Nam này.
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, sức mạnh NLCN Bến tre không chỉ ở lực lượng
lao động dồi dào, mà còn ở sức mạnh tinh thần, sức mạnh của truyền thống văn hóa
được hình thành và củng cố qua chiều dài lịch sử. Sự nghiệp CNH, HĐH đang rất cần ở
con người Bến Tre tinh thần dũng cảm, dám nghĩ dám làm, ý chí quyết tâm vượt khó
vươn lên nắm lấy những cơ hội để đưa nền kinh tế vượt qua nguy cơ tụt hậu. Trong điều
kiện địa lý, kinh tế-xã hội không thuận lợi, đòi hỏi con người Bến Tre càng phải năng
động sáng tạo, tìm tòi ra những thế mạnh, cách đi và mô hình phù hợp với hoàn cảnh
đặc thù của địa phương. Thực tế đó đã đặt ra yêu cầu khách quan phải biết kế thừa và
phát huy những giá trị truyền thống quý báu của con người Bến Tre trong quá trình phát
triển NLCN của tỉnh. Phát triển NLCN Bến Tre ngày nay không chỉ là gia tăng về số
lượng, đồng bộ về cơ cấu lực lượng lao động, mà trong chất lượng NLCN phải bao hàm
cả việc khơi dậy, vun bồi và phát triển những giá trị truyền thống tốt đẹp trong mỗi con
người và cả cộng đồng người Bến Tre cho sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội và CNH,
HĐH tỉnh nhà. NLCN Bến Tre hôm nay chỉ có thể và phải phát triển trên nền tảng
truyền thống quý báu ấy, chính đó là nguồn sức mạnh tinh thần vượt lên mọi khó khăn,
thử thách, thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH.
Tóm lại, yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH đòi hỏi phải phát triển
NLCN Bến Tre mạnh về số lượng, cao về chất lượng, đồng bộ về cơ cấu và trên nền
tảng kế thừa, phát triển những giá trị văn hóa truyền thống tốt đẹp của con người vùng
ĐBSCL, nhằm tạo ra nguồn nội lực mạnh mẽ thúc đẩy Bến Tre vươn lên sánh vai cùng
các tỉnh bạn trong khu vực, hội nhập cùng cả nước trong sự nghiệp CNH, HĐH.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Ở nước ta, phát triển NLCN là tất yếu nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH,
HĐH. Sức mạnh của NLCN không chỉ ở số lượng đông mà chủ yếu là ở chất lượng cao,
đó là sự kết hợp hài hòa giữa thể lực, trí lực với những phẩm chất tốt đẹp của con người.
Việc phân tích cấu trúc NLCN và mối quan hệ của nó với các nguồn lực khác đã khẳng
định vai trò to lớn, có ý nghĩa quyết định của NLCN đối với quá trình phát triển kinh tế-xã
hội, đó chính là nguồn nội lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
Phát triển NLCN trong quá trình CNH, HĐH ở Bến Tre là yêu cầu khách quan. Tuy
nhiên, quá trình phát triển này vừa phải đáp ứng những đòi hỏi của sự nghiệp CNH, HĐH,
vừa phải bảo đảm phù hợp với điều kiện thực tế và yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của
tỉnh. Sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre đang tiến hành với nhiều khó khăn, thách thức, đang
rất cần tài năng, trí tuệ và sức lực của con người Bến Tre, trước hết là lực lượng lao động -
lực lượng đã và đang đóng góp to lớn vào sự phát triển của tỉnh. Có thể nói, sự nghiệp
CNH, HĐH ở Bến Tre tiến hành nhanh hay chậm, thu được thắng lợi hay không, phần lớn
tuỳ thuộc vào sức mạnh NLCN. Điều đó đã đặt ra yêu cầu cần nhanh chóng phát triển
mạnh NLCN Bến Tre về số lượng và chất lượng, chú trọng phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, coi đó là khâu đột phá đưa Bến Tre vượt qua nguy cơ tụt hậu hiện nay.
Chương 2
THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
Ở TỈNH BẾN TRE VÀ NHỮNG XU HƯỚNG
VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NÓ
Phát triển NLCN là yêu cầu cấp bách trong quá trình CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre.
Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, đặc điểm kinh tế -xã hội, truyền thống lịch sử văn hóa,
con người Bến Tre… có những nét đặc thù riêng nên đã ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ
cũng như xu hướng vận động của quá trình phát triển NLCN của tỉnh. Điều đó đòi hỏi
các cấp, các ngành cần nhận thức rõ, để xây dựng kế hoạch, chính sách phát triển
NLCN phù hợp, nhằm tạo ra lực lượng lao động mạnh về số lượng, cao về chất lượng,
đồng bộ về cơ cấu đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến Tre trong
thời gian tới.
2.1. ĐIỀU KIỆN TỰ NHIÊN, ĐẶC ĐIỂM KINH TẾ - XÃ HỘI, VĂN HÓA
VÀ NHỮNG NHÂN TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN SỰ PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI CỦA TỈNH BẾN TRE HIỆN NAY
2.1.1. Điều kiện tự nhiên và những đặc điểm kinh tế-xã hội, lịch sử văn hóa
của tỉnh Bến Tre
Điều kiện tự nhiên
Bến Tre là một tỉnh đồng bằng cuối nguồn sông Cửu Long, nằm về phía Đông
Nam của khu vực châu thổ ĐBSCL. Địa hình Bến Tre là vùng đất bằng phẳng, do phù
sa của bốn nhánh sông Cửu Long (Tiền Giang, Ba Lai, Hàm Luông và sông Cổ Chiên)
bồi tụ qua nhiều thế kỷ, hình thành ba dải cù lao: An Hóa, Bảo và Minh. Nhìn trên bản
đồ, tỉnh Bến Tre có hình rẻ quạt mà cán quạt nằm về phía thượng nguồn, các nhánh
sông lớn giống như những nan quạt xoè rộng ra phía biển Đông bao bọc ba dải đất cù
lao. Phía Bắc của Bến Tre giáp tỉnh Tiền Giang, có ranh giới chung là sông Tiền, phía
Tây và phía Nam giáp tỉnh Vĩnh Long và Trà Vinh, có ranh giới chung là sông Cổ
Chiên, phía Đông giáp biển Đông với chiều dài 65km bờ biển. Đến nay, Bến Tre là tỉnh
duy nhất ở ĐBSCL còn bị tách biệt với cả nước bởi những con sông lớn, khiến cho Bến
Tre giống như một ốc đảo. Chính điều kiện tự nhiên này là một trong những nguyên
nhân làm cản trở sự phát triển của Bến Tre. Do vậy, khi nào cầu Rạch Miễu được hoàn
thành mới có thể hạn chế được phần nào sự tách biệt này. Diện tích tự nhiên của Bến Tre là 2.315km2, vùng lãnh hải rộng khoảng 20.000 km2, dân số 1.345.637 người (tính
đến cuối năm 2004). Tỉnh Bến Tre có 1 thị xã, 7 huyện và 160 xã, phường, thị trấn. Thị
xã Bến Tre là trung tâm kinh tế, chính trị, văn hóa và khoa học kỹ thuật của tỉnh, cách
Thành phố Hồ Chí Minh 87km về phía Tây. Là một tỉnh có diện tích không lớn nhưng
đông dân, lại bị cách biệt về mặt địa lý, do đó, lao động và việc làm đã và đang là những
vấn đề bức xúc đặt ra trong quá trình phát triển của Bến Tre.
Thành phần dân tộc ở Bến Tre chủ yếu là người Kinh, dân tộc thiểu số rất ít và
hầu như hòa nhập với người Kinh. Trong suốt chiều dài lịch sử, các dân tộc anh em sinh
sống nơi đây đã đoàn kết chiến đấu và chiến thắng ngoại xâm, cùng nhau xây dựng lại
quê hương.
Bến Tre là tỉnh có hệ thống sông ngòi chằng chịt vào loại bậc nhất khu vực
ĐBSCL, với tổng chiều dài hơn 6.000 km [43, tr.1366], bao bọc và chia cắt làm cho
Bến Tre thành vùng đất cù lao bốn bề sông biển. Bến Tre có địa hình thấp, lại có nhiều
sông và kênh, rạch, do đó nước sông bị nhiễm mặn nghiêm trọng vào mùa khô. Trong
những năm gần đây, nước mặn xâm nhập sâu, bao phủ phần lớn diện tích của tỉnh, gây
nên tình trạng thiếu nước ngọt gay gắt. Đây là vấn đề bức xúc, ảnh hưởng lớn đến sản
xuất và đời sống của nhân dân trong tỉnh.
Về vị trí địa lý kinh tế
Trong tương lai, tỉnh Bến Tre có nhiều thuận lợi trong phát triển kinh tế-xã hội
do nằm trong vòng cung các địa bàn và trung tâm phát triển: Cần Thơ, Thành phố Hồ
Chí Minh, Bà Rịa - Vũng Tàu và địa bàn kinh tế trọng điểm phía Nam. Tuy có khó khăn
về đường bộ, song đường thuỷ nối Bến Tre với các trung tâm này khá thuận lợi. Hiện
nay, nhiều tuyến đường bộ được xây dựng nối Bến Tre với các tỉnh lân cận, một số cảng
trung chuyển đang được đầu tư mới và nâng cấp theo hướng hiện đại. Đặc biệt, cầu
Rạch Miễu bắc qua sông Tiền sắp hoàn thành, phà Cổ Chiên đang xây dựng, cầu Hàm
Luông đang có kế hoạch thi công sẽ nối liền các dải cù lao của Bến Tre với các tỉnh lân
cận. Vài năm tới đây, sự giao lưu thông suốt về đường bộ và đường thuỷ giữa Bến Tre
và các tỉnh trong vùng sẽ tạo cho Bến Tre lợi thế về vị trí giao thông quan trọng từ
ĐBSCL đi Đông Nam bộ và ngược lại.
Tài nguyên thiên nhiên của Bến Tre rất đa dạng và phong phú (đất đai, sông
nước, các hệ sinh thái cửa sông, ven biển…) thuận lợi cho việc phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện, đặc biệt là việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản và đang là tỉnh trọng
điểm cây ăn quả của ĐBSCL. Đó là những lợi thế tuyệt đối không chỉ trước mắt mà còn
có tính lâu dài, cung cấp sản phẩm cho thị trường trong nước và xuất khẩu, tạo nền tảng
phát triển các ngành công nghiệp chế biến và dịch vụ đi kèm.
Bên cạnh đó, điều kiện tự nhiên tạo cho Bến Tre cảnh sắc thiên nhiên đặc trưng
của vùng Nam Bộ với nhiều khu di tích lịch sử, văn hóa, thích hợp cho việc phát triển
các loại hình du lịch sinh thái, du lịch miệt vườn và đang là lĩnh vực có nhiều triển vọng
cho phát triển ngành du lịch nếu được tỉnh tập trung đầu tư.
Điều kiện tự nhiên như trên, một mặt thích hợp cho sản xuất nông nghiệp, lưu
thông thuận tiện bằng đường thuỷ, nhưng mặt khác, cũng tạo cho Bến Tre không ít khó
khăn trong sản xuất nông nghiệp và đời sống, do diện tích đất nhiễm mặn lớn vào mùa
khô. Mặt khác, do địa thế cù lao, cách trở lưu thông bằng đường bộ, nên Bến Tre khó
thu hút đầu tư cả trong và ngoài nước. Vì thế, để đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH, hội
nhập với các tỉnh trong vùng và cả nước, tránh được nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế,
Bến Tre phải thật sự chú trọng phát triển NLCN của mình, coi đó là nguồn nội lực quyết
định cho sự phát triển nhanh và bền vững. Vấn đề là phải nâng cao chất lượng NLCN,
khai thác và sử dụng có hiệu quả tiềm năng to lớn con người Bến Tre, nhằm biến NLCN
thành nội lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế -xã hội phát triển. Do đó, phát triển NLCN phải
được đặt ở vị trí trung tâm hàng đầu trong chính sách phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh.
Trong lần về thăm Bến Tre (tháng 8-1998), Thủ tướng Phan Văn Khải có nhấn mạnh:
“Để giúp Bến Tre đi nhanh hơn, không bị tụt hậu so với các địa phương khác, cần tiếp
tục phát huy truyền thống cách mạng của Bến Tre trong thời kỳ xây dựng, khai thác tốt
những lợi thế của tỉnh, nhất là về lực lượng lao động” [2, tr.47].
Đặc điểm kinh tế-xã hội
Với 70% diện tích là đất nông nghiệp, 65km bờ biển và hệ thống sông ngòi chằng
chịt, Bến Tre có lợi thế phát triển sản xuất nông nghiệp, đặc biệt là kinh tế thuỷ sản và kinh
tế vườn. Trong những năm gần đây, nền kinh tế Bến Tre có mức tăng trưởng khá, giai đoạn
2001 - 2004 GDP bình quân đạt 8,7%/ năm, nhưng tốc độ tăng trưởng kinh tế còn phụ
thuộc chủ yếu vào tốc độ tăng của khu vực I (nông - lâm - thủy sản), chiếm 60,82% GDP
của tỉnh (năm 2004), vì vậy, đây là sự tăng trưởng không bền vững. Mặt khác, nền kinh tế
của Bến Tre đang đứng trước những khó khăn, thách thức: trình độ phát triển còn thấp, qui
mô sản xuất còn nhỏ bé, vấn đề đổi mới thiết bị, công nghệ sản xuất triển khai chậm. Nhiều
vấn đề bức xúc đặt ra trên lĩnh vực kinh tế-xã hội ngày càng gay gắt, nổi lên là vấn đề giải
quyết việc làm cho người lao động, đời sống một bộ phận dân cư ở nông thôn còn khó
khăn, tiêu thụ sản phẩm sản xuất của nông dân không ổn định; tệ nạn xã hội chưa có chiều
hướng giảm… đã làm hạn chế động lực phát triển kinh tế của tỉnh.
Có thể thấy, mặc dù nền kinh tế Bến Tre đang từng bước phát triển, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng nhưng còn rất chậm. Do đó, muốn đẩy nhanh CNH, HĐH,
phát triển ngành nghề, ứng dụng KH-CN vào sản xuất, nâng cao chất lượng hàng nông
sản, đòi hỏi Bến Tre phải chú trọng phát triển mạnh NLCN cả về số lượng và chất
lượng, đủ sức thực hiện nhiệm vụ trong giai đoạn mới.
Bến Tre có nguồn nhân lực dồi dào, lực lượng lao động trẻ chiếm số đông, người
lao động cần cù, chịu khó, thông minh, hiếu học, đó là những lợi thế nhất định về
NLCN trong sự nghiệp CNH, HĐH. Đời sống người dân Bến Tre từng bước được cải
thiện, tỷ lệ hộ khá, giàu có tăng, hộ nghèo giảm dần, nhưng vẫn còn nhiều (4,62% năm
2004). Thu nhập bình quân đầu người đạt 6,2 triệu đồng (năm 2004). Như vậy, so với
mức bình quân của cả nước, mức thu nhập bình quân đầu người của Bến Tre hiện nay
còn thấp.
Bến Tre là một trong những tỉnh gánh chịu hậu quả chiến tranh rất nặng nề, với
hơn 35.000 liệt sĩ, trên 18.000 thương binh và 2.067 mẹ được Nhà nước phong tặng
danh hiệu Bà mẹ Việt Nam Anh hùng [2, tr.9].
Truyền thống lịch sử, văn hóa và con người Bến Tre
Cả nước biết Bến Tre “quê hương Đồng khởi” với tám chữ vàng “Anh dũng
Đồng khởi, Thắng Mỹ, diệt Nguỵ”. Những chiến công oanh liệt của quân và dân Bến
Tre đã góp phần viết nên trang sử vẻ vang, chói lọi của dân tộc Việt Nam. Những tên
đất, tên người đã trở thành niềm tự hào của bao thế hệ người dân Bến Tre hôm nay
và cả mai sau. Trong hai cuộc kháng chiến vừa qua, quân và dân Bến Tre đã kiên
cường chiến đấu và chiến thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, góp phần to
lớn vào thắng lợi vẻ vang của dân tộc, giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất
đất nước. Nhưng sự hy sinh của nhân dân Bến Tre là hết sức lớn lao. Bến Tre trở
thành mảnh đất chịu nhiều đau thương vào loại nhất, nhì của cả nước. Lịch sử và
những chiến công của quân và dân Bến Tre là bản anh hùng ca bất diệt, biểu tượng
sáng ngời của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, ý chí quật cường quyết chiến và quyết
thắng quân xâm lược.
Từ lâu, Bến Tre đã là vùng đất "địa linh nhân kiệt", nơi sản sinh ra những nhân
vật có trình độ học vấn uyên thâm. Vị Tiến sĩ đầu tiên của sứ Nam kỳ lục tỉnh, quê vùng
biển Ba Tri, Bến Tre - Phan Thanh Giản, thi đỗ Tiến sĩ năm 30 tuổi. Trương Vĩnh Ký -
quê vùng trái cây nổi tiếng Chợ Lách, con người “học vấn uyên bác” thông thạo hơn
mười thứ tiếng, chỉ trong 40 năm hoạt động đã để lại 118 tác phẩm thuộc đủ thể loại.
Sau ngọn cờ thơ văn yêu nước tiêu biểu nửa sau thế kỷ XIX - Nguyễn Đình Chiểu, phải
kể đến Phan Văn Trị mà tên tuổi gắn với cuộc bút chiến sôi nổi nhất thời bấy giờ đánh
vào một nho sĩ bán mình cho giặc - Tôn Thọ Tường. Ba chủ bút của ba tờ báo buổi đầu
trong lịch sử báo chí ở Nam kỳ đầu thế kỷ XX đều là người Bến Tre, trong đó có chủ
bút tờ báo phụ nữ sớm nhất nước ta là “bà đồ” Nguyễn Thị Ngọc Khuê, bút danh Sương
Nguyệt Anh, con gái nhà thơ yêu nước Nguyễn Đình Chiểu.
Trong lịch sử, người dân nơi đây vừa kế thừa những giá trị truyền thống tốt đẹp
của dân tộc Việt Nam, vừa mang đậm những nét độc đáo riêng của con người vùng đất
cù lao. Cũng như nhiều tỉnh vùng ĐBSCL, Bến Tre vốn là vùng đất hoang vu mới được
khai phá theo bước chân “người mang gươm đi mở đất” của cha ông người Việt từ miền
ngoài đến, vào cuối thế kỷ XVII, đầu thế kỷ XVIII. Gần ba thế kỷ đấu tranh chống giặc
ngoại xâm và ách áp bức bóc lột của phong kiến, người dân Bến Tre đã phải đổ biết bao
xương máu, mồ hôi để gìn giữ và biến mảnh đất hoang vu, rừng thiêng nước độc thành
vùng đất trù phú, giàu tiềm năng như hôm nay.
Từ trong gian khổ và đau thương của chiến tranh, đã xuất hiện ở Bến Tre những
kỳ tích lịch sử gắn liền với những người con anh hùng, vùng đất anh hùng. Gần như tay
không, người Bến Tre đã vùng lên, với ngọn đuốc lá dừa từ Mỏ Cày đã cháy bùng lên
phong trào Đồng khởi “diệt ác, phá kìm” lan rộng khắp miền Nam. Phong trào đấu tranh
chính trị của “Đội quân tóc dài”, của những người phụ nữ Bến Tre như một huyền thoại
đẹp đã đi vào lịch sử dân tộc. Vị nữ tướng đầu tiên thời chống Mỹ, nhà lãnh đạo cách
mạng tài năng của đất Bến Tre - Phó tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang giải phóng
miền Nam - Nguyễn Thị Định. Tiếng bom tận sào huyệt báo hiệu sự sụp đổ chế độ Mỹ -
Nguỵ Sài Gòn năm 1975 cũng do người con của Bến Tre, anh hùng phi công Nguyễn
Thành Trung.
Những sự kiện điển hình đó đã cho thấy con người Bến Tre có đầy đủ những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam: yêu nước nồng nàn, kiên cường bất khuất, thông minh, sáng tạo… Đó là niềm tự hào, là nguồn sức mạnh tinh thần góp phần hun đúc nên bản lĩnh, ý chí để các thế hệ người Bến Tre hôm nay vững bước tiến lên trên
con đường CNH, HĐH và đổi mới đất nước theo định hướng XHCN.
Cùng với lòng yêu nước, con người Bến Tre còn "được pha đậm thêm tính ngang tàng, nghĩa hiệp, phóng khóang, dường như không bị ràng buộc bởi những quan niệm hẹp
hòi, công thức, xơ cứng của Nho giáo" [43, tr.1011], kết hợp với tinh thần tự lực, tự cường, dựa vào sức mình là chính, không trông chờ, ỷ lại. Tinh thần đó không chỉ thể
hiện trong sản xuất, mà còn trong chiến đấu. Từ “quê dừa” đến “quê hương Đồng khởi”, từ “Đội quân tóc dài” đến “Đội đặc công thuỷ” là biểu tượng của tinh thần sáng tạo, ý
chí tự vươn lên mãnh liệt của con người Bến Tre.
Sẽ không đầy đủ và toàn diện khi nói về nét đặc trưng của con người Bến Tre mà
không đề cập đến những hạn chế, tiêu cực của họ. Phải chăng do điều kiện lịch sử luôn phải đương đầu với các thế lực phong kiến và thực dân đế quốc xâm lược, chịu nhiều
đau thương trong chiến tranh và vốn có một chút “ngang tàng, phóng khóang”, mà người dân trên vùng đất này cho đến nay vẫn còn tư tưởng “tự do” luôn muốn thóat khỏi sự quản lý của pháp luật. Mặt khác, với nền sản xuất nông nghiệp lạc hậu từ lâu
đời, lại bị cách biệt với bên ngoài nên một bộ phận người dân Bến Tre có lối sống khép kín, ít quan tâm đến “bên ngoài”, bảo thủ trì trệ, cục bộ địa phương, không dễ chấp nhận những giá trị mới.
Việc chỉ ra những hạn chế này có ý nghĩa quan trọng trong công tác giáo dục, bồi
dưỡng những thế hệ người Bến Tre hôm nay. Đó là, một mặt chú trọng giáo dục truyền
thống cách mạng, khơi dậy tinh thần tự lực, tự cường vượt khó khăn thách thức và quyết
tâm đi lên, không cam chịu đói nghèo, mặt khác, coi trọng giáo dục ý thức pháp luật,
quyền và nghĩa vụ công dân, tuân thủ kỷ luật, biết chọn lọc và tiếp thu những giá trị
mới, tiến bộ. Đó chính là cơ sở hình thành những phẩm chất tốt đẹp của người lao động
mới trong nền sản xuất công nghiệp hiện đại.
2.1.2. Những yếu tố cơ bản tác động đến quá trình phát triển nguồn lực con
người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre
Quá trình phát triển NLCN ở Bến Tre đang diễn ra dưới tác động nhiều chiều của
nhiều yếu tố cả khách quan lẫn chủ quan. Việc nhận rõ sự tác động của các yếu tố này là
cơ sở để xây dựng phương hướng, giải pháp nhằm phát triển NLCN ở Bến Tre đúng
hướng, để bảo đảm thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre.
Thứ nhất, quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH ở tỉnh vừa thúc đẩy, vừa đòi hỏi
phải nhanh chóng phát triển nguồn lực con người để đáp ứng yêu cầu của quá trình
này
Thực chất của CNH, HĐH ở Bến Tre là quá trình cải biến một cách căn bản nền
kinh tế cũ, lạc hậu, dựa trên lao động thủ công, năng suất lao động thấp sang nền kinh tế
hiện đại, năng suất lao động và tổng sản phẩm xã hội tăng cao. Vì thế, đẩy mạnh CNH,
HĐH chính là quá trình từng bước tạo ra tiền đề, điều kiện vật chất cần thiết để người
lao động có cơ hội thuận lợi được tiếp cận những dịch vụ ngày càng hoàn thiện về giáo
dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe tạo nhiều việc làm và nâng cao mức sống… Với ý
nghĩa đó, CNH, HĐH tạo điều kiện thúc đẩy quá trình phát triển NLCN, đặc biệt là
nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong quá trình đó, CNH, HĐH đặt ra những yêu
cầu cao và mới đối với lực lượng lao động về trình độ chuyên môn kỹ thuật, kỹ năng lao
động, khả năng thích nghi với phương thức lao động mới… Đáp ứng những yêu cầu đó,
người lao động - với tư cách là lực lượng sản xuất hàng đầu trong nền kinh tế hiện đại -
phải không ngừng học tập, bồi dưỡng nâng cao trình độ văn hóa, chuyên môn tay nghề
và cả nhân cách đạo đức, năng lực tư duy sáng tạo. Có thể nói, quá trình CNH, HĐH
khách quan tạo ra môi trường và điều kiện, mà ở đó người lao động phải luôn tự đổi
mới không ngừng, tự đào tạo, bồi dưỡng về mọi mặt. Như vậy, CNH, HĐH là yếu tố tác
động mạnh mẽ đến NLCN và là “đòn bẩy” trực tiếp thúc đẩy NLCN phát triển, đồng
thời đặt ra những yêu cầu mới để người lao động không ngừng phấn đấu. Đến lượt nó,
NLCN phát triển cao về số lượng và chất lượng lại là động lực mạnh mẽ đẩy nhanh tiến
trình CNH, HĐH.
