Tư LIÊU FOLKLORE

61

B i n

TƯ L IỆ U l ì ả n h o á

H â n g ia n

NHỮNG THỜI ĐIỂM VÀ sự KIỆN LIÊN QUAN ĐẾN sự HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN HƯỚNG NGHIÊN cúu TÚNG THÊ VĂN HOÁ VIỆT NAM

HÕ LIÊN* 1*’

ngưỡng, Alfred Barbier viết Một phong tục lạ dời của người Việt: nằm vạ .v.v...

ghiên cứu văn hoá Việt Nam vói Lu' cách một cộng đồng văn hoá quốc gia dân Lộc thôìig nhất là một hộ phận không the thiếu Lrong Loàn bộ các khoa học về văn hoá. Bài viết của chúng Lôi chỉ là Lình hình nghiên cứu văn hoá Việt, Nam theo hướng này.

1. TÁC PHẨM ĐẦU TIÊN VIET VẾ

ĐẠI CƯƠNG VÃN HOÁ VIỆT NAM

Những công trình nghiên cứu vế người Thượng: M. Barthelemy viết về Xứ Thượng, Verneau viết, về “Thời kì dồ đá, đồ đồng ỏ xứ người Bana, Xơdăng, Rơngao..”, M. Hiernard “Nghiên cứu Lổng quát về mặt nhân chủng học, về cư trú, nhà ở, y phục, kinh tê. hôn nhân gia dinh và tín ngưỡng của các dân tộc Rađê, Jarai, Pnong và Pi”. Cupet viết về các phong tục tập quán của người Bana, Jarai, Rađê và “Những tộc người mọi rợ ở Nam Đông Đương”, Cunhac về người Mạ ở Dồng Nai Thượng, x.p. Dourisboure viết về Người Bahnars ở Đông Nam Kì, Evrline Maspero và Guypore viết về Phong tục tập quán của người Khmer, Gasc Marie Louse viết về Xứ người Rađê, H. Azemar viết về người Xtiêng ở Bro' Lam, J. Cassaigne viết về luật tục Cơho, p. Huard viết về tín ngưỡng của người Mnông ở cao nguyên Trung phần Dông Dương .V.V..

Rất nhiều công trình nghiên cửu vãn hoá Chàm bao quát toàn diện từ lịch sử tộc người, các hình thái văn hoá vật thể, phi vật thể, từ phong Lục tập quán, tín ngưỡng đến nghệ thuật ngôn Lừ, âm nhạc, múa, nghệ thuật kiến trúc, diêu khắc .V.V.. Có thể kể đền G. Maspero với Vương quốc Chăm Pa, J. Từ những năm dầu thê ki’ XX nhiều học già người Pháp và cả người Việt dã công hố hàng loạt công trình khảo sát văn hoá Cíác Lộc người cùng sông trên dài đất thể kể đến Dumoutier Việt Nam. Có Gustave với những công trình về người Việt (chùa ở Hà Nội, phong tục tập quán ăn trầu, tín ngưỡng dân gian, dạo thờ cúng, phù thuỷ và bói toán), p. Gourou về Nông dàn ở đồng bằng Bắc Bộ, Phác thao vể nhà ớ của người Việt từ Thanh Hoá đến Bình Định, Cordier Georges và Maybon Albert viết về nghệ thuật của người An Nam, H. Parmentier viết về trống dồng, Tavernier Emile viết về tín ngưỡng Lhờ cúng Lố Liên, Georges Durwell viết về Làng xã An Nam, Bonifacy Auguste viết về Lục nhuộm răng đen ở người Việt, E. Langlet viết Người dân tín An Nam, phong tục, tập quân và

' 1 ThS. Trường Đại học Vân hoá Ilà Nội.

HÓ LIÊN

62

Leuba Một vương quốc bị biến mất, người Chăm và nghệ thuật của họ, E.M. Durand viết về tục hoả táng của người Chăm, L. Finot viết về những công trình kiến trúc, vể tôn giáo Chăm qua các di tích, văn bia ở Mĩ Sơn, c . Baudisson viết về tập tục, tín ngưỡng và các nghi lễ của người Chăm, R . c . Majumdar viết vể Chăm Pa trong môì quan hệ vói thực dân Ân Độ cổ đại .V.V..

rằng một th ế hệ được đào tạo chu đáo và am hiểu văn hoá bản địa sẽ hữu dụng hơn nhiều so với đám công chức được cám dỗ bằng lợi ích vật chất và lừa mị bằng các học thuyết “Pháp - Việt đề huề”. Tác giả viết: “Sách này viết ra là nhân chương trình học vụ mói có thêm môn văn hoá Việt Nam ở ban Cao đẳng tiểu học. Tuy bỉ nhân không theo cách phân phối của chương trình Nhà nước, vì không cốt soạn thành một bộ sách giáo khoa, song tấ t cả những vấn dề ở trong chương trình đều có nghiên cứu ở trong sách này...”(2).

Các học giả người Việt Nam có thể kể dến Nguyễn Vãn Huyên, Phan Kế Bính, Nguyễn Văn Khoan nghiên cứu văn hoá tộc người Việt, Nguyễn Văn Ngọc viết về người Mường, Vương Khả Lân viết về Chăm Pa

.V.V..

Vậy là rõ, dây là một tài liệu giáo trình về văn hoá Việt Nam, nhưng không viết theo định hướng của nhà cầm quyền thực dân, mà là để “ôn lại cái vốn vãn hoá đầy sinh khí của nước nhà”, để các dộc giả phổ thông, nghĩa là để mọi người Việt Nam quan tâm đến văn hoả và vận mệnh dân tộc đều có thể dùng được.

2. NƯỚC VIỆT NAM DÂN CHỦ CỘNG HOÀ ■ NỀN VĂN HOÁ MỚI VÀ ĐỊNH HƯỚNG MỚI CHO KHOA HỌC VỀ VÀN HOÁ

Từ góc nhìn dân tộc học (Ethnography, Ethnology), cấc công trình nêu trên cấp cho chúng ta một bức tranh phong phú da dạng về vãn hoá các tộc ngưòi. Nhưng một cái nhìn tổng quát về văn hoá quốc gia - dân tộc Việt Nam lại là chuyện khác. Sứ mệnh này được học giả Đào Duy Anh thực hiện thành công vổi tác phẩm Việt N am văn hoá sử cương, Quan-hải tùng-thư, Huế, xuất bản năm 1938, Bốn Phương, Sài Gòn, tái bản năm 1951 và gần đây Nhà xuất bàn Đồng Tháp tái bản nãm 1998.

