intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phát triển kỹ năng nói Tiếng Anh cho học sinh lớp 3, 4, 5

Chia sẻ: Mucnang999 Mucnang999 | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:17

41
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Mục đích nghiên cứu đề tài là nhằm xác định được nguyên nhân vì sao học sinh tiểu học chưa thực sự tự tin, các em còn e ngại và rụt rè vào việc phát âm hay nói tiếng Anh, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm và đề xuất các biện pháp giúp các em học sinh trường tôi tự tin, chủ động tiếp cận và cảm thấy yêu thích môn hoc mà còn là một bước khởi đầu vững chắc, tạo nền móng cho các em trong việc học ngoại ngữ sau này.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Sáng kiến kinh nghiệm Tiểu học: Phát triển kỹ năng nói Tiếng Anh cho học sinh lớp 3, 4, 5

  1. PHẦN 1. ĐẶT VẤN ĐỀ 1. Lý do chọn đề tài:  Chúng ta đang sống trong thế kỷ XXI thế kỷ của nền văn minh hiện đại,   thế  kỷ  của khoa học công nghệ  thông tin. Đất nước ta đang trong thời kỳ  phát  triển lấy nền kinh tế tri thức làm nền tảng cho sự phát triển và coi giáo dục đào   tạo là quốc sách hàng đầu và cải tiến chất lượng dạy và học để  hoàn thành tốt   việc đào tạo bồi dưỡng nguồn nhân lực con người cho công nghiệp hóa và hiện  đại hóa đất nước. Để tồn tại và phát triển xây dựng và bảo vệ tổ quốc theo kịp   các nước phát triển đòi hỏi chúng ta phải nắm bắt được các thành tựu tiên tiến   nhất. Nhằm đưa đất nước Việt Nam trở thành một nước văn minh giàu mạnh. Bởi vậy hệ  thống các môn học trong nhà trường hiện nay là hướng tới   những vấn đề  cốt lõi thiết thực đó. Bộ  môn Tiếng Anh tuy đưa vào phổ  biến   muộn hơn so với các môn học khác  ở  nhà trường nói chung và trường tiểu học  tôi đang dạy nói riêng, nhưng nó là chìa khóa mở  ra kho tàng tri thức nhân loại.   Nó là người hướng đạo đưa ta tới với Thế  giới bắt tay với bạn bè năm châu,  tiếp thu và lĩnh hội những tinh hoa nhân loại. Như chúng ta đã biết, trong nhà trường phổ thông hoạt động chủ yếu của  giáo viên và học sinh là giảng dạy và học tập. Cả  hai hoạt động này đều phải  đòi hỏi người dạy phải chuyển tải các kiến thức, nội dung môn học và người  học phải lĩnh hội được kiến thức đó. Nhưng tiếng Anh là môn học khó , đặc biệt  là học sinh tiểu học  ở  vùng ngoại thành trường tôi, tiếng Anh đối với các em   hoàn toàn mới lạ. Có lẽ  vì thế  mà ý thức học tập của các em chưa cao, các em   vẫn còn thụ  động, còn e ngại và rụt rè, mà rào cản lớn đối với các em là việc   phát âm, đọc và nói tiếng Anh. Với mục tiêu rèn luyện cho các em bốn kĩ năng;  nghe nói đọc viết, trong mỗi đơn vị bài học thì kỹ năng “Nghe và Nói” được ưu   tiên hàng đầu đối với học sinh tiểu học, song đối với học sinh tiểu học nghe và  nói tiếng Việt (tiếng mẹ đẻ) chuẩn xác và truyền cảm đã là một vấn đề  không  dễ nói gì đến việc nói tiếng Anh. Bởi lẽ đó, tôi luôn tìm tòi và thực hiện tốt vai   trò và nhiệm vụ của mình với mục tiêu; giảng dạy những tiết học phong phú và  đa dạng và theo dõi quá trình học sinh trong lớp học, giúp các em không chỉ  học  tiếng Anh cho vui mà và cảm thấy yêu thích việc học ngoại ngữ mà còn là một  bước khởi đầu vững chắc, tạo nền móng cho các em trong việc học ngoại ngữ  sau này. 1/ 17
  2. Để  giúp các em vượt qua trở  ngại này tôi chọn đề  tài   " Phát triển kỹ   năng nói Tiếng Anh cho học sinh lớp 3, 4, 5”, nhằm giúp các em học sinh tự tin  chủ                     động tiếp cận, làm quen với những kỹ thuật và phương pháp   dạy và học. Ở độ tuổi này các em đang phát triển tư duy thông qua các kỹ năng   học, quan sát, lắng nghe, bắt chước và tự mình thử  nghiệm.Với quan điểm như  vậy chúng tôi xây dựng chương trình phát triển nâng cao năng lực giao tiếp tiếng   Anh cho trẻ lớp 3, lớp 4, lớp 5 mặc dù về mặt tính cách và tâm lý học sinh ở độ  tuổi này các em vẫn thích chơi nhưng đã bắt đầu phát triển trí tưởng tượng trong  trò chơi. Đề tài này được xây dựng dựa trên những hoạt động học và chơi quen  thuộc với trẻ. Đó là luyện nói chuyện bằng tiếng Anh (Talk), luyện cách phát  âm, ngữ điệu, giọng điệu, và đặc biệt trẻ tự sản sinh ngôn ngữ thông qua “Free  talk/Let’s talk” dưới các dạng hoạt động khác nhau do giáo viên lựa chọn sao cho  phù hợp với từng đối tượng học sinh, những hoạt động đó chúng ta cùng