BIỆN PHÁP “GÂY HỨNG THÚ CHO TRẺ 3 - 4 TUỔI THÔNG QUA HOẠT
ĐỘNG KỂ CHUYỆN CHO TRẺ NGHE
I. ĐẶT VẤN ĐỀ.
Văn học một loại nh nghệ thuật đến với trẻ sớm nhất cũng được trẻ yêu
thích nhất. không chỉ giúp cho trẻ cảm thđược nghệ thuật,qua đó giúp trẻ phát
triển về ngôn ngữ từ đó hoàn thiện dần về nhân cách cho trẻ.
Trong các thể loại văn học, thì truyn một thể loại rất được trẻ yêu thích. Đến
với mỗi câu truyện hay trẻ như bước vào thế giới của những con người với ông bụt
tiên tấm dịu hiền của thế giới muôn màu hoa cỏ cây của những con vật đáng yêu.
Tất cả như được sống trò chuyện để hoà quyện chung cuộc sống như con người. Việc tạo
cho trẻ làm quen tác phẩm văn học: Đọc thơ, kể chuyện, nghe chuyện, giúp nhận thức thế
giới xung quanh hiểu được mối quan hệ con người với con người, con người với thiên
nhiên, con người với con vật qua đó giúp trẻ phát triển duy, chú ý ghi nhớ có chủ
định mà đặc biệt giúp trẻ phát triển ngôn ngữ cho trẻ khi giao tiếp.
Chính thế giới giáo dục ngôn ngữ cho trẻ khi giao tiếp kể chuyện vai trò
quan trọng trong việc phát triển toàn diện về nhân cách cho trẻ. Xuất phát từ các do
trên, bản thân tôi thấy việc phát triển ngôn ngữ thông qua câu chuyện việc làm rất cần
thiết trong trường mầm non, nhằm nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho trẻ.
vậy tôi đã đi sâu vào nghiên cứu đề i: Gây hứng thú cho trẻ 3 - 4 tuổi thông qua
hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe” nhằm nâng cao chất lượng phát triển ngôn ngữ cho
trẻ ở trường Mầm Non Trung Lập hiện nay.
Đối tưng nghiên cu: Tr lp 3 tui C4 trưng mm non Trung Lp.
Mục đích nghiên cứu: Phát trin kh năng nghe, hiểu ngôn ng, kh năng trình
bày có logic, có trình t, chính xác và có hình nh ni dung nhất định.
II. NỘI DUNG
1. Thực trạng.
Năm học 2023 - 2024 tôi được phân công chăm sóc giáo dục tr lp 3 tui C4 vi
tng s tr 30 tr. Đ vic áp dng bin pp gây hứng thú cho trẻ 3 - 4 tuổi thông qua
hoạt động kể chuyện cho trẻ nghe đt hiu qu, ngay t đầu năm học tôi đã kho sát và
đánh giá mt s ni dung liên quan đến phát trin ngôn ng tng qua gi k chuyn
cho tr như sau:
Kết qu kho sát thc tế trên 30 tr lp 3 tui C4
TT
Nội dung khảo sát
Đạt
Chưa đạt
Số cháu
Tỉ lệ (%)
Số cháu
Tỉ lệ (%)
1
Số trẻ biết kể chuyện cùng cô
12
40%
18
60%
2
Trẻ mạnh dạn, tự tin trong giao
tiếp
13
43%
17
57%
3
Trẻ phát âm rõ ràng mạch lạc,
17
57%
13
43%
2
câu đúng ngữ
4
Trẻ biết thể hiện ngôn ngữ, tính
cách nhân vật
13
43%
17
57%
Từ bảng khảo sát trên cho thấy trẻ lớp tôi phát âm còn chưa rõ, chưa biết kể lại câu
chuyện cùng . Tr còn rt , nhút nhát chưa mạnh dn t tin tham gia vào hoạt động
cũng như chưa t tin khi tr li câu hi của cô đưa ra…. Điều đó càng thôi thúc tôi đi sâu
và tìm tòi mt s bin pháp tt nht đ giúp tr phát trin ngôn ng.
