CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP

VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN

1. Tên sáng kiến: Vận dụng một số chiến thuật đọc hiểu văn bản nhằm nâng

cao chất lượng dạy học truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân cho học sinh lớp

12 tại trường THPT Yên Dũng số 2

2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 26/01/2021.

3. Các thông tin cần bảo mật (nếu có): không.

4. Mô tả các giải pháp cũ thường làm:

Nói đến việc dạy học truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân, trước đây, chúng

tôi thường sử dụng một số phương pháp, kĩ thuật thiên về tính truyền thống như

vấn đáp – đàm thoại, thuyết trình. Giáo viên sẽ phối hợp giữa việc đặt câu hỏi

gợi dẫn học sinh với việc giảng bình những nội dung quan trọng để các em có cơ

hội khắc sâu kiến thức. Học sinh sẽ ghi kiến thức cơ bản vào vở và ôn bài theo

hệ thống kiến thức đã ghi.

Ưu điểm của các phương pháp này là: giáo viên đã đặt ra được những câu

hỏi mang tính định hướng, giúp cho học sinh có thể tập trung vào những nội

dung trọng tâm, đảm bảo thời gian của tiết học. Bên cạnh đó, các em còn được

lắng nghe những lời phân tích, bình giảng, những so sánh, đánh giá của giáo

viên về tác giả và tác phẩm.

Tuy nhiên, phương pháp này vẫn còn nhiều hạn chế cần khắc phục. Đó là

việc chưa tổ chức được nhiều hoạt động cho học sinh, chưa thực sự lôi cuốn các

em vào quá trình tự tìm tòi, chiếm lĩnh tri thức. Học sinh còn thụ động, giáo viên

thì nói nhiều, thiên về truyền thụ một chiều. Vì thế, không khí lớp học đôi khi

còn trầm lắng và nặng nề. Hứng thú và kết quả học tập của học sinh không được

như mong đợi.

5. Sự cần thiết phải áp dụng giải pháp sáng kiến

Thứ nhất, xuất phát từ yêu cầu của Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8

1

khóa XI về đổi mới căn bản, toàn diện giáo dục và đào tạo: Tiếp tục đổi mới

mạnh mẽ và đồng bộ các yếu tố cơ bản của giáo dục, đào tạo theo hướng coi

trọng phát triển phẩm chất, năng lực của người học. Để đáp ứng nhiệm vụ đó,

các nhà giáo dục cần đầu tư đổi mới chương trình; đa dạng hóa nội dung, tài liệu

học tập; đặc biệt là tiếp tục đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học theo

hướng hiện đại; phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo và vận dụng kiến

thức, kỹ năng của học sinh; tập trung dạy cách học, cách nghĩ, khuyến khích tự

học, tạo cơ sở để người học tự cập nhật và đổi mới tri thức, kỹ năng, phát triển

năng lực. Như vậy, đổi mới phương pháp dạy và học đã và đang trở thành yêu

cầu cấp thiết đối với giáo dục nói chung và đối với dạy học ở THPT nói riêng,

trong đó có môn Ngữ văn.

Thứ hai, xuất phát từ cơ sở lí luận của môn Ngữ văn: đọc hiểu văn bản

trong nhà trường là một hoạt động tiếp nhận văn học mà tiếp nhận văn học thì

mang tính cá thể hóa, chủ động và đa dạng, không thống nhất. Vì vậy, khi dậy

đọc hiểu văn bản, giáo viên cũng phải hướng tới mục tiêu giúp học sinh có thể

phát huy những cảm nhận của riêng mình để dần dần trở thành bạn đọc độc lập.

Đọc hiểu văn bản là hoạt động đọc và giải mã các tầng ý nghĩa của văn

bản thông qua khả năng tiếp nhận của học sinh. Đọc hiểu là tiếp xúc với văn

bản, hiểu được nghĩa hiển ngôn, nghĩa hàm ẩn, các biện pháp nghệ thuật, thông

hiểu ý nghĩa tư tưởng, tình cảm của người viết và giá trị của hình tượng nghệ

thuật. Chiến thuật đọc hiểu là những biện pháp, cách thức, những thủ thuật, kĩ

thuật nhất định nhằm dẫn dắt quá trình nhận thức của học sinh để chiếm lĩnh,

kiến tạo ý nghĩa văn bản một cách tích cực.

Thứ ba, xuất phát từ cơ sở thực tế, thực trạng dạy và học còn nhiều hạn

chế về mặt tổ chức hoạt động dẫn tới việc học sinh không tránh khỏi cảm giác

nhàm chán, đơn điệu. Muốn đem lại hứng thú học văn, đòi hỏi giáo viên phải

vận dụng các phương pháp, chiến thuật đọc hiểu có khả năng tạo ra các hoạt

động học, thu hút, lôi cuốn học sinh tham gia, để học sinh phát huy tính năng

động, tích cực của mình trong việc hình thành, chiếm lĩnh tri thức. Từ đó, tạo

2

tiền đề cho việc phát triển phẩm chất và năng lực của học sinh.

Trên cơ sở lí luận và thực tiễn đó, chúng tôi đã trăn trở, suy ngẫm làm sao

để có thể tổ chức một giờ đọc hiểu văn bản hiệu quả nhất, phát huy được vai trò

chủ động, tích cực của học sinh. Tôi quyết định lựa chọn vận dụng một số chiến

thuật đọc hiểu văn bản vào quá trình dạy học tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân

nhằm nâng cao chất lượng dạy đọc hiểu truyện ngắn này nói riêng. Từ đó, hướng

tới việc vận dụng rộng sang cả những văn bản khác để nâng cao chất lượng dạy

đọc hiểu văn bản nói chung.

6. Mục đích của giải pháp sáng kiến

Vận dụng một số chiến thuật đọc hiểu văn bản vào quá trình dạy học

truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân, chúng tôi hướng tới một số mục đích sau:

Thứ nhất, khắc phục hạn chế của lối dạy học bị động, truyền thụ một

chiều.

Thứ hai, gia tăng tính đối thoại, khuyến khích học sinh bày tỏ, chia sẻ

những cảm nhận và ý kiến cá nhân, giúp các em rèn luyện sự tự tin khi phát biểu

trước tập thể, đồng thời kích thích tư duy phản biện, giúp học sinh từng bước trở

thành người đọc độc lập, thuần thục và có kĩ năng.

Thứ ba, giúp học sinh cảm thấy chủ động và tự do hơn trong việc chiếm

lĩnh văn bản; tăng cường khả năng tập trung, kĩ năng tư duy, liên tưởng, tưởng

tượng; huy động toàn bộ vốn sống và trải nghiệm của bản thân để tiếp cận tác

phẩm. Từ đó, học sinh sẽ nhớ văn bản lâu hơn và độ “ngấm” cũng sâu hơn.

Cuối cùng, mục đích lớn nhất của sáng kiến là hướng tới việc dạy học

phát triển năng lực và phẩm chất cho học sinh.

7. Nội dung

7.1. Thuyết minh giải pháp mới

7.1.1. Giải pháp 1:

7.1.1.1. Tên giải pháp: Vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” trong

dạy đọc hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.

7.1.1.2. Nội dung

3

a. Giới thiệu chiến thuật "Cuộc giao tiếp văn học" trong dạy đọc hiểu văn bản

Chiến thuật "Cuộc giao tiếp văn học" được Tom Loytus, một giáo viên của

trường Trung học Phổ thông Athena (Hy lạp) khởi xướng và ngày càng cho thấy

những ưu thế nổi bật khi áp dụng vào dạy học tác phẩm văn chương. Hình thức

này sẽ giúp học sinh tạo kết nối đa chiều khi đọc hiểu văn bản: kết nối liên văn

bản, văn bản với cuộc sống, văn bản với trải nghiệm cá nhân người đọc, từ đó tạo

ra bầu không khí dân chủ, giàu tính đối thoại.

Cách thức thực hiện chiến thuật này là giáo viên sẽ thiết kế mẫu phiếu học

tập phù hợp theo “sơ đồ bốn điểm nhìn” và hướng dẫn học sinh thực hiện. Trung

tâm của sơ đồ là một chủ đề, một thông điệp hay là một câu hỏi lớn được đặt ra.

Vấn đề chính này sẽ được đặt ở giữa sơ đồ để giúp chúng ta có thể hình dung

cuộc giao tiếp giống như một bàn tròn văn học. Tất cả mọi hoạt động trao đổi,

thảo luận, chia sẻ sẽ đều tập trung xung quanh vấn đề này.

Trên mặt phẳng sơ đồ chia làm 4 ô. Trong đó, 3 ô thể hiện quan điểm, cách

nhìn của các tác giả, các nhân vật,… trong các tác phẩm văn học. Riêng ô thứ tư

dành để nêu ý kiến của cá nhân người tham gia giao tiếp văn học (đánh giá vấn đề

này như thế nào, đồng tình hay phản bác?).

Sau khi học sinh hoàn thành vắn tắt theo yêu cầu “sơ đồ bốn điểm nhìn”,

giáo viên sẽ tổ chức thảo luận trên lớp, học sinh chia sẻ ý kiến của mình với thầy

cô và bạn bè. Qua đó, các em sẽ nhận ra sự gặp gỡ và khác biệt trong cách nhìn

nhận cuộc sống và con người của mỗi tác giả, của từng nhân vật. Học sinh được

bộc lộ suy nghĩ, cảm nhận của mình, được tham gia tranh luận, để từ đó có thể

hiểu sâu hơn về cuộc sống, về con người và về chính mình.

Dưới đây là sơ đồ bốn điểm nhìn, giáo viên có thể sử dụng cho hình thức dạy

học này.

Văn bản (nhân vật) A Văn bản (nhân vật) B

Vấn đề trung tâm

4

Ý kiến của em Văn bản (nhân vật) C

* Những lưu ý khi vận dụng chiến thuật "Cuộc giao tiếp văn học"

+ Trong cuộc giao tiếp này, cách nhìn, cách đánh giá của mỗi nhân vật

trong văn bản, của mỗi học sinh có thể đồng điệu hoặc khác biệt, giáo viên cần

có thái độ bình đẳng và tôn trọng tất cả các cách kiến giải này.

+ "Nhân vật" tham gia vào cuộc giao tiếp văn học có thể nhiều hơn hoặc ít

hơn so với sơ đồ 4 điểm nhìn, giáo viên có thể căn cứ vào thực tiễn dạy học để

lựa chọn, miễn là đảm bảo các nhân vật, các ý kiến đều xoay quanh một vấn đề.

+ Từ mô hình gốc là “Sơ đồ bốn điểm nhìn” ban đầu, giáo viên có thể triển

khai phong phú hơn thành nhiều mô hình sơ đồ khác nhau, miễn là thể hiện được

tinh thần cốt lõi: tạo cơ hội cho học sinh được giao tiếp, phát huy khả năng liên

tưởng của học sinh, gia tăng tính đối thoại, dân chủ trong hoạt động tiếp nhận.

Cụ thể, từ tỉ lệ 3 - 1 trong các góc của sơ đồ, trong đó 3 góc thể hiện

quan điểm, cách nhìn nhận... của các nhân vật, các tác phẩm, 1 góc còn lại là

của bạn đọc học sinh, ta có thể thay đổi tạo nên mô hình mới như sau: chuyển

điểm nhìn của chủ thể học sinh cho một nhân vật, một tác giả hay một tác

phẩm khác. Điểm nhìn bạn đọc sẽ ẩn sau sự lựa chọn và cắt nghĩa của các

điểm nhìn kia. Sơ đồ minh họa:

Văn bản (nhân vật) A Văn bản (nhân vật) B

Vấn đề trung tâm

Văn bản (nhân vật) D

Văn bản (nhân vật) C

Ý kiến của học sinh

GV cũng có thể thay đổi "Sơ đồ bốn điểm nhìn" theo hướng liên văn bản

thành mô hình liên chủ thể các điểm nhìn của học sinh trong quá trình đọc hiểu.

Với mô hình sáng tạo này, học sinh trong lớp sẽ cùng đóng góp cho nhau, tạo

thành một "cộng đồng lý giải" khi tham gia kiến tạo ý nghĩa văn bản. Sử dụng

5

mô hình này, thay vì phát phiếu học tập, giáo viên có thể trực tiếp chiếu mô

hình lên và gọi các học sinh phát biểu quan điểm của mình xung quanh vấn đề

trung tâm.

