
43
GIỚI THIỆU PHƯƠNG PHÁP GIẢNG DẠY KẾT HỢP NGÔN NGỮ -
VĂN HÓA CỦA GIÁO TRÌNH MARUGOTO: TRƯỜNG HỢP ÁP DỤNG
TẠI TRƯỜNG ĐẠI HỌC KINH TẾ TÀI CHÍNH TP.HCM (UEF)
Cao Đỗ Quyền
Trường Đại Học Kinh Tế - Tài Chính Tp.HCM
Khoa Ngôn ngữ & Văn hóa quốc tế
TÓM TẮT:
Ngày nay, với sự hội nhập quốc tế và làn sóng đầu tư mạnh mẽ của Nhật Bản vào
Việt Nam, ngoài tiếng Anh là ngôn ngữ phổ biến thì tiếng Nhật cũng dần trở nên
được yêu thích và có lượng học viên theo học rất đông đảo. Chính vì thế, việc dạy
tiếng Nhật về kiến thức ngữ pháp, từ vựng hay các kỹ năng nghe, nói, đọc, viết
không đáp ứng đủ nhu cầu thị hiếu, các giảng viên dạy ngoại ngữ cần phải tìm ra
phương pháp và nội dung lồng ghép các yếu tố văn hóa và giao thoa văn hóa phù
hợp. Điều đó vừa là yếu tố kích thích sự hứng khởi trong quá trình học ngoại ngữ,
vừa tạo cơ hội cho sinh viên hiểu biết về văn hóa của Nhật Bản. Trong bài viết này,
tác giả sẽ đưa ra những đề xuất, gợi ý về việc lồng ghép yếu tố văn hóa trong các
giờ dạy tiếng Nhật thông qua việc giảng dạy giáo trình Marugoto cho sinh viên
ngành Ngôn ngữ Nhật, trường Đại học Kinh tế Tài chính TP.HCM (UEF).
Từ khóa: tiếng Nhật, học tiếng Nhật, Marugoto, văn hóa Nhật, ngôn ngữ Nhật
I. Đặt vấn đề
Ngôn ngữ là một sản phẩm cao cấp của ý thức con người, là phương tiện để
con người giao tiếp, trao đổi và đi đến hiểu nhau. Trên thế giới hiện nay có khoảng
hơn 2.500 ngôn ngữ khác nhau và mỗi ngôn ngữ lại gắn liền với nền văn hóa của
quốc gia đó. Có đôi khi văn hóa có thể còn khó nhận biết hơn ngôn ngữ. Một quốc
gia bao gồm nhiều vùng miền, dân tộc và kèm theo đó văn hóa cũng sẽ có vô số
biến thể. Học một ngôn ngữ đòi hỏi người học phải cảm nhận về văn hóa nơi mà
nó xuất phát. Ngay cả với sự toàn cầu hóa đang ảnh hưởng đến hầu hết mọi ngóc
ngách của hành tinh thì vẫn có những nền văn hóa đặc trưng cho từng quốc gia và
khu vực. Do đó, học cách tiếp thu các nền văn hóa và dân tộc khác chắc chắn có

44
thể giúp bất kỳ người học ngôn ngữ nào trong nỗ lực cải thiện việc học ngôn ngữ
của mình.
Sự cảm nhận ngôn ngữ không chỉ dừng lại ở chỗ biết nghĩa, biết nội dung
chứa đựng trong các từ ngữ mà quan trọng hơn là nắm được ý nghĩa sâu xa của
những nội dung thông tin ấy. Thế nên, việc hiểu biết những yếu tố văn hóa này
giúp người giao tiếp cũng như người dạy và người học sẽ tiếp thu được ngoại ngữ
một cách có hiệu quả. Ngôn ngữ là phương tiện giao tiếp quan trọng nhất của loài
người nhưng sự giao tiếp chỉ có hiệu quả khi cả người phát lẫn người nhận thông
tin phải có sự hiểu biết chung. Một người dù có nắm vững ngữ pháp và có vốn từ
phong phú đến đâu, nhưng nếu thiếu hiểu biết về văn hóa bản ngữ thì khi giao tiếp
họ chỉ có thể diễn đạt một cách vụng về bằng ý tứ văn hóa của người Việt chứ chưa
đủ để có thể thông thạo được ngôn ngữ đó.