2. Cơ sở lí luận và cơ sở thc tin ca bin pháp.
2.1. Cơ sở lý lun.
Ngày nay chúng ta không ch đào to những con ngưi phm chất đạo đức
trong sáng; trí thc, khoa hc, tình yêu nhân loi, yêu thiên nhiên, yêu t quc,
còn to nên những con người biết yêu ngh thut, yêu cái đẹp, giàu mơ ước sáng
to. Tt c nhng phm cht y cần được bắt đầu hình thành t la tui mm non, la
tui ha hẹn bao điều tt đẹp trong tương lai.
vy, vic cho tr sm làm quen với văn học mt trong nhng ni dung cn
thiết b ích trong chương trình giáo dc mầm non, trong đó yếu t gây nên s thích
thú cho tr mi khi nghe giáo k chuyn rt quan trng, khi tiếp xúc qua nhng
nhân vt, s vt trong câu chuyn k, hiệnng gần gũi sẽ giúp cho tr d dàng tiếp cn
nhn biết thế gii vn vt xung quanh; giúp phát triển óc duy sáng tạo, trí mò,
luôn thích khám phá t đó cũng được nảy sinh hơn trong trẻ.
Để nâng cao chất lượng giúp tr cm th hc tt môn k chuyn thì mi giáo
viên ngoài vic nm chắc phương pháp ging dy ca tng loi tiết cn phi linh hot
sáng to. Trong khi t chc hoạt động k chuyn cho tr nghe, để hoạt động k chuyn
nhóm lớp mình đạt đưc kết qu cao, tôi đã tìm ra một s bin pháp, hình thc đ giúp tr
hng thú nghe cô k chuyn mt cách tích cc
2.2. Cơ sở thc tin.
Trưng MN Trung Lp nm Trung tâm xã, giao thông đi lại thun tin. Trưng
hai khu, chia làm 16 lớp với tổng số 420 trẻ, riêng khối 3 tuổi có 4 lớp với tổng số 106 trẻ.
Khung cảnh nhà trường khang trang mang tính phạm,i trường cnh quan sạch đẹp.
Khi thc hin bin pháp “Phát triển ngôn ngữ cho trẻ 3 4 tuổi thông qua giờ kể
chuyện cho trẻ nghe” tôi gặp những thuận lợi và khó khăn sau:
Thuận lợi
Lớp diện tích khá rộng rãi, thoáng mát lớp được phân chia theo đúng độ tuổi
theo quy định.
Đa số trẻ đi học rất đều, trẻ thông minh, có khả năng tiếp thu nhanh
Đồ dùng phục vụ cho việc phát triển vốn từ cho trẻ phong phú về hình ảnh, màu
sắc hấp dẫn (tranh ảnh, vật thật)
Luôn được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của ban giám hiệu nhà trường
Giáo viên nắm vững phương pháp dạy của bộ môn, được bồi dưỡng thường xuyên
và tham gia học tập các lớp chuyên đề do trường tổ chức.
3
Giáo viên trong lớp tinh thần đoàn kết, có sự phối hợp với nhau trong công tác
giảng dạy đặc biệt là chú ý phát triển vốn từ cho trẻ.
Phụ huynh học sinh luôn quan tâm phối kết hợp chặt chẽ trong việc phát triển
ngôn ngữ cho trẻ
Tuy nhiên bên cạnh thuận lợi tôing gặp một số khó kn trong quá trình thực hiện.
Khó khăn
Trong lớp n trẻ nhút nhát không tham gia các hoạt động cùng các bạn
lớp còn có trẻ hiếu động khả năng tập trung thấp .
Một số trẻ phát âm còn ngọng chưa đủ từ, đủ câu, còn lúng túng khi giao tiếp.