GV cũng có thể tổ chức cho học sinh nhập vai giao tiếp (vai nhà văn, vai

một nhân vật trong tác phẩm...). Khi đó, các học sinh còn lại sẽ là bạn đọc để

đưa ra những ý kiến chất vấn, trao đổi với "nhà văn", với "nhân vật" (do học

sinh thủ vai) về một vấn đề nào đó.

Từ mẫu sơ đồ gốc hình chữ nhật, giáo viên có thể biến đổi thành những

mẫu hình khác để kích thích thị giác, tạo sự hứng thú và tính tích cực tư duy

cho học sinh. Chẳng hạn, chúng ta có thể sáng tạo mô hình bông hoa nhiều

cánh hoặc hình đa giác chia làm nhiều phần,…

Trên đây là những cơ sở lý luận quan trọng để chúng tôi triển khai hướng

thiết kế vận dụng chiến thuật "Cuộc giao tiếp văn học" vào dạy đọc hiểu truyện

ngắn Vợ nhặt của Kim Lân trong chương trình Ngữ văn 12.

b. Vận dụng chiến thuật "Cuộc giao tiếp văn học" vào dạy đọc hiểu truyện

ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân

Sau đây, chúng tôi xin đề xuất hướng vận dụng chiến thuật “Cuộc giao

tiếp văn học” vào đọc hiểu văn bản Vợ nhặt của Kim Lân. Xin nhấn mạnh dưới

đây chỉ là một số hoạt động hoặc thao tác trong tiến trình dạy đọc hiểu mà chúng

tôi cảm thấy có thể vận dụng được chiến thuật trên chứ không phải là giáo án

thiết kế bài Vợ nhặt theo hướng vận dụng chiến thuật “cuộc giao tiếp văn học”.

Bởi lẽ, cá nhân tôi cho rằng mỗi tiết học không thể chỉ sử dụng một phương

pháp mà phải là sự kết hợp linh hoạt của nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học

khác nhau.

Thứ nhất, vận dụng chiến thuật “cuộc giao tiếp văn học” vào hoạt động

khởi động. Tổ chức theo chiến thuật này, chúng tôi đã xây dựng một sơ đồ giao

tiếp giả định ở giữa đặt chủ đề: “Người nông dân tôi biết”, xung quanh sẽ là

những cánh hoa để trắng chờ ghi cảm nhận của học sinh về những người nông

dân mà các em đã gặp trong các tác phẩm văn học. Từ sơ đồ“Những người

6

nông dân tôi biết”, giáo viên dẫn dắt giới thiệu đến tác phẩm Vợ nhặt của Kim

Lân để xem nhà văn đã có những đóng góp riêng nào cho đề tài này. (Xem chi

tiết thiết kế hoạt động dạy học này trong phụ lục I.1).

Thứ hai, vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào tìm hiểu

nhan đề truyện ngắn Vợ nhặt. Trong hoạt động này, giáo viên tổ chức cho học

sinh giao tiếp văn học thông qua hình thức đóng vai: yêu cầu một học sinh giữ

vai trò người dẫn chương trình, một học sinh vào vai nhà văn Kim Lân để trò

chuyện với các độc giả - những học sinh khác trong lớp về nhan đề của truyện.

Qua cuộc đối thoại đó, học sinh sẽ hiểu được ý nghĩa nhan đề tác phẩm, được

rèn luyện khả năng trình bày vấn đề, khả năng đóng vai diễn xuất và giao tiếp.

(Xem chi tiết thiết kế hoạt động dạy học này trong phụ lục I.2).

Thứ ba, vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào nhận diện và

phân tích tình huống truyện Vợ nhặt. Giáo viên thiết kế một sơ đồ 5 điểm nhìn có

khả năng thể hiện được tác động của tình huống Tràng nhặt vợ đến các nhân vật:

người dân xóm ngụ cư, bà cụ Tứ, cô vợ nhặt và chính Tràng. Từ đó, rút ra ý

nghĩa của tình huống Tràng nhặt vợ. Học sinh thảo luận nhóm, điền các thông

tin tìm được vào sơ đồ, trình bày trên giấy A0 đồng thời chuẩn bị thuyết trình.

(Xem chi tiết thiết kế hoạt động dạy học này trong phụ lục I.3).

Thứ tư, vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào tìm hiểu

nhân vật người vợ nhặt bằng cách hoàn thành nội dung phiếu học tập số 1 và

nhập vai anh Tràng để trả lời phỏng vấn của phóng viên về người vợ nhặt.

Cuối hoạt động, giáo viên tổ chức học sinh đánh giá đồng đẳng dựa trên bảng

các tiêu chí và mức độ mà giáo viên đã thiết kế. (Xem chi tiết thiết kế hoạt động

dạy học này trong phụ lục I.4 và các video kèm theo).

Thứ năm, vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào hoạt động

luyện tập, vận dụng, học sinh thảo luận nhóm hoàn thành 3 bài tập. Nhiệm vụ

của mỗi bài tập là điền thông tin vào sơ đồ đa điểm nhìn và chuẩn bị thuyết

trình. Bài tập 1 là sơ đồ bốn điểm nhìn xoay xung quanh chủ đề “Miếng ăn và

nhân cách con người”. Bài tập số 2 là sơ đồ ba điểm nhìn thể hiện cuộc đối

thoại giữa ba cách nhìn của bà cô Thị Nở - của bà cụ Tứ - của học sinh trước

7

tình huống Thị Nở muốn lấy Chí Phèo, Tràng nhặt vợ. Bài tập số 3 là sơ đồ bốn

điểm nhìn tìm hiểu về thái độ, hành động, lời nói, suy nghĩ của các nhân vật

trong gia đình Tràng và của học sinh trước chi tiết bát cháo cám. (Xem chi tiết

thiết kế hoạt động dạy học này trong phụ lục I.5 và video kèm theo).

Thứ 6, vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào hoạt động mở

rộng, giáo viên để học sinh tự ghép thành các nhóm đôi, thực hiện nhiệm vụ:

phỏng vấn bạn đọc về tương lai của gia đình Tràng. Học sinh chuẩn bị ở nhà.

Hình thức sản phẩm là video phỏng vấn. (Xem chi tiết thiết kế hoạt động dạy

học này trong phụ lục I.6 và video kèm theo).

7.1.1.3. Các bước tiến hành giải pháp

Bước 1: Lựa chọn đơn vị kiến thức có thể áp dụng chiến thuật (thường là

các chủ đề, các tình huống, các chi tiết chứa đựng nhiều điểm nhìn).

Bước 2: Xác định mục tiêu cần đạt khi đọc hiểu phần văn bản hoặc đơn vị

kiến thức đã chọn; thiết kế các hoạt động dạy học, các sơ đồ và phiếu học tập

theo hướng vận dụng chiến thuật “cuộc giao tiếp văn học” để có thể đạt mục

tiêu đó. (Xem phụ lục I)

Bước 3: Giới thiệu vấn đề, chuyển giao nhiệm vụ học tập cho học sinh,

hướng dẫn học sinh cách thức hoạt động, kiểm tra việc chuẩn bị bài trước khi

lên lớp của học sinh.

Bước 4: Dạy thực nghiệm. Trong đó, học sinh tham gia vào “Cuộc giao

tiếp văn học” bằng cách hoàn thành sơ đồ, phiếu học tập, báo cáo sản phẩm

học tập của nhóm mình dưới nhiều hình thức khác nhau. (Xem phụ lục II. 1, II.

2, II.3, II. 4)

Bước 5: Thảo luận, đánh giá, rút kinh nghiệm trước tổ, hướng tới việc

nhân rộng phạm vi áp dụng của giải pháp này sang các lớp học khác, các tác

phẩm khác.

7.1.1.4. Kết quả thực hiện giải pháp

Kết thúc giờ học, học sinh hoàn thành các sơ đồ, phiếu học tập được xây

dựng theo định hướng “cuộc giao tiếp văn học”. Học sinh tổ chức thành công

các cuộc phỏng vấn và trả lời phỏng vấn. Qua đó, các em được đối thoại, được

8

lắng nghe và chia sẻ. Không khí giờ học hào hứng, sôi nổi, kích thích khả năng

học tập của các em. Từ các hoạt động này, học sinh vừa được trang bị kiến thức,

vừa phát triển phẩm chất và các năng lực cần thiết.

a. Sản phẩm được tạo ra từ giải pháp

- Thiết kế các hoạt động dạy học tác phẩm “Vợ nhặt” của Kim Lân theo hướng

vận dụng chiến thuật “cuộc giao tiếp văn học” (Xem chi tiết trong phụ lục I).

- Các sơ đồ của học sinh thể hiện chiến thuật “cuộc giao tiếp văn học”:

+ Sơ đồ số 1: Tìm hiểu tác động của tình huống Tràng nhặt vợ đến các nhân vật

và ý nghĩa tình huống truyện (số lượng: 1, trình bày trên giấy A0) (Phụ lục II. 5)

+ Sơ đồ số 2: Phản ứng của bà cụ Tứ trước cuộc hôn nhân của Tràng với cô vợ

nhặt và phản ứng của bà cô Thị Nở khi Thị Nở về hỏi ý kiến về việc lấy Chí

Phèo (số lượng: 1, trình bày trên giấy A0) (Phụ lục II. 6)

+ Sơ đồ số 3: Ý nghĩa của chi tiết bát cháo cám (số lượng: 1, trình bày trên giấy

A0) (Phụ lục II. 7)

- Các video phỏng vấn thể hiện chiến thuật cuộc giao tiếp văn học (có video

đính kèm):

+ Video 1: Nhập vai nhà văn, trả lời độc giả về ý nghĩa nhan đề Vợ nhặt.

+ Video 2: Nhập vai nhân vật Tràng, trả lời phỏng vấn về cô vợ nhặt.

+ Video 3: Trong vai độc giả, tưởng tượng về tương lai và cuộc sống của gia

đình Tràng.

b. Bảng số liệu so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện giải pháp

Tại trường THPT Yên Dũng số 2, chúng tôi đã tiến hành dạy thử nghiệm

chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” ở hai lớp 12A5, 12A6. Chúng tôi chọn

hai lớp 12A1, 12A2 là những lớp học sinh có trình độ tương đương để làm lớp

đối chứng. (Ở hai lớp này, chúng tôi vẫn dạy như trước đây, chưa áp dụng chiến

thuật trên).

Sau khi dạy xong, chúng tôi yêu cầu học sinh làm bài kiểm tra nhằm đánh

giá hiệu quả của việc vận dụng chiến thuật dạy học mới.

Đề bài:

Bàn về nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm cùng tên của nhà văn Kim

9

Lân, có ý kiến cho rằng: Đó là người đàn bà chao chát, chỏng lỏn, vô duyên.

Nhưng ý kiến khác lại cho rằng: Đó là người đàn bà hiền hậu, ý tứ, biết

chăm lo cho gia đình.

Còn anh/ chị, anh/ chị nghĩ sao về nhân vật này?

Thống kê kết quả bài kiểm tra, chúng tôi thu được bảng số liệu sau:

Lớp

Tổng

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm TB

Điểm yếu,

số

kém

HS

Số

%

Số

%

Số

%

Số

%

lượng

lượng

lượng

lượng

12A1,12A2

86

15

17,4

50

58,1

21

24,5

0

0

12A5, 12A6

87

26

29,9

55

63,2

6

6,9

0

0

Dựa vào bài kiểm tra cho thấy, ở cả hai hình thức dạy đối chứng và thực

nghiệm, học sinh cơ bản vẫn nắm được kiến thức theo chuẩn kiến thức, kĩ năng.

Tuy nhiên, kết quả khảo sát ở hai lớp thực nghiệm 12A5, 12A6 cao hơn hai lớp

đối chứng là 12A1, 12A2. Điều đó cho thấy việc vận dụng chiến thuật Cuộc

giao tiếp trong văn học đã mang lại hiệu quả tích cực trong việc giúp học sinh

nắm được kiến thức.

Để khẳng định hiệu quả của chiến thuật này đối với việc phát triển phẩm

chất và năng lực học sinh, chúng tôi tiếp tục dùng phiếu khảo sát tại 2 lớp 12A5,

12A6 với tổng số 87 em (xem chi tiết nội dung phiếu khảo hiệu quả của giải

pháp số 1 tại Phụ lục III).

