MỤC LỤC
................................................................................................................. 1 Chương 1. Q AN IỂ CỦA CHỦ NGHĨA ÁC-LÊNIN VỀ BÌNH ẲNG DÂN TỘC VÀ VẤN Ề THỰC HIỆN BÌNH ẲNG DÂN TỘC VIỆT NA HIỆN NAY ............................................................................................ 7 1.1. Bình đẳng dân tộc và các nội dung cơ bản của bình đẳng dân tộc .................... 7 1.1.1. Bình đẳng dân tộc ................................................................................. 7 1.1.2. Các nội dung cơ bản của bình đẳng dân tộc ........................................ 12 1.2. Quan điểm mácxít về bình đẳng dân tộc ........................................................ 13 1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về bình đẳng dân tộc ............... 13 1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về bình
đẳng dân tộc ....................................................................................... 18
1.2.3. Một số những quan niệm mới nảy sinh về bình đẳng dân tộc trong
thời đại hiện nay ................................................................................. 33
1.3. Vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc và các nội dung thực hiện bình đẳng
dân tộc ở nước ta hiện nay ..................................................................... 35 1.3.1. Vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc ...................................................... 35 1.3.2. Một số nội dung cơ bản trong thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta
hiện nay.................................................................................................. 43
Chương 2. THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ẰNG DÂN TỘC TỈNH YÊN
BÁI HIỆN NAY .................................................................................. 49 2.1. Vài nét khái quát về tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Yên Bái ........................ 49 2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở tỉnh Yên Bái ............................ 49 2.1.2. Khái quát về đặc điểm cơ cấu, phân bố, hình thái cư trú và văn hoá
các dân tộc ở tỉnh Yên Bái .................................................................. 57 2.2. Thực trạng thực hiện bình đằng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay ................... 77 2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân ......................................... 77 2.2.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân ........................................... 86
Chương 3. ỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN Ể Ả BẢO THỰC HIỆN CÓ HIỆ
Q Ả Q YỀN BÌNH ẲNG DÂN TỘC TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY .. 90 3.1. Những quan điểm và phương hướng cơ bản ................................................... 90 3.1.1. Quan điểm............................................................................................... 90 3.1.2. Những phương hướng ............................................................................ 94 3.2. Một số giải pháp chủ yếu ............................................................................... 96 3.2.1. Tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất -
tinh thần ở vùng dân tộc trong tỉnh ..................................................... 96
3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng dân tộc ở
tỉnh Yên Bái ............................................................................................ 101 3.2.3. Hoàn thiện chính sách bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái .................. 105 3.2.4. Hoàn thiện công tác tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
làm công tác dân tộc ở tỉnh Yên Bái ................................................. 109
3.2.5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng từ Trung ương đến địa phương trong công tác thực hiện bình đẳng dân tộc ở Yên Bái.................................................................................................... 112 KẾT L ẬN ......................................................................................................... 115 DANH ỤC TÀI LIỆ THA KHẢO ................................................................ 117
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Giải quyết tốt vấn đề dân tộc nhằm
phát huy sức mạnh khối đại đoàn kết toàn dân tộc luôn là nhiệm vụ có tính chiến
lược của cách mạng Việt Nam. Dựa trên những quan điểm lý luận của chủ nghĩa
Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc, Đảng ta đã đề ra chủ trương,
chính sách dân tộc nhất quán và được thể hiện một cách đầy đủ trong các văn kiện
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, được cụ thể hóa bằng những chính sách phù
hợp với yêu cầu, nhiệm vụ trong từng giai đoạn cách mạng.
Thắng lợi vĩ đại của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ, giành độc lập, thống nhất Tổ quốc cũng như những thành tựu
to lớn có ý nghĩa lịch sử đã đạt được trong sự nghiệp đổi mới, xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa đã chứng minh sự đúng đắn, sáng tạo trong chủ trương,
chính sách dân tộc của Đảng.
Tuy nhiên, trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay và sự phát triển mạnh mẽ
của công nghệ thông tin, khi nước ta đang tiến hành đẩy mạnh sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế, tình hình dân tộc ở nước ta đã có
những đặc điểm và diễn biến khác so với thời kỳ trước, đòi hỏi phải thực hiện chính
sách bình đẳng về dân tộc đó là:
Các mối quan hệ đồng tộc, thân tộc ở một số dân tộc có xu hướng gia tăng
không phụ thuộc vào biên giới quốc gia, chế độ chính trị đã tác động cả tích cực lẫn
tiêu cực đến ý thức tộc người, ý thức quốc gia dân tộc, phát triển kinh tế-xã hội, an
ninh, quốc phòng, đặc biệt ở vùng biên giới nước ta với các nước láng giềng. Sự
phân cực, khoảng cách giàu nghèo giữa vùng dân tộc thiểu số, nhất là vùng cao,
vùng sâu, vùng xa với các vùng khác không những không được thu hẹp mà ngày
càng doãng ra, cộng với sự ảnh hưởng của xu hướng ly khai, tự trị ở một số nước
trên thế giới trong một bộ phận đồng bào dân tộc thiểu số, nhất là ở các vùng trọng
điểm Tây Bắc, Tây Nguyên, Tây Nam Bộ đang đặt ra những vấn đề mới về đại
đoàn kết các dân tộc...
1
Mặt khác, các thế lực thù địch đang triệt để lợi dụng vấn đề dân tộc, để thực
hiện “Diễn biến hòa bình” và bạo loạn lật đổ đối với cách mạng nước ta bằng
những thủ đoạn ngày càng tinh vi, xảo quyệt. An ninh chính trị ở một số vùng dân
tộc còn tiềm ẩn nguy cơ gây mất ổn định; các vụ việc khiếu kiện và tranh chấp đất
đai ở nhiều nơi vùng dân tộc tăng lên, có nơi gay gắt, phức tạp...
Yên Bái là một tỉnh miền núi phía Bắc, có nhiều dân tộc anh em cùng chung
sống. Sau hơn hai mươi năm đổi mới đời sống vật chất cũng như tinh thần của đồng
bào các dân tộc trên toàn tỉnh đã có những bước cải thiện theo hướng tích cực.
Những năm qua, các cấp, các ngành đã quan tâm và triển khai thực hiện có hiệu
quả chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước góp phần quan trọng vào việc giáo
dục, động viên, cổ vũ đồng bào các dân tộc phát huy tinh thần đoàn kết, giữ vững
ổn định chính trị, đảm bảo quốc phòng, an ninh, phát triển kinh tế - xã hội, thực
hiện thắng lợi công cuộc đổi mới đất nước... Tuy nhiên, trong quá trình phát triển
đó cũng bộc lộ những vấn đề bất cập, trong đó có vấn đề bất bình đẳng giữa các
dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội mang tính khách quan trong xu thế
phát triển trong thời kỳ mới hiện nay.
Với ý nghĩa như vậy, tôi chọn vấn đề: “Thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh
Yên Bái hiện nay” làm đề tài luận văn thạc sĩ Triết học chuyên ngành Chủ nghĩa xã
hội khoa học với mong muốn góp phần nhỏ bé vào việc chỉ ra những hạn chế và
tìm ra những biện pháp khắc phục tình trạng bất bình đẳng giữa các dân tộc đang
diễn ra ở Việt Nam hiện nay, góp phần quan trọng vào việc thực hiện các Nghị
quyết 22, 24 của Đảng về công tác dân tộc.
2. Tình hình nghiên cứu
Trước đây, trong các tác phẩm của mình, C.Mác đã đưa ra luận điểm về
công bằng và bình đẳng trong tác phẩm “Phê phán cương lĩnh Gôta” và đã gợi mở
về các tư tưởng về bình đẳng xã hội. Trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”,
Ph.Ăngghen đã nêu lên một luận điểm nổi tiếng về quyền bình đẳng giữa các dân
tộc, phải được tuyên bố là “quyền con người”. Trong “Tuyên ngôn Đảng cộng
sản”, hai ông cũng đã chỉ rõ quyền bình đẳng giữa các dân tộc chỉ có được khi giai
cấp công nhân nắm chính quyền.
Những quan điểm cơ bản của C.Mác và Ph.Ăngghen đã được V.I.Lênin chọn
lọc, kế thừa và bổ sung và phát triển thành quan điểm chung của chủ nghĩa Mác-
2
Lênin về vấn đề dân tộc, quan hệ dân tộc và công bằng, bình đẳng xã hội trong
quan hệ dân tộc.
Ở Việt Nam, ngay từ khi mới thành lập, trong các Cương lĩnh của Đảng
Cộng sản Việt Nam đã xác định công tác dân tộc là một trong những nhiệm vụ
chiến lược của cách mạng Việt Nam. Trong quá trình đấu tranh cách mạng Đảng và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vạch ra đường lối chung và ban hành nhiều chính sách cụ
thể, như: đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ để tranh thủ độc
lập tự do hạnh phúc chung.
Tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng về vấn đề dân tộc đã cho
thấy sự sáng tạo của Bác, của Đảng trong việc vận dụng chủ nghĩa Mác-Lênin vào
tình hình cụ thể ở Việt Nam, đó là vấn đề khác nhau giữa bình đẳng dân tộc với
quyền dân tộc tự quyết của các dân tộc Việt Nam; căn cứ vào đặc điểm dân tộc Việt
Nam như: không có lãnh thổ riêng, sống xen kẽ, trình độ phát triển không đồng
đều, phần lớn chưa hình thành giai cấp, Nhà nước...
Chính vì vậy, ngoài các chính sách Dân tộc của Đảng và Nhà nước ta, còn có
rất nhiều các công trình, đề tài, nghiên cứu về vấn đề dân tộc và bình đẳng dân tộc
như: Trịnh Quốc Tuấn (1996), Bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay - vấn đề và
giải pháp, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội; Hoàng Chí Bảo (2009), Đảm
bảo bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong phát triển kinh tế - xã
hội nước ta hiện nay, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội; Nguyễn Quốc Phẩm
(1999), Công bằng và bình đẳng đoàn kết giúp nhau cùng phát triển, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia Hà Nội; Nguyễn Quốc Phẩm (2004), Vị trí chiến lược của vấn
đề dân tộc, công tác dân tộc trọng sự nghiệp cách mạng nước ta, Tạp chí Lý luận
chính trị; Hoàng Vi (2005), Các dân tộc bình đẳng đoàn kết giúp nhau cùng phát
triển, Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; Phan Hữu Dật (2003), Hợp tác,
tương trợ giữa các dân tộc hướng tới mục tiêu ổn định và phát triển kinh tế - xã hội
tại các vùng đa dân tộc ở nước ta, Tạp chí Lý luận chính trị; Bế Viết Đẳng (1996),
Các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền núi, Nhà xuất bản
Chính trị quốc gia; Nhà xuất bản Văn hóa Dân tộc; Trần Văn Giàu (1980), Giá trị
tinh thần truyền thống của dân tộc Việt Nam, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội; Ủy
ban Dân tộc (2003), Sổ tay công tác dân tộc, Nhà xuất bản Hà Nội; Ủy ban Dân tộc
và miền núi (2001), Vấn đề dân tộc và công tác dân tộc ở nước ta, Nhà xuất bản
3
Chính trị quốc gia Hà Nội; Ủy ban Dân tộc và miền núi, Học viện Chính trị quốc
gia Hồ Chí Minh (1996), Bước đầu tìm hiểu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân tộc Việt
Nam, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia Hà Nội.
Ngoài ra, còn có các luận văn, luận án nghiên cứu về vấn đề dân tộc như:
- Đề tài khoa học cấp nhà nước: KX.04-11 do cố GS.TS Bế Viết Đẳng làm
chủ nhiệm: "Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính sách đối với các dân
tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội miền núi".
- Đề tài khoa học cấp Nhà nước: KX-05: "Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp bách liên quan đến mối quan hệ dân tộc hiện nay", (sách tham khảo) do GS.TS
Phan Hữu Dật chủ biên, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2001.
- Luận án tiến sĩ: "Trí thức người dân tộc thiểu số ở Việt Nam trong công
cuộc đổi mới" của tác giả Trịnh Quang Cảnh (2002); Luận án tiến sỹ Triết học: Ý
thức xã hội vùng Tây Bắc Việt Nam và sự tác động của nó đối với quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá vùng này” của tác giả Hà Dũng Hải (2010) và một số đề
tài và luận văn thạc sỹ của các tác giả: Tác giả Hà Văn Định (năm 1995) "Một số
suy nghĩ về vấn đề dân tộc ở tỉnh Yên Bái". Tác giả Nguyễn Phương Thuỷ (năm
2001). "Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc trong thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá (từ thực tiễn các tỉnh miền núi phía Bắc". Tác giả Lâm
Thị Bích Nguyệt (năm 2005) "Đổi mới việc thực hiện chính sách dân tộc ở tỉnh Yên
Bái hiện nay". Tác giả Lưu Thị Thanh (năm 2009) "Vấn đề bình đẳng dân tộc ở
tỉnh Lào Cai hiện nay".
Tất cả các nghiên cứu trên đã thể hiện và vận dụng quan điểm của chủ nghĩa
Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc góp
phần vạch ra những vấn đề bình đẳng dân tộc ở nước ta và những chính sách,
đường lối cụ thể của Đảng và Nhà nước đối với vấn đề dân tộc. Trong bối cảnh
hiện nay vấn đề bình đẳng dân tộc luôn được xác định là vấn đề có chiến lược và đã
có rất nhiều tác giả và các công trình nghiên cứu tiếp cận dưới nhiều góc độ khác
nhau. Tuy nhiên, các đề tài và công trình nghiên cứu mới đi vào nghiên cứu cụ thể
của từng vấn đề, chưa có tính khái quát tổng hợp.
Nghiên cứu vấn đề bình đẳng dân tộc ở Yên Bái nhiều năm qua mặc dù đã
có nhiều công trình đề cập dưới nhiều góc độ khác nhau. Tuy nhiên đối với tỉnh
Yên Bái, ngoài những nghiên cứu của Ban dân tộc tỉnh thì từ trước đến nay chưa có
4
một đề tài cụ thể nào về vấn đề thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc trong tỉnh hiện
nay. Có thể thấy, nghiên cứu vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên bái là
một nội dung mới mẻ trong nghiên cứu khoa học. Chính vì vậy đề tài này đưa ra
cách tiếp cận mới là khái quát có hệ thống những quan điểm và chính sách của
Đảng và Nhà nước về bình đẳng dân tộc và đưa ra những giải pháp cụ thể cả về mặt
lý luận và thực tiễn để thực hiện có hiệu quả chính sách bình đẳng dân tộc trong
tỉnh Yên Bái hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
- Mục đích của luận văn là nghiên cứu một cách có hệ thống về thực trạng
thực hiện bình đẳng dân tộc ở Yên Bái hiện nay, luận văn bước đầu đề xuất một số
giải pháp nhằm góp phần thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc về chính trị, kinh tế,
văn hóa - xã hội.
Với mục đích trên, luận văn đặt ra và hoàn thành các nhiệm vụ nghiên cứu sau:
Một là, phân tích rõ những vấn đề lý luận có liên quan đến vấn đề bình đẳng
dân tộc và thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay.
Hai là, phân tích thực trạng thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện
nay: thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và một số vấn đề đặt ra.
Ba là, đề xuất một số giải pháp cơ bản để nhằm đảm bảo thực hiện có hiệu
quả quyền bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái trong giai đoạn mới hiện nay.
4. Đối tượng nghiên cứu của luận văn
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là nghiên cứu vấn đề lý luận và thực tiễn
có liên quan đến việc thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
5
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận của đề tài là hệ thống lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng dân tộc và thực hiện
bình đẳng dân tộc.
Phương pháp nghiên cứu, đề tài sử dụng hệ thống các phương pháp nghiên
cứu lý luận chung của chủ nghĩa duy vật biện chứng, duy vật lịch sử. Ngoài ra, đề
tài cũng sử dụng một số phương pháp có tính chất chuyên ngành, như: điều tra,
khảo sát…
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
Về lý luận: Trên cơ sở phân tích thực trạng, luận văn góp phần tìm ra các
giải pháp cơ bản nhằm làm rõ và sâu sắc thêm lý luận về vấn đề bình đẳng dân tộc
trong điều kiện và hoàn cảnh hiện nay. Trên cơ sở đó góp phần vào việc hoạch định
chính sách và đề ra những giải pháp cụ thể có tính chiến lược đối với chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước ta nói chung và tỉnh Yên Bái nói riêng trong tình
hình mới hiện nay.
Về thực tiễn: Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể sử dụng làm tài liệu
tham khảo trong quá trình nghiên cứu và giảng dậy các vấn đề có liên quan đến vấn
đề dân tộc và thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn được
chia thành 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về bình đẳng dân tộc và
vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc ở Việt Nam hiện nay.
Chương 2: Thực trạng thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
Chương 3: Một số giải pháp cơ bản để đảm bảo thực hiện có hiệu quả
quyền bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay.
6
Chương 1
QUAN ĐIỂM CỦA CHỦ NGHĨA MÁC-LÊNIN VỀ BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC
VÀ VẤN ĐỀ THỰC HIỆN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
1.1. Bình đẳng dân tộc và các nội dung cơ bản của bình đẳng dân tộc
1.1.1. Bình đẳng dân tộc
Ở xã hội cộng sản nguyên thủy, con người sinh sống, hoạt hoạt động và lao
động đều mang tính cộng đồng, cùng làm cùng hưởng, mọi thành viên trong thị tộc,
bộ lạc đều bình đẳng, đều có quyền lợi và nghĩa vụ như nhau, cùng săn bắn, hái
lượm và cùng được hưởng những phần của cải như nhau trong số sản phẩm thu
được, và tuy nhiên họ đều phải tuân thủ như nhau về các quy ước chung trong cộng
đồng, không có trường hợp ngoại lệ. Mọi hành vi trái với quy ước chung của cộng
đồng thì phải chịu sự trừng phạt theo quy ước đã định. Ở xã hội này, Ph.Ăngghen
đã nhận xét: "Với tất cả tính ngây thơ và giản dị của nó, chế độ thị tộc đó quả là
một tổ chức tốt đẹp biết bao... Tất cả đều bình đẳng và tự do" [20, tr.147-148]. Tuy
nhiên, trong xã hội cộng sản nguyên thủy, lực lượng sản xuất còn thấp kém nên sản
phẩm lao động còn ít ỏi chỉ đủ để tồn tại, nên cách cùng làm cùng hưởng theo kiểu
chia đều là phương thức duy nhất để xã hội cùng tồn tại.
Khi lực lượng sản xuất phát triển, của cải làm ra đã có dư thừa tương đối thì
xuất hiện tư tưởng tư hữu và sau đó là chế độ tư hữu, giai cấp, nhà nước, xã hội
chiếm hữu nô lệ ra đời cùng với sự bất bình đẳng, phân chia đẳng cấp giàu nghèo,
sang hèn cũng như địa vị của từng cá nhân trong xã hội. Như vậy, sự bất bình đẳng
trong các cộng đồng chủng tộc, bộ tộc chính thức manh nha của bất bình đẳng dân
tộc đã bắt đầu xuất hiện.
Nhà triết học Hy Lạp thời cổ đại Pla-tôn (427-347 tr.CN) khi bàn về vấn đề
Nhà nước đã cho rằng: một nhà nước lý tưởng là nhà nước có những đạo luật công
bằng được thiết lập trên cơ sở trí tuệ và lợi ích quốc gia chứ không phải lợi ích của
mỗi người cầm quyền. Ari-xtốt (384-322 tr.CN) cho rằng: sự phân chia giai cấp và
địa vị giai cấp là lẽ tự nhiên, công bằng và bình đẳng chỉ áp dụng cho những người
cùng giai cấp, các giai cấp khác nhau thì công bằng và bình đẳng giai cấp khác
nhau; sự bất bình giữa các giai cấp theo ông đó chính là sự công bằng. Ở Trung
7
Quốc cổ đại, Hàn Phi Tử đã phát triển tư tưởng pháp trị của các nhà tư tưởng trước
thành một học thuyết pháp trị khá hoàn chỉnh nhằm thiết lập một xã hội công bằng.
Trong xã hội phong kiến, với sự phân chia giai cấp địa chủ và nông dân, đất
đai và tư liệu sản xuất thuộc về giai cấp địa chủ, quý tộc, nông dân chỉ là người đi
cày thuê cuốc mướn, con người hàng ngày vẫn phải đối mặt với những bất công
trong xã hội. Đây cũng chính là nguyên nhân của hàng loạt các cuộc khởi nghĩa của
nông dân chống lại bọn địa chủ phong kiến đòi công bằng và bình đẳng trong xã hội.
Ph. Ăngghen đã từng nhận xét: "Điều đó lý giải vì sao chế độ phong kiến lại có nhiều
cuộc khởi nghĩa chống lại địa chủ, lãnh chúa để đòi công bằng xã hội" [19, tr.243].
Chủ nghĩa tư bản ra đời, cùng với chiêu bài: "Tự do, bình đẳng, bác ái", của
giai cấp tư sản nhằm tập hợp lực lượng để thủ tiêu chế độ phong kiến, đồng thời
khẳng định các quyền tự do cá nhân, quyền được sống trong xã hội dân chủ theo
mô hình nhà nước "tam quyền phân lập" với một nền pháp luật tiến bộ, công bằng.
Đây là những nội dung cơ bản trong tư tưởng công bằng xã hội của thời kỳ này.
Tômát Hốpxơ (1588-1679), nhà triết học nổi tiếng đại biểu cho chủ nghĩa
duy vật Anh thế kỷ XVII cho rằng: con người là giống nhau mà tạo hóa đã ban cho
nên con người phải được công bằng và bình đẳng, nhưng con người thì lại có tính
tham lam và ích kỷ nên không thể có sự bình đẳng và công bằng, ông đã chỉ ra
rằng: Để đi đến sự công bằng giữa con người với con người thì phải có một lực
lượng đứng trên để dàn xếp các lợi ích cá nhân, đó chính là nhà nước. Tư tưởng này
của Tômát Hốpxơ đã mang tính duy vật về xã hội nhưng lại chưa thấy được trong
xã hội có đối kháng giai cấp thì nhà nước mang tính giai cấp của giai cấp thống trị,
nên ông đã cho rằng không thể thực hiện CBXH chung cho toàn xã hội.
Tiếp tục tư tưởng của Tômát Hốpxơ, Xpinôza (1632-1677) đã đưa ra tư
tưởng giải phóng con người và giải phóng mình đó là nhận thức, chính nhận thức
mà làm cho con người tránh khỏi tệ nạn xã hội, giải phóng mọi áp bức và bất công.
Ông cho rằng, dốt nát là nguyên nhân của áp bức, bất công, không nhận thức được
hiện thực thì không thể chế ngự được lòng ham muốn của mình. Tuy nhiên, quan
điểm của ông vẫn chưa duy vật triệt để về xã hội.
Đến Giăng Giắc Rútxô (1712-1778); nhà tư tưởng vĩ đại, nhà biện chứng lỗi
lạc của nền triết học Khai sáng Pháp cho rằng: xã hội công dân đã tạo ra một xiềng
xích mới trói buộc kẻ yếu, thế lực thuộc về kẻ mạnh, luôn kìm hãm, thủ tiêu bình
8
đẳng cá nhân và duy trì quan hệ bất bình đẳng. Theo ông, muốn xóa bỏ bất bình
đẳng thì phải xây dựng một nhà nước kiểu mới do nhân dân làm chủ, đồng thời ông
cũng phê phán sở hữu tư nhân vì sở hữu tư nhân là nguyên nhân làm phân hóa
thành kẻ giàu người nghèo, muốn xóa được sở hữu tư nhân thì phải thiết lập khế
ước xã hội thì mới đạt được công bằng và bình đẳng. Đây là những lý tưởng nhân
đạo nhưng cũng chưa thoát khỏi hạn chế lịch sự.
Các nhà xã hội không tưởng cũng phê phán mạnh mẽ xã hội đương thời
được xây dựng trên nền móng của sự chiếm hữu, đồng thời các ông cũng đề ra một
mô hình xã hội mới mà ở xã hội đó mọi người đều phải lao động và hưởng thụ như
nhau, xóa bỏ mọi đặc quyền đặc lợi, xây dựng một xã hội bình đẳng tạo điều kiện
công bằng cho mọi thành viên trong xã hội, tuy nhiên đây là một mô hình xã hội
không tưởng cả về lý luận và thực tiễn, đây là một mơ ước về xã hội lý tưởng mà
công bằng là theo chủ nghĩa bình quân, cào bằng. Tuy nhiên, trong giai đoạn này,
tư tưởng về bình đẳng xã hội của nhân loại đã có những bước tiến khá dài khác hẳn
về chất so với các xã hội trước đó.
Chủ nghĩa tư bản trong thời đại ngày nay đã trải qua những thăng trầm trong
lịch sử nên có những bài học về việc điều chỉnh bình đẳng xã hội và cũng đạt được
một số thành tựu, đồng thời dưới danh nghĩa "phúc lợi chung", chủ nghĩa tư bản đã
làm dịu bớt được sức nóng trong xã hội tư bản, chủ nghĩa tư bản đã nhận thức được
rằng cuộc đấu tranh giữa công nhân và tư sản về công bằng có thể sẽ là một mất
một còn nếu không thực sự xoa dịu được tình hình, chính vì vậy mà chủ nghĩa tư
bản có những điều chỉnh tương đối hợp lý, làm giảm bớt sức nóng về bình đẳng xã
hội trong xã hội tư bản. Tuy nhiên, đây chỉ là những biện pháp mang tính hình
thức, còn về thực chất và lâu dài thì sự đòi hỏi công bằng của giai cấp công nhân và
các tầng lớp nhân dân lao động đang chịu bất công với giai cấp tư sản tất yếu sẽ
được thực hiện bằng một cuộc cách mạng xã hội.
Như vậy, ngay từ khi xã hội loài người có sự phân chia giai cấp, con người
luôn đấu tranh nhằm vươn tới sự giải phóng. Trong những mục tiêu của sự nghiệp
giải phóng ấy, bình đẳng và công bằng xã hội là vấn đề cơ bản và là vấn đề lâu dài.
Đối với chủ nghĩa xã hội bình đẳng và công bằng xã hội là nguyện vọng thiết tha
của nhân dân đồng thời là một trong những mục tiêu và động lực quan trọng của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội.
9
Từ những quan niệm về bình đẳng trên có thể thấy bình đẳng có nghĩa là sự
ngang bằng nhau về một phương diện nào đó giữa hai hay một số sự vật cùng tham
gia một quan hệ nhất định. Trong cuốn “Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học”,
Nhà xuất bản Sự thật Hà Nội năm 1986 thì khái niệm “Bình đẳng - là những điều
kiện và khả năng như nhau đối với việc tự do phát triển các năng lực và thoả mãn
các nhu cầu của tất cả các thành viên trong xã hội, địa vi như nhau của mọi người
trong xã hội…” [30, tr.10].
Trong cuốn “Từ điển tiếng Việt” - Trung tâm từ điển ngôn ngữ Hà Nội -
Việt Nam xuất bản năm 1994 thì khái niệm “bình đẳng - ngang bằng nhau về địa vị
và quyền lợi”, ví như mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật, nam nữ bình
đẳng [31, tr.65].
Khái niệm bình đẳng ngày nay là một giá trị xã hội, là thành quả của nhân
loại trong quá trình phát triển nhằm tạo ra các điều kiện, cơ hội ngang nhau, không
phân biệt dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, địa vị xã hội… trong các lĩnh vực của đời sống
chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội nhằm mưu cầu hạnh phúc.
Từ những quan niệm về bình đẳng trên ta có thể thấy rằng: Bình đẳng xã hội
là sự ngang bằng nhau giữa các cá nhân hay các nhóm cộng đồng xã hội về một
phương diện hay những phương diện xã hội nhất định nào đó, chẳng hạn như bình
đẳng về quyền và nghĩa vụ công dân, về địa vị xã hội, về khả năng, về cơ hội, về
mức độ thoả mãn những nhu cầu cụ thể nhất định trong các lĩnh vực kinh tế, chính
trị, văn hoá, xã hội… Từ lôgíc đó ta có thể nói rằng sự ngang bằng nhau giữa người
với người (hoặc giữa các nhóm cộng đồng với nhau) về mọi phương diện, là nói tới
một sự bình đẳng xã hội toàn diện. Bình đẳng xã hội chỉ đặt ra trong sự so sánh về
phương diện xã hội. Bình đẳng xã hội chỉ đặt ra trong sự so sánh về phương diện xã
hội. Bình đẳng xã hội không loại trừ sự khác biệt về mặt tự nhiên, sinh vật chứ
không phải chỉ là sự khác nhau về mặt xã hội.
Từ sự phân tích trên cũng cho thấy vấn đề bình đẳng xã hội trong tư tưởng
của Mác giúp chúng ta hiểu rõ khái niệm bình đằng đẳng xã hội và mối liên hệ của
nó với các khái niệm khác, đặc biệt là bình đẳng dân tộc - một trong những nguyên
lý cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh
và là một quan điểm cơ bản trong quá trình lãnh đạo cách mạng nước ta.
10
Bình đẳng dân tộc là quyền ngang nhau của các dân tộc, không phân biệt dân
tộc đó là đa số hay thiểu số, trình độ văn hoá, dân trí cao hay thấp, không phân biệt
chủng tộc màu da. Nội dung của quyền bình đẳng giữa các dân tộc được thể hiện
rõ: các dân tộc đều bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ trên tất cả các lĩnh vực trong
đời sống chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và mọi người có cơ hội phát triển, được
bảo đảm bằng pháp luật.
Bình đẳng về chính trị là sự bình đẳng về quyền làm chủ đất nước, quyền
tham chính của các dân tộc.
Bình đẳng về kinh tế là sự phát triển kinh tế đồng đều giữa các dân tộc và
các vùng.
Bình đẳng về văn hoá là các dân tộc có sự phát triển hài hoà trong một nền
văn hoá đa dân tộc, không những không làm mất đi bản sắc dân tộc mà trái lại bản
sắc văn hoá dân tộc còn được giữ vững và ngày càng phát triển, các dân tộc có
quyền sự dụng tiếng nói của mình, sự hưởng thụ văn hoá và dân trí của các dân tộc
đều được nâng cao.
Bình đẳng dân tộc là nguyên tắc cơ bản trong chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nước ta. Do quy luật phát triển không đồng đều, hơn nữa do hậu quả của
chính sách cai trị của thực dân trước đây, nên các dân tộc ở nước ta còn chênh lệch
về trình độ phát triển. Mục tiêu của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta là
giải quyết hài hoà sự chênh lệch đó. Do đó, việc thực hiện bình đẳng giữa các dân
tộc ở nước ta chính là cơ sở cho việc xoá bỏ sự nô dịch của dân tộc này đối với dân
tộc khác, tạo điều kiện để khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển trên mọi
lĩnh vực giữa các dân tộc.
1.1.2. Các nội dung cơ bản của bình đẳng dân tộc
Xét về nội dung của bình đẳng dân tộc theo quan điểm của Mác-Lênin là
bình đẳng toàn diện trước hết là bình đẳng về kinh tế. Ở phương diện này, bình
đẳng dân tộc phụ thuộc vào sự đồng đều về trình độ phát triển kinh tế của các dân
tộc, cốt lõi là sự phát triển đồng đều về lực lượng sản xuất. Trong “Hệ tư tưởng
Đức”, C.Mác viết: “Những quan hệ qua lại giữa các dân tộc khác nhau đều phụ
thuộc vào những trình độ phát triển của mỗi dân tộc đó về mặt lực lượng sản xuất,
sự phân công lao động, và sự giao tiếp nội bộ” [18, tr.330].
11
Điều C.Mác nói ở trên đây có thể hiểu là không ngừng phát triển lực lượng
sản xuất, vượt qua tình trạng lạc hậu về kinh tế, vươn lên trình độ sản xuất tiên tiến
của thời đại là con đường đưa dân tộc lên địa vị bình đẳng với các dân tộc khác.
Bình đẳng dân tộc, do đó, trước hết phải là sự bình đẳng về kinh tế sự bình đẳng
trên các lĩnh vực khác không được khẳng định đầy đủ về nội dung và trong nhiều
trường hợp biến thành khẩu hiệu và cuộc vận động mang tính chất cải lương.
Nhấn mạnh tầm quan trọng của nội dung về bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực
kinh tế, Chủ nghĩa Mác-Lênin còn nhận thấy ý nghĩa của sự bình đẳng dân tộc trên
các lĩnh vực văn hoá. Văn hoá là biểu hiện kết tinh những giá trị nổi bất của mỗi
dân tộc, mỗi dân tộc có một nền văn hoá mang đậm đà bản sắc dân tộc mình. Chính
trên lĩnh vực văn hoá, các yếu tố tộc người - những yếu tố mà nhờ đó phân biệt
được dân tộc này với dân tộc khác - được biểu hiện đầy đủ nhất. Văn hoá của mỗi
dân tộc được tạo thành sức sống bền vững của mỗi dân tộc. Nếu văn hoá với các
bản sắc dân tộc riêng mất đi thì dân tộc cũng tạm biến mất với tính cách một cộng
đồng riêng độc lập. Mức độ phát triển văn hoá của mỗi dân tộc, quốc gia được coi
là một trong những thước đo đánh giá sự phát triển chung của mỗi dân tộc, quốc gia
đó, bên cạnh thước đo về sự phát triển kinh tế - xã hội. Như vậy, mức độ phát triển
văn hoá là một trong những nhân tố có ý nghĩa quyết định địa vị bình đẳng của mỗi
dân tộc trong quan hệ với dân tộc khác.
Đối với các dân tộc bị áp bức, sẽ không có bình đẳng về kinh tế, văn hoá nếu
không có bình đẳng về chính trị. Bình đẳng về chính trị là quyền của mỗi dân tộc-
cũng như các dân tộc khác, tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình, bao gồm:
quyền lựa chọn chế độ chính trị, con đường phát triển của dân tộc mình; quyền
quyết định chính sách dân tộc mình trong lĩnh vực quan hệ với các dân tộc khác.
Quyền bình đẳng dân tộc về mặt chính trị đồng nghĩa với quyền tự quyết dân tộc.
Đối với các dân tộc bị áp bức, bình đẳng dân tộc về chính trị là tiền đề để từ đó đạt
tới bình đẳng về kinh tế, văn hoá…
1.2. Quan điểm mácxít về bình đẳng dân tộc
1.2.1. Quan điểm của Chủ nghĩa Mác-Lênin về bình đẳng dân tộc
Quan điểm của Mác và Ăngghen về vấn đề dân tộc được thể hiện khá rõ khi
hai ông nghiên cứu phong trào giải phóng dân tộc ở Ban Lan, Airơlan, các nước
nước vùng Ban Căng và các nước khác. Mác và Ăngghen đã kêu gọi: “hãy xoá bỏ
12
tình trạng người bóc lột người thì tình trạng dân tộc này bóc lột dân tộc khác cũng
sẽ bị xoá bỏ. Khi mà sự đối kháng giữa các giai cấp trong nội bộ dân tộc không còn
nữa thì sự thù địch giữa các dân tộc cũng đồng thời mất theo” [19, tr.624]. Hai ông
đã nêu ra khẩu hiệu nổi tiếng “Vô sản tất cả các nước đoàn kết lại!”. Tư tưởng đoàn
kết giai cấp công nhân toàn thế giới, đấu tranh chống áp bức bóc lột, xoá bỏ tình
trạng người bóc lột người để từ đó xoá bỏ tình trạng dân tộc này nô dịch dân tộc
khác là nguyên tắc lý luận, đồng thời cũng là nền tảng của chính sách nô dịch dân
tộc mác xít của giai cấp công nhân trong cuộc đấu tranh chống giai cấp tư sản. Điều
đó đã thể hiện thái độ chính trị của những người cộng sản, thái độ của giai cấp công
nhân nói chung trong cuộc đấu tranh giai cấp nhằm đánh đổ chủ nghĩa tư bản. Quan
điểm đó cũng chỉ rõ chiến lược, giải pháp cơ bản tập hợp lực lượng giai cấp công
nhân tất cả các dân tộc vùng lên đấu tranh chống áp bức, nô dịch đang đè lên đầu
họ. Những quan điểm của Mác và Ăngghen nêu trên được coi là cương lĩnh đầu
tiên, là nguyên tắc lý luận, kim chỉ nam cho hành động của các Đảng Cộng sản giải
quyết vấn đề dân tộc.
Trong thời đại đế quốc chủ nghĩa, thời đại mà V.I.Lênin sống và hoạt động
cách mạng, vấn đề bình đẳng và tự quyết dân tộc lại càng bức thiết hơn. Trong
những điều kiện ấy, V.I.Lênin đã phát triển những luận điểm của Mác và Ăngghen
về vấn đề dân tộc. V.I.Lênin đã phát hiện hai xu hướng lịch sử trong sự phát triển
dân tộc và trong mối quan hệ dân tộc. Người viết:
Xu hướng thứ nhất là: Sự thức tỉnh của đời sống dân tộc và của các phong
trào dân tộc, cuộc đấu tranh chống mọi ách áp bức dân tộc, việc thiết lập các quốc
gia dân tộc.
Xu hướng thứ hai là: Việc phát triển và tăng cường đủ mọi thứ quan hệ giữa
các dân tộc, việc xoá bỏ những hàng rào ngăn cách của các dân tộc và việc thiết lập
sự thống nhất quốc tế của tư bản, của đời sống kinh tế nói chung, của chính trị,
khoa hoc nói riêng… [13, tr.158].
Cương lĩnh dân tộc của những người mác xít chú ý đến cả hai xu hướng đó.
Từ những luận chứng khoa học về vấn đề dân tộc, V.I.Lênin đề ra Cương
lĩnh dân tộc của các Đảng Cộng sản “Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng; các dân tộc
được quyền tự quyết; liên hiệp công nhân tất cả các dân tộc lại: Đó là Cương lĩnh
dân tộc mà chủ nghĩa Mác, kinh nghiệm toàn thế giới và kinh nghiệm của nước
13
Nga dạy cho công nhân” [15, tr.375]. Đây là tư tưởng chỉ đạo, nội dung cốt lõi của
chủ nghĩa Mác-Lênin về chính sách dân tộc.
- Các dân tộc hoàn toàn bình đẳng:
Theo V.I.Lênin, bình đẳng dân tộc là quyền được đối xử như nhau của mọi
dân tộc không phân biệt nhiều người hay ít người, trình độ phát triển kinh tế - xã
hội cao hay thấp, không phân biệt chủng tộc, màu da, tôn giáo…
Theo V.I.Lênin: “Nguyên tắc bình đẳng hoàn toàn gắn liền chặt chẽ với việc
đảm bảo quyền lợi của các dân tộc thiểu số… bất cứ một thứ đặc quyền nào dành
riêng cho một dân tộc và bất cứ một sự vi phạm nào đến quyền lợi của một dân tộc
thiểu số, đều bị bác bỏ” [14, tr.179].
Quyền bình đẳng dân tộc, theo V.I.Lênin bao gồm tất cả lĩnh vực của đời
sống xã hội. Đây là cơ sở pháp lý chung giải quyết các quan hệ dân tộc trên thế
giới, trong khu vực hay trong quốc gia. Bình đẳng giữa các dân tộc cũng chính là
kết quả đấu tranh của nhân dân lao động các nước, là thành quả của văn hoá văn
minh và tiến bộ xã hội.
V.I.Lênin chỉ rõ: “Ý nghĩa thật sự của việc đòi quyền bình đẳng, chung quy
là đòi thủ tiêu giai cấp” [17, tr.136].
Bình đẳng dân tộc, trước hết là sự bình đẳng về kinh tế. Lợi ích kinh tế gắn
liền với lợi ích giai cấp, dân tộc, quốc gia, bởi vậy giải quyết các mối quan hệ liên
quan đến dân tộc, đều phải tính đến quan hệ kinh tế, lợi ích kinh tế. Chỉ có trên cơ sở
có sự bình đẳng về kinh tế, quyền bình đẳng trên các lĩnh vực khác mới được thực
hiện đầy đủ. Nếu tách rời các quyền bình đẳng dân tộc về kinh tế thì quyền bình đẳng
dân tộc trên các lĩnh vực khác chỉ là những khẩu hiệu có tính chất cải lương.