Điểm khác biệt căn bàn giữa công trình của học giả Đào Duy Anh vói các công trình khác là ở hưóng tiếp cận. Đào Duy Anh không miêu tả diện mạo vãn hoá tộc người mà suy nghĩ về vận mệnh của cả cộng đồng văn hoá quốc gia - dân tộc. Cơ hội để ông thực hiện một phần tâm huyết của mình là khi chính quyển thực dân Pháp ý thức được sự cần thiết phải đưa vào chương trình giáo dục phổ thông môn văn hoá Việt Nam. Điểu này hẳn không chỉ vì “Trong thời kì mặt trận bình dân lên cầm quyển ở Pháp, do chính sách mị dân để xoa dịu và lừa phỉnh của Chính phủ chính quốc dối vói nhân dân các thuộc dịa”(l), mà còn là sự khôn ngoan của nhà cầm quyền khi biết Ngày 2 tháng Chín nãm 1945 ghi dấu sự phục hưng nền độc lập của một quốc gia đã trải qua hàng ngàn năm tiến hành cuộc chiến dấu quyết liệt chống lại những đội quân viễn chinh xâm lược hùng mạnh nhất trong lịch sử loài người. Một nền cộng hoà dân chủ mói ra đời sẽ tạo dựng cho nó một nền văn hoá dân chủ mới mà cơ sỏ lí thuyết đã được xác lập như một cương lĩnh vân hoá cùa Đảng Cộng sản Đông Dương, bản “Đề cương văn hoá Việt Nam” do dồng chí Tổng bí thư Trường Chinh khởi thảo, Hội nghị Ban Thường vụ Trung ương Đàng họp từ ngày 25 đến ngày 28 tháng Hai năm 1943 thông qua tại thôn Võng La, huyện Đông Anh, Hà Nội. “Bản Đề cương đã di vào lịch sử như một bản Cương lĩnh văn hoá đầu tiên của Đảng ta trong quá trình Đảng lãnh

Tư LIỆU FOLKLORE

63

dạo cách mạng Việt Nam. Nó dã mở ra một thòi kì mói, tập hợp đông đảo các nhà hoạt động vãn hoá trong cuộc chiến dấu của cả dân tộc, kết hợp chặt chẽ văn hoá với chính trị, cách mạng với văn hoá, dóng góp một phần quan trọng vào thắng lợi vĩ đại của Cách mạng tháng Tám năm 1945”(3).

Phân tích giá trị lịch sử và tầm quan trọng cùa công trình này, GS. Phan Ngọc khẳng định nó đã trình bày ngán gọn toàn bộ một cương lĩnh văn hoá bao gồm nhiều mặt.

Giáo sư Đặng Xuân Kỳ là vì nó dược viết “phù hợp vối quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là kết quả vận dụng sáng tạo quan điểm, tư tưởng của Mác, Lênin, Hồ Chí Minh để định hướng cho cuộc dâ'u tranh trên m ặt trận văn hoá khi cách mạng giải phóng dân tộc đang ở trong thời kì quyết liệt. Những luận điểm ấy không phải chỉ có ý nghĩa to lỏn khi bản Đề cương ra đời, mà còn có ý nghĩa lâu dài về sau, trong suốt tiến trình Đảng lãnh đạo cuộc cách mạng dân tộc dân chủ, cũng như khi chuyển sang giai đoạn cách mạng xã hội chủ nghĩa ở nước ta”(5).

Lần đầu tiên ở Việt Nam có một công trình đặt vấn đề về toàn bộ phạm vi văn hoá, quan hệ giữa văn hoá và kinh tế, mặt trận vãn hoá, việc Đảng lãnh đạo văn hoá. Nó dã nêu lên được ngắn gọn và súc tích lịch sử và tính chat vãn hoá Việt Nam. Vào thời diểm lịch sử ấy nó xác định tính chất văn hoá Việt Nam là “vãn hoá nửa phong kiến, nửa tư sản và hoàn toàn có tính cách thuộc dịa”, đó cũng là một nền vãn hoá “về hình thức là thuộc địa, về nội dung là tiền tư bản”. “Đề cương văn hoá” phân biệt hai xu thế đang đấu tranh nhau chưa xu thế nào chiếm được th ế áp đảo: “ảnh hưởng của vãn hoá phát xít làm cho tính chất phong kiến, nô dịch trong văn hoá Việt Nam mạnh lên, nhưng đồng thòi chịu ảnh hưỏng của nền văn hoá tân dân chủ, xu trào cách mạng mới của Việt Nam đang cô' vượt hết mọi trở lực để nẩy nở (vãn nghệ bất hợp pháp)”.

Để cương đã khẳng định được vai trò của cách mạng văn hoá như một bộ phận của cách mạng Việt Nam.

Để cương cũng khẳng định tình hình câ'p bách đòi hòi sự lãnh dạo của Đảng Cộng sàn Đông Dương đổi với văn hoá, nêu lên mục đích, những việc phải làm và cách thửc vận động vãn hoá( ,). Luận điểm cơ bản xuyên suốt đường lôì văn hoá văn nghệ của Đảng Cộng sản Việt Nam là hộ tư tưởng giữ vai trò cốt lõi trong một nền văn hoá. Luận diểm ấy có thể dược diễn đạt khác nhau trong những văn cảnh khác nhau, từ “văn hoá mởi Việt Nam là một thứ văn hoá có tính châ't dân tộc vể hình thức và tân dân chủ vể nội dung” trong Đề cương văn hoá, hay “Nền văn nghệ mới ồ miền Bắc chúng ta trong giai đoạn này phải là một nền vãn nghệ xã hội chủ nghĩa về nội dung, và dân tộc về hình thức” trong Thư của Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam gửi Đại hội văn nghệ toàn quốc lần thứ hai (1957), “Xây dựng nền văn hoá văn nghệ có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc” trong Văn kiện Đại hội Đảng Cộng sản Việt Nam lần thứ Tư (1976), hoặc “xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc” trong các văn bản của Đảng từ Đại hội VII, trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương khoá VIII lần thứ Năm (tháng Bảy nàm 1998), nhưng xem lí tưởng độc lập dân tộc gắn liền vối chủ nghĩa xã hội là thưốc đo chất lượng của vàn hoá thì vẫn là lập trường chính trị kiên dinh.