Kết quả tổng hợp phiếu khảo sát như sau:

BẢNG ĐỐI CHIẾU KẾT QUẢ TRƯỚC VÀ SAU KHI VẬN DỤNG

CHIẾN THUẬT “CUỘC GIAO TIẾP VĂN HỌC” VÀO DẠY ĐỌC HIỂU

TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN TẠI LỚP 12A5, 12A6

Tiêu chí

Trước khi

ST T

Sau khi áp dụng

áp dụng

%

%

Số Lượng

Số Lượng

10

1 Học sinh nghe thụ động. 60 69 0 0

2 Học sinh tự giác hoạt động.. 27 31 87 100

3 Học sinh thích đọc truyện ngắn Vợ nhặt 45 54,7 80 92

của Kim Lân.

4 Học sinh thấy thương xót và trân trọng 50 57,5 87 100

các nhân vật trong truyện.

5 43 49,4 81 93,1

Trước một vấn đề, học sinh nhận thấy cần phải nhìn nhận và đánh giá từ nhiều góc độ.

6 Học sinh tự tin trình bày và bảo vệ ý kiến 32 36,8 60 69

riêng của bản thân mình.

29 33,3 56 64,4

7 Học sinh tự tin vào khả năng đóng vai, hóa thân thành một nhân vật khác của mình.

8 Học sinh có thể thực hiện được một cuộc 35 40,2 67 77

phỏng vấn và trả lời phỏng vấn.

56 64,4 84 96,6

9 Học sinh có thể hợp tác tốt với các bạn khác để cùng hoàn thành nhiệm vụ.

10 Học sinh biết cách tự học. 44 50,6 62 71,3

11 Học sinh biết cách ghi điểm sáng tạo khi 20 23 69 79,3

viết văn nhờ vào việc liên hệ, mở rộng, so sánh với những tác phẩm khác cùng đề tài.

12 Học sinh cảm thấy giờ học văn thoải mái 17 19,5 80 92

và hứng thú.

Nhìn vào kết quả trước và sau khi áp dụng giải pháp mà chúng tôi thu

được, có thể thấy, việc vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào dạy

đọc hiểu truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân đã tạo điều kiện cho học sinh phát

huy vai trò tích cực, chủ động, sáng tạo của mình. Các em cảm thấy hứng thú

hơn với tác phẩm, với những giờ học văn. Tổ chức dạy học theo hướng này

cũng đã đạt được hiệu quả cao trong việc phát triển phẩm chất, năng lực cho

11

học sinh.

7.1.2. Giải pháp 2

7.1.2.1. Tên giải pháp: Vận dụng chiến thuật “Think – aloud” (“Cuốn phim

trí óc”) trong dạy đọc hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.

7.1.2.2. Nội dung

a. Giới thiệu về chiến thuật “Think – aloud” (“Cuốn phim trí óc”) trong đọc

hiểu văn bản

Thuật ngữ “think- aloud” trong tiếng Anh có nghĩa là “nghĩ- to tiếng”, tức

là nói to điều suy nghĩ đang diễn ra trong đầu độc giả khi họ tiếp xúc với văn

bản. Bản chất của chiến thuật này là người đọc sẽ phơi trải những cảm nhận ban

đầu, những suy nghĩ cảm tính cá nhân khi tiếp xúc với văn bản. Nói một cách

đơn giản và dễ hiểu hơn là khi người đọc tiếp xúc với từng câu chữ trong văn

bản để tìm ra nội dung, ý nghĩa hay thông điệp của nhà văn thì sẽ có một dòng

ngôn từ tuôn chảy bên trong tâm thức người đọc một cách thoải mái mà không

phải dè dặt trong việc lựa chọn những từ ngữ đắt giá và ít cần lưu ý đến cấu trúc

ngữ pháp của một câu tiếng Việt chuẩn. Điều đó đồng nghĩa với việc sẽ có một

môi trường học tập cởi mở hơn được thiết lập khi người đọc tiếp xúc với văn

bản bằng sự dẫn dắt ban đầu của cảm tính. Sẽ không hề có sự áp đặt, định hướng

hay phán xét nào của giáo viên với người đọc (học sinh) khi có một suy nghĩ hay

một từ ngữ nào lóe lên trong tâm trí người đọc. Vậy nên, với chiến thuật này học

sinh sẽ giống như một nhà biên kịch không chuyên, thỏa sức sáng tạo với một

kịch bản tự do, phóng khoáng. Cũng vì thế mà think- aloud còn được xem là

“cuốn phim trí óc” giúp cho học sinh phát triển tư duy, được tự do bày tỏ cảm

nhận, suy nghĩ của bản thân mà không bị “án ngữ” bởi những ý tưởng đóng

khung đã có.

Với chiến thuật này, bạn đọc học sinh sẽ được trải nghiệm rất nhiều cấp

độ đọc hiểu cùng một lúc. Từ đọc tái hiện, đọc giải thích, đọc sáng tạo cho đến

đọc đánh giá hay đọc nghiên cứu, đọc suy ngẫm liên tưởng.

Có hai cách thức để thực hiện chiến thuật này đó là cuốn phim trí óc – nói

12

và cuốn phim trí óc - viết. Cuốn phim trí óc nói là dạng think-aloud được phát

biểu to lên, trực tiếp thông qua kênh phát âm. Còn cuốn phim trí óc viết là dạng

bản ghi trung thực nội dung đang diễn ra trong đầu độc giả khi họ đọc văn bản.

Chiến thuật “cuốn phim trí óc” sẽ quay chậm trước mắt độc giả hình ảnh

bạn đọc đang trực tiếp nhận diện từng câu chữ, nắm bắt thông tin bề mặt; hình

dung, tưởng tượng và tạo liên hệ kết nối liên văn bản và trải nghiệm cá nhân của

bản thân mình. Người đọc sẽ đặt ra những giả thiết, tiên đoán bước phát triển

tiếp tới của hành động nhân vật, đặt ra và tự trả lời câu hỏi xem tác giả thực sự

định nói gì, nhân vật muốn làm gì, tại sao lại,… rút ra thông điệp nghệ thuật của

nhà văn.

b. Vận dụng chiến thuật “Think – aloud” (“Cuốn phim trí óc”) trong dạy

đọc hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân.

* Trước tiên, trong vai trò giáo viên, tôi đã vận dụng “Think – aloud”

(“Cuốn phim trí óc”) vào quá trình đọc hiểu truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim

Lân để xây dựng một số cuốn phim mẫu dưới dạng viết như sau:

Thứ nhất, “cuốn phim trí óc” miêu tả cảnh Tràng dẫn cô vợ nhặt về nhà

qua xóm ngụ cư (xem chi tiết ở phụ lục V.1)

Thứ hai, “cuốn phim trí óc” miêu tả cuộc gặp gỡ lần thứ hai của Tràng và

cô vợ nhặt (xem chi tiết ở phụ lục V. 2)

Thứ ba, “cuốn phim trí óc” miêu tả tâm trạng của bà cụ Tứ khi Tràng ra

mắt vợ với mẹ (xem chi tiết ở phụ lục V. 3)

* Sau đó, tôi tiến hành thiết kế và tổ chức dạy thử nghiệm một số hoạt

động dạy học vận dụng chiến thuật “Think – aloud” đối với truyện ngắn Vợ

nhặt của Kim Lân như sau:

Thứ nhất, vận dụng chiến thuật “Think – aloud” vào dạy đọc hiểu đoạn

văn : “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà… chợt hắn thấy sờ sợ” (tr.25, sgk)

(xem chi tiết cách thức tổ chức ở phụ lục IV. 1)

Thứ hai, vận dụng chiến thuật “Think – aloud” vào dạy đọc hiểu đoạn

văn : “Bà lão lật đật chạy xuống bếp… Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi

13

người” (tr. 31, sgk) (xem chi tiết cách thức tổ chức ở phụ lục IV. 2)

7.1.2.3. Các bước tiến hành thực hiện giải pháp

Để thực hiện giải pháp này, chúng tôi đã tiến hành thử nghiệm ở hai lớp

12a5, 12a6 theo các bước sau:

Bước 1: Giáo viên chuẩn bị các cuốn phim mẫu (xem chi tiết trong phụ

lục V.1, V. 2, V.3)

Bước 2: Lựa chọn phần văn bản có thể áp dụng chiến thuật (thường là

những đoạn văn bản đặc sắc, “có vấn đề”. Chú ý dung lượng đoạn không quá dài

để tránh việc mất nhiều thời gian hoặc là bị “loãng”).

Bước 3: Xác định mục tiêu cần đạt khi dạy đọc hiểu phần văn bản đã

chọn; thiết kế các hoạt động dạy học theo hướng vận dụng chiến thuật “Think -

aloud” để có thể đạt mục tiêu đó. (Xem phụ lục IV)

Bước 4: Dạy thực nghiệm

- Giáo viên dẫn dắt giới thiệu, chuyển giao nhiệm vụ cho học sinh

(Giới thiệu đoạn văn bản được chọn, hướng dẫn học sinh cách xây dựng

phim: Đọc đoạn văn bản này, ý nghĩ hay cảm xúc nào đến với em đầu tiên? Em

hình dung tác giả đang nói đến điều gì? Vì sao? Em liên tưởng tới những hình

ảnh, sự việc nào? Suy nghĩ, đánh giá của em?). Lưu ý: Kĩ thuật này mất khá

nhiều thời gian nên khi học sinh đã biết cách thực hiện thì giáo viên nên yêu cầu

học sinh thực hành “làm phim” từ trước giờ học, để đảm bảo thời gian trên lớp.

- Giáo viên cho học sinh thực hành. (Phụ lục V. 4)

- Phát “phim”

- Thảo luận, đánh giá “phim” (xem chi tiết cách đánh giá ở phụ lục IV và

các hình ảnh ở phụ lục V.10)

Bước 5: Thảo luận, đánh giá, rút kinh nghiệm trước tổ, hướng tới việc

nhân rộng phạm vi áp dụng của giải pháp này sang các lớp học khác, các tác

phẩm khác.

7.1.2.4. Kết quả thực hiện giải pháp

Kết thúc giờ học, 100% học sinh xây dựng được “cuốn phim trí óc” của

riêng mình. Học sinh biết cách đọc chậm, biết tưởng tượng, cảm nhận, đưa ra

14

các phán đoán, lí giải và đánh giá. Không khí giờ học cởi mở và dân chủ.

* Sản phẩm được tạo ra từ giải pháp

- Ba “cuốn phim trí óc” dưới dạng viết do giáo viên xây dựng để làm mẫu minh

họa cho kĩ thuật (xem chi tiết trong phụ lục V.1, V. 2, V.3)

- Một số “cuốn phim trí óc” do học sinh xây dựng. (Phụ lục V.5, V.6, V.7, V.8,

V.9)

* Bảng số liệu so sánh kết quả trước và sau khi thực hiện giải pháp

Tại trường THPT Yên Dũng số 2, chúng tôi đã tiến hành dạy thử nghiệm

chiến thuật “think - aloud” ở hai lớp 12A5, 12A6. Chúng tôi cũng chọn hai lớp

12A1, 12A2 là những lớp học sinh có trình độ tương đương để làm lớp đối

chứng. (Ở hai lớp này, chúng tôi vẫn dạy như trước đây, chưa áp dụng chiến

thuật trên).

Sau khi dạy xong, chúng tôi cho HS làm bài kiểm tra nhằm đánh giá hiệu

quả của việc vận dụng phương pháp, kĩ thuật dạy học mới.

Đề bài: Cảm nhận về nhân vật bà cụ Tứ trong đoạn văn sau:

Bà lão cúi đầu nín lặng. Bà lão hiểu ra rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy

còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con trai

mình. Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm

nổi, những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… Trong kẽ mắt

kèm nhèm của và rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi

nhau sống qua được cơn đói khát này không.

Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt

xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. Bà lão nhìn thị và bà nghĩ : Người ta có

gặp bước khó khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình

mới có vợ được… Thôi thì bổn phận là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho con…

May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ, nó yên

bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết thế nào mà lo

cho hết được?