Bình đẳng chính trị cũng là quyền thiêng liêng của mỗi dân tộc. Đối với các
dân tộc bị áp bức, bị lệ thuộc, đấu tranh giành quyền bình đẳng về chính trị, chính
là điều kiện để có bình đẳng trên các phương diện khác của đời sống xã hội.
Nhận thức và giải quyết đúng vấn đề bình đẳng chính trị và quyền tự quyết
trong các quốc gia cụ thể, nhất là các quốc gia đa dân tộc là vấn đề đặc biệt quan
trọng đối với giai cấp vô sản và những người mác xít chân chính trong thực hiện
nhiệm vụ chính trị của mình. Để thực hiện bình đẳng về chính trị, những người mác
xít phải đấu tranh không khoan nhượng chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, phản
14
động dưới mọi hình thức. V.I.Lênin chỉ rõ: “Chủ nghĩa Mác không thể điều hoà
được với chủ nghĩa dân tộc, dù là chủ nghĩa dân tộc “công bằng, thuần khiết, tinh vi
và văn mình đến đâu nữa” [16, tr.167].
- Bình đẳng trên lĩnh vực văn hoá - xã hội
Lênin cho rằng, bình đẳng về văn hoá không tách rời bình đẳng về chính trị,
kinh tế. Đó là lý do V.I.Lênin phê phán khẩu hiệu “tự trị dân tộc về văn hoá” của
những người dân chủ xã hội Áo và những người thuộc phái Bun. Vì khẩu hiệu đó
đã thu hẹp quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc rộng lớn chỉ vào một lĩnh vực văn
hoá. Theo V.I.Lênin, khẩu hiệu “tự trị dân tộc về văn hoá” là một ảo tưởng.
Trong chừng mực mà các dân tộc khác nhau còn chung sống trong một quốc
gia, thì họ gắn bó với nhau bằng hàng ức hàng triệu mối liên hệ kinh tế, pháp luật
và tập quán. Vậy làm thế nào lại có thể tách việc giáo dục khỏi những mối liên hệ
này? liệu có thể “tách” công việc đó “ra khỏi quản lý” của nhà nước được không
như công thức của phái Bun đã tuyên bố, một công thức điển hình về cách nhấn
mạnh một điều vô nghĩa? “Nếu như nền kinh tế gắn bó các dân tộc cùng sống trong
một quốc gia với nhau mà lại toan chia cắt học một cách dứt khoát trong lĩnh vực
những vấn đề văn hoá và nhất là vấn đề giáo dục, thì thật là ngu ngốc và phản
động. Trái lại, cần phải ra sức liên hợp các dân tộc lại trong lĩnh vực giáo dục để
cho cái đang được thực hiện trong cuộc sống thì đã được chuẩn bị ngay trong nhà
trường” [30, tr.221].
Sau Cách mạng Tháng Mười Nga, nguyên tắc bình đẳng dân tộc được nêu
trong Tuyên ngôn dân quyền của nước Nga, sau đó được ghi vào Hiến pháp Liên
Xô, quy định quyền bình đẳng của mọi công dân Xô viết không phụ thuộc dân tộc,
trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá, nó là một pháp lệnh bất di bất dịch.
Trong phạm vi quốc tế, đấu tranh cho sự bình đẳng giữa các dân tộc gắn với
cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa phân biệt chủng tộc, chủ nghĩa Xô vanh, chủ nghĩa
phát xít mới, đồng thời cũng đấu tranh chống chủ nghĩa dân tộc cực đoan, hẹp hòi.
Có như vậy mới thực hiện được sự bình đẳng thật sự các dân tộc.
V.I.Lênin luôn luôn thể hiện quan điểm lịch sử cụ thể khi xem xét và giải
quyết vấn đề tự quyết của các dân tộc. Những năm trước Cách mạng xã hội chủ
nghĩa Tháng Mười, V.I.Lênin ủng hộ yêu sách của các dân tộc bị áp bức đòi phân
lập. Yêu sách đó góp phần làm suy yếu chế độ Nga hoàng, làm thất bại chính sách
15
dân tộc Sô vanh Đại Nga, tạo điều kiện đưa cách mạng đi tới thắng lợi. Sau Cách
mạng Tháng Mười, V.I.Lênin ủng hộ nguyện vọng liên hiệp lại của các dân tộc, vì
điều đó là tất yếu và cần thiết để đảm bảo quyền bình đẳng giữa các dân tộc, xoá bỏ
những hằn thù để liên kết các dân tộc tạo thành một quốc gia rộng lớn nhằm bảo vệ
những thành quả cách mạng đã giành được và cùng nhau xây dựng xã hội mới.
Phân tích ý nghĩa về quyền tự quyết và quan hệ của nó với chế độ liên bang
Lênin cho rằng:
“Quyền dân tộc tự quyết hoàn toàn chỉ có nghĩa là các dân tộc có quyền độc
lập chính trị, có quyền tự do phân lập về mặt chính trị, khỏi dân tộc áp bức họ. Nói
một cách cụ thể, yêu sách đòi dân chủ chính trị có nghĩa là hoàn toàn tự do tuyên
truyền cho việc phân lập và có nghĩa là giải quyết vấn đề phân lập bằng con đường
trưng cầu dân ý trong dân tộc muốn lập. Như vậy là yêu sách đó hoàn toàn không
đồng nghĩa với yêu sách đòi phân lập, phân tán, thành lập những quốc gia nhỏ. Nó
chỉ là biểu hiện triệt để của cuộc đấu tranh chống mọi áp bức dân tộc” [31, tr.327].
- Đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc:
Chủ nghĩa Mác-Lênin khẳng định rằng quyền bình đẳng và quyền tự quyết
dân tộc không phải tự nhiên có được và đương nhiên thực hiện, ngược lại chúng là
kết quả của cuộc đấu tranh chống mọi thế lực xâm lược, áp bức dân tộc và gây nên
sự đồng hoá cưỡng bức đối với nhiều dân tộc. Đồng thời, bình đẳng và tự quyết dân
tộc trong từng quốc gia cũng như trên toàn thế giới. Chỉ có đứng vững trên lập
trường giai cấp công nhân mới thực hiện được quyền bình đẳng và tự quyết đúng
đắn, khắc phục được thái độ kỳ thị và thù hằn dân tộc. Cũng từ đó mới đoàn kết
được nhân dân lao động các dân tộc trong cuộc đấu tranh vì độc lập dân chủ và chủ
nghĩa xã hội.
Chính vì vậy, nội dung đoàn kết giai cấp công nhân các dân tộc được nêu
trong cương lĩnh không chỉ là lời kêu gọi mà còn là biện pháp hữu hiệu đảm bảo
việc thực hiện quyền bình đẳng và tự quyết dân tộc. Nội dung đó đóng vai trò liên
kết cả ba nội dung của Cương lĩnh thành một chỉnh thể.
V.I.Lênin cho rằng: “Sự giải phóng khỏi ách tư bản, sự xây dựng xã hội xã
hội chủ nghĩa và cộng sản chủ nghĩa là nhiệm vụ quốc tế của tất cả những người vô
sản, của tất cả nhân dân lao động. Chủ nghĩa quốc tế vô sản thể hiện tính chất
chung của những quyền lợi cơ bản và những ý nguyện tiến bộ của nhân dân lao
16
động của tất cả các dân tộc, về nguồn gốc và bản chất của nó đối lập với chủ nghĩa
dân tộc tư sản, gây sự hằn thù và chia rẽ giữa các dân tộc. Người nhấn mạnh: Chỉ
có sự thống nhất và sự hợp nhất như vậy mới có thể bảo vệ được nền dân chủ, bảo
vệ được lợi ích của công nhân chống lại tư bản - tư bản này đã trở thành có tích chất
quốc tế, bảo vệ được những lợi ích của sự phát triển loài người tới một phương thức
sinh hoạt mới, không có bất cứ đặc quyền và sự bóc lột nào” [29, tr.151].
Những quan điểm về vấn đề dân tộc và giải quyết các quan hệ dân tộc được
Lênin khái quát thành Cương lĩnh chung cho các đảng mác xít, có ý nghĩa lý luận
và thực tiễn trên phạm vi toàn thế giới, trong từng quốc gia cũng như từng dân tộc.
Như vậy theo quan điểm của V.I.Lênin, bình đẳng dân tộc về thực chất là
xoá bỏ tình trạng người bóc lột người để từ đó xoá bỏ tình trạng dân tộc này có đặc
quyền, đặc lợi so với dân tộc khác, dân tộc này đi áp bức dân tộc khác. Đó là lý do
mà ông xem việc giải quyết vấn đề bình đẳng dân tộc như là một bộ phận không thể
thiếu trong cương lĩnh cách mạng nhằm thực hiện bình đẳng xã hội nói chung. Việc
thực hiện bình đẳng xã hội nói chung là mục tiêu bao trùm, do đó có ý nghĩa quyết
định việc thực hiện bình đẳng dân tộc; ngược lại việc thực hiện bình đẳng dân tộc
là một trong những nhân tố thúc đẩy thực hiện bình đẳng xã hội. Không xoá bỏ bất
bình đẳng giữa người với người thì bất bình đẳng về dân tộc không bao giờ được
xoá bỏ; ngược lại, không xoá bỏ bất bình đẳng về dân tộc thì việc xoá bỏ bất bình
đẳng xã hội không bao giờ thực hiện triệt để, đầy đủ. Một xã hội xây dựng trên nền
tảng chế độ người bóc lột người sẽ không thể nào giải quyết được triệt để vấn đề
bình đẳng dân tộc. Bình đẳng dân tộc chỉ có thể thực hiện từng bước trong tiến
trình cách mạng xã hội chủ nghĩa trong mỗi quốc gia dân tộc dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân nhằm cải tạo xã hội một cách toàn diện, triệt để.
Tóm lại quan niệm của Mác-Lênin về bình đẳng dân tộc là kết quả của sự nỗ
lực tự thân vươn lên trình độ tiến bộ của từng dân tộc; đồng thời, một phần không
kém quan trọng đó cũng là kết quả của sự giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa
các dân tộc theo tinh thần xích lại gần nhau, hoà hợp với nhau hơn nữa. Sự kết hợp
nội lực và ngoại lực tạo cho mỗi dân tộc điều kiện phát huy tối đa tiềm lực của dân
tộc mình, cộng với sự tương trợ lẫn nhau của các dân tộc anh em để vươn lên phía
trước với tốc độ nhanh. Chỉ bằng con đường ấy mới có thể thực hiện có hiệu quả
17
việc xoá bỏ chênh lệch về trình độ phát triển, một trong những nguyên nhân sâu xa
để duy trì tình trạng bất bình đẳng dân tộc.
Những luận điểm quan trọng mà các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác-Lênin
đã nêu ở trên, một lần nữa khẳng định nội dung của bình đẳng dân tộc là bình đẳng
toàn diện trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội
1.2.2. Quan điểm của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam về bình
đẳng dân tộc
Trong một quốc gia đa dân tộc, bình đẳng dân tộc vừa là quyền, vừa là một
trong những nguyên tắc cơ bản trong quan hệ giữa các dân tộc, đảm bảo cho sự
đoàn kết dân tộc và phát triển bền vững của cả quốc gia dân tộc. Thực chất của việc
thực hiện quyền bình đẳng dân tộc chính là bảo đảm các quyền cơ bản của mỗi con
người và mỗi dân tộc, trong đó có quyền sống, quyền tự do, mưu cầu hạnh phúc và
phát triển. Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc. Có dân tộc có số dân hàng chục
triệu người, song cũng có dân tộc chỉ có vài ngàn, thậm chí chỉ vài trăm người. Các
dân tộc có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Thực hiện quyền
bình đẳng dân tộc ở nước ta thể hiện vai trò và vị trí của mỗi dân tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Vận dụng lý luận Mác-Lênin trong quá trình lãnh đạo
cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của
Việt Nam, tư tưởng của Người về bình đẳng dân tộc đã đặt nền móng cho việc củng
cố, xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc.
Vấn đề bình đẳng dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh được thể hiện ở
những nội dung chủ yếu sau:
Một là: Bình đẳng dân tộc chỉ có thể được thực hiện khi dân tộc ta được độc
lập, nhân dân ta được tự do, đất nước ta được thống nhất, có chủ quyền. Nghĩa là ở
đây bình đẳng dân tộc gắn bó mật thiết với sự nghiệp giải phóng dân tộc và giữ
vững nền độc lập, thống nhất toàn vẹn lãnh thổ. Khẩu hiệu “Tự do - bình đẳng - bác
ái” đã được giai cấp tư sản giương lên trong cuộc đấu tranh chống giai cấp phong
kiến từ thế kỷ XVIII coi đó là quyền thiêng liêng, bất khả xâm phạm. Mở đầu bản
Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam năm 1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dẫn lời của
bản Tuyên ngôn độc lập của Mỹ và Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Pháp
để khẳng định quyền tự do, bình đẳng của dân tộc Việt Nam. Bình đẳng dân tộc
trong quan niệm của Hồ Chí Minh khác xa bình đẳng dân tộc của giai cấp tư sản.
18
Những gì mà giai cấp tư sản đã làm đối với các dân tộc phụ thuộc và thuộc địa chỉ
là lời nói chứ không hề có trong thực tế. Ngược lại, Hồ Chí Minh cho rằng, bình
đẳng dân tộc không chỉ được cụ thể hóa về mặt pháp lý, mà quan trọng hơn là phải
được thực hiện trên thực tế. Và chính Người đã thực hiện điều đó. Ngay sau khi
Cách mạng Tháng Tám thành công, Chủ tịch Hồ Chí Minh thay mặt Chính phủ
Việt Nam đã khẳng định, các dân tộc trong cộng đồng các dân tộc Việt Nam đều
bình đẳng và Chính phủ sẽ hết sức giúp đỡ các dân tộc thiểu số về mọi mặt. Ngay
sau đó, trong Chính phủ, Nha Dân tộc thiểu số được thành lập “để săn sóc cho tất
cả đồng bào”. Trong kháng chiến chống Pháp, Đảng ta tiếp tục đề ra những chính
sách nhằm thực hiện bình đẳng dân tộc. Tháng 8/1952, Bộ Chính trị đã ra Nghị
quyết về dân tộc. Tiếp đó, tháng 6/1953, Chính phủ đã ban hành chính sách dân tộc
của Nhà nước Việt Nam với tinh thần cơ bản là đoàn kết các dân tộc trên nguyên
tắc bình đẳng, tương trợ lẫn nhau. Các Hiến pháp của nước ta cũng khẳng định
quyền bình đẳng của các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam và được cụ thể
hóa bằng chính sách dân tộc qua các thời kỳ.
Hai là: Bình đẳng dân tộc gắn bó mật thiết với sự nghiệp giải phóng con
người, gắn với cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc của nhân dân
Bình đẳng dân tộc và độc lập dân tộc có mối quan hệ chặt chẽ và có sự tác
động qua lại lẫn nhau. Trong đó, độc lập dân tộc là nền tảng để thực hiện quyền
bình đẳng giữa các dân tộc. Khi quốc gia dân tộc bị thống trị bởi đế quốc ngoại
bang thì các quyền của mỗi dân tộc cũng bị chà đạp. Do đó, không giành được độc
lập dân tộc thì cũng không thể nói tới việc thực hiện bình đẳng dân tộc. Và ngược
lại, thực hiện tốt bình đẳng dân tộc là cơ sở để củng cố và giữ vững nền độc lập của
dân tộc. Thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh điều đó. Khi thực dân Pháp
thống trị nước ta, chúng đã thi hành những chính sách đi ngược lại với nguyện
vọng và các quyền của các dân tộc sống trên dải đất Việt Nam. Đó là chính sách
“chia để trị”, “dùng người Việt đánh người Việt”, dùng người dân tộc này đánh
người dân tộc khác, nhằm chia rẽ các dân tộc, phục vụ cho mưu đồ thống trị của
chúng. Còn trong cuộc chiến tranh xâm lược của đế quốc Mỹ ở Việt Nam, chúng đã
dụ dỗ, mua chuộc, lôi kéo và ép buộc đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên chống lại
cách mạng. Do vậy, có giành được độc lập dân tộc, mới có điều kiện để chăm lo
cho đồng bào các dân tộc, cả về kinh tế, văn hóa, giáo dục và y tế. Sau khi cách
19
mạng Tháng Tám thành công, nhất là sau khi miền Bắc được giải phóng, Đảng và
Chính phủ đã có những kế hoạch và hành động cụ thể để thực hiện quyền bình
đẳng giữa các dân tộc, từng bước mang lại cuộc sống mới cho đồng bào. Đồng thời,
khi chúng ta thực hiện bình đẳng dân tộc thì cách mạng cũng có thêm những nguồn
lực quan trọng cho cuộc kháng chiến, tạo ra sức mạnh tổng hợp cho cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc đi đến thắng lợi. Ngày nay, khi đã có độc lập dân tộc thì
chúng ta càng có điều kiện và càng phải thực hiện quyền bình đẳng giữa các dân
tộc.
Ba là: Thực hiện bình đẳng dân tộc là nhân tố quyết định để củng cố và tăng
cường khối đại đoàn kết dân tộc.
Đại đoàn kết dân tộc là đường lối chiến lược của cách mạng Việt Nam, là
động lực và là nhân tố có ý nghĩa quyết định đối với sự thắng lợi của sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Xét cả về mặt lý luận và thực tiễn thấy rằng, nếu không
xây dựng được khối đại đoàn kết dân tộc khi không có sự bình đẳng giữa các dân
tộc. Khi một dân tộc này đi chà đạp, ép buộc các dân tộc khác thì sớm hay muộn sẽ
tạo nên sự chia rẽ, ly khai dân tộc. Hồ Chí Minh đã sớm nhận thấy điều đó khi cho
rằng, để xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc thì phải thực hiện bình đẳng dân tộc,
đại đoàn kết dân tộc không những phải dựa trên nền tảng của khối liên minh giữa
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức, mà còn phải thực hiện
đoàn kết các dân tộc. Tại Hội nghị đại biểu các dân tộc thiểu số Việt Nam, ngày
3/12/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Nhờ sức đoàn kết tranh đấu chung của
tất cả các dân tộc, nước Việt Nam ngày nay được độc lập… Trước kia các dân tộc
để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập càng cần đoàn kết
hơn nữa” [22, tr.4]. Cơ sở của khối đại đoàn kết dân tộc là bình đẳng dân tộc, vì lợi
ích của tất cả các dân tộc trong một quốc gia. Khi các dân tộc được đối xử bình
đẳng, cả về nghĩa vụ và quyền lợi, sẽ tạo ra tiếng nói chung và tạo nên sự đồng
thuận giữa các dân tộc và ngược lại. Vì thế nếu không đảm bảo và không có những
chính sách và hành động cụ thể để thực hiện bình đẳng dân tộc, làm cho bình đẳng
dân tộc ngày càng trở thành hiện thực thì khối đại đoàn kết dân tộc sẽ bị lung lay.
Bốn là: Xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội tạo lập sự bình đẳng giữa các
dân tộc. Để thực hiện quyền bình đẳng dân tộc cần phải có một xã hội mà ở đó,
quyền bình đẳng giữa các dân tộc có điều kiện và cơ sở để thực hiện. Xã hội đó,
20
không thể khác là xã hội xã hội chủ nghĩa. Kết luận trên của Hồ Chí Minh được
Người rút ra trong quá trình khảo nghiệm các con đường cứu nước và trong quá
trình khảo sát các xã hội tư bản. Năm 1919, thay mặt Hội những người Việt Nam
yêu nước tại Pháp, Người đã gửi đến Hội nghị Véc-xây Bản yêu sách của nhân dân
Việt Nam đòi Chính phủ Pháp phải thừa nhận các quyền tự do và quyền bình đẳng
của dân tộc Việt Nam, nhưng không được chấp thuận. Người đã hiểu ra rằng,
quyền tự do dân chủ mà chủ nghĩa tư bản rêu rao chỉ là cái “bánh vẽ”. Qua quá
trình trải nghiệm thực tế ở các nước tư bản, Người rút ra kết luận: “Cách mạng tư
sản, là cách mạng không đến nơi, tiếng là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong thì nó
tước lực công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa” [21, tr.280]; rằng “Trong thế
giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và thành công đến nơi, nghĩa
là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do và
bình đẳng giả dối” [21, tr.280]; qua nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn, Hồ
Chí Minh rút ra kết luận hết sức cơ bản: “Chỉ có chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa
cộng sản mới có thể giải phóng triệt để các dân tộc bị áp bức” [25, tr.474]; do đó,
sau khi Cách mạng tháng Tám thành công, nhất là sau khi miền Bắc được giải
phóng, cách mạng Việt Nam đã thực hiện đường lối cách mạng xã hội chủ nghĩa,
nhằm đem lại hạnh phúc ấm no thực sự cho nhân dân và mang lại quyền bình đẳng
cho các dân tộc. Vì vậy, Người cho rằng, Đảng, Nhà nước phải tuyên truyền, vận
động đồng bào chung tay xây dựng xã hội mới. Tại Hội nghị tuyên giáo miền núi,
ngày 31/8/1963, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Trước Cách mạng Tháng Tám và trong
kháng chiến, thì nhiệm vụ tuyên huấn là làm cho đồng bào các dân tộc hiểu được
mấy việc: Một là đoàn kết, Hai là làm cách mạng hay kháng chiến để đòi độc lập…
Bây giờ mục đích tuyên truyền huấn luyện là: Một là đoàn kết. Hai là xây dựng chủ
nghĩa xã hội” [24, tr.127]; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội chính là phương
thức để thực hiện bình đẳng dân tộc thực sự.
Năm là: Đảng, Nhà nước là chủ thể chính trong việc xác lập và thực hiện
quyền bình đẳng dân tộc, các dân tộc coi nhau như anh em một nhà và giúp đỡ
nhau cùng tiến bộ.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định, trong quan hệ giữa dân tộc đa số có trình
độ phát triển cao hơn với các dân tộc thiểu số có trình độ thấp hơn rất dễ nảy sinh
tư tưởng kỳ thị dân tộc, và thường có hai thái cực: (1) người dân tộc lớn dễ mắc
21
bệnh kiêu ngạo, và (2) cán bộ địa phương, nhân dân địa phương lại dễ cho mình là
dân tộc nhỏ bé, tự ti, cái gì cũng cho là mình không làm được, rồi không cố gắng.
Và Người cho rằng cần phải khắc phục những tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi
và tự ti dân tộc. Trong nhiều hội nghị, trong nhiều bài viết, bài nói, Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã dùng những từ rất thân mật, ruột thịt để nói về tình đoàn kết giữa các dân
tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, như “anh em một nhà”, “giúp đỡ nhau cùng
tiến bộ”… Người nhấn mạnh rằng, đồng bào miền xuôi với trình độ văn hóa, khoa
học kỹ thuật phát triển hơn phải giúp đỡ đồng bào thiểu số, để cùng tiến bộ. Trong
bài nói chuyện với cán bộ và học sinh Trường Sư phạm miền núi tại Nghệ An, ngày
9/12/1961, Người nói: “Hồi trước, bọn Tây và vua quan phong kiến làm cho các
dân tộc thù ghét lẫn nhau, người Mường ghét người Kinh. Bây giờ các dân tộc đều
là anh em cả. Dân tộc nào đông hơn, nhiều người hơn, tiến bộ hơn thì phải giúp đỡ
các dân tộc khác để đều tiến bộ như nhau, đều đoàn kết như anh em một nhà” [23,
tr.460-461]. Trong bài viết nhan đề “Một thắng lợi mới” đăng trên báo Nhân dân số
3149, ngày 8/11/1962, Người viết: “Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta
là: Các dân tộc đều bình đẳng và phải đoàn kết chặt chẽ, thương yêu giúp đỡ nhau
như anh em. Đồng bào miền xuôi phải ra sức giúp đỡ đồng bào miền ngược cùng
tiến bộ về mọi mặt” [23, tr.10]. Người đã khẳng định nhiệm vụ của Trung ương,
Chính phủ và các cấp ủy đảng là phải làm sao nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của đồng bào các dân tộc, phải giúp đỡ đồng bào các dân tộc thiểu số về mọi
mặt. Cụ thể:
Về chính trị: Xóa bỏ những quy định mang tính bất bình đẳng giữa các dân
tộc; tẩy trừ thành kiến giữa các dân tộc; các dân tộc được tự do bày tỏ nguyện vọng
và mong muốn của mình; chú trọng đào tạo, bồi dưỡng và cất nhắc cán bộ người
dân tộc thiểu số; trong thành phần Quốc hội và Chính phủ phải có đại biểu của các
dân tộc thiểu số; Chính phủ phải “làm cho các dân tộc anh em dần dần tự quản lý
lấy mọi công việc của mình, để mau chóng phát triển kinh tế và văn hóa của mình,
để thực hiện các dân tộc bình đẳng về mọi mặt.
Về kinh tế: Khuyến khích khai hoang; mở mang nông nghiệp; phát triển chăn
nuôi; phát triển nghề rừng; trồng cây lương thực và cây công nghiệp; đề phòng sâu
bệnh; làm và sửa chữa thêm nhiều đường xá; kết hợp chặt chẽ giao thông với thủy
lợi; đẩy mạnh việc cải tiến công cụ, chống xói mòn…
22
Về văn hóa - xã hội: Chú ý trình độ học thức cho dân tộc; chú trọng bổ túc
văn hóa; khuyến khích anh chị em giáo viên miền xuôi xung phong lên miền núi
làm công tác giáo dục; phát triển loại trường thanh niên dân tộc vừa học vừa làm;
xóa bỏ mê tín hủ tục; phải đẩy mạnh việc vệ sinh phòng bệnh, để giữ gìn sức khỏe
của đồng bào…
Tóm lại là: Ra sức giúp đỡ đồng bào phát triển những việc có lợi ích cho đời
sống vật chất và văn hóa của các dân tộc. Và Người khẳng định, có sự giúp đỡ của
Đảng, Chính phủ và đồng bào miền xuôi, đồng bào các dân tộc thiểu số sẽ tiến
nhanh hơn, thoát ra khỏi sự lạc hậu, đói nghèo.
Có thể nói, tư tưởng của Hồ Chí Minh về bình đẳng dân tộc đã huy động và
phát huy sức mạnh của cả dân tộc, cả miền xuôi và miền núi, tạo ra nguồn lực vật
chất to lớn làm nên thắng lợi của hai cuộc kháng chiến thần thánh của dân tộc, tạo
nên thành công của sự nghiệp đổi mới ngày hôm nay.
Trong bối cảnh thế giới hiện nay, khi những cuộc chiến tranh cục bộ, xung
đột vũ trang, xung đột dân tộc, tôn giáo, các hoạt động can thiệp, lật đổ, ly khai…,
liên tục diễn ra ở nhiều nơi. Ở nước ta, các thế lực thù địch đã và đang tìm mọi
cách khoét sâu và lợi dụng những khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số để
xuyên tạc chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, gây chia rẽ khối đại đoàn kết
dân tộc, nhằm phá hoại sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của nhân dân ta, do
đó càng đòi hỏi chúng ta phải tăng cường củng cố khối đại đoàn kết dân tộc. Và để
gắn kết đồng bào dân tộc thiểu số, không gì khác hơn là phải nhận thức và giải
quyết thật tốt vấn đề bình đẳng dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí Minh. Một thực tế là
do trình độ lực lượng sản xuất của nước ta hiện còn thấp, nguồn lực có hạn, quyền
bình đẳng dân tộc về mặt pháp lý và việc thực hiện quyền bình đẳng dân tộc trên
thực tế còn có khoảng cách nhất định; để có bình đẳng dân tộc trên thực tế thì cần
phải có một quá trình lâu dài. Song, phải từng bước, trong từng chính sách phát
triển phải tạo ta sự chuyển biến về kinh tế - xã hội trong vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số. Phải từng bước tạo ra sự bình đẳng về các cơ hội hưởng thụ giáo dục,
nâng cao dân trí, chăm sóc sức khỏe, tham gia các sinh hoạt và các quan hệ cộng
đồng, cơ hội tiếp cận các nguồn lực và được hưởng lợi từ các nguồn lực mang lại
cho đồng bào. Đảng và Nhà nước cần phân bổ nguồn vốn đầu tư thích đáng hơn
cho địa bàn khó khăn này, chú trọng đầu tư xây dựng hạ tầng vật chất, hạ tầng xã
23
hội, xóa đói giảm nghèo, đồng thời có chính sách hợp lý và hướng dẫn, tạo điều
kiện cho đồng bào dân tộc thiểu số tự vươn lên hoà nhập vào sự phát triển chung
của đất nước.
- Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về bình đẳng dân tộc
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, dựa trên những quan điểm
của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc, Đảng ta đã
coi trọng và làm tốt chính sách dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, góp phần làm nên
những thắng lợi vĩ đại của cách mạng. Công cuộc đổi mới toàn diện đất nước,
những thời cơ và thách thức mới cùng với những tác động từ bên ngoài và cả
những vấn đề nảy sinh trong nước đòi hỏi vấn đề dân tộc phải được nhận thức ngày
càng đầy đủ và sâu sắc hơn. Quan điểm về dân tộc và chính sách dân tộc được thể
hiện cụ thể trong văn kiện các kỳ Đại hội Đảng toàn quốc, trong các chỉ thị, nghị
quyết của Bộ Chính trị, Ban Bí thư Trung ương Đảng cũng như của Chính phủ…
Trong Nghị quyết của Hội nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng tháng
11/1939 và Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII của Đảng Cộng sản Đông
Dương tháng 5/1941 đã đề ra những chính sách, chủ trương cụ thể nhằm ổn định,
củng cố phong trào cách mạng, nhằm thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chiến lược do
cương lĩnh của Đảng đề ra “Độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội”. Trong
Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ VIII đã xác định: “Các dân tộc sống trên
cõi Đông Dương sẽ tuỳ theo ý muốn, tổ chức thành liên bang cộng hoà dân chủ hay
đứng riêng thành một dân tộc, quốc gia tuỳ ý” [2, tr.21].
Quan điểm về dân tộc đó, một lần nữa được khẳng định: “Chính sách dân tộc
của Đảng là dựa trên nguyên tắc: dân tộc tự quyết và dân tộc bình đẳng, nhằm mục
đích giải phóng hoàn toàn cho các dân tộc lớn, nhỏ ở Đông Dương…” [2, tr.21].
Ngay từ trước đổi mới, tại Đại hội IV - Đại hội đầu tiên khi đất nước thống
nhất sau 30 năm tiến hành chiến tranh giải phóng dân tộc với sự huy động sức
mạnh của toàn dân tộc trong đó đồng bào các dân tộc thiểu số đã có những đóng
góp hết sức to lớn cho cách mạng và kháng chiến, Đảng ta đã khẳng định “việc giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong những nhiệm vụ có tính chất chiến lược
của cách mạng Việt Nam” [4, tr.44-45]. Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện
triệt để quyền bình đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo những điều kiện cần thiết
để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa dân tộc ít người
24
và dân tộc đông người, làm cho tất cả các dân tộc đều có cuộc sống ấm no, hạnh
phúc, đều phát triển về mọi mặt, đoàn kết giúp nhau cùng tiến bộ, cùng làm chủ tập
thể Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Và để thực hiện chính sách dân tộc của
Đảng, vấn đề mấu chốt là đẩy mạnh ba cuộc cách mạng, ra sức phát triển kinh tế và
văn hóa ở các vùng dân tộc, phát triển nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng các vùng
kinh tế mới, các khu công nghiệp, mở mang giao thông vận tải và thương nghiệp xã
hội chủ nghĩa, phát triển văn hóa, giáo dục, nghệ thuật, khoa học, y tế, thể dục thể
thao, bảo vệ bà mẹ và trẻ em,… nhanh chóng nâng cao đời sống vật chất và văn
hóa của đồng bào các dân tộc ít người, đặc biệt chú trọng vùng cao và vùng biên
giới. Tiếp đó, Đại hội lần thứ V của Đảng nhấn mạnh việc “phải tăng cường hơn
nữa khối đoàn kết các dân tộc trên nguyên tắc bình đẳng, tương trợ và cùng làm
chủ tập thể” [5, tr.35]. Đại hội VI của Đảng là Đại hội mở đầu cho công cuộc đổi
mới toàn điện đất nước. Với tinh thần “nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự
thật, nói rõ sự thật”, Đại hội đã đánh giá những thành tựu đạt được trong 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội V của Đảng, thẳng thắn chỉ ra những khó khăn, thách
thức, nêu rõ những sai lầm, khuyết điểm và rút ra những bài học kinh nghiệm chủ
yếu. Về vấn đề dân tộc, Đại hội khẳng định, “chính sách dân tộc luôn luôn là một
bộ phận trọng yếu trong chính sách xã hội” [6, tr.101]. Đồng thời, Đại hội nhấn
mạnh rằng, sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố, phát triển
của cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính
thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất
không mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo trong bản sắc của mỗi
dân tộc. Tình cảm dân tộc, tâm lý dân tộc sẽ còn tồn tại lâu dài và là một lĩnh vực
nhạy cảm. Trong khi xử lý các mối quan hệ dân tộc, phải có thái độ thận trọng đối
với những gì liên quan đến lợi ích của mỗi dân tộc, tình cảm dân tộc của mỗi
người. Chống những thái độ, hành động biểu thị tư tưởng “dân tộc lớn” và những
biểu hiện của tư tưởng dân tộc hẹp hòi. Sau Đại hội VI, trước những yêu cầu đòi
hỏi của thực tế vùng dân tộc và miền núi, ngày 27/11/1989, Bộ Chính trị ra Nghị
quyết 22-NQ/TW về một số chủ trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội
miền núi đã góp phần thúc đẩy phát triển một bước quan trọng kinh tế - xã hội miền
núi và các vùng đồng bào dân tộc thiểu số. Tình hình thế giới những năm cuối thập
kỷ 80, đầu thập kỷ 90 của thế kỷ XX có những biến động to lớn. Hệ thống các nước
25
xã hội chủ nghĩa sụp đổ gây bất lợi cho phong trào cách mạng thế giới trong đó có
Việt Nam. Trong bối cảnh đó, Đảng ta tiến hành Đại hội lần thứ VII. Đại hội VII
của Đảng đã tổng kết việc thực hiện Nghị quyết Đại hội VI, hoàn chỉnh, bổ sung và
phát triển các chủ trương đổi mới của Đại hội VI, đề ra các phương hướng, nhiệm
vụ lớn cho 5 năm 1991 - 1995 và đặc biệt thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Điểm mới trong văn kiện Đại hội VII là
ở chỗ, lần đầu tiên, chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc đã
được Đảng ta đưa vào trong Cương lĩnh của Đảng với tên gọi Cương lĩnh xây dựng
đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Cương lĩnh ghi rõ: “Thực hiện
chính sách bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc, tạo mọi điều kiện để
các dân tộc phát triển đi lên con đường văn minh tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự
phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam” [7, tr.324]. Đại hội cũng
khẳng định chính sách đoàn kết, bình đẳng, giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc, cùng
xây dựng cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đồng thời giữ gìn và phát huy bản sắc tốt
đẹp của mỗi dân tộc là chính sách nhất quán của Đảng và Nhà nước ta, khẳng định
việc phải có chính sách phát triển kinh tế hàng hóa ở các vùng dân tộc thiểu số phù
hợp với điều kiện và đặc điểm từng vùng, từng dân tộc, bảo đảm cho đồng bào các
dân tộc khai thác được thế mạnh của địa phương để làm giàu cho mình và đóng góp
vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ đất nước. Trên cơ sở các quan điểm cơ bản của
Đảng về vấn đề dân tộc, Hiến pháp 1992, một lần nữa, khẳng định về quyền bình
đẳng giữa các dân tộc ở nước ta. Sau 10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện
và 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội VII, đất nước ta đã vượt qua một giai đoạn
thử thách gay go, đã có những thay đổi to lớn và sâu sắc so với thời kỳ bắt đầu đổi
mới. Đại hội VIII của Đảng diễn ra vào thời điểm có ý nghĩa lịch sử đó. Đại hội
khẳng định: “Công cuộc đổi mới trong 10 năm qua đã thu được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 -
1995 đã được hoàn thành về cơ bản”. Về vấn đề dân tộc, Đại hội VIII nhấn mạnh:
“Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lược lớn. Thực hiện “bình đẳng, đoàn kết, tương
trợ” giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước" [8, tr.507]. Tuy nhiên, bên cạnh đó, Đại hội cũng thẳng thắn chỉ ra những
khó khăn của đồng bào các dân tộc thiểu số, miền núi, vùng sâu, vùng cao, đó là:
“điều kiện sống và dịch vụ, hạ tầng cực kỳ khó khăn, đất nông nghiệp thiếu, chưa
26
đủ điều kiện tiến lên sản xuất hàng hóa; GDP bình quân đầu người năm 1994 chỉ bằng 31% mức trung bình cả nước. Mật độ đường giao thông chỉ có 0,09km/km2,
còn 464 xã chưa có đường ô tô đến”. Trước thực tế đó, Đại hội đã đề ra chương
trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi và vùng đồng bào dân tộc với mục tiêu
khai thác mọi nguồn lực ở địa phương và huy động sức của cả nước để tạo bước
tiến nhanh hơn về kinh tế - xã hội, ổn định đời sống, cải thiện môi trường, môi sinh.
