intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

SKKN: Dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5

Chia sẻ: Trần Văn An | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:42

44
lượt xem
3
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Sáng kiến kinh nghiệm "Dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5" nhằm mục đích tìm ra biện pháp tốt nhất để triển khai có hiệu quả các tiết dạy phân môn Tiếng việt cho học sinh lớp 5 theo chương trình hiện hành.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: SKKN: Dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5

I. Phần mở đầu :<br /> 1. Lý do chọn sáng kiến kinh nghiệm :<br /> 1.1. Tính lịch sử của vấn đề nghiên cứu : <br /> Trường Tiểu học là nơi đầu tiên trẻ em được học tập Tiếng Việt, chữ viết <br /> với phương pháp nhà trường, phương pháp học tập tiếng mẹ đẻ một cách khoa <br /> học. Học sinh tiểu học chỉ có thể học tập các môn khác khi có kiến thức Tiếng <br /> Việt. Bởi đối với người Việt, tiếng Việt là phương tiện giao tiếp, là công cụ trao <br /> đổi thông tin và chiếm lĩnh tri thức. Hơn nữa, con người muốn tư duy phải có ngôn <br /> ngữ. Cả những lúc chúng ta nghĩ thầm trong bụng, chúng ta cũng “bụng bảo dạ” <br /> cũng nói thầm, tức là cũng sử dụng ngôn ngữ, một hình thức ngôn ngữ mà các nhà <br /> chuyên môn gọi là ngôn ngữ bên trong. Còn thông thường thì chúng ta thể hiện ra <br /> ngoài kết quả của hoạt động tư duy, những ý nghĩ tư tuởng của chúng ta thành <br /> những lời nói, những thực thể ngôn ngữ nhất định. Ngôn ngữ là công cụ, là hiện <br /> thực của tư duy. Bởi lẽ đó, tư duy và ngôn ngữ có quan hệ chặt chẽ với nhau, tác <br /> động qua lại lẫn nhau. Người có tư duy tốt sẽ nói năng mạch lạc, trôi chảy và nếu <br /> trau dồi ngôn ngữ được tỉ mỉ, chu đáo thì sẽ tạo điều kiện cho tư duy phát triển tốt. <br /> Môn Tiếng Việt trong trường tiểu học không thể là bản sao từ chương trình khoa <br /> học Tiếng Việt vì trường có nhiệm vụ riêng của mình. Nhưng với tư cách là một <br /> môn học độc lập, Tiếng Việt có nhiệm vụ cung cấp cho HS những tri thức về hệ <br /> thống Tiếng Việt (hệ thống âm thanh, cấu tạo từ, cấu trúc ngữ pháp, khả năng <br /> biểu cảm của ngôn ngữ, quy tắc hoạt động của ngôn ngữ). Đồng thời, kiến thức <br /> môn Tiếng Việt hình thành cho HS kĩ năng giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết). Ngoài ra, <br /> Tiếng Việt còn là công cụ giao tiếp và tư duy cho nên nó còn có chức năng kép mà <br /> các môn học khác không có được, đó là:  trang bị cho HS một số công cụ để tiếp <br /> nhận và diễn đạt mọi kiến thức khoa học trong nhà trường, là công cụ để học các <br /> môn học khác; kĩ năng nghe, nói, đọc, viết là phương tiện là điều kiện thiết yếu <br /> <br /> <br /> 1<br /> của quá trình học tập. Bên cạnh chức năng giao tiếp, tư duy ngôn ngữ còn có chức <br /> năng quan trọng nữa đó là thẩm mĩ, ngôn ngữ là phương tiện để tạo nên cái đẹp, <br /> hình tượng nghệ thuật. Trong văn học, HS phải thấy được vẻ đẹp của ngôn ngữ. <br /> Vì thế ở trường tiểu học, Tiếng Việt và văn học được tích hợp với nhau, văn học <br /> giúp HS có thẩm mĩ lành mạnh, nhận thức đúng đắn, có tình cảm thái độ hành vi <br /> của con người Việt Nam hiện đại, có khả năng hòa nhập và  phát triển cộng đồng <br /> nên hiểu được các văn bản văn học hoặc hiểu được ngôn ngữ trong giao tiếp thì <br /> HS cần phải hiểu được nghĩa của từ và các lớp nghĩa của từ.<br /> 1.2. Tính cấp thiết của vấn đề nghiên cứu : <br /> Từ  có vai trò rất quan trọng trong hệ  thống ngôn ngữ.  Con người muốn tư <br /> duy   phải có ngôn ngữ. Không có vốn từ  đầy đủ, con người không thể  sử  dụng  <br /> ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp. Việc dạy từ ngữ  ở tiểu học sẽ tạo cho  <br /> học sinh có năng lực từ ngữ, giúp cho học sinh nắm được tiếng mẹ đẻ, có phương <br /> tiện giao tiếp để  phát triển toàn diện. Vốn từ của học sinh càng giàu bao nhiêu thì <br /> khả  năng sử  dụng từ càng lớn, càng chính xác, hoạt động giao tiếp sẽ  thể  hiện rõ <br /> ràng và nhạy bén hơn.<br /> Với mục tiêu được quy định thì môn Tiếng Việt có vai trò hết sức quan <br /> trọng, giúp trẻ  chiếm lĩnh tri thức mới, hình thành và phát triển năng lực sử  dụng <br /> tiếng Việt trong học tập và trong giao tiếp. Ngay từ  bậc tiểu học, học sinh được  <br /> chú trọng dạy từ, trong đó dạy giải nghĩa của từ  và các lớp từ  có quan hệ  về  ngữ <br /> nghĩa là nhiệm vụ vô cùng quan trọng.<br /> 2. Mục đích nghiên cứu :<br /> Sáng kiến kinh nghiệm này nhằm mục đích tìm ra biện pháp tốt nhất để <br /> triển khai có hiệu quả  các tiết dạy phân môn Tiếng việt cho học sinh lớp 5 theo <br /> chương trình hiện hành.<br /> ­ Giới hạn nghiên cứu của đề tài:<br /> <br /> <br /> 2<br />  + Nội dung:<br />  Một số biện pháp để dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về nghĩa cho <br /> học sinh lớp 5.<br />   + Phạm vi:<br />  Môn Tiếng Việt lớp 5 (về nội dung chương trình, phương pháp dạy học và  <br /> tâm lí của học sinh tiểu học).<br /> 3. Thời gian và địa điểm :<br /> Từ tháng 8/2013 đến tháng 3/2014.<br /> Học sinh lớp 5 ­  Trường Tiểu học Quyết Thắng.<br /> 4. Đóng góp mới về mặt thực tiễn :<br /> Trong các tiết học, giáo viên muốn phát huy được tính tích cực của học sinh, <br /> cho các em phát hiện từ khó nhưng chưa cho học sinh hiểu nghĩa từ bằng cách diễn <br /> đạt dễ hiểu, gây ấn tượng để  các em nhớ  lâu, Khi tìm hiểu nghĩa của từ  có giá trị <br /> nghệ thuật trong văn bản tập đọc không có định hướng rõ ràng, cụ thể học sinh lan <br /> man, không có trọng tâm. Hoặc một số  giáo viên khi dạy khái niệm các lớp từ  có <br /> quan hệ ngữ nghĩa giáo viên  hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều  <br /> nghĩa, từ đồng âm chưa rõ ràng, cụ thể khiến nhiều em còn lúng túng khi được hỏi  <br /> đến....Tất cả những thực tế trên đều làm giảm hiệu quả của tiết dạy Tiếng việt ở <br /> lớp 5 hiện nay.