tham  khảo trong đề tài này. 2. Mục đích nghiên cứu:  Xác định được nguyên nhân vì sao học sinh tiểu học chưa thực sự tự tin,  các em còn e ngại và rụt rè vào việc phát âm hay nói tiếng Anh, từ đó rút ra bài   học kinh nghiệm và đề xuất các biện pháp giúp các em học sinh trường tôi tự tin,   chủ động tiếp cận và cảm thấy yêu thích môn hoc mà còn là một bước khởi đầu  vững chắc, tạo nền móng cho các em trong việc học ngoại ngữ sau này. 3. Nội dung nghiên cứu: + Nghiên cứu cơ sở lý luận của việc giảng dạy tiếng Anh trong trường tiểu học. + Phân tích thực trạng kỹ năng nói tiếng Anh trường tôi các năm học trước. + Rút ra bài học kinh nghiệm và đề  xuất ý kiến cải tiến nhằm xây dựng thói  quen học tiếng Anh cho học sinh. + Tổ chức thực nghiệm các biện pháp đổi mới. 4. Đối tượng nghiên cứu và Khách thể nghiên cứu:  ­ Đối tượng nghiên cứu: biện pháp giúp học sinh tiểu học yêu thích môn học  tiếng Anh. ­ Khách thể nghiên cứu: học sinh tiểu học từ lớp 3, 4, 5 của trường tôi. 5. Thành phần tham gia nghiên cứu: 2/ 17
  3. ­ Phạm vi nghiên cứu: nghiên cứu tình hình học tiếng Anh là đối tượng học sinh   của trường tôi. ­ Đối tượng điều tra, khảo sát, thực nghiệm: + Đối tượng điều tra, khảo sát: Học sinh lớp 3C, 4A trường tôi. + Đối tượng thực nghiệm: Học sinh trường tiểu học nơi tôi công tác.  6. Phương pháp nghiên cứu: + Nghiên cứu lý luận: Thu thập, nghiên cứu các văn bản chỉ đạo về giảng  dạy tiếng Anh tiểu học, về  tâm lý học sinh tiểu học và nội dung lý luận liên  quan để  xây dựng cơ  sở  lý luận và các biện pháp giúp học sinh trường tôi ham  thích môn học và nói Tiếng Anh tự tin. + Phương pháp điều tra, thống kê, phỏng vấn, quan sát, tư vấn, phân tích,  tổng hợp, so sánh nhằm đánh giá kết quả thực hiện đề tài nghiên cứu. + Phương pháp thực nghiệm: Thử  nghiệm các hình thức, biện pháp tổ  chức hoạt động tại trường tôi. 7. Kế hoạch nghiên cứu: từ tháng 9 năm 2019 đến tháng 5 năm 2020. TT Thời gian Nội dung Biện pháp 1 điều   tra,   khảo   sát   thực  thu   thập   số   liệu,   nghiên  Tháng 9/2019 trạng, nghiên cứu cơ  sở  cứu,   phân   tích   nguyên  lý luận, cơ sở thực tiễn. nhân, đề  ra biện pháp đổi  mới. 2 Từ   tháng   10/2019  Thực   nghiệm   các   biện  Tự   nghiên   cứu,   phối   hợp  đến tháng 5/2020 pháp đổi mới thực   hiện   các   biện   pháp,  phân tích, so sánh, đánh giá  kết quả thực hiện. 3 Tháng 5/2020 Thực   hiện   hoàn   thành  Tự   viết   và   hoàn   thành  SKKN SKKN. 3/ 17
  4. PHẦN II: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ  1. Cơ sở lý luận 1.1. Cơ sở về tâm lý của học sinh tiểu học:  Ngày nay, hầu hết trẻ em trên cả  nước từ  thành thị  đến nông thôn, phần  lớn đều được làm quen với bộ môn tiếng Anh từ rất sớm, thông qua việc giảng   dạy trong các trường phổ thông. Bốn kỹ năng: nghe, nói, đọc, viết được diễn ra   một cách đồng thời trong quá trình dạy và học ngoại ngữ. Đối với học sinh lớp  3, lớp 4 các em mới bước đầu làm quen chương trình tiếng Anh nên các em còn  hạn chế trong cách giao tiếp, cho dù các em vẫn hiểu bài, nắm được cấu trúc câu  nhưng muốn diễn đạt ý còn ngại ngùng, lúng túng. Qua nhiều năm giảng dạy và   tích lũy kinh nghiệm của bản thân, học hỏi đồng nghiệp và được học tập ở các   lớp bồi dưỡng phương pháp dạy tiếng Anh cho trẻ, tôi đã vận dụng một số  phương pháp rèn kỹ  năng nói cho học sinh lớp 3, lớp 4 nhằm tạo cho các em  hứng thú và tự tin trong giao tiếp một cách hiệu quả, tôi xin được chia sẻ với các  bạn đồng nghiệp.  Học tiếng Anh cần là một niềm vui cho mỗi trẻ  em! Hãy truyền tải các  nội dung ngôn ngữ khô khan sang những tiết học phong phú và đa dạng, song bất  kỳ  đối tượng và hình thức nào thì việc học tiếng Anh theo bốn kỹ  năng: nghe,  nói, đọc, viết vẫn được duy trì và phát triển nhằm nâng cao năng lực tiếng Anh,   nhưng với học sinh tiểu học thì chú trọng kỹ  năng nghe, nói và phát âm. Vậy,  học sinh có đủ  tự  tin nói tiếng Anh trong đời sống hàng ngày không? Mục đích   cuối cùng của người học cũng như người dạy là tiến tới khả năng giao tiếp tốt,   để  đạt được mục đích này, đòi hỏi cả  người dạy và người học nắm bắt được  4/ 17