Về vấn dề này PGS. Đỗ Văn Khang có cách nhìn khác. Ông cho rằng Đảng Cộng Sở dĩ “Đề cương vãn hoá" cỏ dược giá trị lịch sử lâu dài và sâu sắc như vậy, theo

HÓ LIÊN

64

3. HAI TRUNG TÂM NGHIÊN c ứ u VĂN HOÁ VIỆT NAM GIAI ĐOẠN 1954-1975

Sau chín năm tiến hành thắng lợi cuộc kháng chiến thần thánh chông chủ nghĩa thực dân Pháp, từ năm 1954 Tổ quốc Việt Nam bưởc vào giai đoạn tạm thời hoà bình trong chia cắt hai miền Nam, Bắc, với hai thể chế chính trị khác nhau.

Lần dầu tiên, ở miền Bắc đã xuất hiện những diều kiện thuận lợi cho sự phát triển các khoa học xã hội theo mục tiêu của cuộc cách mạng tư tưởng và vãn hoá. Các lĩnh vực chuyên biệt trong văn hoá Việt Nam, trước hết là vãn chương và lịch sử dược quan tâm hàng đầu. “Vãn học vừa thể hiện trình dộ học th u ậ t của xã hội, vừa làm nhiệm vụ của hệ tư tưỏng, trở thành con đường ngắn nhất tác dộng một cách sâu sắc nhất tới tư tưỏng tình cảm của mọi tầng lóp nhân dân trong xã hội.."’8’.

sản Việt Nam đã xây dựng nển vãn hoá văn nghệ “từ văn hoá tự tin đến văn hoá tự thức tỉnh q u a 'b a mô thức”. Nền văn hoá văn nghệ “dân tộc, khoa học, đại chúng” ông gọi là mô thức một, “mô thức tiền đề", nền văn hoá văn nghệ “có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc” là mô thức hai, “mô thức phản dề”. Ông viết: “Tính phản dể của nó là ồ chỗ, một mô thức xây dựng vãn hoá văn nghệ chủ yếu dựa vào lí tưởng chính trị mà chưa có cơ sở kinh tế xã hội vững chắc làm nền cho nó thì tự nó rơi vào tình th ế làm hợp dề cho một mô thức văn hoá mởi dựa trên một nền vãn minh mới”. Nền vãn minh ấy, theo ông, là “văn minh số” và xây dựng nền văn hoá “tiên tiến dậm đà bản sắc dân tộc” là “mô thức ba", “thuộc thòi kì hoà hoãn giai cấp lổn nhất lần thứ hai trong lịch sử”, và ở đây đường lối văn hoá văn nghệ của Đàng “bắt gặp lí thuyết khâu trung gian - môi trưòng ảo". Mô thức này ông cũng gọi là “mô thức mở, khác với các mô thức khép trong lịch sử, vì nó định hướng rấ t cơ bản cho sự phát triển văn hoá mới vối hai cụm từ là "văn hoá tiên tiến” và “đậm đà bản sắc dân tộc”, còn lại đã dành một khoảng trời tự do cho mọi sáng tạo chân chính”*6’.

Chúng tôi không rõ “từ tự tin đến tự thức tỉnh” có quan hệ họ hàng với "từ tự phát đến tự giác” hay không, cũng không hiểu lắm về tình hình “khép, mở” và việc “bắt gặp lí thuyết khâu trung gian - môi trường ảo” có vẻ rấ t hợp mốt trong đường lổì văn hoả cùa Đảng Cộng sản Việt Nam, nhưng “Đề cương vãn hoá Việt Nam” thực sự là một công trình tiêu biểu trong việc hoạch dịnh chiến lược “kháng chiến hoá văn hoá và văn hoá hoá kháng chiến”, để cương “đã thúc lên một sức bật có giá trị nhân văn to lớn không lường hết được đôì với giới trí thức và giói vãn học nghệ thuật”’7’. Ngày 2 tháng 12 năm 1953 Tổng Bí thư Trường Chinh đã kí quyết dịnh số 34 NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Lao dộng Việt Nam về việc thành lập “Ban Nghiên cứu lịch sử, dịa lí, vàn học”, sau này gọi tắ t là “Ban Vãn - sử - Địa”, tổ chức tiền thân của Viện Khoa học xã hội Việt Nam hiện nay. Đến tháng Tư năm 1959 “Ban Vãn - Sử - Địa” dược chuyển đổi thành “Ban Khoa học xã hội” thuộc u ỷ ban Khoa học Nhà nưởc. Năm 1965 “Ban Khoa học xã hội” dược tách khỏi u ỷ ban Khoa học Nhà nước để thành lập “Viện Khoa học xã hội”. Hai năm sau, năm 1967 “Viện Khoa học xã hội” lại được đổi tên thành “Ưỳ ban Khoa học xã hội Việt Nam”. Tháng Ba nãm 1990 cơ quan này đổi tên là “Viện Khoa học xã hội Việt Nam”. Ba năm sau, tháng 5 nàm 1993 lại chuyển đổi thành “Trung tâm Khoa học xã hội và nhân vãn quốc gia”. Từ tháng 1 năm 2004 tổ chức này có tên là “Viện Khoa học xã hội Việt Nam” (Vietnamese Academy of Social Sciences).

65

Tư LIỆU FOLKLORE

Việc xác định chức năng của một tổ chức từ “Ban”, “Uỳ ban”, “Trung tâm” đến “Viện Khoa học” (Vietnamese Academy) cho thấy sự trưởng thành vượt bậc của sự nghiệp nghiên cứu khoa học xã hội ở Việt Nam.

Được Nhà nước bao câ'p và quản lí chặt chẽ, sự nghiệp nghiên cứu khoa học xã hội ở miền Bắc đã có những thành tựu lớn trên tấ t cả các lĩnh vực, hàng vạn chuyên luận và nhiều ngàn đầu sách đã công bố, hiển nhiên, trước hết là lĩnh vực văn học và sử học. Bài viết “Trung tâm Khoa học xã hội và nhân vãn quốc gia - 50 năm xây dựng và phát triển” của Chù tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam, GS. TS. Đỗ Hoài Nam cho thấy điều này. Trình bày “rấ t vắn tắ t về kết quả hoạt động của Trung tâm trên một số lĩnh vực nhã’t định”, trưổc hết ông để cập đến kết quả nghiên cứu văn học và sử học. Xin được trích dẫn:

Trong bài phát biểu tại lễ kỉ niệm 50 năm thành lập Trung tâm Khoa học xã hội và nhân vàn quốc gia GS. TS. Đỗ Hoài Nàm u ỷ viên Trung ương Đảng, Chù tịch Viện Khoa học xã hội Việt Nam cho biết khi mới thành lập, Ban Văn - s ử - Địa có 10 cán bộ do đồng chí Trần Huy Liệu làm Trưởng ban, trong đó có 6 cán bộ nghiên cứu là Trần Huy Liệu, Tôn Quang Phiệt, Hoài Thanh, Minh Tranh, Vũ Ngọc Phan và Trần Đức Thảo. Đến tháng 12 năm 1958 số cán bộ tăng lên 40 ngưòi, trong đó có 30 cán bộ nghiên cứu. Đến nay, (cuôì năm 2003) Trung tâm có 1380 cán bộ, viên chức, trong đó có 543 cán bộ là Giáo sư, Phó Giáo sư, Tiến sĩ khoa học, Tiến sĩ, Thạc sĩ.