Phấn đấu tăng trưởng kinh tế với tốc độ bằng hoặc cao hơn mức bình quân chung
của cả nước; năm 2000 GDP bình quân đầu người đạt gấp đôi năm 1994. Các khu
vực miền núi và vùng đồng bào dân tộc đều phải có bước phát triển, khu vực có
điều kiện thuận lợi phải phát triển với tốc độ cao hơn để thúc đẩy, hỗ trợ các khu
vực khác cùng phát triển. Tăng trưởng kinh tế phải kết hợp hài hòa với phát triển xã
hội - văn hóa, bảo đảm an ninh - quốc phòng, phấn đấu giảm bớt khoảng cách giữa
các vùng về mặt tiến bộ xã hội. Đồng thời, Đại hội đã đề ra các nhiệm vụ cụ thể về
phát triển công nghiệp chế biến, phát triển công nghiệp nhỏ, thủ công nghiệp, nông
- lâm nghiệp, đầu tư phát triển kết cấu hạ tầng, dịch vụ và đưa ra các giải pháp chủ
yếu để đạt mục tiêu nói trên trong đó nhấn mạnh việc Nhà nước phải có biện pháp
tập trung vốn ngân sách đầu tư theo chương trình tổng hợp và có sự chỉ đạo chặt
chẽ giúp cho khu vực miền núi, vùng cao, vùng sâu phát triển nhanh. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng diễn ra trong bối cảnh thế kỷ XX vừa kết thúc,
thế kỷ XXI vừa bắt đầu. Toàn Đảng và toàn dân ta đã trải qua 5 năm thực hiện
Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII của Đảng, 10 năm thực hiện Chiến lược ổn định và
phát triển kinh tế - xã hội 1991 - 2000 và 15 năm đổi mới. Đại hội IX đã kiểm điểm
và đánh giá những thành tựu và khuyết điểm thời gian qua, đề ra những quyết sách
cho thời kỳ tới, phấn đấu nâng cao hơn nữa năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng, động viên và phát huy sức mạnh toàn dân tộc, tiếp tục đổi mới, đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa, vững bước đi vào thế kỷ mới. Những năm đầu thế kỷ XXI, các thế lực thù
địch ra sức lợi dụng những khó khăn và hạn chế của đồng bào các dân tộc thiểu số,
nhất là ở Tây Nguyên để dụ dỗ, lôi kéo đồng bào phá hoại khối đoàn kết dân tộc ở
nước ta. Đại hội IX của Đảng đặc biệt chú trọng vấn đề dân tộc và cụ thể hóa nhiều
nội dung mới ở chỗ, nếu như Đại hội VIII coi vấn đề dân tộc là “vấn đề có vị trí
chiến lược lớn” thì Đại hội IX khẳng định thêm: “Vấn đề dân tộc và đoàn kết các
27
dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lược trong sự nghiệp cách mạng. Thực hiện tốt
chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển;
xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội…” [9, tr.670]. Rằng, Đảng ta phải thực
hiện tốt chính sách các dân tộc bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát
triển; xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội, phát triển sản xuất hàng hóa, chăm
lo đời sống vật chất và tinh thần, xóa đói, giảm nghèo, mở mang dân trí, giữ gìn,
làm giàu và phát huy bản sắc văn hóa và truyền thống tốt đẹp của các dân tộc; thực
hiện công bằng xã hội giữa các dân tộc, giữa miền núi và miền xuôi, đặc biệt quan
tâm vùng gặp nhiều khó khăn, vùng trước đây là căn cứ cách mạng và kháng chiến;
Chống kỳ thị, chia rẽ dân tộc; chống tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc hẹp hòi, dân tộc
cực đoan; khắc phục tư tưởng tự ti, mặc cảm dân tộc. Cụ thể hóa tư tưởng chiến
lược được nêu trong Nghị quyết Đại hội IX và nâng cao hơn nữa nhận thức của các
cấp, các ngành về công tác dân tộc, Hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung
ương Đảng khóa IX (phần hai) đã ban hành Nghị quyết về công tác dân tộc. Điều
này, một mặt, thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đồng bào các
dân tộc thiểu số và mặt khác cho thấy việc giải quyết vấn đề dân tộc đang là sự đòi
hỏi cấp thiết và cần phải có những chỉ đạo kịp thời. Nghị quyết về công tác dân tộc
đã đánh giá tình hình các dân tộc thiểu số và công tác dân tộc trong thời gian qua,
những thành tựu cơ bản cùng với những hạn chế, yếu kém và nhất là đề ra những
giải pháp chủ yếu để khắc phục những hạn chế, yếu kém đó. Nghị quyết khẳng định
năm quan điểm cơ bản trong việc thực hiện công tác dân tộc ở nước ta: 1) Vấn đề
dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản, lâu dài, đồng thời cũng là
vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng Việt Nam; 2) Các dân tộc trong đại gia
đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng
nhau phấn đấu thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết đấu
tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc; 3) Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn
hóa, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn
tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân
tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống
các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt
28
Nam thống nhất; 4) Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và
miền núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xóa đói,
giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với
bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường
của đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương
và sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước; 5) Công tác dân tộc và thực hiện
chính sách dân tộc là nhiệm vụ của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân, của các cấp,
các ngành, của toàn bộ hệ thống chính trị. Hiện thực hóa những quan điểm, giải
pháp được nêu trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ bảy là việc các chương trình đầu
tư phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số được triển khai đã tạo
đà quan trọng cho sự phát triển và làm thay đổi rõ rệt bộ mặt của miền núi và vùng
đồng bào dân tộc thiểu số. Qua đó cho thấy những đổi thay trong thực tế vùng đồng
bào dân tộc thiểu số được bắt nguồn từ chủ trương, đường lối và chính sách dân tộc
đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta. Tiếp tục tư tưởng của Nghị quyết về công tác
dân tộc được thông qua tại Hội nghị lần thứ bảy, khóa IX, Đại hội X khẳng định:
“Vấn đề dân tộc và đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược lâu dài trong sự nghiệp
cách mạng nước ta” [10, tr.42]. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; cùng nhau thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Đại hội nhấn mạnh việc Đảng và Nhà nước phải tiếp tục
chăm lo đời sống vật chất và tinh thần, xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân
trí, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá, tiếng nói, chữ viết và truyền thống tốt đẹp
của các dân tộc đồng thời thực hiện tốt chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở miền
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới, vùng căn cứ cách mạng; Chống các biểu
hiện kỳ thị, hẹp hòi, chia rẽ dân tộc. Sau 25 năm đổi mới, 20 năm thực hiện Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, 10 năm thực hiện
Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001- 2010 cũng là lúc Đảng ta tiến hành Đại
hội lần thứ XI. Đây là Đại hội có ý nghĩa trọng đại, định hướng cho toàn Đảng, toàn
dân ta tiếp tục nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy sức
mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện công cuộc đổi mới, tạo nền tảng để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại; đến giữa thế
kỷ XXI nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp hiện đại, theo định hướng xã
29
hội chủ nghĩa. Vấn đề dân tộc tiếp tục được Đại hội XI của Đảng quan tâm. Báo cáo
chính trị của Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa X tại Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng chỉ rõ: “Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” [11, tr.51]. Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) nhấn mạnh:
“Thực hiện chính sách bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau giữa các dân
tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc cùng phát triển, gắn bó mật thiết với sự phát
triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam. Giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa,
ngôn ngữ, truyền thống tốt đẹp của các dân tộc. Chống tư tưởng kỳ thị và chia rẽ dân
tộc. Các chính sách kinh tế - xã hội phải phù hợp với đặc thù của các vùng và các
dân tộc, nhất là các dân tộc thiểu số” [11, tr.81]. Hiện nay, Nghị quyết của Đại hội XI
trong đó có vấn đề dân tộc đang được các cấp, các ngành liên quan triển khai trong
thực tế, đưa Nghị quyết vào cuộc sống.
Như vậy, xuyên suốt trong các nghị quyết của Đảng là tư tưởng khẳng định
sự bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giữa các dân tộc ở nước ta, chống mọi sự kỳ thị,
chia rẽ dân tộc. Dưới ánh sáng các nghị quyết của Đảng, với những chương trình
đầu tư đồng bộ và có trọng điểm, miền núi và vùng đồng bào dân tộc đã có những
đổi thay mạnh mẽ, vươn lên cùng với sự phát triển chung của đất nước.
Tuy nhiên, nếu như ở các Đại hội IX, X, Đảng ta khẳng định vấn đề dân tộc và đại
đoàn kết dân tộc là vấn đề cơ bản mang tính chiến lược của cách mạng Việt Nam
thì ở Đại hội XI, Đảng ta coi đoàn kết các dân tộc có vị trí chiến lược trong sự
nghiệp cách mạng của nước ta. Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp nhau cùng tiến bộ. Việc khẳng định như
vậy là đúng đắn, cần thiết nhưng có lẽ là chưa đủ. Bởi, vấn đề dân tộc là vấn đề
rộng lớn, bao hàm nhiều nội dung chứ không thể chỉ là vấn đề đoàn kết các dân tộc.
Cụm từ “đoàn kết các dân tộc” chỉ đề cập tới một trong những khía cạnh của vấn đề
dân tộc, còn cụm từ “vấn đề dân tộc” bao hàm trong đó nội dung về “đoàn kết các
dân tộc”. Nhìn vào thực tiễn lịch sử thế giới cũng như hiện tại thấy rằng, vấn đề dân
tộc là một vấn đề lớn, chứa đựng những phức tạp tiềm ẩn dễ bùng phát và rất dễ bị
các thế lực thù địch lợi dụng nếu Nhà nước không có những sự quan tâm cần thiết
30
và những chính sách khôn khéo, đúng đắn. Việc Liên Xô sụp đổ là do nhiều nguyên
nhân trong đó không thể không kể đến việc nước này đã không coi trọng đúng mức
vấn đề dân tộc, chủ quan cho rằng vấn đề dân tộc đã được giải quyết xong, giờ chỉ
còn phải giải quyết vấn đề giai cấp. Song, thực tế đã bác bỏ quan điểm sai lầm đó.
Việc các nước cộng hòa lần lượt tuyên bố độc lập, tách ra khỏi Liên bang Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Xô viết, trên thực tế là tiếng chuông cảnh tỉnh cho các quốc gia đa
dân tộc trong việc phải chú trọng tới vấn đề dân tộc. Do đó, thiết nghĩ, cần phải tiếp
tục khẳng định theo tư tưởng của Hội nghị lần thứ bảy khóa IX và của các Đại hội
IX, X là: Vấn đề dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc là vấn đề có vị trí chiến lược
trong sự nghiệp cách mạng nước ta. Điều này không chỉ là vấn đề câu chữ mà có
khẳng định như vậy mới bao quát và thấy hết những nội dung của vấn đề dân tộc để
từ đó có những giải pháp chiến lược, cơ bản và có những chính sách đầu tư thỏa
đáng nhằm tạo đà cho sự phát triển nhanh hơn của vùng đồng bào dân tộc thiểu số,
cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho đồng bào - yếu tố cơ bản để
xây dựng khối đoàn kết giữa các dân tộc ở nước ta.
Tóm lại: Vấn đề bình đẳng dân tộc là một nguyên lý quan trọng của chủ
nghĩa Mác-Lênin, một nội dung lớn trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Nhờ nắm vững
và vận dụng sáng tạo các quan điểm cơ bản đó, Đảng ta đã có được những đường
lối, chủ trương đúng đắn trong quá trình lãnh đạo cách mạng.
Nghiên cứu vấn đề bình đẳng dân tộc giúp chúng ta có nhận thức đúng đắn
hơn, biện chứng hơn, đầy đủ và thực tế hơn vấn đề này. Trên cơ sở đó chúng ta
nâng cao tính chủ động, sáng tạo trong xây dựng chuẩn mực, tiêu chí về bình đẳng
dân tộc trong những điều kiện cụ thể, đồng thời mỗi chúng ta sẽ góp phần vào việc
thực hiện chính sách dân tộc nói chung và bình đẳng dân tộc riêng của Đảng và
Nhà nước trong giai đoạn cách mạng mới.
1.2.3. Một số những quan niệm mới nảy sinh về bình đẳng dân tộc trong
thời đại hiện nay
Sau hơn hai thập kỷ sau khi Liên Xô tan rã, vấn đề dân tộc ở các nước thuộc
Liên Xô trước đây bùng lên tại nhiều nơi. Điều này chứng tỏ rằng, chính phủ chủ
nghĩa xã hội đã giải quyết rất thành công vấn đề dân tộc. Rằng dưới thể chế xã hội
chủ nghĩa, nếu thực hiện đúng nguyên lý của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân
tộc thì các dân tộc, các bộ tộc, các tôn giáo, các màu da đều có thể sống chung hoà
31
thuận bên nhau trong toà nhà xã hội chủ nghĩa. Để giải quyết tốt vấn đề dân tộc,
hạn chế và đi tới xoá bỏ được những hận thù, xung đột dân tộc và sắc tộc, điều cốt
yếu và cấp bách là phải vận dụng đúng đắn quan điểm của Lênin về quyền tự quyết
của các dân tộc. Trong hoàn cảnh lịch sử cụ thể của thế giới hôm nay, một số
những quan niệm về vấn đề bình đẳng dân tộc được thể hiện như sau:
Một là, mỗi dân tộc đều phải được quyền sống, quyền sinh tồn. Quyền được
sống bao gồm việc cộng đồng quốc tế phải công nhận quyền sinh tồn của mỗi dân
tộc, bộ tộc, không được nhân danh bất kể lẽ gì để ngăn trở quyền đó. Trong một
quốc gia đa dân tộc, Nhà nước phải thừa nhận và bảo vệ sự tồn tại của các cộng
đồng dân tộc người, tránh việc hoà tan tộc người nhỏ vào cộng đồng lớn.
Hai là, mỗi dân tộc phải kiên quyết đấu tranh chống hai xu hướng, hai nguy
cơ của chủ nghĩa sôvanh: chủ nghĩa sôvanh nước lớn và chủ nghĩa dân tộc, những
cuộc "huynh đệ tương tàn".
Bà là, mỗi dân tộc và bộ tộc đều có quyền bình đẳng. Thế giới phải công
nhận quyền bình đẳng của mỗi quốc gia. Trong mỗi quốc gia cũng phải thực hiện
quyền bình đẳng của các bộ tộc, dân tộc, không cho phép một dân tộc này là
thượng đẳng, đứng trên dân tộc khác.
Bốn là, quyền tự quyết, tự quản, chủ quyền dân tộc. Đa số loài người đang
sống trong các quốc gia đa dân tộc. Mỗi quốc gia đều có chủ quyền của mình và bảo
vệ chủ quyền chính đáng của mình, không được can thiệp vào công việc nội bộ của
dân tộc khác. Quyền tự quyết bao gồm cả quyền tự do lựa chọn quyết định xây dựng
chế độ xã hội của mình, tự quản xã hội của mình, không ai có quyền xâm phạm.
Năm là, quyền bảo lưu, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Văn hoá dân tộc là
tài sản quý báu được chắt lọc qua lịch sử lâu dài của mỗi dân tộc. Quyền bảo lưu,
giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc bao gồm các lĩnh vực ngôn ngữ, văn học, nghệ
thuật, thuần phong, mỹ tục, truyền thống dân gian, các ngành nghề truyền thống,
các giá trị văn hoá.
Sáu là, quyền kiểm soát và sử dụng tài nguyên thiên nhiên. Đây vừa là sự
bảo đảm lợi ích kinh tế, vừa có nội dung bảo vệ môi trường sinh thái.
Bảy là, quyền đượctiếp thu những thành tựu của nền văn hoá thế giới. Mọi
dân tộc có quyền hoà nhập với thời đại, sử dụng những thành tựu chung của loài
người trong khoa học, kỹ thuật, công nghệ, văn hoá, nghệ thuật…
32
Tám là, quyền công dân. Mỗi quốc gia phải củng cố cơ sở pháp lý, hiến
pháp, bảo đảm quyền lợi cho mọi công dân trong nước. Bất kể công dân có nguồn
gốc là dân tộc nào trong một quốc gia đều có quyền bình đẳng trong mọi mặt hoạt
động kinh tế, chính trị, xã hội.
Tóm lại, để xây dựng được khối đoàn kết dân tộc, giải quyết được vấn đề
dân tộc, cần nâng cao trình độ sản xuất, tạo ra cơ sở vật chất, kỹ thuật cao, giải
quyết tốt quan hệ xã hội bằng cách thủ tiêu bóc lột, bảo đảm công bằng xã hội, xoá
mọi tình trạng áp bức giai cấp, áp bức dân tộc, đấu tranh khắc phục chủ nghĩa dân
tộc sôvanh, tôn trọng quyền tự quyết của mỗi quốc gia, mỗi dân tộc; hợp tác phát
triển trên cơ sở đảm bảo lợi ích của các dân tộc.
Mặt khác, mỗi dân tộc, mỗi quốc gia cần tăng cường động viên, giáo dục ý
thức trách nhiệm với cả cộng đồng, tăng cường đoàn kết với các dân tộc khác trên
cơ sở tôn trọng lẫn nhau, cùng chung sức xây dựng khối đoàn kết, hoà bình, tương
thân, tương ái giữa các dân tộc và đấu tranh chống các hành động gây chia rẽ, hận
thù giữa các dân tộc.
33
1.3. Vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc và các nội dung thực hiện bình
đẳng dân tộc ở nước ta hiện nay
1.3.1. Vấn đề thực hiện bình đẳng dân tộc
Một số đặc điểm về cộng đồng các dân tộc Việt Nam
Một là: Việt Nam là quốc gia thống nhất có nhiều dân tộc cùng sinh sống
Tính đa dân tộc trong một quốc gia ở nước ta được hình thành rất sớm ngay
từ thời kỳ đầu lập nước. Cả nước hiện có 54 dân tộc anh em. Trong số 54 dân tộc,
có những dân tộc vốn sinh ra và phát triển trên mảnh đất Việt Nam ngay từ thủa
ban đầu, có những dân tộc từ nơi khác lần lượt di cư đến nước ta. Do vị trí nước ta
giao lưu hết sức thuận lợi nên nhiều dân tộc ở các nước xung quanh vì nhiều
nguyên nhân đã di cư từ Bắc xuống, từ Nam lên, từ Tây sang, chủ yếu từ Bắc
xuống, rồi định cư trên lãnh thổ nước ta. Những đợt di cư nói trên kéo dài mãi cho
đến trước Cách mạng Tháng Tám năm 1945, thậm chí có bộ phận dân cư còn
chuyển đến nước ta sau năm 1945. Ðây là những đợt di cư lẻ tẻ, bao gồm một số hộ
gia đình đồng tộc.
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, dân số giữa các dân tộc rất không đều
nhau, có dân tộc có số dân trên một triệu người như Tày, Thái... nhưng cũng có dân
tộc chỉ có vài trăm người như PuPéo, Rơ-măm, Brâu... Trong đó, dân tộc Kinh là
dân tộc đa số, chiếm tỷ lệ lớn nhất trong dân cư nước ta, có trình độ phát triển cao
hơn, là lực lượng đoàn kết, đóng vai trò chủ lực và đi đầu trong quá trình đấu tranh
lâu dài dựng nước và giữ nước, góp phần to lớn vào việc hình thành, củng cố và
phát triển cộng đồng dân tộc Việt Nam.
Tuy số dân có sự chênh lệch đáng kể, nhưng các dân tộc vẫn coi nhau như
anh em một nhà, quý trọng, thương yêu đùm bọc lẫn nhau, chung sức xây dựng và
bảo vệ tổ quốc, cả khi thuận lợi cũng như lúc khó khăn. Ở nước ta không có tình
trạng dân tộc đa số cưỡng bức, đồng hoá, thôn tính các dân tộc ít người, do đó cũng
không có tình trạng dân tộc ít người chống lại dân tộc đa số. Ngày nay, trước yêu
cầu phát triển mới của đất nước, các dân tộc anh em trên đất nước ta tiếp tục phát
huy truyền thống tốt đẹp, tăng cường đoàn kết, nỗ lực phấn đấu xây dựng một nước
Việt Nam độc lập, thống nhất, dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ,
văn minh, vững bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
34
Hai là: Các dân tộc trên đất nước ta có truyền thống đoàn kết trong đấu
tranh dựng nước và giữ nước, xây dựng một cộng đồng dân tộc thống nhất
Trong cộng đồng dân tộc Việt Nam, nhiều dân tộc có chung cội nguồn. Nói về
nguồn gốc dân tộc Việt Nam đã có nhiều truyền thuyết như truyện "Quả bầu mẹ" giải
thích các dân tộc có chung nguồn gốc; truyện "Ðôi chim" đẻ ra hàng trăm, hàng ngàn
trứng nở ra người Kinh, người Mường, người Thái, người Khơ-mú...; truyện của dân
tộc Ba-na, Ê-đê kể rằng người Kinh, người Thượng là anh em một nhà; đặc biệt là
truyện Lạc Long Quân lấy bà Âu Cơ đẻ ra một bọc trăm trứng nở ra trăm người con,
một nửa theo cha xuống biển trở thành người Kinh, một nửa theo mẹ lên núi thành
các dân tộc thiểu số. Vua Hùng được coi là Tổ tiên chung của cả nước.
Các dân tộc có cùng nguồn gốc lịch sử, có nhiều điểm tương đồng là điều
kiện thuận lợi dễ gần gũi gắn bó với nhau. Song dù cùng hoặc không cùng một
nguồn gốc sinh ra, có sự khác nhau về tâm lý, phong tục, tập quán... thì đều là
người trong một nước, con trong một nhà, vận mệnh gắn chặt với nhau, các dân tộc
nước ta luôn kề vai sát cánh bên nhau, thương yêu đùm bọc lẫn nhau.
Ngày nay, trước những biến đổi bất lợi về khí hậu, thời tiết có tính toàn cầu,
càng đòi hỏi nhân dân các dân tộc nước ta chung lòng hợp sức phòng tránh, giảm
nhẹ thiên tai cũng như khắc phục hậu quả do bão lụt, hạn hán gây ra. Cuộc đấu
tranh chinh phục thiên nhiên vẫn đòi hỏi tiếp tục phát huy sức mạnh của khối đoàn
kết dân tộc và thông qua cuộc đấu tranh đó, đại gia đình các dân tộc Việt Nam càng
thêm gắn bó chặt chẽ. Cùng với lịch sử chinh phục thiên nhiên, nhân dân ta còn có
lịch sử chống giặc ngoại xâm vô cùng oanh liệt. Ðất nước ta ở vào nơi thuận tiện
trên trục đường giao thông Bắc - Nam, Ðông - Tây của thế giới, có tài nguyên thiên
nhiên phong phú và vị trí địa lý - chính trị có tính chiến lược. Do đó, các thế lực
bành trướng và xâm lược luôn nhòm ngó và tìm cách thôn tính nước ta. Ðặc điểm
nổi bật của lịch sử Việt Nam là lịch sử chống ngoại xâm liên tục và nhiều lần, trong
đó có nhiều cuộc đấu tranh chống lại những thế lực thù địch hùng mạnh, giàu có và
hung bạo nhất thế giới. Chính vì vậy mà cộng đồng các dân tộc Việt Nam luôn sát
cánh bên nhau, liên tục đứng lên chống giặc ngoại xâm, đánh thắng quân xâm lược.
Ðoàn kết trong lao động và trong chiến đấu là truyền thống nổi bật nhất của
các dân tộc Việt Nam được hun đúc qua mấy ngàn năm lịch sử. Trong sự nghiệp
cách mạng do Ðảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo, truyền thống đoàn kết dân tộc
35
được phát huy cao độ, là một trong những nhân tố quyết định mọi thắng lợi của
cách mạng nước ta.
Những thành tựu đạt được trong quá trình đổi mới rất to lớn và đáng tự hào
cho thấy khối đại đoàn kết dân tộc ở nước ta đã có tầm cao mới và chiều sâu mới,
là động lực to lớn thúc đẩy sự phát triển của đất nước, làm cho thế và lực của cách
mạng nước ta ngày càng được tăng cường.
Tuy vậy, bên cạnh mặt đoàn kết là cơ bản, có nơi, có lúc vẫn xẩy ra những
va chạm trong quan hệ dân tộc, còn có những biểu hiện mặc cảm, thành kiến dân
tộc. Chính vì thế ở một số nơi, các lực lượng thù địch đã lợi dụng để kích động chia
rẽ dân tộc. Do đó việc tăng cường đoàn kết, nâng cao cảnh giác, kịp thời đập tan
mọi âm mưu và hành động chia rẽ, phá hoại khối đại đoàn kết dân tộc là nhiệm vụ
của mỗi người dân Việt Nam.
Ba là: Các dân tộc ở Việt Nam cư trú phân tán và xen kẽ nhau
Ở một số vùng nhất định có dân tộc cư trú tương đối tập trung. Song nhìn
chung các dân tộc nước ta sống xen kẽ nhau, không có lãnh thổ riêng biệt như một
số nước trên thế giới. Ðịa bàn cư trú của người Kinh chủ yếu ở đồng bằng, ven biển
và trung du; còn các dân tộc ít người cư trú chủ yếu ở các vùng miền núi và vùng
cao, một số dân tộc như Khơ me, Hoa, một số ít vùng Chăm sống ở đồng bằng. Các
dân tộc thiểu số có sự tập trung ở một số vùng, nhưng không cư trú thành những
khu vực riêng biệt mà xen kẽ với các dân tộc khác trong phạm vi của tỉnh, huyện,
xã và các bản mường. Tình trạng cư trú phân tán, xen kẽ giữa các dân tộc ở nước
ta, một mặt có điều kiện để tăng cường hiểu biết nhau, hoà hợp và xích lại gần
nhau; mặt khác cần đề phòng trường hợp do chưa thật hiểu nhau, khác nhau về
phong tục tập quán nên xuất hiện mâu thuẫn, tranh chấp về lợi ích, nhất là lợi ích
kinh tế, dẫn đến va chạm giữa những người thuộc các dân tộc cùng sống trên một
địa bàn. Ngày nay, tình trạng cư trú xen kẽ của các dân tộc chủ yếu dẫn tới sự giao
lưu kinh tế - văn hoá giữa các dân tộc cũng như sự hỗ trợ, giúp đỡ lẫn nhau. Do
sống gần nhau, việc kết hôn giữa thanh niên nam nữ thuộc các dân tộc khác nhau
ngày càng phổ biến, càng có thêm điều kiện đoàn kết và hoà hợp giữa các dân tộc
anh em.
Bốn là: Các dân tộc ít người ở nước ta chủ yếu cư trú trên các vùng rừng núi,
có vị trí quan trọng về kinh tế, chính trị, an ninh, quốc phòng, môi trường sinh thái
36
Phần lớn các dân tộc ít người ở nước ta cư trú ở miền núi, chiếm 3/4 diện
tích cả nước. Ðây là khu vực có tiềm năng phát triển kinh tế to lớn mà trước hết là
tiềm lực về tài nguyên rừng và đất rừng. Không những thế, miền núi còn có vai trò
đặc biệt quan trọng về môi trường sinh thái đối với cả nước như điều hoà khí hậu,
điều tiết nguồn nước, bảo vệ lớp đất màu trong mùa mưa lũ.
Vị trí chiến lược quan trọng của miền núi đã được thực tế lịch sử khẳng định.
Từ xưa đến nay, các thế lực thù địch bên ngoài đều sử dụng địa bàn miền núi để
xâm lược, xâm nhập, phá hoại sự nghiệp dựng nước và giữ nước của nhân dân ta.
Rừng núi đã từng là căn cứ địa cách mạng trong kháng chiến chống Pháp,
Nhật, Mỹ. Trong giai đoạn hiện nay, miền núi - biên giới là thành luỹ vững chắc
của Tổ quốc, là địa bàn chiến lược về quốc phòng, an ninh trong việc bảo vệ vững
chắc chủ quyền quốc gia, chống âm mưu xâm nhập, gây bạo loạn, lật đổ, bảo vệ sự
nghiệp hoà bình, xây dựng chủ nghĩa xã hội.
Ở vùng biên giới, một số dân tộc có quan hệ đồng tộc với dân tộc của các
nước láng giềng, nên khách quan có nhu cầu thăm thân, mở rộng giao lưu kinh tế,
văn hóa giữa các dân tộc ở hai bên biên giới. Bởi vậy, chính sách dân tộc của Ðảng
và Nhà nước ta không chỉ vì lợi ích các dân tộc ít người mà còn vì lợi ích của cả
nước, không chỉ là đối nội mà còn là đối ngoại, không chỉ về kinh tế -xã hội, mà cả
về chính trị, quốc phòng, an ninh quốc gia.
Năm là: Các dân tộc ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không
đều nhau.
Do những nguyên nhân lịch sử, xã hội và hoàn cảnh tự nhiên nên các dân tộc
ở Việt Nam có trình độ phát triển kinh tế - xã hội không đều nhau. Các dân tộc
sống ở vùng thấp có trình độ phát triển kinh tế - xã hội cao hơn các dân tộc ít người
sống ở vùng sâu, vùng xa, vùng cao.
Có những dân tộc ít người có đời sống kinh tế - xã hội còn thấp kém. Nhiều
dân tộc cư trú trên địa bàn có điều kiện tự nhiên hết sức khó khăn, khắc nghiệt.
Ðiều kiện canh tác nương rẫy không ổn định nên đời sống của đồng bào thường
bấp bênh. Cuộc sống du canh, du cư thường dẫn tới đói nghèo, bệnh tật.
Bên cạnh nguyên nhân lịch sử và hoàn cảnh tự nhiên, còn có nguyên nhân
chủ yếu là do hậu quả của sự áp bức, bóc lột của chế độ thực dân, phong kiến và
đất nước phải liên tục đối phó với chiến tranh xâm lược trong nhiều năm. Ðây là
37
những nguồn gốc của sự không bình đẳng giữa các dân tộc trên thực tế. Giải quyết
hậu quả lịch sử này phải có quá trình phấn đấu tích cực, bền bỉ, lâu dài mới làm cho
các dân tộc từng bước tiến kịp trình độ chung.
Sáu là: Nền văn hoá Việt Nam là nền văn hoá thống nhất trong đa dạng, mỗi
dân tộc anh em có những giá trị và sắc thái văn hoá riêng
Cùng với nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam, mỗi dân tộc đều
có một nền văn hoá mang bản sắc riêng từ lâu đời, phản ánh truyền thống, lịch sử
và niềm tự hào dân tộc. Bản sắc văn hoá dân tộc là tất cả những giá trị vật chất và
tinh thần, bao gồm tiếng nói, chữ viết, văn học, nghệ thuật, kiến trúc, y phục, tâm
lý, tình cảm, phong tục, tập quán, tín ngưỡng... được sáng tạo trong quá trình phát
triển lâu dài của lịch sử. Sự phát triển rực rỡ bản sắc văn hoá mỗi dân tộc càng làm
phong phú nền văn hoá của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Thống nhất trong đa
dạng là nét riêng, độc đáo của nền văn hoá các dân tộc Việt Nam. Sự nghiệp xây
dựng và phát triển văn hoá Việt Nam trong thời kỳ mới phải hướng vào việc củng
cố và tăng cường sự thống nhất, nhân lên sức mạnh tinh thần chung của toàn dân
tộc. Ðồng thời phải khai thác và phát triển mọi sắc thái và giá trị văn hoá của các
dân tộc, đáp ứng nhu cầu văn hoá tinh thần ngày càng cao và nhu cầu phát triển
từng dân tộc.
Từ những đặc điểm về cộng đồng các dân tộc ở Việt Nam trên, việc thực
hiện bình đẳng dân tộc được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt quan tâm, được thể hiện
như sau:
- Trên lĩnh vực chính trị: Với khẩu hiệu “dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra”, người dân được tham gia bình đẳng và sâu rộng vào đời sống chính trị.
Sự bình đẳng về chính trị còn được tập trung thể hiện trong việc trực tiếp tham gia
hoạt động của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương của đồng bào các
dân tộc. Hệ thống chính trị của chúng ta về bản chất là của dân, do dân và vì dân.
Do vậy, không có sự phân biệt dân tộc thiểu số hay đa số, các dân tộc đều có quyền
tham gia trực tiếp vào các cơ quan Đảng và Nhà nước, vào các tổ chức chính trị -
xã hội. Qua đó, bình đẳng về quyền tham gia chính trị đã được phản ánh nguyện
vọng và hướng phát triển của dân tộc mình.
Trong 54 dân tộc ở nước ta, thực trạng tổ chức và phương thức hoạt động
của hệ thống chính trị ở các cấp và nhất là cấp cơ sở đang đặt ra nhiều vấn đề cần
38
nghiên cứu và giải quyết, đặc biệt là của hệ thống chính trị vùng dân tộc ít người,
vùng nông thôn miền núi. Trước thực trạng đó, Đảng và Nhà nước ta đã củng cố,
đổi mới, xây dựng hệ thống chính trị các cấp vùng dân tộc thiểu số phải luôn gắn
bó thống nhất thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước, thực
hiện đầy đủ, đúng đắn chính sách dân tộc, bình đẳng và đoàn kết các dân tộc Việt
Nam vì mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh”.
Đồng thời gắn chặt nhiệm vụ xây dựng và phát huy vai trò của hệ thống chính trị
với việc thực hiện tốt các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá xã hội vùng dân tộc
ít người.
Để thực hiện tốt hơn bình đẳng dân tộc, Nhà nước ta đã tiến hành củng cố,
hoàn thiện tổ chức, hệ thống bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc theo khuynh
hướng chính quy, trong sạch, từng bước hiện đại, nâng cao tinh thần trách nhiệm và
đổi mới công tác quản lý và sử dụng cán bộ để đáp ứng với yêu cầu và nhiệm vụ
trong tình hình mới hiện nay.
- Trên lĩnh vực kinh tế: Bình đẳng về kinh tế là tạo điều kiện cho các dân tộc
nhất là vùng đồng bào dân tộc thiểu số phát triển kinh tế - xã hội, từng bước khắc
phục sự chênh lệch về trình độ giữa các dân tộc. Do đó trong quá trình phát triển
Đảng và Nhà nước ta trong mấy thập kỷ qua đã đề ra nhiều chủ trương, chính sách
đúng đắn hỗ trợ cho các vùng sâu, vùng xa, miền núi. Tại Đại hội III của Đảng đã
xác định: “Cần phát triển mạnh mẽ nông nghiệp miền núi, đẩy mạnh sản xuất lương
thực, phát triển chăn nuôi gia súc theo quy mô lớn, mở những nông trường quốc
doanh chuyên trồng cây công nghiệp và cây ăn quả, đồng thời khuyến khích các hợp
tác xã nông nghiệp chăn nuôi, ra sức phát triển lâm nghiệp, bảo vệ rừng, trồng cây
gây rừng, khai thác lâm thổ sản, xây dựng các nông trường quốc doanh…” [2,
tr.172].
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ III đã đề ra chủ trương: “Đảng và Nhà nước
ta cần có kế hoạch toàn diện và lâu dài phát triển kinh tế, văn hoá ở miền núi, làm
cho miền núi tiến kịp miền xuôi, các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, giúp các
dân tộc phát huy tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình” [3, tr.66].
Công cuộc đổi mới của đất nước bắt đầu từ Đại hội VI của Đảng tháng
12/1986 đã chỉ rõ con đường phát triển các dân tộc và mối quan hệ giữa các dân
tộc: “Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với củng cố, phát triển của
39
cộng đồng các dân tộc trên đất nước ta. Sự tăng cường tính cộng đồng, tính thống
nhất là một quá trình hợp quy luật, nhưng tính cộng đồng, tính thống nhất không
mâu thuẫn, không bài trừ tính đa dạng, tính độc đáo của mỗi dân tộc” [6, tr.33].
Để cụ thể hoá các Nghị quyết của Đảng từ Đại hội VI, Bộ Chính trị đã ban
hành Nghị quyết 22, ngày 17/11/1989 về một số chủ trương chính sách lớn về sự
phát triển kinh tế - xã hội miền núi. Chủ tịch Hội đồng Bộ trưởng ra Quyết định 72,
ngày 18/3/1990 về chủ trương chính sách cụ thể nhằm phát triển kinh tế xã hội
miền núi, nâng cao mức đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo đà phát triển mới cho
các vùng đồng bào dân tộc thiểu số bằng các chương trình dự án cụ thể, phù hợp
với từng vùng, từng địa bàn cư trú của các dân tộc ít người. Quan điểm này càng
được thể hiện rõ trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam năm 1991. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII của Đảng Cộng sản Việt Nam chỉ ra: “Từ nay đến năm 2000 bằng nhiều biện
pháp tích cực và vững chắc, thực hiện cho được mục tiêu chủ yếu xoá đói, giảm
được nghèo, ổn định và cải thiện đời sống, sức khoẻ của đồng bào các dân tộc,
đồng bào vùng cao, vùng biên giới; xoá mù chữ, nâng cao dân chí, tôn trọng và
phát huy bản sắc văn hoá tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng được cơ sở chính trị,
đội ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các cấp trong sạch và
vững mạnh”.
Nghị quyết số 24-NQ/TW của Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá IX tại
Hội nghị lần thứ bảy về công tác dân tộc: “Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế,
văn hoá, xã hội và an ninh - quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn
tăng trưởng kinh tế với giải quyết các vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân
tộc; quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng đội ngũ cán
bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hoá truyền thống
các dân tộc thiểu số trong sự nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt
Nam thống nhất. Ưu tiên đầu tư phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền
núi, trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và cơ sở hạ tầng, xoá đói, giảm
nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của từng vùng, đi đôi với bảo vệ
bền vững môi trường sinh thái; phát huy nội lực, tinh thần tự lực, tự cường của
đồng bào các dân tộc, đồng thời tăng cường sự quan tâm hỗ trợ của Trung ương và
sự giúp đỡ của các địa phương trong cả nước”.
40
Nhiều chương trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội được tiến hành trên tất
cả các lĩnh vực của đời sống xã hội nhằm một mặt phát huy nội lực của miền núi
tham gia vào sự phát triển kinh tế chung của đất nước, mặt khác Đảng, Nhà nước
có nhiều chính sách và biện pháp tăng cường đầu tư, hỗ trợ tiền vốn cho nhân dân
phát triển kinh tế để nhanh chóng thoát khỏi đói nghèo.
- Trên lĩnh vực văn hoá - xã hội: Mỗi dân tộc trên đất nước ta đều có một
nền văn hoá mang bản sắc riêng và rất đa dạng, các yếu tố văn hoá đặc sắc từng dân
tộc, từng vùng kết hợp lại với nhau tạo nên bản sắc văn hoá Việt Nam thống nhất
đa dạng. Chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ta về xây dựng một nền văn
hoá mới, con người mới, trong đó đặc biệt chú ý thực hiện chính sách dân tộc trên
lĩnh vực văn hoá. Quyền bình đẳng dân tộc, quyền được giữ gìn và tôn trọng bản
sắc văn hoá, chữ viết, tiếng nói… của các dân tộc được thể hiện trong chính sách
của Đảng và Hiến pháp của Nhà nước.
Từ sau khi đất nước thống nhất, nhân dân các dân tộc ở nước ta đã có những
điều kiện thuận lợi trong việc giao lưu văn hoá. Sự giao lưu này đã tạo điều kiện để
quần chúng nhân dân trong 54 dân tộc anh em thêm gần gũi và hiểu biết lẫn nhau,
củng cố khối đại đoàn kết dân tộc, trên cơ sở đó cũng chọn lọc, bồi dưỡng vốn văn
hoá của dân tộc mình và kết hợp hài hoà trong một tính cách chung - tính cách Việt
Nam. Trong những năm qua, đời sống văn hoá ở miền núi và vùng đồng bào dân
tộc đã có nhiều thay đổi tích cực, nhưng so sánh về đời sống văn hoá giữa các
vùng, giữa các dân tộc trong cả nước thì khoảng cách chênh lệch còn rất lớn. Một
số dân tộc thiểu số với số lượng ít cũng đã duy trì ngôn ngữ riêng, nhưng thời gian
gần đây nó đang bị mai một và có nguy cơ bị đồng hoá, bị hoà vào ngôn ngữ của
những dân tộc lớn hơn. Vì thế, Đảng và Nhà nước đã có chính sách thích hợp để
bảo tồn ngôn ngữ của các dân tộc thiểu số, như chúng ta đã đưa vào nhà trường chữ
viết của một số dân tộc như chữ Thái, Khơme… Bên cạnh đó là phát triển các
chương trình phát thanh và truyền hình bằng tiếng dân tộc để cho đồng bào dân tộc
thiểu số nghe và tiếp thu được các chính sách của Đảng và Nhà nước.
Trong giai đoạn mở cửa, hội nhập kinh tế quốc tế thì văn hoá Việt Nam cũng
ngày càng gia tăng sự giao tiếp sâu rộng hơn với các nền văn hoá khác nhau trong
khu vực và trên thế giới. Vì vậy việc bảo tồn và phát huy văn hoá truyền thống của
các dân tộc đang gặp nhiều khó khăn trở ngại trước thách thức của quá trình toàn
41
cầu hoá. Nghị quyết hội nghị lần thứ bảy Ban chấp hành Trung ương Đảng khóa IX
về công tác dân tộc nêu rõ: “Nâng cao trình độ dân trí, chăm sóc sức khỏe, nâng
cao mức hưởng thụ văn hóa của đồng bào: hoàn thành phổ cập giáo dục trung học
cơ sở; nâng cao chất lượng và hiệu quả giáo dục, đào tạo; đẩy mạnh việc dạy và
học chữ dân tộc. Hầu hết đồng bào nghèo vùng sâu, vùng xa được tiếp cận các dịch
vụ chăm sóc sức khỏe; tiếp tục khống chế, tiến tới loại bỏ dịch bệnh ở vùng dân
tộc. Phấn đấu 90% đồng bào được xem truyền hình; 100% được nghe đài phát
thanh; các giá trị, bản sắc văn hóa truyền thống tốt đẹp của các dân tộc thiểu số
được bảo tồn và phát triển”.