  5. những nguyên tắc, kỹ thuật và phương pháp mới, phải biết vận dụng linh hoạt  vào từng tình huống và ngữ  cảnh cụ thể. Hơn thế nữa nói tiếng Anh cũng giống như tiếng Việt, nó cũng có   nhịp điệu, ngữ  điệu, khi nào lên giọng, khi nào xuống giọng, nói cách khác nó  giống như nốt nhạc vậy, cũng đòi hỏi người học có một chút năng khiếu. 1.2. Những định hướng đổi mới của tiếng Anh tiểu học Phương pháp dạy học ngoại ngữ  chọn giao tiếp là phương hướng chủ  đạo (comunicative competences) là đơn vị  dạy học cơ  bản, coi giao tiếp vừa là   mục đích vừa là phương tiện dạy học. Phương pháp này sẽ phát huy tốt nhất vai  trò chủ  thể, chủ  động, tích cực của học sinh, học sinh cần phải được trang bị  cách thức học tiếng Anh chủ yếu để đánh giá kết quả học tập của học sinh, kết   quả năng lực giao tiếp, năng lực ứng xử bằng ngôn ngữ tiếng Anh. Thực tế  ngay từ  năm 1994, Bộ  Giáo dục ­ Đào tạo đã có quyết định số  2957/GD­ĐT về  mục tiêu và kế  hoạch giáo dục tiểu học, trong đó quy định rõ  tiếng Anh là một trong các “môn học tự chọn” ở các trường tiểu học, bắt đầu từ  lớp 3. Căn cứ  Biên bản họp Hội đồng thẩm định môn Tiếng Anh và Tin học  ở   bậc   tiểu   học;   (Ban   hành   kèm   theo   Quyết   định   số   50/2003/QĐ­BGDĐT   ngày   30/10/2003 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo)  Bên cạnh việc bám sát mục tiêu chung của bậc tiểu học, môn tiếng Anh với tư  cách là môn học tự chọn ở trường tiểu học nhằm:  Bước đầu hình thành cho học sinh các kỹ năng giao tiếp cơ bản, đơn giản   bằng tiếng Anh trong giao tiếp hàng ngày  ở  nhà trường và gia đình: kỹ  năng  nghe, nói, đọc, viết; trong đó nhấn mạnh hai kỹ năng nghe và nói.  Cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản, đơn giản về  tiếng Anh,  giúp học sinh bước đầu có những hiểu biết về  đất nước, con người, nền văn  hóa của một số nước nói tiếng Anh. Chương trình tự  chọn tiếng Anh tiểu học  được xây dựng theo  đường   hướng giao tiếp lấy chủ  điểm làm cơ  sở  xây dựng nội dung dạy học. Chương   trình được xây dựng theo các nguyên tắc cơ bản sau: 2. Cơ sở thực tiễn 2.1. Thực trạng  * Đặc điểm tình hình chung 5/ 17
  6. Hoạt động dạy học phải coi học sinh là chủ  thể  của quá trình học tập và giáo   viên là người tổ  chức, hướng dẫn, điều chỉnh hoạt động học của học sinh, nội   dung dạy học phải bám sát mục tiêu và nội dung chương trình. Các hoạt động   dạy học phải đa dạng, phong phú; phải kết hợp hài hoà các phương pháp, kỹ  thuật dạy học; sử  dụng tốt chương trình, sách giáo khoa, tài liệu tham khảo và  các phương tiện dạy học trong hoạt động dạy học. Dạy học cần được tổ  chức   thông qua các hình thức: học tập, vui chơi, hoạt động cá nhân, hoạt động theo  cặp, hoạt động theo nhóm và sử dụng hợp lý, có hiệu quả.   Trong 4 kỹ  năng nghe – nói ­ đọc ­ viết thì kỹ  năng nghe ­ nói được chú   trọng hơn trong việc dạy tiếng Anh  ở  trường tiểu học. Vậy muốn nói tốt, các  em cần phải có một vốn từ  phong phú, bởi ngôn ngữ  là công cụ  của giao tiếp.  Trên cơ sở thực tế, học sinh tiểu học nói chung và học sinh tiểu học ở nông thôn  nói riêng, đều còn yếu cả  bốn kỹ  năng: nghe, nói, đọc, viết do một số  nguyên   nhân: * Thực trạng về giáo viên giảng dạy: Bản thân tôi là một giáo viên dạy tiếng Anh có trình độ đại học sư phạm,   được học các lớp bồi dưỡng về năng lực và phương pháp giảng dạy tiếng Anh   bậc tiểu học theo đề  án Ngoại Ngữ  2020; ham học hỏi, có tinh thần tự  học, tự  bồi dưỡng; tâm huyết với nghề, hăng hái nhiệt tình, có tinh thần trách nhiệm cao  trong công tác được giao. Trong quá trình giảng dạy tôi cũng đã cố gắng hết sức  mình trong việc thực hiện nhiệm vụ của người giáo viên, góp phần đáng kể vào  chất lượng dạy và học của thầy và trò trường tôi, có nhiều học sinh đạt giải cao   trong các kỳ  thi Tiếng Anh Internet, Giao lưu Olympic Tiếng Anh c ấp huy ện   những năm học gần đây.  2.2. Những thuận lợi và khó khăn khi luyện nói tiếng Anh cho học sinh tiểu   học. * Thuận lợi:  Học sinh tiểu học với bản chất hồn nhiên, sẵn sàng tham gia vào các hoạt   động của giờ học khi đã bị cuốn hút vào các hoạt động.  Học sinh được làm quen với công nghệ thông tin, các em sớm được tiếp  xúc với máy tính, mạng Internet và thu nhận được nhiều thông tin từ đây.  Sách giáo khoa được biên soạn có nhiều kênh hình đã giúp các em dễ nắm  bắt và hiểu bài nhanh, nhiều trò chơi, bài chant bài hát để học sinh nắm được kỹ  năng giao tiếp. 6/ 17