II. PHẦN NỘI DUNG
1. Mối quan hệ giữa ngôn ngữ và văn hóa
Trong việc học ngoại ngữ, điều cần lưu ý là phải xem xét đúng từ ngữ để phù
hợp cho từng ngữ cảnh. Ngữ cảnh ở đây được hiểu theo nghĩa rộng chính là văn
hóa, mà văn hóa hiểu theo nghĩa rộng là bao gồm toàn bộ những sản phẩm vật chất
và tinh thần do con người sáng tạo ra trong suốt quá trình hình thành, tồn tại và
phát triển. Ngôn ngữ và văn hóa có mối quan hệ hữu cơ với nhau. Ngôn ngữ là sự
thể hiện sâu sắc nhất một nền văn hóa mà yếu tố văn hóa lại hiện diện trong mọi
bình diện của ngôn ngữ. Mối quan hệ này có thể được biểu hiện ra bên ngoài thành
những phương tiện vật chất cụ thể, nhưng cũng có thể biểu hiện qua mối quan hệ
bên trong. Mối quan hệ bên trong này được hình thành từ một trong những chức
năng quan trọng nhất của ngôn ngữ, đó là chức năng tư duy. Không có ngôn ngữ,
con người không thể tư duy. Nói một cách khác, mọi hoạt động tư duy của con
người đều thực hiện trên chất liệu của ngôn ngữ.
Quỹ Giao lưu Quốc tế Nhật Bản (Japan Foundation) cũng từng đề cập:
“Trong lĩnh vực giáo dục tiếng Nhật, chúng tôi nhận thấy rằng việc phát triển
những hoạt động đẩy mạnh hiểu biết giữa con người với nhau trong môi trường

45
giao lưu văn hóa quốc tế là vô cùng quan trọng.” [1]. Từ đó chúng ta có thể thấy,
sự hòa hợp và nhất quán giữa ngôn ngữ và văn hóa cũng sẽ góp phần thúc đẩy sự
phát triển không chỉ cho cho bản thân mà còn cho quốc gia.
2. Tại sao yếu tố văn hóa lại đóng vai trò quan trọng trong việc dạy
và học ngôn ngữ tiếng Nhật?
Theo Giáo sư Eiichi Aoki: “Tiếng Nhật cũng vay mượn từ nước ngoài một
cách thoải mái từ các ngôn ngữ khác, nhất là tiếng Hoa và tiếng Anh” [2], cho nên
đôi khi ngôn ngữ sẽ làm ta nhầm lẫn và việc sử dụng chúng cũng làm ta e ngại.
Phải hiểu rõ về văn hóa Nhật, chúng ta mới có thể thoải mái sử dụng ngôn ngữ. Do
đó, việc học ngôn ngữ thực chất chính là học văn hóa. Nếu chúng ta chỉ dạy ngôn
ngữ mà không dạy văn hóa thì chỉ là đang dạy những ký hiệu hoặc là vô nghĩa
hoặc là mơ hồ đến độ học sinh sẽ hiểu hoàn toàn sai. Bởi ngôn ngữ chỉ là phần nổi
của tảng băng trôi còn phần ẩn sâu phía dưới lại chính là văn hóa. Đó cũng là lý
do tại sao gần đây khái niệm “dạy ngôn ngữ” thường được gọi là “dạy ngôn ngữ
liên văn hóa”. Giao tiếp không còn là một hành động sử dụng ngôn ngữ thuần túy
mà biến thành một nổ lực tiếp cận với cái khác.
Phần lớn việc lồng ghép văn hóa trong giảng dạy ngôn ngữ trước đây chỉ đơn
giản là học đến đâu, khía cạnh nào thì sẽ giới thiệu một chút về những vấn đề liên
quan. Chính vì vậy, người học ngôn ngữ không hiểu biết rõ về văn hóa, làm giảm
khả năng ứng xử đúng cách của đất nước mà mình đang học ngôn ngữ. Việc thiếu
hiểu biết về văn hóa sẽ gây ra nhiều bất tiện, hiểu lầm trong giao tiếp, nghiêm trọng
hơn sẽ dẫn đến những trường hợp mà ngày nay người ta thường gọi là “sốc văn
hóa” hay “xung đột văn hóa”, bởi vì chúng ta thường áp đặt văn hóa mẹ đẻ trong
việc học ngoại ngữ của mình.
Nhật Bản khá nổi tiếng với những quy định “luật bất thành văn” về những
phong tục tập quán, lễ nghi. Thế nên không hiếm người Việt Nam học tiếng Nhật
ở mức độ tương đối khá nhưng lại không thể giao tiếp với người bản xứ được chỉ
vì một tật: gặp ai cũng hỏi tuổi tác, lương bổng, hoặc cân nặng và bình phẩm về
hình thể của những người đang nói chuyện với mình. Có lẽ đó chỉ là hình thức

46
quan tâm trong văn hóa của người Việt nhưng nó lại là những điều cấm kỵ trong
nghi thức giao tiếp của người Nhật.
Ngược lại, cũng không hiếm người Nhật Bản khi học tiếng Việt cũng than
thở rất nhiều điều, chẳng hạn, người Việt rất ít chào hỏi nhưng lại hay hỏi chuyện
tuổi tác và gia đình. Điều đó sẽ tạo cho họ cảm giác bị xâm phạm riêng tư cá nhân
và có ấn tượng là người Việt Nam thiếu lịch sự. Câu chuyện cũng vì vậy mà trở
nên bị ngắc ngứ ngay tức khắc.