Bên cạnh thúc đẩy quá trình đào tạo ra một lớp người lao động mới có năng lực
và phẩm chất ngày càng cao đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu lao động, trong quá
trình CNH, HĐH, một bộ phận không nhỏ trong lực lượng lao động, chủ yếu ở nông
thôn, vốn quen với tác phong lao động nông nghiệp, thiếu năng động sáng tạo, chậm đổi
mới... sẽ là nhóm đối tượng dễ bị gạt ra ngoài quá trình CNH, HĐH nền sản xuất; không
ít người lao động khó làm quen với cường độ và nhịp độ nhanh chóng của lao động
công nghiệp; nhiều người lao động trình độ thấp dễ bị gạt ra khỏi guồng máy sản xuất.
Tình trạng người lao động phải bỏ việc sau thời gian thử việc tại các khu công nghiệp,
nhà máy… là một thực tế phản ánh điều đó. Mặt khác, việc ứng dụng nhanh những
thành tựu KH-CN vào sản xuất, vào quản lý kinh tế-xã hội cũng làm cho người lao động
nhanh chóng bị lạc hậu, tụt lại phía sau, nếu họ không tự nỗ lực học tập, bồi dưỡng
chuyên môn nghiệp vụ, nâng cao tay nghề.
Như vậy, tác động của CNH, HĐH đến quá trình phát triển NLCN ở Bến Tre có
cả mặt tích cực lẫn hạn chế. Trên thực tế, CNH, HĐH ở Bến Tre chưa đủ mạnh để thúc
đẩy nhanh sự ra đời một đội ngũ trí thức, các nhà kinh doanh, nhà quản lý, chuyên gia
công nghệ và công nhân lành nghề, đủ sức tạo ra động lực đưa Bến Tre phát triển vượt
bậc. Mặt khác, phần lớn lực lượng lao động của tỉnh chưa qua đào tạo, chưa được trang
bị đủ những năng lực và phẩm chất để hội nhập vào xu thế chuyển đổi nền kinh tế theo
hướng HĐH. Đây là lực cản lớn trong quá trình CNH, HĐH và tiến trình phát triển của
Bến Tre hiện nay. Vì vậy, để thúc đẩy phát triển NLCN, một mặt Bến Tre cần phải đẩy
mạnh hơn nữa quá trình CNH, HĐH để làm xuất hiện nhu cầu phát triển về số lượng và nâng
cao về chất lượng nguồn nhân lực, mặt khác cần có kế hoạch và tập trung mọi nguồn lực gấp
rút:
Đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực theo diện rộng để đáp ứng yêu cầu,
đồng thời lựa chọn, đào tạo nhân tài để có khả năng tiếp thu những công nghệ
hiện đại, tập trung trước hết vào xây dựng đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi,
công nhân lành nghề, đội ngũ công chức, hành chính thạo việc, công tâm [22,
tr.56].
Thứ hai, sự tác động của cơ chế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế đến quá
trình phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre
Cùng với quá trình CNH, HĐH, cơ chế thị trường đã có những tác động không
nhỏ đến quá trình phát triển NLCN ở Bến Tre.
Trước hết, cơ chế thị trường tạo ra những cơ hội thuận lợi cho con người phát
triển. Dưới tác động của cơ chế thị trường, những quan niệm, thói quen, tâm lý cũ gắn
liền với nền sản xuất tự cấp, tự túc của con người sẽ dần dần được thay đổi. Thay vào
đó, tính năng động, tư duy sáng tạo được khơi dậy và phát huy; năng lực, tài năng của
mỗi người có cơ hội được thể hiện và khẳng định; cạnh tranh trong sản xuất kinh doanh
được đặt ra. Trong môi trường đó, đòi hỏi người lao động phải tự vươn lên không
ngừng, tự nâng cao trình độ mọi mặt như tri thức, kỹ năng tay nghề, khả năng thích
nghi, tính kỷ luật, phẩm chất đạo đức… Nói cách khác, cơ chế thị trường đặt ra nhu cầu
tự đào tạo, bồi dưỡng của chính người lao động vì lợi ích thiết thân của họ. Thực tế cho
thấy, sự vươn lên của hàng chục ngàn nông dân từ nghèo khó trở thành những triệu phú,
tỷ phú miệt vườn ở Bến Tre đã chứng minh rằng cơ chế thị trường tạo ra cơ hội làm
giàu chính đáng cho những ai năng động sáng tạo, quyết chí vươn lên, chịu khó học hỏi,
chăm chỉ lao động. Năm 2004 toàn tỉnh có 21.018 nông dân sản xuất kinh doanh giỏi
các cấp, trong đó có 260 nông dân giỏi cấp tỉnh và 10 nông dân giỏi cấp trung ương với
các mô hình nuôi thuỷ sản, trồng cây ăn trái, chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp… [64,
tr.5].
Trong nền kinh tế thị trường, thị trường lao động ở Bến Tre từng bước hình
thành và phát triển. Quan hệ giữa cung và cầu lao động góp phần tạo ra sự cân đối về
nhu cầu và đào tạo nguồn nhân lực, từng bước đáp ứng về cơ cấu lao động theo các cấp
và các trình độ, về cơ cấu theo ngành nghề, khu vực sản xuất. Ngoài ra, nó còn tạo ra sự
dịch chuyển lao động từ khu vực nông thôn, vùng sâu có thu nhập thấp sang khu vực
thành thị có thu nhập cao hơn; từ thành phần kinh tế này sang các thành phần kinh tế
khác, mà chủ yếu hướng vào các khu công nghiệp, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài. Chỉ trong vòng 4 năm (từ năm 2000 đến năm 2004) số lao động trong khu vực
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài tăng vọt gần 30 lần. Nếu năm 2000 chỉ có 24 người thì
đến năm 2004 tăng lên 715 người [13]. Như vậy, sự hình thành và phát triển của thị
trường lao động đã góp phần đánh thức tiềm năng lao động to lớn của NLCN ở tỉnh Bến
Tre.
Bên cạnh đó, mặt trái của thị trường lao động cũng gây không ít khó khăn cho
việc quản lý, sử dụng NLCN, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh. Biểu hiện
rõ ở tính tự phát trong đào tạo, sử dụng người lao động. Ở Bến Tre, trong nhiều năm
qua, việc đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực bị “thả nổi”, không được quy hoạch và
thống nhất quản lý, chưa gắn đào tạo với sử dụng, gây mất cân đối giữa các bậc và các
ngành đào tạo. Do đó, tình trạng học sinh, sinh viên tốt nghiệp không tìm được việc làm
ở tỉnh hoặc phải làm công việc không được đào tạo, gây lãng phí chất xám rất lớn. Một
bộ phận không nhỏ cán bộ, công chức, trí thức khoa học- công nghệ có năng lực, sinh
viên Bến Tre… có xu hướng chuyển đến những thành phố lớn để có điều kiện phát triển
và thu nhập cao. Tình hình trên gây không ít khó khăn cho công tác quản lý, đào tạo và
sử dụng nguồn nhân lực, ảnh hưởng đến chất lượng NLCN của tỉnh trong nhiều năm
qua.
Cùng với cơ chế thị trường, quá trình hội nhập kinh tế quốc tế cũng có những tác
động đến quá trình phát triển NLCN ở tỉnh Bến Tre.
Về mặt tích cực, trong quá trình mở rộng giao lưu, hợp tác, trao đổi hàng hóa,
vốn, công nghệ mới… với các nước trên thế giới, Bến Tre có điều kiện khai thác những
lợi thế sẵn có, trong đó có tiềm năng to lớn của lực lượng lao động.
Hiện nay, tỉnh Bến Tre đang đẩy mạnh thu hút đầu tư từ nhiều nguồn, đặc biệt là
đầu tư nước ngoài vào các lĩnh vực là thế mạnh kinh tế của tỉnh. Qua đó, NLCN ở Bến
Tre có điều kiện và cơ hội phát triển. Thứ nhất, việc mở rộng và phát triển kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài có tác dụng thúc đẩy phát triển kinh tế, tạo nhiều việc làm, tăng
thu nhập cho lực lượng lao động ở Bến Tre, góp phần tạo sự ổn định về mặt xã hội. Thứ
hai, khi công nghệ mới được trang bị vào sản xuất, một mặt góp phần hiện đại hóa nền
kinh tế, tác động đến quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH. Mặt khác,
cơ cấu lao động cũng biến đổi, một bộ phận lao động ở khu vực nông nghiệp chưa qua
đào tạo sẽ dần chuyển sang lao động trong khu vực dịch vụ, công nghiệp với yêu cầu
trình độ tay nghề ngày càng cao. Thứ ba, trong quá trình lao động, để thích ứng với
công nghệ sản xuất hiện đại, người lao động phải luôn học hỏi nâng cao trình độ tay
nghề, có ý thức kỷ luật trong lao động, rèn luyện tác phong công nghiệp… xoá dần
được lối trì trệ, tự do vô kỷ luật trong lao động. Thứ tư, để mở rộng, trao đổi hàng hóa,
đòi hỏi sản phẩm của Bến Tre phải có sức cạnh tranh cao mới có thể thâm nhập sâu vào
thị trường thế giới. Muốn nâng cao chất lượng sản phẩm hàng hóa, ngoài việc đầu tư đổi
mới công nghệ sản xuất, điều quan trọng nhất là phải đào tạo đội ngũ lao động có trình
độ cao, có khả năng làm chủ công nghệ mới, sáng tạo và ứng dụng thành tựu khoa học
tiên tiến, để cải tiến kỹ thuật nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm. Thứ năm, thông
qua hội nhập kinh tế quốc tế còn tạo ra sự gắn kết giữa thị trường lao động trong tỉnh
với thị trường lao động trong khu vực và trên thế giới. Vài năm gần đây, xuất khẩu lao
động đã trở thành địa chỉ tin cậy và thu hút sự quan tâm của nhiều người lao động ở Bến
Tre. Số người đi lao động ở nước ngoài ngày càng nhiều, năm 2003 chỉ có 480 người, năm
2004 có 971 người. Xuất khẩu lao động không chỉ mở ra khả năng cạnh tranh cho người
lao động mà còn tạo cơ hội cho họ tiếp cận với KH-CN tiên tiến của thế giới, nâng cao trình
độ tay nghề, từ đó, góp phần chuẩn bị đội ngũ lao động thích ứng với nền sản xuất lớn
XHCN.
Việc "mở cửa" giao lưu, hội nhập kinh tế quốc tế không chỉ có tác động tích cực đến
quá trình phát triển NLCN của Bến Tre mà còn có những tác động tiêu cực. Cùng với việc
mở cửa hội nhập kinh tế thì những yếu tố văn hóa, lối sống "phương Tây" cũng du nhập
ngày càng sâu rộng vào đời sống xã hội, làm "biến đổi" đạo đức, lối sống của một phận
không nhỏ người lao động. Xu hướng đề cao văn hóa ngoại lai, chạy theo lối sống "hiện
đại", hạ thấp hoặc phủ nhận những giá trị đạo đức, truyền thống văn hóa dân tộc có chiều
hướng gia tăng, nhất là trong tầng lớp thanh, thiếu niên - lực lượng lao động chủ yếu và
đông đảo trong xã hội. Lối sống thực dụng, hưởng thụ, đề cao chủ nghĩa cá nhân, lạnh lùng
chà đạp lên lợi ích người khác... trở nên phổ biến ở nhiều người. Chẳng hạn hội chứng "lấy
chồng Đài Loan" đang lan rộng đến nhiều vùng nông thôn ở Bến Tre và các tỉnh khu vực
ĐBSCL. Trong năm 2001, ở Bến Tre có 203 cuộc hôn nhân với người nước ngoài, trong đó
trên 70% kết hôn với người Đài Loan. Có thể nói, phần lớn những cuộc hôn nhân này bất chấp
thành phần, nghề nghiệp, tuổi tác trên cơ sở tính toán đổi trao. Hậu quả là rất nhiều cô gái trong
những cuộc hôn nhân đó không hề có hạnh phúc, thậm chí có những người bị đẩy vào bước
đường cùng trở thành gái mại dâm. Đây là lối sống hoàn toàn xa lạ với những giá trị truyền
thống tốt đẹp của dân tộc.
Thứ ba, hệ thống giáo dục - đào tạo tỉnh Bến Tre là nhân tố trực tiếp tác động
đến quá trình phát triển NLCN của tỉnh
Để phát triển nguồn nhân lực, GD-ĐT được xem là con đường cơ bản nhất, vừa
có tính lâu dài, vừa có tính đột phá nhằm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo nên
và tăng cường năng lực nội sinh để đẩy mạnh CNH, HĐH.
Thực hiện nhiệm vụ “nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”,
ngành GD-ĐT Bến Tre góp phần quan trọng trong việc nâng cao chất lượng NLCN, tạo
động lực phát triển kinh tế-xã hội. Hiện nay, về cơ bản, Bến Tre đã hoàn thành chỉ tiêu
xóa nạn mù chữ, phổ cập tiểu học và đang triển khai thực hiện phổ cập THCS (dự kiến
sẽ hoàn thành vào năm 2006). Không chỉ coi trọng việc nâng cao trình độ học vấn cho
nguồn nhân lực của mình, những năm gần đây, tỉnh rất chú trọng công tác đào tạo nghề
cho lực lượng lao động, xem đây là bước đột phá, hình thành nên động lực mới về
nguồn nhân lực, góp phần làm biến đổi về chất đối với sự nghiệp phát triển kinh tế-xã
hội, nhằm đạt mục tiêu chung là khắc phục sự tụt hậu về kinh tế. Sự phát triển khá mạnh
và đồng bộ hệ thống GD-ĐT của tỉnh đã góp phần quan trọng tạo nên sự chuyển biến về
số lượng và chất lượng NLCN của Bến Tre trong những năm gần đây.
Tuy nhiên, trong tình hình chung của ngành Giáo dục cả nước, GD-ĐT tỉnh Bến
Tre vẫn còn nhiều bất cập, yếu kém và hạn chế. Chất lượng và hiệu quả GD-ĐT còn
thấp so với yêu cầu phát triển và chưa đáp ứng nhu cầu lao động của các ngành, nghề ở
địa phương và thị trường lao động. Hiện chưa có đánh giá cụ thể về hiệu quả đào tạo
của các cơ sở dạy nghề trong tỉnh. Tuy nhiên, qua kết quả Hội chợ việc làm - xuất khẩu
lao động tỉnh Bến Tre lần thứ I (từ 29 đến 31/8/2003) cho thấy, trong 8.252 hồ sơ đăng
ký xin việc, sơ tuyển được 670 lao động (chiếm 8,12%), tuyển dụng chính thức được
156 lao động (chiếm 1,9%) [59]. Con số này phần nào nói lên chất lượng của lực lượng
lao động ở Bến Tre chưa đáp ứng yêu cầu thị trường lao động, vì vậy, cơ hội tìm việc
làm của họ bị hạn chế.
Việc mở rộng và đa dạng hóa các loại hình đào tạo, nhất là mô hình liên kết đào tạo
tại chức, nhằm đáp ứng yêu cầu học tập, nâng cao trình độ cho người lao động là rất cần
thiết. Nhưng do sự yếu kém của công tác quản lý và tác động bởi mặt trái của cơ chế thị
trường đã dẫn đến tình trạng khó kiểm soát về mặt chất lượng đào tạo. Kết quả là không ít
người đã qua đào tạo có bằng cấp, nhưng trình độ và khả năng thực tế không tương xứng,
không đáp ứng được yêu cầu của quá trình lao động sản xuất. Tình trạng “học giả, bằng
thật” không chỉ ảnh hưởng đến chất lượng đào tạo, mà còn tác động xấu đến nhân cách của
người lao động. Đây là điều đáng lo ngại nhất trong chất lượng GD-ĐT hiện nay ở nước ta
nói chung, ở Bến Tre nói riêng.
Ngoài ra, sự mất cân đối trong cơ cấu ngành nghề đào tạo và hình thức đào tạo
(dài hạn, ngắn hạn) cũng ảnh hưởng lớn đến hiệu quả sử dụng và chất lượng nguồn lao
động của tỉnh. Hiện nay, phần lớn học sinh, sinh viên của tỉnh tập trung ở các ngành:
kinh tế tài chính, ngoại ngữ, công nghệ thông tin, luật, sư phạm... Các ngành phục vụ
trực tiếp cho phát triển kinh tế địa phương như nông học, thuỷ sản số sinh viên theo học
rất ít. Công tác đào tạo nghề ở tỉnh chủ yếu là đào tạo ngắn hạn hoặc bồi dưỡng dưới
nhiều hình thức, chất lượng chưa cao. Đào tạo dài hạn còn ít (chủ yếu là liên kết đào
tạo), chưa đáp ứng yêu cầu nâng cao chất lượng nguồn nhân lực phục vụ cho CNH,
HĐH. Đây là một trong những vấn đề gây khó khăn cho công tác giải quyết việc làm
hiện nay, bởi trình độ người lao động không đáp ứng yêu cầu tuyển dụng. Tới đây, khó
khăn này sẽ càng gay gắt khi mà các khu công nghiệp được hình thành, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch theo hướng công nghiệp - dịch vụ, các ngành công nghiệp, xây dựng có
nhu cầu lớn về công nhân kỹ thuật có trình độ tay nghề cao. Do vậy, khả năng thiếu lao
động lành nghề sẽ xảy ra và trở thành áp lực lớn cho ngành GD-ĐT của tỉnh trong
những năm tới.
Tóm lại, GD-ĐT là yếu tố cơ bản tác động trực tiếp đến quá trình nâng cao chất
lượng NLCN trên phương diện học vấn, chuyên môn, nhân cách đạo đức. Tuy nhiên,
chất lượng hiệu quả GD-ĐT thấp, mất cân đối trong đào tạo là những vấn đề nổi cộm
ảnh hưởng lớn đến chất lượng NLCN của tỉnh. Khắc phục vấn đề này là yêu cầu cấp
bách, có ý nghĩa to lớn trong việc nâng cao chất lượng nguồn nhân lực, tạo nguồn nội
lực thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội, đẩy nhanh CNH, HĐH ở Bến Tre.
Thứ tư, mức sống của người dân cũng là yếu tố tác động đến quá trình phát
triển NLCN ở tỉnh Bến Tre
Cùng với những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới, những năm qua,
mức sống của dân cư Bến Tre từng bước được nâng lên, tỷ lệ hộ khá, giàu tăng lên. Thu
nhập bình quân đầu người nâng dần từ 4.115.000 đồng năm 2000 lên 6.119.000 đồng
năm 2004 [12, tr.26]. Đây chính là điều kiện vật chất tác động tích cực đến chất lượng
NLCN. Những nhu cầu về: ăn, mặc, ở, nhu cầu học tập, chăm sóc sức khỏe, vui chơi giải
trí… từng bước được cải thiện.
Đến nay, toàn tỉnh tuy chỉ còn 4,62% hộ nghèo (theo chuẩn cũ), nhưng mức thu
nhập bình quân đầu người ở Bến Tre chỉ mới đạt xấp xỉ 6,2 triệu đồng/ năm (chưa quá
400 USD), thấp hơn so với mức bình quân đầu người của cả nước. Qua thực tế cho thấy,
NLCN ở Bến Tre đông nhưng không mạnh, tiềm năng to lớn nhưng chưa được khai
thác và sử dụng có hiệu quả. Tình trạng này có nhiều nguyên nhân, nhưng nguyên nhân
chính vẫn là do nền kinh tế của tỉnh chưa phát triển, thu nhập của người lao động chưa
được cải thiện đáng kể. Những đầu tư của Nhà nước cho con người trong giới hạn nền
kinh tế một tỉnh nghèo, chưa thể thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của người lao động.
Có lẽ đây là lý do mà nhiều sinh viên Bến Tre sau khi tốt nghiệp ra trường không muốn
trở về tỉnh công tác; nhiều trí thức, cán bộ KH-CN có trình độ, năng lực nhưng không ở
lại phục vụ quê hương; người lao động có tay nghề có xu hướng đi ra ngoài tỉnh làm
việc để có thu nhập cao hơn… Điều này gây ra sự hụt hẫng trong đội ngũ nhân lực chất
lượng cao của tỉnh trong nhiều năm qua.
Thứ năm, chính sách phát triển NLCN của tỉnh Bến Tre là yếu tố tác động
trực tiếp đến quá trình phát triển NLCN của tỉnh
Bước vào thế kỷ XXI, thời kỳ cả nước đẩy mạnh tốc độ phát triển kinh tế, đẩy
nhanh CNH, HĐH, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ VII khẳng định, Bến Tre
quyết tâm “khai thác mọi nguồn lực, đẩy mạnh tốc độ phát triển nền kinh tế tỉnh nhà
nhanh và bền vững” [23, tr.47]. Trong các nguồn lực, NLCN được xác định là nguồn lực
quan trọng nhất thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
bộ, Ủy ban nhân dân tỉnh đề ra Chương trình “Nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo,
dạy nghề - giải quyết việc làm và chăm sóc sức khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2005”.
Chương trình đã thể hiện rõ quan điểm phát triển NLCN trên tất cả các mặt: giáo dục -
đào tạo nghề, chăm sóc sức khỏe và giải quyết việc làm cho người lao động. Đây là chính
sách lớn của tỉnh với mục tiêu tạo ra bước đột phá, hình thành nên động lực mới về
NLCN cho phát triển kinh tế-xã hội. Sau gần 5 năm triển khai, chương trình đã tạo ra sự
chuyển biến tích cực, nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện, phát triển đào tạo nghề kết
hợp sử dụng, giải quyết việc làm cho người lao động, bảo vệ chăm sóc sức khỏe nhân dân
tốt hơn. Từ đó đã tác động tích cực, thúc đẩy phát triển toàn diện con người cả về trí tuệ,
thể lực, nhân cách,… nâng cao chất lượng NLCN từng bước đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế-xã hội của tỉnh.
Chăm lo phát triển đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước là một ưu tiên trong
chính sách phát triển NLCN của tỉnh từ nay đến 2010. Tuy nhiên, “Đội ngũ cán bộ vẫn
còn hụt hẫng, chưa đồng bộ, thiếu cán bộ giỏi về quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh,
khoa học kỹ thuật” [23,tr.38]. Nhằm tập trung xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ,
công chức, thu hút nhân tài về cho tỉnh, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ban hành một số chính
sách ưu đãi đối với cán bộ, công chức, sinh viên có trình độ, như Quyết định số
4051/2001/QĐ-UB ngày 4/9/2001. Quyết định có tính đột phá này đã tạo động lực thu
hút, thúc đẩy phát triển về chất trong nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh. Qua hơn
3 năm thực hiện, hàng trăm cán bộ, công chức của tỉnh đã được tạo điều kiện học tập và
đạt trình độ tiến sĩ, thạc sĩ; hàng ngàn cán bộ có trình độ đại học, trung cấp; nhiều cán
bộ, công chức được bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ. Ngoài ra, chính sách này còn thu
hút được nhiều sinh viên có trình độ đại học về tỉnh công tác. Đội ngũ cán bộ, công chức
này đang từng bước phát huy năng lực, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của nhiệm vụ trong
thời kỳ CNH, HĐH.
Với chính sách trợ cấp, đãi ngộ trên, tỉnh đã kịp thời đáp ứng phần nào yêu cầu
xây dựng và phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh trong thời gian qua. Tuy
vậy, chính sách chưa thật sự là động lực mạnh mẽ tạo sự chuyển biến rõ nét về chất
lượng trong đội ngũ cán bộ, công chức của tỉnh. Tuy số lượng có tăng, nhưng cán bộ
được đào tạo trình độ sau đại học còn ít, nhất là trình độ tiến sĩ. Phần đông cán bộ, công
chức được đào tạo đại học chủ yếu là hệ tại chức nên hạn chế về chất lượng và hiệu quả
công tác. Chính sách chưa tạo ra sức hấp dẫn đủ mạnh để có thể thu hút được nhiều
người tài, chuyên gia giỏi, cán bộ có năng lực về tỉnh công tác. Chính sách cũng chưa
tạo ra sự ràng buộc nhất định, nên còn một số cán bộ được tỉnh đưa đi đào tạo, sau khi
ra trường đã chuyển đi nơi khác làm việc, nhất là cán bộ trẻ có năng lực.
Có thể nói, thu nhập thấp, điều kiện, môi trường làm việc còn khó khăn đã hạn
chế khả năng và cơ hội thăng tiến của nhiều người. Đây là nguyên nhân chính làm cho
Bến Tre mất đi một đội ngũ lao động trẻ, có khả năng tiếp cận những thành tựu KH-CN
hiện đại. Vì vậy, chính sách phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh chưa thật
sự phát huy tác dụng. Điều này đòi hỏi Bến Tre cần chú trọng nhiều hơn đến chiến lược
nhân tài của tỉnh trong thời gian tới.