  7.  Giáo viên được học tập, bồi dưỡng, trao đổi kinh nghiệm từ đồng nghiệp  qua các buổi tập huấn, hội giảng, chuyên đề… Đưa ứng dụng công nghệ  thông  tin vào dạy học, đổi mới phương pháp giảng dạy theo xu hướng tiếng Anh giao  tiếp làm chủ đạo.  Được sự quan tâm, hỗ trợ của Ban Giám hiệu nhà trường, tổ chuyên môn  và đồng nghiệp. * Khó khăn:          Tiếng Anh là một môn học mới và rất khó đối với học sinh tiểu học, đặc   biệt là đối với học sinh lớp 3, lớp 4 học sinh ngoại thành, mọi điều kiện tiếp xúc  và gần gũi thực tế xung quanh còn hạn chế. Bên cạnh đó t iếng Anh là ngôn ngữ  có nhiều âm gió nên học sinh rất ngại phát âm, học sinh sợ mắc lỗi khi phát âm. Phần lớn các em học sinh chưa chú tâm đầu tư  học tập môn tiếng Anh,  các em chuẩn bị bài còn sơ sài, trong các giờ học, đa số các em thường thụ động,   dè dặt, thiếu sự linh hoạt, ngại đọc ­ nói tiếng Anh và ít tham gia phát biểu để  tìm hiểu bài học. Hoạt động luyện nói thường được thực hiện theo cặp, nhóm nên lớp học  dễ ồn ào, mất trật tự, lớp đông học sinh, giáo viên không bao quát hết được tất  cả học sinh trng lớp nên một số em cá biệt lợi dụng cơ hội nói chuyện riêng. Nhiều phụ  huynh học sinh chưa thực sự quan tâm tới bộ  môn tiếng Anh,  vẫn coi tiếng Anh là môn phụ (môn học tự chọn). Trang thiết bị cho môn học ở nhiều địa phương chưa đáp ứng đầy đủ nên  việc dạy và học chưa hiệu quả. * Đề xuất giải pháp    Trăn trở  trước thực trạng nói tiếng Anh như  trên và căn cứ  vào kết quả  điều tra, khảo sát đối tượng học sinh trong trường, thực trạng hoạt động học tập   của học   sinh, những nguyên nhân chủ  quan và khách quan, cùng với sự  chuẩn hóa kiến   thức, tôi thấy muốn nâng cao chất lượng, hiệu quả  thì phải quan tâm học sinh  nhằm lôi cuốn các em thích thú, đam mê đến với môn học và tôi đã có ý tưởng  thực hiện đề tài này với những biện pháp, giải pháp sau. (Phụ lục 1) 3. Một số các biện pháp giúp học sinh phát triển kỹ năng nói tiếng Anh: Biện pháp 1: Điều tra khả năng nói của học sinh. (Phụ lục 2) Rào cản lớn đối với học sinh trong việc nói tiếng Anh là dè dặt, thiếu tự  tin khi đứng trước đám đông, trước lớp. Xuất phát từ nhược điểm này mà các em  7/ 17
  8. có mặc cảm, không thích học tiếng Anh cho nên chúng ta phải tìm mọi biện   pháp khích lệ các em, tạo tiền đề cho các em, làm cho các em cảm thấy yêu thích  môn học này hơn. Việc học tiếng Anh sẽ giúp các em học tốt các môn học khác,  có cơ hội tiếp cận với khoa học công nghệ mới một cách dễ dàng. Ví dụ:  Nếu biết tiếng Anh, các em có thể học và sử  dụng máy tính thành thạo   hơn, dễ dàng tra cứu tài liệu trên Internet. Song song với việc khuyến khích học sinh học tiếng Anh, chúng ta có thể  tuyên truyền tới phụ huynh để cho họ thấy rằng ngày nay việc học tiếng Anh là   rất quan trọng, nó là tiền đề phát triển cho tương lai con em họ trong xu hướng   hội nhập, thời đại công nghiệp hóa, hiện đại hóa, khoa học kỹ thuật công nghệ  phát triển … Trong phần nội dung này tôi sẽ trình bày cụ thể những kinh nghiệm  giảng dạy của mình.    Biện pháp 2: Những kinh nghiệm cụ thể: 2.1.  Sử  dụng tốt tính linh hoạt các kỹ  thuật trong việc phát triển kỹ  năng nói   tiếng Anh. Học sinh cần được luyện tập kết hợp các kỹ năng: nghe ­ nói ­ đọc ­ viết,  các yếu tố  ngôn ngữ  như: ngữ  âm, từ  vựng, ngữ  pháp là phương tiện để  hình   thành các kỹ  năng giao tiếp. Các hoạt động giao tiếp cần được tiến hành thông  qua các chủ  điểm, tình huống giao tiếp hấp dẫn cả  về  nội dung và hình thức.   Học sinh tham gia hoạt động giao tiếp tích cực, chủ động, sáng tạo và có ý thức   dưới sự hướng dẫn của giáo viên. 2.2. Tập cho học sinh cách phản xạ nhanh bằng tiếng Anh  Đầu năm học, đối với học sinh lớp 3, lớp 4 ở trường tôi và đặc biệt học  sinh vùng ngoại thành, các em chưa có vốn từ vựng, nếu có thì rất hạn chế. Mặc  dù vậy        giáo   viên   chúng   tôi   vẫn   phải   tăng   cường nói tiếng Anh trên lớp   (Classroom  Language), thường xuyên sử dụng các thức mệnh lệnh đơn giản (The Imperative  Mood), áp dụng những câu mệnh lệnh, những câu hỏi ngắn theo bài học kết hợp   với đông tác, điệu bộ (Body Language).  Ví dụ:    Yes/No ­ Questions:       Are you ready?  Yes or No?     Let’s start?     Is this a book?               Wh ­ Questions:         What’s this?                                                    What’s your name? 8/ 17