(Trích Vợ nhặt, Kim Lân, Ngữ văn 12, tr.28-29, NXB Giáo dục, 2009)

15

Thống kê kết quả bài kiểm tra, chúng tôi thu được bảng số liệu sau:

Lớp

Tổng

Điểm giỏi

Điểm khá

Điểm TB

Điểm yếu,

số

kém

HS

Số

%

Số

%

Số

%

Số

%

lượng

lượng

lượng

lượng

12A1,12A2

86

8

9,3

46

53,5

32

37,2

0

0

12A5, 12A6

87

17

19,5

63

72,4

7

8,1

0

0

Dựa vào bài kiểm tra, chúng tôi nhận thấy, ở dạng đề đòi hỏi phải cảm

nhận về một trích đoạn ngắn trong tác phẩm, học sinh thường gặp khó khăn vì

chưa hiểu sâu sắc đến từng chi tiết. Khi viết bài, chỉ “năm câu ba điều” là học

sinh đã hết ý, không biết viết gì. Nhưng với những lớp đã được học theo chiến

thuật “think – aloud” thì học sinh đã biết cách thể hiện những cảm nhận, suy

nghĩ của cá nhân mình về đoạn trích khá tốt. Do học sinh đã biết cách đọc, đang

dần dần trở thành một bạn đọc độc lập. Vì vậy, nhìn vào bảng số liệu có thể

thấy rõ, số lượng điểm giỏi, điểm khá ở hai lớp thực nghiệm 12A5, 12A6 cao

hơn hẳn so với hai lớp đối chứng chưa được học theo chiến thuật này. Kết quả

ấy khẳng định tính hiệu quả của “Think –aloud” đối với việc hình thành kiến

thức ở học sinh.

Để khẳng định hiệu quả của chiến thuật này đối với việc phát triển phẩm

chất và năng lực học sinh, chúng tôi tiếp tục tiến hành khảo sát tại hai lớp 12A5,

12A6 với tổng số 87 em (xem chi tiết nội dung phiếu khảo sát hiệu quả của giải

pháp 2 tại Phụ lục VI).

Kết quả tổng hợp phiếu khảo sát như sau:

BẢNG ĐỐI CHIẾU KẾT QUẢ TRƯỚC VÀ SAU KHI VẬN DỤNG

CHIẾN THUẬT “THINK - ALOUD” VÀO DẠY ĐỌC HIỂU

TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN TẠI LỚP 12A5, 12A6

STT

Tiêu chí

Trước khi

Sau khi áp dụng

áp dụng

%

%

Số Lượng

Số Lượng

67 77 15 17,2 1

16

Khi đọc văn bản, em thấy câu chữ cứ trôi tuột đi, không còn lắng đọng lại gì trong

đầu.

67 77 15 17,2 2

Em phải cố ghi nhớ theo kiểu học vẹt, nhồi nhét kiến thức.

25 28,7 70 80,5 3

Em nhận thấy khả năng tưởng tượng và liên tưởng của mình đã được phát huy.

32 36,8 63 72,4 4

Em tự tin trình bày và bảo vệ ý kiến riêng của bản thân mình.

7 8 45 51,7

5 Mỗi giờ học văn với em là cơ hội để được đồng cảm và sẻ chia với mọi người.

41 47,1 80 92 6

Em cảm thấy hứng thú với việc đọc tác phẩm.

22 25,3 54 62,1 7

Em nhận thấy mình còn có khả năng đọc hiểu được cả các văn bản khác ngoài nhà trường.

29 33,3 60 69 7

Khả năng viết văn dạng bài cảm nhận về một chi tiết hay một trích đoạn của em có tiến bộ hơn.

16 18,4 87 100 8

Em cảm thấy giờ học văn cởi mở và thoải mái.

Kết quả trên đây chứng tỏ, việc áp dụng giải pháp sáng kiến đã đem lại

những hiệu quả thiết thực trong việc nâng cao chất lượng dạy học truyện ngắn

Vợ nhặt của Kim Lân. Học sinh đã có sự phát triển về cả phẩm chất, năng lực và

hứng thú học tập đáng ghi nhận.

7.2. Thuyết minh về phạm vi áp dụng sáng kiến

Sáng kiến này đã được áp dụng thành công ở hai lớp 12A5, 12A6 khi dạy

đọc hiểu tác phẩm Vợ nhặt.

Có thể áp dụng giải pháp trong sáng kiến này để dạy học không chỉ với tác

phẩm Vợ nhặt mà còn là tất cả các văn bản đọc hiểu khác, ở tất cả các lớp thuộc

ba khối 10, 11, 12 trong học kì II của năm học 2020 – 2021 và những năm học

17

tiếp theo.

Sử dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học”, giáo viên có thể vận dụng

vào tất cả các bài thuộc kiểu văn bản nghệ thuật, văn bản thông tin hoặc ôn tập

văn học. Với các văn bản nghệ thuật, chúng ta có thể xây dựng cuộc giao tiếp

văn học theo hướng liên văn bản (những văn bản có cùng đề tài,…), hoặc xây

dựng dựa trên các hình ảnh, chi tiết, tình huống ẩn chứa nhiều cách nhìn, nhiều

cách hiểu khác nhau. Với văn bản thông tin, có thể áp dụng chiến thuật này để

học sinh đối thoại với nhau xung quanh những vấn đề có ý nghĩa nhật dụng

hoặc các khái niệm then chốt. Còn đối với những bài ôn tập văn học, trên cơ sở

học sinh đã được học kiến thức cụ thể về tác phẩm, giáo viên có thể chọn ra

những vấn đề lớn, xây dựng cuộc giao tiếp văn học theo xu hướng liên văn bản,

hứa hẹn sẽ mang lại nhiều hứng thú cho học sinh.

Sử dụng chiến thuật “Think – aloud”, giáo viên có thể vận dụng vào dạy

tất cả văn bản nghệ thuật (nhất là những đoạn văn bản đặc sắc) để giúp học sinh

tăng cường khả năng tập trung, tư duy, liên tưởng. Sự thức tỉnh cảm xúc qua

mỗi lần học sinh đưa ra những giải thích, lí giải, tiên đoán… sẽ khiến các em

nhớ văn bản lâu hơn và ngấm văn bản “sâu” hơn. Ngoài ra, chiến thuật này còn

có thể sử dụng để tạo nên một nền tảng kiến thức tác phẩm chắc chắn giúp học

sinh có thể làm tốt dạng bài nghị luận về một đoạn trích trong tác phẩm.

7.3. Thuyết minh về lợi ích kinh tế, xã hội của sáng kiến

Sau khi áp dụng hai giải pháp trên ở tại trường THPT Yên Dũng số 2, hiệu

quả của sáng kiến đạt được như sau:

- Về lợi ích kinh tế:

Giải pháp có tính kinh tế cao, dễ thực hiện, không tốn kém. Giáo viên có

thể sử dụng phần lí luận của sáng kiến kinh nghiệm này để tiếp tục vận dụng

vào các tác phẩm khác trong chương trình Ngữ văn nhằm tạo hứng thú cho học

sinh trong giờ học và nâng cao chất lượng dạy học môn Ngữ văn tại trường

THPT Yên Dũng số 2.

Giáo viên và học sinh có thể sử dụng các giải pháp được xây dựng trong

sáng kiến để áp dụng cho giờ dạy và trở thành tư liệu tham khảo của những năm

18

học sau.

- Về lợi ích xã hội:

Khi áp dụng các giải pháp trong sáng kiến này, học sinh sẽ hiểu tác phẩm

sâu sắc hơn. Và hơn thế, học sinh được rèn luyện khả năng tưởng tượng, liên

tưởng, so sánh; rèn luyện cách nhìn nhận, đánh giá vấn đề; rèn luyện cách trình

bày vấn đề và bảo vệ ý kiến của bản thân. Những kĩ năng này sẽ giúp cho các

em ghi điểm sáng tạo trong bài làm văn nghị luận. Bên cạnh đó, các em còn biết

cách đọc những văn bản ngoài chương trình sách giáo khoa, biết cách giải quyết

khi đứng trước những vấn đề nảy sinh trong cuộc sống.

Khi áp dụng các chiến thuật này một cách hiệu quả thì những giờ học văn

sẽ trở nên thoải mái, dân chủ, học sinh sẽ cảm thấy chủ động và hứng thú hơn.

Các em được thử sức làm biên tập viên, làm phóng viên, làm biên kịch, làm

diễn viên, được tự do tranh luận,... Từ đó, học sinh tự tin, khám phá chính bản

thân mình. Tình yêu và lòng say mê với môn Văn của các em cũng từ đó mà

được đánh thức.

Như vậy, sáng kiến này đã hướng tới việc dạy học phát triển phẩm chất,

năng lực. Từ đó, góp phần nâng cao chất lượng giáo dục toàn diện và thúc đẩy

quá trình đổi mới dạy và học ở cả giáo viên và học sinh.

* Cam kết: Chúng tôi cam đoan những điều khai trên đây là đúng sự thật

và không sao chép hoặc vi phạm bản quyền.

Xác nhận của cơ quan, đơn vị Yên Dũng, ngày 10 tháng 04 năm 2021

Tác giả sáng kiến

KT. HIỆU TRƯỞNG PHÓ HIỆU TRƯỞNG

Trần Thùy Trang

19

Lê Đình Khương

PHỤ LỤC

PHỤ LỤC I

THIẾT KẾ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN “VỢ NHẶT”

CỦA KIM LÂN THEO HƯỚNG VẬN DỤNG CHIẾN THUẬT

“CUỘC GIAO TIẾP VĂN HỌC”

1. Vận dụng chiến thuật "Cuộc giao tiếp văn học" vào hoạt động khởi động

- Mục tiêu:

+ Tạo không khí sôi nổi, khơi gợi sự hứng thú của học sinh trước khi bắt đầu tìm

hiểu bài học mới.

+ Phát triển năng lực tư duy, năng lực sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt ý tưởng cá

nhân một cách tự tin.

- Tổ chức hoạt động: vận dụng chiến thuật cuộc giao tiếp văn học kết hợp

phương pháp đàm thoại gợi mở, học sinh hoạt động cá nhân.

+ Giáo viên chuyển giao nhiệm vụ học tập: Hãy kể tên ít nhất 03 tác phẩm

viết về đề tài người nông dân Việt Nam trước Cách mạng tháng Tám. Trong

từng tác phẩm ấy, hình ảnh người nông dân hiện lên như thế nào?

Giáo viên chiếu sơ đồ cuộc giao tiếp có tính giả định, ở giữa đặt chủ đề: “Người

nông dân tôi biết”, xung quanh sẽ là những cánh hoa để trắng chờ ghi ý kiến

của các học sinh.

+ Học sinh báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập: 2-3 học sinh phát

biểu để điền thông tin vào các cánh hoa.

+ Giáo viên dẫn dắt, chuyển giao nhiệm vụ học tập: Từ những người nông

dân tôi biết, hãy nêu cảm nhận chung của anh/ chị về hình ảnh người nông

dân trong văn học Việt Nam trước Cách mạng nói chung.

+ Học sinh báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập.

- Phương án đánh giá: Đánh giá trên câu trả lời của học sinh dựa trên hai

tiêu chí: kể được tên tác phẩm, nhận xét được đặc điểm của hình tượng

người nông dân trong tác phẩm.

20

- Sản phẩm mong đợi:

Chị Dậu: hoàn cảnh nghèo khó nhưng giàu lòng yêu thương chồng con, có tinh thần phản kháng và quyết tâm giữ gìn phẩm chất

Chí Phèo: bị cự tuyệt quyền làm người, bị hủy hoại cả về nhân hình lẫn nhân tính nhưng sâu trong con người Chí vẫn là bản tính lương thiện và sức mạnh của sự thức tỉnh lương tâm

Người nông dân tôi biết

Ý kiến HS:

Lão Hạc: nghèo khổ nhưng cũng yêu thương con và giàu lòng tự trọng

Người nông dân chịu nhiều đau khổ nhưng vẫn mang vẻ đẹp và phẩm chất đang quý.

Giáo viên dẫn dắt, chuyển giao nhiệm vụ học tập:

Như vậy, có thể thấy người nông dân là một đề tài lớn trong văn học

Việt Nam. Họ hiện lên với rất nhiều những đau khổ, khốn khó của cuộc đời

nhưng dù rơi vào hoàn cảnh nào, những con người ấy vẫn tỏa sáng vẻ đẹp và

phẩm chất đáng quý.

Cũng viết về đề tài người nông dân với cảm hứng ngợi ca như thế, nhưng

Kim Lân đã mang đến cho chúng ta cái nhìn mới mẻ về người nông dân như thế

nào? Hãy cùng đến với truyện ngắn "Vợ nhặt" để hiểu được những đóng góp

mới của nhà văn Kim Lân.

2. Vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào tìm hiểu nhan đề

truyện ngắn Vợ nhặt

- Mục tiêu:

+ Kiến thức: ý nghĩa nhan đề.

+ Năng lực: phân tích ý nghĩa nhan đề, giao tiếp, hợp tác, tự học.

+ Phẩm chất: nhân ái.