<br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 3<br /> II. Phần nội dung :<br /> 1. Chương 1. Tổng quan.<br /> 1.1. Cơ sở ly luận :<br /> Ngôn ngữ văn học còn là biểu hiện bậc cao của nghệ thuật ngôn từ  nên khi <br /> dạy văn là cách bồi dưỡng năng lực ngôn ngữ  tối   ưu cho người học. Dạy Tiếng  <br /> Việt là đưa các em hoà nhập vào một môi trường sống của thời kì hội nhập. Còn <br /> hiểu sâu sắc về Tiếng Việt là tác động đến kĩ năng cảm thụ thơ  văn của HS. Kết  <br /> hợp giữa dạy văn và dạy tiếng sẽ tạo được hiệu quả cao giữa hai môn văn ­ Tiếng <br /> Việt để HS lớn lên trở  thành những con người hiện đại, được giáo dục toàn diện. <br /> Về bản chất giáo dục là sự chuyển giao các giá trị văn hoá đông ­ tây, kim ­ cổ, một  <br /> sự giao tiếp mà phương tiện chủ yếu là lời nói của cha mẹ, thầy cô là sách báo các  <br /> loại. Trong giáo dục, việc nắm vững tiếng nói (trước hết là tiếng mẹ  đẻ) có ý  <br /> nghĩa quyết định. Nếu học sinh yếu kém về ngôn ngữ, nghe nói chỉ hiểu lơ mơ, nói <br /> viết không chính xác, không thể  hiện được ý mình cho suôn sẻ, thì không thể  nào <br /> khai thác đầy đủ các thông tin tiếp nhận từ người thầy, từ sách vở được. Bởi vậy, <br /> trong nội dung giáo dục, chúng ta cần phải hết sức coi trọng việc đào tạo về  mặt  <br /> <br /> <br /> 4<br /> ngôn ngữ, xem đó là điều kiện không thể thiếu để bảo đảm thành công trong thực  <br /> hiện sứ mệnh trong đại của mình.  <br />           Nhận thức của trẻ từ 6 đến 11 tuổi còn mang tính cụ thể, gắn với các hình <br /> ảnh và hiện tượng cụ thể. Trong khi đó kiến thức về nghĩa của từ và các lớp từ có <br /> quan hệ về ngữ nghĩa có tính trừu tượng và khái quát cao. Do vậy, các em thường  <br /> không thích học, ngại suy nghĩ dẫn đến tiết học kém hiệu quả, học sinh nắm kiến  <br /> thức hời hợt. Mặt khác, học sinh lớp 5 được tiếp xúc với những từ  mới có những <br /> bước nhảy vọt về  kiến thức nên các em thường có hiện tượng lười học, sợ  giải <br /> nghĩa từ, sợ học các bài về các lớp từ. Chính vì lẽ đó, người giáo viên là người dạy  <br /> phải biết khơi dậy niềm say mê học, óc tư  duy, sáng tạo của  mỗi học sinh.  Làm <br /> thế nào để đạt được điều đó?<br />         Do đặc điểm của môn học và đặc điểm nhận thức của học sinh lớp 5 mau nhớ <br /> nhưng lại nhanh quên, không thích những hoạt động kéo dài, thích những hình ảnh  <br /> trực quan sinh động..., người giáo viên cần lựa chọn phương pháp, hình thức tổ <br /> chức dạy học phù hợp với các đối tượng học sinh trong lớp để  học sinh nào cũng <br /> nắm chắc kiến thức về từ, củng cố tri thức mới, rèn luyện các kỹ năng cơ sở, phát  <br /> triển tư duy, ngôn ngữ... giúp học sinh tự tin hơn khi giao tiếp.<br /> 1. 2. Cơ sở thực tiễn :<br />                 Chương trình các môn học ở trường tiểu học hiện nay đã được sắp xếp  <br /> một cách khoa học hệ  thống song đối với học sinh tiểu học  là bậc học nền tảng, <br /> đến trường là một bước ngoặt lớn của các em trong đó hoạt động học là hoạt động <br /> chủ  đạo, kiến thức các môn học về tự   nhiên và xã hội chưa được bao nhiêu, vốn  <br /> từ sử dụng vào trong cuộc sống để diễn đạt trình bày tư tưởng, tình cảm của mình <br /> còn quá ít. Mặc dù vấn đề nghĩa của từ, các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa và việc  <br /> dạy vấn đề  này  ở  trường tiểu học không gây nhiều tranh cãi như  việc dạy nội <br /> dung cấu tạo từ nhưng đây lại là công việc không mấy dễ dàng bởi vì nghĩa của từ <br /> là một vấn đề phức tạp, trừu tượng, khó nắm bắt trong khi đó tư duy của học sinh <br /> 5<br /> tiểu học chủ  yếu thiên về  cụ  thể  tư  duy trừu tượng phát triển nhưng  ở  mức độ <br /> thấp. Các em thường lẫn lộn giữa từ nhiều nghĩa ­ từ đồng nghĩa ­ từ đồng âm, giải <br /> nghĩa từ còn mang tính chung chung, không chính xác. Hơn thế nữa, các em chưa ý <br /> thức được vai trò xã hội của ngôn ngữ, chưa nắm được các phương tiện kết cấu và <br /> quy luật cũng như họat động chức năng của nó. Mặt khác, HS cần hiểu rõ người ta  <br /> nói và viết không chỉ  cho riêng mình mà cho người khác nên ngôn ngữ  cần chính <br /> xác, dễ hiểu, tránh làm cho người khác hiểu sai nội dung câu, từ, ý nghĩa diễn đạt. <br /> Chính vì vậy việc dạy nghĩa của từ  và các lớp từ  có quan hệ  về  ngữ  nghĩa có rất <br /> nhiều giáo viên trong trường quan tâm song chưa có ai nghiên cứu nên tôi đã chọn  <br /> vấn đề này giúp học sinh tháo gỡ những khó khăn, vướng mắc khi học mảng kiến  <br /> thức này của môn TV.<br />                                      <br /> <br /> <br /> <br /> <br /> 2. Chương 2. Nội dung vấn đề nghiên cứu :<br /> Qua thực tế giảng dạy, dự giờ đồng nghiệp ở trường sở tại, trường bạn, tôi  <br /> nhận thấy việc dạy và học tốt về  nghĩa của từ  và các lớp từ  có quan hệ  về  ngữ <br /> nghĩa cho học sinh lớp 5 là một công việc rất cần thiết.<br /> Để khắc phục được những vấn đề đã nêu ở trên, tôi  tìm hiểu kĩ nội dung và <br /> hiểu được nội dung các tiết học trong chương trình, nghiên cứu cách tổ  chức các  <br /> trò chơi có thể áp dụng để hoàn thành bài học một cách nhẹ nhàng mà hiệu quả cao  <br /> nhất; giúp học sinh thư  giãn, mạnh dạn nói lên suy nghĩ của mình, nêu vấn đề  để <br /> cùng giải quyết; gợi cho học sinh thấy được mối liên hệ  giữa các bài học, phân <br /> môn trong Tiếng Việt để  vừa nắm chắc bài, vừa củng cố  được kiến thức đã học; <br /> <br /> <br /> 6<br /> kiểm tra kết quả, liên hệ thực tế… Làm tốt được điều đó, giáo viên dạy phải tâm  <br /> huyết với nghề, với học sinh, phải chuẩn bị kĩ cho mỗi bài dạy, mỗi tiết dạy và  <br /> nhất là phải nghiên cứu để  tìm ra giải pháp hữu hiệu nhất giúp học sinh học tốt  <br /> hơn.