  9.                                                    What colour is it?                                                    Who’s this/that?  Thông qua hoạt động này, giáo viên phần nào đánh giá sơ lược được học sinh và  phân loại đối tượng học sinh, nhìn chung, lúc đầu học sinh còn ngơ ngác nhưng   dần dần qua các tiết học trên lớp, các em cũng hiểu và làm theo đúng mệnh lệnh,   yêu cầu của giáo viên. Sau khi các em đã học được mẫu câu mới thì giáo viên  nên sử  dụng thường xuyên trong lớp học để  các em có điều kiện phản xạ  tốt,   hỏi những câu hỏi về bản thân:                    Example: What’s your name?                                      How are you?      What about you? Những câu hỏi về  đồ  vật, bằng cách dùng những giáo cụ  trực quan có  ở  trong   lớp (bàn, ghế, bảng) hoặc giáo viên chuẩn bị  sẵn như  (thước, bút, vở, …) một  số thẻ từ về các chủ đề môn học (word cards). Example: What’s this?                                       What are these?                                       What colour is it? What animals do you like? Tập cho học sinh không nên hiểu ngầm Tiếng Việt rồi mới dịch sang Tiếng Anh , giáo viên cũng không nên dịch mẫu câu bằng tiếng Việt, mà phải hướng cho  các em hiểu nghĩa theo từng tình huống, từng văn phong cụ  thể  hay bằng điệu  bộ cơ thể (body language). Example:    I am Mai.                                   or:  My name’s Mai.                                         I am in classroom now.  I like monkeys         2.3. Rèn luyện cách phát âm cho học sinh (Pronunciation)   Trong quá trình giao tiếp bằng tiếng Anh muốn người khác hiểu nội dung  mình nói gì, học sinh cần phải phát âm từ và câu một cách rõ ràng. Vì vậy, khi  giớithiệu ngữ liệuhay mẫu câu giáo viên cần phải đọc chuẩn về cả ngữ âm, ng ữ điệu câu, trọng âm để các em bắt chước  vì đây là yếu tố cơ bản trong việc dạy nghe, nói. Cho dù không thể  nói chuẩn như người bản xứ nói tiếng Anh nhưng để có một  kết quả phát âm chuẩn xác nhất thì các em nên chịu khó nghe băng đĩa của người  bản địa. Giáo viên nên kiên trì luyện phát âm cho học sinh để tạo cho các em có  thói quen phát âm đúng, bởi lẽ các em mới bước đầu học tiếng Anh nhưng phát  9/ 17
  10. âm không đúng sẽ thành thói quen không tốt cho quá trình học và giao tiếp sau  này. Cần chú ý luyện tập cho học sinh tập phát âm các từ có âm cuối như:    bag /bæg/  book /buk/  kite /kait/ Tập cho học sinh có thói quen đọc nối:            Example:    stand­up /’stænd^p/  look­at /lukæt/                                  It’s a pencil. /itsəpensl/                                It is a desk. /itizədesk/  She’s a teacher. / ʃizəti: tʃər / Đối với hình thức số nhiều cần luyện tập cho học sinh cách phát âm trong  việc nhấn mạnh đuôi số nhiều: + Phát âm /s/ đứng sau phụ âm vô thanh /t/, /p/, /k/, /s/, /f/, / θ/                  Ví dụ: cassettes, books, …. + Phát âm là /z/ khi đứng sau nguyên âm hoặc phụ âm hữu thanh                   /b/, /d/, /g/, /v/, / ð/, /m/, /n/, /l/, /r/.                 Ví dụ:  crayons, tables, markers ...  + Phát âm là /iz/ khi đứng sau những phụ âm rít cụ thể các phụ âm như:  /z/, /s/, / ʤ/, / tʃ /, / ʃ /, /ʓ/                 Ví dụ:  cases, oranges, nurses, ... 2.4. Rèn cho học sinh sử dụng ngữ điệu (Intonation)  Ngữ điệu (Intonation) được hiểu đơn giản là sự lên và xuống của giọng n ói, người nghe có thể hiểu nhầm hoặc hiểu sai hoàn toàn ý của người nói nếu như  người nói sử dụng sai ngữ điệu, bởi ngữ điệu được so sánh như là hồn của câu.    *Ngữ điệu xuống:           Được thể hiện bằng cách hạ âm điệu giọng nói xuống thấp ở cuối câu trong các  trường hợp sau:   ­ Dùng trong câu chào hỏi: (greeting)                                               Good morning!                                                Good afternoon!  ­ Dùng trong câu cầu khiến: (request) 10/ 17
