Thời gian hoàn vốn là
bao lâu?
Nhà quản lý phải quan tâm đến thời gian hoàn vốn: sẽ mất bao lâu để
một cuộc đầu tư cụ thể thu hồi lại số vốn đã bỏ ra. Chúng ta biết rằng cái
máy ép nhựa được dự kiến tiết kiệm cho Công ty Amalgamated 18.000
USD mỗi năm. Để xác định thời gian hoàn vốn, hãy lấy tổng số tiền đầu
tư chia cho khoản tiền tiết kiệm dự kiến hàng năm.
Trong trường hợp này, ta lấy 100.000 USD chia cho 18.000 USD bằng 5,56.
Như vậy, cái máy ép nhựa sẽ mất 5,56 năm để hoàn vốn. Bảng 6-1 dưới đây
minh họa theo từng năm các khoản tiền tiết kiệm hàng năm tích lũy được.
Chú ý rằng Công ty Amalgamated sẽ chưa thu được lợi ích của vụ đầu tư này
trong hơn 5 năm. Nhưng điều gì sẽ xảy ra nếu ước tính về vòng đời sản phẩm
bị sai, và cái máy ép nhựa này chỉ dùng được bốn năm là hỏng? Cuộc đầu tư
giờ đây có vẻ chẳng còn gì hấp dẫn, và chắc chắn là ít hấp dẫn hơn một vụ
đầu tư có ROI tương tự nhưng thời gian hoàn vốn chỉ là 3 năm.
Là một công cụ phân tích, thời gian hoàn vốn chỉ cho bạn biết một điều: mất
bao lâu để thu hồi lại số vốn đầu tư của bạn. Mặc dù công cụ này không hữu
ích khi so sánh các phương án thực tế, nhưng một số nhà điều hành vẫn còn
sử dụng nó.
Phân tích hòa vốn
Phân tích hòa vốn cho bạn biết bạn cần bán ra bao nhiêu đơn vị hàng hóa để
lấy lại vốn đầu tư cố định. Nói cách khác, tại điểm nào bạn sẽ có sự cân đối
dòng tiền do sản phẩm, dịch vụ mới mang lại. Với những thông tin có được,
bạn có thể xem xét nhu cầu thị trường và thị phần của đối thủ cạnh tranh để
xác định liệu mong muốn bán nhiều như vậy có thực tế không. Phân tích hòa
vốn còn giúp bạn tính đến tác động của sự thay đổi giá và số lượng hàng hóa.
Đặc biệt hơn, tính toán hòa vốn giúp bạn quyết định mức sản lượng mà tại đó
tổng khoản tiền thu được sau thuế từ một sản phẩm hay một khoản đầu tư
trang trải được tổng chi phí cố định của nó. Nhưng trước khi thực hiện tính
toán này, bạn cần hiểu một số khái niệm sau:
* Định phí: Chi phí bỏ ra hầu như luôn cố định cho dù bạn có bán được bao
nhiêu sản phẩm hay dịch vụ đi chăng nữa. Đó là những chi phí như bảo hiểm,
lương nhân viên quản lý, các khoản thuê… Ví dụ, tiền thuê cơ sở sản xuất và
chi phí bảo hiểm là như nhau cho dù công ty làm ra 10.000 hay 20.000 đơn vị
hàng hóa.
* Biến phí: Những chi phí này sẽ thay đổi tùy thuộc vào số lượng hàng hóa
được sản xuất và bán ra, ví dụ như phí thiết bị, nhân công và nguyên liệu sản
xuất. Bạn sản xuất ra càng nhiều hàng hóa thì bạn càng tốn nhiều chi phí.
* Lãi biên tế: Là số tiền mà mỗi đơn vị hàng hóa bán được góp phần trang trải
cho định phí. Nó được xác định bằng cách lấy doanh thu thuần của một đơn vị
trừ đi biến phí (hay chi phí trực tiếp) trên mỗi đơn vị.
Với những khái niệm được định nghĩa trên đây, chúng ta có thể làm một phép
tính để tìm ra đáp án cho biểu thức sau:
Lượng hòa vốn = Định phí/Lãi biên tế của đơn vị hàng hóa
Sau đây là cách làm. Trước tiên, hãy tính lãi biên tế của đơn vị bằng cách lấy
doanh thu thuần của mỗi đơn vị trừ đi các biến phí của mỗi đơn vị. Sau đó lấy
tổng chi phí cố định (hay số tiền đầu tư) chia cho lãi biên tế của mỗi đơn vị.
Kết quả phép chia này chính là lượng hòa vốn, tức là số lượng đơn vị hàng
hóa phải bán để trang trải toàn bộ chi phí cố định.