2.2. THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI CỦA
TỈNH BẾN TRE TỪ NĂM 1996 ĐẾN NAY
2.2.1. Thực trạng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
Về số lượng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
Số lượng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre trước hết thể hiện ở quy mô và
cơ cấu dân số mà trực tiếp là cơ cấu lực lượng lao động.
Bến Tre có quy mô dân số vào loại lớn. Năm 2004, Bến Tre có 1.345.637 người, mật độ dân số là 580 người/km2, cao gấp đôi mật độ dân số cả nước (234 người/km2).
Trong nhiều năm qua, cơ cấu dân số theo giới tính ở Bến Tre khá cân bằng giữa nam và
nữ. Năm 2004, tỷ lệ nam chiếm 48,49% và tỷ lệ nữ chiếm 51,51%.
Tương tự như các tỉnh ĐBSCL, dân số của Bến Tre hầu hết tập trung ở nông
thôn (năm 2004: 90,30%). Tỷ lệ dân số thành thị là rất thấp (9,70%). Trong 4 năm qua,
tỷ lệ dân số thành thị tăng chậm, từ 8,95% (năm 2000) lên 9,70% (năm 2004). Điều này
phản ánh quá trình đô thị hóa ở Bến Tre tương đối chậm (xem phụ lục 1).
Dân số trong độ tuổi lao động ở Bến Tre chiếm tỷ lệ cao trong dân số. Dân số
Bến Tre thuộc dân số trẻ và đang có xu hướng chuyển dần sang “dân số trưởng thành”.
Cụ thể là: năm 2003, nhóm 0-14 tuổi chiếm 23,78%; nhóm 15- 60 tuổi chiếm 66,25%
và nhóm người trên 60 tuổi chiếm 9,97% [57, tr.13]. Như vậy, dân số Bến Tre đang
trong thời kỳ “dân số vàng”, với tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động cao.
Nhìn tổng thể, dân số Bến Tre có quy mô lớn, tập trung chủ yếu ở nông thôn và
đang phát triển theo xu hướng giảm tỷ lệ trẻ em, tăng tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao
động, tỷ lệ lực lượng lao động trẻ chiếm đa số. Với quy mô và cơ cấu dân số như trên,
cho thấy Bến Tre đang “sở hữu” tiềm năng to lớn về NLCN. Nếu tiềm năng to lớn này
được bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có hiệu quả sẽ là nguồn nội lực mạnh mẽ thúc
đẩy nền kinh tế Bến Tre tăng trưởng nhanh. Ngược lại, nếu không có kế hoạch đào tạo,
khai thác và sử dụng hợp lý nguồn lao động dồi dào này, thì đây sẽ là nhân tố kìm hãm
tốc độ tăng trưởng kinh tế, thậm chí là nguy cơ tiềm ẩn dẫn đến mất ổn định xã hội, bởi
vì, dân số đông nhưng không mạnh, chất lượng thấp sẽ là sức ép to lớn đối với quá trình
phát triển kinh tế-xã hội. Do đó, lực lượng lao động đông vừa là cơ hội, vừa là thách
thức trong quá trình phát triển ở Bến Tre hiện nay.
Về chất lượng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
Nguồn lực con người của Bến Tre được phản ánh chủ yếu ở phương diện chất
lượng dân số, trước hết là chất lượng lực lượng lao động - bộ phận quan trọng nhất
trong dân số. Chất lượng dân số vừa nói lên tiềm năng sức mạnh to lớn của NLCN,vừa
là tiêu chí xác định các chỉ số phát triển của một địa phương.
Chất lượng NLCN được biểu hiện ở chất lượng lực lượng lao động qua hàng loạt
yếu tố: trình độ học vấn; trình độ chuyên môn kỹ thuật; phẩm chất đạo đức, lối sống;
mức thu nhập; sức khỏe, tuổi thọ... Nghĩa là, nói đến NLCN là nói đến sức lao động (thể
lực và trí lực) của con người, nói đến chất lượng con người với tư cách là người lao
động có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt đẹp.
Trình độ học vấn của lực lượng lao động ở Bến Tre đạt khá cao. Tỷ lệ biết chữ
trong lực lượng lao động chiếm 96,69% (năm 2003). Đến cuối 2004, toàn tỉnh đã có
4/8 huyện, thị, 137/160 xã, phường (85,6%) đạt chuẩn phổ cập giáo dục THCS và
đang phấn đấu hoàn thành mục tiêu này vào cuối năm 2006. Những thành quả đó đã
góp phần nâng chỉ số giáo dục của tỉnh lên 0,89 (năm 2004), xếp trong nhóm các tỉnh,
thành có trạng thái phát triển giáo dục tốt [5, tr.277] (xem phụ lục 2). Đây là tín hiệu
đáng mừng, tạo tiền đề phát triển NLCN của tỉnh, đặc biệt là nguồn nhân lực chất
lượng cao. Hàng năm, Bến Tre có từ 25.000 - 30.000 học sinh tốt nghiệp THPT và
THCS. Đây là nguồn lao động dự trữ dồi dào, trẻ, khoẻ, có trình độ học vấn và trình
độ chuyên môn (nếu được tiếp tục đào tạo), sẽ là nguồn bổ sung lực lượng lao động có
chất lượng cho tỉnh trong những năm tới.
Nhìn chung, trình độ học vấn của dân cư ở Bến Tre đang tiếp tục được nâng lên.
Tuy nhiên, số liệu thống kê năm 2003 cho thấy ở Bến Tre có 68,91% lực lượng lao
động tốt nghiệp tiểu học trở lên; số chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học là 31,09%.
So với cả nước, tỷ lệ lao động chưa biết chữ và chưa tốt nghiệp tiểu học của Bến Tre
còn khá cao (tỷ lệ này của cả nước năm 2003 là 19,72%, vùng ĐBSCL là 34,75%).
Trong 68,91% lao động tốt nghiệp tiểu học trở lên, số người tốt nghiệp THPT chỉ chiếm
9,56% và tốt nghiệp THCS là 15,04% [8]. Đặc biệt còn có sự cách biệt khá lớn về trình
độ học vấn của lực lượng lao động giữa khu vực thành thị và nông thôn. Ở thành thị tỷ
lệ tốt nghiệp THPT (27,26%) cao gấp 3,5 lần so với khu vực nông thôn (7,77%), trong
khi đó lực lượng lao động ở nông thôn chiếm tỷ lệ trên 90%. Đây quả là một bất lợi của
lực lượng lao động Bến Tre, vì phần lớn lực lượng này ở nông thôn, lại có trình độ thấp.
Trình độ học vấn là chỉ tiêu hết sức quan trọng phản ánh chất lượng NLCN về
mặt trí lực, nó là "chìa khóa" mở ra khả năng tư duy sáng tạo, năng lực nhận thức, tiếp
thu khoa học - kỹ thuật của người lao động. Ở Bến Tre, tỷ lệ lao động chưa biết chữ,
chưa tốt nghiệp tiểu học và tốt nghiệp tiểu học còn rất cao (75,4%). Điều này đã làm
cho người lao động gặp nhiều khó khăn, trở ngại trong việc tiếp thu và ứng dụng những
thành tựu khoa học-kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Như vậy, trình độ học vấn của
lực lượng lao động Bến Tre hiện nay chưa thể đáp ứng yêu cầu phát triển sản xuất, yêu
cầu khách quan của quá trình CNH, HĐH.
Hiện nay, tỷ lệ lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật ở Bến Tre có xu hướng
tăng, nhưng chậm và thấp hơn so với các địa phương khác, chưa đáp ứng yêu cầu đẩy
mạnh CNH, HĐH. Theo báo cáo của Sở Lao động-Thương binh và Xã hội, năm 2004 tỷ
lệ lao động qua đào tạo chiếm 22,12% trong tổng lực lượng lao động trong toàn tỉnh,
tăng 4,12% so với 2003. Nhưng nhìn chung, chất lượng lực lượng lao động chưa nâng
lên tương xứng. Điều này thể hiện rõ ở tỷ lệ lao động có trình độ từ công nhân kỹ thuật
có bằng trở lên còn rất ít. Năm 2003, trong 18% lao động qua đào tạo có 7,56% có trình
độ từ công nhân kỹ thuật có bằng trở lên, trong đó có 2,19% có trình độ cao đẳng, đại
học trở lên. Những năm gần đây, tỷ lệ lao động qua đào tạo tăng khá nhanh, nhưng chủ
yếu là do tăng tỷ lệ lao động đào tạo ở trình độ sơ cấp, chứng chỉ nghề (đào tạo ngắn
hạn) và tập trung các ngành nghề phục vụ lao động tại tỉnh, chất lượng chưa cao, chưa
đáp ứng yêu cầu của các ngành đòi hỏi kỹ thuật cao và xuất khẩu lao động.
Cũng giống như cả nước, Bến Tre cũng có sự mất cân đối về cơ cấu trình độ
giữa đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp và lao động có nghề. Năm 2003, cơ
cấu đó là:1 (đại học, cao đẳng)/1,02 (trung học chuyên nghiệp)/1,21 (công nhân kỹ
thuật) [47, tr.12]. Tỷ lệ này ở nước ta năm 2000 là: 1/1,33/ 4,17, theo kinh nghiệm các
nước có nền kinh tế phát triển thì tỷ lệ hợp lý phải là 1/4/10 [41, tr.61]. So sánh này cho
thấy, ở Bến Tre lực lượng lao động có trình độ trung học chuyên nghiệp và lành nghề ít,
chưa thể cung ứng cho các ngành kinh tế, khu công nghiệp và xuất khẩu lao động trong
những năm tới. Trong khi đó quy mô đào tạo đại học, cao đẳng tăng nhanh hơn (nhất là
loại hình đào tạo tại chức). Số cán bộ có trình độ cao (sau đại học) ít và tập trung chủ
yếu ở các ngành giáo dục và y tế. Có những ngành là lĩnh vực kinh tế mũi nhọn của tỉnh
nhưng đội ngũ cán bộ vừa yếu vừa thiếu. Theo báo cáo của Sở Nông nghiệp và Phát
triển nông thôn Bến Tre, tính đến nay, đội ngũ cán bộ của ngành có 457 người, trong đó
có trình độ từ đại học trở lên là 142 người (31%), trên đại học chỉ có 2 người; trình độ
trung cấp là 152 người (32,26%), số còn lại là sơ cấp. Với đội ngũ cán bộ ngành nông
nghiệp như hiện nay, nhìn chung chưa thể đáp ứng yêu cầu phát triển một nền nông
nghiệp toàn diện và mục tiêu CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn sẽ còn nhiều khó
khăn, thách thức nếu tỉnh không nhanh chóng tăng cường đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ khoa học - kỹ thuật, cán bộ quản lý cho lĩnh vực này.
Tóm lại, chất lượng lực lượng lao động ở Bến Tre xét ở trình độ học vấn và
chuyên môn kỹ thuật còn thấp so với yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH. Đây là nguyên
nhân chính làm hạn chế cơ hội phát triển và khả năng lao động sáng tạo của người lao
động, từ đó làm hạn chế tốc độ CNH, HĐH của tỉnh. Vì vậy, nâng cao chất lượng
NLCN Bến Tre trên các mặt học vấn, chuyên môn kỹ thuật đang là yêu cầu cơ bản và
có tính cấp bách nhằm bảo đảm tính bền vững và hiệu quả của quá trình phát triển kinh
tế-xã hội và là điều kiện đẩy nhanh CNH, HĐH trong thời gian tới.
Về tư tưởng, phẩm chất đạo đức và lối sống của người lao động Bến Tre. Trong
bối cảnh hiện tại, do nhiều nguyên nhân khác nhau, tư tưởng đạo đức, lối sống của
người lao động Bến Tre, bên cạnh những giá trị mới tích cực còn đan xen những hạn
chế tồn tại.
Bến Tre là vùng đất giàu truyền thống cách mạng, con người nơi đây chịu nhiều
đau thương. Vì vậy, hơn ai hết, họ là người cảm nhận hết bản chất tốt đẹp của chế độ
chính trị - xã hội mới. Đó là cơ sở để nhận thức và thực hiện tốt các chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước. Tinh thần đoàn kết, tương thân tương ái, lòng yêu quê
hương, truyền thống cách mạng… được gìn giữ và phát huy. Ý chí vươn lên thóat khỏi
đói nghèo, lạc hậu cũng thể hiện rất rõ trong phẩm chất của người lao động, nhất là ở
lực lượng lao động trẻ. Tính tích cực, năng động, sáng tạo của người lao động ngày
càng thể hiện rõ trong lĩnh vực kinh tế. Nhiều mô hình mới xuất hiện như: trang trại
chăn nuôi, cải tạo vườn tạp, sản xuất cây giống, chuyển đổi cây trồng, nuôi thuỷ sản…
đang là phong trào thi đua sôi nổi, thu hút nhiều người lao động ở Bến Tre mạnh dạn
đầu tư sản xuất, chịu khó học hỏi, vươn lên làm giàu.
Tuy nhiên, Bến Tre vốn là tỉnh thuần nông, lực lượng lao động phần lớn đều xuất
thân từ nông dân, sống chủ yếu ở nông thôn, do đó, tâm lý của người sản xuất nhỏ, thiếu
tư duy năng động, chưa có tác phong công nghiệp, chưa biết cách làm ăn lớn… là
những hạn chế không tránh khỏi của một bộ phận không nhỏ người lao động. Ngoài ra,
mặt tiêu cực của cơ chế thị trường đang tác động không nhỏ đến đạo đức, lối sống của
một bộ phận người lao động, nhất là lao động trẻ. Lối sống thực dụng, coi trọng giá trị
đồng tiền, xem nhẹ các giá trị đạo đức truyền thống, thậm chí suy thóai về đạo đức
trong một bộ phận người lao động, kể cả cán bộ đảng viên, đang là điều đáng lo ngại
hiện nay. Đặc biệt, tội phạm và các tệ nạn xã hội còn nhiều và có lúc nổi lên khá phức
tạp. Năm 2004, đã phát hiện 662 vụ phạm pháp hình sự; 1.322 vụ tệ nạn xã hội [60,
tr.13]. Có thể nói, những hạn chế này đã và đang cản trở quá trình phát triển, làm suy
giảm chất lượng và sức mạnh NLCN của tỉnh trong thời gian qua.
Sức khỏe, thể lực của người lao động là điều kiện quan trọng cho lao động sáng
tạo và nâng cao năng suất lao động. Hiện nay, chưa có một cuộc điều tra mang tính chất
khá toàn diện về thể lực và tình trạng sức khỏe của người Bến Tre. Tuy nhiên, qua các
chỉ số về tuổi thọ bình quân, tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng, môi trường sống và hệ thống
chăm sóc sức khỏe… phần nào cho thấy tình trạng sức khỏe NLCN ở Bến Tre.
Hiện nay, mạng lưới y tế toàn tỉnh được kiện toàn, 100% xã, phường có trạm y tế
; 90,3% trạm y tế có bác sĩ, do đó, nhu cầu khám, chữa bệnh của nhân dân được đáp ứng
tốt hơn, ngăn chặn các dịch bệnh lớn trong cộng đồng. Tỷ lệ trẻ (0-5 tuổi) suy dinh
dưỡng giảm từ 31,8% (năm 2000) xuống còn 25,1% (năm 2004). Tuổi thọ trung bình
của người dân Bến Tre là 75,89 [50, tr.7]. Tuy nhiên, do mật độ dân số cao, trên 90%
dân số sống ở nông thôn với phương thức lao động thủ công, phân tán, cơ sở hạ tầng
chưa phát triển, kinh tế nông nghiệp thu nhập thấp… do đó đời sống vật chất và tinh
thần của người lao động chưa được nâng cao làm hạn chế chất lượng NLCN của tỉnh.
Đánh giá chung về mặt chất lượng NLCN Bến Tre, theo “Báo cáo phát triển con
người Việt Nam năm 2001”, chỉ số phát triển con người (HDI) của Bến Tre là 0,668
điểm xếp hạng thứ 27/ 61 tỉnh thành cả nước và đứng hàng thứ 7 trong tổng số 12 tỉnh đồng
bằng sông Cửu Long [57, tr.4]. Chỉ số trên cho thấy chất lượng NLCN Bến Tre hiện nay
chưa cao, đứng ở mức trung bình trong cả nước. Vì vậy, để phát triển và khai thác tiềm
năng NLCN, Bến Tre cần chú trọng đầu tư mạnh hơn vào vốn con người, trước hết là
GD-ĐT, giải quyết việc làm, tăng thu nhập cho người lao động nhằm nâng cao chất
lượng NLCN, tạo ra lực lượng lao động mới, có trình độ và năng lực đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh CNH, HĐH.
Về phân bố nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
Phân bố NLCN theo ngành kinh tế: Hiện nay, phân bố NLCN ở Bến Tre được
thực hiện trong mối quan hệ với chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Cùng với quá trình chuyển
dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH, cơ cấu lao động theo ngành nghề ở Bến Tre
cũng từng bước chuyển đổi theo hướng tăng dần tỷ lệ lao động trong khu vực công
nghiệp và dịch vụ, giảm tỷ lệ lao động nông nghiệp. Tuy nhiên, sự chuyển dịch này diễn
ra chậm chạp, phản ánh tốc độ CNH, HĐH ở Bến Tre diễn ra khá chậm. Theo số liệu
của Cục thống kê của tỉnh, năm 2004, số lao động đang làm việc trong nền kinh tế là
673.784 người, trong đó, số lao động trong ngành nông - lâm - ngư nghiệp là 539.706
người, chiếm tỷ lệ cao nhất (80,1%). Trong 5 năm, tỷ lệ lao động trong nông - lâm - ngư
nghiệp giảm từ 82,02% (năm 2000) xuống 80,1% (năm 2004), tức giảm 1,92% (khoảng
hơn 10.000 người). Số lao động trong ngành công nghiệp, dịch vụ là 134.078 người,
chiếm tỷ lệ 19,9% trong tổng số lao động đang làm việc trong nền kinh tế. Từ năm 2000
đến 2004, tỷ lệ lao động trong nhóm ngành công nghiệp, dịch vụ tăng từ 17,23% lên
19,9%, tức tăng 2,67% (khoảng 18.000 người). Có những ngành số lao động rất ít, như
trong lĩnh vực hoạt động KH-CN, năm 2004 chỉ có 37 người (mặc dù đã tăng so với các
năm trước). Có thể nói, hoạt động KH-CN là một trong những lĩnh vực đầu tàu, nhằm
cải tiến kỹ thuật, tăng năng suất lao động, tạo ra sự tăng trưởng kinh tế nhanh. Nhưng ở
Bến Tre, lực lượng này còn hết sức nhỏ bé. Điều đó cho thấy, Bến Tre khó có được
bước nhảy vọt, nếu không đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong
lĩnh vực hoạt động KH-CN.
Phân bố NLCN trong các thành phần kinh tế trên địa bàn tỉnh: Sự phân bố lao
động theo thành phần kinh tế là rất quan trọng trong phân bố nguồn nhân lực, nó cho
phép khai thác tiềm năng, thế mạnh của các thành phần kinh tế trong một nền kinh tế thị
trường định hướng XHCN. Năm 2004, lực lượng lao động làm việc trong khu vực nhà
nước là 35.817 người (chiếm 5,31%); khu vực tập thể là 10.174 người (chiếm 1,50%);
khu vực kinh tế tư nhân 9.437 người (chiếm 1,40%); còn lại đại bộ phận người lao động
ở Bến Tre hiện đang làm việc trong khu vực kinh tế cá thể, kinh tế hộ gia đình 617.641
người (chiếm hơn 91%). Lực lượng lao động làm việc trong khu vực kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài chiếm một tỷ lệ nhỏ bé, chỉ có 715 người (chiếm 0,11%), mặc dù so với
năm 2000 số lao động làm việc trong khu vực kinh tế này đã tăng gần 30 lần (năm 2000
chỉ có 24 người) [13] (xem phụ lục 3). Qua sự phân tích trên cho thấy, các thành phần kinh
tế của tỉnh hiện nay phát triển không đồng bộ, khu vực kinh tế tư nhân phát triển chưa
tương xứng với tiềm năng, kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài còn rất nhỏ bé. Đây lại là
khu vực kinh tế có tiềm năng lớn và đóng vai trò khá quan trọng trong thu hút nhiều lao
động, góp phần quan trọng vào chuyển dịch cơ cấu lao động. Vì vậy, coi trọng phát
triển mạnh các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh không chỉ là chính sách phát triển
kinh tế mà còn là một giải pháp cho phép sử dụng có hiệu quả và phát triển NLCN ở
Bến Tre hiện nay.
Về sử dụng nguồn lực con người của tỉnh Bến Tre
Theo số liệu Cục thống kê tỉnh, năm 2004, dân số trong độ tuổi lao động của
tỉnh là 867.253 người, trong đó 673.784 người đang làm việc trong nền kinh tế, chiếm
77,69% dân số trong độ tuổi. Số người tham gia hoạt động kinh tế có xu hướng tăng qua
các năm, bình quân tăng khoảng 7.000 người/ năm thời kỳ 2000-2004. Số người trong
độ tuổi lao động tăng bình quân mỗi năm khoảng 15.000 - 17.000 người. Hàng năm, có
hơn 26.000 người ngoài độ tuổi thực tế có tham gia lao động.
Từ năm 2000 đến nay, hàng năm tỉnh giải quyết cho khoảng 25.000 - 30.000 lao
động (năm 2001: 26.500 người, năm 2004: 31.289 người ) có việc làm thông qua phát
triển kinh tế, các giải pháp hỗ trợ (đi kinh tế mới, quỹ quốc gia hỗ trợ việc làm), xuất
khẩu lao động... Quá trình chuyển dịch cơ cấu lao động trong nông nghiệp, nông thôn
thông qua giải quyết việc làm, đã có tác dụng tăng tỷ lệ thời gian sử dụng lao động ở
nông thôn, từ 76% (năm 2001) tăng lên 79% (năm 2004), tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực
thành thị giảm từ 5,48% (năm 2001) xuống còn 4,8% (năm 2004) [48]. Hiện nay Bến
Tre là tỉnh có tỷ lệ thất nghiệp thấp so với các tỉnh lân cận. Tuy nhiên, do tính chất lao
động nông nghiệp làm theo thời vụ, nên hàng năm một bộ phận không nhỏ lao động của
tỉnh phải đi làm thuê những công việc giản đơn thu nhập thấp ngoài thời vụ ở các tỉnh
An Giang, Đồng Tháp hoặc làm việc ở vùng Đông Nam bộ để tăng thêm thu nhập.
Ngoài ra, thiếu việc làm phù hợp và thu nhập thấp là hai nguyên nhân chủ yếu dẫn đến
tình trạng một bộ phận lao động của Bến Tre di chuyển đến nhiều địa phương khác, nhất
là Thành phố Hồ Chí Minh. Đây là xu hướng tất yếu vì người lao động thường dịch chuyển
đến những nơi có điều kiện thuận lợi để phát triển bản thân. Tuy nhiên, việc di cư của người
lao động Bến Tre cần được quan tâm đúng mức để bộ phận lao động này có điều kiện đóng
góp chung vào sự phát triển của tỉnh, góp phần xoá đói giảm nghèo ở địa phương. Có thể nói,
trong những năm gần đây, Bến Tre có nhiều nỗ lực trong tìm kiếm giải pháp cho việc sử
dụng có hiệu quả lực lượng lao động dồi dào của tỉnh. Nhưng do lực lượng lao động phần lớn
tập trung ở khu vực nông nghiệp, năng suất lao động thấp, nên thu nhập bình quân của người
lao động chưa cao. Vì vậy, thực chất quá trình sử dụng NLCN ở Bến Tre chưa thật sự có hiệu
quả.
Mặc dù NLCN của tỉnh dồi dào, nhưng chất lượng lại hạn chế, nên quá trình khai
thác và sử dụng NLCN phục vụ cho CNH, HĐH đang gặp phải mâu thuẫn giữa hai xu
hướng: Một là, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH cần sử dụng NLCN có chất lượng cao, tạo
ra việc làm chất lượng, năng suất lao động cao, điều chỉnh cơ cấu lao động phù hợp với
cơ cấu của nền kinh tế, tổ chức lại lao động trên phạm vi toàn tỉnh. Điều này tất yếu dẫn
đến hiện tượng dư thừa lao động. Hai là, nếu chú trọng đến yêu cầu toàn dụng nguồn nhân
lực, cố gắng giải quyết việc làm đầy đủ cho người lao động, mà ít chú ý đến chất lượng và
hiệu quả sử dụng thì sẽ không khơi dậy và phát triển được năng lực và sức sáng tạo của con
người cho mục tiêu CNH, HĐH.