1.3.2. Một số nội dung cơ bản trong thực hiện bình đẳng dân tộc ở nước ta
hiện nay
Nội dung xuyên suốt, bao trùm của chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta thời kỷ đổi mới là: Thực hiện bình đẳng, đoàn kết, thương yêu, tôn trọng và giúp
nhau cùng tiến bộ, thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc vì dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
Nội dung bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam là một nội dung quan trọng
trong quá trình hoạch định chính sách dân tộc. Nội dung bình đẳng bao gồm:
Bình đẳng về chính trị giữa các dân tộc ở Việt Nam:
- Là một quốc gia đa dân tộc, trong lịch sử các dân tộc ở Việt Nam đều có
quyền lợi và nghĩa vụ ngang nhau trong cuộc đấu tranh chung để bảo vệ Tổ quốc
và xây dựng đất nước dưới sự lãnh đạo của Đảng và Nhà nước. Vấn đề cốt lõi của
vấn đề bình đẳng trên lĩnh vực chính trị là các dân tộc cùng đoàn kết thực hiện mục
tiêu giai cấp, giải phóng dân tộc, giải phóng toàn thể xã hội; xây dựng một nước
Việt Nam: dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Bình đẳng
trên lĩnh vực chính trị giữa các dân tộc ở nước ta được thể hiện rõ nhất là sự bình
đẳng về quyền làm chủ đất nước. Bất kể mọi người dân nào, thuộc dân tộc nào nếu
không vi phạm pháp luật nước Việt Nam đều có quyền tham gia vào quản lý nhà
nước, quản lý xã hội. Điều quan trọng của việc bình đẳng trong lĩnh vực chính trị
đó là quyền bình đẳng này không chỉ được quy định trong hiến pháp và pháp luật
của nước ta mà quyền này đã và đang được thực hiện một cách tích cực trong thực
tế. Bình đẳng về chính trị còn được tập trung thể hiện trong việc trực tiếp tham gia
hoạt động của hệ thống chính trị từ Trung ương đến địa phương của đồng bào các
42
dân tộc, không có sự phân biệt dân tộc thiểu số hay đa số, các dân tộc đều có quyền
tham gia trực tiếp vào các cơ quan Đảng và Nhà nước, vào các tổ chức chính trị -
xã hội. Qua đó, bình đẳng về quyền tham chính phản ánh được nguyện vọng và
hướng phát triển của dân tộc mình. Cũng như dân tộc đa số, ở các dân tộc thiểu số
đội ngũ cán bộ quản lý, bao gồm cả dân cử và bổ nhiệm không ngừng lớn mạnh.
Trong Quốc hội cũng như trong Hội đồng nhân dân các cấp, đại biểu người dân tộc
thiểu số tham gia ngày càng cao. Quốc hội khoá XIII có 78 đại biểu người dân tộc
thiểu số. Nhiều cán bộ là người các dân tộc thiểu số hiện nay đang giữ các cương vị
quan trọng trong các cơ quan lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, các Bộ, ngành Trung
ương và ở các địa phương.
43
Bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc Việt Nam:
Bình đẳng về kinh tế được thể hiện tập trung ở sự phát triển đồng đều về
trình độ phát triển kinh tế giữa các dân tộc, giữa dân tộc đa số và dân tộc thiểu số,
giữa các vùng miền cả nước. Thực tế cho thấy một khi còn tồn tại sự chênh lệch về
trình độ phát triển giữa các dân tộc thì tất yếu sẽ còn tồn tại sự bất bình đẳng trong
cộng đồng dân tộc. Bình đẳng về kinh tế là nội dung quan trọng có ý nghĩa quyết
định làm nền tảng, tạo cơ sở vật chất cho việc thực hiện sự bình đẳng trên các lĩnh
vực cơ bản khác của đời sống xã hội. Trong một quốc gia đa dân tộc, sự thấp kém
về trình độ kinh tế của một cộng đồng người không chỉ cản trở sự phát triển bản
thân của dân tộc ấy, mà còn là lực cản tiến trình phát triển chung của cả cộng đồng
dân tộc của một quốc gia. Do đó, từng bước tạo sự phát triển đồng đều về trình độ
phát triển kinh tế giữa các dân tộc (lấy thu nhập bình quân đầu ngươờ làm chuẩn)
giữa các vùng, miền phải được xem là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu.
Sự bình đẳng về kinh tế giữa các dân tộc phụ thuộc vào sự nỗ lực vươn lên
của các dân tộc, đồng thời phải có sự giúp đỡ của các dân tộc khác, nhất là các dân
tộc đã đạt được sự phát triển kinh tế, phát triển lực lượng sản xuất ở trình độ cao
hơn. Đặc biệt trên phương diện này, vai trò điều tiết của Nhà nước có ý nghĩa quyết
định thể hiện ở việc Nhà nước vạch ra và chỉ đạo thực hiện đường lối phát triển
toàn diện về kinh tế, chính trị, văn hoá, an ninh quốc phòng ở vùng đồng bào dân
tộc thiểu số, từng bước khắc phục sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân
tộc.
Ở nước ta hiện nay trình độ phát triển chênh lệch về kinh tế - xã hội giữa các
dân tộc còn khá lớn. Vì vậy, trong chính sách phát triển kinh tế - xã hội vùng đồng
bào dân tộc thiểu số, một mặt cần tạo điều kiện để từng dân tộc phát huy hết khả
năng của mình để vươn lên, mặt khác cần tính đến các đặc trưng của từng vùng,
đặc thù văn hoá, cách thức sản xuất… của từng dân tộc trong quá trình quy hoạch,
xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội cho phù hợp.
Bình đẳng về văn hoá giữa các dân tộc:
Trong lịch sử phát triển, mỗi dân tộc đều có một nền văn hoá đặc trưng
mang đậm bản sắc của dân tộc mình. Sự bình đẳng dân tộc về văn hoá giữa các dân
tộc chính là việc khẳng định và thừa nhận quyền bảo vệ, giữ gìn và phát huy các
44
giá trị văn hoá của các dân tộc. Mọi thái độ, hành vi, chính sách biểu hiện sự kỳ thị
văn hoá hay đồng hoá văn hoá một cách cưỡng bức đều phải bị lên án và bác bỏ.
Sự bình đẳng giữa các dân tộc ở Việt Nam trên lĩnh vực văn hoá thể hiện ở
sự tôn trọng những giá trị, những bản sắc văn hoá, phong tục, tập quán của các dân
tộc, tạo điều kiện để văn hoá các dân tộc phát triển hài hoà trong sự phát triển
chung của một nền văn hoá đa dân tộc. Từ đó góp phần xây dựng nên một nền văn
hoá thống nhất đa dạng, đảm bảo cho các dân tộc có quyền sử dụng tiếng nói, chữ
viết của mình, có quyền hưởng thụ không chỉ những giá trị văn hoá của dân tộc
mình mà còn được thụ hưởng những giá trị của nền văn hoá chung của dân tộc Việt
Nam trong sự kết hợp hài hoà những bản sắc văn hoá của tất cả các dân tộc ở nước
ta, đồng thời tiếp thu những tinh hoa văn hoá của nhân loại và thời đai, không
ngừng nâng cao dân trí cho đồng bào các dân tộc để có đủ khả năng hưởng thụ và
xây dựng nền văn hoá Việt Nam thống nhất trong đa dạng của văn hoá dân tộc.
Nghị quyết Trung ương 5 khoá VIII của Đảng ta nêu rõ: “Hơn 50 dân tộc sống trên
đất nước ta đều có giá trị và sắc thái văn hoá riêng các giá trị và sắc thái đó bổ sung
cho nhau, làm phong phú nền văn hoá Việt Nam và củng cố sự thống nhất dân tộc
là cơ sở để giữ vững sự bình đẳng và phát huy tính đa dạng văn hoá của các dân tộc
anh em”.
Bình đẳng về xã hội giữa các dân tộc:
Bình đẳng về mặt xã hội giữa các dân tộc ở Việt Nam nếu xét theo nghĩa
rộng thì đó là mối quan hệ “tổng hoà” về kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội giữa các
dân tộc. Tuy nhiên bình đẳng xã hội giữa các dân tộc ở đây chúng ta xem xét theo
nghĩa hẹp, chủ yếu là thông qua quan hệ giữa thiết chế xã hội truyền thống và thiết
chế xã hội hiện đại của các dân tộc. Từ những đặc điểm về địa lý, điều kiện tự
nhiên, lịch sử, trình độ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội… mỗi dân tộc đều lưu giữ
những kiểu tổ chức xã hội truyền thống mang tích đặc thù của dân tộc mình và nó
được thể hiện chủ yếu trong phong tục tập quán, luật tục, lối sống, trong các quy
định, các thiết chế để quản lý, tổ chức đời sống xã hội cộng đồng của mỗi dân tộc.
Các mối quan hệ xã hội này bao gồm cả những yếu tố tích cực lẫn yếu tố tiêu cực
đan xen lẫn nhau và cùng tác động vào đời sống xã hội cộng đồng của các dân tộc.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, giữa các dân tộc còn có sự chênh lệch
khá lớn về trình độ phát triển và đặc biệt do có sự cư trú xen kẽ giữa các dân tộc do
45
đó mối quan hệ giữa các dân tộc càng trở lên đa dạng, phức tạp và nó tác động đến
mọi mặt của đời sống xã hội cũng như đến từng dân tộc. Vì vậy, trong quá trình
sinh hoạt cộng đồng nếu các thiết chế xã hội cộng đồng truyền thống của mỗi dân
tộc không được tôn trọng, không được tạo cơ hội như nhau để phát triển thì sẽ dẫn
đến những mâu thuẫn, những kỳ thị, chia rẽ giữa các dân tộc, ở mức độ cao hơn có
thể dẫn đến những xung đột giữa các dân tộc.
Bình đẳng trên lĩnh vực xã hội giữa các dân tộc Việt Nam được thể hiện ở sự
tôn trọng những thiết chế xã hội truyền thống của mỗi dân tộc (không phân biệt dân
tộc đa số hay dân tộc thiểu số, không phân biệt trình độ phát triển cao hay thấp),
những yếu tố xã hội truyền thống tích cực của các dân tộc đều phải được tạo điều
kiện và cơ hội như nhau để phát triển, đồng thời khắc phục, loại trừ các yếu tố xã
hội tiêu cực, lạc hậu trong các thiết chế xã hội truyền thống của các dân tộc.
Bình đẳng xã hội giữa các dân tộc còn thể hiện trong việc thực hiện chính
sách xã hội, giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc đặt ra trong quan hệ dân tộc,
như xoá đói, giảm nghèo, tạo việc làm, bảo hiểm y tế… nảy sinh ở các vùng đồng
bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Từ những vấn đề nêu trên, có thể hiểu bình đẳng giữa các dân tộc trong một
quốc gia đa dân tộc là một giá trị định hướng nhằm đảm bảo thực hiện quyền của
mỗi dân tộc được tham gia vào mỗi lĩnh vực của đời sống xã hội trong quan hệ gắn
bó hữu cơ với những dân tộc khác trong một quốc gia đa dân tộc. Do đó, trong quá
trình thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc của Đảng, Nhà nước cần thực hiện
đồng thời các nội dung trên.
Quán triệt và thực hiện Nghị quyết Đại hội X về vấn đề dân tộc, chính sách
dân tộc và miền núi, với sự quyết tâm của các ngành ở Trung ương và các ngành,
các cấp ở địa phương cùng với sự nỗ lực vươn lên của đồng bào các dân tộc đã tạo
ra được những chuyển biến đáng kể về phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng cơ sở
hạ tầng và giải quyết những vấn đề xã hội bức xúc ở miền núi, vùng đồng bào các
dân tộc thiểu số. Nhiều mô hình sản xuất kinh doanh có hiệu quả đã được hình
thành và phát triển; đời sống của đại đa số đồng bào các dân tộc đã được cải thiện
và nâng lên; cơ cấu kinh tế miền núi đã có bước chuyển biến tích cực, tạo đà phát
triển mới theo hướng sản xuất hàng hoá và từng bước chuyển dịch theo hướng công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Cùng với quá trình phát triển kinh tế - xã hội, nhìn chung,
46
vấn đề ổn định chính trị và an ninh, quốc phòng ở vùng đồng bào các dân tộc thiểu
số và miền núi đã được thực hiện tốt; đồng bào các dân tộc luôn tin tưởng vào
đường lối đổi mới, thực hiện tốt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước,
nâng cao cảnh giác trước mọi âm mưu phá hoại của các thế lực thù địch.
Trong các chương trình mục tiêu quốc gia, Đảng và Nhà nước luôn ưu tiên
cho vùng đồng bào các dân tộc thiểu số và miền núi, như: Chương trình xoá đói
giảm nghèo, Chương trình nước sạch cho nông thôn miền núi, Chương trình 135 hỗ
trợ phát triển cho các xã miền núi đặc biệt khó khăn. Những Chương trình trên đã
đạt được kết quả tốt, góp phần tích cực giúp đồng bào các dân tộc chuyển dịch cơ
cấu kinh tế theo hướng có hiệu quả hơn, tạo thêm việc làm, tăng cường bảo vệ
rừng, môi trường sinh thái, hạn chế thiên tai, từng bước chuyển sang sản xuất hàng
hoá để thoát đói, giảm nghèo, vươn lên làm giàu.
47
Chương 2
THỰC TRẠNG THỰC HIỆN BÌNH ĐẰNG DÂN TỘC
Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY
2.1. Vài nét khái quát về tình hình kinh tế - xã hội ở tỉnh Yên Bái
2.1.1. Đặc điểm tự nhiên, kinh tế - xã hội ở tỉnh Yên Bái
Tỉnh Yên Bái được thành lập cuối thế kỷ 19 (11/4/1900). Hiện nay, so với
khi mới thành lập, địa dư và tổ chức hành chính của tỉnh đã có nhiều thay đổi. Năm
1975, tại kỳ họp thứ 2 Quốc hội khoá V đã đưa ra nghị quyết hợp nhất ba tỉnh Lào
Cai, Yên Bái, Nghĩa Lộ thành tỉnh mới lấy tên là Hoàng Liên Sơn. Đến ngày
1/10/1991 tại kỳ họp thứ 9 Quốc hội khoá VIII ra nghị quyết chia tỉnh Hoàng Liên
Sơn thành hai tỉnh Lào Cai và Yên Bái và tách ba huyện Than Uyên, Văn Bàn, Bảo
Yên của Yên Bái cũ nhập vào tỉnh Lào Cao.
Theo kết quả tổng hợp sơ bộ Tổng điều tra dân số và nhà ở 1/4/2009, tổng dân số toàn tỉnh là 752.868 người. Mật độ dân số trung bình là 109 người/km2, tập trung ở một số khu đô thị như thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ và các thị trấn huyện
lỵ.
Điều kiện địa lý tự nhiên:
Vị trí địa lý Yên Bái là tỉnh miền núi nằm sâu trong nội địa, là 1 trong 13
tỉnh vùng núi phía Bắc, nằm giữa 2 vùng Đông Bắc và Tây Bắc. Phía Bắc giáp tỉnh
Lào Cai, phía Nam giáp tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp 2 tỉnh Hà Giang, Tuyên
Quang và phía Tây giáp tỉnh Sơn La. Yên Bái có 9 đơn vị hành chính cấp huyện,
thị (1 thành phố, 1 thị xã và 7 huyện) với tổng số 180 xã, phường, thị trấn; trong đó
có 70 xã vùng cao và 70 xã đặc biệt khó khăn được đầu tư theo các chương trình
phát triển kinh tế - xã hội của Nhà nước. Yên Bái là đầu mối và trung độ của các
tuyến giao thông đường bộ, đường sắt, đường thuỷ từ Hải Phòng, Hà Nội lên cửa
khẩu Lào Cai, là một lợi thế trong việc giao lưu với các tỉnh bạn, với các thị trường
lớn trong và ngoài nước.
Đặc điểm địa hình
Yên Bái nằm ở vùng núi phía Bắc, có đặc điểm địa hình cao dần từ Đông
Nam lên Tây Bắc và được kiến tạo bởi 3 dãy núi lớn đều có hướng chạy Tây Bắc -
Đông Nam: phía Tây có dãy Hoàng Liên Sơn - Pú Luông nằm kẹp giữa sông Hồng
48
và sông Đà, tiếp đến là dãy núi cổ Con Voi nằm kẹp giữa sông Hồng và sông Chảy,
phía Đông có dãy núi đá vôi nằm kẹp giữa sông Chảy và sông Lô. Địa hình khá
phức tạp nhưng có thể chia thành 2 vùng lớn: vùng cao và vùng thấp. Vùng cao có
độ cao trung bình 600m trở lên, chiếm 67,56% diện tích toàn tỉnh. Vùng này dân cư
thưa thớt, có tiềm năng về đất đai, lâm sản, khoáng sản, có khả năng huy động vào
phát triển kinh tế - xã hội. Vùng thấp có độ cao dưới 600 m, chủ yếu là địa hình đồi
núi thấp, thung lũng bồn địa, chiếm 32,44% diện tích tự nhiên toàn tỉnh.
Về thời tiết khí hậu
Khí hậu Yên Bái nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, nhiệt độ trung bình là 22 - 23OC; lượng mưa trung bình 1.500 - 2.200 mm/năm; độ ẩm trung bình
83 - 87%, thuận lợi cho việc phát triển nông - lâm nghiệp. Dựa trên yếu tố địa hình
khí hậu, có thể chia Yên Bái thành 5 tiểu vùng khí hậu. Tiểu vùng Mù Cang Chải với độ cao trung bình 900m, nhiệt độ trung bình 18-20OC, có khi xuống dưới 0OC
về mùa đông, thích hợp phát triển các loại động, thực vật vùng ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn - nam Văn Chấn, độ cao trung bình 800 m, nhiệt độ trung bình 18-20OC,
phía Bắc là tiểu vùng mưa nhiều, phía Nam là vùng mưa ít nhất tỉnh, thích hợp phát
triển các loại động, thực vật á nhiệt đới, ôn đới. Tiểu vùng Văn Chấn - Tú Lệ, độ cao trung bình 200 - 400m, nhiệt độ trung bình 21-32OC, thích hợp phát triển các
loại cây lương thực, thực phẩm, chè vùng thấp, vùng cao, cây ăn quả và cây lâm
nghiệp. Tiểu vùng nam Trấn Yên, Văn Yên, thành phố Yên Bái, Ba Khe, độ cao trung bình 70m, nhiệt độ trung bình 23-24OC, là vùng mưa phùn nhiều nhất tỉnh, có
điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm, cây công nghiệp, lâm nghiệp, cây
ăn quả. Tiểu vùng Lục Yên - Yên Bình độ cao trung bình dưới 300m, nhiệt độ trung bình 20-23OC, là vùng có mặt nước nhiều nhất tỉnh, có hồ Thác Bà rộng
19.050 ha, có điều kiện phát triển cây lương thực, thực phẩm, lâm nghiệp và nuôi
trồng thuỷ sản, có tiềm năng du lịch.
Về tài nguyên thiên nhiên
Tài nguyên đất: tổng diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh là 688.292 ha. Trong đó
đất nông nghiệp 69.315,12 ha, chiếm 10,07%; đất lâm nghiệp 282.241,86 ha, chiếm
41%; đất chuyên dùng 29.199,78 ha, chiếm 4,25%; đất ở 3.804,54 ha, chiếm 0,55%
và đất chưa sử dụng 303.730,7 ha, chiếm 44,13%. Trong đó số đất chưa sử dụng,
đất có khả năng nông nghiệp là 1.358,26 ha; đất có khả năng lâm nghiệp là
49
278.729,14 ha. Đất Yên Bái chủ yếu là đất xám (chiếm 82,36%), còn lại là đất mùn
alít, đất phù sa, đất glây, đất đỏ…
Tài nguyên rừng: Năm 2002, toàn tỉnh có 186.808 ha rừng tự nhiên, chiếm
27,14% diện tích đất tự nhiên toàn tỉnh, tăng 41,5% so với năm 1996 và tăng 3,5%
so với năm 2000; diện tích rừng trồng 95.430 ha bằng 13,86% diện tích đất tự
nhiên. Tỷ lệ che phủ đạt 41%. Tổng trữ lượng gỗ các loại theo số liệu điều tra năm 1998 có 17,2 triệu m3, 51,133 triệu cây tre, vầu, nứa và các loại lâm sản khác, trữ lượng gỗ rừng trồng còn 2,5 triệu m3. Về khai thác lâm sản, năm 1995, khối lượng gỗ tròn khai thác là 55.683 m3, năm 2000 đạt 105.344 m3, năm 2002 đạt 123.000m3. Tài nguyên khoáng sản của tỉnh Yên Bái khá đa dạng, hiện đã điều tra
176 điểm mỏ khoáng sản, xếp vào các nhóm khoáng sản năng lượng, khoáng sản
vật liệu xây dựng, khoáng chất công nghiệp, khoáng sản kim loại và nhóm nước
khoáng. Nhóm khoáng sản năng lượng gồm các loại than nâu, than Antraxit, đá
chứa dầu, than bùn…; loại than nâu và than lửa dài tập trung ở ven sông Hồng,
sông Chảy và các thung lũng bồn địa như Phù Nham (Văn Chấn). Nhóm khoáng
sản vật liệu xây dựng gồm đá vôi, đá ốp lát, sét gạch ngói, cát sỏi… được phân bố
rộng rãi trên khắp địa bàn tỉnh. Nhóm khoáng chất công nghiệp gồm đầy đủ các
nguyên liệu công nghiệp từ nguyên liệu phân bón, nguyên liệu hoá chất, nguyên
liệu kỹ thuật, đặc biệt là đá quý và bán đá quý được phân bố chủ yếu ở Lục Yên và
Yên Bình. Nhóm khoáng sản kim loại có đủ các loại từ kim loại đen (sắt) đến kim
loại nâu (đồng, chì, kẽm) và kim loại quý (vàng), đất hiếm phân bố chủ yếu ở hữu
ngạn sông Hồng. Nhóm nước khoáng được phân bố chủ yếu ở vùng phía tây của
tỉnh (Văn Chấn, Trạm Tấu), bước đầu được sử dụng tắm chữa bệnh.
Về tiềm năng kinh tế
Những lĩnh vực kinh tế mà Yên Bái có lợi thế để phát triển ngành nông - lâm
sản gắn với vùng nguyên liệu: trồng rừng và chế biến giấy, bột giấy, ván nhân tạo;
trồng và chế biến quế, chè, cà phê; trồng và chế biến sắn, hoa quả; nuôi trồng và
chế biến thuỷ sản. Với nguồn khoáng sản phong phú, tỉnh có điều kiện thuận lợi
trong việc khai thác và chế biến khoáng sản như: đá quý, cao lanh, fenspat, bột
cácbonnát canxi, sắt…và sản xuất vật liệu xây dựng: xi măng, gạch, sứ kỹ thuật, sứ
dân dụng, đá xẻ ốp lát, đá mỹ thuật và các loại vật liệu xây dựng khác khác.
50
Tiềm năng du lịch Yên Bái là một tỉnh miền núi, phong cảnh thiên nhiên đa
dạng và đẹp: hang Thẩm Lé (Văn Chấn), động Xuân Long, động Thuỷ Tiên (Yên
Bình), hồ Thác Bà, du lịch sinh thái suối Giàng, cánh đồng Mường Lò; di tích cách
mạng, đền thờ Nguyễn Thái Học, Căng Đồn, Nghĩa Lộ… Tỉnh Yên Bái có nhiều
dân tộc thiểu số và mỗi dân tộc mang đậm một bản sắc văn hoá riêng, là điều kiện
để kết hợp phát triển du lịch sinh thái.
Khái quát về tình hình kinh tế - xã hội năm 2010 của tỉnh Yên Bái
Trong thời kỳ đổi mới Đảng bộ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn
thể chính trị các cấp và nhân dân Yên Bái đã năng độg sáng tạo trong việc cụ thể
hoá đường lối đối mới của Đảng vào thực tiễn xã hội, giữ vững ổn định chính trị,
quốc phòng an ninh, trật tự an toàn xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị
vững mạnh, từng bước cải thiện đời sống nhân dân.
Với những chủ trương, giải pháp và chính sách đúng đắn, kịp thời của Đảng
và Chính phủ, sự lãnh đạo, chỉ đạo tập trung của tỉnh, chú trọng công tác an sinh xã
hội, hỗ trợ sản xuất, kích cầu đầu tư, nhất là sự cố gắng của các địa phương, các
thành phần kinh tế và của nhân dân các dân tộc trong tỉnh quyết tâm thực hiện
thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ Nghị quyết Đại hội Đảng bộ tỉnh lần thứ XVI nên
kinh tế Yên Bái vẫn giữ được nhịp độ phát triển ổn định và tiếp tục tăng trưởng.
Dự ước tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) đạt 3.773,5 tỷ đồng (theo giá so
sánh năm 1994), tăng 443,5 tỷ đồng so với năm 2009. Tốc độ tăng trưởng kinh tế
đạt 13,3%/13% kế hoạch đề ra, là năm có tốc độ tăng trưởng cao nhất từ trước tới
nay và là tỉnh có tốc độ tăng trưởng kinh tế đứng thứ 3 trong 12 tỉnh khu vực vùng
Tây Bắc (gồm Yên Bái, Hà Giang, Lào Cai, Điện Biên, Lai Châu, Sơn La, Hòa
Bình, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Phú Thọ, Tuyên Quang).
Cơ cấu kinh tế trong GDP năm 2010 có: Tỷ trọng nông, lâm, thủy sản
33,31%, công nghiệp - xây dựng 33,68%, dịch vụ 33,68%. Cơ cấu kinh tế tuy chưa
đạt đúng so với kế hoạch nhưng so với các năm trước cơ cấu trong các nhóm ngành
đều chuyển dịch theo chiều hướng tích cực (so với năm 2009: Nhóm nông, lâm,
thủy sản giảm 0,72%, nhóm công nghiệp - xây dựng tăng 0,57% nhóm dịch vụ tăng
0,15%).
Dự ước GDP bình quân đầu người đạt 10,95 triệu đồng vượt Nghị quyết
HĐND tỉnh 9,55% và tăng 20% so với năm 2009, đứng thứ 9 trong các tỉnh vùng
51
Tây Bắc. Tổng thu ngân sách trên địa bàn tỉnh đạt 675,44 tỷ đồng, tăng 12,5% dự
toán, tăng 18% so với năm 2009, đứng thứ 8 so với các tỉnh trong khu vực.
Sản xuất nông, lâm, nghiệp phát triển khá toàn diện. Sản xuất nông nghiệp
tăng trên cả 3 mặt diện tích, năng suất, sản lượng. Diện tích gieo trồng cây nông
nghiệp cả năm vượt 3,34% kế hoạch, tăng 3,74% so với năm 2009.
Diện tích cây lương thực có hạt đạt 63.652,7 ha, vượt 5,55 kế hoach (tăng
gần 3948 ha), chủ yếu là do tăng diện tích cây ngô khi thực hiện đề án phát triển
cây ngô hàng hóa; diện tích cây chất bột lấy củ vượt 8,82% kế hoạch, diện tích các
loại cây rau đậu tăng 3,9%...
Diện tích cây lâu năm đạt 19.594 ha, tuy chưa đạt kế hoạch nhưng cũng tăng
0,8% so với năm 2009, chủ yếu tăng do trồng mới được 330 ha cây cao su ở huyện
Văn Chấn, Văn Yên; diện tích chè có hơn 11.909 ha, đạt 98,16% kế hoạch; diện
tích cây ăn quả có 7267 ha, giảm 0,74% kế hoạch.
Năng suất lúa cả năm đạt 45,37tạ/ ha, tăng 0,42%%; năng suất ngô đạt 28,59
tạ/ha, tăng 7,09% so với năm 2009. Sản lượng lương thực có hạt đạt 250.796,9 tấn,
tăng 6,46% so với năm 2009, đứng thứ 6 so với các tỉnh trong khu vực, trong đó
sản lượng thóc đạt 186.060 tấn, giảm 139 tấn so với năm 2009. Lương thực bình
quân đầu người đạt 333,85 kg, đứng thấp nhất so với các tỉnh trong khu vực.
Sản lượng chè búp tươi đạt 85.946 tấn, tăng 5134 tấn. Tổng đàn gia súc
chính tăng 4,63%, trong đó đàn trâu 11.6249 con, tăng 3,39%, đàn bò 30.188 con,
giảm 12,02%, đàn lợn 449.288 con tăng 6,32% so với năm 2009. Đàn bò tiếp tục
giảm, do đồng cỏ ít, bãi chăn thả thiếu, mặt khác do việc sử dụng bò đực phối
giống hoàn toàn mang tính tự nhiên, dẫn đến hiện tượng cận huyết, làm chất lượng
con giống ngày càng giảm, tăng đàn sinh học rất chậm.
Sản xuất lâm nghiệp tăng khá so với kế hoạch. Diện tích rừng trồng mới đạt
14.600 ha, tăng 4,29% so với kế hoạch, đứng thứ 2 trong các tỉnh khu vực, trong đó
rừng tập trung chiếm trên 97%. Tỷ lệ che phủ của rừng đạt 59,2%, đứng thứ 2 so
với các tỉnh trong khu vực.
Nuôi trồng thủy sản năm 2010 có nhiều cố gắng, diện tích nuôi trồng thủy
sản đạt trên 2.648 ha, có 507 hộ nuôi cá lồng với 801 lồng cá, tăng 42 hộ và 209
lồng. Sản lượng thủy sản đạt 5.659,8 tấn tăng gần 492 tấn so với năm 2009, đứng
thứ 2 về sản lượng so với các tỉnh trong khu vực.
52
Sản xuất công nghiệp năm 2010 gặp khá nhiều bất lợi, do giá nguyên liệu
đầu vào tăng cao, điện phục vụ sản xuất bị cắt luân phiên, lãi suất ngân hàng tăng,
việc vay vốn khó khăn, mực nước hồ Thác Bà xuống thấp, vận chuyển nguyên liệu
cho hai nhà máy xi măng và các nhà máy sản xuất Cácbonat Can xi, sản xuất giấy
đế gặp nhiều trở ngại. Giá trị sản xuất công nghiệp (giá so sánh năm 1994) đạt 2850
tỷ đồng, đứng thứ 3 so với các tỉnh trong khu vực, tăng 20,8% so với năm 2009,
nhưng chỉ bằng 95% kế hoạch.
Trong đó công nghiệp Trung ương chiếm 34% tổng giá trị sản xuất công
nghiệp đạt 84,4% kế hoạch. Thực hiện vốn đầu tư phát triển trên địa bàn tỉnh đạt
5.350,365 tỷ đồng, đứng thứ 6 trong các tỉnh thuộc khu vực, tăng 19,28% so với
năm 2009. Trong đó vốn đầu tư phát triển của Nhà nước đạt trên 3.600 tỷ đồng,
gồm vốn địa phương quản lý thực hiện được 2.138,88 tỷ đồng, tăng 26,33%; vốn
Trung ương quản lý thực hiện đạt 1.461,335 tỷ đồng, tăng 17,28% so với cùng kỳ.
Vốn đầu tư ngoài nhà nước thực hiện đạt 1.660,849 tỷ đồng, vượt 24,98% so với
cùng kỳ. Vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài đạt 89,3 tỷ đồng, tăng 23,68% so với
năm 2009. Trong năm một số công trình trọng điểm đã hoàn thành đưa vào sử
dụng, như cầu Trái Hút, đường Lý Thường Kiệt, đường Yên Bái - Khe Sang,
đường Vĩnh Kiên - Vũ Linh, 10 điểm trường thuộc dự án giáo dục...
Hoạt động thương mại, dịch vụ năm 2010 tăng mạnh so với năm 2009.
Nguyên nhân tăng do nền kinh tế phục hồi, bắt đầu phát triển, mức thu nhập tăng,
sức mua của người dân tăng.
Tổng mức bán lẻ hàng hóa và dịch vụ tiêu dùng xã hội đạt 5.384,435 tỷ
đồng, vượt 19,08% kế hoạch, đứng thứ 6 so với các tỉnh trong vùng. Trong đó kinh
tế nhà nước chiếm 6,6%, kinh tế tập thể chiếm 0,14%, kinh tế tư nhân chiếm
30,03%, kinh tế cá thể chiếm 63,23%.
Công tác quản lý thị trường, kiểm tra chống buôn lậu, hàng giả, hàng kém
chất lượng được tăng cường và hiệu quả hơn. Hoạt động du lịch có chuyển biến,
tiếp tục phối hợp với tỉnh Phú Thọ, Lào Cai tổ chức tốt chương trình du lịch về cội
nguồn; tổ chức tốt tuần văn hóa, thể thao mang đậm bản sắc dân tộc từng vùng.
Xuất khẩu năm 2010 của tỉnh có bước đột phá, tổng kim ngạch xuất khẩu đạt
28.253,7 ngàn USD, cao nhất từ trước tới nay, tăng 57,39% so với năm 2009 vượt
kế hoạch 41,27%, đứng thứ 4 so với các tỉnh trong vùng. Giá trị kim ngạch xuất
53
khẩu khu vực kinh tế nhà nước đạt 1.505,7 ngàn USD, giảm 35,25%; của khu vực
kinh tế tư nhân đạt 19.052,7 ngàn USD, tăng 93,8%; của kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài đạt 6.695,3 ngàn USD tăng 32,8% so với năm 2009.
Bên cạnh những kết quả đạt được, nền kinh tế Yên Bái năm 2010 cũng còn
bộc lộ những tồn tại, đó là: tốc độ tăng trưởng kinh tế tuy cao, nhưng chủ yếu do
đầu tư, chưa phải tăng do nội lực của nền kinh tế. Sức cạnh tranh của nền kinh tế
vẫn còn nhiều hạn chế.
Cơ cấu kinh tế chuyển dịch chưa đạt mục tiêu đề ra; thu ngân sách, GDP
bình quân đầu người, lương thực bình quân đầu người ở nhóm thấp so với các tỉnh
trong khu vực. Một số chỉ tiêu quan trọng của nền kinh tế như giá trị sản xuất công
nghiệp, sản lượng thóc, đàn bò, nguồn vốn đầu tư do Trung ương quản lý, vận tải
hàng hóa... chưa đạt kế hoạch đề ra. Xúc tiến thương mại chưa được đẩy mạnh;
xuất khẩu tăng một phần do biến động mạnh của tỷ giá đồng ngoại tệ và do giá của
nhiều mặt hàng xuất khẩu tăng cao.
Hoạt động du lịch còn nhiều khó khăn, chưa có sản phẩm du lịch đích thực,
hấp dẫn, các nhà đầu tư chưa dám làm du lịch nên Yên Bái chủ yếu vẫn là điểm
dừng chân của khách du lịch.
Về hệ thống giao thông: Yên Bái đã đầu tư cải tạo, nâng cấp các tuyến quốc
lộ 70, 32, đang thực hiện giải phóng mặt bằng đoạn qua Yên Bái cho tuyến cao tốc
Nội Bài - Lào Cai và xây dựng các khu tái định cư cho người dân, hoàn thành và
đưa vào sử dụng các tuyến tỉnh lộ theo kế hoạch.
Về Y tế, dân số - kế hoạch hoá gia đình: Yên Bái đã có nhiều tiến bộ trong
vấn đế y tế, dân số và kế hoạch hoá gia định, không có dịch lớn xảy ra trên địa bàn,
có 18 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế. Công tác lao động - việc làm đựơc chú trọng,
tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 33%, tăng 2,5% so với năm 2008, trong đó qua đào
tạo nghề đạt 17%. Làm tốt công tác xoá đói giảm nghèo, năm 2009 tỷ lệ hộ nghèo
giảm 5,57%, hiện nay còn 15,74% hộ nghèo. Thực hiện hỗ trợ người nghèo về nhà
ở theo Quyết định 167, thực hiện 15000 nhà, trong đó vùng khó khăn 1.365 hộ,
hiện nay toàn tỉnh còn 5.043 hộ cần hỗ trợ.
Về văn hoá, giáo dục: Đối với phong trào "Toàn dân xây dựng đời sống văn
hóa", sau nhiều năm phát động và tổ chức thực hiện, phong trào đã đi vào cuộc
54
sống, trở thành phong trào thi đua yêu nước sâu rộng của quần chúng nhân dân.
Nếu như năm 2000, con số này là 60,2% thì đến năm 2010 toàn tỉnh có gần 90% số
hộ đạt tiêu chuẩn gia đình văn hóa; năm 2000, toàn tỉnh có 106/2338 (bằng 4,5%)
làng, bản, tổ dân phố được công nhận làng, bản, tổ dân phố văn hóa thì hết năm
2009, Yên Bái đã có 1.128 (bằng 48,2%) làng, bản, tổ dân phố được công nhận
danh hiệu văn hóa.
Hiện toàn tỉnh đã xây dựng được 1.053 nhà văn hóa thôn, bản, khu phố, 9/9
huyện, thị xã, thành phố có sân vận động, 150/180 xã, phường, thị trấn có sân bãi tập
luyện thể dục thể thao, có 4 bể bơi, 25 nhà thi đấu tập luyện thể thao ở cấp tỉnh và
cấp huyện. Mô hình xây dựng xã, phường, thị trấn văn hóa được triển khai khá
mạnh. Năm 2004, toàn tỉnh có 2 xã và 1 thị trấn đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn
hóa, đến năm 2010, đã có 32 xã, phường, thị trấn đăng ký xây dựng đạt chuẩn văn
hóa…
Giáo dục - đào tạo tiếp tục được duy trì, củng cố theo hướng nâng cao chất
lượng giáo dục toàn diện. Triển khai sắp xếp lại hệ thống trường học và đã đạt kết
quả bước đầu; tỷ lệ phòng học xây dựng kiên cố đạt 98,2%.
55
2.1.2. Khái quát về đặc điểm cơ cấu, phân bố, hình thái cư trú và văn hoá
các dân tộc ở tỉnh Yên Bái
2.1.2.1 Đặc điểm về cơ cấu, phân bố các dân tộc tỉnh Yên Bái
Theo số liệu điều tra, trên địa bàn tỉnh Yên Bái có tới 30 dân tộc sinh sống,
trong đó có 7 dân tộc có dân số trên 10.000 người, 2 dân tộc có từ 2.000 - 5.000
người, 3 dân tộc có từ 500 -2.000 người. Trong đó người Kinh chiếm 49,6%, người
Tày chiếm 18,58%, người Dao chiếm 10,31%, người HMông chiếm 8,9%
người Thái chiếm 6,7%, người Cao Lan chiếm 1%, còn lại là các dân tộc khác.
Đặc điểm phân bố dân cư các dân tộc ở Yên Bái không có lãnh thổ tộc người
rõ rệt, họ sống xen kẽ với nhau. Tuy vậy mỗi dân tộc đều có những vùng quần tụ
đông đảo của mình.
+ Vùng thung lũng sông Hồng chiếm 41% dân số toàn tỉnh, trong đó: người
Kinh 43%, người Tày chiếm 33%, người Dao chiếm 10%, người Hmông chiếm
1,3% so với dân số toàn vùng.
+ Vùng thung lũng sông Chảy chiếm 28% dân số toàn tỉnh. Trong đó người
Kinh chiếm 43%, người Tày chiếm 11%, người Dao chiếm 13%, người Nùng
chiếm 7%... so với dân số toàn vùng.
+ Vùng ba huyện phía Tây (Trạm Tấu, Mù Cang Chải, Văn Chấn) chiếm 31%
dân số toàn tỉnh. Trong đó: người Kinh là 33%; người Thái 19,2%, Tày 11,8%,
Hmông 24,1%; người Mường 5,2% và người Dao 5,1% so với dân số toàn vùng.
Ngoài ra tại các vùng này dân số dân tộc đó chiếm tỷ lệ cao hơn so với dân
tộc khác cùng cư trú. Tiêu biểu là người Hmông cư trú tập trung ở hai huyện Trạm
Tấu và Mù Cang Chải; người Thái, người Mường ở huyện Văn Chấn; người Dao ở
các huyện Văn Yên, Văn Chấn; người Cao Lan ở huyện Yên Bình; người Kinh ở
thành phố Yên Bái, thị xã Nghĩa Lộ; người Tày, người Nùng ở các huyện Lục Yên,
Văn Chấn; người Khơ Mú ở xã Nghĩa Sơn huyện Văn Chấn; người Xá Phó ở xã
Châu Quế Thượng huyện Văn Yên...
2.1.2.2. Đặc điểm về hình thái cư trú, văn hoá và kinh tế của các dân tộc tỉnh
Yên Bái
Các dân tộc ở tỉnh Yên Bái cư trú ở những độ cao khác nhau nên phân thành
vùng cao và vùng thấp và rẻo giữa. Do đó đời sống văn hóa, kinh tế của đồng bào ở
mỗi vùng có những nét đặc thù riêng như sau:
56
- Dân tộc Kinh: Dân tộc Kinh có trên 400.000 người, chiếm 49,6% dân số
toàn tỉnh, sinh sống ở 9/9 huyện, thị xã, thành phố. Địa bàn sinh tụ chủ yếu ở lưu
vực sông Hồng, sông Chảy, dọc theo các tuyến đường quốc lộ gần trung tâm kinh
tế - văn hóa, những vùng có điều kiện để phát triển kinh tế, giao thông thuận lợi.