  11.               Bring me my hat!                                               Come here!   ­ Dùng trong câu hỏi bắt đầu bằng từ để hỏi (Wh­ questions và how)  (who, whose, whom, which, what, when, where, why, how)                                              How are you?                                              What are these?   ­ Dùng trong yêu cầu hoặc mệnh lệnh:                                              Stand up, please!                                                  Open your book   ­ Ngoài ra ngữ điệu còn cần phải nhấn mạnh trong các từ trong một câu:   Why do you want to go to the ‘book shop? *Ngữ điệu lên:  ­ Dùng trong các câu hỏi nghi vấn “có…không” (Yes/No­Questions)                                             Are you a boy   or a girl?                                             Is this a book?  ­ Dùng trong câu xác định nhưng hàm ý câu hỏi:                                              He is flying kites?                                             You are Mai?  2.5. Phát triển kỹ năng nói thông qua hội thoại có ngữ liệu mới (Conversation) Giáo viên đưa ra tiêu đề để học sinh luyện tập,   cung cấp một số từ gợi ý, kiến  thức nền,   cùng   với   một   số   tranh   ảnh   (pictures),   đồ   vật   thật   (visual   aids)   sau  đó giáo viên dẫn dắt gợi mở  rồi bật băng đĩa cho học sinh nghe. Học sinh vừa  quan sát vừa đọc theo. Khi học sinh đã làm quen giáo viên rút dần giành cơ  hội  nói cho học sinh: Giáo viên ­ cả lớp: (Teacher ­ Whole class)      Trong hoạt động này giáo viên đóng vai trò rất quan trọng, dẫn dắt gợi mở  để  giúp học sinh nắm được ngữ liệu mới, hiểu được mục tiêu của tiết học  Giáo viên­học sinh: (Teacher ­ Students)                     Khi học sinh đã nắm được ngữ  liệu giáo viên sẽ  đưa ngữ  liệu vào tình huống   hội thoại cụ thể trong sách giáo khoa.  (Ex: Lesson 1: 1. Look, listen and repeat) Giáo viên có thể  đặt một vài câu hỏi   nhằm kích thích lớp học sôi nổi hơn.      Ví dụ:                           How many pictures are there in part 1? 11/ 17
  12.    How many people are there?  Who are they?                                           What are they doing?                                           What are they talking about? Học sinh­ học sinh: (Student ­ Student). Các em sẽ  hoạt động theo cặp đôi (pairwork) đóng vai các nhân vật đọc lời   thoại,  Trong phần này chúng ta áp dụng kỹ  thuật (Methods­ MAT > M = Model, A =   action, T = talk) để hướng học sinh làm quen và phát triển sang phần tiếp theo.  2.6. Luyện nói thông qua mẫu câu. (Point and say) Chúng ta vẫn tiếp tục áp dụng phương pháp (MAT) để  phát triển kỹ  năng nói  của học sinh bằng cách thay thế ngữ liệu đã học vào mẫu câu (model sentences). Giáo viên cho học sinh ôn lại ngữ liệu mới và mẫu câu, sau đó giáo viên làm  mẫu hoặc gọi một cặp học sinh xuất sắc lên làm mẫu trước lớp. Example: Unit 5 – Lesson 1, 2 – Point and say (Tiếng Anh 4)    Cặp 1:                                                         Cặp 2:         St 1:  What can you do?                             St 3:  What can you do?              St 2:  I can skip.                                         St 4:   I can skate. Hoạt động cặp đôi (Pairwork) vẫn được tiếp tục duy trì, để  cho hoạt sôi nổi   hơn, mở rộng hơn, giáo viên chủ động linh hoạt yêu cầu học sinh hoán đổi giữa  các cặp. Ví dụ:    Cặp 1:  St 1         St 2                    Cặp 2:  St 3            St 4                                     “Học thầy không tày học bạn” Áp dụng kỹ thuật này, học sinh hoạt động hiệu quả hơn, chúng học hỏi từ bạn   bè và cảm thấy tự tin, thoải mái hơn, những học sinh trung bình và yếu có cơ hội   nói Tiếng Anh nhiều hơn nhờ  sự  giúp đỡ  của bạn, chúng tự  sửa sai cho nhau,  giáo viên bao quát lớp và sửa lỗi cho học sinh.      2.7. Luyện nói mở rộng (Let’s Talk – GROUP WORK).  Chúng ta sử dụng kỹ thuật TPR (T = total, P = Physical, R = Response k ết   hợp vói kỹ thuật sử dụng sơ đồ tư  duy để  hoàn thiện việc luyện nói tiếng Anh.  Tùy theo mỗi bài học mà chúng ta áp dụng các phương pháp dạy học khác nhau.  12/ 17
  13. Giáo viên dựa vào tình hình cụ  thể  của học sinh, cũng như  lớp học mà tổ  chức   phân nhóm, có thể  chia lớp theo từng nhóm mà không xếp học sinh ngồi theo   bàn, vừa dễ phân nhóm đối tượng học sinh, vừa làm mới lớp học, thay đổi không   khí lớp học, tạo động lực thúc đẩy các em tích cực học tập. Sự phân nhóm này  rất phù hợp với phương pháp sử  dụng sơ  đồ  tư  duy vào luyện nói tiếng Anh,  song không phải bài học nào, lớp học nào cũng áp dụng được phương pháp này   vì nó đòi hỏi rất nhiều thời gian và năng lực của học sinh. Ở độ tuổi này, trẻ bắt  đầu phát triển khả năng tư duy và nắm bắt thông tin rất nhanh, bắt chước cũng   giỏi, nhưng cũng dễ bị rơi vào tình trạng mê chơi.  2.8. Luyện nói thông qua sơ đồ tư duy (Mind Map) (Phụ luc 3) Với phương châm “chơi mà học, học mà chơi” các em được làm quen với những  phương pháp học mới thông qua các chủ đề, chủ điểm và đặc biệt các em được  làm chủ kiến thức của mình, giúp các em phản ứng nói tiếng Anh nhanh và logic  hơn, giáo viên hướng dẫn các em lựa chọn topic sao cho phù hợp, đồng thời  hướng dẫn các em cách vẽ và cách nói theo sơ đồ tư duy(Mind Map). Phương pháp này giúp các em học sinh phát triển kỹ năng tư duy logic, xây   dựng vốn từ  vựng, Vận dụng và phát triển các kỹ  năng một cách nhanh chóng.   