21

- Tổ chức hoạt động:

+ Sử dụng chiến thuật Cuộc giao tiếp văn học kết hợp phương pháp đóng vai và

dạy học hợp tác.

+ Hoạt động chuẩn bị trước giờ học:

Giáo viên chia nhóm (6 học sinh 1 nhóm), giao nhiệm vụ: đóng vai nhà

văn đối thoại với bạn đọc về ý nghĩa nhan đề truyện. (Hướng dẫn cụ thể: tìm

hiểu về nhan đề tác phẩm, xây dựng nội dung phỏng vấn và trả lời phỏng vấn,

phân vai, chuẩn bị đạo cụ, luyện tập phỏng vấn và trả lời phỏng vấn). Học sinh

làm việc theo nhóm, thực hiện theo các bước mà giáo viên hướng dẫn.

+ Hoạt động trong giờ học: Giáo viên tổ chức cho học sinh giao tiếp văn học

thông qua hình thức đóng vai: yêu cầu một học sinh giữ vai trò người dẫn

chương trình, một học sinh vào vai nhà văn Kim Lân để trò chuyện với các

độc giả - những học sinh khác trong lớp về nhan đề của truyện.

+ HS báo cáo kết quả thực hiện nhiệm vụ học tập.

- Phương án đánh giá: Đánh giá kết quả hoạt động phỏng vấn và trả lời

phỏng vấn của học sinh dựa trên các tiêu chí và mức độ sau:

4 3 2 1 Tiêu chí/

Mức độ

Nội dung - Phân tích Nêu được đầy Nêu được ý Hiểu sai ý

(5 điểm) đầy đủ, mạch đủ ý nghĩa nghĩa nhan nghĩa nhan

lạc ý nghĩa nhan đề đề nhưng đề hoặc chỉ

nhan đề. (4 điểm) còn thiếu nêu một

- Liên hệ, so một số ý cách sơ sài

sánh với (3 điểm) (0 – 2

những cách điểm)

đặt tên khác

(5 điểm)

Kĩ năng trình Hỏi và trả lời Hỏi và trả lời Hỏi và trả Hỏi và trả

bày vấn đề một cách mạch lạc, lưu lời mạch lạc lời còn lúng

(2 điểm) mạch lạc, lưu loát song song đôi chỗ túng, lộn

22

loát, diễn chưa diễn còn vấp váp. xộn.

cảm. cảm.

(2 điểm) (1.5 điểm) (1.0 điểm) (0.5 điểm)

Kĩ năng giao Thực hiện Thực hiện Thực hiện Xấu hổ, e

tiếp, xử lí được cuộc được cuộc được cuộc ngại, gây

tình huống phỏng vấn phỏng vấn phỏng vấn ảnh hưởng

(2 điểm) một cách tự một cách tự nhưng còn lớn tới việc

tin, ứng xử tin nhưng thiếu tự tin, phỏng vấn

khéo léo, linh phản ứng còn rụt rè, e ngại (0.5 điểm)

hoạt (2 điểm) chưa linh (1 điểm)

hoạt

(1.5 điểm)

Khả năng - Nhập vai - Nhập vai Đã biết Còn nhầm

đóng vai diễn một cách tự một cách tự đóng vai lẫn vai diễn

xuất, chuẩn bị nhiên. nhiên nhưng song còn (0.25 điểm)

đạo cụ - Chuẩn bị đủ chưa huẩn bị thiếu tự

(1 điểm) đạo cụ cần đủ đạo cụ cần nhiên

thiết (mic, thiết. (0.5 điểm)

máy quay,…) (0.75 điểm)

(1 điểm)

- Sản phẩm học tập mong đợi của hoạt động phỏng vấn và trả lời phỏng

vấn về nhan đề Vợ nhặt

+ Người dẫn giới thiệu chương trình, giới thiệu các nhân vật tham gia.

+ Độc giả 1: Thưa ông! Tác phẩm này có tiền thân là tiểu thuyết "Xóm ngụ

cư", vậy tại sao khi viết lại, ông đặt tên cho truyện là "Vợ nhặt" mà không phải

là “Xóm ngụ cư” hay “Nhặt vợ”?

+ Nhà văn: Tôi không đặt tên cho tác phẩm là “Xóm ngụ cư”, vì nhan đề này

phù hợp với dung lượng của một tiểu thuyết, còn nhan đề Vợ nhặt phù hợp

với dung lượng một truyện ngắn (do tiểu thuyết có dung lượng và phạm vi

23

phản ánh rộng lớn, còn truyện ngắn thì phản ánh đời sống qua một lát cắt).

Tôi cũng không đặt tên cho tác phẩm là “Nhặt vợ” vì “Nhặt vợ” nhấn mạnh

vào hành động, vào sự rẻ rúng của thân phận con người. Còn “Vợ nhặt” thì

ngược lại, nhan đề này lại nhấn mạnh được sự trân trọng của tôi dành cho con

người.

+ Độc giả 2: Xin ông cho biết, ông muốn gửi gắm điều gì vào nhan đề của

câu chuyện?

+ Nhà văn: Nhan đề của truyện gợi số phận bi thảm, thân phận rẻ rúng của con

người nhưng đồng thời nó cũng gợi lên sự cưu mang, đùm bọc và khát vọng

hướng tới cuộc sống tươi sáng hơn của con người trong hoàn cảnh khốn cùng.

Người vợ nhặt về không cưới xin nhưng được trân trọng đúng nghĩa, được sống

trong tình thương yêu của người chồng, của bà mẹ chồng. Từ đó mà một không

khí đầy ắp tình người, đầm ấm, lạc quan lan tỏa khắp câu chuyện, xua đi cái ảm

đạm, u tối của những ngày đói.

- Người dẫn chương trình kết lại: ý nghĩa nhan đề Vợ nhặt:

+ Phản ánh tình cảnh bi thảm của con người trong nạn đói.

+ Ngợi ca vẻ đẹp ngời sáng của tình người.

3. Vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào nhận diện và phân

tích tình huống truyện Vợ nhặt

- Mục tiêu

+ Kiến thức: Tình huống Tràng nhặt vợ.

+ Năng lực: nhận diện, phân tích, đánh giá ý nghĩa tình huống, nhận xét về nghệ

thuật xây dựng tình huống; giải quyết vấn đề, hợp tác, giao tiếp…

+ Phẩm chất: bồi dưỡng lòng nhân ái.

- Tổ chức hoạt động:

+ Sử dụng chiến thuật cuộc giao tiếp văn học kết hợp phương pháp đàm thoại

gợi mở và dạy học hợp tác.

+ Chuẩn bị trước giờ học:

24

Giáo viên chia lớp thành các nhóm (6 học sinh/ nhóm).

Các nhóm thảo luận về nhiệm vụ sau: Phân tích tác động của tình huống Tràng

nhặt vợ đến các nhân vật: người dân xóm ngụ cư, bà cụ Tứ, cô vợ nhặt và chính

Tràng. Từ đó, rút ra ý nghĩa của tình huống Tràng nhặt vợ.

Điền các thông tin tìm được vào sơ đồ số 1 và trình bày sơ đồ 1 trên giấy A0

đồng thời chuẩn bị thuyết trình.

Sơ đồ số 1: Tác động của tình huống Tràng nhặt vợ đến các nhân vật và ý nghĩa

của tình huống truyện.

Dân xóm ngụ cư Bà cụ Tứ

Tràng nhặt vợ

Tràng Cô vợ nhặt

Ý kiến HS: ý nghĩa tình huống?

+ Hoạt động trong giờ học:

. Sau khi tìm hiểu khái niệm tình huống truyện; nêu tình huống truyện trong tác

phẩm Vợ nhặt của Kim Lân; tìm hiểu về bối cảnh Tràng nhặt vợ và qúa trình

nhặt vợ, giáo viên dẫn dắt, chuyển giao nhiệm vụ:

Từ tình huống anh Tràng nhặt vợ, các nhân vật khác đã lần lượt bước vào

tác phẩm để tạo nên bức tranh đời sống trước mắt người đọc. Đó là những đứa

trẻ và người dân ở xóm ngụ cư, là bà cụ Tứ - mẹ Tràng, là thị - cô vợ nhặt và

còn là bản thân Tràng – nhân vật chính trong câu chuyện đặc biệt này nữa. Vậy,

tình huống này đã tác động tới các nhân vật ra sao? Họ đã biểu lộ những suy

nghĩ, thái độ, tình cảm như thế nào trước sự kiện này? Ý nghĩa của tình huống?

Học sinh các nhóm báo cáo kết quả thảo luận đã chuẩn bị ở nhà theo phiếu học

25

tập. Sau đó, tiến hành thảo luận, nhận xét chéo bài của nhau.

- Phương án đánh giá: Đánh giá trên sản phẩm học tập (sơ đồ và phần thuyết

trình của học sinh), trả lời phản biện, đánh giá mức độ hợp tác giữa các thành

viên trong nhóm theo các tiêu chí và mức độ như sau:

4 3 2 1 Mức độ/

Tiêu chí

Nội dung sản Chính xác, Chính xác, Chính xác Hiểu sai vấn

phẩm (5 điểm) đầy đủ, sâu song còn thiếu song còn đề

sắc (5 điểm) một số ý nên thiếu nhiều (0 - 1 điểm)

chưa sâu sắc. ý.

(4 điểm) (2 -3 điểm)

Hình thức sản Khoa học, Khoa học Một số chỗ Lộn xộn,

phẩm (1 điểm) thẩm mĩ nhưng chưa chưa khoa mất thẩm mĩ

(1 điểm) thẩm mĩ học (0.25 điểm)

(0.75 điểm) (0.5 điểm)

Kĩ năng - Trình bày rõ - Trình bày rõ - Trình bày - Trình bày

thuyết trình và ràng, mạch ràng, mạch rõ ràng, còn vấp váp,

trả lời câu hỏi lạc, tự tin. lạc, tự tin mạch lạc, tự lúng túng,

phản biện - Trả lời nhưng chưa tin nhưng không trả lời

(2 điểm) thuyết phục trả lời thuyết không trả lời được câu hỏi

các câu hỏi phục một số được câu phản biện.

phản biện câu hỏi phản hỏi phản

(2 điểm) biện biện.

(1.5 điểm) (1.0 điểm) (0.5 điểm)

Mức độ hợp Tất cả các 2/3 thành viên ½ thành Dưới ½

tác giữa các thành viên trong nhóm viên trong thành viên

thành viên trong nhóm tham gia hoạt nhóm đều trong nhóm

trong nhóm đều tham gia động tham gia tham gia

(2 điểm) hoạt động (1,5 điểm) hoạt động hoạt động

26

(2 điểm) (1,0 điểm) (0,5 điểm)

Sơ đồ số 1:

Tác động của tình huống Tràng nhặt vợ tới các nhân vật và ý nghĩa của tình huống truyện

Dân xóm ngụ cư: + Ngạc nhiên + Bỗng dưng rạng rỡ hẳn lên, có cái gì lạ lùng và tươi mát… + Xì xào bàn tán, lo lắng cho Tràng

Bà cụ Tứ: + Phấp phỏng, ngạc nhiên + Vừa mừng vừa tủi, vừa thương vừa lo + Biết ơn thị, vun vén, nâng niu hạnh phúc cho hai con. Bà nói toàn chuyện vui, toàn chuyện tương lai

TRÀNG

NHẶT

VỢ

Cô vợ nhặt: + Thèn thẹn, ngượng nghịu + Thấm thía hoàn cảnh cay đắng, rón rén, e thẹn, xấu hổ khi đối diện với bà cụ Tứ. + Hiền thảo, đúng mực, biết vun vén cho gia đình, biết chấp nhận hoàn cảnh và gánh vác gia đình. + Khơi lên cho mẹ con Tràng niềm hi vọng vào tương lai. Tràng: + Hạnh phúc lâng lâng, trân trọng cô vợ nhặt, có thái độ rất nghiêm túc với cuộc hôn nhân. + Sung sướng đến bàng hoàng, không dám tin là sự thật. + Trưởng thành, có trách nhiệm với gia đình, có ý thức xây đắp hạnh phúc.

Ý kiến của học sinh:

+ Tình huống kì lạ, éo le, cảm động. + Khắc họa tính cách nhân vật. + Thể hiện chủ đề tác phẩm:

Phản ánh hiện thực thê thảm: thân phận con người bị rẻ rúng,

những điều thiêng liêng bị coi thường.

27

Ca ngợi vẻ đẹp của tình người, của khát vọng sống mãnh liệt: chuyện đùa mà thành thật, đám cưới diễn ra giữa một đám ma khổng lồ.

4. Vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào tìm hiểu nhân vật

người vợ nhặt

- Mục tiêu

+ Kiến thức: nhân vật cô vợ nhặt (số phận và vẻ đẹp; ý nghĩa của nhân vật, nghệ

thuật xây dựng nhân vật).

+ Năng lực: phân tích nhân vật văn học, thẩm bình chi tiết; giải quyết vấn đề,

hợp tác, giao tiếp…

+ Phẩm chất: bồi dưỡng lòng nhân ái

- Tổ chức hoạt động:

+ Sử dụng chiến thuật cuộc giao tiếp văn học kết hợp phương pháp nhập vai và

dạy học hợp tác.

+ Chuẩn bị trước giờ học: GV chia nhóm (6 học sinh/ nhóm), hoàn thành

phiếu học tập, phân vai và chuẩn bị trình bày.

Phiếu học tập số 1

I. Nhập vai Tràng trả lời câu hỏi phỏng vấn dưới đây:

1. Chào anh Tràng! Đến bây giờ anh đã biết tên chị nhà chưa ạ? Trong tác

phẩm, nhà văn Kim Lân đã gọi chị bằng cái tên nào? Anh có thể cho biết

vì sao nhà văn lại gọi chị nhà như thế không?

……………………………………………………………………………

2. Ấn tượng về lần đầu tiên gặp gỡ của anh và chị là như thế nào?

……………………………………………………………………………

3. Lần thứ hai anh gặp lại chị là trong hoàn cảnh nào? Ngoại hình, hành

động, ngôn ngữ của chị nhà lần này ra sao? ………………......................

4. Trong hoàn cảnh đó, cảm xúc của anh đối với chị như thế nào? Anh đã

hành động ra sao?…………………………………………………….…

5. Trên đường về, anh thấy biểu hiện của chị có gì khác không? Lúc gặp mẹ

anh, dáng điệu, tâm trạng của chị như thế nào? ..........................................

6. Lần đầu tiên anh phát hiện ra những điều mới mẻ, tốt đẹp về chị là khi

nào? Đó là những điều gì? Cảm xúc của anh khi đó ra sao?....................

28

7. Anh nghĩ điều gì đã giúp chị trở lại đúng là chính mình? Qua câu chuyện

của mình, anh muốn nhắn gửi điều gì đến bạn đọc?.................................

8. Trong cuộc trò chuyện này, anh có muốn nói gì với mẹ và vợ anh không?

Trân trọng cảm ơn anh về cuộc trò chuyện! Chúc anh chị trăm năm hạnh phúc!

II. Dựa vào bài phỏng vấn đã hoàn thành, hãy đánh giá về nhân vật người

vợ nhặt và nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn.

+ Hoạt động trong giờ học: học sinh các nhóm báo cáo kết quả thực hiện nhiệm

vụ và nhận xét, đánh giá chéo phần trình bày của nhau. Giáo viên nhận xét

chung và chốt kiến thức về người vợ nhặt.

- Phương án đánh giá: dựa trên các tiêu chí và mức độ như sau:

4 3 2 1 Mức độ/

Tiêu chí

Nội dung phỏng - Tái hiện đầy - Tái hiện - Chỉ tái hiện - Nội dung

vấn và trả lời đủ các chi tiết, đầy đủ các các chi tiết, sơ sài,

phỏng vấn sự việc chi tiết, sự sự việc mà thiếu nhiều

(4 điểm) - Cảm nhận, lí việc không có ý

giải sâu sắc về - Có cảm cảm nhận, lí (1 điểm)

nhân vật nhận, lí giải, giải, đánh

- Đánh giá về đánh giá về giá về nhân

nhân vật nhân vật vật.

(4 điểm) nhưng chưa (2 điểm)

sâu sắc

(3 điểm)

Kĩ năng phỏng - Hỏi và trả lời - Hỏi và trả Hỏi và trả Không

vấn và trả lời lưu loát, có ngữ lời lưu loát lời được thực hiện

phỏng vấn điệu. nhưng chưa nhưng còn hoàn chỉnh

(2 điểm) - Nhập vai, diễn diễn cảm. vấp váp, được cuộc

xuất tự nhiên. - Đã nhập chưa tự phỏng vấn

- Giao tiếp linh vai, diễn nhiên. và trả lời

hoạt xuất nhưng (1 điểm) phỏng vấn.

29

(2 điểm) còn chưa tự (0.5 điểm)

nhiên.

- Giao tiếp

chưa linh

hoạt

(1,5 điểm)

Trả lời câu hỏi Trả lời chính Trả lời chính Trả lời chính Trả lời

phản biện xác, đầy đủ, xác, đầy đủ, xác, đầy đủ được dưới

(2 điểm) thuyết phục các thuyết phục được ½ các 1/2 các câu

câu hỏi phản được 3/4 các câu hỏi phản hỏi phản

biện (2 điểm) câu hỏi phản biện biện

biện (1.0 điểm) (0. 5 điểm)

(1.5 điểm)

Mức độ hợp tác Tất cả các thành Khoảng 2/3 Khoảng ½ Dưới 1/2

giữa các thành viên đều tham các thành các thành các thành

viên trong nhóm gia thực hiện viên tham viên đều viên tham

(2 điểm) nhiệm vụ gia thực hiện tham gia gia thực

(2 điểm) nhiệm vụ thực hiện hiện nhiệm

(1.5 điểm) nhiệm vụ vụ

(1.0 điểm) (0.5 điểm)

- Sản phẩm mong đợi của hoạt động tìm hiểu về người vợ nhặt

Phiếu học tập số 1

I. Nhập vai Tràng trả lời câu hỏi phỏng vấn dưới đây:

1. Chào anh Tràng! Đến bây giờ anh đã biết tên chị nhà chưa ạ? Trong tác

phẩm, nhà văn Kim Lân đã gọi chị bằng cái tên nào? Anh có thể cho biết

vì sao nhà văn lại gọi chị nhà như thế không? (Nhà văn Kim Lân gọi vợ

tôi là thị. Nhà văn không đặt cho vợ tôi một cái tên. Bởi lẽ, trong nạn đói,

con người ta nay sống mai chết, một cái tên nào có ý nghĩa gì. Hơn thế

nữa, ở ngoài kia, có biết bao người như vợ tôi, bị cái đói dứt ra khổi gia

đình, quê hương, làng quán, lang thang, đói khát trên những nẻo đường,

30

thân phận bọt bèo, rẻ rúng như cái cơm cái rác.)

2. Ấn tượng về lần đầu tiên gặp gỡ của anh và chị là như thế nào? (Tôi chỉ

hò đùa một câu, ai ngờ nhà tôi chạy ton ton ra đẩy xe bò cho tôi thật).

3. Lần thứ hai anh gặp lại chị là trong hoàn cảnh nào? Ngoại hình, hành

động, ngôn ngữ của chị nhà lần này ra sao? (Lần thứ hai, tôi vừa trả hàng

xong, đang ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ thì nhà tôi ở đâu sầm sập

chạy đến, mắng vào mặt tôi, bảo tôi là điêu. Hôm ấy trông nhà tôi rách

lắm, điệu bộ thì cong cớn, lời lẽ thì chua ngoa cứ nhất mực đòi được ăn).

4. Trong hoàn cảnh đó, cảm xúc của anh đối với chị như thế nào? Anh đã

hành động ra sao? (Lúc ấy, thú thật tôi cũng hơi sốc. Từ thuở cha sinh mẹ

đẻ ra tới giờ, tôi chưa gặp người đàn bà nào như thế. Nhưng nhìn thị rách

quá, tôi cũng thương, chắc là đói lắm rồi đây. Tôi liền mời thị ăn thật. Thị

ăn xong thì dò hỏi tôi Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. Tôi bảo Làm đếch

gì có vợ rồi rủ đùa thị về theo mình. Ai ngờ thị về thật. Lúc đầu, tôi cũng

sợ lắm, vì thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi, lại

còn đèo bòng. Nhưng mạnh hơn cả nỗi sợ là niềm khao khát hạnh phúc,

tôi cũng mong có được cuộc sống lứa đôi lắm. Vậy là bất chấp tất cả, tôi

đưa nhà tôi về.)

5. Trên đường về, anh thấy biểu hiện của chị có gì khác không? Lúc gặp mẹ

anh, dáng điệu, tâm trạng của chị như thế nào? (Trên đường về, nhà tôi

bỗng nhiên khác hẳn, không còn đâu vẻ chao chát, vô duyên như lúc

trước, nhà tôi ngượng nghịu, xấu hổ, chân nọ bước ríu cả vào chân kia.

Khi gặp mẹ tôi, thị ý tứ lễ phép rồi cứ cúi mặt, tay vân vê tà áo đã rách

bợt. Chắc là nhà tôi lúc ấy xấu hổ, lo lắng lắm).

6. Lần đầu tiên anh phát hiện ra những điều mới mẻ, tốt đẹp về chị là khi

nào? Đó là những điều gì? Cảm xúc của anh khi đó ra sao? (Đó là vào

sáng hôm sau, khi tôi thức dậy, thấy quang cảnh trong nhà hoàn toàn đổi

khác, mọi thứ đều đã được dọn dẹp, ngăn nắp tinh tươm. Ngoài vườn, mẹ

tôi đang lúi húi giẫy cỏ còn vợ tôi thì đang quét lại cái sân. Vợ tôi hôm

nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, đúng mực. Bao nhiêu cái

31

vẻ chao chát, chỏng lỏn, thị đã bỏ ở ngoài chợ hết rồi. Nhìn thấy cảnh

tượng ấy, bỗng nhiên tôi thấy gắn bó, thương yêu với cái gia đình của tôi

đến lạ lùng. Tôi thấy mình nên người và thấy mình có bổn phận phải lo

lắng cho gia đình mình).

7. Anh nghĩ điều gì đã giúp chị trở lại đúng là chính mình? Qua câu chuyện

của mình, anh muốn nhắn gửi điều gì đến bạn đọc? (Vậy là tình thương

yêu của tôi, tấm lòng bao dung, nhân hậu của mẹ tôi đã khiến cho nhà tôi

trở lại đúng là chính mình. Trước đó, vợ tôi quả thật đã có những lúc vô

duyên, mất hết tự trọng, nhưng đó không phải là bản chất mà là do cái đói

xô đẩy buộc nhà tôi phải hành động liều lĩnh. Nhưng khi về với gia đình

tôi, có lẽ nhà tôi đã thấm thía một điều: không phải là miếng ăn mà chính

tình yêu thương mới đem đến cho con người hạnh phúc. Và đó cũng là

điều mà tôi muốn nhắn gửi tới bạn đọc.

8. Trong cuộc trò chuyện này, anh có muốn nói gì với mẹ và vợ anh không?

(Tôi muốn gửi lời cảm ơn vợ và mẹ tôi đã ở bên tôi trong cơn hoạn nạn,

khó khăn, đã yêu thương tôi và cho tôi một gia đình đúng nghĩa).

Trân trọng cảm ơn anh về cuộc trò chuyện! Chúc anh chị trăm năm hạnh phúc!

II. Dựa vào bài phỏng vấn đã hoàn thành, hãy đánh giá về nhân vật người

vợ nhặt và nghệ thuật xây dựng nhân vật của nhà văn.

1. Nhân vật người vợ nhặt đã thể hiện giá trị nhân đạo của tác phẩm: đề cao khát

vọng sống, khát vọng hạnh phúc gia đình; khẳng định hạnh phúc gia đình đem

đến ý nghĩa cho cuộc sống, làm con người thay đổi, trở nên tốt đẹp hơn; ngợi ca

niềm hi vọng vào cuộc sống và tương lai.

2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật: nhân vật hiện lên qua tình huống truyện đặc

sắc với những chi tiết miêu tả ngoại hình, hành động, cử chị, dáng vẻ, lời nói,…

rất sinh động.

5. Vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào hoạt động luyện tập,

vận dụng

- Mục tiêu:

+ Kiến thức: vận dụng những kiến thức đã tiếp nhận vào thực hiện các nhiệm vụ,

32

từ đó, rèn luyện kĩ năng cho thuần thục, nhuần nhuyễn hơn.

+ Năng lực: phân tích nhân vật văn học, cảm nhận về chi tiết nghệ thuật; giải

quyết vấn đề, hợp tác, giao tiếp…

+ Phẩm chất: bồi dưỡng lòng nhân ái

- Tổ chức hoạt động:

+ Sử dụng chiến thuật cuộc giao tiếp văn học kết hợp phương pháp dạy học hợp

tác.