Không chỉ thế, ở tiếng Nhật có tồn tại những từ vựng rất khó dịch đối với
người nước ngoài, bởi vì không có từ tiếng Anh hay tiếng nước ngoài nào có thể
diễn tả rõ ý nghĩa của chúng [4]. Và để hiểu nghĩa nó, bạn phải thực sự hiểu rõ về
văn hóa của xứ sở Phù Tang. Ví dụ:
- 勿体無い(もったいない): cảm giác tiếc nuối vì lãng phí, hay vì
những thứ không phát huy hết tiềm năng. [5]
- わびさび: là “đạt tới ngưỡng trân trọng những điều thực sự quan trọng
trong cuộc sống bằng cách loại bỏ hết những điều không cần thiết”. [6]
- 金継ぎ(きんつぎ): là kĩ thuật lâu đời của Nhật Bản để sửa chữa những
đồ vật bị vỡ. [7]
- 生き甲斐(いきがい): mô tả niềm vui và ý nghĩa của cuộc sống. [8]
- 森林浴(しんりんよく): bỏ lại nhịp sống hối hả và gấp gáp để dành
thời gian tận hưởng khung cảnh, âm thanh, và sự tĩnh lặng bằng mọi giác
quan không chỉ nuôi dưỡng sự tôn trọng với tự nhiên trong bạn, mà còn
khuyến khích bạn ngắt kết nối và thực hiện hoạt động mà người Nhật miêu
tả là “liệu pháp chữa lành của rừng cây”. [9]
Vừa có thể học ngoại ngữ, vừa có thể khám phá những điều thú vị của văn
hóa của một đất nước, đó chính là sự hấp dẫn, thu hút người học của tiếng Nhật.
3. Một vài gợi ý lồng ghép các yếu tố văn hóa và giao thoa văn hóa
trong việc dạy và học tiếng Nhật

47
Có thể nói trong quá trình dạy và học ngoại ngữ (trong đó có tiếng Nhật) thì
văn hóa đóng vai trò cực kì quan trọng. Với xu thế toàn cầu hóa mạnh mẽ, các
giảng viên dạy ngoại ngữ cần phải tìm ra phương pháp và nội dung lồng ghép các
yếu tố văn hóa và giao thoa văn hóa phù hợp, để có thể vừa kích thích sự hứng
khởi việc học ngoại ngữ, vừa tạo cho sinh viên cơ hội tìm hiểu và sâu sắc thêm về
văn hóa các nước trên thế giới.
Dựa vào đó, tác giả sẽ đưa ra những đề xuất về việc lồng ghép các yếu tố văn
hóa và giao thoa văn hóa trong việc dạy và học tiếng Nhật:
- Nhận thức về sự khác biệt giữa 2 nền văn hóa: Điều đầu tiên mà giáo viên nên
làm rõ ngay từ những buổi đầu cho các bạn học sinh, sinh viên đó chính làm rõ sự
khác biệt giữa hai nền văn hóa của hai ngôn ngữ tiếng Việt và tiếng Nhật thông
qua những ví dụ hoặc các tình huống giao tiếp cụ thể.
- Sử dụng các câu chuyện cười, thành ngữ, tục ngữ: Có thể nói những câu thành
ngữ, tục ngữ hay những câu chuyện cười là một cách biểu hiện nền văn hóa của
một quốc gia. Bởi ẩn sâu bên trong đó là những kinh nghiệm, những bài học, lối
sống, triết lý, đời sống được truyền từ xưa đến nay, là tinh hoa của văn hóa. Việc
đưa ra những câu chuyện ngụ ngôn, thành ngữ, tục ngữ vào mỗi đầu hoặc cuối
buổi học không chỉ làm cho giờ học sinh động, mà còn giúp sinh viên củng cố
thêm vốn từ vựng, hiểu rõ hơn về văn hóa của Nhật Bản và so sánh, đối chiếu với
văn hóa Việt.
- Tạo tình huống giao tiếp và xem những video về cách giao tiếp do người Nhật
thực hiện: Và một phần không thể thiếu đó là tạo ra những tình huống giao tiếp để
sinh viên có thể tự phân vai, tự đặt mình vào tình huống cụ thể. Điều đó tạo cho
sinh viên những phản xạ để có thể giao tiếp tốt hơn. Ngoài ra, giáo viên có thể cho
sinh viên xem những video về cách giao tiếp do người Nhật thực hiện (tập trung
những video làm về nội dung văn hóa, lễ hội,...) để sinh viên vừa học cách ứng xử
vừa biết nhiều điều hơn về văn hóa Nhật Bản.
- Góc giao thoa văn hóa: Bên cạnh việc giảng dạy tiếng Nhật lồng ghép những
yếu tố văn hóa, thì giáo viên có thể để sinh viên tự tìm hiểu về văn hóa của Nhật