Tình hình thực tế ở Bến Tre hiện nay, khó có thể giải quyết đồng thời cả hai mục
tiêu: vừa đảm bảo được nhu cầu sử dụng NLCN cho CNH, HĐH, vừa bảo đảm yêu cầu
toàn dụng nguồn nhân lực. Do đó, cần có sự lựa chọn dành sự ưu tiên hơn cho một trong
hai mục tiêu này theo hướng bảo đảm phát triển bền vững. Với tinh thần đó, chỉ có thể
ưu tiên đến mục tiêu nâng cao chất lượng và hiệu quả sử dụng NLCN cho CNH, HĐH.
Bởi vì, mục tiêu này có lợi hơn cho quá trình CNH, HĐH và còn là tiền đề để giải quyết
việc làm đầy đủ cho người lao động. Do đó, trong thực tế, không nên vì sức ép việc làm
quá lớn mà chạy theo số lượng, coi nhẹ mặt chất lượng trong sử dụng, cũng như không
nên vì chất lượng NLCN còn hạn chế mà hạ thấp hoặc coi nhẹ tiêu chuẩn về yêu cầu sử
dụng như đã xảy ra trong thời gian qua. Cách giải quyết hợp lý là lấy mục tiêu chất
lượng làm tiền đề, làm cơ sở cho việc thực hiện mục tiêu số lượng. Cùng với giải quyết
việc làm, GD-ĐT nghề cho người lao động là công việc cấp thiết, là khâu “trung gian”
chuyển hóa nguồn nhân lực thành động lực thúc đẩy CNH, HĐH phát triển.
2.2.2. Thực trạng phát triển nguồn lực con người trong thời kỳ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Bến Tre
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, Bến Tre đã bắt đầu coi trọng và có nhiều cố gắng
trong phát triển NLCN của tỉnh. Đại hội đại biểu lần thứ VI Đảng bộ tỉnh Bến Tre (5-
1996) đã chỉ rõ:
Phát triển nguồn lực con người là nội dung có ý nghĩa quyết định trong
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tỉnh. Một mặt phải tổ chức đào
tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực theo diện rộng để đáp ứng yêu cầu, mặt khác
phải lựa chọn, đào tạo nhân tài để có khả năng tiếp thu những công nghệ hiện
đại, tập trung trước hết vào xây dựng đội ngũ các nhà kinh doanh giỏi, công
nhân lành nghề, đội ngũ công chức hành chính thạo việc, công tâm. Đồng thời
thu hút chất xám của cộng đồng người Bến Tre ở ngoài tỉnh và nước ngoài [22,
tr.56].
Nội dung trên thể hiện rõ quan điểm phát triển NLCN của tỉnh là vừa phát triển theo
“diện rộng”, vừa tập trung đào tạo nhân tài, phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao, chú
trọng thu hút “chất xám” trong và ngoài tỉnh.
Thực trạng phát triển giáo dục - đào tạo nhằm nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực ở tỉnh Bến Tre trong thời kỳ CNH, HĐH
Để từng bước nâng cao chất lượng NLCN, tỉnh Bến Tre đã tập trung phát triển
GD-ĐT cả về quy mô và nâng cao chất lượng giáo dục. Mạng lưới trường lớp ở các
ngành học, bậc học ngày càng được mở rộng theo hướng đa dạng hóa, tạo điều kiện
thuận lợi cho việc học tập của mọi lứa tuổi, nhất là ở vùng sâu, vùng xa. Theo thống kê
của ngành GD-ĐT, năm học 2004-2005, toàn tỉnh có 134 trường Mẫu giáo; 203 trường
Tiểu học; 133 trường THCS; 41 trường THPT; 1 trường Cao đẳng; 2 trường Trung học
chuyên nghiệp; 8 trung tâm giáo dục thường xuyên. Trong đó có 3 trường Mầm non, 40
trường Tiểu học và 2 trường THCS đạt chuẩn quốc gia. So với năm học 2000 - 2001,
năm học 2004 - 2005 mạng lưới giáo dục toàn tỉnh phát triển thêm 118 trường và 3
trung tâm giáo dục thường xuyên. Việc mở rộng mạng lưới trường lớp hợp lý theo địa
bàn tạo điều kiện thuận lợi phát triển quy mô ở các cấp, bậc học, ngành học. Quy mô
học sinh các cấp ở Bến Tre không ngừng tăng lên. Từ năm học 2001-2002 đến nay, bình
quân mỗi năm, quy mô học sinh THPT tăng 6 - 8%, học sinh THCS tăng 4 - 5%. Riêng
học sinh tiểu học có xu hướng giảm 5 - 6%/ năm, do tác động tích cực của chính sách Dân
số - Kế hoạch hóa gia đình [44, tr.5]. Số học sinh tốt nghiệp THCS tăng từ 15.284 (năm
2000) lên 20.389 (năm 2004), học sinh tốt nghiệp THPT tăng từ 6.598 (năm 2000) lên
11.163 (năm 2004) [13]. Đây là nguồn bổ sung vào nguồn nhân lực có trình độ của tỉnh
trong những năm tiếp theo.
Thực trạng công tác đào tạo nguồn nhân lực cho CNH, HĐH ở Bến Tre
Hiện nay, tỷ lệ lao động qua đào tạo ở Bến Tre có xu hướng tăng nhanh. Trước
năm 2000, công tác đào tạo nghề cho người lao động chưa được quan tâm đúng mức,
cho đến năm 2000 tỷ lệ lao động qua đào tạo chỉ chiếm 8,6% lực lượng lao động toàn
tỉnh. Đến cuối năm 2004, tỷ lệ này tăng lên 22,12%, trong đó lao động đã qua đào tạo
nghề là 6,15%. Hiện nay, hệ thống trường Cao đẳng, Trung học chuyên nghiệp và Dạy
nghề trong toàn tỉnh tiếp tục được củng cố, kiện toàn về cơ sở vật chất cũng như đội ngũ
giáo viên nhằm mở rộng quy mô, nâng cao năng lực, đa dạng hóa ngành nghề đào tạo,
từng bước đáp ứng nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực cho phát triển kinh tế- xã hội và
CNH, HĐH. Trong giai đoạn 2001-2005, quy mô đào tạo (hệ chính quy) của các trường
Trung học chuyên nghiệp tăng bình quân 12-14%/ năm. Bình quân mỗi năm có trên
1000 cán bộ trung cấp kỹ thuật, công nhân kỹ thuật và trên 8.000 lao động được đào tạo
nghề, riêng trường Cao đẳng Sư phạm đào tạo 1.934 giáo viên Tiểu học và THCS, đáp
ứng cơ bản nhu cầu giáo viên của tỉnh [45, tr.3]. Tháng 11 năm 2004, trường Cao đẳng
Bến Tre được thành lập trên cơ sở hợp nhất trường Cao đẳng sư phạm với 2 trường
Trung học chuyên nghiệp: Kinh tế kỹ thuật và Kỹ thuật công nghiệp. Việc thành lập
trường Cao đẳng Bến Tre đào tạo đa ngành, đa hệ với quy mô 3000 - 4000 học sinh,
sinh viên cho thấy nhu cầu đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh đang là yêu
cầu bức xúc. Hệ thống GD-ĐT nghề cũng không ngừng mở rộng quy mô theo hướng đa
dạng hóa ngành nghề và hình thức đào tạo, vừa đáp ứng yêu cầu học nghề của người lao
động, vừa phù hợp với yêu cầu phát triển kinh tế của tỉnh và cung cấp cho thị trường lao
động. Toàn tỉnh hiện có 27 trung tâm, cơ sở dạy nghề (trước năm 2000 chỉ có 14 cơ sở),
trong đó có 14 cơ sở dạy nghề tư nhân. Số người được đào tạo nghề từ 5.859 người
(năm 2001) đã tăng lên 8.772 người (năm 2004). Ngoài ra, các doanh nghiệp, làng nghề,
hội nghề ở các địa phương đã tổ chức truyền nghề và dạy nghề tại chỗ cho 10.000 đến
12.000 lao động mỗi năm [61].Với năng lực đào tạo như hiện nay, ước tính đến cuối
năm 2005, tỷ lệ lao động qua đào tạo của tỉnh sẽ đạt được chỉ tiêu đề ra là 25%.
Nhìn chung, công tác đào tạo nghề cho người lao động những năm qua đã
được coi trọng, mỗi năm các cơ sở dạy nghề cung cấp 8000 - 9000 lao động được
đào tạo với nhiều ngành nghề khác nhau cho các cơ sở sản xuất. Tuy nhiên, so với
nhu cầu xã hội, mạng lưới dạy nghề của tỉnh còn mỏng và nhỏ cả về quy mô đầu tư
và tuyển sinh, lại chưa có chính sách thu hút học sinh học nghề thông qua học bổng,
học phí, ưu tiên bố trí việc làm… nên công tác dạy nghề ở Bến Tre còn nhiều hạn
chế. Một trong những khó khăn của công tác dạy nghề ở Bến Tre hiện nay là vấn đề
nhận thức chưa đầy đủ của xã hội về nghề nghiệp. Vào các trường trung học chuyên
nghiệp hay trường nghề chưa phải là con đường được nhiều học sinh phổ thông lựa
chọn. Việc coi trọng bằng cấp đã tạo ra dư luận xã hội không coi trọng việc học
nghề, vì thế, nhiều học sinh không muốn vào trường nghề. Hơn nữa, ở Bến Tre, thói
quen lao động kỹ thuật theo kiểu truyền nghề mà không cần bằng cấp hoặc chưa có
chính sách khuyến khích xã hội sử dụng người có bằng nghề, dẫn đến nhiều cơ sở
dạy nghề chưa tích cực đầu tư đúng mức cho việc dạy nghề cả về cơ sở vật chất lẫn
giáo trình, giáo án. Vì vậy, nếu không nhanh chóng khắc phục những hiện tượng
này, sẽ là trở ngại không nhỏ trong công tác đào tạo nghề cho người lao động - một
nội dung quan trọng trong chiến lược phát triển NLCN của tỉnh hiện nay.
Thực trạng phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao
Nhận thức được vai trò nòng cốt của nguồn nhân lực chất lượng cao trong phát triển
kinh tế-xã hội và đẩy mạnh CNH, HĐH, tỉnh Bến Tre đã và đang rất chú trọng phát triển
nguồn nhân lực này bằng nhiều loại hình đào tạo: chính quy, không chính quy (tại chức,
đào tạo từ xa) với các trình độ: cao đẳng, đại học và trên đại học. Nguồn đào tạo trình độ
này không chỉ có học sinh phổ thông mà còn là cán bộ, công chức đang công tác tại tỉnh.
Trước yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp CNH, HĐH, tỉnh đã có nhiều nỗ lực
trong chuẩn bị nguồn nhân lực có trình độ đại học, cao đẳng. Số học sinh Bến Tre trúng
tuyển vào các trường đại học, cao đẳng trong cả nước ngày càng nhiều, năm 2000 có
1.871 sinh viên, năm 2003 là 2.520 sinh viên và năm 2004 là 2.068 sinh viên. Theo số
liệu thống kê của Bộ GD-ĐT, tính đến 2/2005, tỉnh Bến Tre có 10.409 sinh viên đang
theo học tại 83 trường đại học, cao đẳng trong cả nước [7].
Ngoài lực lượng sinh viên đang học tại các trường đại học, cao đẳng trên cả
nước, Bến Tre còn rất chú trọng phát triển nguồn nhân lực có trình độ cao tại tỉnh bằng
các hình thức liên kết đào tạo, đào tạo từ xa với các trường đại học, cao đẳng trên toàn
quốc ở các ngành, nghề đang là mũi nhọn kinh tế của tỉnh và cả các ngành đang là nhu
cầu của người học. Đối tượng theo học các lớp này bao gồm học sinh phổ thông và cán
bộ, công chức đang làm việc tại tỉnh. So với giai đoạn 1996 - 2000, loại hình đào tạo
không chính quy hiện nay tăng 3,9 lần. Trong giai đoạn 2001 - 2005 đã có 1.724 sinh
viên cao đẳng và 918 sinh viên đại học được cấp bằng tốt nghiệp. Hiện có 2.688 sinh
viên đang theo học hệ đại học với 8 ngành đào tạo [45, tr.3]. Những số liệu trên cho
thấy nguồn nhân lực chất lượng cao có trình độ cao đẳng, đại học của tỉnh đang phát
triển nhanh về số lượng. Có thể xem đây là bước chuẩn bị nguồn nhân lực cho giai đoạn
phát triển nhanh hơn trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở Bến Tre, giai đoạn 2006 -
2010 và những năm tiếp theo.
Để khuyến khích, tạo điều kiện phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao về số
lượng, giỏi về chuyên môn, có đạo đức cách mạng, trung thành với Đảng và yên tâm
phục vụ lâu dài tại tỉnh, tỉnh Bến Tre đã ra quyết định số 4051/2001/QĐ-UB ngày 4-9-
2001 quy định cụ thể về chế độ trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức và sinh
viên đi học đại học và sau đại học (xem phụ lục 4). Hơn 3 năm thực hiện chính sách trợ
cấp cho các đối tượng sinh viên, đã có 76 sinh viên tốt nghiệp loại giỏi, 269 tốt nghiệp
loại khá, 583 sinh viên học giỏi, 812 sinh viên con liệt sĩ, thương binh và 84 sinh viên diện
gia đình nghèo được hưởng trợ cấp. Tổng kinh phí trợ cấp cho sinh viên thuộc các đối
tượng trên là 3.325 triệu đồng [49, tr.2-3]. Trong điều kiện kinh tế của Bến Tre, chính sách
trợ cấp đào tạo sinh viên những năm qua, có thể nói là một sự ưu tiên trong phát triển
nguồn nhân lực có trình độ cao. Chính sách đã có tác dụng khuyến khích sinh viên phấn
đấu học tập, rèn luyện đạt kết quả tốt và có ý thức trở về phục vụ tỉnh nhà.
Công tác phát hiện và bồi dưỡng nhân tài được tỉnh chú trọng hơn trong những
năm gần đây. Năm 2003, tỉnh đã mở hội thảo và giới thiệu rộng rãi về việc du học, tạo
điều kiện thu hút tài trợ và đưa học sinh của tỉnh đi học nước ngoài. Số học sinh đi học
nước ngoài ngày càng nhiều, nếu những năm 1996 - 2000 mới chỉ có 8 học sinh Bến
Tre đi du học, thì giai đoạn 2001 - 2005 có đến 44 em đi học ở 10 nước (có 15 em được
cấp học bổng) [45, tr.3].
Thực trạng công tác đào tạo, bồi dưỡng, đãi ngộ cán bộ, công chức có nhiều
chuyển biến rõ nét
Trước những năm 1996, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức chủ yếu do
các ngành và Trung ương tổ chức, nên đội ngũ cán bộ, công chức hàng năm được cử đi đào
tạo, bồi dưỡng số lượng còn hạn chế, chủ yếu theo quy hoạch và kế hoạch được phân bổ.
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, tỉnh đã có những chủ trương, chính sách cụ thể về tăng
cường công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, từng bước nâng cao nhận thức chính
trị, trình độ văn hóa, chuyên môn nghiệp vụ, nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức của
tỉnh đủ trình độ, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ trong thời kỳ mới. Năm 1998, Ủy ban
nhân dân tỉnh đã xây dựng “Đề án tổng quan quy hoạch đào tạo cán bộ đến năm 2000 và
2010”. Ban Tổ chức chính quyền tỉnh cùng với các ngành, các cấp tiến hành rà soát, thống
kê, đánh giá chất lượng cán bộ, công chức các ngành, các cấp. Trên cơ sở đó, đề án đã xây
dựng quy hoạch, kế hoạch đào tạo và mục tiêu đào tạo từng loại cán bộ, ở từng cấp, từng
ngành hàng năm. Tuy nhiên, qua một số năm thực hiện đề án, công tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ chưa thực sự phát huy hiệu quả. Do vậy, “đội ngũ cán bộ vẫn còn hụt hẫng, chưa đồng
bộ, thiếu cán bộ giỏi về quản lý kinh tế, sản xuất kinh doanh, khoa học kỹ thuật” [23, tr.38].
Trước yêu cầu thực tiễn, Ủy ban nhân dân tỉnh đã ra Quyết định số 2103/2003/QĐ-UB
ngày 31/7/2003 “Về việc sửa đổi, bổ sung quy định về chính sách trợ cấp đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ, công chức và thu hút cán bộ, công chức có trình độ, năng lực tốt” (xem phụ
lục 4). Theo quyết định này, cán bộ, công chức đi học sau đại học có bằng tốt nghiệp được
thưởng: 7 triệu đồng cho bằng bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa cấp 1; 10 triệu đồng cho người
có bằng thạc sĩ, bác sĩ, dược sĩ chuyên khoa cấp 2 và 20 triệu đồng với bằng tiến sĩ. Đặc
biệt, để thu hút cán bộ, công chức có trình độ, năng lực tốt về công tác tại tỉnh, Quyết định
đã quy định chế độ ưu đãi như sau: Tốt nghiệp đại học hệ chính quy được trợ cấp 3 triệu
đồng/người. Đối với những chức danh, ngành nghề mà tỉnh ưu tiên thu hút (theo danh mục
tỉnh công bố hàng năm), được trợ cấp một lần 6 triệu đồng/ người. Người có học hàm, học
vị có năng lực thật sự, cam kết công tác lâu dài ít nhất là 5 năm, được trợ cấp một lần:
Thạc sĩ 15 triệu đồng/ người ; tiến sĩ 30 triệu đồng/ người ; phó giáo sư - tiến sĩ 35 triệu
đồng/ người và giáo sư - tiến sĩ là 40 triệu đồng/ người và được tạo điều kiện thuận lợi
về nhà ở trong thời gian công tác tại tỉnh.
Những quy định trong Quyết định số 4051 và số 2103 thật sự là bước ngoặt trong
nhận thức của tỉnh Bến Tre về vai trò của nguồn nhân lực chất lượng cao trong tiến trình
CNH, HĐH. Sau hơn 3 năm thực hiện quyết định trên, đã có 171 cán bộ, công chức của
tỉnh được đào tạo trình độ tiến sĩ, thạc sĩ (trong đó có 7 tiến sĩ), 1.841 người có trình độ
đại học, 1.714 người có trình độ trung cấp và hơn 4.200 người được bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, tin học, ngoại ngữ. Ngoài ra, thu hút được 628 sinh viên có trình độ đại
học về tỉnh công tác. Tổng kinh phí thực hiện chính sách đào tạo, bồi dưỡng và thu hút
cán bộ, công chức của tỉnh từ 9/2001 đến nay (3/2005) là 21.130 triệu đồng từ ngân
sách của tỉnh (17.020 triệu đồng) và Trung ương phân bổ (4.110 triệu đồng) [49, tr.3].
Những kết quả đạt được trong công tác đào tạo, bồi dưỡng và thu hút cán bộ,
công chức có năng lực, có trình độ những năm qua đã góp phần to lớn nâng cao chất
lượng đội ngũ cán bộ, công chức - bộ phận quan trọng trong nguồn nhân lực chất lượng
cao của tỉnh. Tuy nhiên, việc thực hiện chính sách trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ,
công chức, do mới chú trọng phát triển về số lượng, ít chú ý mặt chất lượng nên hiệu
quả công tác đào tạo, bồi dưỡng chưa cao. Tình trạng tăng nhanh số lượng bằng cấp
nhưng chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức chưa được nâng lên ngang tầm do tác động
ngoài mong muốn của việc thực hiện chính sách trợ cấp ưu đãi trong đào tạo, bồi dưỡng
ở Bến Tre là một thực tế. Thực trạng này là nguyên nhân dẫn đến tình trạng thừa nhân
lực có bằng cấp nhưng lại thiếu người tài, có năng lực thực sự phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH ở tỉnh Bến Tre.
Những nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến quá trình phát triển nguồn lực
con người ở tỉnh Bến Tre trong thời gian qua
Nguyên nhân khách quan
Một là, Bến Tre bước vào thời kỳ đổi mới, tiến hành CNH, HĐH trong hoàn
cảnh tỉnh nghèo, nền kinh tế chưa kịp khôi phục sau chiến tranh, trình độ phát triển còn
thấp (chủ yếu là nông nghiệp), cơ sở hạ tầng yếu kém, vị trí địa lý “cù lao” cách trở…
nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp năng suất thấp, đời sống nhân dân
chưa được nâng cao. Những yếu kém đó đã ảnh hưởng đến việc đầu tư, chăm lo phát
triển NLCN của tỉnh. Do đó, mặc dù đã có những chuyển biến tích cực, nhưng so với
yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, NLCN của Bến Tre còn nhiều hạn chế, nhất
là về chất lượng.
Hai là, Bến Tre là tỉnh đất hẹp, người đông, lực lượng lao động dồi dào, do đó,
đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho người lao động đã và đang là vấn đề gay gắt mà
Bến Tre phải đối mặt trong nhiều năm. Trong bối cảnh hiện tại, giải quyết việc làm đầy
đủ cho người lao động được coi là vấn đề bức xúc và gặp không ít khó khăn, do đó, yêu
cầu nâng cao chất lượng việc làm nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển NLCN chưa thể là
mục tiêu được ưu tiên hàng đầu, mặc dù đây là mục tiêu có tính cấp bách cần hướng tới
trong quá trình CNH, HĐH.
Ba là, Bến Tre có vị trí địa lý kinh tế không thuận lợi, khó thu hút các nguồn đầu
tư từ bên ngoài, do đó, nhiều tiềm năng to lớn của tỉnh chưa được khai thác, nhất là tiềm
năng lao động dồi dào. Mặt khác, nền kinh tế có tăng trưởng nhưng còn chậm và chưa
vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH cũng rất chậm, tỷ trọng
nông nghiệp trong cơ cấu GDP còn cao. Lĩnh vực công nghiệp, dịch vụ phát triển chậm
và đạt tỷ trọng thấp, nhu cầu thu hút và sử dụng lao động có tay nghề còn nhỏ bé, chưa
thôi thúc người lao động học tập nâng cao trình độ hướng đến lĩnh vực này. Do đó, quá
trình chuyển dịch cơ cấu lao động diễn ra khá chậm chạp, ảnh hưởng đến quá trình phát
triển NLCN của tỉnh.
Nguyên nhân chủ quan
Một là, về nhận thức. Do nền kinh tế chậm phát triển, sản xuất nông nghiệp lạc
hậu, phần lớn phụ thuộc vào tự nhiên nên con người Bến Tre có thói quen dựa vào sức
mạnh cơ bắp và sản xuất bằng kinh nghiệm là chủ yếu, chưa nhận thấy được giá trị to
lớn của tri thức khoa học và vai trò của trí tuệ trong việc thúc đẩy phát triển sản xuất.
Điều này ảnh hưởng không nhỏ đến việc nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn kỹ
thuật cho lực lượng lao động. Mặt khác, con người Bến Tre còn bị ảnh hưởng bởi tâm lý
coi trọng bằng cấp, xem việc học như một phương tiện để tiến thân, cầu an, hưởng lợi,
để có cơ may thóat ra khỏi vòng luẩn quẩn của nghèo khó ở thôn quê. Vì vậy, có thể
hiểu vì sao Bến Tre là vùng đất có truyền thống hiếu học, nhưng lại hiếm người tài. Bởi
Bến Tre chưa tạo ra được môi trường và điều kiện thuận lợi để nhân tài bộc lộ tài năng
để thăng tiến và thành đạt. Chính điều này ảnh hưởng không nhỏ đến số lượng cũng như
chất lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh.
Hai là, phần lớn đội ngũ cán bộ của tỉnh xuất thân từ nông dân, được rèn luyện
qua khói lửa chiến tranh, nhưng còn hạn chế về trình độ văn hóa, khoa học - kỹ thuật,
nhất là năng lực quản lý nền kinh tế trong cơ chế thị trường. Xét cho cùng, chất lượng
đội ngũ cán bộ là nhân tố quan trọng, góp phần thực hiện thắng lợi những chủ trương,
chính sách của Đảng. V.I.Lênin đã từng chỉ rõ: Vấn đề then chốt là phải phát hiện ra
"những cán bộ có bản lĩnh, có thực tài, nếu không thì tất cả mọi mệnh lệnh và quyết
định sẽ chỉ là một mớ giấy lộn" [40. tr.449]. Vì vậy, từ thực tiễn, Bến Tre đã rút ra bài
học có ý nghĩa lớn lao là phải kiên quyết đầu tư để xây dựng đội ngũ cán bộ kế cận
mạnh và đồng bộ, tập trung khắc phục sự hụt hẫng lớn về cán bộ cơ sở, đồng thời có
chính sách đào tạo cán bộ giỏi, sử dụng và trọng dụng nhân tài, tạo điều kiện để cán bộ
phát huy thế mạnh, có nhiều cống hiến và hoàn thành nhiệm vụ, bởi vì "cán bộ là cái
gốc của mọi công việc". Như vậy, chất lượng đội ngũ cán bộ của tỉnh hạn chế cũng là
nguyên nhân sâu xa dẫn đến việc chưa chú trọng và thực hiện sớm chính sách phát triển
nguồn nhân lực của tỉnh, trong đó có sự chậm trễ trong chính sách cán bộ và chiến lược
nhân tài.