<br />       Vậy đóng góp của đề  tài này chính là tạo cho học sinh có hứng thú khi học <br /> Tiếng Việt nói chung và phần nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa,  <br /> giúp những học sinh còn ngại nói, ngại phát biểu trong học Tiếng Việt để nâng cao <br /> chất lượng  học cho học sinh trong các trường tiểu học.<br /> 2.1. Thực trạng :<br /> 2.1.1 Tìm hiểu thực tế của trường:<br /> Năm học 2013 ­ 2014, trường Tiểu học Quyết Thắng có ba lớp 5 với 105 học <br /> sinh. Tôi được phân công dạy và chủ  nhiệm lớp 5A. Lớp tôi chủ  nhiệm có 35 học <br /> sinh trong đó có 23 nữ, 12 nam. Trong quá trình nghiên cứu đề tài của mình, tôi gặp  <br /> một số khó khăn và thuận lợi như sau:<br />   *Thuận lợi :<br /> + Về phía Nhà trường:<br /> ­ Luôn  quan tâm đến chất lượng dạy của GV và chất lượng học của HS.<br /> ­ Đầu tư đầy đủ cơ sơ vật chất, trang thiết bị phục vụ công tác dạy và học.<br /> ­ Hàng tuần có các buổi sinh hoạt chuyên môn để GV trao đổi kinh nghiệm, <br /> thảo luận bài để tìm ra phương pháp, hình thức dạy học tối ưu  trong quá trình dạy.<br /> ­ Tổ chức thao giảng các cấp để giáo viên được cọ sát, học hỏi kinh nghiệm  <br /> của đồng nghiệp.<br />         + Về phía giáo viên:   <br />  ­ Phần lớn giáo viên của trường có trình độ  chuyên môn, nghiệp vụ  đạt và  <br /> vượt chuẩn, nhiều giáo viên đạt danh hiệu giáo viên dạy giỏi các cấp.<br />  ­ Giáo viên trong các tổ, khối chuyên môn luôn tự  học hỏi để  bổ  sung, cập  <br /> nhật kiến thức phục vụ cho công tác giảng dạy của mình.<br /> <br /> <br /> 7<br /> ­ Giáo viên quan tâm đến các đối tượng học sinh, nhiệt tình trong công tác <br /> giảng dạy.<br />        + Về phía học sinh:<br /> ­ Phần nhiều học sinh ngoan, tích cực trong học tập và rèn luyện.<br /> ­ Các em có đầy đủ đồ dùng học tập, sách giáo khoa, vở viết đúng quy định.<br /> ­ Phụ  huynh học sinh luôn quan tâm đến việc rèn luyện học tập HS, có sự <br /> kết hợp giữa phụ  huynh, giáo viên và các lực lượng giáo dục trong, ngoài Nhà  <br /> trường.<br />           * Khó khăn:<br />        + Về phía giáo viên:<br /> ­ Đôi khi  ở một số  tiết giáo viên chuẩn bị đồ  dùng dạy học còn sơ  sài chưa <br /> kích thích được sự hứng thú, tìm tòi, sáng tạo của học sinh.<br /> ­ Một vài giáo viên chưa nhanh nhạy trong việc đổi mới phương pháp dạy <br /> học theo hướng phát huy tính tích cực của học sinh, lấy học sinh làm trung tâm.<br />        + Về phía học sinh:<br /> ­ Một số  ít học sinh còn lười học, làm bài còn cẩu thả, làm các bài toán dưới <br /> hình thức qua loa cho xong.<br /> ­ Một số gia đình chưa thực sự quan tâm đến việc học của con mình, còn giao <br /> phó việc rèn luyện và học tập của học sinh cho Nhà trường.<br /> 2.1.2. Khảo sát :<br /> *  Dự giờ :<br />     Ngay từ những ngày đầu năm học, tôi dự giờ thăm lớp của giáo viên cùng khối.<br /> Qua dự giờ, tôi thấy tiết dạy đạt được một số ưu nhược điểm chính sau:<br /> Ưu điểm:<br />     ­ GV giảng dạy kiến thức cơ bản chính xác, có hệ thống.<br />     ­ Dạy đúng đặc trưng bộ môn, đúng loại bài.<br /> <br /> <br /> 8<br />      ­ Lời giảng mạch lạc, truyền cảm, quan tâm đến các đối tượng học sinh trong <br /> lớp.<br />      ­ Hoạt động giữa giáo viên và học sinh diễn ra nhẹ nhàng, tự nhiên.<br />      ­ Phân bố thời gian một cách hợp lý.<br />      ­ HS hiểu bài, làm bài tương đối chính xác.<br /> Khuyết điểm:<br />       ­ Một số  học sinh nắm bài chưa chắc nên khi giáo viên yêu cầu tìm từ  đồng <br /> nghĩa con tìm được ít.<br />      ­ GV chưa  khắc sâu kiến thức cho HS.<br />      ­ Phần mở rộng kiến thức cho học sinh giỏi chưa có.<br />  *  Chất lượng :<br />           Sau tiết dạy ở lớp 5B tôi tiến hành kiểm tra kỹ năng thực hành của các học <br /> sinh sau tiết dạy bằng bài tập :<br /> Bài 1: Tìm từ đồng nghĩa với mỗi từ sau đây: đẹp; to lớn; học tập.<br /> Bài 2. Xếp các từ dưới đây thành các nhóm từ đồng nghĩa : bao la, lung linh, vắng <br /> vẻ, hiu quạnh, long lanh, lóng lánh, mênh mông, vắng teo, vắng ngắt, bát ngát, lấp <br /> loáng, lóng lánh, hiu hắt, thênh thang.<br /> Kết quả của cả lớp đạt được như sau:<br /> THỜI GIAN LỚP 5B (LỚP ĐỐI CHỨNG) LỚP 5A (LỚP THỰC NGHIỆM)<br /> G K TB Y G K TB Y<br /> 10 HS 15HS 8HS 2HS 18 HS 15 HS 2 HS<br /> ĐẦU NĂM<br /> 28,6% 42,8% 22,9% 5,7% 51,4% 42,9% 5,7%<br />           Qua kết quả khảo sát, tôi thấy chất lượng làm bài ở lớp 5A cao hơn lớp 5B <br /> một chút.  Do vậy, để dạy và học phần nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về <br /> ngữ nghĩa đạt hiểu quả cao, cần chú trọng đến hình thức truyền thụ kiến thức để <br /> gây hứng thú nâng cao chất lượng học cho học sinh. Qua tìm hiểu và áp dụng một <br /> vài biện pháp dạy ­ học về vấn đề “Dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ <br /> về ngữ nghĩa cho học sinh lớp 5” trong năm học 2013 – 2014,  tôi nhận thấy hiệu <br /> <br /> <br /> 9<br /> quả giờ học cao hơn, học sinh hứng thú học, giờ học thật vui, thật nhẹ nhàng, sôi <br /> nổi đặc biệt mỗi học sinh đều được bộc lộ suy nghĩ về vốn sống, vốn từ của mình<br /> 2.2. Các giải pháp :<br /> Biện pháp dạy nghĩa của từ và các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa:<br /> Nghĩa của từ được hiểu là nội dung đối tượng vật chất, là sự  phản ánh đối <br /> tượng của hiện thực (một hiện tượng, một quan hệ, m ột tính chất, hay một quá <br /> trình) trong nhận thức, được ghi lại bằng một tổ  hợp âm thanh xác định. Để  tăng <br /> vốn từ cho học sinh, ngoài việc hệ  thống hóa vốn từ, công việc quan trọng là làm <br /> cho học sinh hiểu nghĩa từ, phân biệt được các lớp từ  có quan hệ  về  ngữ  nghĩa. <br /> Đây là nhiệm vụ  quan trọng trong sự  phát triển ngôn ngữ  của trẻ  em. Việc dạy  <br /> nghĩa của từ được tiến hành trong tất cả các giờ học, bất cứ ở đâu có cung cấp từ <br /> ngữ, thuật ngữ, khái niệm, thì ở đó có dạy nghĩa từ. Bài tập giải nghĩa từ xuất hiện <br /> trong phân môn LTVC không nhiều nhưng việc giải nghĩa từ  lại chiếm vị  trí rất <br /> quan trọng trong các bài học MRVT. Việc cho các em hiểu nghĩa các từ chủ điểm, <br /> từ trung tâm của mỗi trường nghĩa là vô cùng cần thiết.