Những khó khăn này làm cho trẻ thiếu tự tin trong giao tiếp .
còn lúng túng trong khi sử dụng đồ dùng nhất những lúc các nhân vật xuất
hiện cùng một lúc trong đoạn chuyện vậy chưa diễn tả hết tình huống xảy ra trong
đoạn chuyện, gây khó khăn cho việc giúp trẻ hiểu nội dung chuyện.
Từ những thuận lợi, khó khăn trên để tổ chức tốt giờ văn học có hiệu quả, bản thân
tôi thực hiện biện pháp “Gây hứng thú cho trẻ 3- 4 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện
cho trẻ nghe”
3. Áp dụng biện pháp
Để biện pháp Gây hứng thú cho trẻ 3- 4 tuổi thông qua hoạt động kể chuyện cho
trẻ nghe” giúp trphát triển khng nghe hiểu ngôn ngữ, ttin, ớc đầu khng sử
dụngc từ trong giao tiếp đơn giản, với kinh nghiệm của bản thân đề tài này tôi xin đưa ra
một số biện pháp sau:
Biện pháp 1: Tạo môi trường phong phú gây hứng thú kích thích sự hoạt
động tích cực của trẻ
“Môi trường” cho trẻ hoạt động , một trong những việc cần thiết không thể
thiếu được trong vấn đề đổi mới hình thức tổ chức giáo dục mầm non hiện nay. Khác với
những năm về trước thì giáo viên tìm chọn hình ảnh thật đẹp sống động trang trí lớp
cho đẹp từ đầu năm đến cuối năm. thế trẻ nhìn lâu rồi ng thấy chán cũng
không kích thích phát triển trẻ. Nhưng ngày nay, bằng những việc tìm tòi khám phá tôi
đã tạo môi trường cho trẻ hoạt động phù hợp với từng chủ đề. Nhờ được hoạt động môi
trường theo chủ đề trẻ thích khám phá trải nghiệm trẻ nhiều kinh nghiệm hơn, thông
minh hơn vận dụng được ngay ngôn ngữ của mình trong khi giao tiếp nhờ đó trẻ
thấy hứng thú hơn và phát triển ngôn ngữ ở trẻ một cách tự nhiên hơn.
dụ: “góc sách” chủ đề: “Thế giới động vật” tôi bố trí môi trường mở đủ
các loại sách tranh, truyện tranh, cho trẻ tự làm các loại rối, đồ chơi, trẻ tự tạo theo
chủ đề. Qua đó, trẻ có thể tự hoạt động tranh chuyện, con rối để kể thành câu chuyện theo
ý trẻ nhớ mà ngôn ngữ của trẻ ngày càng phát triển.
Môi trường tạo cho trẻ không chỉ góc sách tạo xung quanh lớp học,
ngay chủ đề trẻ đang học tạo ra một số hình ảnh chủ đề, trẻ làm cùng với bằng
những nguyên vật liệu khác nhau theo ý trẻ.
dụ: Chủ đề thế giới động vật: “những con vật sống dưới nước” cô làm hình
ảnh một scon vật: Con tôm , con trẻ m thêm một số con vật khác cũng sống dưới
nước bằng các nguyên vật liệu khác nhau. Khi hoạt động trong tiết chuyện, hỏi trẻ kể
4
tên các con sống dưới nước thì trẻ kể, khi quên trẻ thể nhìn trong chủ đề để kể. Hoặc
khi tận dụng vào giờ hoạt động đón, trả trẻ thể cho trẻ ngắm nhìn chủ đề hỏi:
Chủ đề nói về con vật gì? Có câu chyện o nói về con vật đó và hướng cho trẻ k
chuyện về những con vật đó.
Biện pháp 2: Tích hợp các nội dung giáo dục và nghệ thuật kể chuyện của cô
Tạo hứng thú cho trẻ trong hoạt động vừa dễ lại vừa khó .Vì trẻ rất thích những
điều mới lạ nhưng lại chán với những mình đã quen thuộc.Chính lẽ đó, tôi luôn suy
nghĩ thay đổi một số hình thức trong hoạt động kể chuyện để thu hút được sự ý của
trẻ, tạo ra không khí trong giờ học trở lên hào hứng sôi nổi, không trẻ vẫn đạt
được kết quả cao.