Để thấy được sự phân tích hòa vốn trong thực tế, chúng ta hãy xem ví dụ máy
ép nhựa được dùng để sản xuất giá treo cho Công ty Amalgamated. Chi phí
máy ép nhựa này là 100.000 USD. Giả sử mỗi giá treo được sản xuất ra từ
máy ép này được bán với giá 75 USD, và biến phí cho mỗi đơn vị sản phẩm
sẽ là 22 USD. Như vậy:
75 USD (Đơn giá) – 22 USD (Biến phí cho mỗi đơn vị) = 53 USD (Lãi biên
tế cho mỗi đơn vị)
Do đó:
100.000 USD (Tổng đầu tư cần thiết) / 53 USD (Lãi biên tế cho mỗi đơn vị) =
1.887 giá treo
Phép tính trên cho ta thấy rằng Công ty Amalgamated phải bán 1.887 cái giá
treo để hòa vốn đầu tư 100.000 USD.
Lúc này, công ty phải quyết định xem liệu có thể đạt được lượng hòa vốn này
không. Liệu có thực tế khi trông đợi bán được 1.887 cái giá treo đó, và nếu
được thì mất thời gian bao lâu?
Tính phức tạp của phân tích hòa vốn
Phân tích hòa vốn trong trường hợp giá treo trên đây là một tình huống đơn
giản. Chúng ta đã giả sử rằng chi phí đó cố định hoặc biến động một cách rõ
ràng, rằng chi phí và số dư trên mỗi đơn vị không thay đổi theo số lượng
(nghĩa là giá bán của món hàng không thay đổi theo các mức sản lượng khác
nhau). Tuy nhiên giả thiết này có thể không phù hợp trong thực tế. Chi phí
thuê cơ sở cho một mức sản xuất nào đó có thể không đổi, nhưng nó sẽ tăng
thêm 50% nếu bạn thuê cơ sở thứ hai để mở rộng sản xuất. Chi phí nhân công
trên thực tế có thể gộp cả định phí và biến phí. Và khi bạn tung càng nhiều
sản phẩm ra thị trường thì bạn cần có mức giá chiết khấu, đồng nghĩa với việc
giảm lãi cho từng đơn vị hàng hóa. Bạn cần phải điều chỉnh tính toán hòa vốn
cho phù hợp với thực tế phức tạp này.
Đòn bẩy hoạt động
Mục tiêu của mọi nhà quản lý không phải là hòa vốn mà là phát sinh lợi
nhuận. Một khi bạn đã trang trải mọi chi phí cố định bằng lãi thu về từ nhiều
thương vụ, mỗi thương vụ tiếp theo đều trực tiếp mang đến lợi nhuận. Như
chúng ta đã quan sát ở trên:
Doanh thu thuần đơn vị sản phẩm – Biến phí đơn vị sản phẩm = Lãi thu về
trên đơn vị sản phẩm
Nhìn qua bạn cũng có thể thấy rằng biến phí của đơn vị sản phẩm càng thấp
thì lãi thu về lại càng cao. Chẳng hạn, trong một công ty dược, chi phí xuất ra
và đóng gói một chai thuốc mới có thể dưới 1 USD. Tuy nhiên, nếu công ty
có thể bán được mỗi chai lấy 100 USD, thì số tiền khổng lồ 99 USD góp vào
lợi nhuận công ty nếu doanh thu đạt được ngoài điểm hòa vốn! Rắc rối là
công ty dược có thể đã đầu tư trước 400 triệu USD chi phí cố định để phát
triển sản phẩm nhằm tung chai đầu tiên ra thị trường. Công ty sẽ phải bán
nhiều chai thuốc mới này để hòa vốn. Nhưng sau khi đã hòa vốn thì lợi nhuận
có thể rất cao.
Mối quan hệ giữa định phí và biến phí thường được mô tả bằng thuật ngữ đòn
bẩy hoạt động. Các công ty có định phí cao hơn biến phí là công ty có đòn
bẩy hoạt động cao. Ví dụ như công ty dược trên đây nói chung là có đòn bẩy
hoạt động cao.
Bây giờ hãy xem mặt ngược lại: đòn bẩy hoạt động thấp. Trong trường hợp
này định phí thấp hơn so với tổng chi phí tạo ra mỗi đơn vị sản phẩm. Hãng
luật là một ví dụ điển hình về doanh nghiệp có đòn bẩy hoạt động thấp. Hãng
này có chi phí cố định và mức đầu tư vào trang thiết bị tối thiểu. Phần lớn chi
phí là những khoản phí trả cho luật sư, tùy thuộc vào số giờ thực tế mà hãng
phải thu từ khách hàng.
Đòn bẩy hoạt động là điều quan trọng khi công ty đi qua điểm hòa vốn, nhưng
nó có thể gây tổn thất đáng kể nếu không bao giờ đạt được điểm hòa vốn. Nói
cách khác, đòn bẩy hoạt động có tính rủi ro. Đó là lý do tại sao các nhà quản
lý suy nghĩ nhiều về việc tìm cách cân bằng hợp lý giữa định phí và biến phí.