+ Chuẩn bị trước giờ học: Giáo viên chia lớp thành các nhóm (6 học sinh

1nhóm). Nhiệm vụ các nhóm là hoàn thành 3 bài tập sau, trình bày trên giấy A0,

chuẩn bị thuyết trình.

Bài tập số 1: Trong Vợ nhặt, Kim Lân nhiều lần miêu tả phản ứng của thị trước

miếng ăn. Lần thứ nhất, khi được mời ăn giầu, thị cong cớn: Có ăn gì thì ăn, chứ

chả ăn giầu. Lần thứ hai, khi được mời ăn bánh đúc, thị Cắm đầu ăn liền một

mạch bốn bát bánh đúc chẳng chuyện trò gì… Lần thứ ba, trước bát cháo cám,

thị điềm nhiên và vào miệng…

Hãy phân tích để rút ra ý nghĩa của từng chi tiết. Từ đó, nhận xét về sự

thay đổi trong con người thị và ý nghĩa của sự thay đổi đó.

Điền các thông tin tìm được vào sơ đồ số 2

1. Có ăn gì thì ăn, chứ chả ăn giầu… → Ý nghĩa

Sơ đồ số 2: Chủ đề “Miếng ăn và nhân cách con người”

2. Cắm đầu ăn liền một mạch bốn bát bánh đúc… → Ý nghĩa

Miếng ăn và nhân cách của thị

3. Điềm nhiên và vào miệng bát cháo cám… → Ý nghĩa

Nhận xét về sự thay đổi và ý nghĩa của sự thay đổi đó:

33

Bài tập số 2: Từ phản ứng của bà cụ Tứ trước sự việc Tràng nhặt vợ, ta liên

tưởng tới phản ứng của bà cô Thị Nở khi Thị Nở về xin phép bà cho lấy Chí

Phèo. Hãy so sánh hai chi tiết này, chỉ ra điểm khác nhau trong thái độ của từng

nhân vật (bà cô Thị Nở và bà cụ Tứ). Đưa ra ý kiến đánh giá của anh/ chị.

Điền các thông tin tìm được vào sơ đồ số 3 như sau:

Sơ đồ số 3: Phản ứng trước hôn nhân

Thái độ của bà cô Thị Nở khi đứa cháu về xin phép lấy Chí Phèo:

Thái độ của bà cụ Tứ trước việc Tràng nhặt vợ:

Phản ứng trước hôn nhân

Ý kiến HS:

Bài tập số 3: Tìm hiểu thái độ, hành động, lời nói, suy nghĩ của các nhân vật

trong gia đình Tràng trước chi tiết bát cháo cám. Điền thông tin tìm được để

hoàn thành sơ đồ 4 dưới đây:

Sơ đồ số 4: Bát cháo cám với mọi người trong gia đình Tràng

Tràng Bà cụ Tứ

Bát cháo cám với mọi người trong gia đình Tràng

Cô vợ nhặt

34

Ý kiến HS về ý nghĩa chi tiết này

+ Hoạt động trong giờ học: học sinh treo tất cả các sản phẩm học tập lên. Mỗi

nhóm sẽ cử đại diện lên thuyết trình về sản phẩm thảo luận. Các nhóm khác

nhận xét, bổ sung. Giáo viên kết luận. (Làm tuần tự các bước này với từng bài

tập).

- Phương án đánh giá: Đánh giá hoạt động của học sinh (sơ đồ kiến thức, khả

năng trình bày, trả lời câu hỏi phản biện, mức độ hợp tác giữa các thành viên

trong nhóm) dựa theo bảng mô tả các tiêu chí và mức độ như ở phần đánh giá

sơ đồ 1: Tác động của tình huống Tràng nhặt vợ đến các nhân vật và ý nghĩa

của tình huống truyện mà chúng tôi đã trình bày phía trên

- Sản phẩm mong đợi của hoạt động vận dụng, luyện tập

Sơ đồ số 2: Chủ đề “Miếng ăn và nhân cách con người”

1. Có ăn gì thì ăn, chứ chả ăn giầu… → Ý nghĩa: cái đói khiến con người ta từ bỏ hết phép tắc giao tiếp.

2. Cắm đầu ăn liền một mạch bốn bát bánh đúc… → Ý nghĩa: cái đói khiến người ta quên đi hết lòng tự trọng.

Miếng ăn và nhân cách của thị

3. Điềm nhiên và vào miệng bát cháo cám… → Ý nghĩa: Thị biết chấp nhận hoàn cảnh, chia sẻ với cảnh ngộ của gia đình.

Nhận xét: Sự thay đổi theo chiều hướng tích cực của nhân vật Thị nhờ vào sự cưu mang của mẹ con Tràng.→ Sức mạnh của tình thương yêu.

35

Sơ đồ số 3: Phản ứng trước hôn nhân

Thái độ của bà cô Thị Nở khi đứa cháu về xin phép lấy Chí Phèo: - Tức tối, ghen tị - Chửi bới, chia rẽ, không đồng ý

Thái độ của bà cụ Tứ trước việc Tràng nhặt vợ: - Ai oán, thương xót, thấu hiểu - Mừng lòng, biết ơn, vun vén

Phản ứng trước hôn nhân

Ý kiến HS: - Thái độ của bà cô Thị Nở hà khắc, đầy định kiến. - Thái độ của bà cụ Tứ đầy yêu thương, nhân hậu, vị tha, đáng để chúng ta cảm phục, trân trọng.

Sơ đồ số 4: Bát cháo cám với mọi người trong gia đình Tràng

Bà cụ Tứ

Tràng - Gợt một miếng, bỏ vội vào miệng - Mặt chun ngay lại. → Phản ứng rất trẻ con.

- Chủ động tạo ra - Lật đật, lễ mễ, tươi cười, đon đả, dỗ dành hai con → Người mẹ cố mang lại niềm vui cho các con.

Bát cháo cám với mọi người trong gia đình Tràng

Cô vợ nhặt - - Hai con mắt tối lại, điềm nhiên và vào miệng. → Biết chấp nhận hoàn cảnh, tương lai sẽ là người vợ biết gánh vác.

Ý kiến HS về ý nghĩa chi tiết này: - Tô đậm giá trị hiện thực: cái đói. - Khắc sâu giá trị nhân đạo: tình người trong nạn đói (họ đã ở bên nhau, cưu mang nhau trong những ngày đói).

36

6. Vận dụng chiến thuật “Cuộc giao tiếp văn học” vào hoạt động mở rộng

- Mục tiêu:

+ Kiến thức: vận dụng những kiến thức, kĩ năng, kinh nghiệm chiếm lĩnh được

từ bài học vào thực hiện nhiệm vụ học tập mới.

+ Năng lực: tưởng tượng, giao tiếp, sử dụng ngôn ngữ.

+ Phẩm chất: yêu thương, trân trọng con người

- Tổ chức hoạt động:

+ Sử dụng chiến thuật cuộc giao tiếp văn học kết hợp phương pháp dạy học hợp

tác theo nhóm đôi.

+ Chuẩn bị trước giờ học:

Giáo viên để học sinh tự ghép thành các nhóm đôi, thực hiện nhiệm vụ:

phỏng vấn bạn đọc về tương lai của gia đình Tràng. Hình thức sản phẩm là video

phỏng vấn.

Học sinh tự ghép cặp, tự phân vai, xây dựng nội dung, tiến hành phỏng

vấn và quay video.

+ Hoạt động trong giờ học: GV mời HS trình chiếu video sản phẩm và tiến

hành nhận xét, bổ sung.

- Phương án đánh giá: đánh giá qua video (Nội dung, khả năng nhập vai, chất

37

lượng kĩ thuật.)

PHỤ LỤC IV

THIẾT KẾ MỘT SỐ HOẠT ĐỘNG DẠY HỌC

TRUYÊN NGẮN “VỢ NHẶT” CỦA KIM LÂN THEO HƯỚNG VẬN

DỤNG CHIẾN THUẬT “THINK - ALOUD”

1. Vận dụng chiến thuật think – aloud vào dạy đọc hiểu đoạn văn : “Thị lẳng

lặng theo hắn vào trong nhà… chợt hắn thấy sờ sợ” (tr.25, sgk)

- Mục tiêu

+ Kiến thức: sự việc Tràng đưa người vợ nhặt về tới nhà; cử chỉ, lời nói và tâm

trạng của hai nhân vật trước gia cảnh nghèo nàn của Tràng.

+ Năng lực: phân tích nhân vật văn học, thẩm bình chi tiết; sử dụng ngôn ngữ

+ Phẩm chất: bồi dưỡng lòng nhân ái

- Phương pháp, kĩ thuật dạy học: Sử dụng chiến thuật think – aloud, kết hợp

giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm

- Tổ chức hoạt động dạy và học trên lớp:

+ Giáo viên hướng dẫn học sinh cách đọc hiểu một đoạn văn theo hướng vận

dụng chiến thuật think – aloud (đọc chậm, hình dung, tưởng tượng, lí giải, phán

đoán, đánh giá,…)

+ Giáo viên làm mẫu cho học sinh bằng “cuốn phim trí óc” miêu tả cảnh Tràng

dẫn vợ về nhà qua xóm ngụ cư (xem chi tiết ở phụ lục IV.1).

+ Giáo viên giới thiệu đoạn văn cần tìm hiểu, chuyển giao nhiệm vụ cho học

sinh: xây dựng “cuốn phim trí óc” miêu tả cảnh Tràng đưa vợ về tới nhà trong

đoạn văn “Thị lẳng lặng theo hắn vào trong nhà… chợt hắn thấy sờ sợ” (tr.25,

sgk). Thời gian 12 phút.

+ Học sinh làm việc cá nhân, xây dựng cuốn phim dạng viết.

+ Giáo viên mời một học sinh lên “phát cuốn phim” của mình (xem chi tiết

“cuốn phim trí óc” của em Lê Mai Phương ở phụ lục IV. 4).

+ Giáo viên chia lớp thành 4 nhóm, mỗi nhóm sẽ thảo luận đánh giá về một tiêu

38

chí của cuốn phim vừa phát theo bảng dưới đây:

Tiêu chí đánh giá Nhận xét về cuốn Dẫn chứng Bổ sung Điểm

phim trí óc

sự

Hiểu đúng việc/ nhân vật (4 điểm) Giải thích sự việc (2 điểm)

Hình dung, tưởng tượng về sự việc/ nhân vật (2 điểm)

Nhận xét, đánh giá về sự việc/ nhân vật (2 điểm)

+ Các nhóm học sinh sẽ thảo luận, nhận xét về cuốn phim vừa được trình bày.

+ Giáo viên kết luận và rút kinh nghiệm cho hoạt động lần sau.

2. Vận dụng chiến thuật think – aloud vào dạy đọc hiểu đoạn văn : “Bà lão

lật đật chạy xuống bếp… Một nỗi tủi hờn len vào tâm trí mọi người” (tr. 31,

sgk)

- Mục tiêu

+ Kiến thức: phản ứng của bà cụ Tứ, của Tràng và người vợ nhặt trước bát cháo

cám.

+ Năng lực: phân tích nhân vật văn học, thẩm bình chi tiết; sử dụng ngôn ngữ

+ Phẩm chất: bồi dưỡng lòng nhân ái

- Phương pháp, kĩ thuật dạy học: Sử dụng chiến thuật think – aloud, kết hợp

giữa hoạt động cá nhân và hoạt động nhóm

- Tổ chức hoạt động dạy và học trên lớp:

+ Giáo viên giới thiệu đoạn văn cần tìm hiểu, chuyển giao nhiệm vụ cho học

sinh: xây dựng “cuốn phim trí óc” miêu tả cảnh bữa ăn đầu tiên đón nàng dâu

mới trong đoạn văn “Bà lão lật đật chạy xuống bếp… Một nỗi tủi hờn len vào

39

tâm trí mọi người” (tr. 31, sgk). Thời gian 10 phút.

+ Học sinh làm việc cá nhân, xây dựng cuốn phim dạng viết.

+ Giáo viên chữa bài, nêu ra các yêu cầu cần đạt. Sau đó, hướng dẫn học sinh tự

đánh giá bài mình và đánh giá đồng đẳng theo hai mẫu phiếu sau:

Mẫu 1: Phiếu dành cho HS tự đánh giá cuốn phim của mình

Tên “cuốn phim”:……………………………..