Ba là, về cơ chế chính sách. Trong những năm qua, nhiều chính sách của tỉnh,
trong đó có chính sách phát triển NLCN, đang từng bước được bổ sung, điều chỉnh.
Song, một số chính sách đã tỏ ra không còn phù hợp, chưa khơi dậy tiềm năng, tạo ra
động lực kích thích tính tích cực, năng động sáng tạo của nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao. Hiện nay, việc giao chỉ tiêu và cấp kinh phí cho GD-ĐT; việc
phân bổ đề tài và cấp kinh phí cho các đề tài còn mang tính bình quân, bao cấp. Do đó,
không những không kích thích tạo ra động lực lao động khoa học sáng tạo, mà còn tạo
điều kiện nảy sinh những tiêu cực trong lĩnh vực này.
Đến nay, tỉnh chưa xây dựng được chương trình tổng thể về phát triển nguồn
nhân lực, chưa có quy hoạch cụ thể, đồng bộ cho việc phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, và cũng chưa có sự điều tra đầy đủ về nguồn nhân lực này. Đây là những
nguyên nhân chính dẫn đến thực trạng vừa yếu vừa thiếu, vừa thừa nguồn nhân lực chất
lượng cao trong nhiều năm qua. Tình trạng chưa mạnh dạn đổi chất cán bộ, công chức,
"đông cứng" về biên chế trong các cơ quan hành chính sự nghiệp cũng chính là nguyên
nhân làm hạn chế cơ hội cống hiến của đội ngũ lao động trẻ, có năng lực, được đào tạo
cơ bản. Điều này đã làm giảm tính hiệu quả trong việc sử dụng nguồn nhân lực chất
lượng cao của tỉnh.
Trong công tác đào tạo nghề, chưa có sự gắn kết chặt chẽ giữa đào tạo với sử
dụng, sử dụng với đào tạo; đào tạo chưa xuất phát từ nhu cầu của thị trường lao động,
chưa tạo ra mối quan hệ mật thiết giữa công tác đào tạo nghề với nhu cầu thị trường lao
động. Đặc biệt, chưa có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp, các cơ sở sử dụng
lao động có trách nhiệm tham gia tích cực vào công tác đào tạo nghề. Đầu tư cho công
tác đào tạo nghề chưa thỏa đáng, các mô hình đào tạo theo địa chỉ, đào tạo tại doanh
nghiệp, đào tạo theo hợp đồng... chưa phát triển mạnh.
Bước vào thời kỳ CNH, HĐH, tỉnh Bến Tre đã có nhiều nỗ lực nhằm thúc đẩy
NLCN của tỉnh phát triển cả về số lượng và chất lượng. Nhưng do nhiều nguyên nhân
khách quan và chủ quan, NLCN của tỉnh trong những năm qua phát triển chưa đồng bộ,
chưa đáp ứng yêu cầu thực tiễn. Điều này đã ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ phát triển
kinh tế-xã hội và tiến trình CNH, HĐH ở tỉnh. Việc dự báo xu hướng vận động của
NLCN Bến Tre trong những năm tới có ý nghĩa thiết thực trong việc đề ra chính sách,
giải pháp tác động thúc đẩy quá trình phát triển NLCN, đồng thời khắc phục những xu
hướng tiêu cực để chất lượng NLCN Bến Tre ngày càng nâng cao đáp ứng yêu cầu thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH.
2.3. NHỮNG XU HƯỚNG VẬN ĐỘNG CƠ BẢN CỦA NGUỒN LỰC CON
NGƯỜI Ở TỈNH BẾN TRE TRONG THỜI GIAN TỚI
Trước sự tác động mạnh mẽ của quá trình CNH, HĐH, của cơ chế thị trường, hội
nhập kinh tế thế giới… NLCN của tỉnh Bến Tre vận động biến đổi theo những chiều
hướng khác nhau. Xuất phát từ thực trạng NLCN trong những năm gần đây, có thể dự
báo trong những năm tới NLCN Bến Tre sẽ vận động theo những hướng cơ bản sau:
Thứ nhất, trong những năm tới, NLCN Bến Tre sẽ tiếp tục biến đổi về số
lượng theo hướng tăng dân số trong độ tuổi lao động
Do tác động tích cực của chính sách dân số - kế hoạch hóa gia đình, dân số Bến
Tre từ 10 năm qua tăng chậm và ở mức ổn định. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên giảm từ
1,62% (năm 1993) xuống còn 1,021% (năm 2004). Kết quả này đã ảnh hưởng trực tiếp
đến sự biến động quy mô học sinh các cấp trong nhiều năm gần đây và hệ quả là dân số
trong độ tuổi lao động gia tăng. Quy mô học sinh tiểu học có xu hướng giảm mạnh
trong nhiều năm, nếu năm học 2000-2001 có 141.386 học sinh tiểu học thì năm học
2004-2005 chỉ còn 107.760 học sinh. Ngược lại, số học sinh THPT tăng nhanh từ 35.128
(năm 2001) lên 43.476 học sinh (năm 2005) [13]. Đào tạo nghề và giải quyết việc làm cho
người lao động đang và sẽ còn là vấn đề thu hút sự quan tâm của các cấp, các ngành tỉnh
Bến Tre trong nhiều năm tới đây. Sử dụng có hiệu quả tiềm năng lao động dồi dào này sẽ
tạo ra cho Bến Tre nguồn nội lực mạnh mẽ để đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế- xã hội,
thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH. Hiện nay, tỉnh Bến Tre đã và đang nỗ lực tập
trung cao độ các nguồn lực cho GD-ĐT, nhất là phát triển mạnh giáo dục, đào tạo nghề
nhằm tạo ra bước đột phá về phát triển NLCN, nhằm biến tiềm năng thành sức mạnh nội
lực cho quá trình phát triển.
Thứ hai, NLCN Bến Tre sẽ biến đổi về chất lượng theo hướng tăng nhanh lao
động qua đào tạo, trình độ học vấn, chuyên môn kỹ thuật ngày càng nâng cao đáp
ứng yêu cầu CNH, HĐH
Trong quá trình đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, Bến Tre chú trọng thu hút các
nguồn vốn đầu tư nhằm nhanh chóng hiện đại hóa nền kinh tế, thực hiện chiến lược tăng
tốc kinh tế. Điều đó chỉ trở thành hiện thực khi NLCN của tỉnh không ngừng phát triển về
chất lượng, trong đó quan trọng nhất là nâng cao trình độ học vấn, kỹ năng lao động,
chuyên môn nghiệp vụ cho lực lượng lao động. Tới đây khi các khu, cụm công nghiệp lớn
như Giao Long, An Hiệp, Bình Phú... đi vào hoạt động thì nhu cầu sử dụng công nhân kỹ
thuật, công nhân có trình độ tay nghề cao là rất lớn. Tỉnh đã có kế hoạch chuẩn bị phát triển
nguồn nhân lực có trình độ cao qua việc đầu tư, nâng cấp các trường, trung tâm dạy nghề
trọng điểm, nhất là đầu tư, củng cố trường Cao đẳng Bến Tre để mở rộng ngành nghề, nâng
cao chất lượng, hiệu quả đào tạo và đẩy mạnh liên kết, liên thông đào tạo (kể cả liên kết đào
tạo đại học chính quy và đào tạo với các trường quốc tế). Một tín hiệu vui cho ngành GD-
ĐT Bến Tre là tỉnh đang tiếp tục đề nghị Trung ương cho thành lập trường Đại học Bến Tre
và đi vào hoạt động muộn nhất vào năm 2010. Sự thành lập trường Đại học đa ngành tại địa
phương sẽ tiết kiệm rất nhiều kinh phí đào tạo nguồn nhân lực chất lượng cao cho tỉnh, góp
phần thúc đẩy kinh tế- xã hội phát triển, thực hiện thành công CNH, HĐH. Với sự
chuẩn bị tích cực này, xu hướng NLCN Bến Tre tăng nhanh trình độ và kỹ năng nghề
nghiệp sẽ là hiện thực trong vài năm tới đây.
Thứ ba, nguồn lực con người Bến Tre sẽ biến đổi theo hướng tăng lao động
trong lĩnh vực công nghiệp - dịch vụ, giảm lao động trong nông-lâm-ngư nghiệp dưới
tác động của quá trình CNH, HĐH
Đây là xu hướng tất yếu trong quá trình CNH, HĐH ở nước ta nói chung, Bến
Tre nói riêng. Quá trình CNH, HĐH dưới tác động của cuộc cách mạng KH-CN hiện
đại tất yếu dẫn đến chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tăng nhanh lao động có trình
độ cao trong lĩnh vực công nghiêp - dịch vụ, giảm lao động ở khu vực nông nghiệp. Đặc
biệt, sự xuất hiện của nhiều nghề mới với yêu cầu trí tuệ ngày càng cao, đồng thời, mất
dần những nghề dựa trên công nghệ giản đơn, năng suất thấp, cũng tác động đến sự
chuyển đổi nghề nghiệp của người lao động. Cùng với quá trình chuyển đổi cơ cấu lao
động dưới tác động của CNH, HĐH, quá trình “trí tuệ hóa” lao động xã hội sẽ diễn ra
nhờ việc nâng cao và làm đồng đều trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ của người
lao động nhằm tăng thêm cơ hội tìm việc làm, giải quyết nạn thất nghiệp và là cơ sở bảo
đảm cho xã hội phát triển nhanh và bền vững. Đẩy mạnh CNH, HĐH là điều kiện cho
xu hướng này nhanh chóng diễn ra, tạo ra khả năng thực tế cho con người phát triển
toàn diện.
Thứ tư, xu hướng suy giảm chất lượng của một bộ phận NLCN Bến Tre do
tác động tiêu cực của cơ chế thị trường
Nguồn lực con người của Bến Tre hiện đang vận động cùng với xu hướng phát
triển nhanh về số lượng và chất lượng là xu hướng suy giảm về phẩm chất đạo đức, lối
sống do tác động bởi mặt trái của cơ chế thị trường ở một bộ phận không nhỏ trong lực
lượng lao động. Đây là xu hướng vừa là hiện thực, vừa là nguy cơ tiềm ẩn bởi nó đang
ngấm ngầm, ăn sâu vào mọi đối tượng trong xã hội. Những tiêu cực của cơ chế thị
trường đang tác động trực tiếp hàng ngày, hàng giờ đến người lao động, nhất là lực
lượng lao động trẻ, gây ảnh hưởng xấu đến chất lượng NLCN. Đó là lối sống thực
dụng, đề cao giá trị đồng tiền, xem nhẹ các giá trị đạo đức, thậm chí đạo đức bị băng
hoại dẫn đến sự suy thóai, biến chất trong một bộ phận người lao động và cả cán bộ
đảng viên. Nguy hại hơn là xu hướng này đang có nguy cơ bùng phát trong lĩnh vực
GD-ĐT. Tình trạng giáo dục không toàn diện, thương mại hóa giáo dục, xem nhẹ
giáo dục truyền thống, lịch sử, giáo dục đạo đức… trong nhà trường đã và đang làm
suy giảm chất lượng GD-ĐT, ảnh hưởng xấu đến chất lượng NLCN trong hiện tại và
tương lai. Sản phẩm của tình trạng giáo dục này là người lao động yếu kiến thức,
kém kỹ năng thực hành, ít khả năng thích nghi, thiếu năng động sáng tạo, đó là
những đặc trưng của chất lượng lao động yếu kém. Vì vậy, hơn lúc nào hết, “chấn
hưng giáo dục” đã trở thành mệnh lệnh của cuộc sống, nhằm nâng cao chất lượng
đào tạo nguồn nhân lực, đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Từ thực trạng và xu hướng vận động của NLCN Bến Tre, có thể rút ra một số kết
luận sau:
Một là, NLCN Bến Tre tồn tại và phát triển trên vùng đất có nhiều khác biệt về
vị trí địa lý, hoàn cảnh kinh tế, đặc điểm văn hóa, xã hội mang những sắc thái riêng có
cả thuận lợi và khó khăn. Mặt khác, dưới tác động của quá trình CNH, HĐH, cơ chế thị
trường, cơ chế chính sách... NLCN Bến Tre vận động, biến đổi theo những xu hướng
trái ngược nhau.
Hai là, trong những năm tới đây, cùng với tốc độ phát triển kinh tế-xã hội của
tỉnh, NLCN Bến Tre tiếp tục có nhiều biến đổi phức tạp cả về số lượng và chất lượng.
Nhưng nhìn chung, NLCN của tỉnh sẽ phát triển ngày càng mạnh thêm về số lượng và
cao hơn về chất lượng, phù hợp với xu thế phát triển và yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của
quá trình CNH, HĐH. Điều đó tạo cho Bến Tre nguồn nội lực mới, mạnh mẽ thúc đẩy
nhanh quá trình phát triển và hội nhập với xu thế phát triển của vùng và cả nước.
Ba là, việc phân tích thực trạng và xu hướng phát triển của NLCN của tỉnh, giúp
cho các cấp, các ngành đánh giá đầy đủ hơn về nguồn nội lực của mình, từ đó có những
chính sách và giải pháp tác động hạn chế mặt tiêu cực, thúc đẩy NLCN phát triển mạnh
hơn nhằm tăng sức mạnh nội lực cho sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH ở Bến
Tre.
Chương 3
QUAN ĐIỂM CƠ BẢN VÀ GIẢI PHÁP CHỦ YẾU
NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC CON NGƯỜI
TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA
Ở TỈNH BẾN TRE
3.1. NHỮNG QUAN ĐIỂM CƠ BẢN
Phát triển NLCN, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao được Đảng ta xác định
là khâu đột phá để thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển đất nước
theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Để có chính sách, giải pháp phát triển NLCN ở Bến
Tre phù hợp và có hiệu quả, cần xác định những quan điểm cơ bản làm cơ sở thống nhất
nhận thức và hành động cho các cấp, nhất là những cơ quan có trách nhiệm trực tiếp đối
với quá trình này ở tỉnh Bến Tre.
Một là, phát triển nguồn lực con người phải được xem là chiến lược ưu tiên
nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH ở tỉnh
Bến Tre
Con người vừa là mục tiêu vừa là động lực của sự nghiệp CNH, HĐH. Vì vậy,
con người phải được phát triển cao về trí tuệ, có phẩm chất đạo đức tốt, có trình độ học
vấn và tay nghề cao. Vì thế, đầu tư phát triển NLCN được xem là đầu tư quan trọng
nhất và có hiệu quả nhất, là yếu tố quyết định thắng lợi của sự nghiệp CNH, HĐH.
NLCN Bến Tre dồi dào, nhưng trước yêu cầu thực tiễn đã bộc lộ nhiều hạn chế, nhất là
về mặt chất lượng. Vì vậy, để phát triển kinh tế-xã hội, đẩy nhanh CNH, HĐH, không
có con đường nào khác là Bến Tre phải phát triển mạnh và khai thác có hiệu quả nguồn
vốn quý giá nhất, đó là tiềm năng trí tuệ, sức sáng tạo, trình độ, kỹ năng lao động và cả sức
mạnh truyền thống của NLCN của mình.
Trước mắt, để đạt các chỉ tiêu kinh tế-xã hội năm 2005 và nhằm thực hiện thắng
lợi mục tiêu Nghị quyết Đại hội lần thứ VII Đảng bộ tỉnh giai đoạn 2001-2005, Bến Tre
cần tập trung mọi nguồn lực cho phát triển NLCN - nhân tố quyết định mọi thắng lợi.
Trên nền tảng những thắng lợi đó, tạo đà đẩy mạnh CNH, HĐH trong những năm tiếp
theo, phấn đấu để hoàn thành sự nghiệp CNH, HĐH vào năm 2020, theo chủ trương của
Đảng. Những nhiệm vụ của giai đoạn này rất nặng nề nhưng tất yếu phải vượt qua để
Bến Tre vươn lên, góp phần cùng với các tỉnh trong khu vực và cả nước đưa nước ta trở
thành nước công nghiệp phát triển theo hướng hiện đại. Tất cả những mục tiêu đó chỉ có thể
thực hiện được bằng chính sức mạnh của NLCN Bến Tre, trước hết là sức mạnh của tài
năng và trí tuệ, sức sáng tạo của lực lượng lao động, những người đã và đang đóng góp to
lớn cho sự phát triển của tỉnh. Vì thế, hơn lúc nào hết, phát triển NLCN ở Bến Tre phải
được xác định là nhiệm vụ hàng đầu và là khâu đột phá trong chiến lược phát triển kinh tế-
xã hội, nhằm tạo ra sự phát triển vượt bậc của NLCN, nguồn sức mạnh thực hiện thắng lợi
các mục tiêu kinh tế-xã hội.
Hai là, phát triển NLCN của tỉnh Bến Tre là trách nhiệm của Nhà nước, các
cấp, các ngành và của mọi người dân trong tỉnh
Phát triển NLCN phải là sự phối hợp chặt chẽ giữa Nhà nước cùng với các cấp,
các ngành và mọi người dân Bến Tre. Bởi NLCN chỉ thực sự phát triển khi được đào
tạo, bồi dưỡng, sử dụng và đãi ngộ phù hợp, tạo ra những điều kiện thuận lợi để người
lao động phát triển cả về thể lực, trí tuệ và nhân cách, phát triển hài hòa cả về thể chất
lẫn tinh thần. Phát triển NLCN phải bắt đầu từ nâng cao chất lượng người lao động về
mọi mặt: sức khỏe, tri thức, tay nghề, đạo đức. Điều đó, trước hết đòi hỏi mỗi cá nhân
người lao động luôn tự ý thức nâng cao trình độ, tự bồi dưỡng nhân cách đạo đức, rèn
luyện kỹ năng nghề nghiệp, sứckhỏe... nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn yêu cầu của xã
hội và công việc đòi hỏi.
Xuất phát từ điều kiện kinh tế-xã hội của địa phương, tỉnh Bến Tre cần xây dựng
chiến lược phát triển NLCN làm cơ sở định hướng thực hiện kế hoạch hóa sự phát triển
các ngành: GD-ĐT, chăm sóc sức khỏe, dân số… nhằm chuẩn bị nguồn nhân lực phù
hợp với yêu cầu trong từng giai đoạn CNH, HĐH. Trên cơ sở đó, tỉnh ban hành và thực
hiện các cơ chế, chính sách, tăng cường đầu tư phát triển GD-ĐT và các lĩnh vực phúc
lợi xã hội, dịch vụ cơ bản để chăm lo cho con người, quản lý và sử dụng tốt tiềm năng
lao động. Đặc biệt, Nhà nước, trước hết là tỉnh Bến Tre cần tạo môi trường, hành lang
pháp lý và điều kiện thuận lợi cho các thành phần kinh tế đầu tư phát triển, mở mang
ngành nghề, cơ sở sản xuất, dịch vụ có khả năng tạo nhiều việc làm mới, đồng thời có
chính sách hình thành và phát triển nhanh thị trường lao động, thị trường KH-CN…
nhằm tạo môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng để người lao động có cơ hội phát
triển. Bên cạnh đó, cần phát huy vai trò to lớn của các cơ quan, doanh nghiệp thuộc mọi
thành phần kinh tế, mọi người lao động, kể cả các cá nhân, tổ chức trong và ngoài tỉnh
tham gia cùng với Nhà nước phát triển sự nghiệp GD-ĐT, nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực, tạo việc làm và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động xã hội.
Ba là, phát triển NLCN phải tôn trọng quy luật khách quan của nền kinh tế
thị trường và của thị trường lao động, đồng thời phải bảo đảm giữ vững định hướng
xã hội chủ nghĩa
Quan điểm này yêu cầu phát triển NLCN ở Bến Tre, một mặt, phải tôn trọng các
quy luật khách quan của nền kinh tế thị trường, của thị trường lao động (quy luật cạnh
tranh, quy luật về mối quan hệ giữa cung và cầu lao động,…) mặt khác, phải bảo đảm
thị trường phát triển đúng hướng, cạnh tranh bình đẳng, tạo cơ hội và điều kiện thuận
lợi để mọi người lao động đều được giáo dục, đào tạo, chăm sóc sức khỏe và có việc
làm thu nhập ổn định, nghĩa là cần có sự quản lý, kiểm soát và điều tiết của Nhà nước,
trước hết là của tỉnh. Điều này đảm bảo quá trình phát triển NLCN của Bến Tre vừa đáp
ứng yêu cầu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh, vừa nhằm phát triển toàn diện con người,
bảo đảm tiến bộ và công bằng xã hội trong quá trình phát triển.
Trên thực tế, cũng như cả nước, Bến Tre đang trong quá trình chuyển từ nền kinh
tế tự cấp tự túc theo mô hình kế hoạch hóa tập trung, bao cấp sang nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường lao động ở
Bến Tre (tuy còn sơ khai) nhưng cũng đang hình thành, phát triển và hoạt động theo
những quy luật khách quan, do đó, phát triển NLCN ở Bến Tre cũng phải tuân thủ các
quy luật khách quan của kinh tế thị trường, của thị trường lao động. Điều đó đòi hỏi các
chính sách đào tạo và phát triển NLCN phải hướng theo nhu cầu của thị trường lao
động.
Cơ chế hoạt động của thị trường lao động là cơ chế cạnh tranh, do đó, người lao
động phải được đào tạo để nâng cao khả năng cạnh tranh mới có cơ hội và hy vọng có
được việc làm thích hợp. Mặt khác, trên thị trường lao động, nhu cầu lao động luôn biến
động, thay đổi và đặt ra những yêu cầu mới về số lượng, chất lượng, cũng như cơ cấu
lao động. Vì vậy, gắn đào tạo với nhu cầu thị trường lao động nhằm giúp người lao
động có nhiều cơ hội tìm được việc làm sau khi đào tạo. Có thể nói, phát triển NLCN trong
nền kinh tế thị trường là phải nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh cho người lao động để họ
có nhiều cơ hội tìm được việc làm thích hợp.
Bốn là, quán triệt quan điểm phát triển, chất lượng và sử dụng có hiệu quả
NLCN của tỉnh phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH
Qua gần 10 năm tiến hành CNH, HĐH, tỉnh Bến Tre đã có những bước tiến khá
vững chắc, nền kinh tế đang trong giai đoạn phát triển, tăng tốc. Để bảo đảm phát triển
nhanh và bền vững, đẩy mạnh CNH, HĐH với quy mô và tốc độ nhanh hơn, Bến Tre
cần thật sự coi trọng khai thác và sử dụng có hiệu quả NLCN của mình. Quan điểm phát
triển, chất lượng và sử dụng có hiệu quả NLCN phải được coi là tiêu chí cơ bản và chi
phối các chủ trương, chính sách, cơ chế và giải pháp phát triển NLCN của tỉnh.
Để phát triển và sử dụng có hiệu quả NLCN của tỉnh phục vụ sự nghiệp CNH,
HĐH trong những năm tới, Bến Tre cần xây dựng một hệ thống chính sách và cơ chế
tiếp tục giải phóng sức sản xuất, tạo ra bầu không khí đầu tư lành mạnh trong toàn xã
hội để thu hút mọi nguồn lực đầu tư phát triển sản xuất, nâng cao năng suất lao động xã
hội. Mặt khác, nâng cao chất lượng và khả năng đáp ứng yêu cầu sản xuất của lực lượng
lao động thông qua phát triển GD-ĐT. Điều đó có nghĩa là phát triển và sử dụng có hiệu
quả nguồn “vốn con người” phải kết hợp được tăng trưởng việc làm với không ngừng
nâng cao chất lượng việc làm, từ đó nâng cao chất lượng cuộc sống cho nhân dân trong
tỉnh.
Năm là, giáo dục - đào tạo phải giữ vai trò quyết định trong chiến lược phát
triển NLCN nhằm tạo ra nguồn nhân lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu CNH,
HĐH ở tỉnh Bến Tre
Khi NLCN được coi là yếu tố quyết định sự phát triển nhanh và bền vững của
mỗi quốc gia, thì GD-ĐT là phương tiện chủ yếu quyết định chất lượng NLCN, là nền
tảng của chiến lược con người. Trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH, cùng với khoa học
và công nghệ, GD-ĐT được Đảng ta coi là quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí,
đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài. Quan điểm đó cho thấy rõ GD-ĐT được Đảng ta
xác định là con đường cơ bản để phát triển NLCN, nguồn lực do chính chúng ta tạo nên
và tăng cường để đẩy mạnh CNH, HĐH.
Cùng với nhận thức đúng vị trí và vai trò của GD-ĐT, vấn đề quan trọng hiện
nay là cần đổi mới hệ thống GD-ĐT của Bến Tre ở tất cả các bậc học, đổi mới từ nội
dung đến phương pháp, để sản phẩm đào tạo ra có chất lượng cao, đáp ứng yêu cầu
đẩy mạnh CNH, HĐH. Mục tiêu tổng quát mà GD-ĐT của tỉnh đề ra không chỉ là
nâng cao dân trí, cũng không chỉ là dạy nghề, mà còn tạo ra một nền tảng văn hóa
cần thiết cho mọi người dân của tỉnh, phát triển trí tuệ nguồn nhân lực đáp ứng yêu
cầu phát triển kinh tế-xã hội, đồng thời phát hiện, bồi dưỡng và đào tạo nhân tài, xây
dựng đội ngũ chuyên gia giỏi về khoa học kỹ thuật, công nghệ, quản lý, kinh doanh.