Theo nhiều nguồn tư liệu cho thấy người Kinh đã có mặt ở Yên Bái từ rất
sớm: Năm 1961 tại xã Đào Thịnh huyện Trấn Yên phát hiện một thạp đồng lớn,
trên nắp thạp có các cặp nam nữ đang giao phối biểu thị sự tồn tại của nòi giống.
Năm 1964 tại hang Hùm (huyện Lục Yên) tìm thấy bộ hài cốt của người Việt cổ có
tên là Hô-Mô-Sa-Piên cách đây 8 vạn năm (Tiến sĩ Kal người Đức đã đến hang
Hùm kiểm tra trước khi khẳng định hiện vật quý này). Năm 1995 tại đỉnh đồi đầu
cầu Yên Bái (thuộc xã Hợp Minh thành phố Yên Bái) đào được một thạp đồng
trong đó có bộ hài cốt của một bé gái 5 tuổi gần như còn đầy đủ cùng các vật tùy
táng cách đây 2000 năm. Nhiều tư liệu lưu giữ tại bảo tàng Yên Bái cho thấy con
người của thời kỳ Hùng Vương và sau Hùng Vương cư trú ở trung tâm Yên Bái và
vùng đất Thu Vật xưa. Năm 1285 tướng quân Trần Nhật Duật đời vua Trần Nhân
Tông đã chỉ huy quân đội chiến đấu chống giặc Nguyên - Mông lần thứ 2 trên đất
Thu Vật. Theo Kiến Văn Tiểu Lục (quyển 2) của Lê Quí Đôn thì năm 1533 anh em
Vũ Văn Mật, Vũ Văn Uyên là người Kinh ở huyện Gia Lộc tỉnh Hải Dương phù Lê
chống Mạc chạy lên Thu Vật (huyện Yên Bình ngày nay). Vũ Văn Mật xưng là
chúa Bầu tập trung người các dân tộc thiểu số và người Kinh khắp nơi xây thành
đắp lũy trấn ải một vùng gọi là thành nhà Bầu. Như vậy, người Kinh có mặt ở Yên
Bái rất sớm và họ đã cùng với đồng bào người dân tộc thiểu số hòa nhập để cùng
mở mang khai phá vùng đất này.
+ Về kinh tế: Với phần lớn là dân từ vùng đồng bằng Bắc Bộ - vựa lúa lớn
của Miền Bắc chuyển lên, dân tộc Kinh ở Yên Bái đã đem kinh nghiệm và sức lực,
trí tuệ quyết tâm chinh phục và xây dựng vùng đất mới. Đồng bào Kinh đã tiên
phong trong việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đưa giống mới vào đồng
ruộng, năng suất lúa ngày càng nâng cao; Từ 4 đến 5 tấn/ha từ những năm 70 nay
đã đạt trung bình trên 10 tấn/ha. Bên cạnh cây lúa cổ truyền, đồng bào trồng các
loại khoai, đỗ, sắn, ngô...
Đồng bào Kinh khai hoang canh tác ở vùng đất thấp chủ yếu dọc theo lưu vực
sông Hồng song cũng có một số bộ phận đến sinh sống ở vùng cao, rẻo giữa các
57
vùng dân tộc thiểu số như Tày, Nùng, Dao, Thái. Mường... Ngoài trồng lúa nước,
đồng bào còn khai phá đất hoang làm nương rẫy trồng lúa, ngô, sắn... và phát triển
nghề rừng, vườn rừng, trồng các loại cây ăn quả phù hợp như cam, quýt ở huyện Lục
Yên, Văn Chấn... Trồng các loại cây công nghiệp như mía, quế ở huyện Văn Yên;
trồng chè, nhãn ở huyện Văn Chấn; trồng sắn ở các huyện Văn Yên, Trấn Yên...
Những năm gần đây Yên Bái là một trong những tỉnh có kinh tế trang trại
với mô hình VRAC (vườn, rừng, ao, chuồng) phát triển khá mạnh bước đầu thu
được kết quả đáng khích lệ. Những kinh nghiệm làm kinh tế của người Kinh được
đồng bào các dân tộc thiểu số học tập và cùng phát triển. Có những trang trại đem
lại nguồn thu từ 100 đến 200 triệu đồng/năm. Ngoài phần lớn thu từ cây công
nghiệp, cây lấy gỗ, cây ăn quả thì chăn nuôi cũng góp phần quan trọng trong tổng
thu nhập của người Kinh...
Bộ phận kinh doanh buôn bán và các doanh nghiệp sản xuất nhỏ phần lớn có
người Kinh tham gia. Từ buôn bán nhỏ, hơn 15 năm trở lại đây, nhiều người có vốn
lớn đã thành lập các Công ty kinh doanh các mặt hàng như vàng, bạc, đá quý; hàng
điện tử, điện lạnh; sản xuất vật liệu xây dựng, kim khí, đồ gia dụng...Hình thành
những làng nghề như miến đao ở xã Giới Phiên (thành phố Yên Bái).
+ Về văn hoá: Sự định cư của đồng bào Kinh trên vùng đất trung du miền
núi không xa cố đô Phong Châu đã mang theo những nét văn hoá đặc sắc của người
Việt giao hoà với văn hoá dân tộc thiểu số tạo nên bản sắc văn hoá rất đáng quý của
dân tộc Kinh Yên Bái, góp phần tôn phong giá trị văn hoá chung của nhân dân các
dân tộc trong tỉnh.
Trước hết là làng xóm: Nếu như nhà trình tường đất, cụm xóm tre xanh, cây
đa giếng nước mái đình... là đặc trưng nơi ở của người Kinh đồng bằng Bắc Bộ thì
khi hoà nhập với đồng bào miền núi dân tộc ít người, thay vào đấy là thôn làng
chạy dọc các tuyến đường hoặc phân tán quanh các thung lũng, khe suối. Nhà ở
không làm tường đất, lợp rơm rạ mà trước đây thường lịa ván bốn xung quanh, lợp
cọ; nền sân, công trình phụ được đắp bằng các vật liệu khoáng sản sẵn có như cao
lanh, đá vôi. Cũng không ít gia đình làm nhà sàn để ở như dân tộc thiểu số vừa để
tận hưởng cảnh vùng đồi núi, vừa hài hoà với cuộc sống của đồng bào dân tộc. Hơn
hai chục năm trở lại đây, nhiều gia đình người Kinh ở các đô thị và không ít gia
đình ở nông thôn đã dùng vật liệu đất nung, xi măng, sắt thép để xây dựng nhà ở.
58
Chữ viết được duy trì nghiêm ngặt mang tính quốc gia, nhưng tiếng nói có
phần chuyển hoá. Người Kinh ở miền Trung, ở Hà Tây, Thái Bình... khi nói có
những âm tiết được phát âm khác nhau, nhiều từ địa phương khác nhau mặc dù
cùng để chỉ một hiện vật. Quá trình định cư ở Yên Bái cách phát âm và từ địa
phương ấy bị mất dần, thế hệ thứ ba, thứ tư sau định cư không còn quen với tiếng
nói quê gốc. Một đặc điểm nữa là đồng bào Kinh nhập tâm tiếng nói của người dân
tộc rất nhanh, sống với vùng dân tộc nào chỉ một vài năm là họ có thể hiểu được
nội dung và nói chuyện thông thường với dân tộc ấy, thậm chí hoà nhập với người
dân tộc thiểu số chỉ trong một thời gian ngắn.
Phong tục tập quán và văn hoá tín ngưỡng của người Kinh Yên Bái không
còn giữ được đầy đủ như quê gốc đồng bằng. Một phần do quá trình thuyên chuyển
cần có sự đơn giản hoá để phù hợp với môi trường mới, phần khác do điều kiện
sinh hoạt ở miền núi không cho phép.
Tín ngưỡng truyền thống của đồng bào Kinh là thờ cúng tổ tiên. Truyền
thống này gần như được đại gia đình các dân tộc Việt Nam tôn trọng, hướng theo.
Người Kinh miền xuôi tôn thờ bốn vị linh thiêng đất nước: Mẫu Thượng Ngàn,
Thần núi Tản Viên, Thánh Gióng, Đức thánh Trần Hưng Đạo, thì ở Yên Bái người
Kinh một số nơi cũng đặt bài vị thờ các vị này (đền Đông Cuông, đền Thác Bà, đền
Bách Lẫm...). Rõ ràng nơi thờ cúng, nghi lễ tâm linh của người Kinh Yên Bái gần
như không thay đổi so với các vùng quê gốc.
Sinh hoạt văn hoá và nghề truyền thống của người Kinh ở Yên Bái mang
tính quần chúng, phổ thông nhiều hơn độ chuyên sâu. Văn học truyền miệng và văn
học viết của người Kinh có rất sớm. Văn học viết bắt đầu từ các bản văn tự Hán -
Nôm đời Trần qua các bản gia phả, chúc thư, hiện vật khảo cổ và chữ la tinh, chữ
quốc ngữ sau này. Văn học dân gian cũng xuất hiện khoảng thời gian đời Lý - Trần
hoặc sớm hơn vài ba thập kỷ. Các cốt truyện cổ nổi tiếng ở đồng bằng như Tấm
Cám, Cóc kiện trời, Sơn Tinh Thuỷ Tinh, Thánh Gióng, Cây khế... được đưa lên
miền núi lưu truyền sâu rộng trong nhân dân, thậm chí trở thành mô típ cho các
sáng tác dân gian của người dân tộc thiểu số. Câu ca dao: “Còn tiền chợ Ngọc chợ
Ngà, Hết tiền xuôi ngược thác Bà, thác Ông” hay “Muốn ăn gạo trắng nước trong,
Vượt qua đèo Ách vào trong Mường Lò”; chắc chắn có từ xa xưa. Rồi qua cuộc
khởi nghĩa Cần Vương, khởi nghĩa Yên Bái, các cuộc kháng chiến chống Pháp,
59
chống Mỹ và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay; đồng bào Kinh Yên
Bái tiếp tục có những tác phẩm văn học viết, tác phẩm văn học truyền miệng được
nhân dân thừa nhận, lưu truyền.
- Dân tộc Tày ở Yên Bái có khoảng 120.000 người, chiếm 18,58% dân số
toàn tỉnh. Đồng bào Tày sống tập trung đông ở 7/7 huyện thị trong tỉnh (trừ 2
huyện Trạm Tấu và Mù Cang Chải). Trong đó đông nhất là các huyện: Lục Yên
53,18% dân số; Văn Chấn 16,09%; Yên Bình: 15,56%; Văn Yên: 15% dân số toàn
huyện [29, tr.18].
Địa bàn cư trú của đồng bào Tày phần lớn ở những nơi có điều kiện sản xuất
nông nghiệp và thuận lợi giao thông. Ngoài ra còn ở các xã vùng cao còn gặp nhiều
khó khăn trong việc thông thương hàng hoá, đi lại, đời sống còn nghèo như: Xuân
Long (huyện Yên Bình); Thượng Bằng La, Đồng Khê (huyện Văn Chấn); Lâm
Thượng, Khánh Thiện... (huyện Lục Yên); Việt Hồng, Hồng Ca... (huyện Trấn Yên)...
Người Tày sinh sống ở Yên Bái đã từ lâu đời. Một số người Tày ở huyện
Văn Yên di cư từ Lạng Sơn sang Yên Bái từ trước cách mạng tháng Tám năm
1945. Một số người Tày ở các huyện Văn Chấn, Trấn Yên có gốc người Việt di cư
từ các tỉnh Nam Định, Hà Nam, Hải Dương, Nghệ An lên Yên Bái, do nhiều
nguyên nhân khác nhau mà dần dần đã Tày hoá. Bộ phận người Tày ở vùng Lục
Yên mang nhiều giá trị văn hoá độc đáo riêng biệt so với người Tày ở vùng Văn
Chấn, Trấn Yên và khác biệt so với người Tày ở vùng Đông Bắc Việt Nam.
+ Về kinh tế chính của người Tày ở Yên Bái là nền kinh tế nông nghiệp,
đồng bào làm ruộng nước kết hợp với săn bắt và chăn nuôi. Với truyền thống lâu
đời cùng với sự cần cù, sáng tạo trong lao động và tiếp thu khoa học kỹ thuật mới
rất nhanh nên nông nghiệp của người Tày phát triển tương đối cao. Năng suất lúa
đạt 9 - 10 tấn/ha/năm. Cùng với việc thâm canh tốt 2 vụ lúa, đưa giống mới vào
sản xuất, tăng vụ ngô đông, đồng bào Tày phát triển mạnh chăn nuôi gia súc, gia
cầm; tích cực phát triển nghề rừng và trồng mới các loại cây công nghiệp như: chè,
quế, sắn. Nghề thủ công truyền thống như trồng bông dệt vải đã phát triển từ rất
sớm, nghề nuôi tằm để lấy tơ dệt dây dao Slaicha cũng có mặt trong văn hoá của
người Tày nơi đây từ lâu. Hoa văn dệt trên vải thổ cẩm phong phú, đa dạng, riêng
dây dao gồm hai mươi bảy hình tượng, mỗi hình gắn với một truyện dân gian có
60
nội dung giáo dục tình người sâu sắc. Nghề làm giấy dó, nghề đan lát, nghề mộc,
nghề rèn, nghề đục đá phát triển khá cao.
+ Về văn hoá: Đồng bào Tày Yên Bái có phong cách sống sôi nổi, mạnh mẽ,
lãng mạn. Những dịp tết Nguyên đán, lễ hội Lồng Tồng, lễ Tăm Khảu Mảu, lễ cưới
của bạn bè, họ hát giao duyên Slípsí suốt ngày đêm. Những bài Khắp cọi được duy
trì từ đời này sang đời khác. Thiếu nữ, thanh nữ Tày xinh xắn với những lễ phục cổ
truyền màu đen, khoẻ mạnh, má ửng hồng, đánh còn, đánh yến đến với những lễ
hội hồn nhiên chân thực càng làm tăng thêm vẻ đẹp của cộng đồng.
Trang phục của người Tày chủ yếu bằng vải bông nhuộm chàm đen cho cả
nam, nữ và trẻ em, ít hoặc không trang trí hoa văn. Phụ nữ Tày mặc áo năm thân có
thắt lưng bằng vải chàm gấp lại buộc phía sau, đi đôi với váy trong dịp cưới, ngày
lễ và tết. Ngày thường mặc áo ngắn với váy hoặc quần, áo ngắn may không cổ kiểu
giống áo bà ba. Đàn ông mặc áo tứ thân cổ tròn, khuy vải hoặc cúc và quần lá tọa, y
phục này người lớn tuổi thường dùng, thanh thiếu niên hiện nay mặc như người
Kinh. Phụ nữ thường đội khăn nhuộm chàm, khăn vuông gấp xéo, có hai dải vải đỏ
nhỏ buộc về phía trước trán, đuôi khăn lật về phía sau. Đàn ông chỉ đội khăn xếp
dịp lễ tết, đặc biệt là lễ đón dâu, hoặc đi ở rể. Đồ trang sức chủ yếu dùng chất liệu
bằng bạc, như vòng cổ của trẻ con, vòng tay của phụ nữ, dây xà tích...
Trong quá trình giao lưu văn hoá Kinh - Tày, Hán - Tày, nhiều cốt truyện đã
được chuyển thể sang Nôm Tày như Tống Trân Cúc Hoa, Phạm Tải Ngọc Hoa...
đồng thời, người Tày đã sáng tạo ra những kiệt tác như Khảm Hải (Vượt biển),
nhiều bài khắp cọi, Phongslư, Pụt, hát quan làng (Hát đón dâu) có giá trị nhân văn
sâu sắc.
Hôn nhân của người Tày được tiến hành qua nhiều nghi thức độc đáo và đặc
sắc, nhiều hình thức sinh hoạt văn hoá truyền thống được thực hiện trong đám cưới
truyền thống mà trong đó hát quan làng (hát trong đám cưới của ông mối) là một
trong những nghi thức sinh hoạt đặc sắc nhất vẫn còn được lưu giữ cho tới ngày
nay. Lễ cưới truyền thống từ khi làm quen được với nhau sẽ trải qua các giai đoạn
chủ yếu, thưa chuyện với gia đình thông qua bước trung gian là quan làng (ông
mối) xem ngày qua thầy cúng lễ Slicay (lễ bốn gà), lễ cưới, lễ lại mặt, tết quan
làng. Các bước này tiến hành hàng năm trời có khi đến 3 năm.
61
Tang lễ của người Tày với những nghi thức và chịu ảnh hưởng nhiều của
tam giáo. Nhiều giá trị nhân văn được thể hiện thông qua tang ma truyền thống của
đồng bào. Tang lễ truyền thống của người Tày ở Yên Bái tích hợp nhiều giá trị
nghệ thuật dân gian đặc sắc như nghệ thuật tranh cắt giấy (qua nhà táng), nghệ
thuật trình diễn dân gian, nghệ thuật trang trí… Tuy nhiên, ở những bản xa các
trung tâm xã, đời sống của nhân dân còn khó khăn, đôi khi tang lễ cũng ảnh hưởng
rất nhiều đến sản xuất và phát triển kinh tế gia đình.
Nền mỹ thuật đặc sắc của người Tày Yên Bái từ ngàn xưa nay được bảo lưu
trên thổ cẩm như hoạ tiết trên màn che Phứn mản, mặt gối mon thu, mặt địu nả đa,
dây dao Slaichạ, y phục thầy cúng, y phục Pụt. Đặc biệt là bộ tranh thờ của thầy
cúng từ 7 đến 12 tờ với những hình tượng người, quỷ, con vật sinh động.
- Dân tộc Dao: Trong các dân tộc anh em sinh sống ở Yên Bái, người Dao là
dân tộc có dân số khá đông, hiện nay có khoảng 62.000 người, chiếm 10,31% dân
số toàn tỉnh. Địa bàn cư trú của người Dao chủ yếu ở rẻo giữa - vùng tiếp giáp giữa
vùng thấp và vùng cao. Người Dao sống tập trung đông nhất ở huyện Văn Yên,
chiếm đến hơn 30% tổng số người Dao ở Yên Bái, sau đó đến các huyện Yên Bình,
Lục Yên, Văn Chấn và Trấn Yên. Các xã có đồng bào Dao cư trú là: Xuân Tầm,
Mỏ Vàng, Viễn Sơn, Đại Sơn, Lang Thíp, Châu Quế Thượng (huyện Văn Yên);
Bảo Ái, Phúc An, Tân Nguyên, Yên Thành, Tân Hương, Cảm Nhân, Tích Cốc, Vũ
Linh, Bạch Hà, Vĩnh Kiên (huyện Yên Bình); Tân Lĩnh, Phúc Lợi, Phan Thanh,
Trung Tâm, Tân Phượng, Động Quan (huyện Lục Yên); Lương Thịnh, Y Can, Tân
Đồng, Kiên Thành (huyện Trấn Yên); Minh An, Nậm Mười, Suối Quyền, An
Lương, Nậm Lành, Nậm Búng (huyện Văn Chấn), các xã có đông người Dao sinh
sống chủ yếu là ở phía thượng huyện Văn Yên, là địa bàn tiếp giáp giữa các huyện
Văn Chấn và Văn Yên, huyện Văn Chấn và Trấn Yên, thuộc phía Tây bắc và Đông
bắc huyện Yên Bình, vùng giáp ranh giữa huyện Lục Yên và Yên Bình, vùng giáp
ranh giữa huyện Lục Yên và huyện Bảo Yên (tỉnh Lào Cai) [9, tr.27].
Người Dao hiện sinh sống ở tỉnh Yên Bái có 4 nhóm chính là: Dao Đỏ (còn
gọi là Dao Sừng, Dao Đại Bản), Dao Quần Chẹt (còn gọi là Dao Nga Hoàng, Dao
Sơn Đầu), Dao Quần Trắng và Dao Làn Tuyển (còn gọi là Dao Tuyển). Để phân
biệt các nhóm Dao, chủ yếu dựa vào sự khác nhau trong bộ trang phục của phụ nữ.
62
Phụ nữ Dao đỏ có đặc điểm dễ nhận thấy là dùng rất nhiều màu đỏ, nhiều tua và
núm bông đỏ.
+ Hình thái kinh tế chủ yếu của người Dao ở Yên Bái là sản xuất nông
nghiệp với hai loại hình: lúa nương và lúa nước. Trong đó lúa nước chiếm tỷ lệ ít
hơn. Ngoài ra, đồng bào còn trồng một số loại cây hoa màu như ngô, sắn... Rau của
người Dao có các loại bầu, bí, mướp đắng, các cây họ đậu, khoai, củ từ, dưa gang...
Đặc biệt ở người Dao Yên Bái phát triển mạnh 2 loại cây công nghiệp đó là cây quế
và cây chè. Cây quế là cây trồng truyền thống của đồng bào Dao ở huyện Văn Yên,
khi sinh con gái bố mẹ lại trồng thêm quế dành làm của hồi môn, khi sinh con trai
cũng trồng thêm quế làm của để dành cho con. Ngoài cây lúa, hoa màu và quế, chè
người Dao Yên Bái còn có thu nhập thêm từ chăn nuôi trâu, bò, lợn, gà...
+ Về văn hoá: Đồng bào dựng nhà gần các con suối và ở tập trung thành từng
bản riêng biệt hoặc xen cư với các dân tộc anh em khác. Ở người Dao Yên Bái hội tụ
đầy đủ 3 loại hình nhà ở đó là: nhà sàn của người Dao quần trắng, nhà đất của người
Dao đỏ và nhà nửa sàn nửa đất của người Dao Quần Chẹt và Dao Tuyển. Hiện nay,
những gia đình người Dao có cuộc sống khá giả đã xây nhà theo kiểu mới.
Trong sinh hoạt xã hội - gia đình của người Dao ở Yên Bái, “Cấp sắc” là một
tục lệ phổ biến và bắt buộc tất cả đàn ông Dao đều phải qua lễ này, thậm chí lúc
còn sống chưa được cấp sắc sau khi chết con cháu phải làm lễ cho, đây là một nghi
thức của tàn dư lễ thành đinh. Đồng bào Dao quan niệm: Người nào được cấp sắc
được nhận là con cháu của Bàn Vương; người được cấp sắc mới được xã hội coi là
người lớn, được cấp sắc thì làm ăn mới may mắn, dòng họ mới được phát triển và
đặc biệt, nếu muốn làm được nghề thầy cúng thì bắt buộc phải qua lễ cấp sắc, sau lễ
cấp sắc, người được cấp sắc sẽ có một tên mới gọi là tên âm, cho tới khi chết các
thầy cúng sẽ gọi tên cấp sắc mà không sử dụng tên như khi còn sống thường ngày.
Các nhóm người Dao ở Yên Bái đều có vốn thơ ca dân gian rất phong phú,
đồng bào hát (Pả dung) ca ngợi tình yêu lứa đôi, yêu thiên nhiên, thế giới động vật
dưới nhiều hình thức sinh hoạt phong phú và còn gắn vào những bài hát giáo lý, xã
hội, gia đình. Người Dao có rất nhiều chuyện cổ tích kể về mọi hiện tượng xảy ra
trong xã hội, thiên nhiên. Các câu chuyện đều mang tính giáo dục sâu sắc, anh em
phải sống hòa thuận - yêu thương nhau.
63
- Dân tộc Hmông ở Yên Bái có khoảng 55.000 người, chiếm 8,9% dân số
toàn tỉnh, cư trú tập trung tại 40 xã vùng cao, đặc biệt khó khăn thuộc 5 huyện: Mù
Cang Chải, Trạm Tấu, Văn Chấn, Văn Yên, Trấn Yên, Lục Yên. Tại huyện Mù
Cang Chải, đồng bào cư trú ở 13/13 xã, chiếm 95% dân số toàn huyện; tại huyện
Trạm Tấu, 10/11 xã (trừ xã Hát Lừu) có đồng bào Hmông sinh sống, chiếm 70%
dân số toàn huyện. Tỉnh Yên Bái có 22/40 xã hoàn toàn là người Hmông. Các xã
còn lại đồng bào sống xen kẽ với các dân tộc anh em khác.
Dân tộc Hmông ở Yên Bái chủ yếu gồm 4 nhóm chính là: Hmông Hoa
(Mông Lềnh); Hmông Đen (Mông Đu) và Hmông Trắng (Hmông Đơ) và Hmông
Si (Hmông Đỏ). Trong đó người Hmông Hoa và Hmông Si chiếm số lượng đông
hơn cả. Một bộ phận người Hmông Hoa di cư từ huyện Bắc Hà tỉnh Lào Cai xuống
định cư tại huyện Văn Yên mang nhiều đặc trưng văn hoá của cư dân vùng biên
viễn. Tiếng nói của người Hmông thuộc nhóm ngôn ngữ Mông - Dao (dòng ngôn
ngữ Nam Á).
Những nhóm Hmông đầu tiên di cư đến Việt Nam cách đây trên 300 năm,
trong đó, có một số đồng bào Hmông đã chọn huyện Mù Cang Chải làm điểm dừng
chân, lập kế sinh nhai, lấy tên là “Xáo Hmông”; sau đó mở rộng địa bàn sinh sống
sang các huyện Trạm Tấu, Văn Chấn. Gần đây có một phần đồng bào Mông di
chuyển từ Lào Cai, Hà Giang, Sơn La sang.
+ Về kinh tế: Địa hình là vùng núi cao, vùng đầu nguồn, khí hậu khắc nghiệt,
thiếu nước sản xuất và sinh hoạt đã quyết định hình thái sản xuất của người
Hmông. Nông nghiệp trồng trọt là nguồn sống chính của đồng bào. Do vùng đồng
bào Hmông sinh sống về mùa đông khô hạn và giá lạnh giá kéo dài, có sương muối,
hai huyện phía Tây tỉnh là Trạm Tấu, Mù Cang Chải còn bị ảnh hưởng bởi gió tây
khô nóng nên mùa vụ trồng trọt và năng suất cây trồng của người Hmông chịu
nhiều ảnh hưởng của thiên nhiên. Trước đây người Hmông ở Yên Bái chỉ trồng một
vụ lúa do điều kiện canh tác rất khó khăn nhưng những năm gần đây, đồng bào đã
ứng dụng khoa học kỹ thuật, cải tạo đất và được sự đầu tư của Nhà nước xây dựng
các công trình thuỷ lợi nên số ruộng 2 vụ đã dần dần tăng lên. Đồng bào Hmông có
kinh nghiệm làm ruộng bậc thang với trình độ canh tác thông thạo, có những thửa
ruộng bậc thang cheo leo trên sườn núi chỉ đủ 1 - 2 đường bừa.
64
Đồng bào Hmông Yên Bái đã và đang phát huy khả năng cần cù lao động,
cải tạo đất, thâm canh tăng vụ, đưa giống ngô mới và khoai tây vào gieo trồng bước
đầu cho năng suất khá, sản lượng lương thực của đồng bào được tăng lên. Những
tiềm năng thế mạnh của người Hmông ở Yên Bái là: nghề rừng, chăn nuôi đại gia
súc, trồng cây đặc sản và cây công nghiệp ngắn ngày. Đồng bào đã khai thác được
một số cây con thế mạnh như: cây chè tuyết Shan đặc sản, cây sơn tra, thảo quả,
chăn nuôi trâu, bò, ngựa, ong. Đặc biệt, đồng bào đã xây dựng được những điển
hình là: phát triển ruộng bậc thang kết hợp với bảo vệ rừng ở nhiều xã thuộc huyện
Mù Cang Chải; khai hoang ruộng nước kết hợp phát triển cây chè đặc sản của vùng
cao như ở các xã: Suối Giàng, Suối Bu (huyện Văn Chấn) Púng Luông, Nậm Khắt
(huyện Mù Cang Chải), Phình Hồ (huyện Trạm Tấu); làm ruộng, nương kết hợp
với phát triển cây quế đặc sản ở các xã Nà Hẩu, Mỏ Vàng (huyện Văn Yên)... Nhờ
đó, đời sống của đồng bào Hmông Yên Bái đã từng bước ổn định và dần phát triển.
Người Hmông có nghề rèn rất nổi tiếng với kỹ thuật cao, đồng bào tự rèn dao,
cuốc, tự đúc lưỡi cày và đồ trang sức của phụ nữ, đúc nhạc ngựa, chuông bò...
Đồng bào còn làm các đồ dùng sinh hoạt trong gia đình bằng gỗ như: thìa, bát,
thùng, chậu… đan lát các đồ dùng như “Lù cở” (chiếc gùi), “Cáng chủa” (dụng cụ
mang vác đồ), giỏ đựng cơm đi nương...
+ Về văn hoá: Do đặc điểm cư trú biệt lập nên người Hmông ít có quan hệ
với dân tộc khác. Nếu có sống trên địa bàn xen cư với dân tộc khác thì người
Hmông sống quần tụ lại với nhau thành thôn, bản riêng. Đồng bào HMông ở nhà
đất, nguyên liệu chủ yếu là gỗ, mái nhà thường lợp bằng gỗ Pơ mu chẻ mỏng và
hiện nay đã có một số nhà lợp mái phibrôximăng.
Người Hmông ở Yên Bái có tín ngưỡng dân gian vô cùng phong phú và đặc
sắc, ngoài thờ cúng tổ tiên, trong phạm vi ngôi nhà đồng bào còn thờ cả một hệ
thống các thần bảo hộ gia đình, bảo vệ cho các thành viên trong nhà và của cải vật
chất theo các quan niệm dân gian như thờ thần tài (xử cang - bàn thờ đặt chính giữa
gian nhà chính), thần cột nhà “Bùa đăng”, thần cửa “Bùa trùng”, thần bếp lò, thần
bếp nấu ăn, thần bảo hộ thầy thuốc (của giêng các gia đình có nghề bốc thuốc
nam), thần bảo hộ cho thầy cúng… Tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên của người Hmông
đặc biệt quan trọng và khác so với một số dân tộc thiểu số khác, đồng bào không có
bàn thờ tổ tiên riêng mà mỗi khi có lễ cúng tổ tiên hay trong các dịp hệ trọng của
65
gia đình người dân lập một bàn thờ cúng tổ tiên tại chính giữa ngôi nhà trước bàn
thờ thần tài “xử cang”, sau lễ cúng bàn thờ tổ tiên được bỏ đi.
Người Hmông có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú, vào mùa
xuân, các dịp tết Hmông (Khoảng từ 30/11 âm lịch) hay trong các lễ cưới truyền
thống người Hmông đều hát dân ca và múa khèn. Trong các làn điệu dân ca, đặc
biệt nhất là loại hát kể chuyện lịch sử dân tộc gọi là hát “Thản chù”. Người Hmông
có hát “Gầu Phềnh” - trai gái hát trong khi chơi Pa Pao, hát qua sợi chỉ nối với hai
ống nứa bịt da ếch cho riêng hai người. Trong đám cưới còn có hát đố, hát giải.
Cùng với hát, người Hmông còn có múa khèn rất đặc sắc. Trong hội “Gầu Tào”,
múa khèn là nghi lễ mở hội. Ngoài khèn bè, người Hmông còn sử dụng đàn môi,
khèn lá, kéo nhị, thổi sáo…
- Dân tộc Thái: Dân tộc Thái có khoảng 41.000 người chiếm 6,7% dân số tỉnh
Yên Bái, 4 đơn vị hành chính phía Tây tỉnh là thị xã Nghĩa Lộ, các huyện: Văn Chấn,
Trạm Tấu, Mù Cang Chải là nơi người Thái tập trung sinh sống nhưng đông hơn cả
là ở 11 xã gồm: Tú Lệ, Hạnh Sơn, Phúc Sơn, Thanh Lương, Phù Nham, Sơn A, Sơn
Lương, Gia Hội và Nghĩa Phúc (huyện Văn Chấn), Nghĩa An, Nghĩa Lợi (thị xã
Nghĩa Lộ) [29, tr.47]. Riêng người Thái sinh sống ở Văn Chấn chiếm 89,6% tổng số
người Thái ở Yên Bái. Ngoài ra, người Thái còn có ở 4 phường của thị xã Nghĩa Lộ;
xã Hát Lừu (huyện Trạm Tấu) và một số ít ở huyện Mù Cang Chải.
+ Về kinh tế: Cộng đồng người Thái sống tập trung thành bản mường ở các
thung lũng lòng chảo, không cách xa nhau, thích nghi với sở trường trồng lúa nước,
trồng bông, dệt vải thổ cẩm. Một phần nhờ có truyền thống văn minh lúa nước của
người Thái mà Yên Bái có được cánh đồng nổi tiếng là Mường Lò, Tú Lệ hay
Mường Than, Mường Tấc trước đây. Lúa nước là nguồn lương thực chính, đặc biệt
người Thái sử dụng nhiều lúa nếp. Người Thái có nhiều kinh nghiệm đắp phai, tạo
mương, bắc máng đưa nước vào ruộng. Một phần thu nhập nữa là do chăn nuôi gia
súc, thủy sản. Cá ruộng là yếu tố đặc sắc của văn hóa Tày - Thái. Nghề thủ công
truyền thống của đồng bào Thái là làm đệm bông lau, dệt vải thổ cẩm với những
họa tiết hoa văn độc đáo, màu sắc rực rỡ và có chất lượng tốt.
Kinh tế truyền thống của người Thái Mường Lò là nền kinh tế trồng trọt và
chăn nuôi. Với điều kiện tự nhiên thuận lợi quanh năm mưa thuận gió hoà kết hợp
với các kỹ thuật canh tác truyền thống (Người Thái đen nơi đây nổi tiếng với các
66
kỹ thuật canh tác như các phương pháp "dẫn thuỷ nhập điền" bằng hệ thống mương
- phai - lái - lín, mà trong đó chiếc cọn nước là một phát minh lớn của đồng bào
trong việc lợi dụng chính sức nước để đưa nước từ thấp lên cao, bằng phương pháp
"Hoả - Canh - Thuỷ - Nậu" (đốt rơm rạ cày bừa sản xuất nông nghiệp”. Cùng với
trồng trọt thì chăn nuôi cũng được phát triển rất mạnh tại đây, như trâu, bò, dê, ngựa…
Bên cạnh gia súc, thì gia cầm, thuỷ cầm là nguồn thực phẩm chính được chăn nuôi để
cải thiện các bữa ăn hàng ngày nhất là trong các dịp lễ, tết, hội. Trước đây săn bắt hái
lượm đã mang lại nguồn thực phẩm chủ yếu cho đồng bào, ngày nay nghề săn bắt cá
vẫn còn khá phổ biến trong cộng đồng người Thái ở Mường Lò với nhiều kỹ thuật đánh
bắt điêu luyện. Người Thái Mường Lò phát triển nhiều nghề thủ công truyền thống
trước hết để phục vụ cho nhu cầu tiêu dùng của gia đình sau đó dùng để trao đổi
hàng hoá với các dân tộc khác. Đến nay, tại vùng Mường Lò, nghề dệt thổ cẩm,
thêu may quần áo thổ cẩm, chăn đệm, gối bông lau và các đồ dùng gia dụng khác
phát triển khá mạnh. Các nghề thủ công truyền thống khác như đan lát, rèn đúc,
mộc cũng được phát triển nhanh, các sản phẩm của đồng bào tự làm ra có giá trị
khá cao cả về thẩm mỹ, văn hoá và giá trị sử dụng.
+ Về văn hoá: Lễ hội dân gian là một phần thiết yếu trong sinh hoạt văn hoá
tín ngưỡng của người Thái vùng Mường Lò, theo chu kỳ một năm, đồng bào có
nhiều lễ hội lớn mang tính chất cộng động làng bản như; lễ xên bản, xên mường,
xên đông, lễ hội cầu mưa, lễ hội xuống đồng, lễ hội xên lẩu nó, lễ hội xé then…
cho tới các lễ hội trong phạm vi gia đình như các nghi thức cúng vía “tám khuôn”,
các lễ cúng ruộng “tám tế na”, cúng vía trâu “tám khuôn quai” hay các nghi thức
khác liên quan tới thờ cúng tổ tiên và các nghi thức gia đình mà trong đó tết “Síp
xí” rằm tháng bảy là một trong những tết lớn nhất của người Thái ở Yên Bái.
Người Thái Yên Bái có kho tàng nghệ thuật dân gian rất phong phú. Các làn
điệu dân ca, dân vũ, sinh hoạt văn hoá dân gian được tổ chức thường xuyên trong
đời sống hàng ngày của người dân. “ Khắp”, “Then” được thể hiện trong các hội
xuân, hát gọi người yêu, đám cưới, đám tang. Đồng bào Thái Mường Lò có phong
cách sống bình lặng nhưng lãng mạng, yêu thích các sinh hoạt cộng đồng, sẵn sàng
tham gia các cuộc vui nhất là các đêm “khắp báo xao” (hát đối đáp), hội xòe, hội
nàng Han, hội chơi hang Thẩm Lé vào tháng giêng, nhiều trò chơi như “Hạn
khuống”, ném còn, đánh yến, “Tómáklẹ” (chọi quả lẹ)...
67
Văn học Thái khá phong phú, sinh động, hấp dẫn. Ngoài các thiên tình ca
nổi tiếng như “Sóng trụ xôn xao” (tiễn dặn người yêu), tản chụ siết sương...các
cuốn biên sử, thi sử bằng chữ Thái như: Quăm Tố Mương (chuyện kể bản mường),
Cầm Hánh Tạp sấc klơng (Cầm Hánh đánh giặc cờ vàng)... nói lên lịch sử di thiên
và truyền thống văn hoá của đồng bào Thái vùng Nghĩa Lộ - Văn Chấn. Tắm suối
là tập quán lâu đời của đồng bào Thái nhất là đối với phụ nữ và thiếu nữ. Suối
Nung, suối nước nóng ở Sơn A, Tú lệ là nơi diễn ra sinh hoạt văn hóa có nhiều nét
riêng biệt này.
- Dân tộc Nùng: Dân tộc Nùng ở Yên Bái có khoảng 13.000 người chiếm
1,86% dân số toàn tỉnh cư trú xen kẽ với các dân tộc Tày, Mường, Kinh, Dao, Sán
Chay,... ở rải rác hầu hết các huyện trong tỉnh. Nơi tập trung đông nhất là huyện
Lục Yên và huyện Yên Bình. Tại huyện Lục Yên đồng bào Nùng cư trú tại xã
24/24 xã. Tập trung ở các xã Phan Thanh: 65%; Khánh Hòa: 33%; Liễu Đô: 26%;
Yên Thắng: 16% dân số của xã. Tại huyện Yên Bình, đồng bào Nùng cư trú tập
trung ở các xã Tân Nguyên, Bảo Ái, Cẩm Ân, Xuân Lai, Phúc Ninh, thị trấn Yên
Bình [29, tr.55].
+ Về kinh tế: Do địa bàn cư trú của người Nùng ở nơi có nhiều rừng, núi và ở
khoảng giữa là thung lũng lòng chảo nên đồng bào Nùng rất thành thạo trong khai
thác đất đồi, làm nương rẫy; đất bằng đồng bào trồng lúa nước. Nguồn sống chính
của đồng bào Nùng Yên Bái dựa vào cây lúa: lúa nước và lúa nương. Đồng bào
dùng công cụ có sức kéo như cày, bừa,... hệ thống cọn nước, mương tưới nước cho
ruộng... kết hợp với khoa học kỹ thuật mới, thâm canh tăng vụ, sử dụng giống mới,
phân hóa học, thuốc trừ sâu, cải tạo vườn tạp, trồng các loại cây công nghiệp, cây
ăn quả có giá trị kinh tế cao nên hiệu quả kinh tế trên đất canh tác đã được nâng lên
rất nhiều. Ngoài nguồn lương thực thu được từ cây lúa, đồng bào Nùng còn có thu
được nhiều sản phẩm nông sản như ngô, sắn và các hoa màu khác. Nguồn thu chủ
lực của gia đình người Nùng phải kể đến chăn nuôi. Đồng bào phát triển chăn nuôi
cả trên cạn và dưới nước. Gia súc như trâu, bò, lợn và gia cầm như gà, vịt, ngan là
vật nuôi phổ biến. Diện tích mặt nước đồng bào dùng để nuôi cá, vịt, ngan, ngỗng.