Như chúng ta đã biết trẻ mầm non chưa nhìn tự đọc tác phẩm văn học, trẻ
phải nhờ vào người lớn ngiáo trường .Vì vậy, cô giáo là người trung gian
chiếc cầu nối đưa tác phẩm văn học đến với trẻ . Do đó lời đọc lời kể càng hay, càng hấp
dẫn bao nhiêu giúp trẻ cảm thụ được nội dung tác phẩm bấy nhiêu, tiền đề cho trẻ bắt
chước ngữ điệu tính cách nhân vật sở phát triển ngôn ngữ cho trẻ tri giác về nội
dung câu chuyện trẻ dễ dàng hiểu nội dung câu chuyện, lời kể của chính thước
đo chuẩn mực cho trẻ học tập.
Không chỉ chú ý đến ngữ điệu giọng kể, tôi còn chú ý đến nhịp độ, cường điệu, lúc
dồn dập hồi hộp, lúc từ tốn, lúc to lúc nhỏ khác nhau, chỗ ngập ngừng, chỗ dứt khoát. Tôi
đã làm trẻ thu hút chú ý tới lời kể của tôi nhờ đó trẻ tiếp thu bài nhanh hơn, nhớ lâu
hơn. Như vậy, để giọng kể hay, hấp dẫn tôi phải tự rèn luyện mình, tập kể nhiều lần
cho đồng nghiệp nghe đtham gia góp ý cùng chỉnh sữa. Nếu đơn thuần chỉ lời kể
trong giờ học sẽ làm cho trẻ cảm thấy chán nản, mệt mỏi. Muốn vậy trong giờ học tôi tích
hợp các nội dung giáo dục vào để dạy, việc lồng ghép tích hợp nội dung giáo dục trong
tiết dạy kể chuyện cho trẻ nghe vừa có tác dụng tạo ra bầu không khí thoải mái không
bó, ép buộc đối với trẻ, trẻ học chơi, chơi học, vừa tác dụng giáo dục trẻ một
cách toàn diện về trí tuệ, thẩm . Nhưng lồng ghép đây không nghĩa xáo trộn
kèm dạy quá nhiều lần môn học khác nhau ta phải lồng ghép tích hợp sao cho thật
nhẹ nhàng hoà quyện vi nhau và xen kẽ các hoạt động: động, tĩnh khác nhau.
dụ: Kể câu chuyện “Thỏ con không vâng lời” Tôi lồng ghép bộ môn âm nhạc:
Tôi cho trẻ hát bài hát “Trờ nắng trời mưa”, cho trẻ đàm thoại về bài hát nói về con gì để
hướng vào bài dạy của mình. i thể cho trẻ chơi trò chơi, bắt chước tạo dáng thỏ con
nhân vật trong chuyện. Tuỳ theo nội dung truyện tôi đưa ra trò chơi cho phù hợp hấp
dẫn.
Như vậy qua việc tích hợp lồng ghép các nội dung giáo dục tôi thấy trẻ hứng t
và tiếp thu kiến thức một cách rất nhẹ nhàng không bi gò bó .
Biện pháp 3: Xây dựng hệ thống câu hỏi đa dạng và phong phú.
Căn cứ vào khả năng nhận thức của trẻ tôi thể chủ động đặt ra các câu hỏi
đàm thoại khác nhau. Nhưng câu hỏi phải đòi hỏi chính xác, ngắn gọn dễ hiểu từ dễ đến
khó, từ đơn giản đến phức tạp mang tính gợi mở tác động đến toàn bộ trẻ trong lớp.
Và câu hỏi đặt ra phải theo trình tự nội dung, sát nội dung cốt truyện.
Ví dụ: Khi bắt đầu đàm thoại câu chuyện Bé Minh Quân dũng cảm
kể câu chuyện gì?
5
Trong câu chuyện có những nhân vật nào?