Có thể nói, mục tiêu cuối cùng, cao nhất của GD-ĐT là dạy người. Và vì vậy, khi coi
GD-ĐT là con đường cơ bản phát triển NLCN thì gắn dạy chữ, dạy nghề với dạy
người phải trở thành tư tưởng xuyên suốt, chỉ đạo mọi hoạt động, mọi lĩnh vực liên
quan tới GD-ĐT.
Sáu là, phát triển NLCN ở Bến Tre cần đặc biệt coi trọng chính sách thu hút
và đãi ngộ nhân tài
Thu hút và trọng đãi nhân tài là một trong những chính sách quan trọng đã và
đang được thực hiện ở Bến Tre nhằm phát triển nhanh nguồn nhân lực chất lượng cao
phục vụ sự nghiệp CNH, HĐH. Để cho chính sách này thực sự có hiệu quả, trong thời
gian tới cần cải thiện điều kiện và môi trường làm việc tốt hơn, tạo cơ hội cho đội ngũ
này tiếp cận những thành tựu KH-CN mới, có điều kiện để nâng cao trình độ chuyên
môn, nhằm phát triển năng lực sáng tạo, vươn lên làm chủ KH-CN. Đặc biệt, chú trọng
bố trí, sử dụng theo đúng chuyên môn được đào tạo, lấy hiệu quả công việc làm thước
đo năng lực cán bộ. Tóm lại, thực hiện chính sách “chiêu hiền đãi sĩ” bao gồm nhiều
yếu tố, trong đó chế độ đãi ngộ thỏa đáng vật chất, tinh thần và tạo ra môi trường, điều
kiện, phương tiện làm việc thuận lợi có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Tuy nhiên, cũng cần thấy rằng, đối với lao động trí tuệ, người làm khoa học, lợi
ích vật chất, lợi ích kinh tế tuy rất quan trọng nhưng không phải là tất cả. Họ còn quan
tâm đến lợi ích tinh thần, đó là nhu cầu tự khẳng định nhân cách thông qua lao động
sáng tạo, là nhu cầu được làm việc trong môi trường dân chủ - nhân văn, được xã hội
thừa nhận, được động viên khen thưởng kịp thời. Do vậy, để thu hút và khai thác tiềm
năng lao động trí tuệ, ngoài quan tâm đúng mức đến lợi ích vật chất và tinh thần cũng
như điều kiện làm việc, vấn đề cơ bản nhất vẫn là thái độ thật sự quý trọng nhân tài,
trọng tri thức khoa học. “Tôn trọng trí thức, tôn trọng nhân tài - kế lớn trăm năm chấn
hưng đất nước” là bài học lớn của Trung Quốc rất đáng để chúng ta nghiên cứu, học tập
và vận dụng. Sự tôn vinh địa vị xã hội đúng với sự cống hiến của người tài sẽ có ý nghĩa
lớn lao trong việc thu hút và sử dụng họ.
Những quan điểm trên có ý nghĩa chỉ đạo trong quá trình xây dựng hệ thống các
giải pháp phát triển NLCN ở Bến Tre hiện nay.
3.2. NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU NHẰM PHÁT TRIỂN NGUỒN LỰC
CON NGƯỜI TRONG SỰ NGHIỆP CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở
TỈNH BẾN TRE
Xuất phát từ thực trạng phát triển, xu hướng vận động của NLCN ở tỉnh Bến Tre
và dựa vào những quan điểm nêu trên, luận văn xin nêu lên một số giải pháp chủ yếu
góp phần thúc đẩy quá trình phát triển NLCN nhanh và hiệu quả hơn, nhằm tạo ra động
lực mới đẩy nhanh tiến trình CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre.
3.2.1. Nhóm giải pháp kinh tế
Một là, đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH làm xuất hiện nhu cầu phát triển
nguồn nhân lực ở tỉnh Bến Tre
Sau thời kỳ phát triển với quy mô và tốc độ khá chậm, hiện nay nền kinh tế Bến
Tre đang bước vào giai đoạn phát triển tăng tốc. Trước yêu cầu thực tiễn, đòi hỏi Bến
Tre đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH, đưa nền kinh tế của tỉnh phát triển nhanh và bền
vững hơn, thực tế đó đặt ra nhu cầu phát triển mạnh NLCN của tỉnh.
Bến Tre đang tiếp tục đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH,
HĐH, chính quá trình này sẽ tác động tích cực đến chuyển đổi cơ cấu lao động của tỉnh.
Thứ nhất, cơ cấu lao động sẽ biến đổi theo hướng chất lượng lao động ngày càng nâng
lên. Sự phát triển nhanh và nhu cầu sử dụng nhiều lao động của các ngành công nghiệp,
dịch vụ đã dẫn đến tăng nhanh đội ngũ lao động, nhất là lao động lành nghề, có trình độ
kỹ thuật cao. Từ đó, tỷ lệ lao động qua đào tạo cũng không ngừng tăng lên, đáp ứng yêu
cầu hiện đại hóa nền sản xuất. Thứ hai, cơ cấu ngành nghề của tỉnh cũng thay đổi cùng
với quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH. Lao động nông nghiệp giảm về số lượng, nhưng
chất lượng ngày càng được nâng cao. Hiện nay, nhu cầu lao động qua đào tạo ở nhóm
ngành nông nghiệp - thủy sản tăng cao do yêu cầu phát triển các ngành kinh tế mũi
nhọn của tỉnh. Việc thành lập trường Cao đẳng Bến Tre đào tạo đa ngành, đa hệ là hết
sức cần thiết, giúp tỉnh có điều kiện để chủ động tăng nhanh số lượng lao động được
đào tạo ở trình độ thích ứng, nhằm đáp ứng nhu cầu nguồn nhân lực cho sự nghiệp
CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn. Sự ra đời và phát triển nhiều khu, cụm công
nghiệp mới cũng đòi hỏi tăng nhanh đào tạo đội ngũ lao động kỹ thuật tại chỗ, đủ sức
cung ứng cho các nhà máy, xí nghiệp mới hình thành. Thực tế đó không chỉ tạo ra nhu
cầu phát triển nguồn nhân lực về mặt số lượng mà còn đặt ra yêu cầu quy hoạch mạng
lưới đào tạo nghề của tỉnh với quy mô, ngành nghề thích hợp để kịp thời cung ứng lao
động kỹ thuật, lao động chất lượng cao cho nhu cầu phát triển sản xuất, phát triển kinh
tế của địa phương.
Hiện nay, Bến Tre đang bằng mọi cố gắng mời gọi, thu hút đầu tư từ bên ngoài
để nhanh chóng hiện đại hóa nền kinh tế. Một trong những yếu tố hấp dẫn các nhà đầu
tư là Bến Tre cần gấp rút chuẩn bị một nguồn nhân lực đủ về số lượng, có trình độ
chuyên môn kỹ thuật, đủ sức đáp ứng yêu cầu mở rộng và phát triển sản xuất.
Trước mắt, tỉnh cần tiến hành điều tra cơ bản và chuẩn xác những tiềm năng, thế
mạnh, lợi thế về phát triển kinh tế của tỉnh, xác định đúng "mũi nhọn" đột phá của
CNH, HĐH. Trên cơ sở đó lập kế hoạch tổng thể về phát triển nguồn nhân lực phù hợp,
đáp ứng yêu cầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế.
Bến Tre là tỉnh đồng bằng ven biển, hệ thống sông ngòi chằng chịt, là lợi thế để
phát triển mạnh ngành kinh tế thủy sản và kinh tế vườn. Hiện nay và trong những năm
tới, tỉnh Bến Tre xác định đây là hai ngành kinh tế mũi nhọn và tập trung phát triển đi
vào chiều sâu. Đặc biệt, ngành nuôi thủy sản phát triển nhanh và toàn diện về quy mô,
chủng loại và trình độ thâm canh, ngành khai thác thủy sản phát triển trên lĩnh vực khai
thác biển, theo xu hướng chuyển từ khai thác ven bờ sang khai thác hải sản xa bờ.
Trong lương lai, khi ứng dụng khoa học kỹ thuật tiên tiến vào ngành nuôi trồng và khai
thác thủy hải sản, đòi hỏi lao động ngành này phải có trình độ văn hóa và chuyên môn
kỹ thuật nhất định, phải được đào tạo mới có khả năng tiếp thu và ứng dụng những
thành tựu khoa học. Vì vậy, trong chính sách phát triển nguồn nhân lực của tỉnh hiện
nay cần có kế hoạch mở rộng đào tạo nghề cho người lao động trong các ngành nuôi
trồng, chế biến thủy sản và khai thác hàng hải. Hiện nay, tỉnh cũng đã có bước chuẩn bị
nguồn nhân lực cho lĩnh vực kinh tế này, Bến Tre đang liên kết với trường Đại học
Thủy sản Nha Trang đào tạo 691 sinh viên theo học ngành thủy sản (xem phụ lục 5.1).
Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu nhân lực ngày càng cao cho các ngành kinh tế mũi nhọn,
tỉnh nên lập ngay kế hoạch đào tạo ở các ngành thủy sản, nông học ở trình độ trung cấp,
đại học và sau đại học để kịp thời cung cấp nguồn nhân lực trong những năm tới.
Bên cạnh đó, tỉnh tiếp tục đẩy mạnh công tác xóa đói giảm nghèo theo chuẩn
mới, đồng thời xây dựng những chương trình, dự án kinh tế - kỹ thuật lớn với yêu cầu
và quy mô ngày càng cao để thực hiện CNH, HĐH ở tỉnh. Trên cơ sở đó có chiến lược
phát triển mạnh nguồn nhân lực của tỉnh phục vụ CNH, HĐH.
Vì vậy, đẩy mạnh quá trình CNH, HĐH, nhằm tạo ra đòn bẩy trực tiếp thúc đẩy
NLCN của tỉnh phát triển cả về số lượng và chất lượng là vấn đề cấp thiết đối với Bến
Tre hiện nay.
Hai là, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế-xã hội, xây dựng môi trường đầu tư
thuận lợi, tạo sức hấp dẫn thu hút đầu tư từ bên ngoài
So với các tỉnh lân cận, Bến Tre là tỉnh khó thu hút đầu tư bên ngoài không chỉ
do điều kiện địa lý cách trở mà còn vì kết cấu hạ tầng yếu kém, đặc biệt là hệ thống giao
thông. Thực tế cho thấy, những địa phương có cơ sở hạ tầng yếu kém rất khó thu hút
nhà đầu tư, mà đã không thu hút được đầu tư thì khả năng cải tạo kết cấu hạ tầng cũng
hạn chế. Chính cái vòng luẩn quẩn này tạo nên thực trạng vùng kinh tế đã phát triển thì
càng phát triển thêm và những vùng kinh tế kém phát triển như Bến Tre lại càng tụt hậu.
Chính vì vậy, phát triển kết cấu hạ tầng được tỉnh Bến Tre xác định là một trong những
khâu đột phá quan trọng để thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội. Để phát triển mạnh kết cấu
hạ tầng, đòi hỏi phải huy động tối đa các nguồn đầu tư, trong đó chủ yếu là nhờ vào vốn
đầu tư của Nhà nước. Bên cạnh đó, tỉnh cần huy động tối đa các nguồn đầu tư từ các thành
phần kinh tế, khuyến khích, kêu gọi các thành phần kinh tế đầu tư phát triển mạnh kết cấu
hạ tầng; tiếp tục thực hiện tốt phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm", từng bước
nhựa hóa, bê tông hóa hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn toàn tỉnh. Nhằm tạo sức
hấp dẫn và thu hút các nhà đầu tư, bên cạnh xây dựng kết cấu hạ tầng ngày càng hoàn
chỉnh, tỉnh cần chú trọng ban hành các chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp nhằm khắc phục
những bất lợi về vị trí địa lý, để có thể làm hài lòng các nhà đầu tư khi đến Bến Tre.
Đối với Bến Tre, công trình cầu Rạch Miễu (khởi công xây dựng ngày 30-04-2002)
khi hoàn thành sẽ có ý nghĩa to lớn, góp phần phá thế cù lao, biệt lập giữa Bến Tre với các
tỉnh bạn, đồng thời bảo đảm giao thông thuận lợi giữa các tỉnh Tiền Giang, Bến Tre, Vĩnh
Long, Trà Vinh, Sóc Trăng và giữa các tỉnh này với thành phố Hồ Chí Minh. Đây là điều
kiện quan trọng thúc đẩy phát triển kinh tế-xã hội tỉnh Bến Tre và cả khu vực ĐBSCL. Vì
vậy, tỉnh cần tiếp tục phối hợp chặt chẽ với Bộ Giao thông vận tải đẩy nhanh tiến độ thi
công cầu Rạch Miễu hoàn thành và đưa công trình vào sử dụng đúng kế hoạch (dự kiến
cuối năm 2006). Đồng thời, tranh thủ sự hỗ trợ của các bộ, ngành Trung ương đẩy nhanh
tiến độ hoàn thành các hạng mục cải tạo, mở rộng nâng cấp quốc lộ 57, 60 và phà Cổ
Chiên, hình thành tuyến giao thông huyết mạch, liên hoàn với các tỉnh ven biển miền Tây
Nam bộ. Dự án xây dựng cầu Hàm Luông nối liền các cù lao của Bến Tre đã được phê
duyệt, vì vậy, tỉnh cần tích cực xin Trung ương nhanh chóng cho khởi công xây dựng nhằm
phát triển đồng bộ kết cấu hạ tầng phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và đẩy mạnh CNH,
HĐH. Về phía tỉnh, cần đầu tư đẩy mạnh tiến độ xây dựng các tỉnh lộ, huyện lộ và tiếp tục
triển khai phát triển mạnh mẽ hệ thống giao thông nông thôn trên địa bàn tỉnh.
Trong tương lai không xa, khi cầu Rạch Miễu hoàn thành, hệ thống giao thông
hoàn chỉnh, Bến Tre sẽ không còn là ốc đảo, khép kín ngăn cách với các tỉnh trong khu
vực và cả nước. Đó không chỉ là ước mơ ngàn đời của hàng triệu người dân trên đất cù
lao xứ dừa, mà còn mở ra triển vọng phát triển mạnh mẽ cho Bến Tre và cả khu vực
giàu tiềm năng - ĐBSCL, trong những năm tới đây. Đối với Bến Tre, việc mở rộng giao
lưu, hội nhập với các tỉnh, thành trong cả nước không chỉ là điều kiện thu hút mạnh đầu
tư, phát triển nhanh kinh tế-xã hội, mà còn giúp người dân Bến tre từng bước mở rộng
tầm nhìn ra "thế giới bên ngoài", "phá vỡ" nếp sống, lối suy nghĩ khép kín hàng bao đời
nay. Việc mở rộng hội nhập kinh tế với các tỉnh, thành phố lớn trong cả nước sẽ tạo ra
cơ hội cho người lao động Bến Tre được tiếp cận, giao lưu, nắm bắt những thông tin thị
trường, tiến bộ khoa học - kỹ thuật, ứng dụng những mô hình mới vào sản xuất, kinh
doanh, từ đó, năng lực và trình độ người lao động từng bước được nâng lên, chất lượng
NLCN Bến tre được đổi mới.
Có thể nói, phát triển kết cấu hạ tầng, phá thế cù lao, biệt lập là một trong những
giải pháp cơ bản và cấp bách nhằm đưa nền kinh tế Bến Tre vượt qua nguy cơ tụt hậu
và tạo bước phát triển nhanh và bền vững trong tương lai. Kinh tế phát triển chính là tạo
ra điều kiện vật chất quan trọng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho người lao
động, đầu tư có hiệu quả cho phát triển mạnh NLCN của tỉnh.
3.2.2. Nhóm giải pháp chính trị
Một là, tiếp tục khơi dậy truyền thống cách mạng, ý chí tự lực tự cường, quyết
tâm vượt lên đói nghèo, tạo ra động lực mới thúc đẩy người dân Bến tre nỗ lực vươn
lên thực hiện thắng lợi sự nghiệp CNH, HĐH
Nhân dân cả nước biết đến Bến Tre như một vùng đất cách mạng anh hùng trong
quá khứ. Nếu trong đấu tranh chống ngoại xâm, chính khát vọng độc lập tự do tạo nên
sức mạnh kỳ diệu để người dân Bến Tre làm nên những chiến công oanh liệt, thì ngày
nay cần làm cho mỗi người dân ý thức được rằng nguy cơ tụt hậu về kinh tế cũng đáng
sợ như nguy cơ mất nước. Ý chí quyết tâm vươn lên không cam phận nghèo của người
Bến Tre hôm nay xuất phát từ truyền thống đó. Phát huy sức mạnh truyền thống quê
hương, Bến Tre đang khơi dậy một phong trào mới “Đồng khởi kinh tế”, đây sẽ là động
lực mới thúc đẩy người dân Bến Tre nỗ lực vượt lên mọi khó khăn, thách thức đưa nền
kinh tế tỉnh nhà phát triển, tiến kịp và hội nhập với các tỉnh trong vùng và cả nước.
Thực tế những năm qua ở Bến Tre cho thấy, sức mạnh của NLCN trong quá trình CNH,
HĐH không chỉ thể hiện ở số lượng, chất lượng nguồn lao động, mà còn ở chỗ biết phát
huy truyền thống cách mạng, khơi dậy tinh thần tự lực tự cường, huy động sức mạnh
tổng hợp toàn dân tham gia phong trào “Đồng khởi mới”. Hơn 4 năm qua, phong trào
“Đồng khởi mới” đã thực sự khơi dậy được những tiềm năng và sức mạnh nội tại của
một tỉnh ven biển này. Năm 2004 là năm thể hiện rõ nét nhất những thành quả gặt hái
được từ phong trào Đồng khởi mới: tỷ lệ tăng trưởng kinh tế vượt 2 con số là 10,08%,
giảm tỷ lệ hộ nghèo còn dưới 5%. Năm 2005, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế có khả năng đạt
12%, thu nhập bình quân đầu người ước đạt 500 USD [55]. Những con số này đã chứng
minh cho sức mạnh của khát vọng, ý chí quyết tâm vươn lên của người dân quê hương
Đồng khởi trong công cuộc xây dựng kinh tế, CNH, HĐH tỉnh nhà. Có thể nói, một khi
khơi dậy được nguồn sức mạnh tinh thần, tập hợp được ý chí của toàn xã hội vào mục
tiêu phát triển sẽ tạo ra nhân tố quan trọng cho sự thành công của sự nghiệp CNH,
HĐH.
Hai là, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa bàn, giải quyết tốt
các “điểm nóng” về tranh chấp đất đai
Thành tựu nổi bật trong công cuộc đổi mới mà Đảng ta khẳng định là tình hình
chính trị - xã hội cơ bản ổn định. Trong những năm đổi mới, tình hình chính trị - xã hội
trên địa bàn tỉnh Bến Tre được giữ vững. Thực tế cho thấy, môi trường chính trị - xã hội
ổn định là điều kiện quan trọng cho các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội diễn ra thuận
lợi, đời sống vật chất và tinh thần người lao động được ổn định và ngày càng được nâng
cao. Trong môi trường đó, con người thật sự yên tâm chăm lo phát triển kinh tế, ra sức
học tập, lao động sáng tạo, cống hiến tài năng vì sự phát triển phồn vinh của xã hội và
hạnh phúc của mỗi cá nhân. Vì vậy, giữ vững ổn định chính trị - xã hội là điều kiện
quan trọng hàng đầu bảo đảm môi trường cho con người phát triển toàn diện. Con người
được phát triển cao về trí tuệ, trong sáng về đạo đức, yên ổn về tinh thần sẽ đóng góp
nhiều nhất cho sự phát triển kinh tế-xã hội, tạo ra nguồn sức mạnh to lớn thúc đẩy kinh
tế-xã hội phát triển. Chính vì vậy, tiếp tục giữ vững ổn định chính trị - xã hội trên địa
bàn là điều kiện và cũng là giải pháp thúc đẩy NLCN Bến Tre phát triển.
Tuy nhiên, trong những năm qua, ở Bến Tre tình hình tranh chấp đất đai do hậu quả
cải tạo nông nghiệp để lại còn phức tạp, số vụ khiếu kiện tranh chấp, khiếu nại về đất đai
còn nhiều. Từ năm 1999 đến năm 2004, có 11.372 vụ việc khiếu kiện tranh chấp và khiếu
nại về đất đai, chủ yếu là đòi lại đất (6.222 vụ). Số lượt người tập hợp lại thành đoàn đông
người đến các cơ quan của huyện, tỉnh, trung ương để khiếu nại khá nhiều, năm 2001 có 4
đoàn, mỗi đoàn từ 60-80 người [51, tr.1-2]. Đây là một trong những nguyên nhân gây bất
ổn trong đời sống chính trị, xã hội của địa phương, cản trở quá trình phát triển kinh tế-xã
hội, làm suy giảm chất lượng và sức mạnh NLCN của tỉnh trong thời gian qua. Đến nay,
toàn tỉnh đã giải quyết được 97,17% đơn khiếu nại về đất đai (6.046/6.222 đơn), với các
hình thức hỗ trợ vốn chuyển đổi ngành nghề, cho vay vốn phát triển sản xuất và đi vùng
kinh tế mới đã góp phần ổn định đời sống nhân dân và hạn chế việc khiếu kiện đông người,
vượt cấp [55]. Do đó, tiếp tục giải quyết tốt các vụ việc tranh chấp, khiếu nại về đất đai là
vấn đề có ý nghĩa quan trọng góp phần ổn định tình hình an ninh trật tự trên địa bàn, ngăn
chặn nguy cơ kẻ địch lợi dụng vấn đề này gây rối làm mất ổn định chính trị, đồng thời còn
tạo môi trường chính trị - xã hội ổn định - điều kiện cơ bản thúc đẩy NLCN phát triển.
3.2.3. Nhóm giải pháp xã hội
Phát triển NLCN không chỉ làm gia tăng số lượng và chất lượng nguồn nhân
lực, mà còn thể hiện ở việc bồi dưỡng, khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực
đó cho phát triển. Bến Tre có nguồn lao động dồi dào, do đó, việc tìm ra giải pháp “đột
phá” để khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này cho đẩy mạnh CNH, HĐH
đang là vấn đề thu hút sự quan tâm của các cấp lãnh đạo tỉnh Bến Tre.
Một là, tạo nhiều việc làm cho người lao động, đặc biệt lao động trong lĩnh vực
nông nghiệp, nông thôn nhằm sử dụng có hiệu quả NLCN của tỉnh
Trong điều kiện ở Bến Tre, giải quyết việc làm cho người lao động, nhất là lực
lượng lao động nông thôn - bộ phận hiện chiếm số đông trong dân cư, đang là nhiệm vụ
bức xúc và là nội dung quan trọng trong mục tiêu phát triển kinh tế-xã hội của tỉnh. Cần
thống nhất nhận thức của người lao động về “việc làm”, đó là tất cả các hoạt động kinh
tế-xã hội tạo ra thu nhập mà không vi phạm pháp luật. Với cách hiểu như vậy, tích cực
tạo ra nhiều việc làm cho người lao động bằng cách phát triển sản xuất, khôi phục và
phát triển các làng nghề truyền thống, phát triển dịch vụ và du lịch, khuyến khích mọi
người, mọi thành phần kinh tế tự tìm việc làm, tự đầu tư tạo việc làm. Trong đó chú ý
một số giải pháp cụ thể sau:
- Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển. Đây không chỉ là chính sách
giải phóng mọi năng lực sản xuất, mà còn là giải pháp quan trọng để tạo nhiều việc làm cho
người lao động. Hiện nay ở Bến Tre, trên 93% lao động đang làm việc trong các thành
phần kinh tế tư nhân và cá thể. Có thể nói, khu vực kinh tế tư nhân đang đóng vai trò to lớn
trong việc tạo ra và giải quyết nhiều việc làm cho người lao động. Vì vậy, Nhà nước cần tạo
môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi cho tất cả các thành phần kinh tế, nhất là thực
hiện “chính sách ưu đãi cụ thể và tạo mọi điều kiện dễ dàng để thành phần kinh tế tư nhân
phát triển sản xuất, kinh doanh trên mọi ngành nghề, mọi lĩnh vực được pháp luật bảo
hộ” [23, tr.66]. Đặc biệt kinh tế hộ gia đình vẫn là đơn vị kinh tế cơ bản tổ chức sản
xuất, kinh doanh và thu hút nhiều lao động, do đó cần có chính sách hỗ trợ phát triển
mạnh kinh tế hộ gia đình. Theo kết quả điều tra về kinh tế trang trại, đến tháng 7-2005 toàn
tỉnh có trên 3.800 hộ sản xuất đạt tiêu chí trang trại. Loại hình chủ yếu là trồng cây lâu năm,
chăn nuôi và nuôi thủy sản, đang mang lại hiệu quả kinh tế khá cao, nhưng phát triển chưa
ổn định, nhất là nuôi thủy sản [3, tr.7]. Vì vậy, tỉnh cần khuyến khích các hình thức tổ chức
sản xuất quy mô lớn theo kiểu trang trại và tạo lập môi trường kinh tế, xã hội và pháp luật
thuận lợi cho mô hình kinh tế này phát triển. Đây là mô hình sản xuất đem lại hiệu quả kinh
tế-xã hội lớn như tạo khả năng huy động vốn, khai thác tiềm năng sản xuất, tạo nhiều việc
làm và tăng thêm nông sản hàng hóa cho xã hội và xuất khẩu.