<br /> Trong quá trình nghiên cứu tôi đã cụ thể bằng những biện pháp sau:<br /> a. Biện pháp dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5.<br /> ­ Các biện pháp giải nghĩa từ.<br /> ­ Các biện pháp tìm hiểu ý nghĩa của một số  từ  ngữ  có giá trị  nghệ  thuật <br /> trong văn bản tập đọc.<br /> b. Biện pháp dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa.<br />  Dạy nghĩa của từ cho học sinh lớp 5<br /> Để  giải nghĩa từ, trước hết giáo viên phải hiểu nghĩa từ  và biết giải nghĩa  <br /> phù hợp với mục đích dạy học, phù hợp với đối tượng học sinh.  Đối với học sinh <br /> lớp 5 việc giải nghĩa từ không thể giống với học sinh lớp 1­2. Mặt khác hoạt động <br /> giải nghĩa từ nói chung cũng sẽ có điểm khác với việc giải nghĩa từ ngữ được dùng <br /> <br /> <br /> 10<br /> có tính nghệ thuật. Theo định hướng vừa nêu, tôi cố gắng tìm ra các biện pháp giải  <br /> nghĩa từ thích hợp với lượng từ ngữ cần cung cấp cho học sinh lớp 5 và các biện  <br /> pháp tìm hiể    u từ ngữ nghệ thuật trong các văn bản Tập đọc của khối lớp 5.<br /> Biện pháp 1:  Giải nghĩa từ cho học sinh lớp 5.<br />         Qua 16 tiết MRVT và 69 văn bản tập đọc, tôi thống kê được hơn 200 từ học  <br /> sinh cần hiểu nghĩa. Đây là số lượng từ khá lớn so với khả năng giải nghĩa của học <br /> sinh độ tuổi 11,12. Trong một số công trình nghiên cứu về PPDH TV và một số tài  <br /> liệu hướng dẫn giáo viên tiểu học dạy từ ngữ đã nêu một số cách giải nghĩa sau: <br /> “Giải nghĩa bằng trực quan; giải nghĩa bằng cách đối chiếu so sánh với các  <br /> từ  khác;  giải nghĩa bằng các từ  đồng nghĩa, trái nghĩa;  giải nghĩa từ  bằng cách  <br /> phân tích từ  các thành tố  và giải nghĩa từng thành tố  này ;  giải nghĩa bằng định  <br /> nghĩa....                                        <br />   Tôi đã chia các từ mà sách giáo khoa TV5 yêu cầu học sinh hiểu nghĩa thành <br /> các nhóm và xác định biện pháp giải nghĩa từ tương ứng với mỗi nhóm.<br />   A.  Giải nghĩa bằng định nghĩa<br />          Giải nghĩa bằng định nghĩa là biện pháp giải nghĩa bằng cách nêu nội dung <br /> nghĩa, gồm tập hợp các nét nghĩa bằng một định nghĩa. Tập hợp nét nghĩa được liệt <br /> kê theo sự sắp xếp nét nghĩa khái quát, cũng là nét nghĩa từ loại lên trước hết và các  <br /> nét nghĩa càng hẹp, càng riêng thì càng ở sau.  Tôi đã hướng dẫn HS:<br />             ­ Nhận dạng được ý nghĩa phạm trù của từ.<br />             ­ Xác định tiểu loại của từ.<br />  Tạm thời phân biệt cách giải nghĩa các nhóm từ như sau: <br />  a. Nhóm các từ thuộc từ loại danh từ<br /> *  Danh từ trừu tượng<br />         Khi giải nghĩa các danh từ trừu tượng, tôi hướng dẫn HS làm như sau:<br />  ­ Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát.<br /> <br /> <br /> 11<br />  ­ Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa. <br />  ­ Tùy đặc điểm riêng từng từ mà có thể chọn một trong các từ sau: sự, cuộc,  <br /> những, phạm vi, lĩnh vực, nơi.... làm từ công cụ để mở đầu nét nghĩa khái quát cho  <br /> mỗi từ.<br /> Ví dụ: <br /> Tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ: “Tư tưởng”:<br />                ­  Chọn được các từ gọi tên các nét nghĩa khái quát:  suy nghĩ hoặc ý nghĩ (  <br /> tập trung tư tưởng).<br />                ­ Xác định rõ phạm trù nghĩa của các từ cần giải nghĩa: quan điểm và ý  <br /> nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư  tưởng tiến bộ, tư  tưởng  <br /> phong kiến...)<br />     ­ Chọn từ công cụ để mở đầu cho nét nghĩa “sự”.<br /> Vậy, “tư tưởng” là sự suy nghĩ hoặc ý nghĩ ( tập trung tư tưởng), quan <br /> điểm và ý nghĩa chung của người đối với hiện thực khách quan (tư tưởng tiến bộ, <br /> tư tưởng phong kiến...)<br /> * Danh từ chỉ sự vật cụ thể.<br />          Tên gọi các sự vật tồn tại trong thực tế khách quan có rất nhiều nhưng có thể <br /> quy về các phạm trù sau: <br /> ­ Từ chỉ đồ vật, từ chỉ người và con vật, từ chỉ cây cối, chỉ các hiện tượng tự <br /> nhiên... Vì thế nét nghĩa khái quát mở đầu cho cách giải nghĩa bằng định nghĩa.<br />  Khi dạy bài Cửa sông (TV5­ T2 ­ Tr 75), tôi đã hướng dẫn HS giải nghĩa từ <br /> “Tôm rảo” : một loại tôm  (nghĩa khái quát) sống ở vùng nước lợ, thân nhỏ và dài.<br />  Với các từ chỉ đồ vật, dụng cụ, đồ dùng hoặc phương tiện sản xuất,  sau nét <br /> nghĩa phạm trù là nét nghĩa hình dáng, kích thước, cấu tạo và cuối cùng là nét nghĩa <br /> chức năng.<br /> Ví dụ:<br /> <br /> <br /> 12<br /> + (cái) Bay (TV5­ T1­ Tr 148): đồ vật (nét nghĩa phạm trù), dụng cụ của thợ <br /> nề, gồm một miếng thép mỏng hình lá lắp vào cán (nét nghĩa hình dáng, kích thước, <br /> cấu tạo) , dùng để xây, trát, láng ( nét nghĩa chức năng). <br />  Khi giải nghĩa các từ  bàn, ghế, sập, các em sẽ  miêu tả  cấu tạo các đồ  vật  <br /> này na ná như  nhau, nhưng nhất thiết các em phải nói được  bàn dùng  để  kê viết <br /> hoặc đặt đồ  đạc, ghế dùng để  ngồi, sập dùng để  nằm. Các đồ  vật này khác nhau <br /> về chức năng. Thực tế ở tiểu học, rất nhiều trường hợp học sinh thậm chí cả giáo  <br /> viên chỉ nêu được nét nghĩa chức năng khi giải nghĩa danh từ chỉ đồ vật dụng cụ.<br /> Ví dụ:<br /> +  men:(TV 5 ­ T1 – Tr118)  chất được dùng trong quá trình làm bia , rượu; <br /> chất gây say.