“Sau hơn 5 năm hoạt động, Ban Vãn - Sử - Địa đã nghiên cứu, biên soạn và xuất bản được 36 đầu sách, trong đó có những công trình sau này được “Giải thưởng Hồ Chí Minh” như Lịch sử 80 năm chống Pháp của Trần Huy Liệu, Vấn dề dãn tộc trong cách mạng vô sản của Nguyễn Khánh Toàn, Giai cấp công nhân Việt Nam của Trần Văn Giàu, Lược khảo về thần thoại Việt N am của Nguyễn Đổng Chi, Truyện cổ Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Lịch sử cổ đại Việt N am và Lịch sử Việt N am từ nguồn gốc đến th ế kỉ X IX của Đào Duy Anh V.V.. Ngoài ra còn dịch ra tiếng Việt và xuất bàn những bộ sách của cha ông để lại như Khâm định Việt sử thông giám cương mục, Đại N am thực lục tiền biên và Đại Nam thực lục chính biên, Đại Việt sử k í toàn thư, Lịch triều hiến chương loại chí V.V..

Sự triển nỏ về m ặt tổ chức Viện Khoa học xã hội Việt Nam phản ánh tính dịnh hướng trong nghiên cứu khoa học xã hội, những lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu. Nếu nãm 1960 chỉ có ba đơn vị là Viện Văn học, Viện Sử học, Viện Kinh tế học, và năm 1962 có thêm Viện Triết học thì đến năm 1967, khi thành lập u ỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam còn có Viện L uật học. Trong những năm tiếp theo lần lượt thành lập Viện Ngôn ngữ học, Viện Dân tộc học, Viện Khảo cổ học, Viện Thông tin Khoa học xã hội, Viện Nghiên cứu Hán Nôm, Viện Xã hội học, Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Trung tâm Nghiên cứu khoa học về Gia dinh và Phụ nữ, Trung tâm Nghiên cứu Địa lí nhân văn, Viện Nghiên cứu Vãn hoá dân gian, Viện Nghiên cứu Tôn giáo, Viện Tâm lí học, Viện Nghiên cứu Con người và nhiều “Viện”, nhiều “Trung tâm ” khác. Trong những năm 60 - 70, Viện Khảo cổ học, Viện Sử học cùng các nhà dân tộc học, ngôn ngữ học, nghiên cứu văn hoá dân gian... đã hợp tác với Khoa sử các trường Đại học và ngành Bảo tàng Bộ Văn hoá nghiên cứu về “Thòi đại Hùng Vương”. Câc báo cáo khai quật khảo cổ học về các di chỉ Phùng Nguyên, Đồng Đậu, Gò Mun, Đông Sơn V.V.. cùng các công trình nghiên cứu về

HỔ LIÊN

66

Chù tịch Hồ Chí Minh là Anh hùng giải phóng dân tộc, Nhà văn hoá lón”.

Thời đại Hùng Vương, đặc biệt là kết quà của bốn cuộc hội thảo lớn về “Hùng Vương dựng nước” do u ỷ ban Khoa học xã hội Việt Nam chù trì tổ chức từ năm 1968 đến nãm 1971 đã cung cấp các bằng chứng và luận cứ thuyết phục chứng minh rằng “Thòi đại Hùng Vương và An Dương Vương là thòi đại có thực trong lịch sử Việt Nam”.

Trong lĩnh vực văn hoá dân gian ông nhắc đến hàng loạt công trình, trong dó có một số công trình sau này được “Giải thưởng Hồ Chí Minh” như Văn học dân gian và Trên đường tỉm hiểu văn hoá dân gian của Đinh Gia Khánh, Người anh hùng làng Dóng và Tìm hiểu tiến trình văn học dân gian Việt N am của Cao Huy Đỉnh là những công trình nền tảng của khoa nghiên cứu vãn hoá dân gian Việt Nam. Một số công trình khác sau này cũng được Giải thưỏng Hồ Chí Minh như Hùng Vương dựng nước của Phạm Huy Thông, Nghiên cứu văn học Việt N am và văn học th ế giới của Đặng Thai Mai, Tìm hiểu kho sách Hán ■ Nôm Việt N am của Trần Văn Giáp, A nh hùng và nghệ sĩ, Góp phần tìm hiểu cách mạng tư tưởng và văn hoá của Vũ Khiêu, V.V..

Sự hình thành dân tộc Việt Nam có liên quan đến vấn đề các tộc người cư trú trên dải đất Việt Nam. Khác với nhiều nước trên th ế giối coi lãnh thổ, dặc điểm kinh tế, đặc điểm tâm lí, phong tục tập quán... là những tiêu chí xác định tộc ngưòi, ở Việt Nam, do hoàn cảnh lịch sử và quả trình tộc người, các nhà. dân tộc học thông nhất chì có ba tiêu chí để xác định là “ngôn ngữ, văn hoá và ý thức tự giác tộc người”. Vận dụng ba tiêu chí trên, Danh mục thành phần dần tộc Việt Nam gồm 54 dân tộc do Viện Dân tộc học xây dựng dã được Nhà nước công nhận và được Tổng cục Thống kê chính thức công bố ngày 2 tháng 3 năm 1979...