Giúp học sinh luôn hứng thú trong các giờ  học, hiểu bài nhanh, ghi nhớ  lâu dài,  từ đó tự tin hơn trong giao tiếp. Phương pháp này vận dụng được tất cả các lớp. 2.9. Phát triển kỹ năng nói thông qua các bài hát (Songs), bài Chants và trò chơi   (Games). Sử dụng Chants và Song là một trong những hoạt động tích cực trong việc  giảng dạy Tiếng Anh  ở  bậc tiểu học, Chants và Songs cung cấp và bổ  trợ  sự  tiếp thu ngôn ngữ  nhanh chóng; giúp các em nhớ  kiến thức, cải thiện việc phát  âm, ngữ  điệu, tự  tin và năng động khi tham gia hoạt động học tập cũng như  trong các phần nói trong bài. Bài Chants đa số  thể  hiện âm tiết mạnh, giúp học   sinh giữ được nhịp và nhấn mạnh tự nhiên, thông thường khi mở bài Chants tất  cả các em học sinh đều đã nhún vai bật, vỗ tay theo phản xạ  “one – two – three   – four” Bên cạnh Chants, Songs là Games; một biện pháp vô cùng hiệu quả và hữu  ích, nó tạo không khí học tập vui nhộn cũng như  lôi cuốn học sinh vào bài học,  góp phần cải thiện khả năng tiếp thu kiến thức và rèn luyện kỹ năng nói cho các  em. 13/ 17
  14. Games là một hoạt động mà các em học sinh hứng thú nhất, mỗi trò chơi  có một nội dung phong phú riêng. Thông qua các trò chơi các em sẽ  lĩnh hội   những kiến thức và khả  năng vận dụng ngôn ngữ  trong giao tiếp một cách dễ  dàng, củng cố, khắc sâu kiến thức một cách vững chắc, tạo cho các em niềm say   mê, hứng thú trong học tập. Khi chúng ta đưa ra được các trò chơi trong giờ học  tiếng Anh một cách thường xuyên, khoa học thì chắc chắn chất lượng dạy học   môn tiếng Anh sẽ ngày càng được cải thiện hơn. Tôi đã áp dụng một số trò chơi  vào các thời gian trong bài học trong một tiết dạy tiếng Anh cho học sinh lớp 3,   lớp 4 và lớp 5 trường tôi như: (phần vào bài ­ Warm up, sau phần học từ mới ­   New words, sau phần luyện mẫu câu ­ Model sentences, trong phần Talk, Let’s  Talk hay phần củng cố ­ Prduction …) tôi thấy sử dụng trò chơi trong giờ luyện  nói đã thôi thúc các em và tạo cho các em sự  tự  tin và đua nhau nói tiếng Anh   trong giờ học. (Phụ lục 3) 3. Kết quả đạt được của thực nghiệm khoa học:  Có thể thấy việc áp dụng áp đúng đắn và linh hoạt các phương pháp và kỹ  thuật luyện nói tiếng Anh như trên cho học sinh tiểu học không chỉ mang lại kết   quả mỹ mãn cho người dạy lẫn người học, mà nó còn tác động rất lớn đến môi  trường học tập. Sau một thời gian áp dụng các phương pháp trên, tôi nhận thấy  kết quả học tập của học sinh có nhiều tiến bộ, lớp học sôi nổi, các em thích thú   giờ học ngoại ngữ hơn, các em nói tiếng Anh tự nhiên hơn, phá vỡ được rào cản  giữa học sinh giỏi ­ khá và học sinh trung bình ­ yếu, tất cả các em đều có cơ hội   được tham gia hoạt động nói tiếng Anh. Qua khảo sát chất lượng sau khi áp dụng đề tài này tôi nhận ra rằng học  sinh có chuyển biến rõ rệt. Nhìn chung học sinh rất yêu thích môn học hơn. Hiểu  bài và nắm bài tốt. Việc rèn luyện bốn kỹ năng ở mức độ khá tốt. Khả năng vận  dụng ngôn ngữ khá. Ngay từ  đầu năm học, tôi đã phát phiếu điều tra nhu cầu học tiếng Anh   của học sinh lớp 3, lớp 4. (Phuc lục 1) Năm học 2019 ­2020 tôi đưa vào áp dụng và khảo sát thấy: 95% học sinh  đã nói được tiếng Anh qua các giờ học. (Phụ lục 2) Căn cứ vào số lượng điều tra tôi thấy: Số học sinh thích tiếng Anh là 55/108 em  = 51,0 %. Trong đó, học sinh lớp 3C chỉ có 26/54 em thích học tiếng Anh chiếm  tỉ lệ 13%, có thể do các em chưa được học tiếng Anh; lớp 4 thì các em thích học  14/ 17