Do sản xuất phát triển, giao lưu hàng hóa mở rộng và được Nhà nước đầu tư, hỗ trợ
xây dựng cơ sở hạ tầng nên đời sống người Nùng ngày càng được cải thiện. Nhiều
68
hộ vươn lên có mức sống khá, sắm sửa các tiện ghi đắt tiền phục vụ sản xuất và đời
sống như: xe ô tô tải, máy xát liên hoàn, xuồng máy, xe máy, ti vi, radiô...
+ Về văn hoá: Cưới xin là việc trăm năm của con người, do vậy đồng bào
Nùng rất coi trọng việc thực hiện các nghi lễ, trai gái Nùng đến tuổi se duyên phải
được làm các lễ chính là: lễ dạm hỏi “Khắm lùa” là lễ thăm dò thái độ của nhà gái
do nhà trai chủ động tiến hành; lễ “Au mình” nhà trai trả lời chính thức, nhà trai xin
tuổi cô gái về để so tuổi với chàng trai; lễ “Mình hom”: hai nhà thỏa thuận về thời
gian - lễ vật để làm lễ đính hôn; lễ “khả cáy”: là lễ đính hôn chính thức. Trong tục
lệ cưới xin, vai trò của ông mối, bà mối hết sức quan trọng. Tổ chức xong đám
cưới, theo tục lệ họ trở thành bố mẹ nuôi của cô dâu, chú rể. Đôi vợ chồng này phải
có trách nhiệm như đối với cha mẹ đẻ mình.
- Dân tộc Mường: Chiếm 1,92% dân số toàn tỉnh, sống tập trung ở 11 xã của
huyện Văn Chấn, thị xã Nghĩa Lộ và xã Quy Mông của huyện Trấn Yên, ngoài ra
còn cư trú rải rác ở các huyện, thị xã trong tỉnh [29, tr.55]. Người Mông ở Yên Bái
chủ yếu di cư từ huyện Thanh Sơn (Phú Thọ) lên từ 300 - 400 năm trước, một số ít
di cư từ huyện Phù Yên (tỉnh Sơn La) sang.
+ Về kinh tế: Đồng bào Mường Yên Bái cư trú chủ yếu trên các thung lũng
ven suối, nguồn sống chính của đồng bào dựa vào nông nghiệp, trong đó phần lớn
làm ruộng nước. Lúa nước là cây lương thực chính. Ngoài ra cũng làm thêm nương
rẫy và trồng các loại cây màu khác như: ngô, khoai, sắn. Đồng bào Mường có nhiều
kinh nghiệm làm thủy lợi nhỏ. Để đưa nước vào đồng ruộng, đồng bào thường đắp
mương, phai, làm cọn nước. Trước đây hoa màu chủ yếu trồng trên nương nhưng
nay đồng bào đã tận dụng thời gian giữa 2 vụ xuân của đất ruộng trồng thêm vụ
màu. Cùng với sự cần cù, sáng tạo trong lao động và ứng dụng các khoa học, kỹ
thuật, đưa giống mới vào đồng ruộng, ở nhiều nơi đồng bào đã chuyển từ 2 vụ sang
3 vụ lúa màu/năm. Năng suất lúa ruộng đạt bình quân đạt 7-8 tấn/ha, có xã đạt 10
tấn/ha, vụ ngô đông cũng cho năng suất khá cao: 35 tạ/ha.
Những năm gần đây thực hiện chính sách giao đất giao rừng của Nhà nước,
đồng bào Mường đã tích cực phát triển nghề rừng, trồng các loại cây công nghiệp
như chè, quế, cà phê, chăn nuôi gia súc, gia cầm như: lợn, gà, trâu, bò... góp phần
tăng thu nhập, cải thiện đời sống của đồng bào. Người Mường ở thị xã Nghĩa Lộ
còn có thêm thu nhập từ nghề dệt thổ cẩm truyền thống.
69
+ Về văn hoá: Dân tộc Mường có nền văn hóa khá phong phú và đặc sắc.
Đồng bào thường ở nhà sàn, dáng nhà chững chạc bề thế, thường từ ba đến năm
gian, lợp ván thông hoặc gianh. Nếu nhà sàn Thái có Khau Cút làm biểu tượng thì
đặc điểm ở nhà sàn Mường là có 2 cầu thang, cầu thang chính đối diện cổng vào, có
hàng song trông như những tấm mắt cáo, hàng song vừa có ý nghĩa giữ an toàn cho
người, vừa có ý nghĩa trang trí mỹ thuật. Còn cầu thang phụ ở phía cuối nhà chủ
yếu để phụ nữ đi lại.
Trang phục của nam giới thông thường như người Tày, người Thái, quần áo
sơi cánh chàm gài khuy vải, còn trang phục phụ nữ rất giống phụ nữ Thái đen: áo
Xửa cỏm (thiếu nữ mặc màu trắng, tuổi trung niên màu đen), thắt lưng xanh Xài ẻo,
dây bạc xà tích, váy lụa đen. Các nét khác là: Cổ áo trước đây hình chữ V, nay
chuyển sang cổ đứng, quanh cổ áo cỏm đứng viền một lượt vải màu xanh hoặc đỏ,
hàng cúc thường mang hình đôi ve sầu trông thô đậm hơn đôi bướm. Thiếu nữ
không có khăn Piêu, phụ nữ không có tục Tằng cẩu mà đội khăn đen hai đầu khăn
khâu chỉ đỏ, chỉ trắng, chỉ xanh; váy lụa đen dài hơn váy Thái kéo cao đến nách và
có cạp màu vải xanh đỏ, trên và dưới gấu váy. Như vậy trang phục phụ nữ Mường
Văn Chấn - Yên Bái có ảnh hưởng nhiều của trang phục Thái đen trên cùng địa bàn
sinh sống.
Các điệu múa đặc trưng của đồng bào Mường Yên Bái là múa mỡi, múa
nàng tiên, múa trống tu. Sau tết mọi người cùng tổ chức vui múa mừng năm mới có
nhiều điều tốt đẹp. Đối tượng được mời trong điệu múa là thầy mo, mời thầy mo ra
sàn diễn uống rượu và cùng nhẩy múa. Nhạc cụ phục vụ cho múa là bốn ống nứa
do bốn diễn viên cầm dùng đầu ống xuống sàn nhà được tạo thành âm thanh; một
chiếc trống cái và một chiêng đồng đánh theo nhịp múa; một cây bông làm bằng
giấy hoặc vải và một mâm hoa quả có hương nhụy làm tăng sự linh thiêng cho các
đường múa của vị mường mo. Mọi người vui vẻ múa vòng quanh thầy mo, diễn
viên khéo léo mô phỏng thể hiện các động tác trồng lúa, gặt lúa, mời cơm, mời
rượu, rồi một số động tác săn bắn, bắt cá suối, trồng bông dệt vải v.v... còn thầy mo
thì làm động tác ngồi uống rượu nghiêng ngả theo các nhịp múa. Múa mỡi thể hiện
chất lãng mạn của con người, con người luôn cầu mong có thần linh phù trợ để hòa
nhập với trời đất làm cho mùa màng tươi tốt, chim thú đầy đồng, đầy sân, nhà nhà
70
vui tươi khỏe mạnh. Ngoài múa mỡi người Mường thường sử dụng nhạc cụ độc đáo
như: đàn môi, dây nói ví, pí ôi, đàn tính có giai điệu riêng...
Văn học dân tộc Mường Việt Nam nói chung rất nổi tiếng. Bộ sử thi: Đẻ đất
đẻ nước, bộ mo thi mo Mường và bộ đang “vần va” có ảnh hưởng sâu sắc đến
người Mường ở các địa phương. Đồng bào Mường Yên Bái coi các bộ thi ca trên là
niềm tự hào của dân tộc mình và truyền tụng chúng rộng rãi trong dân gian. Các
nghệ nhân Mường Ao Luông (xã Sơn A - Văn Chấn) nay vẫn thuộc và hát những
chương trong “Đẻ đất, đẻ nước” hay “vần va”. Bên cạnh kho tàng văn nghệ dân
gian chung của cả dân tộc, người Mường ở Văn Chấn còn có sự tích Ao Luông,
truyện Nàng Han, Truyện kể về các Mường như: Mường Cúc, Mường Đồng,
Mường Sang, Mường Át... Đồng bào còn có nhiều điệu múa hát cổ truyền như hát
đang, hát ví...
- Dân tộc Giáy: Người Giáy chiếm 0,3% dân số toàn tỉnh, họ sống tập trung
tại xã Gia Hội huyện Văn Chấn [29, tr.80]. Người Giáy không có chữ viết riêng,
một số rất ít người già, thầy cúng sử dụng thành thạo chữ Nôm Tày, còn đa phần trí
nhớ là phương tiện duy nhất để lưu truyền qua chuyện cổ, tục ngữ, thơ ca, đồng
dao, câu đố… nội dung các bài hát của Người Giáy phong phú về đề tài hát giao
duyên, mỗi chủ đề đều có kịch tính và phong cách thể hiện riêng. Đồng bào Giáy
sống hoà thuận, tôn trọng tập quán dân tộc khác, không có tính biệt lập dân tộc
riêng, họ luôn sát cánh cùng các dân tộc khác, cần cù lao động sáng tạo, xây dựng
quê hương.
- Dân tộc Khơ Mú: Người Khơ Mú ở Yên Bái có rất ít khoảng trên 1000
người, theo các nhà nghiên cứu, người Khơ Mú di cư từ Lào đến Việt Nam khoảng
trên 100 năm [29, tr.84]. Người Khơ Mú từ Lào đến Sơn La, Lai Châu rồi tời Nghĩa
Sơn, huyện Văn Chấn tỉnh Yên Bái.
+ Về kinh tế: Địa hình cư trú người Khơ Mú ở xã Nghĩa Sơn chủ yếu là núi
cao, đất dốc, ít có nơi phù hợp để khai phá làm ruộng nước. Nền kinh tế chính của
người Khơ Mú nơi đây là kinh tế nương rẫy, đồng bào sống chủ yếu bằng nương
rẫy, mới khai phá và trồng thêm lúa nước từ năm 1960 trở lại đây. Mặc dù diện tích
trồng lúa nương nhiều gấp 5 lần diện tích lúa nước, song năng suất lúa nương lại
thấp hơn: bình quân chỉ đạt 8 - 9 tạ/ha và chỉ làm được 1 vụ lúa/năm. Lúa nước làm
2 vụ, năng suất trung bình 4 tấn/ha.
71
Ngoài nguồn thu từ cây lúa, đồng bào Khơ Mú còn trồng các hoa màu khác
như ngô, sắn nhưng sắn vẫn là cây chủ lực, trồng các loại cây công nghiệp như cây
chè, quế nhưng quế mới chỉ là cây thử nghiệm. Là dân tộc có ít người, cuộc sống
còn nhiều khó khăn, đồng bào Khơ Mú ở xã Nghĩa sơn được hỗ trợ về con vật nuôi
và giống cây trồng. Hiện nay, đồng bào đã trồng thêm được một số loại cây ăn quả,
trong đó, cây mận phát triển tốt nhất. Chăn nuôi trâu, bò, lợn cũng được chú trọng
tại đây.
+ Về văn hoá: Trang phục của người Khơ Mú Yên Bái chịu ảnh hưởng nhiều
trang phục của người Thái Đen. Khăn phiêu, áo cỏm đen, xài ẻo, váy bằng vải đen,
hàng mắc pém hình khối chữ nhật đối diện. Riêng ngực áo Cỏm, dọc hai bên mắc
pém có bộ giải hình mặt trời tròn và hình mặt trời khuyết, ở giữa giải có đính những
đồng tiền bạc thể hiện sự mong ước giàu sang phồn thịnh luôn được vị thần mặt
trời sưởi ấm, che chở. Khăn Piêu gần giống như khăn Piêu Thái, khác là đầu khăn
có khâu những đường viền xanh đỏ. Khi đội các cô gái Thái vắt khăn lên đầu, còn
thiếu nữ Khơ Mú lại quấn khăn quanh đầu và luồn một đầu khăn qua vành quấn,
vắt ra ngoài.
Người Khơ Mú ở nhà sàn, thường làm ba gian trên diện tích đất không cần
rộng lớn, bằng phẳng, vật liệu làm nhà trước đây của đồng bào chủ yếu là tre nứa
và cỏ gianh, ngày nay nhà ở của người Khơ Mú nơi đây đã kiên cố. Điều đáng chú
ý nhất là trong nhà có ba chiếc bếp, bếp ở gian thứ hai nấu nướng thông thường,
bếp giáp hàng cột cái của vì cột thứ ba để đặt lễ thờ cúng, gọi là bếp cúng và bếp
trong cùng chỉ để xôi cơm biểu thị sự no đủ sung túc. Khách lạ không nên đến hai
bếp này vì theo quan niệm của đồng bào, dễ đem điều rủi ro đến cho chủ nhà.
- Dân tộc Cao Lan: hay còn gọi là dân tộc Sán Chay hiện ở Yên Bái có
khoảng 7000 người [29, tr.72], sinh sống tập trung ở 8 xã của huyện Yên Bình là:
Tân Hương, Vĩnh Kiên, Bạch Hà, Vũ Kinh, thị trấn Yên Bình, Phúc An, Xuân Lan,
Đại Đồng, 2 xã thuộc Trấn Yên: Hà Cuông, Minh Quân và các xã Phú Yên, Yên
Hợp thuộc huyện Văn Yên.
+ Về kinh tế: Người Cao Lan ở Yên Bái vốn là cư dân nông nghiệp làm
ruộng nước thành thạo. Nhưng nương rẫy vẫn đóng vai trò quan trọng trong đời
sống. Với kinh nghiệm phong phú và sự cần cù, sáng tạo trong lao động, được sự
quan tâm, đầu tư hỗ trợ của Nhà nước, đồng bào Cao Lan tích cực tăng gia sản
72
xuất, nâng cao năng suất cây trồng, vật nuôi. Mấy năm gần đây, một số hộ đã phát
triển làm trang trại theo mô hình VACR (vườn, ao, chuồng, rừng). Bên cạnh nguồn
lương thực chính là cây lúa, đồng bào còn chăn nuôi bò, lợn, gà, thả cá...giúp cho
công việc đồng áng và cải thiện đời sống. Phát triển mạnh trồng rừng, trồng các
loại cây công nghiệp như quế, chè, sắn...
Là một dân tộc sớm tiếp thu nền văn minh cây lúa nước, đồng bào thường
chọn những nơi có địa thế thấp, có thung lũng bằng để khai khẩn đất hoang thành
ruộng bậc thang gieo trồng cây lúa. Bên cạnh cánh đồng là đồi núi thấp để phát
nương làm rẫy trồng ngô, lúa cạn, rau quả, bông dệt vải... kết hợp với săn bắt thú
rừng, hái rau lượm quả. Hiện nay vẫn còn những bản làng Cao Lan vừa có những
cánh đồng nhỏ vừa có nương rẫy trên đồi. Trước đây chỉ làm ruộng nương một vụ
mùa, sau làm hai vụ lúa ruộng nhưng một số nơi hiện nay đã thâm canh tới 3 vụ
lương thực. Với hai hình thức định canh và du canh nên đồng bào có các loại nông
cụ thích hợp.
+ Về văn hoá: Người Cao Lan ở nhà sàn bốn mái có sàn trong nhà và sàn
phơi. Nhà ba hoặc năm gian, được phân định chức năng sinh hoạt của từng gian.
Gian giữa đặt bàn thờ tổ tiên, hai gian cạnh là nơi nghỉ ngủ phân biệt giữa các thành
viên nam nữ trong gia đình. Gian trái đầu nhà là nơi đặt bàn thờ hương hỏa (thần Bảo
gia trong dòng họ). Gian chái cuối nhà là nơi bếp núc, buồng con dâu hoặc con gái.
Cầu thang được bắc lên ở gian này. Cấu trúc nhà thường thêm một ngôi nhà phụ bố
trí theo kiểu thước thợ gắn liền với nhà chính. Dưới sàn là nơi nhốt súc vật trâu, bò,
lợn, gà, trên là nơi để lương thực và những đồ vật khác. Quanh nhà thường có mảnh
vườn nhỏ trồng rau. Nơi thuận lợi có ao cá và trồng các loại cây ăn quả.
Văn hóa tinh thần của người Cao Lan khá phong phú. Tục ngữ có câu: “Mời
ăn au đáy, mấy căm đáy” nghĩa là: Có cái lấy được, không cầm được, đó là chỉ văn
hóa phi vật thể. Người Cao Lan - Sán Chay có văn hóa riêng, không hòa lẫn với
văn hóa dân tộc khác. Song đồng bào vận tiếp thu những nét văn hóa của các dân
tộc anh em khác. Đó là sự ảnh hưởng qua lại tất yếu khi họ cùng chung sống trong
một cộng đồng.
Người Cao Lan không có chữ viết riêng. Song họ sử dụng hệ thống bộ chữ
Hán Tự, phần biểu nghĩa, phần biểu âm ghép lại thành chữ nôm Cao Lan, giống
như chữ Hán Nôm người Kinh để ghi chép lại thành toàn bộ văn bản của các bộ
73
sách cúng, sách dạy học, các tập sách hát ví dân ca. Trong cộng đồng Cao Lan -
Sán Chay chỉ có số ít người am hiểu và đọc được. Thường là con cháu của thầy
cúng và đồ đệ của thầy mà đồng bào coi đó là tầng lớp “trí thức” dân tộc. Việc học
hành cũng không kém phần gian lao như học phổ thông các cấp. Đội ngũ này đều
có phân cấp bậc, trình độ và cấp bằng sắc theo từng bậc học. Cứ 3 bậc là một hàm
phẩm gọi là “phắm”. Tam phẩm, ngũ phẩm, thất phẩm và cửu phẩm. Thầy cúng có
bằng cửu phẩm là cao tay và có uy tín nhất. Việc công nhận bậc phẩm do hội đồng
thầy cúng xem xét. Có khi còn phải thi cử kiểm tra. Người con trai sinh ra đến tuổi
12,14,16 đều phải đặt tên thánh gọi là: “pháp mệnh”.
Về kho tàng văn hóa, văn nghệ dân gian cũng rất phong phú và đa dạng. Chỉ
riêng phần hát ví dân gian gọi là “Xình ca” hay “Xướng cọ” đã có tới hàng chục tập
sách hát được ghi chép lại bằng chữ Nôm Cao Lan. Mỗi tập sách là một chương
trình riêng gọi là “Đêm hát thứ nhất cho đến đêm hát thứ mười mấy”. Họ còn
truyền lại là “Slam sớp lộc di xinh mù cồng” ba mươi sáu đêm hát không hết.
Ngoài các dân tộc trên, Yên Bái còn có các dân tộc khác sinh sống đó là: Dân tộc
Bố y, Sán Dìu, Kháng, Lô Lô, Hà Nhì, Ngái, Giẻ Triêng, La Ha, La Hủ, Khơ me,
Bru - Vân Kiều, Cơ Ho, Xơ Đăng, Chăm, M’Nông.
Các dân tộc ở tỉnh Yên Bái đều có lòng tự hào dân tộc, điều đó thể hiện ngày
trong sự tôn trọng dòng họ, quan hệ gia đình, thần tộc, thông gia liên đới. Đồng bào
vùng cao ít nhiều vẫn giữ được tình thần cộng đồng dân chủ, bình đẳng trong sinh
hoạt của thời kỳ công xã xưa. Đồng bào Mông, Dao có quan hệ trong dòng họ và
trong làng khá chặt chẽ, những mối quan hệ này có điểm tích cực là giúp đỡ lẫn nhau
trong sản xuất, trong những công việc lớn của đời người như làm nhà, ma chay, cưới
xin hoặc tương trợ nhau những khi hoạn nạn. Ý thức tương trợ, hợp tác phát triển
thành tinh thần đề cao vai trò tập thể, mọi công việc chung của làng do cả làng bàn
bạc và quyết định. Phát huy tư tưởng tốt đẹp này sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho việc
xây dựng tinh thần làm chủ tập thể với lẽ sống “mọi người vì mỗi người, mỗi người
vì mọi người”. Tất nhiên trong việc phát huy truyền thống dân chủ, bình đẳng đề cao
vai trò tập thể cần gạt bỏ tư tưởng bình quân chủ nghĩa. Bởi nó kìm hãm sự phát triển
của mỗi dân tộc, dẫn đến thái độ trì trệ, bảo thủ trọng việc tiếp cận cái mới. Trong
lĩnh vực văn hoá của mỗi dân tộc Yên Bái cần xoá bỏ những thủ tục lạc hậu trong
cưới xin, ma chay, giỗ tết. Quán triệt chính sách đoàn kết các dân tộc, thực hiện Nghị
74
quyết Trung ương 7 khoá IX về công tác dân tộc. Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh qua
các nhiệm kỳ đều có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, nâng cao đời
sống vật chất tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, từng bước rút ngắn
khoảng cách chênh lệch giữa vùng cao và vùng thấp của tỉnh.
2.2. Thực trạng thực hiện bình đằng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay
2.2.1. Những thành tựu đạt được và nguyên nhân
Yên Bái Là một tỉnh miền núi nhiều dân tộc, bước vào thực hiện công cuộc
đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, nhân dân các dân tộc tỉnh Yên
Bái bên cạnh những thuận lợi cũng còn gặp không ít khó khăn, thách thức như:
trình độ dân trí thấp, kinh tế - xã hội chậm phát triển, kết cấu hạ tầng cơ sở, điểm
xuất phát của nền kinh tế còn thấp. Cùng với đó, những tàn tích của chế độ phong
kiến còn nặng nề, phong tục tập quán còn nhiều điểm lạc hậu, đời sống đại bộ phận
nhân dân còn gặp nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ đói nghèo cao...
Nhưng dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, công tác dân tộc đã có sự phối
hợp chặt chẽ với các cấp, các ngành vận động nhân dân đoàn kết, khắc phục khó
khăn, phát huy nội lực, khơi dậy sức mạnh của nhân dân, tranh thủ sự giúp đỡ của
các Bộ, ngành Trung ương, các tổ chức quốc tế đầu tư phát triển, chú ý đến vùng
cao, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn; tổ chức thực hiện sáng tạo các
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước phù hợp với thực tiễn của địa phương...
nên đã đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ, giúp đồng bào các dân tộc trong tỉnh
khắc phục khó khăn, từng bước ổn định và phát triển sản xuất, nâng cao đời sống.
- Thực hiện bình đẳng trên phát triển kinh tế:
Sự chuyển biến trong lĩnh vực nông nghiệp
Năm 2010 là năm cuối thực hiện các mục tiêu kinh tế - xã hội theo Nghị
quyết Đảng bộ tỉnh Yên Bái lần thứ XVI nhiệm kỳ 2005-2010 đề ra. Vì vậy ngay từ
đầu năm, Tỉnh ủy, Hội đồng nhân dân, Ủy ban nhân dân tỉnh đã chỉ đạo các Sở,
ban, ngành chức năng bám sát cơ sở, tháo gỡ và khắc phục mọi khó khăn, phấu đấu
hoàn thành tốt kế hoạch sản xuất nông, lâm nghiệp và thủy sản năm 2010. Với
những quyết tâm đó, ngành nông nghiệp Yên Bái đã đạt được kết quả khá, các chỉ
tiêu đều cao hơn năm trước và đạt kế hoạch đề ra.
75
Theo đó, diện tích gieo trồng cây lương thực có hạt đạt 63.653 ha, tăng 3.948
ha so với năm 2009; vượt 5,5% kế hoạch năm. Tổng sản lượng ước đạt 250.953
tấn, tăng 15.376 tấn so với năm trước, vượt kế hoạch 5,4%.
Trong những năm qua, Yên Bái cũng rất chú trọng tới việc trồng và nâng cao
chất lượng sản phẩm cây chè. Hết năm 2010, toàn tỉnh đã trồng mới, trồng cải tạo
được 218 ha, bằng các giống chè nhập nội, đạt 103% kế hoạch. Bên cạnh đó, Sở
Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Yên Bái đã tổ chức đào tạo tập huấn cho
2.700 hộ dân về sản xuất chè an toàn.
Một thành công khác của ngành nông nghiệp Yên Bái cần được nhắc tới đó
là nuôi trồng thủy sản. Năm qua, ngành này đã tổ chức sản xuất được 120 triệu cá
bột, đạt 100% kế hoạch; 30 triệu cá hương giống các loại đạt 100% kế hoạch; ương
nuôi cá giống lớn được 15.077,5 kg đạt 100% kế hoạch để phục vụ thả hồ bổ sung
nguồn lợi thủy sản trên hồ Thác Bà và nuôi trồng thủy sản trong tỉnh. Tổng sản
lượng thủy sản nuôi trồng và khai thác năm 2010 đạt 5.660 tấn, vượt 2% so với kế
hoạch năm. Bước sang năm 2011, ngành nông nghiệp tỉnh quyết tâm phấn đấu đạt
6.240 tấn thủy sản.
Về phát triển lâm nghiệp, kinh tế đồi rừng:
Dự án trồng mới 5 triệu ha rừng được triển khai trên địa bàn tỉnh Yên Bái từ
năm 1998. Qua 13 năm thực hiện dự án trồng mới 5 triệu ha rừng, Yên Bái đã có
những chuyển biến căn bản trong phát triển rừng, đã hình thành vùng rừng sản xuất gần 150 nghìn ha, cung cấp ổn định cho thị trường mỗi năm từ 450 - 500 ngàn m3 gỗ rừng trồng các loại. Trữ lượng rừng tăng lên 50 m3/ha/chu kỳ.
Chủ trương xã hội hóa nghề rừng đạt được nhiều tiến bộ, tình trạng phá rừng
lấy đất sản xuất lương thực giảm, công tác khoanh nuôi tái sinh rừng đạt hiệu quả,
phong trào trồng rừng đã thực sự trở thành hoạt động thường xuyên, rộng khắp.
Đời sống của người dân làm nghề rừng từng bước được nâng lên. Nếu như năm
1999, diện tích đất có rừng trong toàn tỉnh là 264 nghìn ha, độ che phủ rừng là
37,62% thì đến năm 2010 tăng lên gần 414 nghìn ha, độ che phủ rừng toàn tỉnh đạt
59,2%, đưa Yên Bái trở thành tỉnh xếp thứ tư trong cả nước về độ che phủ rừng và
đứng thư 3 về trồng rừng mới so với các tỉnh Tây Bắc. Chất lượng rừng ngày càng
được cải thiện, góp phần bảo vệ tốt môi trường sinh thái, hạn chế thấp nhất thiệt hại
do cháy rừng gây ra.
76
Bên cạnh đó, dự án trồng mới 5 triệu ha rừng đã tạo ra được một bước
chuyển căn bản về nhận thức của người dân (đặc biệt là đồng bào vùng cao) từ chỗ
coi rừng là tài nguyên vô tận, đến nay người dân đã nhận đất, nhận rừng, quan tâm
và hiểu được lợi ích to lớn của rừng về giá trị kinh tế, môi trường do rừng mang lại.
Thông qua thực hiện dự án đã giải quyết được việc làm cho trên 160.000 lao động,
tỷ lệ hộ gia đình làm lâm nghiệp thuộc diện đói nghèo giảm từ 40,95% xuống còn
20,65%.
Từ nay đến năm 2015, tỉnh Yên Bái sẽ tập trung bảo vệ, chăm sóc tốt toàn
bộ diện tích rừng hiện có, phấn đấu đến năm 2015 tổng diện tích đất có rừng trên
địa bàn tỉnh đạt 438 nghìn ha, độ che phủ rừng đạt 63,5%. Phấn đấu trồng mới
69.400 ha rừng, khoanh nuôi tái sinh 2450 ha rừng.
Về thực hiện chính sách hỗ trợ phát triển sản xuất:
Đáng chú ý là việc triển khai thực hiện các chương trình, dự án, chính sách
đầu tư phát triển cho vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi, như: Chương
trình 134 và 135 của Chính phủ; thực hiện chính sách hỗ trợ dân tộc thiểu số đặc
biệt khó khăn; chính sách trợ giá, trợ cước một số mặt hàng thiết yếu cho đồng bào
dân tộc vùng cao; chính sách tín dụng đối với hộ gia đình sản xuất, kinh doanh tại
vùng khó khăn; chính sách cấp thẻ bảo hiểm y tế cho người nghèo... Nhờ đó, bộ
mặt nông thôn miền núi có sự thay đổi tích cực, toàn diện. Đại bộ phận nông dân
được bồi dưỡng, tiếp thu kinh nghiệm sản xuất, kiến thức khoa học vận dụng vào
sản xuất và đời sống. Sản lượng lương thực đạt 215.339 tấn, bình quân lương thực
đầu người đạt 287 kg/người/năm, cơ bản không còn tình trạng đói lưu niên ở vùng
cao; số hộ đói nghèo giảm đáng kể, chỉ còn 21,31%, nhiều hộ đã có tích lũy.
Chương trình 135 của Chính phủ từ năm 1999 - 2010 đã xây dựng được 1.578
công trình hạ tầng cơ sở như giao thông, thuỷ lợi, trường học, trạm xá, điện...; đào
tạo, bồi dưỡng nâng cao năng lực cho đội ngũ cán bộ chủ chốt ở cơ sở và cộng đồng
được 803 lớp cho 40.013 lượt học viên; hỗ trợ giống cây trồng, vật nuôi, khai hoang
ruộng nước phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân; quy hoạch và sắp xếp lại các
điểm dân cư ở vùng cao... với tổng vốn đầu tư trên 725.637 triệu đồng.
Quyết định 134/2004/QĐ-TTg về một số chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất
ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn đã đầu tư (từ năm 2005 - 2009) là 127.540 triệu đồng; hỗ trợ đất sản xuất cho
77
9.670 hộ; hỗ trợ đất ở cho 458 hộ; hỗ trợ làm 8.684 nhà ở; hỗ trợ nước phân tán cho
29.423 hộ; hỗ trợ xây dựng 105 công trình cấp nước tập trung. Dự án xây dựng
trung tâm cụm xã từ năm 1997 - 2010 đầu tư trên 82.147 triệu đồng xây dựng 139
công trình hạ tầng cơ sở các loại.
Dự án định canh định cư, quy hoạch sắp xếp lại dân cư từ năm 1997 - 2010
đã đầu tư, hỗ trợ trên 60.944 triệu đồng xây dựng 114 công trình hạ tầng cơ sở các
loại, di chuyển sắp xếp lại 754 hộ dân cư; hỗ trợ trồng, chăm sóc, bảo vệ 137.651
ha rừng; trồng và chăm sóc 6.731 ha chè...
Thực hiện chính sách hỗ trợ hộ dân tộc thiểu số đặc biệt khó khăn, từ năm
2003 - 2006 đã đầu tư 3.000 triệu đồng hỗ trợ sản xuất cho 1.728 lượt hộ; hỗ trợ
đời sống và sinh hoạt cho 4.404 lượt hộ.
Thực hiện chính sách trợ giá, trợ cước một số mặt hàng chính sách từ năm
1999 - 2010 đã đầu tư 143.711 triệu đồng thực hiện trợ giá, trợ cước vận chuyển
một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân, hỗ trợ tiêu thụ
sản phẩm khu vực III, xây dựng 21 trạm truyền thanh cụm dân cư; cấp không thu
tiền giấy, vở cho học sinh tiểu học các xã đặc biệt khó khăn.
Thực hiện chính sách vay vốn phát triển sản xuất đối với hộ đồng bào dân
tộc thiểu số đặc biệt khó khăn từ năm 2007 tới nay, đã cho 3.680 hộ vay 18.398
triệu đồng để phát triển kinh tế gia đình. Các chính sách dân tộc khác như cấp thẻ
bảo hiểm y tế cho người nghèo và nhân dân vùng đặc biệt khó khăn, cử tuyển, hỗ
trợ dầu hoả thắp sáng; cấp báo, tạp chí; thu hút cán bộ đến công tác tại vùng khó
khăn... đã và đang được triển khai đồng bộ, có kết quả.
Do làm tốt công tác dân tộc và tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các
chương trình, dự án, chính sách đầu tư, hỗ trợ vùng đồng bào dân tộc đã làm cho bộ
mặt nông thôn miền núi có sự thay đổi tích cực, toàn diện, góp phần quan trọng vào
sự phát triển chung của cả tỉnh.
Nền kinh tế của tỉnh giai đoạn 2000 - 2005 tăng trưởng bình quân
9,55%/năm; giai đoạn 2006 - 2010 tăng trưởng bình quân 12,31%/năm; cơ cấu kinh
tế chuyển dịch đúng hướng; thu nhập bình quân đầu người tăng lên 10,75 triệu
đồng/người/năm 2010; lương thực bình quân từ 277 kg năm 2005 tăng lên 318
kg/người/năm 2010; độ che phủ của rừng từ 48,63% năm 2005 tăng lên 59,2% năm
78
2010; số hộ đói nghèo giai đoạn 2006 - 2010 giảm bình quân 4,59% năm (vùng
cao, vùng đồng bào dân tộc giảm bình quân 6% năm)...
Các công trình cơ sở hạ tầng đầu tư đã phát huy hiệu quả. Nhiều tuyến
đường được mở mới đến thôn, bản các xã vùng cao, vùng sâu, vùng xa; 100% số xã
có đường ô tô đến trung tâm xã trong mùa khô; một số tuyến đường liên xã, thôn
bản được bê tông hóa. Các công trình thủy lợi đã làm tăng thêm diện tích tưới tiêu;
khai hoang mở rộng được 1.423 ha ruộng nước. Các công trình phúc lợi công cộng
như: chợ, trường học, trạm y tế xã, điện, nước sạch... cũng được quan tâm đầu tư;
60% số dân nông thôn được dùng nước sinh hoạt hợp vệ sinh.
- Thực hiện bình đẳng trên lĩnh vực chính trị
Hệ thống tổ chức Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân vùng dân tộc thiểu
số được chăm lo củng cố, hoạt động có nhiều tiến bộ; các cấp uỷ Đảng đã chú trọng
lãnh đạo tổ chức thực hiện Chương trình hành động của Tỉnh uỷ, tập trung phát
triển kinh tế - xã hội gắn với xoá đói giảm nghèo, từng bước khắc phục tư tưởng
trông chờ, ỷ lại vào Nhà nước, cấp trên. Các cấp, các ngành, mặt trận Tổ quốc và
các đoàn thể nhân dân đã hướng về cơ sở, vùng miền núi, dân tộc, quan tâm đến
công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số; đã mở lớp đào tạo trung cấp
quản lý kinh tế nông, lâm nghiệp cho 72 cán bộ xã và 10 lớp tại chức cho trên
1.000 lượt cán bộ cơ sở học quản lý nhà nước, học lý luận, chuyên môn nghiệp vụ.
Trường Quân sự tỉnh mở 5 lớp bồi dưỡng kiến thức tổng hợp cho gần 300 thanh
niên các dân tộc, tạo nguồn cán bộ dân tộc cho cơ sở; nhiều học sinh của Trường về
địa phương đã phát huy tác dụng tốt, đảm nhận các chức vụ chủ chốt ở cơ sở xã,
thôn, bản, góp phần quan trọng vào việc củng cố hệ thống chính trị, tăng cường
khối đại đoàn kết các dân tộc, giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội và
phát triển kinh tế - xã hội trên địa bàn.
Quốc phòng - an ninh được củng cố và tăng cường, an ninh chính trị, trật tự
an toàn xã hội được bảo đảm. Hoạt động đối ngoại được mở rộng
Công tác xây dựng Đảng được chú trọng trên cả 3 mặt: chính trị, tư tưởng và
tổ chức. Đã tăng cường công tác giáo dục chính trị cho cán bộ, đảng viên, nêu cao ý
thức cảnh giác cách mạng, phòng chống âm mưu "diễn biến hoà bình", chia rẽ dân
tộc của các thế lực thù địch; hiểu và nắm được đường lối đổi mới của Đảng, các
chủ trương, chính sách, pháp luật của Nhà nước. Tập trung xây dựng tổ chức cơ sở
79
Đảng trong sạch, vững mạnh, làm hạt nhân lãnh đạo phong trào cách mạng của
quần chúng.
Cải cách hành chính: Thực hiện cơ chế một cửa tại 7/18 sở ngành tỉnh và 9/9
huyện thị, thành phố. Hoàn thành giai đoạn 1 đề án 30 của Chính phủ về thống kê
thủ tục hành chính, hiện đang rà soát giai đoạn 2 với 1508/1508 thủ tục, kiến nghị
loại bỏ 53 thủ tục, giảm các bước ở 410 thủ tục, đạt 28%. Mặt trận Tổ quốc và các
đoàn thể chính trị có nhiều đổi mới về nội dung, phương thức hoạt động, đẩy mạnh
hoạt động hướng về cơ sở. Toàn tỉnh có 3268 cán bộ cấp xã, trong đó số có trình độ
chuyên môn từ trung cấp trở lên 1.398 (42,75%), số có trình độ lý luận trung cấp
chính trị trở lên 1.491 (45,6%), còn lại chưa đạt chủ yếu là trưởng các đoàn thể.
- Thực hiện bình đẳng trên lĩnh vực văn hoá - xã hội
Về giáo dục: Mạng lưới trường, lớp được tăng cường, số phòng học được
xây dựng kiên cố, bán kiên cố tăng và xóa bỏ tình trạng học 3 ca; tỷ lệ phòng xây
đạt 89%. Hệ thống giáo dục từ mầm non đến phổ thông trung học vùng dân tộc
thiểu số được củng cố và phát triển. Số học sinh là người dân tộc đi học ở bậc tiểu
học chiếm tỉ lệ 62,91%; bậc trung học cơ sở là 56,86%, có 15 trường dạy chữ dân
tộc (chữ Mông). Hệ thống trường dân tộc nội trú tiếp tục được củng cố. Đối với
giáo dục ở vùng dân tộc, việc chống mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học và đào tạo
cán bộ dân tộc với những hình thức, chương trình dạy phù hợp và cách chỉ đạo, tổ
chức tập trung, cụ thể. Toàn tỉnh hiện có trên 400 trường phổ thông, gần 6.000 lớp
với hơn 17 vạn học sinh. Tiểu học có 101.484 em, có gần 50% là dân tộc thiểu số,
riêng khu vực III có 43.522 em, với 80 % là học sinh các dân tộc thiểu số. Số học
sinh phổ thông trung học cơ sở có 49.339 em, trong đó học sinh các dân tộc thiểu
số chiếm khoảng 35%, riêng khu vực III có 14.270 em với phần lớn là người dân
tộc, tỷ lệ học sinh dân tộc thiểu số chiếm khoảng 15%. Toàn tỉnh có 9 trường phổ
thông dân tộc nội trú (1 trường trung học phổ thông dân tộc nội trú tỉnh và 8 trường
trung học cơ sở dân tộc nội trú huyện) với 63 lớp, 1.801 học sinh.
Hệ thống mạng lưới trường, lớp, tiếp tục được mở rộng đảm bảo thu hút và
đáp ứng nhu cầu học tập ngày càng cao của con em đồng bào các dân tộc, vùng đặc
biệt khó khăn. Đặc biệt, Sở Giáo dục tham mưu cho tỉnh mở thêm phân hiệu trường
phổ thông dân tộc nội trú tại trường Trung học Sư phạm (Nghĩa Lộ) với 3 lớp (khối
10), 78 học sinh là con em các dân tộc thiểu số thuộc huyện Văn Trấn, Trạm Tấu,
80
Mù Căng Chải theo học; tạo nguồn cán bộ cho vùng cao và tạo động lực cho việc
thực hiện mục tiêu phổ cập giáo dục trung học cơ sở ở các huyện miền Tây của
tỉnh; thực hiện Quyết định số 209/QĐ-UB của Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái về hỗ
trợ học bổng cho học sinh trung học phổ thông là người dân tộc Mông có hộ khẩu
thường trú theo học ở hai huyện Trạm Tấu và Mù Căng Chải, từ 60.000đ lên
100.000đ/ 1 tháng. Thời gian được hưởng 9 tháng/năm, có 453 em được hưởng chế
độ này, lấy từ kinh phí sự nghiệp giáo dục hàng năm. Những chính sách đó đã đem
lại hiệu quả thiết thực, góp phần thu hút thêm học sinh học lên bậc trung học phổ
thông và từng bước nâng cao dân trí, bồi dưỡng nhân lực, đào tạo đội ngũ cán bộ kế
cận vùng cao.