Trong lĩnh vực văn học, Viện Văn học dã tập trung dựng lại gương mặt 5 th ế kỉ văn học Lý - Trần, một thòi kì văn học phát triển rực rờ gắn với kỉ nguyên độc lập tự chủ của dân tộc sau mười th ế kỉ Bắc thuộc. Bộ Thơ văn Lý - Trần đồ sộ gồm ba tập, bốn quyển là thành quả lao động trong suốt 30 năm của vài ba th ế hệ học giả. Hiện nay, Viện đang tổ chức biên soạn bộ Lịch sử văn học Việt Nam từ th ế k ỉ X đến th ế k ỉ X X gồm 10 tập. Trong giai đoạn đất nưóc còn bị chia cắt, nước ta phải đồng thời thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược: xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất dất nước. Góp phần vào công cuộc chông Mĩ cứu nưốc, các thành tựu của khoa học xã hội đặc biệt lưu ý đến những công trình phê phản các trào lưu triết học phàn động chủ yếu ở miền Nam Việt Nam, trước hết là chủ nghĩa nhân vị và chủ nghĩa hiện sinh, hệ tư tưởng và chính trị của chủ nghĩa thực dân mới, lên án tội ác chiến tranh cùa đế quốc Mĩ ở Việt Nam'9’.

Một đóng góp quan trọng khác cùa Viện Văn học là đã tổ chức dịch và xuất bản tác phẩm N hật k í trong tù cùa Hồ Chí Minh ngay sau khi nhận dược văn bàn Ngục trung nhật k í từ Viện Bảo tàng Cách mạng vào giữa năm 1959. Chính N hật kí trong tù đã trở thành một trong những cãn cú quan trọng để 30 năm sau, kể từ khi sách được xuất bản, UNESCO dã tôn vinh Tình hình nghiên cúu văn hoá ở miền Nam có khác. Những vấn để chung của văn hoá Việt Nam được nhiều học giả bàn đến, ví dụ, Kim Định viết về Căn bàn triết lí trong văn hoẳ Việt N am hay Nguồn gốc văn hoá Việt Nam , Nguồn Sáng xuất bản năm 1973, Cửu Long Giang viết Người Việt đất Việt, Nam chi Tùng thư xuất bản nãm

67

Tư LIỆU FOLKLORE

Nam của Vũ Bằng; Huỳnh Minh viết về vãn hoá Vĩnh Long, Bạc Liêu, Gò Công, Vũng Tàu.... xưa và nay; Sơn Nam viết về văn hoá truyền thống của đồng bằng sông Cửu Long, vồ Bến Nghé xưa và cá tính miền Nam, Quách Tấn viết vể non nước Bình Định và xứ trầm hương, Thái Văn Kiểm viết về cố đô Huế và Sơn Nam viết về hương rừng Cà Mau V.V..

1968, Phan Xuân Hoà viết Việt Nam gấm vóc, Thuỵ Đình xuất bản năm 1960. Năm 1970 Lửa Thiêng xuất bản Lịch sử thành lập đất Việt cùa nhiều tác giả, Thái Văn Kiểm viết khá nhiều công trình, trong đó có Văn hoá Việt Nam , Nguồn Sáng xuất bản năm 1957 và Đất Việt trời N am xuất bản năm 1960. Nguyễn Phương tự xuất bản Việt Nam thời khai sinh ở H uế nãm 1965, Hoàng Vân Nội tự xuâ't bản Nguồn gốc dàn tộc Việt N am ở Sài Gòn năm 1973. Lê Văn Siêu viết Văn m inh Việt Nam , Nam chi Tùng thư xuâ't bản năm 1964, Việt Nam văn minh sử cương, Lá Bô’i xuâ't bản năm 1967 và Việt N am văn m inh lược khảo năm 1973. Nguyễn Đăng Thục viết Văn hoá Việt Nam với Đông N am Á, Vãn hoá Á châu xuất bản năm 1961, Trịnh Huy Tiến viết Cá tinh của người Việt, xuất bản ở Sài Gòn nãm 1967, Phạm Việt Tuyền viết Văn hoá miền Nam, cửa vào phong tục Việt Nam, Khai trí xuất bản nãm 1965. Toan Ánh viết Người Việt đất Việt, Nam chi Tùng thư xuất bàn năm 1967, Phong tục Việt Nam, Khai trí xuất bản năm 1969, V.V..

Chúng ta không bàn về chất lượng và giá trị của các công trình, mà chỉ nêu lên một nét khác biệt trong cách nghiên cứu các chủ đề của víin hoá Việt Nam ỏ hai miền Nam, Bắc trong giai đoạn này. Có thể nói thêm rằng, ỏ miền Bắc có râ't nhiều viện nghiên cứu từng lĩnh vực vãn hoá chuyên ngành, mỗi viện có một tạp chí riêng, nhưng Viộn Nghiên cứu Văn hoá thì đến dầu năm 2004 mối ra dời trên cơ sở chuyển đổi từ Viện Nghiên cứu Vãn hoá dân gian mà tiền thân là Ban Văn hoá dân gian. Tò tạp chí của Viện có tên là “Vãn hoá dân gian”, tờ tạp chí cùa Bộ Văn hoá Thông tin có tên là “Nghiên cứu văn hoá nghệ thuật”. Tại Sài Gòn có tập san “Văn hoá” của Nha Văn hoá thuộc Phù Quốc vụ khanh đặc trách văn hoá xuất bản từ nãm 1962. Tác phẩm Việt Nam văn hoá sử cương của Đào Duy Anh được Bốn Phương tái bàn năm 1951 và Đồng Tháp tái bản năm 1998 cũng là các nhà xuất bản ở miền Nam.

4. THẬP KỈ “THỂ GIỚI PHÁT TRIEN VĂN HOÁ” (1988 - 1997) VÀ S ự NỞ RỘ KHOA HỌC VỀ VĂN HOÁ VIỆT NAM

Nhiều tác giả viết vể văn hoá vùng, miền hay về một đặc điểm nào đó của văn hoá Việt Nam. Ngọc Dương viết về Cuộc Nam tiến của dân tộc Việt Nam, Ngày nay xuất bàn nãm 1950, Kim Định viết Triết lí cái đỉnh, Việt lí tố nguyên, An Tiêm xuất bản nãm 1970, Nguyễn Lang viết Việt Nam Phật giáo sử luận, Lá Bôĩ xuất bản năm 1974, Bình Nguyên Lộc viết Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt N am , Lá Bổi xuất bàn năm 1971, Sơn Nam đ ặt vấn đề Người Việt có dân tộc tính không, An Tiêm xuất bản năm 1969 .V.V..

