
3
PHẦN MỘT. ĐẶT VẤN ĐỀ
1. Lý do chọn đề tài.
Thể kỷ XXI là thế kỉ của toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, sự phát triển
khoa học kĩ thuật và công nghệ diễn ra nhanh chóng thúc đ ả y sự phát triển của
mọi mặt đời sống xã hội. Bối cành thế giới liên tục biến đổi đ òi hỏi các quốc gia,
các vùng lành thổ cũng như Việt Nam đ ặt ra yêu cầu mới đối với nguồn nhân lực,
do đó cũng đặt rạ những yêu cầu mới cho sự nghiệp giáo dục thế hệ trẻ - chủ nhân
tương lai của đất nước. Thế kỉ XXI đòi hỏi con người phải tích cực, chủ động,
năng động, sáng tạo, phát triển những phả m chất và phát triển năng lực phù hợp để
đáp ứng nhu cầu đất nước và xã hội. Ngày nay, với sự phát triển mạnh mẽ các
ngành khoa học kỹ thuật công nghệ và sự bùng nổ thông tin trên nhiều lĩnh vực,
thế giới đang bước vào giai đoạn toàn cầu hóa thì vai trò của giáo dục hết sức quan
trọng và đ ặ c biệt là đổi mới giáo dục trong giai đoạn hiện nay. Nhiệm vụ của giáo
dục hiện nay là đào tạo ra những con người có tính chủ động cao, năng động, sáng
tạo có đầ y đủ các năng lực phẩm chất tốt như năng lực tự học, giải quyết vấn đề và
sáng tạo, thẩm mỹ, thể chất, giao tiếp, hợp tác, tính toán, sử dụng công nghệ thông
tin và truyền thông. Định hướng giáo dục đào tạo hiện nay tại Hội nghị lần thứ tám
của Ban Chấp Hành Trung ương Đảng khóa XI đã ra Nghị quyết số 29/NQ-TW về
đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục đào tạo. Với quan điểm chỉ đạo: "...Chuyển
mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát triển toàn diện
năng lực và phẩm chất người học. Học đi đôi với hành; Lý luận gắn với thực
tiễn...”. Và mục tiêu tổng quát trong Nghị quyết nêu rõ “...Giáo dục con người Việt
Nam phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng, khả năng sáng t ạ o của
mỗi cá nhân..."
Môn Vật lí là một môn khoa học thực nghiệm, nên một trong các khâu
quan trọng của quá t rình đổi mới phương pháp dạy học Vật Lí là nhằm tăng
cường hoạt động nghiên cứu và tìm hiểu các ứng dụng kỹ thuật của học sinh
trong quá trình học tập thông qua việc giao nhiệm vụ liên quan đến việc tìm hiểu
công dụng, nguyên tắc hoạt động, cấu tạo của các thiết bị thí nghiệm và các thiết
bị ứng dụng trong cuộc sống để học sinh được tham gia nghiên cứu khoa học, qua
đó giúp học sinh hiểu sâu sắc hơn các kiến thức Vật Lí.
Đề tài này của chúng tôi hướng đến đối tượng HS trường trung học phổ
thông Miền núi với những đặc thù riêng n hư đến từ các vùng khó khăn, ít được
tiếp cận công nghệ, các trường cũng có ít thu ận lợi về cơ sở vật chất (CSVC) để
triển khai hoạt động giáo dục STEM. Qua đó, đ ề tài nhằm thay đổi nhận thức về
giáo dục STEM của một số cán bộ quản lý, giáo viên (GV) và phụ huynh HS khi
cho rằng giáo dục STEM chỉ có lập trình robot; muốn đưa giáo dục STEM vào
trường học thì nhà trường phải trang bị cơ sở vật chất, thiết bị rất tốn kém; GV
phải biết lập trình; giáo dục STEM không dạy được t rong chương trình chính
khóa; giáo dục STEM chỉ thực hiện được đơn môn; một số GV đã tổ chức cho HS
các chủ đề theo giáo dục STEM mang tính “cầm tay chỉ việc” nên không đem lại