Tạo ra nhiều việc làm không chỉ giúp ổn định đời sống người lao động, mà có
việc làm ổn định, phù hợp, còn là điều kiện khơi dậy tính tích cực, năng động sáng tạo,
nâng cao kỹ năng tay nghề cho người lao động trong điều kiện cạnh tranh quyết liệt của
thị trường lao động.
- Đẩy mạnh khôi phục và phát triển các làng nghề truyền thống, du nhập và phát
triển thêm nghề mới trong nông thôn là cơ sở để giải quyết việc làm tại chỗ cho lao
động nông nghiệp. Theo báo cáo của Sở Công nghiệp, những năm qua ở Bến Tre nhiều
làng nghề được sắp xếp, củng cố và được trợ giúp vốn từ chương trình khuyến công,
chương trình vốn mục tiêu, nên không ngừng phát triển. Nhiều làng nghề điển hình phát
triển mạnh như: sản xuất than gáo dừa, chỉ xơ dừa An Thạnh - Khánh Thạnh Tân (Mỏ
Cày); sản xuất kẹo dừa Phường VII (Thị xã Bến Tre); sản xuất chiếu thảm, lưới xơ dừa,
hàng thủ công mỹ nghệ An Hiệp (Châu Thành)... [2, tr.72]. Việc phát triển nghề và làng
nghề ở nông thôn Bến Tre đã đem lại hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn, tạo động lực thúc
đẩy NLCN phát triển. Trước hết, góp phần đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông nghiệp, nông thôn theo hướng CNH, HĐH, chuyển dịch cơ cấu lao động theo
hướng di chuyển “tại chỗ”. Một bộ phận không nhỏ lao động nông nghiệp chuyển sang
lĩnh
vực phi nông nghiệp, do đó đây là con đường nhanh chóng đến với mục tiêu CNH,
HĐH nông nghiệp, nông thôn. Thứ hai, giải quyết được việc làm tại chỗ cho người lao
động, nhất là lao động dư dôi, lao động thời vụ ở nông thôn, tăng thu nhập, góp phần
thực hiện chủ trương xoá đói giảm nghèo, tạo cơ hội vươn lên làm giàu tại địa phương.
Thứ ba, nhiều lao động ở nông thôn có việc làm thu nhập ổn định, không chỉ là điều
kiện giữ gìn trật tự địa bàn nông thôn, hạn chế tệ nạn xã hội, giảm bớt sức ép cho các đô
thị và thành phố lớn do dòng di cư từ nông thôn ra đô thị tìm việc làm, mà còn tạo ra
môi trường rèn luyện tác phong lao động công nghiệp, khơi dậy tính năng động, sáng
tạo, thích ứng nhanh nhạy với cơ chế thị trường, qua đó từng bước thay đổi tâm lý, thói
quen sản xuất nhỏ của một bộ phận người lao động. Với những hiệu quả kinh tế, xã hội
to lớn đó, phát triển nghề mới và khôi phục, phát triển làng nghề truyền thống ở nông
thôn Bến Tre cần được quan tâm, hỗ trợ nhiều hơn nữa từ phía Nhà nước. Bởi vì, trên
thực tế, phần lớn các làng nghề ở Bến Tre phát triển manh mún, mang tính tự phát và
phân tán trong các hộ gia đình, công nghệ lạc hậu, chủ yếu là thủ công truyền thống, thị
trường tiêu thụ sản phẩm hạn hẹp và bấp bênh. Nhiều làng nghề gây ô nhiễm môi
trường rất nặng, ảnh hưởng đến cuộc sống người dân trong khu vực các làng nghề. Vì
vậy, tỉnh cần sớm “triển khai đề án phát triển ngành nghề nông thôn, củng cố và phát
triển làng nghề truyền thống. Xây dựng các tiêu chí làng nghề, hỗ trợ các làng nghề phát
triển đạt các tiêu chí theo quy định và được công nhận” [54, tr.4]. Nếu được tỉnh triển khai
thực hiện phương án này sẽ tạo điều kiện, cơ hội thuận lợi cho các cụm làng nghề ở Bến
Tre hình thành và phát triển nhanh chóng. Tuy nhiên, việc đầu tư công nghệ mới, hiện
đại hóa công nghệ truyền thống để xây dựng các làng nghề sản xuất chuyên môn hóa
tạo ra năng suất, chất lượng sản phẩm tốt, tăng sức cạnh tranh trên thị trường phải được
sự giúp đỡ về vốn, về cơ chế chính sách từ phía Nhà nước và chính quyền các cấp ở địa
phương. Đồng thời với quá trình này là sự giúp đỡ, hướng dẫn, kỹ thuật chuyển giao và
ứng dụng công nghệ mới vào quá trình sản xuất của các nhà chuyên môn, cán bộ khoa
học cho người lao động trong các làng nghề. Việc dạy nghề cho người lao động tại các
làng nghề cần được tổ chức tập trung và khoa học, trong đó chú trọng kết hợp các hình
thức truyền nghề, dạy nghề tại cơ sở với sự hướng dẫn, kèm cặp trực tiếp của các nghệ
nhân.
Việc phát triển làng nghề ở Bến Tre đã thu hút nhiều lao động ở các lứa tuổi,
trong đó có cả trẻ em trong độ tuổi đi học. Vì muốn tăng thu nhập, không ít gia đình cho
phép hoặc ép buộc con em mình phải nghỉ học để tham gia lao động. Điều này không
chỉ vi phạm pháp luật lao động mà về lâu dài sẽ làm suy giảm chất lượng nguồn nhân
lực của địa phương và hạn chế cơ hội phát triển bản thân của người lao động. Do đó,
chính quyền các cấp cần tuyên truyền vận động các gia đình và chủ sử dụng lao động ở
các làng nghề coi trọng và tạo điều kiện cho các em có điều kiện học tập, hạn chế tham
gia lao động để có thời gian tập trung học tập tốt.
Như vậy, khôi phục và phát triển làng nghề truyền thống cũng như du nhập thêm
nghề mới ở nông thôn Bến Tre được xem là một trong những giải pháp hữu hiệu trong
vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động. Ngoài hiệu quả kinh tế, xã hội to lớn như
phát triển sản xuất, ổn định xã hội, phát triển làng nghề còn tác động trực tiếp đến phát triển
cá nhân người lao động, khai thác và sử dụng có hiệu quả lực lượng lao động to lớn trong
nông thôn Bến Tre.
- Xuất khẩu lao động cần được xem là hướng giải quyết việc làm có hiệu quả ở
Bến Tre hiện nay. Theo báo cáo của Sở Lao động- Thương binh và Xã hội tỉnh, từ năm
2001 đến 2005, Bến Tre có hơn 3.000 người đi lao động có thời hạn ở nước ngoài. Tính
riêng năm 2004 đã có 971 người, năm 2005 ước đạt 1000 lao động đi làm việc ở nước
ngoài, thị trường chủ yếu là Malaysia, Nhật Bản, Đài Loan và Hàn Quốc. Công tác xuất
khẩu lao động không những giải quyết được việc làm, tăng thu nhập, người lao động
còn tiết kiệm gửi về cho người thân một khoảng tiền khá lớn để ổn định đời sống gia
đình, góp phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế- xã hội của tỉnh. Quy mô xuất
khẩu lao động của tỉnh có tăng so với các năm trước, nhưng chưa đáp ứng nhu cầu xã
hội. Nguyên nhân chủ yếu là hiện nay các trung tâm dịch vụ việc làm của tỉnh không có
chức năng xuất khẩu lao động, phải qua trung gian là Thành phố Hồ Chí Minh. Mặt
khác, phần đông lao động có nhu cầu xuất khẩu là người nghèo không có tài sản thế
chấp hoặc trình độ thấp. Vì vậy, trong những năm tới tỉnh cần đẩy mạnh hơn nữa công
tác xuất khẩu lao động, xem đây là một trong những giải pháp quan trọng nhằm sử dụng
có hiệu quả nguồn lao động của tỉnh trong bối cảnh người lao động Bến Tre di cư nhiều.
Để công tác này có hiệu quả, tỉnh cần quy hoạch từ chỗ xuất khẩu lao động giản đơn
phải hướng đến xuất khẩu lao động kỹ thuật.
Xuất khẩu lao động giản đơn (chủ yếu là làm việc nhà, bốc xếp…)sẽ giảm nhẹ được
gánh nặng đào tạo và giảm bớt sức ép nhu cầu việc làm trong thời hạn ngắn; giúp người lao
động có thu nhập cao hơn so với nếu làm việc tại tỉnh. Tuy nhiên, họ sẽ dễ bị bóc lột và
không có điều kiện thăng tiến, cải thiện nghề nghiệp. Tình trạng lao động Việt Nam bỏ trốn
ở Malaysia và một số nước cho thấy rõ điều đó. Vì vậy, tỉnh cần có những liên kết chặt chẽ
về mặt pháp lý với các đối tác ngoài tỉnh và nước ngoài nhằm bảo đảm quyền lợi cho người
lao động. Mặt khác, cần có kế hoạch chủ động hướng nghiệp, đào tạo cho người lao động
tham gia xuất khẩu lao động có trình độ nhất định trước khi ra nước ngoài làm việc. Điều
này giúp người lao động có một số kiến thức nhất định về công việc, ngôn ngữ, văn hóa của
nước sẽ đến lao động và nhất là hiểu biết và có ý thức chấp hành pháp luật, hợp đồng lao
động. Đồng thời tỉnh cũng cần hỗ trợ kinh phí đào tạo nghề cho người lao động nghèo và
tín dụng cho người tham gia xuất khẩu lao động.
Xuất khẩu lao động kỹ thuật trong điều kiện tỉnh đang thiếu lực lượng lao động
này cũng làm hạn chế sự phát triển kinh tế của tỉnh. Tuy nhiên, cũng không thể ngăn
cản nguồn lao động có trình độ kỹ thuật này đi nơi khác khi cơ hội việc làm và thu nhập
tại tỉnh chưa được cải thiện. Số lao động này sẽ là nguồn nhân lực có chất lượng của
tỉnh sau khi hợp đồng làm việc với nước ngoài được ký kết, vì ngoài thu nhập được cải
thiện, họ có điều kiện tiếp cận với thiết bị tiên tiến, tiếp nhận tri thức khoa học mới, rèn
luyện tác phong công nghiệp, ngoài ra còn chuyển một khoản thu nhập về cho gia đình, góp
phần xóa đói giảm nghèo, phát triển kinh tế địa phương.
Như vậy, tạo nhiều việc làm cho người lao động bằng phát triển sản xuất, khôi
phục và mở mang ngành nghề, xuất khẩu lao động,... đó là những giải pháp nếu thực hiện
tốt sẽ đem lại hiệu quả cho công tác giải quyết việc làm ở Bến Tre hiện nay, nhằm khai thác
và sử dụng có hiệu quả NLCN, chuyển thành nguồn nội lực thúc đẩy nhanh quá trình CNH,
HĐH.
Hai là, có chính sách hữu hiệu để thu hút và trọng dụng nhân tài, khai thác
và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực chất lượng cao phục vụ cho sự nghiệp CNH,
HĐH của tỉnh
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa dựa trên nền tảng KH-CN, mà sự phát triển KH-
CN đòi hỏi sự tích tụ “chất xám”. NLCN Bến Tre hiện tại trên nhiều mặt chưa đáp ứng
yêu cầu CNH, HĐH, đặc biệt, đội ngũ hoạt động KH-CN của tỉnh còn quá nhỏ bé, vì
vậy, nếu chỉ dựa vào NLCN hiện có, Bến Tre chưa đủ sức đẩy nhanh sự nghiệp CNH,
HĐH. Thấy được vấn đề này, trong vài năm gần đây, Bến Tre đã và đang thực hiện các
chính sách thu hút và đãi ngộ nhân tài nhằm cải thiện chất lượng nguồn nhân lực của
tỉnh. Tuy nhiên, trên thực tế các chính sách này chưa hướng tới lực lượng lao động có
trình độ và chuyên gia ngoài tỉnh, chưa thu hút được nhiều người tài giỏi và chuyên gia
trẻ tham gia vào các vị trí quan trọng trong nền kinh tế địa phương. Đây cũng là một
trong những yếu tố làm hạn chế khả năng cạnh tranh của tỉnh trong việc mời gọi các nhà
đầu tư. Vì vậy, trong thời gian tới, ngoài việc tạo ra sự khác biệt về chế độ đãi ngộ vật
chất và tinh thần, cần tạo điều kiện và môi trường làm việc thuận lợi cùng với sự tôn
vinh đúng mức nhân tài, sẽ có thể tạo ra “lực hút" mạnh hơn trong thực hiện chính sách
“cầu hiền” của tỉnh hiện nay. Về lâu dài, tỉnh cần có kế hoạch đầu tư đúng mức, tập
trung và có trọng điểm trong việc đào tạo những chuyên gia giỏi, chuyên gia “đầu đàn”
trong các ngành, lĩnh vực ưu tiên mà tỉnh đang thu hút. Có thể nói, sự thành công của
phát triển kinh tế trước hết do thành công của sự phát triển KH-CN, mà sự thành công
của KH-CN lại phụ thuộc chủ yếu vào tính hiệu quả của chính sách thu hút, khai thác và
trọng dụng nhân tài. Hơn lúc nào hết, “Tôn trọng trí thức, quý trọng nhân tài” cần được
thể hiện một cách rõ nét trên thực tế ở Bến Tre.
3.2.4. Nhóm giải pháp giáo dục - đào tạo
Mục tiêu xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và CNH, HĐH đất nước chỉ có
thể thành hiện thực khi giai cấp công nhân và nhân dân lao động nước ta được trang bị
một nền tảng văn hóa vững chắc, một trình độ học vấn và chuyên môn kỹ thuật cao.
Điều này đã được V.I.Lênin chỉ rõ: “Không thể xây dựng xã hội cộng sản chủ nghĩa
trong một nước có những người mù chữ” [38, tr.374].
Ngày nay, để phát triển NLCN, hầu hết các quốc gia đều xem GD-ĐT là giải pháp
hữu hiệu, là con đường cơ bản và trực tiếp nhất. Bởi vì, phát triển NLCN chủ yếu là làm
cho con người ngày càng phát triển về trí tuệ, nâng cao năng lực và phẩm chất, tức là
con người đã qua GD-ĐT. Chính vì vậy, Đảng ta luôn coi GD-ĐT, khoa học và công
nghệ là quốc sách hàng đầu. Rõ ràng, GD-ĐT là công cụ quan trọng nhất và trực tiếp
nâng cao tri thức, trang bị chuyên môn kỹ thuật và hình thành kỹ năng lao động, năng
lực tư duy sáng tạo cho người lao động. Nhằm đào tạo nguồn nhân lực có những năng
lực và phẩm chất cần thiết đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH, trong điều kiện hiện nay, GD-
ĐT tỉnh Bến Tre cần tập trung thực hiện một số vấn đề sau:
Thứ nhất, tiếp tục đổi mới và phát triển hệ thống giáo dục- đào tạo, đặc biệt hệ
thống đào tạo nghề của tỉnh Bến Tre
Trong những năm qua, GD-ĐT tỉnh Bến Tre có vai trò to lớn trong việc nâng cao
chất lượng NLCN, đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế-xã hội và CNH,
HĐH của tỉnh. Điều đó được khẳng định qua thành tựu xoá mù chữ, phổ cập giáo dục
và nâng dần tỷ lệ lao động qua đào tạo hàng năm. Tuy nhiên, để thật sự là công cụ đắc
lực trong việc đào tạo nguồn nhân lực có chất lượng phục vụ cho giai đoạn đẩy mạnh
CNH, HĐH, hệ thống GD-ĐT Bến Tre cần phải tiếp tục đổi mới và phát triển “với tốc
độ nhanh hơn, chất lượng tốt hơn, hiệu quả lớn hơn” [18, tr.9 ], hướng tới các nội dung
cụ thể sau:
- Đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục nhằm phát huy tính tích cực, sáng
tạo của người học, tạo ra nguồn lao động có chất lượng, đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
CNH, HĐH ở tỉnh Bến Tre
Nâng cao chất lượng GD-ĐT đang là vấn đề bức xúc, được Nhà nước và toàn xã hội
quan tâm và là nhiệm vụ trọng tâm của ngành GD-ĐT hiện nay. Để sản phẩm GD-ĐT có
chất lượng, cần đổi mới nội dung và phương pháp giáo dục. Về nội dung, cần giáo dục cho
thế hệ trẻ Bến Tre không chỉ có tri thức khoa học cơ bản hiện đại, có kỹ năng nghề nghiệp,
chuyên môn, mà còn có lòng tự hào dân tộc, yêu quê hương, biết kế thừa và phát huy
những giá trị truyền thống, đạo đức tốt đẹp, có ý chí vươn lên không cam chịu đói nghèo.
Nội dung giáo dục phẩm chất đạo đức, lý tưởng cách mạng phải được xem là yếu tố quyết
định trong việc tạo ra những con người có nhân cách đạo đức phù hợp với yêu cầu của thời
kỳ phát triển mới. Dạy người phải được xem là mục tiêu quan trọng, cần hướng tới trong
quá trình GD-ĐT.
Lối giáo dục kiểu nhồi nhét kiến thức, nặng về dạy chữ, ít chú ý rèn luyện phương
pháp tư duy đang là phương pháp phổ biến trong nhiều nhà trường đã làm ảnh hưởng
đến chất lượng GD -ĐT. Trong các cơ sở đào tạo ở tỉnh hiện vẫn còn sự mất cân đối
giữa dạy chữ và dạy nghề. Vì vậy, cần đổi mới mạnh mẽ phương pháp giáo dục theo
hướng phát huy tính tích cực chủ động, thúc đẩy sự phát triển trí tuệ và khơi dậy khả
năng sáng tạo ở người học, giúp họ hình thành năng lực và phương pháp tư duy khoa
học, đồng thời chú trọng đúng mức thực hành, rèn luyện kỹ năng, tay nghề cho người
học. Đặc biệt, cần hình thành năng lực phát hiện cái mới, bản lĩnh dám nghĩ, dám làm
trong nền kinh tế thị trường. Ngày nay, hiệu quả của giáo dục, đào tạo không chỉ tính
bằng lượng kiến thức tiếp thu, mà chủ yếu phải tính bằng sự phát triển của năng lực
sáng tạo, phương pháp tư duy khoa học, khả năng thích nghi và năng lực biến tri thức
thành kỹ năng của người lao động. Mặt khác, yêu cầu mới trong điều kiện hiện nay, đòi
hỏi người lao động cần phải có kiến thức liên ngành, nhạy bén về thông tin, có tính cơ
động về nghề nghiệp. Giáo viên có vai trò quyết định trong đổi mới nội dung và phương
pháp giáo dục, do đó, điều quan trọng trước tiên là đổi mới nhận thức và nâng cao năng
lực vận dụng phương pháp giáo dục của người thầy trong quá trình giáo dục.
- Mở rộng quy mô giáo dục- đào tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả của giáo
dục- đào tạo nghề cho người lao động
Để đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh CNH, HĐH trong những năm tới, GD-ĐT tỉnh Bến
Tre cần có sự phát triển vượt bậc. Sự phát triển này phải là kết quả của quá trình kết hợp
đồng thời giữa mở rộng quy mô GD-ĐT với nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục
và đào tạo. Xuất phát từ nhu cầu nguồn nhân lực và với hiện trạng cơ cấu trình độ lao
động của tỉnh như hiện nay, cần tập trung phát triển mạnh giáo dục chuyên nghiệp và
dạy nghề, giáo dục đại học, cao đẳng cả quy mô, chất lượng và hiệu quả, để một mặt,
phổ cập nghề nghiệp cho người lao động ở tất cả các thành phần kinh tế, tạo điều kiện
thuận lợi cho mọi người lao động được học tập, nâng cao trình độ, kỹ năng nghề nghiệp.
Mặt khác, cần gấp rút đào tạo đội ngũ công nhân kỹ thuật lành nghề, thợ bậc cao, kỹ
thuật viên cao cấp nhằm cung cấp cho các thành phần kinh tế đội ngũ nhân lực chất
lượng cao, đủ năng lực tiếp cận và sử dụng thành thạo các phương tiện kỹ thuật và công
nghệ hiện đại, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, yêu cầu mở rộng phát triển sản xuất
theo hướng CNH, HĐH.
Hệ thống giáo dục và đào tạo nghề của tỉnh tiếp tục củng cố và phát triển theo
hướng đa dạng hóa ngành nghề và loại hình đào tạo. Tuy nhiên, tỉnh cần xác định rõ
một số trường trọng điểm đào tạo những ngành nghề hoặc nhóm nghề phục vụ lĩnh vực
kinh tế mũi nhọn của tỉnh và đáp ứng nhu cầu của thị trường lao động. Để nâng chất
lượng dạy nghề, trước mắt cần tập trung xây dựng một số trường và trung tâm dạy nghề
chất lượng cao như trường Cao đẳng Bến Tre, trường Kỹ nghệ Bến Tre, trung tâm dạy
nghề trọng điểm ở các huyện Mỏ Cày, Ba Tri. Ngoài ra, hệ thống dạy nghề phổ thông
như các trung tâm dịch vụ việc làm, các trung tâm dạy nghề thuộc các tổ chức chính trị -
xã hội, cơ sở dạy nghề tư nhân, các làng nghề… cũng cần sắp xếp đi vào nề nếp và nâng
cao trình độ đội ngũ giáo viên đạt chuẩn đào tạo, chú ý nâng cấp trang thiết bị hiện đại
phục vụ tốt công tác đào tạo. Hệ thống đào tạo này phải thực hiện phương châm đào tạo
nghề theo quy luật cung - cầu của thị trường lao động trong và ngoài tỉnh.
Ngoài ra, nhằm đạt mục tiêu 25% lao động qua đào tạo vào năm 2005 và 40%
vào năm 2010, trong những năm tới cần đa dạng hóa các loại hình đào tạo và bồi dưỡng
nghề, chú ý phát triển hình thức đào tạo nghề trực tiếp tại cơ sở sản xuất hay trong các
làng nghề truyền thống. Đây là hình thức khá phổ biến và phù hợp với đối tượng người
lao động có trình độ văn hóa thấp và thời gian học nghề ngắn. Tuy không có giáo trình
hay kiểm tra cụ thể, nhưng “người thầy” trong các làng nghề chính là những nghệ nhân,
những kỹ thuật viên nên có tay nghề thành thạo, nhiều kinh nghiệm, người học nghề dễ
tiếp thu, thời gian học nghề cũng là thời gian thực hành nên người lao động thuần thục
sau khi ra nghề. Ngoài ra, cũng cần có sự kết hợp chặt chẽ giữa các trung tâm GD-ĐT
nghề với các cơ sở sản xuất, với từng xí nghiệp. Khuyến khích các thành phần kinh tế
tham gia đào tạo nghề. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác dạy nghề trên cơ sở nâng cao chất
lượng đào tạo cũng được xem là một trong những giải pháp nhằm nâng cao năng lực
đào tạo nghề cho người lao động ở Bến Tre.
Đi đôi với đào tạo lực lượng lao động mới, cần chú ý đào tạo lại, cập nhật hóa
kiến thức khoa học- kỹ thuật và công nghệ, nâng cao tay nghề cho đội ngũ lao động
hiện có, đáp ứng yêu cầu CNH, HĐH nền kinh tế.
Để công tác đào tạo nghề cho người lao động thật sự có hiệu quả và chất lượng
cao, cần nhanh chóng nâng cao trình độ và năng lực sư phạm của đội ngũ giáo viên dạy
nghề. Bởi vì “Giáo viên là nhân tố quyết định chất lượng giáo dục”, “giáo viên phải có
đủ đức, tài” [18, tr.38]. Ngoài ra, cần cải tiến nội dung đào tạo trên cơ sở tiếp thu những
tiến bộ khoa học và công nghệ hiện đại.
Nâng cao hiệu quả đào tạo bằng cách gắn đào tạo với sử dụng, điều này vừa
tránh được lãng phí vừa khắc phục tình trạng bất cập giữa đào tạo với thị trường lao
động. Muốn vậy, tỉnh cần định kỳ khảo sát nhu cầu lao động và ngành nghề cần đào tạo,
trên cơ sở đó lập kế hoạch và quy hoạch đào tạo hợp lý theo lĩnh vực và theo bậc đào
tạo.