Sau đó cô dần hỏi đến câu hỏi: Vì sao? N thế nào?
Vì sao bố lại phạt mèo con?
Thấy mèo con bị phạt Minh Quân đã làm gì?
Ví dụ: Câu chuyện: “Thỏ con không vâng lời
Cô vừa kể cho các con nghe chuyện gì?
Những nhân vật nào xuất hiện trong chuyện?
Vì sao Thỏ lại khóc?
Ai đã đưa thỏ con về n?
Về nhà thỏ con đã nói gì với mẹ?
Như vậy, thể nói với mỗi câu chuyện đưa nhiều cách hỏi như vậy sẽ giúp trẻ
lựa chọn ngôn ngữ trả lời, qua đó giúp trẻ phát triển ngôn ngữ, nói đủ câu, câu đơn, câu
ghép chắt lọc ngôn ngữ cho trẻ khi giao tiếp. Đặc biệt, khi hỏi trẻ cô cũng phải hỏi trẻ
bằng các giọng điệu, cử chỉ điệu bộ khác nhau nhằm kích thích gây hứng thú cho trẻ trả
lời.
Như vậy thể nói bằng việc sử dụng các câu hỏi đàm thoại khác nhau tùy thuộc
độ tuổi, yêu cầu tiết dạy vào đối tuượng của trẻ tôi thấy không chỉ giúp trẻ phát triển về
nhận thức, thể hiện tình cảm với nhân vật, qua đó còn giúp trẻ phát triển nhân cách, đặc
biệt phát triển ngôn ngữ trẻ. Vì vậy chất lượng tiết dạy của tôi đạt chất lượng
cao.
Biện pháp 4: Sử dụng đồ dùng gây hứng thú ở trẻ.
Như chúng ta, đã biết duy của trẻ duy trực quan hình ợng thế mọi
lứa tuổi đều rất thích được nhìn, hoạt động với đồ vật. Chính vậy, trong quá trình cho
trẻ làm quen với tác phẩm văn học, giáo viên nào cũng phải nghĩ là đồ dùng trực quan gì.
Đồ dùng đó có đẹp hấp dẫn bao nhiêu sẽ kích thích gây hứng thú được cho trẻ bấy nhiêu
trẻ mầm non rất thích đồ dùng đẹp, mới lạ, hấp dẫn, đơn giản dễ sử dụng. thế
mà tôi liên tục tạo ra những đồ dùng mới lạ và không lặp lại đồ dùng giờ học trước.
Đồ dùng truyện có rất nhiều loại: Tranh, các loại rối (tay, dây, rối nước...) sử dụng
phần mềm vi tính, mỗi một loại đều ưu việt riêng, song sử dụng phần mềm vi tính tôi
cảm thấy hay hơn hấp dẫn hơn.
Ví dụ: Trong câu chuyện “Thỏ con không vang lời” tôi có thể vẽ tranh, chụp tranh
phong cảnh nào đó đưa vào máy chỉnh sửa tìm những nhân vật trong chuyện ghép
lại để tạo thành câu chuyện theo ý muốn. Sự hoạt động nhân vật trong vi tính tôi thấy trẻ
nhìn nhân vật trong chuyện bằng không gian ba chiều hơn hoạt động của nhân vật
mượt hơn và không sợ phải khó khăn khi tình huống xảy ra. Tuy nhiên nếu chỉ sử
dụng đồ dùng vi tính tđồ dùng không thể kích thích cho trẻ trẻ không thể tự hoạt
động đồ dùng đkể, đhoạt động môn học khác. vậy tiết dạy tuỳ theo loại truyện mà
sử dụng đồ dùng cho phù hợp để dạy.
dụ: Cũng nhân vật trên trong câu truyện “Thỏ con không vâng lời tôi làm các
con rối, tôi tạo ra thỏ con bằng tre gỗ kết hợp việc trang trí hình ảnh bằng đề can,
thảm… do đó khi dùng que gắn xo vào thỏ con tôi thấy thỏ con thể đi được,