Mười năm sau ngày vãn hồi nền hoà bình, dộc lập, thông nhâ't và toàn vẹn lãnh thổ, Việt Nam bước vào thời kì dổi mới toàn diện định hưóng xáy dựng và phát triển đất nước. Trên lĩnh vực vản hoá, tư duy dổi mới, thể hiện trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ Tư Ban Chấp hành Trung ương Đàng khoá VII “Vể một sô' nhiệm vụ vãn hoá, văn nghệ những năm trước m ắt” nêu Những công trình về vãn hoá địa phương là mảng sách khá phong phú. Nguyễn Đình Tư viết về Non nước Khánh Hoà, Non nước Phú Yên • Giang sơn gấm vóc; Miếng ngon Hà Nội hay Món lạ miền

HỐ LIÊN

68

rõ: “Văn hoá là nền tảng tinh thần của xã hội, một động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội, đồng thời là mục tiêu của chù nghĩa xã hội... Nhiệm vụ trung tâm cùa văn hoá văn nghệ nước ta là góp phần xây dựng con ngưòi Việt Nam vể trí tuệ, dạo đức, tâm hồn tình cảm, lôĩ sống, có nhân cách tốt dẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp dổi mới vì dân giầu, nước mạnh, xã hội công bằng, vãn minh”.

Nghị quyết Hội nghị lần thứ Năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII “Về xây dựng và phát triển nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm dà bản sắc dân tộc” xác dịnh:

trong cuộc trưòng kì dựng nước và giữ nước. Vượt qua những thử thách cam go nhất, đánh thắng những kẻ thừ tàn bạo nhất, nhân dân ta không thể chỉ dựa vào mảnh đất nhỏ hẹp vởi nền kinh tế nghồo nàn. Sức mạnh ấy phải được nhân lên gấp bội bỏi tiềm lực văn hoá, bởi chủ nghĩa nhân đạo cao cả mà một trong những biểu tượng đẹp cùa nó là sức mạnh cùa “Tiếng đàn Thạch Sanh” và “Niêu cơm gạo tẻ", sự trường sinh cùa nền vãn minh nông nghiệp lúa nước. N hận thức toàn diện và sâu sác những phẩm chất của văn hoá Việt Nam và con ngưòi Việt Nam là bước chuẩn bị cần thiết cho hành trang của dân tộc bước vào một cuộc chiến mới, vượt qua đói nghèo và lạc hậu, một lần nữa khẳng định vị thế Việt Nam trong hội nhập và toàn cầu hoá. Đây chính là lí do nội tại, là nhu cầu bức bách của đời sông xã hội dòi hỏi phát triển một khoa học nghiên cứu vãn hoá Việt Nam trong tính tổng thể cộng dồng văn hoá quốc gia - dân tộc.

Một tác nhân quan trọng thúc đẩy sự tăng tốc hướng nghiên cứu này là việc hưỏng ứng tổ chức UNESCO phát dộng ba thập kỉ th ế giỗi phát triển văn hoá mà thập kĩ thứ ba là những năm 1988 - 1997.

“Phương hưởng chung của sự nghiệp văn hoá nước ta là phát huy chủ nghĩa yêu nước và truyền thông dại đoàn kết dân tộc, ý thức độc lập tự chủ, tự cưòng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa, xây dựng và bào vệ nển văn hoá Việt Nam tiên tiến, dậm đà bản sắc dân tộc, tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, làm cho vãn hoá thấm sâu vào toàn bộ đời sông và hoạt dộng xã hội, vào từng ngưòi, từng gia dinh, từng tập thể và cộng dồng, từng địa bàn dân cư, vào mỗi lĩnh vực sinh hoạt và quan hệ con người, tạo ra trên đất nưốc ta đời sống tinh thần cao dẹp, trình dộ dân trí cao, khoa học phát triển, phục vụ dắc lực sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá vì mục tiêu dân giàu, nưóc mạnh, xã hội công bằng, văn minh, tiến bước vững chắc lên chủ nghĩa xã hội”.

Liên tiếp những Nghị quyết quan trọng của Đảng trong thập niên cuôĩ th ế kỉ XX cho thấy nhu cầu cấp bách phải đổi mởi nhận thức lí luận và hoạt dộng thực tiễn xây nền văn hoá, cũng là đổi mới nghiên cứu khoa học vể văn hoá. Việc nhận thức lại vai trò, vị trí cùa văn hoá, làm sáng tỏ các môi quan hệ qua lại giữa Vãn hoá và P h át triển, dúng như nhận định của Giáo sư Phạm Xuân Nam, Phó Viện trưởng Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Phó Chủ tịch u ỷ ban Quốc gia UNESCO của Việt Nam, có ý nghĩa vừa cơ bản, vừa cấp bách không những chì vể lí luận mà cả về thực tiễn đôĩ vói chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội cùa nước ta.

Trải qua hàng ngàn năm lịch sử, ông cha ta không để lại nhiều công trình kiến trúc dồ sộ, những lâu dài cung diện nguy nga, nhưng rấ t nhiều tấm gương kiệt hiệt Hưởng ứng tích cực cuộc vận động của UNESCO, Việt Nam dâ thành lập Uỷ ban quốc gia về Thập kỉ quốc tế phát triển văn hoá do một Phó Thủ tướng làm Chù tịch.

Tư LIỆU IFOLKLORE

69

Hàng chục cuộc hội nghị, hội thảo khoa học đã được thực hiện, hàng loạt các công trình về văn hoá Việt Nam đã được công bố.

Bùng nổ một giai đoạn khoa học xă hội và nhân văn rầm rộ tiến vào vàn hoá học và văn hoá Việt Nam vói các sự kiện sau đây:

1. Hàng loạt hội nghị, hội thảo khoa học quốic gia và quốc tế về văn hoá

2. Nhiểu chương trình cấp Nhà nưốc, nhiều để tài nghiên cứu khoa học về văn hoá cấp quốc gia, cấp bộ, cấp địa phương

3. Sự tăng trưởng đột biến sô' lượng tác giả và tác phẩm viết về văn hoá Việt Nam. Nhiều học giả thuộc các lĩnh vực chuyên môn khác nhau trở thành nhà văn hoá học và Việt Nam học quan này có hội thảo “Lễ hội truyền thống trong đời sống xã hội hiện đại”. Tháng 11 năm 1994 Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia phôi hợp với quỹ Toyota N hật Bàn tổ chức hội thảo quốc tế vói chủ để “Sự phát triển văn hoá xã hội Việt Nam trong bôĩ cảnh tăng trưởng kinh tế ở châu Á”. Tháng 5 nãm 1995 Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc gia cùng u ỷ ban UNESCO Việt Nam tổ chức hội thảo quốc tế vói chủ đề “Vãn hoá và kinh doanh”. Tháng 7 năm 1998 Đại học quốc gia Hà Nội, Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quô'c gia, có sự tài trợ chính của quỹ Toyota, tổ chức hội thảo quô'c tê' “Việt Nam học”. Tháng 9 năm 2000, cũng hai cơ quan này phối hợp tổ chức hội thào quô'c tô' “Việt Nam trong th ế kỉ XX” có m ặt hàng trăm nhà khoa học trong nước và quốc tế.