- Về y tế: ở Yên Bái do các dân tộc thiểu số cư trú chủ yếu ở vùng núi, vùng
sâu, vùng xa nên có nhiều bất lợi trong việc bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho đồng
bào. Những phong tục tập quán lạc hậu là nguyên nhân quan trọng gây nên bệnh tật
ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và tuổi thọ của người dân. Chính vì vậy, hiện nay ở
vùng dân tộc thiểu số vấn đề y tế, sức khỏe đang là những vấn đề bức xúc cần giải
quyết. Phải ghi nhận rằng, nhờ xây dựng được mạng lưới y tế nhân dân, nhất là
tuyến xã ngày càng mở rộng và phát triển, nên công tác y tế, chăm sóc, bảo vệ sức
khỏe nhân dân có hiệu quả, không để bệnh dịch xảy ra. Việc khám, chữa bệnh có
nhiều tiến bộ, tỷ lệ khám chữa bệnh tại các cơ sở y tế hàng năm đều tăng (huyện
Mù Căng Chải tăng 95%, huyện Trạm Tấu tăng 47%). Các xã vùng cao, vùng đặc
biệt khó khăn đã được thực hiện chính sách cấp phát thuốc không thu tiền với định
mức 10.000-15.000đ/người/năm. Ở huyện vùng cao Mù Căng Chải có 12 cán bộ y
tế trên 1 vạn dân và 1,61 bác sĩ trên 1 vạn dân. Ở huyện Trạm Tấu, cứ một vạn dân
có 20,8 cán bộ y tế, trong đó 2,7 là bác sĩ.
Văn hóa - thông tin: Quán triệt quan điểm, đường lối của Đảng về chính sách
đại đoàn kết các dân tộc, thực hiện Nghị quyết Trung ương khóa VIII về việc xây
dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, Ban Chấp hành Đảng bộ tỉnh
qua các nhiệm kỳ đều có nhiều chủ trương, chính sách phát triển kinh tế, nâng cao
đời sống vật chất tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao, từng bước rút
ngắn khoảng cách chênh lệch giữa vùng cao và vùng thấp của tỉnh. Có thể kể đến
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Trung ương 5 khóa VIII của tỉnh, các
81
nghị quyết chuyên đề về bảo tồn di sản khảo cổ Hắc Y - Đại Cại, Nghị quyết
04/NQ-TU ngày 14/4/1997 của Ban Chấp hành Đảng bộ Yên Bái khóa XV về bảo
tồn phát triển văn hóa các dân tộc thiểu số vùng cao của tỉnh. Nghị quyết chỉ rõ:
"Khuyến khích mọi cấp, mọi ngành, tổ chức xã hội đầu tư cơ sở vật chất cho hoạt
động văn hóa, thể thao, nâng cao đời sống vật chất tinh thần, mức hưởng thụ văn
hóa của nhân dân. Thực hiện tốt cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời
sống văn hóa, phấn đấu 70% số hộ đạt chuẩn văn hóa, 70% số xã có làng văn hóa,
85% các đơn vị văn hóa... khôi phục, bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
trong tỉnh, đặc biệt quan tâm đến đồng bào vùng cao".
Tại Báo cáo số 80/BC-TD ngày 11/6/2003 về việc tổng kết 5 năm thực hiện
Nghị quyết 04 khóa XIV về phát triển kinh tế - văn hóa - xã hội vùng cao và các xã
đặc biệt khó khăn, Tỉnh ủy nhận định về lĩnh vực văn hóa như sau: "đã tập trung
chỉ đạo hướng mạnh về cơ sở vùng cao, vùng dân tộc thiểu số. Công tác thông tin -
tuyên truyền bằng tiếng nói dân tộc, các loại hình nghệ thuật phù hợp với từng
vùng, từng dân tộc nên nhiều chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đã thực
sự có hiệu quả, tiêu biểu là đã bài trừ được một số tập tục lạc hậu, hạn chế tối đa
việc trồng cây thuốc phiện, giảm nạn tảo hôn, ma chay lạc hậu.
Các di tích lịch sử được chú ý bảo tồn, văn hóa phi vật thể được sưu tầm gìn
giữ. Đã phát huy bản sắc văn hóa dân tộc trong xây dựng đời sống bước đầu có
hiệu quả. Đời sống văn hóa cơ sở của đồng bào có khởi sắc. Các hoạt động văn hóa
truyền thống như: đẩy gậy, ném còn, đua ngựa, ném quay... đã được khôi phục
trong các lễ hội".
Công tác tuyên truyền được thực hiện trên sóng phát thanh - truyền hình của
tỉnh, nhằm mục đích đưa tiếng nói của Đảng đến với đồng bào các dân tộc vùng
cao, vùng sâu, vùng xa, nhiều chương trình đã được thực hiện như: từ tháng 7/1999
Đài Phát thanh - Truyền hình Yên Bái đã sản xuất chương trình lồng tiếng Mông,
đây là đài đầu tiên ở khu vực miền núi phía Bắc thực hiện loại hình thông tin này.
Từ đầu năm 2002 khi Đài Truyền hình Việt Nam thực hiện dự án truyền hình tiếng
dân tộc, đài Yên Bái đã trở thành cộng tác viên tích cực cung cấp nội dung cho
Chương trình VTV5 phát qua sóng vệ tinh. Các hoạt động văn hóa, thông tin tuyên
truyền được tập trung chỉ đạo hướng mạnh về cơ sở, đến vùng sâu, vùng xa, vùng
82
đồng bào dân tộc thiểu số. Văn hoá truyền thống các dân tộc được bảo tồn và phát
huy, phong tục tập quán lạc hậu giảm đáng kể. Công tác phát thanh - truyền hình có
bước phát triển mạnh, phục vụ hiệu quả nhiệm vụ chính trị của địa phương. Đến
nay, đã có 92% địa bàn được phủ sóng truyền hình, 100% số xã có điểm xem
truyền hình.
Công tác bồi dưỡng cán bộ văn hóa, đào tạo các tài năng văn nghệ đã được
quan tâm đúng mức. Trường Trung cấp Văn hóa Nghệ thuật tỉnh trong 15 năm qua
đã đào tạo được 444 cán bộ văn hóa, diễn viên, nhạc công, trong đó có 135 người là
dân tộc thiểu số.
Những kết quả nêu trên đã góp phần to lớn phát huy bản sắc truyền thống tốt
đẹp của dân tộc, góp phần làm phong phú thêm nền văn hóa dân tộc trong cộng
đồng các dân tộc Việt Nam. Có thể khẳng định, đây cũng chính là những đóng góp
vào sự ổn định và phát triển kinh tế xã hội vùng đồng bào dân tộc, vùng sâu, vùng
xa tỉnh Yên Bái.
83
2.2.2. Những hạn chế, yếu kém và nguyên nhân
Những thành tựu mà Yên Bái đạt được là rất to lớn và đáng tự hào. Tuy
nhiên, đánh giá một cách khách quan, nghiêm túc, chúng ta còn nhận thấy có nhiều
thiết sót, tồn tại trên nhiều lĩnh vực, trong đó có vấn đề thực hiện bình đẳng dân
tộc. Trong phần trên của luận văn này đã đề cập đến vấn đề không đồng đều về các
mặt của dân tộc tỉnh Yên Bái. Điều đó cũng phần nào phản ánh sự chênh lệch và ở
góc độ nhất định là sự bất bình đẳng giữa các dân tộc do nguyên nhân khách quan
tạo ra.
Sự bất bình đẳng giữa các dân tộc ở Yên Bái thể hiện trên nhiều lĩnh vực,
song sự bất bình đẳng trên lĩnh vực kinh tế là nguyên nhân sâu xa tác động tới sự
bất bình đẳng trên các lĩnh vực khác.
Trong những năm vừa qua, kinh tế có sự phát triển nhưng giữa các vùng
không đồng đều và chưa vững chắc, chuyển dịch cơ cấu kinh tế đúng hướng còn
chậm, vùng đô thị phát triển nhanh trong khi đó vùng núi phát triển còn chậm.
Nhiều vùng sản xuất vẫn trong tình trạng độc canh - thuần nông, mang nặng tính tự
cung tự cấp. Hiệu quả sản xuất nông - lâm nghiệp còn thấp, sản phẩm hàng hoá
chưa nhiều. Tỷ trọng cây công nghiệp trong trồng trọt và chăn nuôi nông nghiệp
chưa cao. Cơ sở hạ tầng nông thôn yếu kém, tâm lý và tập quán canh tác chậm thay
đổi. Những vấn đề xã hội còn nhiều tồn tại rất đáng quan tâm như: Tỷ lệ tăng dân
số ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn cao, ngành nghề trong khu vực nông thôn
chưa phát triển, nhiều hủ tục mê tín, dị đoan vẫn còn tồn tại…
Tiếp nhận nền kinh tế thị trường cũng nảy sinh những vấn đề mới về sự phân
hoá giàu nghèo, đời sống đồng bào vùng cao, vùng sâu còn nhiều khó khăn; kinh tế
vùng cao phát triển còn chậm, chưa tương xứng với nguồn vốn Nhà nước đã đầu tư;
định hướng và quy hoạch kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc chưa rõ nét; Sự nghiệp
văn hóa, y tế, giáo dục phát triển chưa đồng đều giữa các vùng và chất lượng, hiệu
quả còn thấp; quỹ đất ở vùng cao còn nhiều bất cập; hệ thống chính trị cơ sở ở một
số vùng đồng bào dân tộc thiểu số còn yếu; Hệ thống công tác dân tộc từ tỉnh đến
cơ sở chưa thực sự được quan tâm. Công tác cán bộ từ quy hoạch, kế hoạch đào tạo
chưa đáp ứng kịp với yêu cầu phát triển của tình hình, đây là khâu quan trọng và
cũng là khâu có nhiều tồn tại nhất. Nhiều nơi đội ngũ cán bộ còn thiếu về cả số
84
lượng và trình độ, số cán bộ có trình độ đại học tập trung ở các xã, phường thuộc
khu vực thành phố, thị trấn, còn lại ở nông thôn rất thiếu và yếu.
Như vậy, tình hình cụ thể như trên đã chứng minh cho nhận định có tính khái
quát về sự bất bình đẳng giữa các dân tộc ở tỉnh Yên Bái.
- Về kinh tế xã hội: Nhìn lại quá trình đổi mới, nông thôn Yên Bái đã đạt
được nhiều thành tựu, đã có sản xuất hàng hoá, tuy nhiên trong nông nghiệp còn
nhiều tồn tại cơ chế cũ, sản xuất còn thấp, tập quán canh tác lạc hậu. Trong khi đó,
đất đai chủ yếu là vùng núi nên sản lượng cây trồng vật nuôi thấp. Năm 2010, năng
suất lúa cả năm đạt 45,37tạ/ha, năng suất ngô đạt 28,59 tạ/ha. Sản lượng lương thực
có hạt đạt 250.796,9 tấn đứng thứ 6 so với các tỉnh trong khu vực, trong đó sản
lượng thóc đạt 186.060 tấn, giảm 139 tấn so với năm 2009. Lương thực bình quân
đầu người đạt 333,85 kg, đứng thấp nhất so với các tỉnh trong khu vực. Sản lượng
chè búp tươi đạt 85.946 tấn, tăng 5134 tấn. Tổng đàn gia súc chính tăng 4,63%,
trong đó đàn trâu 11.6249 con, đàn bò 30.188 con, giảm 12,02%, đàn lợn 449.288
con. Đàn bò tiếp tục giảm, do đồng cỏ ít, bãi chăn thả thiếu, mặt khác do việc sử
dụng bò đực phối giống hoàn toàn mang tính tự nhiên, dẫn đến hiện tượng cận
huyết, làm chất lượng con giống ngày càng giảm, tăng đàn sinh học rất chậm.
- Về kết cấu hạ tầng: Xuất phát từ nền nông nghiệp còn nghèo nàn, lạc hậu
nên vốn đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ tầng nông thôn còn rất hạn chế, nhất là
vùng sâu, vùng xa, điều kiện về nhà ở, điện, nước sạch sinh hoạt… còn kém so với
các vùng khác trên địa bàn các tỉnh Tây Bắc.
Có thể nói, trong những năm qua, Đảng bộ tỉnh đã có sự quan tâm tích cực
tới đời sống của đồng bào các dân tộc ở Yên Bái, đã đạt được nhiều thành tựu trong
đó có thành tựu về bình đẳng dân tộc. Tuy nhiên cũng phải thừa nhận rằng tình
hình đời sống của đồng bào dân tộc vùng sâu, vùng xa còn gặp nhiều khó khăn.
Theo báo cáo kết quả của các huyện, do điều kiện kinh tế khó khăn nên tình trạng
học sinh vùng cao bỏ học vẫn còn tiếp diễn, số học sinh học xong lớp 12 để đi học
các trường chuyên nghiệp còn ít. Rất nhiều thôn, bản hầu như không có học sinh đi
học trường chuyên nghiệp. Do đó việc tiếp thu khoa học kỹ thuật, tiếp thu các dự
án đầu tư của Nhà nước gặp nhiều khó khăn.
Những nguyên nhân dẫn đến những hạn chế trên:
85
Thứ nhất: Do trình độ dân trí thấp, không đồng đều giữa các vùng, các dân
tộc, một số nơi vẫn còn có các phong tục tập quán lạc hậu đang là lực cản trong quá
trình phát triển. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, nhân dân có tâm lý trông chờ, ỷ lại
vào sự hỗ trợ của Đảng và Nhà nước chưa có ý thức tự vươn lên xoá đói giảm
nghèo. Năng lực lãnh đạo, điều hành của cán bộ cơ sở còn nhiều bất cập, bên cạnh
đó các thế lực thù địch luôn tìm mọi cách lợi dụng những khó khăn về đời sống của
đồng bào dân tộc thiểu số để kích động, lôi kéo đồng bào theo đạo và di cư tự do
làm cho đời sống càng trở nên khó khăn hơn.
Một số cấp uỷ, chính quyền, đoàn thể các cấp còn coi nhẹ công tác giáo dục
chính trị, tư tưởng; việc triển khai nghiên cứu và quán triệt các chỉ thị, nghị quyết
của Đảng có nơi còn hình thức, thụ động; việc xây dựng chương trình hành động
thực hiện nghị quyết chưa đồng bộ. Hiệu quả và chất lượng học tập lý luận chính trị
chưa cao, chưa tương xứng với yêu cầu, việc vận dụng lý luận vào thực tiễn còn
hạn chế, bất cập.
Thứ hai: Các chủ trương, chính sách phát triển kinh tế - xã hội chậm triển
khai và không quán triệt sâu sắc đến người dân; các cấp chính quyền sau khi quán
triệt chủ trương, chính sách chưa chuẩn bị những điều kiện cần thiết như xác định
đối tượng hỗ trợ đầu tư phát triển, chuẩn bị cán bộ để tổ chức thực hiện; các cấp,
các ngành chưa phối hợp chặt chẽ, điều hành quản lý còn hạn chế.
Thứ ba: Trình độ văn hoá, chuyên môn và năng lực đội ngũ cán bộ, đặc biệt là
đội ngũ cán bộ ở cấp cơ sở chưa đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ. Một số nơi chưa
gắn công tác đào tạo, bồi dưỡng với việc bố trí, sử dụng cán bộ. Chất lượng các lớp
đào tạo tại chức còn thấp, chưa tương xứng với sự đầu tư của tỉnh; một bộ phận cán
bộ chưa tích cực đổi mới phong cách và lề lối làm việc; tỷ lệ cán bộ là người dân tộc
thiểu số tham gia công tác trong hệ thống chính trị các cấp còn thấp…
Thứ tư: Việc thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở diễn ra chưa nghiêm túc,
chưa trở thành nề nếp sinh hoạt thường xuyên. Công tác vận động quần chúng nhân
dân còn yếu kém, phương pháp vận động chưa phù hợp; việc ban hành các quy chế
phối hợp giữa các cơ quan, ban ngành còn chậm và chưa hiệu quả.
Thứ năm: Trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, công tác dân tộc của tỉnh vẫn
còn bộc lộ một số tồn tại, như: nhận thức của một số ngành, địa phương và một số
cán bộ, đảng viên về công tác dân tộc chưa toàn diện, chưa sâu sắc. Định hướng và
86
quy hoạch kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc chưa rõ nét. Kinh tế vùng cao phát triển
còn chậm, chưa tương xứng với nguồn vốn Nhà nước đã đầu tư. Sự nghiệp văn hóa,
y tế, giáo dục phát triển chưa đồng đều giữa các vùng và chất lượng, hiệu quả còn
thấp. Quỹ đất ở vùng cao còn nhiều bất cập. Hệ thống chính trị cơ sở ở một số vùng
đồng bào dân tộc thiểu số còn yếu. Hệ thống công tác dân tộc từ tỉnh đến cơ sở
chưa thực sự được quan tâm. Một số chính sách dân tộc hiện nay chưa thực sự phù
hợp với thực tiễn.
Có thể khẳng định rằng, việc thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc của tỉnh
Yên Bái trong những năm qua đã đạt được nhiều kết quả to lớn trên mọi mặt của
đời sống, xã hội. Song cũng đang đặt ra cho chúng ta những thách thức không nhỏ,
đòi hỏi các cấp, các ngành và nhân dân các dân tộc trong tỉnh có sự nhận thức đúng
đắn, sâu sắc, toàn diện đồng thời tiếp tục nghiên cứu, xây dựng và ban hành những
cơ chế, chính sách và giải pháp đồng bộ với những cách làm hiệu quả, các hình
thức, bước đi thích hợp với từng nơi, từng dân tộc ở mỗi giai đoạn và thời điểm
khác nhau nhằm xóa đói, giảm nghèo bền vững, nâng cao đời sống vật chất và tinh
thần cho nhân dân. Và hạn chế đến mức thấp nhất tốc độ gia tăng khoảng cách phát
triển giữa các vùng; bảo đảm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế; giữ vững quốc
phòng - an ninh; bảo tồn và phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa tốt đẹp của các
dân tộc, phấn đấu thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh.
87
Chương 3 MỘT SỐ GIẢI PHÁP CƠ BẢN ĐỂ ĐẢM BẢO THỰC HIỆN
CÓ HIỆU QUẢ QUYỀN BÌNH ĐẲNG DÂN TỘC
Ở TỈNH YÊN BÁI HIỆN NAY
3.1. Những quan điểm và phương hướng cơ bản
3.1.1. Quan điểm
Sau khi có Nghị quyết Hội nghị Trung ương lần thứ 7 (khoá IX) về công tác
dân tộc, Tỉnh uỷ Yên Bái đã tập trung lãnh đạo việc quán triệt, triển khai và tổ chức
thực hiện Nghị quyết trong Đảng bộ gắn với việc thực hiện Nghị quyết 22/NQ-TW
của Bộ Chính trị phát triển kinh tế - xã hội miền núi gắn với xoá đói giảm nghèo.
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ lần thứ XVII của tỉnh trên cơ sở đề ra mục tiêu,
phương hướng, nhiệm vụ giải pháp nhiệm kỳ 2010 - 2015; đồng thời xây dựng
Chương trình hành động của Tỉnh uỷ thực hiện Nghị quyết, chỉ đạo các cấp uỷ
trong tỉnh xây dựng chương trình hành động và tổ chức quán triệt Nghị quyết tới
cán bộ, đảng viên, trong đó xác định rõ nhiệm vụ trọng tâm và các giải pháp chủ
yếu cần tập trung thực hiện trong thời gian tới như sau:
Mục tiêu tổng quát: Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng
bộ, xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh; tiếp tục đổi mới toàn diện,
mạnh mẽ; phát huy truyền thống đoàn kết, huy động và sử dụng hiệu quả mọi
nguồn lực cho phát triển kinh tế với tốc độ tăng trưởng cao và bền vững, văn hoá -
xã hội phát triển, tiến bộ và công bằng xã hội, cải thiện rõ rệt đời sống vật chất và
tinh thần của nhân dân; tăng cường củng cố, xây dựng quốc phòng - an ninh vững
mạnh, giữ vững ổn định chính trị, xã hội; xây dựng Yên Bái trở thành tỉnh phát
triển khá vào năm 2015, tạo nền tảng để đến năm 2020 trở thành trung tâm kinh tế
của vùng Tây Bắc.
3.1.1.1. Thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái hiện nay phải được thực
hiện bằng các giải pháp đồng bộ trong đó chú trọng các giải pháp về kinh tế
Các chỉ tiêu chủ yếu giai đoạn 2011 - 2015:
Về kinh tế: Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân thời kỳ 2011 - 2015 đạt
13,5% trở lên. Trong đó: Nông, lâm nghiệp 5,4%; Công nghiệp - Xây dựng 17,1%;
Dịch vụ 14,5%.
Cơ cấu kinh tế năm 2015: Nông, lâm nghiệp 25%; Công nghiệp - Xây dựng
41%; Dịch vụ 34%.
88
Thu nhập bình quân đầu người năm 2015 đạt 25 triệu đồng trở lên.
Tổng thu cân đối ngân sách trên địa bàn năm 2015 đạt 1.700 tỷ đồng trở lên.
Tổng vốn đầu tư phát triển trong 5 năm đạt 34.000 tỷ đồng.
Về văn hoá - xã hội: Tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2015 đạt 45%. Giảm tỷ
lệ hộ nghèo bình quân mỗi năm 4% (theo tiêu chí của từng thời kỳ).
Hoàn thành và giữ vững 100% số xã, phường, thị trấn đạt chuẩn phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi và chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỷ lệ
trường mầm non, phổ thông đạt chuẩn quốc gia năm 2015 là 35%.
Tỷ lệ xã, phường, thị trấn đạt chuẩn quốc gia về y tế năm 2015 là 89%; tỷ lệ
trẻ em dưới 5 tuổi suy dinh dưỡng giảm còn 19%; tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là
1,086%. Năm 2015, có 85% hộ gia đình; 60% thôn, bản, tổ dân phố; 95% cơ quan,
đơn vị đạt tiêu chuẩn văn hoá. Tỷ lệ xã đạt tiêu chí nông thôn mới là 15 - 20%.
Về môi trường: Năm 2015, tỷ lệ che phủ của rừng đạt 63,5%; tỷ lệ hộ dân
nông thôn được sử dụng nước hợp vệ sinh đạt 85%.
Về xây dựng Đảng và hệ thống chính trị: Hàng năm, có 80% số tổ chức cơ
sở Đảng đạt trong sạch vững mạnh; chính quyền xã, phường, thị trấn vững mạnh
đạt 80%; kết nạp 1.800 đảng viên trở lên, tỷ lệ đảng viên đủ tư cách, hoàn thành tốt
nhiệm vụ 85% trở lên; vận động được 75% quần chúng vào các tổ chức đoàn thể.
Tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế cao, phát triển bền vững và bảo vệ
môi trường; chuyển dịch nhanh cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện
đại hoá; nâng cao chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế.
3.1.1.2. Thực hiện bình đẳng dân tộc ở Yên Bái hiện nay cần chú ý tới tính
đặc thù về cơ cấu, phân bố, thành phần văn hoá dân tộc của tỉnh miền núi phía Bắc
Khắc phục những khó khăn vốn có của một tỉnh miền núi nhiều dân tộc,
bước vào thực hiện công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng lãnh đạo, để
thực hiện tốt vấn đề bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái cần phải quán triệt và chỉ đạo
thực hiện có hiệu quả Nghị quyết Hội nghị Trung ương 7 (khóa IX) của Ban Chấp
hành Trung ương Đảng và Kết luận số 57-KL/TW ngày 03 tháng 11 năm 2009 của
Bộ Chính trị về công tác dân tộc; các sở, ban, ngành của tỉnh xây dựng Chương
trình hành động cụ thể để thực hiện có hiệu quả các chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng và Nhà nước về công tác dân tộc.
89
Đẩy nhanh tiến độ thực hiện các chính sách, chương trình, dự án ở vùng dân
tộc và miền núi; tổng kết các chính sách, chương trình, dự án trên cơ sở đó nghiên
cứu, đề xuất xây dựng cơ chế, chính sách, chương trình, dự án hỗ trợ đầu tư cho
vùng dân tộc và miền núi, cho đối tượng là người dân tộc thiểu số, trình cấp có
thẩm quyền phê duyệt và triển khai thực hiện trong giai đoạn 2011 - 2015; đồng
thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc thực hiện các chính sách, chương
trình, dự án; chủ động huy động, lồng ghép các nguồn lực để thực hiện các chương
trình, dự án trên địa bàn, nhất là vùng đặc biệt khó khăn;
- Các huyện, thị xã, thị trấn cần rà soát, điều chỉnh, bổ sung quy hoạch phát
triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc và miền núi; quy hoạch phát triển sản xuất, chế
biến gắn với quy hoạch dân cư và quy hoạch kết cấu hạ tầng kỹ thuật; đồng thời
đẩy mạnh chuyển giao, ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất, tạo ra các sản
phẩm hàng hóa có giá trị gia tăng cao.
- Tiếp tục làm tốt công tác tuyên truyền, giáo dục, làm cho mọi cán bộ, đảng
viên và nhân dân có nhận thức đúng đắn về công tác dân tộc của Đảng và Nhà nước
ta trong tình hình mới; nhận thức rõ những quan điểm, mục tiêu và giải pháp chủ
yếu của công tác dân tộc; coi đây là nhiệm vụ quan trọng, thường xuyên của tỉnh và
hệ thống chính trị vùng dân tộc và miền núi.
- Đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội gắn với xoá đói giảm nghèo vùng
đồng bào dân tộc; phát triển nông, lâm nghiệp theo hướng sản xuất hàng hoá, tăng
cường công tác khuyến nông, khuyến lâm, đưa tiến bộ khoa học và công nghệ vào
sản xuất. Tiếp tục chỉ đạo, tổ chức thực hiện tốt các chương trình, dự án, các chính
sách của Nhà nước và các cơ chế, chính sách của địa phương dành cho đồng bào
các dân tộc thiểu số. Trước mắt tổ chức triển khai thực hiện tốt Quyết định số
134/2004/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và
nước sinh hoạt cho đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn, thực hiện
thắng lợi Chương trình phát triển kinh tế - xã hội miền núi gắn với xoá đói giảm
nghèo của tỉnh giai đoạn 2011-2015.
- Chú trọng phát triển giáo dục, y tế, văn hoá, xã hội, nâng cao dân trí vùng
đồng bào dân tộc. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng và thực hiện đồng bộ
các chính sách đối với đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số và cán bộ làm công tác dân
90
tộc ở các cấp, nhất là đối với đội ngũ cán bộ ở cơ sở, đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế - xã hội nhanh, bền vững ở vùng dân tộc.
- Làm tốt công tác bảo vệ an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội vùng đồng
bào dân tộc; chủ động nắm và xử lý tốt những tình huống phức tạp, cảnh giác trước
âm mưu chia rẽ đoàn kết dân tộc; tích cực giải quyết các mâu thuẫn, khiếu kiện trong
nội bộ nhân dân, không để xảy ra những “điểm nóng”, về an ninh, trật tự xã hội.
- Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tích cực tham gia công tác
tuyên truyền, vận động trong đồng bào dân tộc, xây dựng đời sống văn hoá ở thôn,
bản; thường xuyên nắm chắc tình hình, tâm tư nguyện vọng đồng bào dân tộc; coi
trọng việc phát triển đảng viên, xây dựng bồi dưỡng đội ngũ già làng, trưởng bản,
những người có uy tín, tiêu biểu trong đồng bào dân tộc. Kiện toàn, nâng cao chất
lượng bộ máy làm công tác dân tộc ở cấp tỉnh, cấp huyện.
Phát huy những kết quả đạt được, trong thời gian tới, Đảng bộ và nhân dân
các dân tộc tỉnh Yên Bái tăng cường đoàn kết, tương trợ giúp đỡ nhau cùng phát
triển; tích cực đổi mới, phấn đấu đến năm 2015 đưa vùng dân tộc của tỉnh ra khỏi
tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, rút ngắn khoảng cách so với các vùng trong tỉnh.
3.1.1.3. Thực hiện bình đẳng dân tộc cần phải chú trọng mối quan hệ tác
động giữa yếu tố khách quan và nhân tố chủ quan
Trong tổ chức thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc ngoài việc thực hiện
tốt các chính sách của Trung ương và những điệu kiện tự nhiên khác, tỉnh cần phải
chủ động, tích cực huy động các nguồn vốn đầu tư trong nước, nước ngoài như dự
án giảm nghèo của Ngân hàng Thế giới, các chương trình của Tổ chức Plan… lồng
ghép các chương trình, dự án trên địa bàn vùng dân tộc để sớm phát huy hiệu quả.
Đồng thời chú trọng xây dựng các cơ chế, chính sách riêng của địa phương nhằm
huy động sức mạnh tổng hợp giúp các xã nghèo, các xã đặc biệt khó khăn, phát huy
nội lực trong vùng và trong đồng bào các dân tộc. Uỷ ban nhân dân tỉnh xây dựng,
ban hành các chính sách hỗ trợ giống cây trồng (lúa, ngô), giống cây ăn quả cho
các hộ nghèo là dân tộc thiểu số ở vùng đặc biệt khó khăn, chính sách hỗ trợ xây
dựng trường học, kiên cố hoá kênh mương, phát triển giao thông nông thôn; chính
sách tín dụng cho người nghèo vùng dân tộc vay; chính sách trợ giá giống lúa, ngô,
thuỷ sản; chính sách đào tạo bồi dưỡng cán bộ dân tộc thiểu số; chính sách động
viên khuyến khích già làng, trưởng bản, người có uý tín trong đồng bào có đạo.
91
3.1.2. Những phương hướng
Xây dựng và triển khai chương trình liên kết phát triển kinh tế vùng có tầm
chiến lược dài hạn nhằm phát huy những lợi thế so sánh của tỉnh Yên Bái và các
tỉnh, thành phố trong và ngoài nước để cùng nhau phát triển nhanh, bền vững. Tỉnh
Yên Bái sẽ tập trung phát triển những ngành hàng, sản phẩm có lợi thế so sánh,
trọng tâm là phát triển các vùng cây công nghiệp, nguyên liệu giấy và gỗ chế biến
công nghiệp, nguyên liệu sinh học, bột giấy, ván ép, xi măng, các sản phẩm từ đá
trắng, công nghiệp phụ trợ... để hợp lực thúc đẩy các tỉnh trong vùng phát triển.
Ngược lại, tỉnh Yên Bái tiếp nhận một phần nguyên liệu và thị trường từ các
tỉnh trong vùng để phát triển một số ngành công nghiệp có quy mô lớn như sản xuất
xi măng, gang thép, gốm sứ ... Phát triển vận tải hàng hóa qua ga đường sắt, cảng
sông tại xã Văn Phú (Thành phố Yên Bái) đi các tỉnh trong vùng. Phát triển các
khu, điểm du lịch lớn tại hồ Thác Bà (huyện Yên Bình). Xây dựng Yên Bái trở
thành trung tâm đào tạo nghề và dịch vụ y tế chất lượng cao của vùng Tây Bắc.
Xây dựng nền nông nghiệp phát triển toàn diện, sản xuất hàng hoá với quy
mô ngày càng lớn, có năng suất, chất lượng và sức cạnh tranh cao. Tiếp tục đầu tư
xây dựng các vùng chuyên canh như lúa, sắn, nguyên liệu giấy và gỗ chế biến công
nghiệp, chè, quế, măng tre, cây ăn quả, nuôi trồng thủy sản... có quy mô lớn về diện
tích và sản lượng. Phát triển và nâng cao hiệu quả kinh tế trang trại; nhân rộng các
mô hình liên kết, hợp tác phát triển sản xuất nông, lâm nghiệp, kinh tế nông thôn;
đẩy mạnh hoạt động khuyến nông, khuyến công và dạy nghề cho nông dân. Bảo
đảm vững chắc an ninh lương thực, cơ cấu lại ngành sản xuất chè, khôi phục, phát
triển một số vùng cây ăn quả truyền thống.
Tạo chuyển biến căn bản trong chăn nuôi và thuỷ sản theo hướng công
nghiệp, trang trại, đưa tỷ trọng chăn nuôi chiếm 30% giá trị sản xuất nông nghiệp.
Bảo vệ, phát triển và sử dụng rừng bền vững theo quy hoạch 3 loại rừng, đẩy mạnh
trồng rừng sản xuất, nhất là ở vùng cao; phát triển nhanh, vững chắc cây cao su theo
quy hoạch, bảo đảm hiệu quả kinh tế - xã hội cao; đưa tỷ trọng ngành lâm nghiệp đạt
25% tổng giá trị toàn ngành nông, lâm nghiệp, thuỷ sản. Xây dựng nông thôn mới
theo hướng văn minh, giàu đẹp, phù hợp với đặc điểm và điều kiện của tỉnh.
Phát triển công nghiệp theo hướng hiện đại, duy trì tốc độ tăng trưởng cao, là
khâu đột phá để thúc đẩy nền kinh tế phát triển nhanh và bền vững. Ưu tiên quy
92
hoạch và đầu tư xây dựng một số khu kinh tế (như khu kinh tế tổng hợp - dịch vụ -
du lịch ở các xã hữu ngạn sông Hồng thành phố Yên Bái, khu công nghiệp phía
Nam, khu công nghiệp Âu Lâu...) để thành phố Yên Bái trở thành động lực, đầu tàu
nền kinh tế của tỉnh, hướng vào công nghiệp chế biến nông lâm sản, thực phẩm, sản
phẩm đá trắng, gốm sứ, vật liệu xây dựng, thép, cơ khí, điện tử, sản xuất điện...
Đồng thời, tập trung xây dựng các khu, cụm công nghiệp vệ tinh tại các
huyện vùng thấp, hướng vào phát triển công nghiệp chế biến gỗ rừng trồng, chè,
sản xuất xi măng, sản phẩm đá trắng tại huyện Yên Bình; công nghiệp chế biến
chè, tuyển quặng sắt, sản xuất thép, kim loại màu, đá và gạch xây dựng tại huyện
Trấn Yên, Văn Chấn, đưa huyện Văn Chấn trở thành trung tâm động lực phát triển
khu vực phía Tây của tỉnh; công nghiệp chế biến quế, tinh bột sắn, gỗ rừng trồng ở
huyện Văn Yên; sản xuất, chế biến đá trắng, xi măng ở huyện Lục Yên... Tăng
cường công tác khuyến công, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và làng
nghề ở nông thôn. Phấn đấu giá trị sản xuất công nghiệp năm 2015 đạt 7.400 tỷ
đồng trở lên.
Phát triển mạnh các ngành dịch vụ, đạt mức tăng trưởng cao, chiếm tỷ trọng
lớn hơn trong GDP. Tiếp tục mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động thương
mại. Xây dựng thương hiệu cho các sản phẩm có lợi thế và hỗ trợ hoạt động xuất
khẩu nhằm đưa kim ngạch xuất khẩu năm 2015 gấp 4 - 5 lần năm 2010. Phát triển
du lịch sinh thái, văn hoá, di tích lịch sử, trọng tâm là du lịch hồ Thác Bà, từng
bước đưa du lịch trở thành ngành kinh tế quan trọng của tỉnh. Đẩy mạnh phát triển
và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ. Tăng cường hoạt động đối ngoại, nhất là
về kinh tế.
Tạo bước đột phá trong xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội. Tập trung
hoàn thiện mạng lưới giao thông theo hướng đồng bộ, có tính liên kết cao giữa các
vùng trong tỉnh, các tỉnh trong khu vực và hành lang kinh tế Vân Nam - Hải Phòng,
đường cao tốc Hà Nội - Lào Cai. Nâng cấp các tuyến đường huyết mạch, xây dựng
mới tuyến đường ngang Lục Yên - Văn Yên - Văn Chấn - Mù Cang Chải, đường
vành đai III Thành phố Yên Bái - Trấn Yên, cầu Cổ Phúc vượt sông Hồng. Kiên cố
hoá đường ô tô đến trung tâm xã, đảm bảo đi lại được 4 mùa. Xây dựng, cải tạo,
nâng cấp hệ thống thuỷ lợi, cấp nước sinh hoạt, thoát nước, các công trình xử lý
chất thải và hạ tầng các lĩnh vực kinh tế - xã hội khác. Phát triển mạng lưới đô thị
93
và kết cấu hạ tầng đô thị theo hướng hiện đại, tạo nền tảng để thành phố Yên Bái
trở thành đô thị loại II vào năm 2020.
Tiếp tục quan tâm lãnh đạo và ưu tiên đầu tư các nguồn lực cho phát triển
vùng cao. Nâng cao ý thức tự lực vươn lên của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Ưu
tiên xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, trước hết là hệ thống giao thông;
thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 30a của Chính phủ. Tập trung thực hiện giao đất,
giao rừng, phát triển kinh tế đồi rừng, đẩy mạnh trồng rừng sản xuất, trồng cây
công nghiệp, chăn nuôi đại gia súc, trồng cây lương thực và cây ăn quả đặc sản.
Phát triển văn hoá - xã hội, giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo, bảo đảm an sinh xã hội; giữ
vững quốc phòng - an ninh, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở vững mạnh.
3.2. Một số giải pháp chủ yếu
3.2.1. Tập trung phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao đời sống vật chất -
tinh thần ở vùng dân tộc trong tỉnh
Phát triển kinh tế ở miền núi, từng bước cải thiện đời sống nhân dân các dân
tộc nhất là ở các vùng sâu, vùng xa, vùng cao để mọi người có cơm ăn, áo mặc,
được học hành và được chăm sóc sức khoẻ chính là giải pháp quan trọng nhằm đẩy
mạnh quá trình bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái. Như vậy, cần phải chuyển nền
kinh tế tự cung tự cấp và khai thác tự nhiên sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành
phần. Sự phát triển của nền kinh tế hàng hoá sẽ thúc đẩy sự giao lưu hàng hoá giữa
các vùng trong tỉnh và tạo ra một thị trường thống nhất, có tác dụng thức tỉnh và lôi
kéo các dân tộc ít người và đông người vào các mối quan hệ kinh tế - xã hội, từ đó
khắc phục tình trạng cô lập, trì trệ của kinh tế tự cung tự cấp - nguyên nhân của tình
trạng lạc hậu, chênh lệch về trình độ phát triển kinh tế giữa các dân tộc. Đó là giải
pháp đúng đắn phù hợp với điều kiện các dân tộc thiểu số ở tỉnh Yên Bái, nhưng đó
cũng là cách làm chung nhất. Để khai thác mọi tiềm năng, thế mạnh, giải phóng
mọi năng lực sản xuất, làm cho các dân tộc phát triển mạnh mẽ và vững chắc thì
cách làm cần phải cụ thể hơn nữa.
Phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần là một trong những chủ trương
lớn của Đảng ta trong công cuộc đổi mới đất nước. Phát triển nền kinh tế nhiều
thành phần nhằm khơi dậy tính năng động của nền kinh tế, tạo nên sự phù hợp của
quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất để thúc đẩy lực
lượng sản xuất phát triển.
94
Thực tiễn những năm đổi mới cho thấy: phát triển kinh tế nhiều thành phần
là động lực tăng trưởng và phát triển kinh tế, là phương thức giải phóng lực lượng
sản xuất và huy động tối đa, sử dụng có hiệu quả các nguồn lực; đồng thời là con
đường xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất cho phù hợp với trình độ phát triển
của lực lượng sản xuất trong suốt thời kỳ quá độ.
Sau hơn 20 năm đổi mới, do các thành phần kinh tế phát triển, tỉnh Yên Bái
đã huy động được nhiều nguồn lực trong và ngoài vùng, tạo ra động lực phát triển
kinh tế mạnh mẽ. Kinh tế tăng trưởng ở mức khá cao và liên tục trên tất cả các
ngành nông, lâm, ngư nghiệp; công nghiệp dịch vụ. Nhờ đó, đời sống của nhân dân
trong vùng được cải thiện và nâng lên; bộ mặt nông thôn cũng như thành thị có
nhiều khởi sắc, làm xuất hiện nhiều nhân tố mới trong giải phóng sức sản xuất và
phát huy nội lực trong việc thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa trên toàn tỉnh.