<br /> ­  Cách giải nghĩa các từ chỉ động, thực vật. <br />        Khi giải nghĩa các từ thuộc loại này, giáo viên có thể nêu đây là một loại động  <br /> vật, thực vật,  thuộc họ.... Tuy nhiên để  giảng nghĩa ngắn gọn, giáo viên nên nêu <br /> trực tiếp nghĩa khái quát của từng loại, tiếp đến là các nét nghĩa  hình dáng, kích <br /> thước, môi trường sống hoặc tính năng của loài động vật, thực vật đó.<br /> Ví dụ: <br /> + Con mang (con hoẵng) (TV5­ T1­ Tr 75):  Loài thú rừng(nghĩa khái quát ), <br /> cùng họ  với hươu (thuộc họ), sừng bé có hai nhánh và lông vàng đỏ  (hình dáng, <br /> kích thước).<br />         Danh từ có nhiều tiểu loại, với mỗi tiểu loại, cách giải nghĩa bằng định nghĩa  <br /> cũng tương tự nghĩa là đưa nét nghĩa chỉ loại lên trước hết, sau đó mới cụ thể hóa.<br /> Ví dụ: <br /> + Thanh ray: (TV5 – T2 ­ Tr136) Thanh sắt hoặc thép (nét nghĩa chỉ loại ) <br /> ghép nối với nhau thành hai đường song song để  tạo thành đường cho tàu hoả, tàu  <br /> điện hay xe goòng chạy (cụ thể hóa).   <br /> b. Nhóm các từ thuộc loại động từ<br /> 13<br />                 Chia động từ thành ba loại: động từ chỉ hành động, động từ chỉ trạng thái <br /> và động từ chỉ quá trình.... nghĩa chỉ ở loại vừa nêu chính là nét nghĩa khái quát, mở <br /> đầu cho lời giải nghĩa động từ  theo cách định nghĩa. Việc xác định các nét nghĩa  <br /> tiếp theo cũng căn cứ  vào nét nghĩa khái quát này. Chẳng hạn khi giải nghĩa một  <br /> động từ  hành động, người giải nghĩa phải nêu được các nét nghĩa hành động tự <br /> thân hay hành động tác động, cách thức hành động và kết quả hành động. <br /> Ví dụ: <br /> + Trình (TV5­ T2 – Tr84): hoạt động, đưa ra để  người trên xem xét và giải <br /> quyết.<br />            Đối với các động từ  chỉ  ý nghĩa quá trình, sau nét nghĩa phạm trù cần nêu  <br /> được nét nghĩa chỉ diễn biến hoặc kết quả của  quá trình biến đổi.<br /> Ví dụ:<br /> + Hóa thân: quá trình biến đi và hiện ra lại thành một người hoặc một vật cụ <br /> thể khác nào đó (hóa thân vào nhân vật). <br />            Riêng đối với các động từ chỉ trạng thái, việc lựa chọn từ ngữ để giải nghĩa  <br /> cần chú ý sao cho các đặc điểm trạng thái của đối tượng được miêu tả  rõ   nét, <br /> nhưng không lẫn  với cách giải nghĩa các tính từ. Đặc biệt là các động từ chỉ trạng <br /> thái tâm lí, tình cảm của con người. <br />   Khi giải nghĩa các động từ chỉ trạng thái, nêu trạng thái của đối tượng trong  <br /> một tình trạng cụ thể như trạng thái tâm lí: xao xuyến, bồi hồi, băn khoăn, bối rối. <br /> Hoặc trạng thái vật lí của sự  vật: nứt, vỡ, mẻ, sứt... cũng có thể là các trạng thái,  <br /> tình trạng xã hội: náo loạn, nháo nhác, hỗn loạn, xôn xao. Còn khi giải nghĩa các  <br /> tính từ  chỉ  tính chất tâm lí, đặc điểm của người cần nêu rõ nét nghĩa thường biểu <br /> thị các đặc điểm của đối tượng và kèm theo thang độ đánh giá.<br /> Ví dụ: <br /> + Ác: tính chất gây hại, đau khổ, tai họa cho người khác.<br /> c. Nhóm từ thuộc loại tính từ  <br /> 14<br />          Tính từ thường được chia làm hai loại: <br /> ­ Tính từ không mức độ: Để  thể hiện được mức độ  đặc điểm, tính chất mà <br /> chúng biểu thị, những tính từ này có thể kết hợp với các từ: rất, quá, lắm... <br />  Ví dụ: trắng, vàng, xanh, đỏ, tròn... . <br /> ­ Tính từ có mức độ:  các tính từ này đã hàm chứa ý nghĩa mức độ nên chúng <br /> không kết hợp được với các từ  rất, quá, lắm ... Vì vậy khi dạy các em giải nghĩa <br /> các từ thuộc từ loại tính từ, nét nghĩa phạm trù cần nêu trước hết chính là nét nghĩa  <br /> tính chất, đặc điểm. Các nét nghĩa cần trình bày theo lối miêu tả.<br />  Ví dụ: <br /> +  Lan man:   nhiều ( nói, viết, suy nghĩ) hết cái này đến cái kia một cách <br /> mạch lạc, không hệ thống.<br />              Giải nghĩa bằng tập hợp các nét nghĩa là cách dạy đầy đủ  nhất nhưng là  <br /> một yêu cầu khó đối với học sinh tiểu học, vì vậy các bài tập giải nghĩa trong môn  <br /> LTVC thường xây dựng dưới dạng cho sẵn từ và nghĩa của từ, các định nghĩa về từ <br /> yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng. <br />  Loại này có 2 tiểu dạng.<br /> + Dạng 1: Cho sẵn các từ yêu cầu học sinh tìm trong các nghĩa đã cho nghĩa  <br /> phù hợp với từ.<br /> Ví dụ: * Bài tập 1(TV5­ T1­ Tr 47)  Dòng nào dưới đây nêu đúng nghĩa của  <br /> từ hoà bình:<br />                   a, Trạng thái bình thản.<br />                   b, Trạng thái không có chiến tranh.<br />                   c, Trạng thái hiền hoà, yên ả.<br /> + Dạng 2:  Cho từ và nghĩa của từ, yêu cầu học sinh xác lập sự tương ứng.<br /> Ví dụ: <br /> * Bài tập 1(TV5­ T1­ Tr116). Mỗi từ  ở cột A dưới đây ứng với nghĩa nào ở <br /> cột B?<br /> 15<br /> A B<br /> Sinh vật Quan hệ giữa sinh vật(kể cả người) với môi trường  <br /> xung quanh.<br /> Sinh thái Tên   gọi   chung   các   vật   sống,   bao   gồm   động   vật, <br /> thực vật và vi sinh vật, có cinh ra, lớn lên và chết.<br /> hình thái Hình thức biểu hiện ra bên ngoài của sự vật, có thể <br /> quan sát được<br /> <br /> <br /> B. Giải nghĩa theo lối so sánh từ đồng nghĩa, gần nghĩa hoặc trái nghĩa<br />           Đây là cách giải nghĩa một từ bằng cách quy nó về những từ đã biết, các từ <br /> dùng để quy chiếu đó phải được giảng kĩ.<br />           Ví dụ:  Khi dạy bài “ Tranh Làng Hồ”, tôi hướng dẫn HS giải nghĩa từ thuần <br /> phác như sau: <br /> + Thuần phác (TV5­ T2­ Tr 88): chất phác, mộc mạc.<br />             Vì từ đồng nghĩa thường khác nhau về sắc thái cho nên cách giảng theo lối <br /> so sánh từ đồng nghĩa nên kết hợp với cách giảng định nghĩa hoặc với cách giảng  <br /> theo lối miêu tả. Bên cạnh việc đưa ra các từ đồng nghĩa, gần nghĩa để đối chiếu, <br /> cần bổ sung thêm những nét nghĩa riêng cho từng từ nên khi giải nghĩa chúng ta có  <br /> thể chỉ cần làm rõ nghĩa một từ nhưng việc xác định loạt đồng nghĩa sẽ giúp chúng  <br /> ta hiểu rõ nghĩa của từ cần giải nghĩa hơn. <br /> Ví dụ:<br />           Khi giải nghĩa từ lốc (cơn lốc), chúng ta đưa từ này về loạt đồng nghĩa: lốc,  <br /> gió, bão, giông, giông tố,..... Trong loạt từ  trên, chúng ta chọn từ  gió làm từ  trung <br /> tâm rồi giảng nghĩa từ  thật kĩ, rồi bổ  sung những nghĩa đặc thù cho các từ    lốc, <br /> bão, giông...