Cùng với mở rộng quy mô đào tạo nghề, cần coi trọng công tác hướng nghiệp và
phân luồng học sinh sau khi tốt nghiệp trung học, chuẩn bị cho thanh, thiếu niên đi vào
lao động nghề nghiệp phù hợp với sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế của tỉnh và nhằm khắc
phục tình trạng bất hợp lý về cơ cấu trình độ, ngành nghề hiện nay.
Tóm lại, mở rộng quy mô và nâng cao chất lượng và hiệu quả đào tạo nghề để
ngày càng có nhiều người lao động có nghề và giỏi nghề sẽ tăng nhanh lực lượng lao
động có trình độ, đó là nguồn gốc làm tăng năng suất lao động xã hội, đưa nền kinh tế
phát triển nhanh và bền vững. Mặt khác, việc phát triển đào tạo nghề và dạy nghề cho
người lao động còn có khả năng thu hút và đào tạo nghề cho gần 80% học sinh trong toàn
tỉnh không đỗ đại học mỗi năm có nghề nghiệp và tham gia lao động xã hội, đóng góp to
lớn sức lao động sáng tạo cho công cuộc xây dựng kinh tế tỉnh nhà.
Thứ hai, phát hiện, đào tạo và bồi dưỡng tài năng nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ
lãnh đạo, chuyên gia KH-CN, nhà doanh nghiệp giỏi - những nhân tài, phục vụ cho
sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh
Trong thời đại ngày nay, nhân tài thực sự là tài sản quý hiếm của mỗi quốc gia.
Tài sản đó có được phải bằng một chiến lược lâu dài, đồng bộ từ khâu phát hiện, đào
tạo, bồi dưỡng, đến sử dụng, đãi ngộ nhằm tạo ra điều kiện và môi trường thuận lợi nhất
cho tài năng phát triển.
Cùng với cả nước, Bến Tre tiến hành CNH, HĐH với rất nhiều yêu cầu mới,
ngày càng cao và phức tạp nên đang rất cần nhiều chuyên gia giỏi trên tất cả các lĩnh
vực. Trong vài năm trở lại đây, Bến Tre bắt đầu coi trọng và có chính sách thu hút, sử
dụng và đãi ngộ nhân tài, nhưng vẫn đang thiếu nghiêm trọng cán bộ có thực tài. Chính
sự chậm chạp trong chiến lược nhân tài, bỏ rơi, quên lãng làm mất mát nhân tài, đồng
nghĩa với việc làm mất đi nguồn tài sản quý giá nhất mà tỉnh đang thiếu hụt. Vì vậy,
hơn lúc nào hết, “chiến lược nhân tài” trở thành vấn đề cấp bách đối với Bến Tre trên
đường phát triển. Đội ngũ nhân tài phải được xây dựng một cách đồng bộ.
Trước hết, quyết định nhất là cần đào tạo, bồi dưỡng một đội ngũ cán bộ lãnh
đạo, quản lý giỏi. Đó phải là những người có tư duy chiến lược, trí tuệ sáng suốt, biết
nhìn xa trông rộng, giỏi nắm bắt thực tiễn, đủ sức hoạch định và dự báo xu hướng phát
triển cũng như nhạy bén giải quyết thành công những rủi ro, biến động có thể xảy ra.
Đặc biệt, họ còn biết tập hợp và sử dụng có hiệu quả một tập thể chuyên gia giỏi làm
tham mưu đắc lực và kịp thời thay thế những người không đáp ứng yêu cầu. V.I.Lênin
đã chỉ ra rằng: "Người cộng sản lãnh đạo chỉ có một cách duy nhất để chứng minh
quyền lãnh đạo của mình, đó là tìm cho mình được nhiều, càng ngày càng nhiều, những
người phụ tá... biết giúp đỡ họ làm việc, biết đề bạt họ, biết giới thiệu và chú ý đến kinh
nghiệm của họ" [39, tr.407]. Có thể nói, có được đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý giỏi
là nhân tố quyết định thực hiện thành công chiến lược nhân tài.
Xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học- công nghệ có trình độ cao, đủ sức tiếp cận
và làm chủ những thành tựu KH-CN cũng như có thể ứng dụng nó vào sản xuất, quản
lý. Bến Tre hiện đang thiếu nghiêm trọng đội ngũ cán bộ này. Vì vậy, ngoài chính sách
thu hút, sử dụng và đãi ngộ đội ngũ này, tỉnh cần chú trọng phát hiện, tuyển chọn học
sinh giỏi để đào tạo thành nhân tài phục vụ cho tỉnh. Việc này cần phải có cơ chế, chính
sách ràng buộc, bởi vì, cũng đã có không ít học sinh giỏi của tỉnh được đưa đi đào tạo
tại những trường danh tiếng trong và ngoài nước, nhưng sau khi thành đạt trở thành
những nhân tài, chuyên gia giỏi lại từ chối không trở về phục vụ quê hương. Bên cạnh
đó, tỉnh cần tiến hành rà soát ngay đội ngũ lao động có tay nghề, chuyên môn giỏi đang
làm việc tốt trong các cơ quan, đơn vị sản xuất, ban ngành của tỉnh để có chính sách
khuyến khích phát huy năng lực của họ và tạo điều kiện để họ được đào tạo lại theo
những yêu cầu mới của CNH, HĐH đặt ra.
Xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi. Đây là lực lượng giữ vai trò đặc
biệt quan trọng trong phát triển kinh tế, nhất là trong bối cảnh tỉnh đang thực hiện chính
sách thu hút các nguồn vốn đầu tư. Nếu đầu tư nhiều vốn và công nghệ hiện đại mà
chúng ta không có những chuyên gia KH-CN giỏi, nhà doanh nghiệp tài năng thì mọi
đầu tư đều kém hiệu quả và nền kinh tế cũng không mạnh, khả năng cạnh tranh cũng
hạn chế. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN, các nhà doanh nghiệp có vai
trò hết sức quan trọng. Bởi họ là "cầu nối" giữa quá trình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm
của người lao động thông qua hoạt động dịch vụ đầu vào và đầu ra cho quá trình sản xuất.
Trong tình hình khó khăn về "đầu ra" của những vùng chuyên canh nông sản của Bến Tre,
việc đào tạo, xây dựng đội ngũ các nhà doanh nghiệp giỏi là hết sức cần thiết. Chính họ sẽ
cung cấp những thông tin về thị trường như giá cả, mẫu mã, chủng loại, chất lượng để từ đó
người sản xuất điều chỉnh, cải tiến trong quá trình sản xuất, đáp ứng ngày càng tốt nhu cầu
người tiêu dùng. Sự liên hệ, hợp tác giữa nhà doanh nghiệp với người sản xuất (chủ yếu là
nhà nông) là một biểu hiện thực tế sinh động của tăng cường liên minh công - nông - trí
thức ở nước ta hiện nay.
Tóm lại, để vượt ra khỏi nguy cơ tụt hậu, đưa nền kinh tế phát triển nhanh và bền
vững, Bến Tre cần nhanh chóng phát triển mạnh NLCN, trong đó thật sự coi trọng chiến
lược đào tạo và sử dụng nhân tài, xây dựng đội ngũ nhân tài đồng bộ, có tâm huyết, đủ
sức phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH của tỉnh Bến Tre.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Phát triển NLCN ở Bến Tre đang là vấn đề cấp bách trước yêu cầu khách quan
của thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH. Tuy nhiên, NLCN Bến Tre phát triển theo hướng
nào, nhanh hay chậm và đến mức độ nào phần lớn tuỳ thuộc vào hệ thống chính sách và
giải pháp mà tỉnh Bến Tre đề ra có nhằm khơi dậy tiềm năng, bồi dưỡng, khai thác và
sử dụng có hiệu quả NLCN cho CNH, HĐH hay không.
Trên cơ sở đánh giá thực trạng NLCN và phân tích quá trình phát triển NLCN
của tỉnh Bến Tre trong những năm qua, xuất phát từ tình hình kinh tế-xã hội của tỉnh,
luận văn đề xuất một số giải pháp cơ bản có tính cấp bách nhằm thúc đẩy NLCN Bến
Tre phát triển mạnh hơn. Quá trình phát triển NLCN ở Bến Tre phải là kết quả của việc
thực hiện đồng bộ những giải pháp trên. Trong những năm tới, ngoài việc chú trọng
thực hiện nhóm giải pháp GD-ĐT, luận văn nhấn mạnh đến các giải pháp phát triển kết
cấu hạ tầng kinh tế-xã hội và giải quyết việc làm cho người lao động. Bởi đây là những
vấn đề bức xúc nếu được quan tâm đầu tư và giải quyết tốt sẽ mở ra cho Bến Tre triển
vọng phát triển nhanh trong tương lai.
KẾT LUẬN
Qua 3 chương, luận văn đã phân tích và giải quyết những vấn đề cơ bản sau:
1. Việc phân tích cấu trúc của NLCN và mối quan hệ của nó với các nguồn lực
khác cho phép chúng ta hiểu rõ hơn về NLCN và vai trò của nó trong phát triển xã hội,
nhất là trong thời kỳ CNH, HĐH, qua đó càng làm rõ tính tất yếu phát triển NLCN
trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH ở nước ta nói chung, ở Bến Tre nói riêng.
2. Sự nghiệp CNH, HĐH mà Bến Tre đang tiến hành ngoài những đặc điểm
chung, còn mang đậm những nét đặc trưng riêng của một tỉnh “cù lao” chậm phát triển.
Những đặc điểm riêng đó đã đặt ra cho Bến Tre yêu cầu phải phát triển nhanh và mạnh
hơn nữa NLCN, nhằm tạo ra nguồn nội lực mạnh mẽ nhanh chóng đưa tỉnh vượt qua
khỏi nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phát triển nhanh và bền vững hơn, hòa nhập với các
tỉnh trong vùng và cùng cả nước thực hiện thành công sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
vào năm 2020.
3. Luận văn phân tích làm rõ những đặc điểm về vị trí địa lý, kinh tế- xã hội,
cũng như truyền thống lịch sử, văn hóa, con người Bến Tre. Tất cả những yếu tố đó đều
có ảnh hưởng đến số lượng và chất lượng NLCN, ảnh hưởng đến quy mô, tốc độ phát triển
NLCN của tỉnh trong nhiều năm qua. Từ đó, luận văn đặt ra yêu cầu phải tìm kiếm giải pháp
nhằm phát triển NLCN phục vụ sự nghiệp đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh trong những năm
tới.
4. Phân tích thực trạng về số lượng, cơ cấu và chất lượng NLCN cũng như thực
trạng phát triển NLCN của tỉnh trong những năm qua, luận văn đã đưa ra những đánh
giá khái quát về chất lượng NLCN của tỉnh. Có thể khẳng định: NLCN của tỉnh hiện tại
còn nhiều bất cập, thiếu về số lượng, yếu về chất lượng, mất cân đối về cơ cấu ngành
nghề và cấp bậc đào tạo, nhất là việc sử dụng chưa thật sự có hiệu quả. Từ thực trạng
đó, luận văn chỉ ra một số nguyên nhân chính ảnh hưởng đến quá trình phát triển NLCN
của tỉnh và dự báo những xu hướng vận động cơ bản của NLCN của Bến Tre trong
những năm tới.
5. Xuất phát từ những quan điểm cơ bản chỉ đạo phát triển NLCN, luận văn xây
dựng một hệ thống giải pháp để tỉnh Bến Tre có thể nghiên cứu, tham khảo trong quá
trình hoạch định chiến lược, chính sách phát triển NLCN, đặc biệt nguồn nhân lực chất
lượng cao, phù hợp với thực tiễn công cuộc CNH, HĐH của tỉnh.
Phát triển NLCN ở nước ta nói chung, ở Bến Tre nói riêng đang là yều cầu cấp
bách, được Đảng, Nhà nước, các cấp, các ngành và các địa phương rất quan tâm thực
hiện, xem đó là mục tiêu quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế-xã hội. Mục tiêu
CNH, HĐH và công cuộc đổi mới đất nước chỉ trở thành hiện thực khi chúng ta có được
NLCN đủ mạnh, thật sự là động lực mạnh mẽ thúc đẩy sự phát triển nhanh và bền vững.
Đây là vấn đề có ý nghĩa lý luận và thực tiễn to lớn đối với nước ta, nhất là đối
với một tỉnh như Bến Tre hiện nay. Vì vậy, việc tiếp tục nghiên cứu sâu hơn vấn đề này
là rất cần thiết. Luận văn sẽ còn tiếp tục mở rộng phạm vi nghiên cứu đề tài này.
Một số kiến nghị với tỉnh Bến Tre:
Thứ nhất, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như Sở Nội vụ) chịu trách
nhiệm tổ chức điều tra, đánh giá một cách khá đầy đủ, toàn diện về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực chất lượng cao của tỉnh, ít nhất 2 năm một lần. Trên cơ sở đó,
tham mưu cho tỉnh lập kế hoạch sử dụng, đào tạo và đào tạo lại, nhằm khai thác tiềm
năng nguồn nhân lực hiện có này một cách có hiệu quả. Đồng thời có cơ chế, chính sách
phù hợp nhằm “bảo toàn” nguồn nhân lực quý giá này của tỉnh, ngăn chặn tình trạng
“chảy chất xám” có nguy cơ gia tăng do tác động của thị trường lao động và do điều
kiện làm việc ở tỉnh chưa được cải thiện.
Thứ hai, tỉnh nên giao cho một cơ quan cấp sở (như Sở Lao động- Thương binh
và Xã hội kết hợp với Sở GD-ĐT) chịu trách nhiệm điều tra rõ thực trạng NLCN của
tỉnh cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng và sử dụng
có hiệu quả hơn tiềm năng to lớn nguồn lao động dồi dào của tỉnh.
Thứ ba, xây dựng chương trình trên sóng phát thanh, truyền hình của tỉnh về chủ
trương, chính sách phát triển NLCN, nhất là chính sách phát triển nguồn nhân lực chất
lượng cao, cũng như những chính sách thu hút ưu đãi, trọng dụng nhân tài mà tỉnh đang
thực hiện. Qua đó, tuyên truyền và khuyến khích người lao động tích cực học tập nâng cao
trình độ và ra sức lao động cống hiến vì sự nghiệp CNH, HĐH và phát triển bền vững của
tỉnh Bến Tre.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Khoa giáo Trung ương (2001), Triển khai Nghị quyết Đại hội IX trong lĩnh
vực khoa giáo, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Báo Đồng Khởi (2005), số đặc biệt kỷ niệm 30 năm ngày miền Nam hoàn toàn
giải phóng (30/4/1975 – 30/4/2005).
3. Báo Đồng Khởi ngày 19-8-2005.
4. Hoàng Chí Bảo (1993), “Ảnh hưởng của văn hóa đối với việc phát huy nguồn lực
con người”, Tạp chí Triết học (1), tr.13-17.
5. Đặng Quốc Bảo-Nguyễn Đắc Hưng (2004), Giáo dục Việt Nam hướng tới tương lai -
vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. Huỳnh Văn Be (2005), "Phát huy tinh thần Đồng khởi, Bến Tre đổi mới công tác
xây dựng Đảng để thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển", Tạp chí Cộng sản, (7),
tr.7-10.
7. Bộ Giáo dục và Đào tạo, Vụ Đại học và Sau đại học (2005), Báo cáo tổng kết công
tác tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy năm 2004 và báo cáo sơ kết 3
năm thực hiện đề án cải tiến tuyển sinh đại học, cao đẳng, Hà Nội.
8. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Thực trạng lao động - việc làm ở
Việt Nam 2003, Nxb Thống kê.
9. Mai Quốc Chánh (chủ biên) (1999), Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực đáp ứng
yêu cầu công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội.
10. Nguyễn Trọng Chuẩn, Nguyễn Thế Nghĩa, Đặng Hữu Toàn (đồng chủ biên)
(2002), Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở Việt Nam - lý luận và thực tiễn,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Cục Thống kê Bến Tre (2004), Niên giám thống kê 2003, Bến Tre.
12. Cục Thống kê Bến Tre (2004), Báo cáo khoa học: Tăng trưởng kinh tế và chỉ số mức
sống dân cư tỉnh Bến Tre giai đoạn 2000-2004, Bến Tre.
13. Cục Thống kê Bến Tre (2005), Niên giám thống kê 2004, Bến Tre.
14. Nguyễn Hữu Dũng (2003), Sử dụng hiệu quả nguồn lực con người ở Việt Nam,
Nxb Lao động - xã hội, Hà Nội.
15. Đảng Cộng sản Việt Nam (1993), Văn kiện Hội nghị lần thứ tư Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
16. Đảng Cộng sản Việt Nam (1994), Văn kiện Hội nghị lần thứ bảy Ban Chấp hành
Trung ương khóa VII (Lưu hành nội bộ), Hà Nội.
17. Đảng Cộng sản Việt Nam (1996), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
18. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung
ương khóa VIII, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu Ban Chấp hành
Trung ương khóa IX (Lưu hành nội bộ), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
22. Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng bộ tỉnh Bến Tre (1996), Văn kiện Đại hội đại
biểu Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VI.
23. Đảng Cộng sản Việt Nam, Tỉnh ủy Bến Tre (2000), Văn kiện Đại hội đại biểu
Đảng bộ tỉnh Bến Tre lần thứ VII.
24. Nguyễn Thị Như Hà (2005), "Đầu tư nước ngoài với việc phát triển và khai thác
nguồn nhân lực Việt Nam", Tạp chí Lý luận chính trị, (4), tr.80-84.
25. Phạm Minh Hạc (chủ biên) (1996), Vấn đề con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Phạm Minh Hạc, Hồ Sĩ Quý (chủ biên) (2002), Nghiên cứu con người - đối tượng
và những hướng chủ yếu, Niên giám số 1, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
27. Thẩm Vinh Hoa - Ngô Quốc Diệu (chủ biên)(1996), Tôn trọng trí thức, tôn trọng
nhân tài - kế lớn trăm năm chấn hưng đất nước (Sách tham khảo), Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
28. Nguyễn Đình Hoà (2004), “Mối quan hệ giữa phát triển nguồn nhân lực và đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Tạp chí Triết học, (1), tr.14-19.
29. Hội đồng Quốc gia chỉ đạo biên soạn Từ điển bách khoa Việt Nam (1995), Từ điển
bách khoa Việt Nam, quyển số 3, Trung tâm biên soạn từ điển bách khoa Việt
Nam, Hà Nội.
30. Hội đồng Trung ương chỉ đạo biên soạn giáo trình quốc gia các bộ môn khoa học
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình Chủ nghĩa xã hội
khoa học, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đoàn Văn Khái (1995), “Nguồn lực con người - yếu tố quyết định sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước”, Tạp chí Triết học, (4), tr.20-23.
32. Phan Văn Khải (1998), "Tăng cường sự hợp tác giữa các doanh nghiệp với các nhà
khoa học-công nghệ và các cơ quan Chính phủ để nâng cao hiệu quả và sức
cạnh tranh của nền kinh tế", Báo Nhân dân, (15538), tr.1-2.
33. Bùi Thị Ngọc Lan (2002), Nguồn lực trí tuệ trong sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
34. Bùi Thị Ngọc Lan (2004), Tư tưởng của V.I.Lênin về nâng cao chất lượng nguồn
nhân lực và sự vận dụng của Đảng Cộng sản Việt Nam, Kỷ yếu đề tài khoa học
“Tư tưởng của V.I. Lênin về kế thừa những thành tựu của chủ nghĩa tư bản vào
việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga và ý nghĩa của nó đối với sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam”, Viện Chủ nghĩa xã hội khoa học.
35. Bùi Thị Ngọc Lan (2004), “Vai trò của giáo dục và đào tạo trong việc phát triển
nguồn nhân lực vùng đồng bằng sông Hồng”, Tạp chí Lý luận chính trị, (6),
tr.84-88.
36. Bùi Thị Ngọc Lan (2005), “Phát triển làng nghề với giải quyết việc làm cho nông
dân vùng đồng bằng sông Hồng”, Thông tin Chủ nghĩa xã hội – Lý luận và
thực tiễn, (5), tr.32-35.
37. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 38, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
38. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 41, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
39. V.I. Lênin (1977), Toàn tập, Tập 42, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
40. V.I. Lênin (1977), Toàn tập,Tập 44, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva.
41. Vũ Thị Phương Mai (2004), Phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở tỉnh Quảng Ninh hiện nay, Luận văn
thạc sĩ Triết học, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
42. Đỗ Mười (1995), Trí thức Việt nam trong sự nghiệp đổi mới xây dựng đất nước,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Thạch Phương - Đoàn Tứ (chủ biên) (2001), Địa chí Bến Tre, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
44. Sở Giáo dục- Đào tạo Bến Tre (2004) Báo cáo khoa học: nghiên cứu thực trạng
giáo dục - tính chỉ số giáo dục tỉnh Bến Tre giai đoạn 2000- 2003, Bến Tre.
45. Sở Giáo dục- Đào tạo Bến Tre (2005) Báo cáo kết quả thực hiện Nghị quyết Đại
hội VII tỉnh Đảng bộ về giáo dục - đào tạo.
46. Sở Khoa học và Công nghệ Bến Tre (2005), Báo cáo tình hình hoạt động khoa
học và công nghệ giai đoạn 2001-2004 và kế hoạch hoạt động giai đoạn
2006-2010, Bến Tre.
47. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Báo cáo tổng kết: Đề án quy hoạch
mạng lưới đào tạo nghề tỉnh Bến Tre đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm
2020, Bến Tre.
48. Sở Lao động - Thương binh và Xã hội (2004), Báo cáo Công tác Lao động- Thương
binh và Xã hội năm 2004 và định hướng công việc 2005.
49. Sở Nội vụ (2005), Báo cáo việc thực hiện chính sách trợ cấp đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ, công chức và thu hút cán bộ, công chức có trình độ, năng lực tốt từ
tháng 09/2001 đến 2004 (Thực hiện Quyết định số 4051/ 2001/ QĐ-UB).
50. Sở Y tế Bến Tre (2004), Báo cáo khoa học: Tuổi thọ trung bình và chỉ số tuổi thọ
của người dân Bến Tre giai đoạn 2001-2003, Bến Tre
51. Thanh tra tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tình hình tiếp dân, nhận đơn, thư và giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân (từ 1999 đến ngày 30-12-2004).
52. Song Thành (2004), “Chiến lược nhân tài - một vấn đề cấp bách của Việt Nam
trên đường phát triển và hội nhập”, Tạp chí Lý luận chính trị, (8), tr.67-71.
53. Tỉnh ủy Bến Tre (2002), Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 15-
NQ/TW (Hội nghị Trung ương 5 khóa IX) “Về đẩy mạnh công nghiệp hóa,
hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn thời kỳ 2001-2010”.
54. Tỉnh ủy Bến Tre (2004), Kết luận Hội nghị Tỉnh ủy lần thứ 18 (khóa VII) về tiếp
tục thực hiện Nghị quyết 03 của tỉnh uỷ (khóa VI) “Phát triển công nghiệp -
tiểu thủ công nghiệp trên địa bàn tỉnh Bến Tre 1996- 2000- 2010”.
55. Tỉnh ủy Bến Tre (2005), Báo cáo Chính trị tại Đại hội tỉnh lần thứ VIII (nhiệm kỳ
2006-2010) (Dự thảo 3).
56. Trần Văn Tùng, Lê Ai Lâm (1996), Phát triển nguồn nhân lực - kinh nghiệm thế giới
và thực tiễn nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Ủy ban Dân số, Gia đình và Trẻ em tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tổng hợp đề tài
nghiên cứu khoa học: Điều tra, đánh giá thực trạng chất lượng dân số Bến
Tre - Đề xuất các giải pháp nâng cao chất lượng dân số, Bến Tre.
58. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre - Ban Chỉ đạo điều tra lao động việc làm (2002),
Thực trạng lao động - việc làm ở Bến Tre.
59. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre - Ban Tổ chức Hội chợ việc làm - xuất khẩu lao
động (2003), Báo cáo kết quả Hội chợ việc làm - xuất khẩu lao động năm
2003 tỉnh Bến Tre.
60. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2004), Báo cáo Tình hình thực hiện Nghị quyết
Hội đồng nhân dân tỉnh về phát triển kinh tế-xã hội năm 2004 và phương
hướng, nhiệm vụ năm 2005.
61. Ủy ban nhân dân tỉnh Bến Tre (2005), Báo cáo tổng kết Chương trình nâng cao
chất lượng giáo dục- đào tạo, dạy nghề - giải quyết việc làm và chăm sóc sức
khỏe nhân dân giai đoạn 2001-2005.
62. Viện Nghiên cứu phát triển giáo dục - Trung tâm nghiên cứu phát triển nguồn
nhân lực (2002), Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển
nguồn nhân lực, Nxb Giáo dục.
63. Viện Ngôn ngữ học (2004), Từ điển tiếng Việt, Nxb Đà Nẵng.
64. Huỳnh Thị Nguyệt Yến (2004), "Những kinh nghiệm trong lãnh chỉ đạo công tác
xây dựng Hội và phong trào thi đua năm 2004", Bản tin Nông dân Bến Tre,
(4), tr.4-5.