
0
ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA XÃ HỘI HỌC- BỘ MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
TS. MAI THỊ KIM THANH
NHẬP MÔN CÔNG TÁC XÃ HỘI
(SOCIAL WORK)
HÀ NỘI 2005

1
Chương I
CÔNG TÁC XÃ HỘI LÀ MỘT KHOA HỌC
I. Khái niệm công tác xã hội
Công tác xã hội cũng như bất kỳ môn khoa học nào, nó không xuất hiện
ngay một lúc dưới dạng hoàn chỉnh với một hệ thống khái niệm, quy luật,
nguyên lý và phương pháp của nó. Vì vậy để hiểu và trả lời được câu hỏi
công tác xã hội là gì? Thì cho tới nay đã có rất nhiều cách hiểu và định nghĩa
khác nhau về nó.
Theo F.LuLu Pablo - Bộ trưởng bộ xã hội Philippin, chuyên gia tư vấn
cho dự án “ Tư pháp vị thành niên” của Radda Barnen: công tác xã hội vừa là
một nghệ thuật, vừa là một môn khoa học, là một nghề chuyên môn giúp con
người giải quyết những vấn đề của cá nhân, của nhóm (đặc biệt gia đình), của
cộng đồng và để đạt được những mối quan hệ thoả đáng về cá nhân, nhóm,
cộng đồng thông qua các hoạt động xã hội như: công tác xã hội cá nhân, công
tác xã hội nhóm, tổ chức cộng đồng, quản lý xã hội và nghiên cứu.
Theo Foundation of Social Work Practice ( Cơ sở thực hành công tác xã
hội): công tác xã hội là một khoa học ứng dụng để giúp đỡ mọi người vượt
qua khó khăn của họ và đạt được vị trí ở mức độ phù hợp trong xã hội. Công
tác xã hội được coi như là một môn khoa học vì nó dựa trên những luận
chứng khoa học và những cuộc nghiên cứu đã được chứng minh, nó cung cấp
một lượng kiến thức có cơ sở thực tiễn cho công tác xã hội và xây dựng
những kĩ năng chuyên môn hoá.
Theo thạc sĩ Nguyễn Thị Oanh - giảng viên trường Đại học Mở bán công
Thành phố Hồ Chí Minh: công tác xã hội là một hoạt động thực tiễn, mang
tính tổng hợp cao được thực hiện theo những nguyên tắc và phương pháp
nhất định nhằm hỗ trợ cá nhân và nhóm người trong việc giải quyết các vấn
đề đời sống của họ. Qua đó công tác xã hội theo đuổi mục tiêu vì phúc lợi,
hạnh phúc con người và tiến bộ xã hội. Công tác xã hội là hoạt động thực tiễn
bởi họ luôn làm việc trực tiếp với đối tượng, với nhóm người cụ thể và mang

2
tính tổng hợp cao bởi người làm công tác xã hội phải làm việc với nhiều vấn
đề khác nhau như: tệ nạn xã hội, vấn đề người nghèo, vấn đề gia đình…Công
tác xã hội không giải quyết mọi vấn đề của con người và xã hội mà chỉ nhằm
vào những vấn đề thiết yếu trong cuộc sống hàng ngày của con người. Đó là
an sinh xã hội hay phúc lợi xã hội, đồng thời hỗ trợ con người giải quyết vấn
đề đời sống cụ thể của họ, nhằm đem lại sự ổn định, hạnh phúc cho mọi
người và phát triển cho cộng đồng, xã hội.
Theo Joanf Robertson – chủ nhiệm khoa công tác xã hội trường Đại học
Wisconsin – Hoa Kỳ: công tác xã hội là một quá trình giải quyết vấn đề hợp
lý nhằm thay đổi theo kế hoạch, hướng tới mục tiêu đã đề ra ở các cấp độ cá
nhân, gia đình, nhóm, tổ chức, cộng đồng và chính sách xã hội.
Theo NASW - tổ chức quốc tế phục vụ cộng đồng, gia đình và tổ chức
tình nguyện Liên Hợp Quốc: công tác xã hội là những hoạt động chuyên
nghiệp, nhằm mục đích giúp đỡ các cá nhân, nhóm và cộng đồng trong hoàn
cảnh khó khăn, để họ tự phục hồi chức năng hoạt động trong xã hội và để tạo
ra các điều kiện thuận lợi cho họ đạt được những mục đích của cá nhân.
Theo ISSW-Liên đoàn chuyên nghiệp xã hội quốc tế (tại đại hội Montrean
tháng 7/2000): công tác xã hội chuyên nghiệp thúc đẩy sự thay đổi xã hội
việc giải quyết các vấn đề trong các mối quan hệ con người, sự tăng quyền
lực và giải phóng người dân giúp cuộc sống của họ ngày càng thoải mái dễ
chịu. Vận dụng các lí thuyết về hành vi con người và hệ thống xã hội, công
tác xã hội can thiệp ở các điểm tương tác giữa con người và môi trường của
họ. Nhân quyền và công bằng xã hội là các nguyên tắc căn bản của nghề.
Theo quan niệm của các học giả Trung Quốc: công tác xã hội là 1 sự
nghiệp và môn khoa học chuyên ngành của nhà nước và xã hội để giải quyết
và dự phòng những vấn đề xã hội nảy sinh do thành viên xã hội thiếu khả
năng thích ứng với cuộc sống xã hội hay mất thăng bằng với các chức năng
xã hội. Tính năng của nó là điều chỉnh quan hệ xã hội, cải thiện chế độ xã
hội, đẩy mạnh xây dựng xã hội, thúc đẩy sự phát triển ổn định của xã hội
thông qua phục vụ xã hội và quản lí xã hội .