Họ và tên hs:………………………………

Tiêu chí đánh giá Tự nhận xét Điểm

Hiểu đúng sự việc/ nhân vật(4 điểm)

Giải thích sự việc (2 điểm)

Hình dung, tưởng tượng về sự việc/ nhân vật (2 điểm) Nhận xét, đánh giá về sự việc/ nhân vật (2 điểm)

Mẫu 2: Phiếu đánh giá dành cho HS nghe/ xem phim

Tên “cuốn phim”:………………………………………

Họ và tên HS đánh giá:……………………………………….

Họ và tên HS được đánh giá:………………………………………

Tiêu chí đánh giá Nhận xét về cuốn Dẫn chứng Bổ sung Điểm

phim trí óc

sự

Hiểu đúng việc/ nhân vật (4 điểm) Giải thích sự việc (2 điểm)

Hình dung, tưởng tượng về sự việc/ nhân vật (2 điểm)

40

Nhận xét, đánh giá về sự việc/ nhân vật (2 điểm)

PHỤ LỤC V

CÁC BƯỚC TIẾN HÀNH GIẢI PHÁP 2

VÀ SẢN PHẨM CỦA GIẢI PHÁP 2

1. Xây dựng “cuốn phim trí óc” đoạn văn Kim Lân miêu tả cảnh Tràng dẫn

cô vợ nhặt về nhà qua xóm ngụ cư

Giữa cái cảnh tối sầm lại vì đói khát ấy, một buổi chiều người trong xóm

bỗng thấy Tràng về với một người đàn bà nữa. (Một sự việc thật lạ lùng). Mặt

hắn có một vẻ gì phớn phở khác thường.(Khuôn mặt phớn phở là thế nào nhỉ?

Chắc hẳn đó là vẻ ngoài rạng rỡ, biểu lộ niềm vui sướng trong lòng). Hắn tủm

tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh. (Hạnh phúc như một thứ

ánh sáng kì diệu từ bên trong tâm hồn Tràng, rạng ngời trên khuôn mặt đang nở

ra vì sung sướng, trong ánh mắt lấp lánh không kiềm chế được niềm hân

hoan).Người đàn bà đi sau hắn chừng ba bốn bước. Thị cắp cái thúng con, đầu

hơi cúi xuống, cái nón rách tàng nghiêng nghiêng che khuất đi nửa mặt. Thị có

vẻ rón rén, e thẹn.(Dáng điệu của thị đúng là cái dáng điệu của cô dâu mới về

nhà chồng, chả trách mà chưa cần một lời giới thiệu nào cả, những đứa trẻ con

và người dân xóm ngụ cư đã có thể nhận ra). Mấy đứa trẻ con thấy lạ vội chạy

ra đón xem. Sợ chúng nó đùa như ngày trước, Tràng vội vàng nghiêm nét mặt,

lắc đầu ra hiệu không bằng lòng. (Sao hôm nay anh Tràng tự dưng lại nghiêm

túc thế nhỉ, mà hình như anh ta đang lo cô vợ nhặt xấu hổ thì phải?)

Mấy đứa trẻ đứng dừng lại, nhìn Tràng, đột nhiên có đứa gào lên:

- Anh Tràng ơi! – Tràng quay đầu lại. Nó lại cong cổ gào lên lần nữa –

Chông vợ hài.

Tràng bật cười:

- Bố ranh! (Câu chửi yêu vừa hàm chứa ngụ ý hôm nay anh đã lớn, anh đã

có vợ rồi vừa thể hiện niềm sung sướng, hãnh diện của Tràng. Thế là chỉ vừa

mới có vợ, lập tức trong Tràng đã có sự thay đổi. Từ một anh con trai hiền lành,

ngờ nghệch, vô tâm vô tính, Tràng như đã lớn hơn, trưởng thành hơn, biết quan

41

tâm tới người vợ nhặt).

2. Xây dựng “cuốn phim trí óc” đoạn văn Kim Lân miêu tả cuộc gặp gỡ lần

thứ hai của Tràng và cô vợ nhặt

Lần thứ hai, Tràng vừa trả hàng xong, ngồi uống nước ở ngoài cổng chợ

tỉnh thì thị ở đâu sầm sập chạy đến. Thị đứng trước mặt hắn sưng sỉa nói:

- Điêu! Người thế mà điêu! (Hành động và ngôn ngữ của thị thật sự gây

sốc).

Hắn giương mắt nhìn thị, không hiểu. Thật ra lúc ấy hắn cũng chưa nhận

ra thị là ai. Hôm nay thị rách quá, áo quần tả tơi như tổ đỉa, thị gầy sọp hẳn đi,

trên cái khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. (Thị chính là bức

chân dung điển hình cho con người trong nạn đói. Nhìn thị hình như trong Tràng

có chút cảm thương).

- Hôm ấy leo lẻo cái mồm hẹn xuống, thế mà mất mặt. (Thị đang mắng

anh Tràng bằng thái độ chua ngoa, đanh đá).

À, hắn nhớ ra rồi, hắn toét miệng cười.(Tự dưng bị người ta mắng mà vẫn

cười. Đúng là anh chàng ngờ nghệch).

- Chả hôm ấy thì hôm nay vậy. Này hẵng ngồi xuống ăn miếng giầu đã.

(Tràng rất lịch sự).

- Có ăn gì thì ăn, chả ăn giầu.(Thị khước từ miếng trầu xã giao để đòi

miếng ăn thật. Sao mà thị vô duyên thế!)

Thị vẫn đứng cong cớn trước mặt hắn.

- Đấy, muốn ăn gì thì ăn. (Tràng rất hào hiệp).

Hắn vỗ vỗ vào túi.

- Rích nố cu, hở!

Hai con mắt trũng hoáy của thị tức thì sáng lên, thị đon đả:

- Ăn thật nhá! Ừ ăn thì ăn sợ gì. (Thị rất vui sướng khi được ăn. Tưởng

như thị bất chấp tất cả để được ăn. Nhưng hóa ra đằng sau câu nói tỏ vẻ không

sợ ấy lại là một tâm lí có sợ. Vậy thị sợ gì nhỉ? Thị vẫn sợ bị người ta đánh giá

chăng?)

Thế là thị ngồi sà xuống, ăn thật. Thị cắm đầu ăn một chặp bốn bát bánh

42

đúc liền chẳng chuyện trò gì. (Hành động của thị cho thấy sự vô duyên của

người đàn bà nhưng cũng cho thấy tình cảnh thê thảm của thị. Người đàn bà bị

cái đói dồn đuổi đến mức phải tạm quên đi lòng tự trọng để kiếm miếng ăn, để

bảo toàn mạng sống). Ăn xong thị cầm dọc đôi đũa quệt ngang miệng, thở:

- Hà, ngon! Về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố. (Làm việc xấu một cách thản

nhiên thì là người mất hết nhân cách nhưng với thị, khi làm cái việc vô duyên,

thiếu tự trọng ấy, thị luôn thấy lo sợ. Điều đó cho thấy thị không hoàn toàn mất

hết nhân cách).

Hắn cười:

- Làm đếch gì có vợ. (Câu nói tưởng như vô tư nhưng lại hàm chứa một

thái độ chua chát về cảnh ngộ của bản thân). Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra

khuân hàng lên xe rồi cùng về.

Nói thế Tràng cũng tưởng là nói đùa, ai ngờ thị về thật. (Cái đói dồn đuổi

khiến thị hành động liều lĩnh. Thị bám lấy người đàn ông xa lạ với mong ước

kiếm miếng ăn, kiếm một chỗ nương thân). Mới đầu anh chàng cũng chợn, nghĩ:

thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuổi nổi không, lại còn đèo

bòng. (Tràng đang lo sợ cho tương lai, đang băn khoăn lựa chọn giữa tính vị kỉ

và lòng vị tha). Sau không biết nghĩ thế nào hắn tặc lưỡi một cái:

- Chậc, kệ! (Câu nói bật ra tưởng như một sự liều lĩnh, bất chấp, phó mặc

số phận nhưng kì thực nó xuất phát từ khát vọng hạnh phúc đã lấn át mọi lo

lắng, biến Tràng thành con người hào hiệp, mạnh mẽ).

Hôm ấy, hắn đưa thị vào chợ tỉnh, bỏ tiền ra mua cho thị cái thúng con

đựng vài thứ lặt vặt và ra hàng cơm đánh một bữa thật no nê rồi cùng đẩy xe bò

về… (Tràng bắt đầu có sự thay đổi, anh ta biết quan tâm thị, chăm lo cho thị.

Điều đó chứng tỏ Tràng rất trân trọng người vợ nhặt này). Như vậy, có thể thấy,

sự chao chát, chỏng lỏn, vô duyên của thị không phải là bản chất. Hành động

của thị không xuất phát từ một tâm địa xấu mà là do cái đói xô đẩy khiến thị

buộc phải liều mình. Anh Tràng tưởng như ngờ nghệch, vô tâm nhưng kì thực

sâu bên trong con người ấy là lòng thương người, là niềm khao khát hạnh phúc.

43

Câu chuyện từ đùa mà thành thật ẩn chứa nhiều nỗi bi hài, éo le, cảm động.

3. Xây dựng “cuốn phim trí óc” đoạn văn Kim Lân miêu tả tâm trạng của

bà cụ Tứ khi Tràng ra mắt vợ với mẹ

Bà lão cúi đầu nín lặng. (Có gì đó ngậm ngùi trong hành động của bà cụ

Tứ. Tại sao sau khi nghe con giới thiệu vợ bà cụ lại nín lặng như thế?) Bà lão

hiểu ra rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra biết bao nhiêu cơ sự (Chắc

là bà đã hình dung ra được hoàn cảnh anh con trai nhặt vợ, bà còn mường tượng

được ra cả tình cảnh của cô vợ nhặt và hiểu được lí do vì sao cô ta lại theo không

con trai mình về. Trong bao nhiêu cơ sự ấy là biết bao những éo le, ngang trái,

trớ trêu của số phận, bà lão hiểu cả nhưng không nỡ nói cũng không nỡ hỏi. Vì

nói ra chỉ khiến cho các con mình thêm tủi hổ, bẽ bàng, đặc biệt là người đàn bà

xa lạ theo không về kia), vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp con trai mình.

Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi,

những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì… (Mừng vì con có

được vợ mà bà vẫn trăn trở về bổn phận làm mẹ, vẫn buồn tủi vì số kiếp con

mình thật bất hạnh khi chẳng được cha mẹ lo dựng vợ gả chồng một cách tử tế,

mở mặt mở mày, phải đi nhặt vợ một cách chua xót). Trong kẽ mắt kèm nhèm

của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt… Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống

qua được cơn đói khát này không. (Trước tình cảnh con trai lấy vợ giữa những

ngày đói quay đói quắt, người mẹ già càng cảm thấy thương con, lo lắng cho

tương lai của các con).

Bà lão khẽ thở dài ngửng lên, đăm đăm nhìn người đàn bà. Thị cúi mặt

xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt. (Tâm trạng của thị lúc này thế nào nhỉ? Thị

xấu hổ hay thị đang lo lắng, sợ hãi? Có thể còn là cả cảm giác có lỗi nữa? Người

ta đã đói khổ thế rồi mà còn phải đèo bòng thêm mình. Mình thành cái của nợ

đời của nhà người ta). Bà lão nhìn thị và bà nghĩ: Người ta có gặp bước khó

khăn, đói khổ này, người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ

được… (Không một lời phán xét, tra hỏi, bà cụ Tứ nhìn người đàn bà xa lạ bằng

cái nhìn đầy cảm thông, thấu hiểu và hơn thế nữa là cả thái độ biết ơn. Nhờ có

thị nên con trai bà mới có vợ. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm hàm chứa sắc thái đối

44

thoại như để bênh vực cho cô con dâu. Tấm lòng của người mẹ này quả thật là

bao dung, vị tha). Thôi thì bổn phận bà là mẹ, bà đã chẳng lo lắng được cho

con… May ra mà qua khỏi được cái tao đoạn này thì thằng con bà cũng có vợ,

nó yên bề nó, chẳng may ra ông giời bắt chế cũng phải chịu chứ biết thế nào mà

lo cho hết được? (Thương con bà cụ Tứ vừa ngậm ngùi chấp nhận vừa tự an ủi

chính mình). Đoạn văn này miêu tả diễn biến tâm trạng của bà cụ Tứ thật tinh tế

và sâu sắc. Qua đó, ta nhìn thấy vẻ đẹp của tấm lòng thương con, nhân hậu, bao

45

dung ở người mẹ nghèo.

46