  15. nhiều hơn vì ngôn ngữ của các em đang phát triển, các em học những gì mà mình  có.  Với kết quả như vậy, các em không chỉ phát triển rèn luyện trong kỹ năng  nói mà nó còn tạo cho các em tính chuyên cần, siêng năng góp phần thúc đẩy phát  triển các kỹ  năng khác như: kỹ  năng nghe, đọc và viết để  việc học tiếng Anh  của các em ngày càng hoàn thiện hơn, các em có đủ điều kiện tham gia các cuộc   thi các cấp và đem lại thành tích đáng kể  cho nhà trường. Cụ  thể  trong những   năm học vừa qua PGD huyện tôi phối kết hợp với trung tâm Bình Minh tổ chức  các cuộc thi  “Giao lưu Olympic Tiếng Anh”  và chương trình  “Em học giỏi   Tiếng Anh” cho học sinh khối 4, 5, học sinh trường tôi luôn đạt kết quả  đáng  khích lệ, các em đã được phần thưởng cao của ban tổ  chức. Trường đã từng  được ban tổ  chức trao giấy chứng nhận là trường có nhiều học sinh xuất sắc   trong các kì thi. PHẦN 3. KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ 1. Kết luận. Qua quá trình thực nghiệm đề tài “Giúp học sinh tiểu học phát triển kỹ  năng nói tiếng Anh”, nhằm đổi mới và nâng cao hiệu quả, chất lượng học tập,  điều quan trọng là để xây dựng cho học sinh tiểu học có kỹ năng giao tiếp tiếng  Anh tốt chìa khóa để  mở  kho tàng tri thức và xây dựng nhân cách cho học sinh  (một điều rất quan trọng và cần thiết trong tình hình đất nước đang trên con   đường hội nhập).  Với sự sử dụng linh hoạt các phương pháp, kỹ thuật vào dạy học nói trên,  đã tạo được nhiều cơ  hội luyện tập và sử  dụng ngoại ngữ  một cách sáng tạo   trong các tình huống gần gũi với đời sống thật của học sinh, duy trì được sự chú   ý của học sinh trong giờ học, làm cho học sinh bạo dạn hơn trong giao tiếp bằng   tiếng Anh. Bên cạnh đó, những học sinh yếu kém cũng bị  cuốn hút theo không  khí học tập chung của lớp, vượt qua nhược điểm tính cách của bản thân, để  mạnh dạn hơn và học tốt hơn, những học sinh yếu kém có cơ  hội được luyện  tập, học hỏi và giúp đỡ lẫn nhau nhiều hơn. Trong quá trình dạy học, giáo viên giữ vai trò là người hướng dẫn, tổ chức  thực hiện; học sinh đóng vai trò chủ động trong quá trình học tập, do đó cần phát  huy cao độ tính tích cực của học sinh trong luyện tập thực hành. Muốn thực hiện  được, cá nhân học sinh phải tích cực và tự  giác tham gia thực hành, không sợ  15/ 17
  16. mắc lỗi, và cần lưu ý rằng độ lưu loát, trôi chảy (fluency) trong giai đoạn này là  rất quan trọng. Điều kiện tối thiểu để  học sinh thực hành kỹ  năng ngôn ngữ  là   mỗi lớp học không quá đông, đầy đủ  thiết bị  nghe nhìn, băng/đĩa CD, tranh tình  huống. Việc kiểm tra đánh giá kết quả  học tập nên nhấn mạnh vào 4 kỹ  năng,  và một phần nhỏ  kiến thức ngôn ngữ. Kiểm tra kỹ  năng ngôn ngữ  luôn luôn  được ưu tiên trong bất kỳ hình thức nào.      Muốn đạt kết quả cao trong việc giảng dạy Tiếng Anh cho học sinh tiểu   học trước hết giáo viên phải có trách nhiệm, có lòng yêu nghề, nhiệt tình trong  công việc. Phải xác định rõ mục đích yêu cầu trọng tâm của bài dạy, biết sử  dụng và kết hợp linh hoạt sáng tạo các phương pháp dạy học, phù hợp với đặc   trưng của bộ môn và đối tượng học sinh. Giáo viên khai thác, kết hợp sử  dụng   hiệu quả  các phương tiện, thiết bị  dạy học như  máy chiếu, tranh  ảnh, thẻ  từ,   mạng internet, và làm nhiều đồ dùng dạy học có tính thẩm mỹ cao giúp học sinh  hứng thú tham gia vào bài học.        2. Khuyến nghị 2.1. Đối với giáo viên: Tạo cho các em có một tình yêu, đam mê với môn tiếng Anh cũng như  nhận thức được tầm quan trọng của tiếng Anh trong cuộc sống. Thường xuyên  kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của học sinh cũng như khen ngợi, động viên  nhắc nhở kịp thời. Không ngừng đầu tư, mở rộng kiến thức và đổi mới phương   pháp dạy học. Ngoài ra giáo viên cũng nên thường xuyên dự giờ lẫn nhau trên cơ  sở đó để góp ý và học hỏi kinh nghiệm. 2.2. Đối với cấp trên: Xây dựng phòng chức năng có sẵn máy chiếu dành cho việc dạy và học tiếng  Anh để cô trò được tiếp cận công nghệ thông tin. Cung cấp thêm đồ  dùng dạy học phù hợp với nội dung và chủ  đề  của từng  khối lớp.   ­ Tạo điều kiện thuận lợi để giáo viên tiếng Anh tiểu học tham gia vào các lớp tập  huấn nhằm giúp giáo viên học hỏi được kinh nghiệm từ đồng nghiệp, bạn bè, nâng  cao trình độ chuyên môn. Thanh Trì, ngày 25 tháng 5 năm 2020                                                       Tôi xin cam đoan đây là SKKN của mình viết  .  16/ 17
  17.                                                          Không sao chép nội dung của người khác.            NGƯỜI VIẾT 17/ 17
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
7=>1