<br /> + gió: là hiện tượng không khí trong khí quyển chuyển động thành luồng từ <br /> vùng có áp suất cao đến vùng có áp suất thấp.<br /> + lốc: gió xoáy mạnh trong phạm vi nhỏ.<br /> 16<br /> + giông: biến động mạnh của thời tiết, thường có  gió  to giật mạnh và có <br /> sấm sét, mưa rào.<br /> + giông tố: cơn giông có  gió rất to và mạnh (thường dùng để  ví cảnh gian  <br /> nan đầy thử thách)<br />         Đối với các từ ghép đồng nghĩa cần chú ý đến nghĩa của các hình vị. Chính ý <br /> nghĩa của hình vị cấu tạo góp phần phân biệt nghĩa của từ này với từ  kia. <br /> Ví dụ:<br />          Để giải nghĩa từ vàng xuộm, hoặc vàng xọng và vàng lịm. Trước hết chúng ta <br /> quy chiếu chúng với từ  vàng (chỉ màu sắc vàng), rồi đưa thêm các nghĩa riêng của <br /> hình vị xuộm, xọng, lịm vào từng từ. Cụ thể:  <br /> + vàng xuộm: màu vàng đậm trên diện rộng.<br /> + vàng xọng: màu vàng gợi cảm giác mọng nước.<br /> + vàng lịm: màu vàng gợi cảm giác rất ngọt. <br />          Hoạt động giải nghĩa các từ ghép chính phụ cùng hình vị chính, khác nhau về <br /> hình vị phân nghĩa sắc thái hóa, cũng thực hiện theo cách thức nêu trên.<br />         Giải nghĩa từ bằng cách so sánh với từ trái nghĩa, giáo viên cần chú ý bản <br /> chất của từ  trái nghĩa là những từ  có nghĩa trái ngược, đối lập nhau xét theo một <br /> phạm trù nhất định. Tuy nhiên cần phân biệt, có những cặp từ trái ngược nhau tạo  <br /> thành hai cực mâu thuẫn, phủ định cực này tất yếu phải chấp nhận cực kia. <br /> Ví dụ:<br /> +  trắng – đen; trên­ dưới... Khi nói trên có nghĩa là không phải ở dưới. <br /> Có những từ trái nghĩa phương hướng là các từ chỉ hướng đối lập nhau trong  <br /> không gian hoặc thời gian. <br /> Ví dụ:<br />            nam­ bắc; đông – tây; lên – xuống; ra – vào.... <br /> <br /> <br /> <br /> 17<br /> Lại có những từ trái nghĩa thang độ, tức là những cặp từ có nghĩa trái ngược <br /> nhau tạo thành hai cực có điểm trung gian, phủ  định cực này chưa hẳn đã tất yếu <br /> chấp nhận cực kia. <br /> Ví dụ: <br /> + nóng – lạnh,  ở  giữa có mát,  ấm;   già – trẻ,  ở  giữa có trung niên.... Vì thế <br /> khi giải nghĩa từ bằng cách so sánh với các từ trái nghĩa, có trường hợp ta nói:   sao  <br /> nhãng (TV5­ T2­ Tr153) là không  nhớ (  cặp quên – nhớ). Nhưng không thể  giải <br /> nghĩa  rủi (TV5­ T2­ Tr126) là không may mắn. Vì cặp  rủi – may còn có nghĩa từ <br /> bình thường (cuộc đời rủi ro, cuộc đời bình thường, cuộc đời may mắn). Trong <br /> thực tế, học sinh thường quen giải nghĩa theo kiểu đối lập có – không. Như  vậy, <br /> giáo viên cần chú ý giải thích rõ hơn cho các em hiểu. <br /> C. Giải nghĩa theo cách miêu tả<br /> * Cách này có hai dạng: <br /> ­ Thứ  nhất là dạng dẫn tính chất (hiện tượng thường gặp) để  giúp cho học <br /> sinh hiểu ý nghĩa của từ. <br /> Ví dụ:<br /> + màu ngọc lam(TV5 ­ T1­Tr12): chỉ màu sắc có màu xanh đậm.<br /> ­ Thứ hai là đối với các từ có chức năng biểu hiện cao như các từ láy sắc thái <br /> hóa, hoặc từ  ghép phân nghĩa sắc thái hóa, một mặt vừa phải kết hợp cách giảng <br /> theo định nghĩa, mặt khác phải dùng lối miêu tả. Để  miêu tả, chúng ta có thể  lấy <br /> một sự  vật, hoạt động cụ  thể  làm chỗ  dựa rồi miêu tả  sự  vật, hoạt động đó sao  <br /> cho nổi bật lên các nét nghĩa chứa đựng trong từ.  <br /> Ví dụ: <br /> +  vật vờ:  lay động nhẹ, yếu  ớt, như  không có sức mạnh chống đỡ  từ  bên  <br /> trong, mặc cho sức mạnh bên ngoài kéo đi, lôi lại như cây cỏ dài lay động trong làn  <br /> nước nhẹ.<br /> <br /> <br /> 18<br />          Nếu như cách giải nghĩa theo định nghĩa bắt đầu từ các ý nghĩa biểu niệm thì <br /> giảng nghĩa theo cách miêu tả về cơ bản là bắt đầu bằng một ý nghĩa biểu vật tiêu <br /> biểu nhất để  giúp học sinh lĩnh hội được nghĩa biểu vật. Điều này cho phép giáo  <br /> viên chấp nhận những lời giải nghĩa của học sinh như sau:<br /> * Bài tập đọc: Quang cảnh làng mạc ngày mùa (TV5­ T1­ Tr10).<br /> + Vàng ối: là màu vàng của lá mít.<br /> + Vàng xuộm: là màu của cánh đồng lúa chín đều.<br /> + Vàng giòn: là màu vàng của rơm, rạ phơi rất khô. <br /> D.   Giải nghĩa theo cách phân tích từ  ra từng tiếng và giải nghĩa từng  <br /> tiếng<br />          Cách giải nghĩa này có ưu thế đặc biệt khi giải nghĩa từ Hán việt. Việc giải  <br /> nghĩa từng tiếng rồi khái quát nêu ý nghĩa chung của cả từ sẽ  giúp học sinh cơ  sở <br /> nắm vững nghĩa từ.<br /> Ví dụ: +  Nhân quyền:  (TV5­ T2­ Tr 147) :  nhân: người; những điều được <br /> hưởng, được làm, được yêu cầu theo quy  ước chung trong cộng đồng và theo quy <br /> ước của pháp luật.<br /> Nhân quyền:  những điều mà con người được hưởng, được làm, được yêu <br /> cầu, theo quy ước chung trong cộng đồng và theo quy ước của pháp luật.<br /> Biện pháp 2. Các biện pháp tìm hiểu ý nghĩa của một số từ ngữ có giá trị  <br /> nghệ thuật trong văn bản Tập đọc<br />             Tác phẩm văn học vốn hàm súc và có nhiều tầng ý nghĩa. Việc đọc hiểu văn  <br /> bản nghệ  thuật thực chất là khai thác hàm ý  ẩn sâu trong câu chữ, hình  ảnh, hình <br /> tượng của tác phẩm. Đối với học sinh tiểu học, yêu cầu này là khó đối với các em. <br /> Giáo viên cần có biện pháp giúp các em huy động vốn hiểu biết của mình từ  các  <br /> môn học khác và từ trong cuộc sống để hiểu nghĩa của từ ngữ có giá trị nghệ thuật. <br /> Nhưng làm thế nào để giúp học sinh nhận ra các từ ngữ được dùng một cách nghệ <br /> <br /> 19<br /> thuật. Điều này đòi hỏi giáo viên không chỉ  hướng dẫn mà cần có các bài tập cụ <br /> thể để  học sinh thực hành nhận diện và phân tích. Việc tìm hiểu ý nghĩa của một  <br /> số từ ngữ có giá trị nghệ thuật trong văn bản tập đọc nên thực hiện như sau: <br /> A. Nhận diện các từ ngữ nghệ thuật<br />             Trước khi tìm ra các biện pháp phân tích từ ngữ nghệ thuật, giáo viên cần  <br /> giúp học sinh nhanh chóng tìm ra các từ dùng hay trong văn bản.  <br />            Chưa phân tích làm sao biết được từ  ngữ  đó dùng hay như  thế nào nhưng  <br /> bằng sự  hiểu biết về  tính cụ  thể, tính trừu tượng trong nghĩa của từ, về  hiện <br /> tượng nhiều nghĩa và các quan hệ ngữ nghĩa giáo viên có thể đặt ra các câu hỏi định  <br /> hướng để học sinh xác định từ ngữ nghệ thuật.<br />        Ví dụ :  Khi dạy bài tập đọc Quang cảnh làng mạc ngày mùa   SGK yêu cầu trả <br /> lời câu hỏi sau: hãy chọn một từ chỉ màu sắc trong bài Quang cảnh làng mạc ngày <br /> mùa mà em thích nhất ? <br />           Với  bài tập như trên, học sinh sẽ biết cách chỉ ra các từ ngữ mà các em thích,  <br /> hoặc được gợi ý là từ ngữ đó được dùng độc đáo, sáng tạo. Yêu cầu các em tìm từ <br /> ngữ  thể  các biện pháp tu từ. Thực hiện bài tập trên các em sẽ  tìm ra được các từ <br /> dùng đắt trong văn bản nghệ  thuật. Còn các từ  đó được dùng nghệ  thuật ra sao,  <br /> giáo viên cần phải hướng dẫn cụ thể.<br /> B. Đặt từ cần tìm hiểu trong hệ thống để phân tích<br />             Một nguyên tắc của việc phân tích từ ngữ trong tác phẩm văn học, là chú ý <br /> để phát hiện ra tính thống nhất cũng tức là tính hệ thống giữa các từ  ngữ  với chủ <br /> đề  của tác phẩm. Nghĩa là từ  ngữ  mà giáo viên và học sinh đang xem xét đã cùng <br /> với các từ ngữ khác trong hệ thống bộc lộ ý chủ  đạo của văn bản ra sao và giá trị <br /> riêng của từ ngữ đó là gì. Với học sinh tiểu học chúng ta không nên hoặc hạn chế <br /> dùng khái niệm hệ thống khi hướng dẫn học sinh phân tích từ ngữ mà chỉ lên dùng  <br /> cách nói: tìm điểm chung, điểm riêng giữa từ đang tìm hiểu với các từ khác.  <br /> <br /> <br /> 20<br /> Ví dụ 1: Có thể dùng từ nào thay thế cho từ đẫm trong câu: <br />                                        Với đôi cánh đẫm nắng trời<br />                                  Bầy ong bay đến trọn đời tìm hoa.      <br />   Đối với bài tập trên, hình thức giống bài tập thay thế, tích cực hóa vốn từ <br /> nhưng thực chất là dạng bài tập gợi ý phân tích từ  ngữ  theo lối so sánh đồng nhất  <br /> và đối lập. Khi làm bài tập này chắc chắn học sinh phải tìm từ  đồng nghĩa với từ <br /> đẫm như: sũng, thấm đẫm, ngập,vv... và phân tích đối chiếu để khẳng định từ  đẫm <br /> dùng trong ngữ  cảnh này là hợp lí nhất, có tác dụng gợi hình ảnh và biểu cảm rõ  <br /> rệt.<br />        Ngôn ngữ trong các tác phẩm văn học thường có tính nhiều nghĩa. Các từ ngữ <br /> được dùng độc đáo, sáng tạo thường hàm ý gợi sự  liên tưởng phong phú. Làm thế <br /> nào để  học sinh tiểu học vốn quen với tư duy cụ thể có thể  hiểu được các nghĩa  <br /> khác nhau trong từ nhiều nghĩa, từ nghĩa trực tiếp, cụ thể đến nghĩa gián tiếp, trừu  <br /> tượng. Giáo viên cần hiểu hiện tượng nhiều nghĩa trong ngôn ngữ  nghệ  thuật tuy  <br /> khác nhưng vẫn bị  chi phối bởi những quy tắc chi phối hiện tượng nhiều nghĩa <br /> trong ngôn ngữ. Vì thế biện pháp giải nghĩa các từ nhiều nghĩa được dùng có giá trị <br /> nghệ  thuật cần phải bám chắc vào các quan hệ  ngữ  nghĩa mà tìm ra những giá trị <br /> nội dung và nghệ thuật của từ cần phân tích.<br /> C..  Phân   tích   mối   quan   hệ   giữa   nghĩa   chính   và   nghĩa   chuyển   của  từ  <br /> nhiều nghĩa.<br />            Theo GS. Đỗ  Hữu Châu: từ  ngữ  và các hình  ảnh ngôn ngữ  trong tác phẩm  <br /> thường nằm trong các trường hợp ngữ nghĩa sau: <br /> a, Từ  ngữ được dùng trong nghĩa chính hay nghĩa phụ  ngôn ngữ  và chỉ  dùng <br /> trong nghĩa đó mà thôi.<br /> b, Từ ngữ được dùng trong nghĩa tu từ và chỉ có nghĩa tu từ mà thôi.<br /> c, Từ ngữ vừa dùng trong nghĩa chính vừa dùng trong nghĩa bóng tu từ.<br /> <br /> <br /> 21<br />         Đối với trường hợp từ chỉ dùng trong nghĩa chính, giáo viên có thể hướng dẫn  <br /> học sinh so sánh với các từ cùng trường nghĩa, đồng nghĩa hay trái nghĩa, nhờ biện <br /> pháp tái hiện giả  định quá trình lựa chọn của tác giả  mà học sinh phát hiện ra cái <br /> hay, cái đẹp của việc dùng từ.<br />         Còn những trường hợp từ được dùng trong nghĩa phụ ngôn ngữ hay nghĩa bóng  <br /> tu từ, tức là từ  được dùng với nghĩa chuyển. Nguyên tắc để  phân tích hiện tượng  <br /> nhiều nghĩa trong tác phẩm là phải bám chắc lấy nghĩa chính, hiểu thật chính xác <br /> nó, dựa vào cơ chế chuyển nghĩa mà tìm ra sự sáng tạo trong cách dùng từ  của tác <br /> giả. <br /> Ví dụ: <br />          Trong bài thơ ‘‘ Hạt gạo làng ta’’, câu thơ cuối Trần Đăng Khoa viết: Em vui  <br /> em hát, hạt vàng làng ta. Để  học sinh hiểu được giá trị  của từ   hạt vàng trong câu, <br /> giáo viên phải giúp học sinh hiểu nghĩa của từ: hạt vàng là kim loại hiếm có màu <br /> vàng và có giá trị cao (quí như vàng). Nhưng trong câu thơ được tác giả sử dụng gọi <br /> thay thế cho hạt gạo, tác giả đã dùng phép so sánh để nói nên mồ hôi công sức một  <br /> nắng hai sương của bố  mẹ  làm ra hạt gạo và hạt gạo đó đã góp công vào chiến <br /> thắng chung của dân tộc. Do vậy hình  ảnh hạt gạo trong bài thơ  được tác giả  so <br /> sánh nâng cao tầm giá trị như hạt vàng nhưng nó lại mang sắc thái gần gũi tạo nên <br /> vẻ đẹp có giá trị nghệ thuật cao.   <br /> Biện pháp 3. Dạy các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa<br />          Bài học về các lớp từ có quan hệ về ngữ nghĩa: từ đồng nghĩa và trái nghĩa,  <br /> nhiều nghĩa được bố  trí trong môn Luyện từ  và câu lớp 5 với thời lượng 9 tiết,  <br /> thành hai dạng bài. Dạng lí thuyết được xếp trong tiết học đầu tiên của mỗi lớp từ. <br /> Dạng bài thực hành được xếp ngay sau tiết học lí thuyết. Cụ  thể  từ  đồng nghĩa 4 <br /> tiết (1 tiết lí thuyết, 3 tiết luyện tập) từ trái nghĩa 2 tiết (1 tiết lí thuyết, 1 tiết luyện  <br /> tập), Từ nhiều nghĩa  3 tiết (1 tiết lí thuyết, 2 tiết luyện tập) Cấu trúc nội dung bài <br /> học của mỗi dạng bài được biên soạn theo cách khác nhau. <br /> 22<br /> A. Cấu trúc nội dung bài học các lớp từ  có quan hệ  về  ngữ  nghĩa trong  <br /> sách giáo khoa. <br /> A.1. Cấu trúc nội dung bài học lý thuyết. <br />           Giống như cấu trúc nội dung bài học lí thuyết Luyện từ và câu nói chung, bài <br /> học lí thuyết về từ đồng nghĩa, trái nghĩa, từ nhiều nghĩa ...được biên soạn theo cấu <br /> trúc ba phần : Phần I. Nhận xét<br />                        Phần II. Ghi nhớ <br />                        Phần III. Luyện tập. <br />            Nhiệm vụ của phần I và phần II là hình thành khái niệm, vì thế trong phần <br /> nhận xét, SGK đưa ra các ngữ liệu và hệ thống bài tập để học sinh tìm ra được các <br /> dấu hiệu của khái niệm. Kết quả của quá trình hình thành khái niệm được chốt ở <br /> mục II, phần ghi nhớ.<br /> Khi học khái niệm từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm, giáo viên cần <br /> hướng dẫn học sinh phân biệt từ đồng nghĩa, từ nhiều nghĩa, từ đồng âm:<br />  *Từ đồng nghĩa: <br /> a) Bản chất từ đồng nghĩa <br /> Từ đồng nghĩa là những từ đồng nhất với nhau về nghĩa nhưng có một số từ <br /> có sự khác biệt nhất định về sắc thái nghĩa. Khi phân tích từ đồng nghĩa có hai thao <br /> tác , đó là chỉ ra sự giống  nhau và khác nhau nhưng quan trọng là phải chỉ ra được <br /> sự khác nhau về sắc thái .<br /> Ví dụ 1: Quả, trái<br /> Giống nhau: Sản phẩm của cây trong một thời kì sinh trưởng nhất định (quả <br /> mít/ trái mít)<br /> Khác nhau: Quả gợi tính hình khối, tròn, treo lủng lẳng, trái toát  ra sắc <br /> thái tình cảm, trân trọng, nâng niu, yêu thương,...( quả tim/ trái tim; quả <br /> trứng/trái trứng)<br /> <br /> <br /> 23<br /> b) Các từ đồng nghĩa khác nhau về sắc thái biểu cảm<br /> Ví dụ  1:  Cho, biếu, tặng: Cho  có sắc thái trung hòa,  biếu  có sắc thái kính <br /> trọng, tặng có sắc thái thân mật .<br /> c) Do có sự khác nhau về sắc thái nghĩa và sắc thái biểu cảm nên cách dùng  <br /> các từ cũng khác nhau nên các từ đồng nghĩa không phải bao giờ cũng thay thế cho  <br /> nhau được.<br /> Ví dụ : Hoài sơn/ củ mài ; trần bì/ vỏ quýt:  Các từ Hán Việt dùng trong khoa <br /> học còn các từ thuần Việt dùng trong đời sống .<br /> d) Hiện tượng đồng nghĩa không tách rời hiện tượng đa nghĩa, đó là nguyên  <br /> nhân của tính mức độ. Các từ đồng nghĩa với nhau không phải đồng nghĩa về toàn <br /> bộ dung lượng nghĩa của nó mà chỉ đồng nghĩa ở một một nghĩa nào đó mà thôi.<br /> Ví dụ : Trông có ba nghĩa : ­ hướng mắt quan sát<br />              ­ giữ, chăm sóc <br />              ­ nương vào, nhờ vào <br /> Dựa có ba nghĩa :     ­ theo, căn cứ theo <br />              ­ tựa vào, nhờ vào <br />             ­ nương vào, nhờ vào <br /> Trông và dựa đồng nghĩa với nhau ở nghĩa thứ ba<br /> *Một từ  nếu là từ  đa nghĩa, với các nghĩa gốc khác của nó, nó có thể  đồng <br /> nghĩa với nhiều từ khác nhau<br /> Ví dụ : Ăn ­thắng (Đội tớ ăn rồi, đội cậu thua )<br /> ­hợp (ăn cánh, ăn ảnh, ăn hình )<br /> ­hưởng, nhận (  tàu ăn than<br /> ­hao, tốn ( xe ăn xăng)<br /> *Từ nhiều nghĩa<br /> Các từ lúc mới xuất hiện đều chỉ có một nghĩa, trải quan thời gian có thêm <br /> <br /> <br /> 24<br /> nhiều nghĩa mới ( nghĩa phái sinh, nghĩa bóng) được tạo ra từ  nghĩa cơ  sớ  (nghĩa <br /> gốc, nghĩa đen) đó, trên cơ sở những biểu tượng nhất định.<br /> Biểu tượng làm hình ảnh về hình dáng, kích thước, đặc điểm, tính chất của  <br /> sự  vật được phản ánh trong  ngôn ngữ  trong nghĩa gốc của từ  dưới dạng các nét <br /> nghĩa trở thành cơ sở để tự phát triển thêm nghĩa mới.Nhờ vào quan hệ liên tưởng  <br /> tương đồng  (ẩn dụ) và tương cận ( hoán dụ  ) người ta liên tưởng từ  sự  vật này  <br /> đến sự vật kia trên những đặc điểm, hình dáng , tính chất giống nhau hay gần nhau  <br /> giữa các sự  vật   ấy.Từ  chỗ  gọi tên sự  vật, tính chất, hành  động này (nghĩa 1)  <br /> chuyển sang gọi tên sự vật, tính chất, hành động khác nghĩa ( nghĩa 2), quan hệ đa  <br /> nghĩa của từ nảy sinh từ đó .<br /> Ví dụ: Khi tìm hiểu nghĩa của từ  Chín, tôi hướng dẫn HS tìm được những  <br /> nghĩa sau: <br /> (1) Chỉ  quả  đã qua một quá trình phát triển, đạt đến độ  phát triển cao nhất, hoàn <br /> thiện nhất, độ mềm nhất định, màu sắc đặc trưng.<br /> (2)Chỉ quá trình vận động, quá trinh rèn luyện từ đó, khi đạt đến sự phát triển cao <br /> nhất ( Suy nghĩ chín, tình thế cách mạng đã chín)  <br /> (3)Sự thay  đổi màu sắc nước da ( ngượng chín cả mặt )<br /> (4)Trải qua một quá trình đã đạt đến độ mềm (cam chín).<br /> Như vậy muốn phân tích được nghĩa của từ đa nghĩa, trước hết phải miêu tả <br /> thật đầy đủ các nét nghĩa của nghĩa gốc để làm cơ sở cho sự phân tích nghĩa. <br /> Nghĩa của từ phát triển thường dựa trên hai cơ sở :<br /> + Theo cơ chế ẩn dụ nghĩa của từ thường có hai dạng sau : <br /> ­Dạng 1: Nghĩa của từ  phát triển dựa vào sự  giống nhau về  hình thức giữa <br /> các sự vật, hiện tượng hay là dựa vào kiểu tương quan về hình dáng.<br /> Ví dụ  :  Mũi1  ( mũi người) và Mũi2( mũi   thuyền) :Miệng1  ( miệng xinh) và  <br /> miệng2( miệng bát)<br /> <br /> <br /> 25<br /> Dạng 2 : Nghĩa của từ  phát triển trên cơ  sở   ẩn dụ  về  các
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2