Nhiều hội

4. Sách viết về vãn hoá Việt Nam phong phú vể nội dung, đa dạng vể chùng loại

5. Văn hoá Việt Nam được đưa vào chương trình giảng dạy đại học

6. Chuyển dổi tên các viện nghiên cứu vãn hoá. Xuất hiện mã số đào tạo Thạc sĩ, Tiến sĩ văn hoá học.

Xin phác thảo một sô' nét chính về các sự kiện nói trên. Phần này chúng tôi có sử dụng thành quả lao động của GS. TS. Nguyễn Xuân Kính vối bài “Công tác nghiên cứu vân hoá ở nước ta từ năm 1988 đến nay” trong tác phẩm Con người, môi trường và văn hoá, Nhà xuất bàn Khoa học xã hội, Hà Nội - 2003.

thảo cấp ngành và địa phương, ví dụ “Di sản văn hoá ẩm thực Hà Nội” tháng 10 năm 1998; “Văn hoá nghệ thuật Trung Bộ - Khánh Hoà” tháng 11 năm 1998; “Văn hoá dòng họ ở Thái Bình” tháng 12 nãm 1998; “Một th ế kì sưu tầm, nghiên cứu văn hoá văn nghệ dân gian” tháng 12 năm 2000; “Văn hoá Huế - quá khứ và hiện tại” tháng 12 năm 2000; Tháng 6 năm 2000, Trung tâm nghiên cứu và giao lưu văn hoá, giáo dục quốc tê' thuộc Đại học Sư phạm thành phô' Hồ Chí Minh tổ chức hội thảo “Đi tìm đặc trưng văn hoá Việt Nam”; Tháng 12 nãm 2000, Viện Nghiên cứu văn hoố nghệ thuật, Tạp chí Văn hoá nghệ thuật, sở Văn hoá - Thông tin Hoà Bình tổ chức hội thảo “Giữ gìn, phát huy bàn sắc văn hoá các dân tộc vùng Tây Bắc” V.V..

Hội thảo khoa học “Văn hoá và phát triển” dược Viện Khoa học xã hội Việt Nam và u ỷ ban quốc gia UNESCO Việt Nam phôi hợp tổ chức tại Hà Nội tháng 6 năm 1991. Tháng 11 năm 1992 Viện Khoa học xã hội Việt Nam tổ chức hội thảo “Phương pháp luận về vai trò của văn hoá trong phát triển”. Tháng 3 năm 1993 cũng cơ Nhiều chương trình khoa học công nghệ câ'p Nhà nưóc, nhiều để tài khoa học cấp Nhà nưóc về vãn hoá được triển khai thực hiện. Chương trình KX.06 “Vãn hoá, vãn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội”

HỔ LIÊN

70

văn hoả và nghệ th u ật dân gian truyền thông của các tộc ngưòi ồ Việt Nam.

Sự tin cậy của Đảng và kinh phí Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi dể các nhà khoa học hàng đầu tự tin và phát sáng trí tuệ uyên thâm và sức sáng tạo bền bỉ của mình. Đáp lại, những dề tài nghiệm thu xuất sắc và những công trình đồ sộ là tài sản văn hoá vô giá khẳng định sự đúng đắn và tính hiệu quả của dưòng lôĩ dổi mới trên lĩnh vực văn hoá của Đảng.

gồm các đề tài cấp Nhà nước như “Hệ quan điểm về môĩ quan hệ giữa văn hoá và phát triển” do GS.VS. Hồ Tôn Trinh chủ nhiệm; “Quá trình hình thành bản sắc vãn hoá Việt Nam” GS. Hà Văn Tấn chủ nhiệm; “Vãn minh Việt Nam trong quá khứ và viễn cảnh” PGS.TS Trần Đức Cường chủ nhiệm; “Văn hoá Việt Nam với sự phát triển các sắc thái văn hoá xã hội địa phương và tộc người” GS. Phan Hữu Dật chủ nhiệm; “Văn hoá và quản lí trong truyền thống và hiện đại” GS. Nguyễn Hồng Phong chủ nhiệm...

Văn hoá học và văn hoá Việt Nam thu hút sự quan tâm của các nhà khoa học thuộc mọi lĩnh vực chuyên môn khác nhau. Tác phẩm nổi tiếng Văn hoá và đổi mới cùa Cô’ vắn Phạm Vãn Đồng dẫn đến một hội thảo khoa học vổi sự tham gia của gần 100 nhà trí thức, nhà hoạt động vân hoá, văn nghệ sĩ tên tuổi và có thêm một tác phẩm Văn hoá và đổi mới. Tác phẩm và bình luận.

Đề tài KX.O7 “Con người vói tính cách là mục tiêu và dộng lực của sự phát triển xã hội” với các để tài “Ánh hưởng của các hệ thông tư tưỏng và tôn giáo đôĩ với con người Việt Nam hiện nay”, GS. Nguyễn Tài Thư chủ nhiệm; “Vai trò cùa gia đình trong sự hình thành và phát triển nhân cách con người Việt Nam” GS. Lê Thi chủ nhiệm; “Vấn đề phát huy và sử dụng đúng đắn vai trò động lực cùa con người trong sự phát triển kinh tế - xã hội", GS.TS Lê Hữu Tầng chù nhiệm; “Cơ sỏ khoa học của việc xây dựng ý thức và lốì sống theo pháp luật”, GS.TSKH Đào Trí ú c chủ nhiệm,...

Năm 2000, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia biên soạn và xuất bản công trình Phác thảo chân dung văn hoá Việt Nam dày 780 trang khổ lớn. Ban chì dạo công trình gồm các vị: Trần Đình Nghiêm, Trịnh Thúc Huỳnh, Lê Văn Yên, Nguyễn Đức Tài. Công trình tập hợp đông đào các tác già thuộc nhiều thành phần, cán bộ lãnh dạo, quản lí, nhà nghiên cứu, văn nghệ sĩ...

Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá VII đã vạch ra ba phương hướng và xác định bảy chương trình nghiên cứu khoa học xã hội giai doạn 1996 - 2000, trong dó có chương trình “Phát triển vãn hoá, xây dựng con người mới trong thời kì công nghiệp hoá, hiện dại hoá đất nước. Những chính sách xã hội tương ứng để phát huy mạnh mẽ nhân tố con người”.

Các tác phẩm nghiên cứu văn hoá th ật phóng phú về nội dung, GS.TS Đỗ Huy và PGS Trường Lưu bàn về S ự chuyển đổi hệ giá trị trong văn hoá Việt Nam; Đàm Văn Chí viết Lịch sử văn hoá Việt Nam. Sinh hoạt trí thức; GS Vũ Khiêu, GS Phạm Xuân Nam, GS Hoàng Trinh đồng chủ biên Phương pháp luận về vai trò của văn hoá trong phát triển; PGS Hồ Sĩ Vịnh chù biên Tìm về bản sắc dân tộc của văn hoá, Văn hoá vì con người; PGS Hồ Sĩ Vịnh, GS Huỳnh Khái Vinh viết Văn hoá Việt Nam, Viện Nghiên cứu Văn hoá nghệ thuật, Bộ Văn hoá Thông tin thực hiện “Chương trình quốc gia về bảo tồn và phát huy các giá trị văn hoá phi vật thể”. Giai đoạn một của chương trình này (1997 - 2000) đã thực hiện các để tài điểu tra sưu tầm sinh hoạt

Tư LIỆU FOLKLORE

71

học, cao đẳng môn Văn hoá học và cơ sở văn hoá Việt Nam để phục vụ việc học tập của sinh viên”. Năm 1995, trường Đại học Tổng hợp Tp. Hồ Chí Minh xuất bàn lưu hành nội bộ cuốn Cơ sỏ văn hoá Việt Nam cùa PGS.TSKH Trần Ngọc Thêm. Năm 1997 sách này được in lần thứ ba, có sửa chữa và rú t gọn, là “Giáo trình cho sinh viên, biên soạn theo chương trình giáo dục đại học đại cương của Bộ Giáo dục và Đào tạo”. Vậy là, sáu mươi nãm sau khi thực dân Pháp đưa môn văn hoá Việt Nam vào chương trình giáo dục 'Cao đẳng tiểu học dành cho con em dân bản xứ, môn học này đã được phục hồi trong chương trình giáo dục đại học ở Việt Nam. Phải khẳng định rằng, tri thức cơ bản về vãn hoá nước nhà là bộ phận không thể thiếu góp phần hình thành nhân cách và năng lực chuyên môn cho nguồn nhân lực được đào tạo nghiêm túc. Vãn hoá Việt Nam phải là môn học trong chương trình giáo dục phổ thông.

một chặng đường; GS Lê Minh chủ biên Văn hoá gia đình Việt N am và sự phát triển; GS Hoàng Vinh chù biên Một sô' vấn đề lí luận văn hoá thời k ì đổi mới; GS Hoàng Trinh viết “Vấn để vàn hoá và phát triển”; PGS Thành Duy viết “Văn hoá trong phát triển của xã hội Việt Nam”; GS Phạm Xuân Nam chủ biên Văn hoá và kinh doanh’, Nguyễn Khác Thuần viết Đại cương lịch sử văn hoá Việt N a m ’, GS Lê Quang Thiêm chủ biên Văn hoá với sự phát triển của xã hội Việt N am theo định hưởng xã hội chủ nghĩa; PGS Trần Đình Hượu viết Đến hiện dại từ truyền thôhg; GS Phan Huy Lê viết Tìm về cội nguồn; GS Trần Quốc Vượng viết Việt Nam, cái nhìn địa văn hoá; Nguyễn Thừa Hỷ viết Lịch sử văn hoá Việt Nam truyền thôhg giản yếu; Thạc sĩ Phạm Vũ Dũng viết N hận diện mấy vấn đề văn hoá; GS Nguyễn Hồng Phong viết Một sô'vấn đề về hình thái kinh tế - xã hội, văn hoá và phát triển; Lê Huy Hoàng, Hoàng Đức Nhuận tuyển chọn và xuất bản Văn hoá Việt Nam truyền thống và hiện đại; GS Vũ Khiêu chủ biên Văn hoá Việt Nam xã hội và con người, GS Lê Ngọc Trà tập hợp và giới thiệu Văn hoá Việt Nam đặc trưng và cách tiếp cận..., và đa dạng về chủng loại. GS. TS. Nguyễn Xuân Kính chia thành “tám mảng sách”, có mảng chú ý đến những vấn dề chung, những vấn đề lí luận, phương pháp luận và nghiên cứu văn hoá ờ dạng tổng thể; có mảng sách viết về các vùng vàn hoá; mảng sách viết vể vãn hoá tâm linh, lễ hội; mảng sách từ điển và đặc biệt có màng giáo trình đại học vể văn hoá.

Năm 1996, GS. Trần Quốc Vượng chủ biên Văn hoá học đại cương và cơ sỏ văn hoá Việt Nam . Nãm 1997, GS. Trần Quốc Vượng chú biên một giáo trình Cơ sở văn hoá Việt Nam . Môn học này còn cỏ giáo trình của GS. Chu Xuân Diên, TS. Phùng Quý Nhân, TS. Lê Vãn Chường ở Tp. Hồ Chí Minh, một số giáo trình lưu hành nội bộ trong các trưòng đại học ỏ Hà Nội, giáo trình Lịch sử văn hoá Việt N am cùa Huỳnh Công Bá ở Huế, v.v... Môn “Vãn hoá Việt Nam” từng bưổc khẳng dinh vị trí chính thức trong các trường dại học và là môn thi bắt buộc trong chương trình đào tạo thạc sĩ, tiến sĩ Văn hoá học. Một sô' trường như Đại học Khoa học xã hội và nhân vồn ở Hà Nội, ở Tp. Hồ Chí Minh, Đại học Văn Lang, Đại học Văn hoá Hà Nội và nhiều trưòng khác, môn học này dược xây dựng thành “Khoa” hoặc “Bộ môn”.

(Xem tiếp tra n g 55)

Một sự kiện có ý nghĩa đặc biệt, đó là từ năm 1995 Bộ Giáo dục và Đào tạo có chủ trương “Tăng cường giáo dục các giá trị văn hoá dân tộc và di sản vàn hoá Việt Nam, yêu cẩu các cơ quan có liên đối chuẩn bị hệ thống giáo trình đưa vào chương trình dại