3
Theo Crouch.R.C: Công tác xã hội là sự cố gắng hỗ trợ những người
không làm chủ các phương tiện sinh tồn biết tiếp cận được với chúng và đạt
được mức độ độc lập cao nhất có thể được.
Theo từ điển xã hội học: công tác xã hội là một dịch vụ đã chuyên môn
hoá-một việc giúp đỡ có tính cá nhân để giải quyết những vấn đề xã hội đặc
biệt.
Với quan niệm phong phú về nội dung công tác xã hội như vậy mà việc
nêu lên một định nghĩa thật hoàn chỉnh, chính xác về công tác xã hội không
phải là đơn giản. Tuy nhiên, có thể tóm tắt nội dung khái niệm công tác xã
hội như sau:
Công tác xã hội là một nghề, một dịch vụ xã hội cung ứng cho cá nhân,
gia đình cá nhân ấy, cho 1 nhóm người, một cộng đồng khi gặp khó khăn mà
tự họ không tìm ra lối giải quyết.
Công tác xã hội với trọng tâm là làm giảm bớt các vấn đề trong quan hệ
của con người, là làm phong phú thêm cho cuộc sống thông qua mối quan hệ
tương tác đã được cải thiện. Nó tìm cách làm tăng chức năng xã hội của các
cá nhân đơn lẻ hoặc trong các nhóm thông qua các hoạt động hướng vào mối
quan hệ hình thành sự tương tác giữa các cá nhân với môi trường.
Dịch vụ xã hội này (công tác xã hội) cung ứng thông tin, tài liệu, sự hỗ trợ
tinh thần và các kĩ năng chuyên môn thông qua sự quan tâm giữa người và
người nhằm giúp đối tượng có thêm khả năng, điều kiện và hoàn cảnh để họ
tự cải thiện cuộc sống của chính mình.
Nhân viên công tác xã hội với các kĩ năng được đào tạo về chuyên môn và
các kinh nghiệm nghề nghiệp là người trực tiếp làm việc để đạt được các
mục đích được định rõ và do nghề công tác xã hội đặt ra bằng cách vận dụng
các phương pháp, kĩ năng cơ bản trong công tác xã hội để làm cho đối tượng
có khả năng đáp ứng nhu cầu, giải quyết điều chỉnh những vấn đề đang đặt
ra của mình cho phù hợp với sự thay đổi mô hình xã hội.
Từ định nghĩa trên có thể thấy công tác xã hội chính là một khoa học, một
nghề và đối tượng của nó chính là các hoạt động xã hội đặc thù nhằm giúp đỡ

4
các cá nhân, nhóm, cộng đồng ngăn chặn, khôi phục các chức năng bị suy
thoái, đồng thời chính họ tự vươn lên để giải quyết các vấn đề đã và đang đặt
ra của mình, từ đó hoà nhập với cộng đồng xã hội.
II. Phân biệt công tác xã hội với công tác từ thiện, cứu trợ xã hội, bảo
đảm xã hội
II.1 Phân biệt Công tác xã hội với công tác từ thiện
Công tác xã hội với công tác từ thiện về mặt hình thức là hai hoạt động
cùng có những khiá cạnh giống nhau đó là xuất phát từ lòng nhân đạo, lòng
thương người và cùng giúp những người trong hoàn những cảnh đặc biệt khó
khăn. Tuy nhiên, giữa chúng đều có những khác nhau về căn bản do xuất
phát từ những mục đích, cách tiếp cận cũng như phương pháp làm việc.
Về động cơ: Nếu như công tác từ thiện, động cơ của họ khi làm có thể
xuất phát từ cá nhân, từ nhu cầu tâm lý muốn tự khẳng định, bù đắp. muốn
tạo uy tín, cũng có thể là mang một màu sắc tôn giáo nào đó như làm phúc,
để đức cho con cháu, hoặc cũng có thể là muốn che giấu một điều gì đó… thì
ở công tác xã hội, động cơ của nó khác hẳn, vơi quan niệm cho rằng đây là
một nghề phi lợi nhuận nên ở đây đối tượng và lợi ích của họ chính là mối
quan tâm hàng đầu duy nhất.
Về mục đích: Do xuất phát từ động cơ cho rằng đối tượng và lợi ích của họ
chính là mối quan tâm hàng đầu duy nhất nên mục đích của công tác xã hội
chính là giúp đối tượng có vấn đề phát huy tiềm năng của chính họ để họ tự
vươn lên. ở đây, vấn đề của đối tượng sẽ được giải quyết tận gốc và toàn
diện. Trong khi đó hoạt động của công tác từ thiện chỉ là phân phối viện trợ
của một cá nhân hay tổ chức nào đó, đấy là một hoạt động thường để giải
quyết những vấn đề mang tính cấp bách như lũ lụt, thiên tai, hoả hoạn… vì
thế nó không đáo tứng được nhu cầu của đối tượng.
Về phương pháp: do công tác xã hội là một khoa học nên phương pháp
được thực hiện trong công tác xã hội chính là dựa vào những kiến thức, kĩ
năng, kinh nghiệm đã học được từ trường lớp và từ thực tiễn, mà nhân viên