Song, thực tế phát triển kinh tế nhiều thành phần ở tỉnh Yên Bái vẫn chưa tương
xứng với tiềm năng, lợi thế của vùng và đã bộc lộ nhiều bất cập: quy mô kinh tế
còn nhỏ bé, tự cung tự cấp, hiệu quả kinh tế thấp; cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm,
các tiềm năng, lợi thế lớn của tỉnh chậm được khai thác; thiếu cơ chế, chính sách
phù hợp để sớm khai thác các tiềm năng về đất đai, đồi rừng, thủy điện, khoáng
sản, du lịch, kinh tế cửa khẩu… Chất lượng công tác quy hoạch, kế hoạch chưa cao,
chưa gắn kết tốt giữa phát triển sản xuất nông nghiệp, lâm nghiệp với công nghệ
chế biến và thị trường… Để phát triển lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái cần phải
giải quyết tốt những vấn đề sau:
Tiếp tục đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà nước, cả
doanh nghiệp trung ương và địa phương, để doanh nghiệp nhà nước luôn giữ vai trò
chủ đạo. Muốn vậy cần:
Hoàn thiện cơ chế, chính sách để các doanh nghiệp nhà nước hoạt động
trong môi trường cạnh tranh công khai, minh bạch, nâng cao hiệu quả, xóa bỏ độc
quyền và đặc quyền sản xuất, kinh doanh của doanh nghiệp nhà nước, để doanh
nghiệp nhà nước thực sự tự chủ, tự chịu trách nhiệm trên thị trường và trước pháp
luật. Gắn trách nhiệm, quyền hạn và lợi ích của người quản lý doanh nghiệp với kết
quả hoạt động của doanh nghiệp; chăm lo đào tạo đội ngũ quản trị giỏi, đáp ứng tốt
yêu cầu quản lý doanh nghiệp theo chế độ hiện tại.
95
Đẩy mạnh việc sắp xếp, đổi mới và nâng cao hiệu quả doanh nghiệp nhà
nước mà trọng tâm là cổ phần hóa. Cơ cấu lại doanh nghiệp nhà nước, tập trung
chủ yếu vào một số lĩnh vực sản xuất tư liệu sản xuất, kết cấu hạ tầng, chế biến
nông sản thực phẩm… Đồng thời đề phòng và khắc phục những lệch lạc, tiêu cực
trong quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước.
- Tiếp tục đổi mới và phát triển loại hình kinh tế tập thể:
Cần tổng kết thực tiễn, sớm có chính sách, cơ chế cụ thể khuyến khích phát
triển mạnh hơn các loại hình kinh tế tập thể đa dạng về hình thức sở hữu và hình
thức tổ chức sản xuất kinh doanh: tổ hợp tác xã, hợp tác xã liên gia, hợp tác xã kiểu
mới, chú trọng phát triển và nâng cao hiệu quả hoạt động của hợp tác xã, liên hiệp
hợp tác xã cổ phần. Chuyển đổi các nông trường, tổng đội thanh niên xung phong
xây dựng kinh tế thành các doanh nghiệp kinh doanh nông nghiệp và chế biến nông
sản. Đối với các vùng cây nguyên liệu tập trung đã xây dựng tỉnh cần tăng cường
củng cố quan hệ chặt chẽ giữa doanh nghiệp chế biến và nông dân trên cơ sở hợp
đồng kinh tế, cùng với sự quản lý và hỗ trợ của Nhà nước.
Khuyến khích huy động các nguồn vốn từ các thành viên để tăng vốn hoạt
động cho hợp tác xã, tăng vốn đầu tư phát triển, tăng tài sản và quỹ cho hợp tác xã.
Bằng các nguồn vốn phát triển, nhà nước hỗ trợ hợp tác xã theo chương trình mục
tiêu cụ thể trên cơ sở đã có quy hoạch phát triển, được các cấp phê duyệt. Trong
nền kinh tế thị trường, mọi cá nhân đều bình đẳng như nhau trong cạnh tranh.
Nhưng do hợp tác xã có liên quan đến nông dân, do đó cần có các chính sách miễn,
giảm thuế cụ thể.
+ Có thể sử dụng hình thức cho vay vật tư, thiết bị trả chậm, nhằm giúp các
hợp tác xã, hiệp hội… của nông dân đầu tư đa dạng hóa sản xuất theo những quy
mô hợp lý, góp phần giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn.
+ Coi trọng hỗ trợ về tài chính để đầu tư giống cây con mới, chuyển giao kỹ
thuật khuyến nông, khuyến lâm; đào tạo cán bộ quản lý, hỗ trợ xuất khẩu; đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng (khu vực thủy sản, làng nghề, chợ đầu mối), để tạo điều
kiện thành lập trung tâm thương mại ở các vùng, khu vực sản xuất hàng hóa lớn.
- Phát triển mạnh các loại hình doanh nghiệp tư nhân:
Kinh tế tư nhân là một bộ phận trong cơ cấu của nền kinh tế thị trường định
hướng XHCN, được Đảng và Nhà nước khuyến khích phát triển rộng rãi, trong mọi
96
ngành nghề hoặc lĩnh vực mà nhà nước không cấm, được hỗ trợ cả về tài chính trên
những định hướng ưu tiên của nhà nước.
Thế mạnh của thành phần kinh tế tư nhân là có động lực cá nhân mạnh mẽ,
làm cho hoạt động sản xuất kinh doanh diễn ra năng động, có hiệu quả cao. Vì vậy,
việc tổ chức thực hiện tốt hoạt động của thành phần kinh tế này sẽ là phương tiện
và động lực thúc đẩy mạnh mẽ nhân dân phát huy nguồn nội lực, tích cực hưởng
ứng, tham gia bỏ vốn đầu tư vào sản xuất kinh doanh một cách rộng rãi và nhanh
chóng nhất.
Để kinh tế tư nhân, thành phần kinh tế năng động và có nhiều tiềm năng phát
triển, cần phải:
+ Xóa bỏ mọi rào cản, mọi phân biệt đối xử trong các quan hệ tài chính, tín
dụng, giá thuê đất, thủ tục hành chính trong thành lập doanh nghiệp,… cho các loại
hình doanh nghiệp tư nhân phát triển, không hạn chế quy mô trong mọi ngành
nghề, lĩnh vực sản xuất, kinh doanh quan trọng của nền kinh tế.
+ Tạo môi trường thuận lợi để các loại hình doanh nghiệp tư nhân phát huy
cao độ các nguồn nhân lực để đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh ở mọi ngành
nghề mà pháp luật không cấm.
+ Cổ phần hóa doanh nghiệp, bán cổ phần cho người lao động, liên doanh,
liên kết các doanh nghiệp, liên doanh với kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể. Xây
dựng mối quan hệ tốt giữa chủ doanh nghiệp và người lao động.
Khi kinh tế tư nhân trong nước phát triển sẽ đảm đương được các chức năng
kinh tế mà kinh tế nhà nước chuyển giao và cùng liên kết với kinh tế nhà nước và
kinh tế hợp tác xã để tạo thành một đối tác mạnh trong liên doanh với bên ngoài,
nâng cao năng lực cạnh tranh trên thị trường trong nước và quốc tế. Sự phát triển
của kinh tế tư nhân sẽ tiếp tục góp phần đổi mới bộ mặt kinh tế xã hội, tạo ra nhiều
sản phẩm và dịch vụ cho xã hội, thu hút lao động xã hội, huy động một phần nguồn
lực trong dân để phát triển kinh tế.
- Thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư nước ngoài:
Trong những năm qua, do kinh tế tư nhân trong nước còn non trẻ, thực lực
còn yếu, chưa trở thành đối tác mạnh, nên hầu như toàn bộ vốn đầu tư của nước
ngoài vào nước ta vận động dưới các hình thức kinh tế tư bản nhà nước, tức là trong
97
mối quan hệ liên doanh hợp tác trực tiếp với kinh tế nhà nước. Đây là khu vực có
mức tăng trưởng kinh tế mạnh nhất trong nền kinh tế từ cuối năm 1988 đến nay.
Những năm qua, kinh tế tư bản nhà nước đã góp phần quan trọng vào các
thành quả mà nền kinh tế của tỉnh đã đạt được. Để khuyến khích mạnh mẽ và tạo
điều kiện thuận lợi cho kinh tế nước ngoài đầu tư vào tỉnh nhà, tạo điều kiện thuận
lợi cho nền kinh tế của tỉnh sớm hòa nhập vào nền kinh tế trong nước, đáp ứng yêu
cầu rút ngắn quá trình phát triển, sớm thoát khỏi nguy cơ tụt hậu, tỉnh cần chú trọng:
+ Cải thiện môi trường pháp lý và kinh tế đối với đầu tư nước ngoài. Đa
dạng hóa các hình thức và cơ chế để thu hút mạnh nguồn lực của các nhà đầu tư
nước ngoài và tỉnh ngoài vào những ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh quan trọng.
+ Mở rộng, thu hút đầu tư của các tổ chức và cá nhân người nước ngoài tham
gia hoạt động tại địa bàn tỉnh; có biện pháp đẩy mạnh xúc tiến vay vốn ODA để
đẩy nhanh hơn và chấm dứt việc giải ngân nguồn vốn này chậm như hiện nay,
chuẩn bị đủ vốn tương ứng, chuẩn bị tốt các dự án đầu tư, nâng cao hiệu quả pháp
lý và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn.
+ Mở rộng các hình thức thu hút nhà đầu tư ngoài tỉnh, đầu tư kinh doanh
trong lĩnh vực xây dựng kết cấu hạ tầng, bất động sản dưới các hình thức BT,
BOT…
Ngoài các chính sách đặc biệt về huy động nguồn vốn đầu tư phát triển cho
vùng, các địa phương trong tỉnh cần tiếp tục thực hiện các chính sách hiện hành và
các chính sách tại Quyết định 186. Cụ thể:
+ Chính sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ gia
đình đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó khăn theo Quyết định
134/2004/QĐ - TTg, ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ.
+ Chính sách định canh, định cư, ổn định dân di cư tự do, phát triển vùng
kinh tế mới và chính sách xoá bỏ cây thuốc phiện.
+ Chính sách về khuyến khích phát triển công nghiệp nông thôn, về phát
triển dịch vụ, ứng dụng chuyển giao khoa học và công nghệ.
+ Chính sách khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia phát triển kinh
tế - xã hội.
98
Như vậy, phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần nhằm đảm bảo
yêu cầu phù hợp giữa quan hệ sản xuất với trình độ phát triển của lực lượng sản
xuất nhằm thúc đẩy lực lượng sản xuất ở tỉnh Yên Bái phát triển là một giải pháp
quan trọng để góp phần xây dựng tồn tại xã hội mới ở tỉnh Yên Bái.
3.2.2. Đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng dân tộc ở
tỉnh Yên Bái
Trên thực tế những năm qua, công tác tuyên truyền, giáo dục về bình đẳng
dân tộc ở vùng Yên Bái còn nhiều bất cập, hạn chế, dẫn đến chất lượng công tác
tuyên truyền chưa cao. Vì vậy cần phải đẩy mạnh công tác tuyên truyền cho phù
hợp hơn, đạt hiệu quả cao hơn, với những giải pháp chủ yếu là:
Cùng với những nội dung cơ bản trước đây vẫn tuyên truyền, như: tư tưởng
Hồ Chí Minh về công tác dân tộc và đại đoàn kết các dân tộc; các chủ trương,
đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về dân tộc và các chương
trình lớn của Nhà nước nhằm phát triển kinh tế - xã hội vùng dân tộc thiểu số
(Chương trình 134, 135, 167…) cũng như những kết quả đạt được trong việc thực
hiện các chủ trương, chính sách, chương trình này, thời gian tới, cần căn cứ vào yêu
cầu phát triển của Yên Bái trong bối cảnh mới để đẩy mạnh nội dung tuyên truyền.
Một là, yêu cầu đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Yên
Bái. Nghị quyết 37 -NQ/TW của Bộ Chính trị về phương hướng phát triển kinh tế -
xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng Trung du và miền núi Bắc Bộ đến
năm 2010 đã xác định mục tiêu: “Đẩy nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội vùng
Trung du và miền núi Bắc Bộ cao hơn nhịp độ phát triển chung của Nhà nước; cải
thiện rõ rệt hệ thống cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội đáp ứng yêu cầu phát triển kinh
tế;… gắn phát triển kinh tế - xã hội với bảo vệ môi trường, đảm bảo quốc phòng an
ninh, ổn định chính trị, bảo vệ vững chắc chủ quyền quốc gia". Đến nay đã bước
sang năm cuối của việc thực hiện Nghị quyết 37 nhưng nhiều mục tiêu Nghị quyết
đề ra vẫn chưa đạt được. Vì vậy, những năm tới, các mục tiêu này vẫn đòi hỏi các
cấp, ngành và nhân dân tỉnh Yên Bái cần phải phấn đấu nỗ lực thì mới thực hiện
được. Để thực hiện hoàn thành các mục tiêu này, nhiệm vụ trọng tâm của tỉnh Yên
Bái là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chỉ có bằng con đường này thì mới
đẩy nhanh nhịp độ phát triển kinh tế - xã hội, đưa Yên Bái sớm thoát khỏi tình
99
trạng nghèo nàn, lạc hậu và góp phần vào thực hiện mục tiêu xây dựng nước ta trở
thành nước công nghiệp có trình độ phát triển trung bình vào năm 2020.
Tuy nhiên, do ở nhiều vùng đồng bào dân tộc thiểu số trình độ dân trí còn
thấp, chưa nhận thức đầy đủ về công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nên thời gian tới cần
đẩy mạnh tuyên truyền, nâng cao nhận thức cho cán bộ, đảng viên và nhân dân các
dân tộc Yên Bái hiểu rõ về mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở vùng dân tộc - miền núi; tuyên truyền về những cơ hội, thách thức, các thể
chế, định chế… khi Việt Nam đã là thành viên của WTO. Cổ vũ, động viên đồng
bào các dân tộc chuyển đổi cơ cấu sản xuất; khuyến nông, khuyến lâm, khuyến
công, tiếp nhận chuyển giao khoa học kỹ thuật để phát triển kinh tế, xóa đói giảm
nghèo, từng bước vươn lên làm giàu, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc,
xây dựng cuộc sống ấm no, văn minh, hạnh phúc. Tuyên truyền về tiềm năng, thế
mạnh của tỉnh Yên Bái để thu hút vốn đầu tư trong và ngoài nước vào vùng này.
Hai là, trong bối cảnh hiện nay, cần chú trọng, tăng cường tuyên truyền, giáo
dục lòng yêu nước, truyền thống đại đoàn kết giữa các dân tộc trong lịch sử cũng
như công cuộc đổi mới để tạo sự thống nhất và nâng cao ý thức, trách nhiệm công
dân, ý thức quốc gia dân tộc, ý thức bảo vệ chủ quyền biên giới quốc gia và sự
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ cho đồng bào các dân tộc thiểu số, nhất là đồng bào
dân tộc sinh sống ở vùng biên giới, vùng đồng bào Mông.
Ba là, tuyên truyền, giáo dục, giải thích cho đồng bào các dân tộc thiểu số
tỉnh Yên Bái nhận thức rõ và nâng cao tinh thần cảnh giác trước các âm mưu, hoạt
động chia rẽ khối đại đoàn kết; lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để thực hiện
“diễn biến hoà bình” và bạo loạn lật đổ cách mạng nước ta của các thế lực thù địch
cũng như các luận điệu vu cáo, xuyên tạc các chủ trương, chính sách của Đảng,
Nhà nước, kích động biểu tình, khiếu kiện của các tổ chức phản đông, các phần tử
cực đoan.
Bốn là: Các cơ quan thông tin đại chúng tăng cường thời lượng phát sóng,
tăng chuyên trang, chuyên mục để phổ biến, tuyên truyền, giáo dục cho đồng bào
dân tộc. Chú trọng mở rộng phạm vi phủ sóng, tăng số lượng phát hành báo, tạp
chí, bản tin... bằng tiếng dân tộc thiểu số ở các dân tộc có chữ viết. Tăng cường cơ
sở vật chất, kỹ thuật, công nghệ đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng cho đội ngũ cán
bộ, phóng viên, biên tập viên để nâng cao kiến thức, nghiệp vụ, am hiểu phong tục,
100
tập quán, tâm lý của đồng bào các dân tộc, từ đó nâng cao chất lượng nội dung các
tin, bài, phong phú, hấp dẫn về hình thức thể hiện, nhất là ở các báo đài có chữ,
tiếng dân tộc thiểu số. Coi trọng việc rà soát, quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng và đề bạt đội ngũ phóng phóng viên, biên tập viên là người dân tộc thiểu số.
Đặc biệt phát huy vai trò tuyên truyền của đài Truyền hình của Trung ương, khu
vực và đài phát thanh - truyền hình cấp tỉnh, huyện
- Năm là: Đẩy mạnh công tác tuyên truyền miệng. Đối với đồng bào dân tộc
thiểu số, trình độ dân trí còn thấp, nhiều người còn mù chữ, chưa biết tiếng phổ
thông thì công tác tuyên truyền miệng rất có hiệu quả. Để làm tốt công tác tuyên
truyền miêng, cần tập trung xây dựng, củng cố, kiện toàn đội ngũ báo cáo viên,
tuyên truyền viên cả về số lượng, về kiến thức, nhất là khả năng diễn đạt bằng tiếng
dân tộc thiểu số. Đặc biệt chú trọng phát huy vai trò già làng, trưởng bản, người có
uy tín, chức sắc tôn giáo trong đồng bào dân tộc thiểu số, cán bộ y tế, đội ngũ giáo
viên, lực lượng vũ trang... tham gia làm công tác tuyên truyền miệng. Thực tế cho
thấy, đây là đội ngũ làm công tác tuyên truyền rất có hiệu quả, bởi lẽ họ là những
người "4 cùng" với dân, có điều kiện để nắm vững địa bàn, nắm vững các đối
tượng, biết tiếng và hiểu phong tục, tập quán, tâm lý, nguyện vọng của đồng bào
dân tộc, vì vậy khi tuyên truyền dễ đi vào lòng dân, được dân tin hơn. Phát huy vai
trò của lực lượng này, đi đôi với việc tập huấn, bồi dưỡng, cung cấp các nội dung
tuyên truyền, các tài liệu, tư liệu cần thường xuyên tiến hành đào tạo, bồi dưỡng
nghiệp vụ tuyên truyền cho họ. Sớm xây dựng cơ chế, chính sách đãi ngộ thỏa đáng
để thu hút những đối tượng này tham gia làm công tác tuyên truyền.
Sáu là: Tuyên truyền, giáo dục quần chúng qua các hoạt động văn hoá, văn
nghệ, lễ hội, các sinh hoạt văn hóa dân gian, thể thao
Kinh nghiệm cho thấy, thông qua con đường văn hoá để làm công tác tuyên
truyền, giáo dục quần chúng là con đường mang lại hiệu quả cao bởi vì một hệ
thống tư tưởng, quan điểm, chủ trương có sức sống là khi nó được diễn đạt thông
qua các hoạt động văn hoá, văn nghệ. Có chính sách đầu tư nâng cao chất lượng
hoạt động của các đội văn nghệ chuyên nghiệp của các dân tộc thiểu số Yên Bái;
khuyến khích, hỗ trợ phát triển phong trào văn nghệ quần chúng, các hoạt động thể
thao truyền thống và hiện đại. Chú trọng tuyên truyền, giáo dục thông qua các đội
thông tin lưu động, đội tuyên truyền văn hoá, qua các hình thức tranh ảnh, panô, áp
101
phích, triển lãm. Tăng cường sản xuất các bộ phim phản ánh về các dân tộc thiểu số
để trình chiếu rộng rãi, chuyển thể những bộ phim này sang băng, đĩa lồng tiếng
dân tộc để phục vụ đồng bào.
Khôi phục lại các đội chiếu bóng lưu động, các đội thông tin tuyên truyền cổ
động tới các thôn, bản, vùng sâu, vùng xa, vùng có đồng bào theo đạo để tuyên
truyền các chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước.
3.2.3. Hoàn thiện chính sách bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái
* Hoàn thiện chính sách về bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực chính trị
- Tiếp tục đẩy nhanh nhịp độ đổi mới phát triển kinh tế miền núi và vùng dân
tộc thiểu số. Kết quả của hoạt động này là cơ sở quyết định lớn đến biến đổi tích
cực các mặt của đời sống xã hội trong đó có phương diện chính trị
- Tiếp tục củng cố cơ sở Đảng ở địa bàn của đồng bào dân tộc:
Đẩy mạnh việc phát triển đảng viên gắn với xây dựng lực lượng cốt cán ở
cộng đồng dân cư: thông qua lao động sản xuất, các phong trào quần chúng, thông
qua những người có uy tín trong cộng đồng để phát hiện những quần chúng tốt, có
tư tưởng tiến bộ, có hiểu biết văn hoá, chấp hành tốt chủ trương, chính sách, các
quy định của Đảng và Nhà nước.
Chú trọng các chức danh đại biểu HĐND xã, trưởng thôn, trưởng bản,
trưởng các dòng họ, đặc biệt ở những thôn bản ít hoặc chưa có đảng viên. Gắn với
việc phát triển đảng viên với việc xây dựng lực lượng nòng cốt tin cậy trong cộng
đồng bào theo đạo và không theo đạo.
- Xây dựng và hoàn thiện bộ máy chính quyền cơ sở:
Với đặc thù của tỉnh là có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số sinh sống. Trong
công tác cán bộ tỉnh cần phải lưu ý đến tính cơ cấu dân tộc và có sự quy định tỷ lệ
đại biểu tương ứng với tỷ lệ dân số các dân tộc.
- Tăng cường củng cố các đoàn thể chính trị ở cơ sở:
Mặt trận và các đoàn thể nhân dân là cầu nối liền giữa Đảng, chính quyền
với các tầng lớp nhân dân. Do vậy việc xây dựng và củng cố tổ chức Mặt trận và
các đoàn thể vững mạnh là nhiệm vụ rất quan trọng ở cở sở hiện nay nói chung và
vùng đồng bào dân tộc nói riêng.
102
Tăng cường sự lãnh đạo của cấp uỷ Đảng và sự phối hợp, giúp đỡ tạo điều
kiện của chính quyền đối với hoạt động của Mặt trận, các đoàn thể, nhất là công tác
vận động quần chúng thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội, giữ vững
trật tự, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết dân tộc, đoàn kết lương giáo…
Mặt trận và các đoàn thể ở cơ sở cần xây dựng nội dung và phương thức hoạt
động phù hợp với nhiệm vụ chính trị và yêu cầu thực tế đặt ra. Nội dung sinh hoạt
cần phong phú, dễ hiểu, dễ nhớ. Cần có phương châm hoạt động cụ thể, xây dựng
các mô hình mẫu, điển hình của tổ chức để làm điểm chỉ đạo để dễ vận động đối
với đồng bào dân tộc thiểu số.
* Hoàn thiện chính sách về bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực kinh tế
Thứ nhất, kết hợp các mục tiêu kinh tế với các mục tiêu xã hội, trên bình
diện của tỉnh cũng như từng lĩnh vực, địa phương. Sự kết hợp các mục tiêu kinh tế
với các mục tiêu xã hội được xác định ở tất cả các cấp, các ngành từng địa phương,
tạo thành sự thống nhất trong chính sách kinh tế và chính sách xã hội của tỉnh. Sự
kết hợp này bảo đảm tính đồng bộ, công bằng và bình đẳng cho mọi người dân, mọi
vùng miền, khắc phục tình trạng phân hoá, bất bình đẳng do các khuyết tật của cơ
chế thị trường và những phát sinh do nền kinh tế trong quá trình chuyển đổi gây ra.
Thứ hai, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước và từng
chính sách phát triển. Tiếp tục kế thừa và phát triển những quan điểm được xác
định từ Đại hội XIII, Đại hội XI khẳng định, cần phải thực hiện tiến bộ và công
bằng xã hội ngay trong từng chính sách phát triển. Điều đó được thể hiện qua các
nội dung sau:
- Thực hiện tốt các chính sách xã hội trên cơ sở phát triển kinh tế, gắn bó
hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ. Một vấn đề có tính quy
luật là chỉ có trên cơ sở phát triển kinh tế mới có điều kiện để làm tốt chính sách xã
hội. Như vậy, yêu cầu này nhằm nhấn mạnh phải tập trung phát triển kinh tế, một
nhiệm vụ trọng tâm. Đồng thời, thực hiện tốt chính sách xã hội, không chỉ đảm bảo
cho sự phát triển bền vững của nền kinh tế mà còn thúc đẩy kinh tế phát triển. Sự
gắn bó giữa quyền lợi và nghĩa vụ, cống hiến và hưởng thụ là vấn đề có tính
nguyên tắc trong xã hội. Chủ nghĩa xã hội mà ta đang xây dựng là do nhân dân thực
hiện. Nhà nước chỉ tạo điều kiện và môi trường để nhân dân bằng lao động của
103
mình không ngừng nâng cao đời sống cho mình và tham gia vào sự phát triển của
xã hội. Gắn nghĩa vụ với quyền lợi cống hiến với hưởng thụ là bảo đảm sự công
bằng trong đời sống xã hội, chống ỷ lại, trông chờ, thụ động.
- Coi trọng chỉ tiêu GDP bình quân đầu người gắn với chỉ tiêu phát triển con
người (HDI). Từ điểm xuất phát thấp, trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, tỉnh cần phải rất quan tâm đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh
tế, rút ngắn khoảng cách giữa tỉnh nhà với các tỉnh ngoài. Vì vậy, coi trọng chỉ tiêu
tăng trưởng GDP là rất cần thiết. Mặt khác, mục tiêu phát triển kinh tế là để phục vụ
con người, để con người phát triển toàn diện. Chỉ tiêu HDI liên quan trực tiếp đến
các mức độ đáp ứng các nhu cầu xã hội của con người đến chất lượng cuộc sống.
Tăng trưởng GDP là cơ sở để thực hiện chiến lược con người và các chính sách xã
hội của tỉnh. Vì vậy, Đảng bộ tỉnh Yên Bái cần xác định yêu cầu coi trọng chỉ tiêu
GDP phải gắn liền với chỉ tiêu con người HDI trong suốt quá trình phát triển và
trong từng chính sách kinh tế - xã hội. Từ thực tiễn xây dựng của tỉnh trong những
năm qua, nhằm từng bước thực hiện quan điểm của Đảng để xây dựng và phát triển
các vấn đề xã hội trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chúng ta cần
đồng thời triển khai thực hiện các chủ trương và giải pháp lớn như sau:
Trước hết là khuyến khích mọi người dân làm giàu theo pháp luật, thực hiện
có hiệu quả các chính sách xoá đói giảm nghèo. Với nội dung này, trong những
năm tới cần thực hiện các yêu cầu là tạo điều kiện và cơ hội tiếp cận bình đẳng
nguồn lực phát triển, hưởng thụ các dịch vụ xã hội cơ bản, vươn lên xoá đói giảm
nghèo bền vững ở các vùng, khắc phục tình trạng bao cấp dàn đều, tư tưởng ỷ lại,
phấn đấu không còn hộ đói, giảm mạnh hộ nghèo, tăng nhanh hộ giàu, từng bước
xây dựng gia đình cộng đồng và xã hội phồn vinh. Tạo được động lực làm giàu
trong đông đảo các tầng lớp dân cư, khuyến khích những người đã thoát nghèo
mạnh dạn vươn lên làm giàu và giúp những người khác sớm thoát khỏi hộ nghèo.
Xây dựng chương trình xoá đói giảm nghèo sát với điều kiện cụ thể của từng địa
phương, dành nguồn ưu tiên hỗ trợ các vùng xa, khó khăn, có nhiều đồng bào dân
tộc thiểu số. Giảm dần chênh lệch về phát triển kinh tế và đời sống của nhân dân
giữa các vùng, miền và các tầng lớp dân cư. Phấn đấu đến năm 2015 giảm tỷ lệ hộ
nghèo bình quân mỗi năm 4%.
104
* Hoàn thiện chính sách bình đẳng dân tộc trên lĩnh vực văn hoá - xã hội
- Xây dựng chính sách phát triển văn hóa đồng bộ, củng cố các thiết chế văn
hóa hiện có; tiếp tục đầu tư xây dựng các điểm bưu điện, văn hóa xã, trung tâm văn
hóa cộng đồng của các làng bản; xây dựng các trạm truyền thanh, trạm phát lại
truyền hình cho các xã chưa phủ sóng phát thanh, truyền hình Việt Nam; tăng thời
lượng phát thanh, truyền hình bằng tiếng dân tộc.
- Tăng cường công tác tuyên truyền, nâng cao nhận thức của đồng bào các
dân tộc, nhất là đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ người dân tộc thiểu số về nhiệm vụ giữ
gìn và phát huy giá trị văn hóa, đặc biệt là việc bảo tồn giá trị văn hóa truyền thống
các dân tộc. Văn hóa các dân tộc thiểu số ở Yên Bái chỉ thực sự phong phú, lớn
mạnh khi chính nhà văn là người dân tộc sáng tác và được viết bằng chính ngôn
ngữ và chữ viết của dân tộc mình, vì thế cần định hướng, giúp đỡ, cổ vũ các nhà
văn dân tộc thiểu số. Chính yếu tố đó giúp các nhà văn các dân tộc thiểu số phát
triển một cách tự giác chứ không dừng lại ở tự phát. Các nhà văn, nhà thơ, nhà
nghiên cứu là người các dân tộc thiểu số cần đóng một vai trò quan trọng là khai
thác, phát triển vốn văn hóa dân gian của các dân tộc thiểu số lên một tầm cao mới
- văn hóa có tính bác học, góp phần làm cho nền văn hóa, văn nghệ Việt Nam càng
phong phú, đa dạng.
- Tiến hành điều tra, nghiên cứu về di sản văn hóa các dân tộc thiểu số (cả di
sản văn hóa vật thể và phi vật thể), nhằm góp phần định hướng cụ thể cho các hoạt
động bảo tồn và phát huy di sản văn hóa. Đẩy mạnh xã hội hóa hoạt động bảo tồn
di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số vào sự nghiệp giữ gìn bản sắc văn
hóa dân tộc.
- Nâng cao chất lượng chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân, đặc biệt là
đồng bào các dân tộc thiểu số, phấn đấu đến năm 2010 có 60-70% số xã có bác sỹ;
tiếp tục hiện đại hóa trang thiết bị cho các bệnh viện cấp tỉnh và sớm hoàn thành
trung tâm y tế. Tiếp tục củng cố và hoàn thiện mạng lưới y tế cơ sở (xã và thôn,
bản), từng bước nâng cao chất lượng các dịch vụ y tế tại cơ sở, thực hiện tốt công
tác chăm sóc sức khỏe ban đầu cho người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số. Đầu
tư kinh phí xây dựng các cơ sở y tế mới được thành lập, nhất là ở tuyến huyện và
nhà trạm ở những xã chưa có trạm y tế, đồng thời tu sửa, nâng cấp những cơ sở đã
xuống cấp do xây dựng đã lâu hoặc hư hại do thiên tai, thảm họa. Đẩy nhanh tiến
105
độ triển khai các dự án cho y tế cơ sở (cả nguồn vốn chính phủ và nguồn vốn
ODA). Đẩy mạnh việc vận động, tuyên truyền và tiến hành có hiệu quả công tác
dân số kế hoạch hóa gia đình, đặc biệt ở các nhóm dân tộc ít người, làm giảm tỷ lệ
sinh ở mức cao như hiện nay, giảm tỷ lệ chết của trẻ em sau sinh.
- Tăng tỷ lệ đầu tư và ưu tiên cho hệ thống giáo dục cơ sở, đảm bảo điều
kiện vật chất cần thiết như lớp học, dụng cụ đồ dùng học tập, cung cấp hoặc trợ giá
mua sách vở cho học sinh. Mở rộng hình thức trường bán trú dân nuôi. Bảo đảm đủ
giáo viên cho các trường. Đẩy mạnh việc tổ chức các lớp xóa mù chữ những người
trong độ tuổi, nâng cao trình độ phổ cập giáo dục, nâng cao chuẩn xóa mù chữ. Chú
trọng các biện pháp kết hợp sau xóa mù chữ để tránh tái mù chữ. Củng cố và mở
thêm các trường dạy nghề, đặc biệt là dạy nghề cho thanh niên dân tộc thiểu số và
lao động nông thôn để tạo việc làm tại chỗ; phát triển các trường cao đẳng, trung
học chuyên nghiệp và dạy nghề trong vùng nhằm đáp ứng nhu cầu đào tạo của
vùng.
3.2.4. Hoàn thiện công tác tổ chức và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
làm công tác dân tộc ở tỉnh Yên Bái
Thực hiện Quyết định số 40/2006/QĐ - TTg của Thủ tướng Chính phủ về
việc phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 2006 -
2010, tỉnh Yên Bái xác định, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức, viên
chức là một nhiệm vụ trọng tâm nhằm đẩy mạnh cải cách hành chính, góp phần
nâng cao năng lực quản lý, điều hành của bộ máy cơ quan các cấp, đặc biệt là công
tác đào tạo, bồi dưỡng và xây dựng đội ngũ cán bộ là dân tộc thiểu số là biện pháp
quan trọng để biến những chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước về bình
đẳng dân tộc. Phát triển kinh tế, nâng cao đời sống dân trí ở vùng đồng bào dân tộc
chính là tạo điều kiện thuận lợi cho việc tạo nguồn cán bộ dân tộc và đào tạo cán bộ
dân tộc. Khi đời sống kinh tế được cải thiện, mặt bằng dân trí được nâng cao thì đội
ngũ cán bộ dân tộc cũng được nâng lên cả về số lượng và chất lượng và đây là điều
kiện làm cho quá trình thực hiện chính sách của Đảng và Nhà nước ở miền núi
được thuận lợi và phát triển nhanh hơn. Đồng thời nó còn tạo điều kiện cho đội ngũ
cán bộ này thay mặt cho nhân dân thực hiện quyền làm chủ trên các mặt chính trị,
kinh tế, văn hoá, xã hội, phản ánh mọi tâm tư nguyện vọng của đồng bào các dân
tộc với Đảng và Nhà nước. Trình độ nhận thức kém thì việc tiếp thu nắm bắt các
106
chủ trương chính sách của Đảng sẽ rất hạn chế và do đó cũng gặp khó khăn trong
quá trình tổ chức thực hiện. Đội ngũ cán bộ dân tộc có vai trò quyết định trong việc
triển khai thực hiện mọi chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước. Thực trạng
trên đã đặt ra những yêu cầu, thách thức lớn đối với tỉnh Yên Bái cần phải hoàn
thiện công tác tổ chức, nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của cán bộ làm
công tác dân tộc với các giải pháp sau nhằm đáp ứng yêu cầu của thực tế.
- Kiện toàn tổ chức bộ máy cơ quan làm công tác dân tộc, trong đó bao gồm
cả việc phân công, phân cấp. Quy định cụ thể tiêu chuẩn cán bộ, công chức làm
công tác dân tộc của cơ quan dân tộc các cấp theo chức danh; có kế hoạch đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ, công chức thực hiện chuẩn hoá đội ngũ cán bộ làm công tác dân
tộc. Xây dựng chương trình, kế hoạch, đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên
môn nghiệp vụ và quản lý Nhà nước, quản lý kinh tế, lý luận chính trị, tin học...
cho đội ngũ cán bộ chuyên trách làm công tác dân tộc ở địa phương. Bảo đảm các
điều kiện, phương tiện làm việc, kinh phí hoạt động thường xuyên cho cơ quan
công tác dân tộc các cấp... nhằm động viên thu hút cán bộ công chức về làm việc ở
các cơ quan dân tộc và vùng dân tộc thiểu số. Xây dựng quy chế, chương trình phối
hợp giữa Uỷ ban Dân tộc với các bộ, ngành Trung ương và chính quyền địa phương
trong việc thực hiện công tác dân tộc. Phân loại cấp độ về chính sách, chương trình,
dự án để hoàn thiện cơ chế quản lí, đầu tư và thanh quyết toán vốn từ ngân sách
Nhà nước cho từng cấp địa phương. Phân định rõ phạm vi trách nhiệm của Uỷ ban
nhân dân các cấp trong quá trình tổ chức thực hiện các chương trình, dự án ở vùng
dân tộc thiểu số.
- Tăng số lượng cấp ủy viên các cấp trong nhiệm kỳ này là cán bộ trẻ, cán bộ
nữ, cán bộ là người dân tộc thiểu số và số đảng ủy viên mới lần đầu tham gia cấp
ủy. Đây là ba thành phần quan trọng bảo đảm sự bình đẳng, tính kế cận và bước đột
phá trong công tác cán bộ.
- Ðể làm tốt công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thời gian tới, tỉnh tiếp tục
quán triệt sâu sắc và tổ chức thực hiện có hiệu quả Kết luận Hội nghị lần thứ 9 Ban
Chấp hành Trung ương Ðảng (khóa X) về tiếp tục đẩy mạnh thực hiện chiến lược
cán bộ từ nay đến năm 2020; xây dựng kế hoạch tổng thể, lâu dài về đào tạo, bồi
dưỡng đội ngũ cán bộ từ tỉnh đến cơ sở, nhất là đào tạo cán bộ theo chức danh, cán
bộ nữ, cán bộ là dân tộc thiểu số; liên kết đào tạo các ngành học, bậc học giữa các
107
trường của tỉnh với các trường đại học, học viện trong nước. Kết hợp đào tạo dài
hạn tập trung với các loại hình đào tạo khác, đồng thời khuyến khích phong trào tự
học, tự nâng cao trình độ của cán bộ bằng nhiều hình thức. Tổ chức các lớp bồi
dưỡng cập nhật kiến thức nhằm nâng cao trình độ và kỹ năng thực thi nhiệm vụ,
công vụ cho cán bộ các cấp. Công tác đào tạo cán bộ cần chú trọng đổi mới nội
dung, phương pháp đào tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo; chú ý
đào tạo cán bộ theo quy hoạch một cách toàn diện cả phẩm chất chính trị, trình độ
nghề nghiệp, năng lực thực tiễn, phù hợp với yêu cầu sử dụng, chức danh công tác
và cơ cấu ngành nghề theo hướng chuyên sâu, ưu tiên đào tạo sau đại học; tiếp tục
nghiên cứu, bổ sung những chính sách cụ thể, phù hợp, nhằm thu hút được cán bộ
có trình độ cao, sinh viên tốt nghiệp đại học loại khá, giỏi về địa phương công tác.
- Tăng cường công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ cơ sở.
Tỉnh xây dựng quy hoạch cán bộ các dân tộc thiểu số ở địa phương, làm cơ sở cho
việc tuyển sinh đào tạo tại các trường phổ thông dân tộc nội trú, dự bị đại học và cử
tuyển học sinh dân tộc học trong các trường cao đẳng, đại học và trung học chuyên
nghiệp. Đổi mới chương trình, nội dung đào tạo, bồi dưỡng cho phù hợp với đối
tượng người học. Thực hiện hai chương trình đào tạo cho các chức danh cán bộ
chuyên trách và công chức xã với thời gian 1,5 - 2 năm; bồi dưỡng cho các chức
danh khác với thời gian 6 tháng; nội dung đào tạo cần giảm bớt phần lý luận, tăng
nội dung tác nghiệp cụ thể.
- Cán bộ làm công tác dân tộc phải qua đào tạo, có chuyên môn nghiệp vụ,
có kỹ năng công tác, không chạy theo lợi ích kinh tế, biết thuyết phục quần chúng.
Cán bộ dân vận phải bám sát thực tiễn, nắm được tâm tư nguyện vọng của dân, gần
gũi với dân, biết chia sẻ thông cảm khó khăn của dân, không ngại khổ, không mặc
cảm với đồng bào dân tộc, tôn trọng phong tục tập quán truyền thống của dân tộc,
không có thái độ phân biệt đối xử với người lương - giáo.
3.2.5. Tăng cường vai trò lãnh đạo của các tổ chức Đảng từ Trung ương
đến địa phương trong công tác thực hiện bình đẳng dân tộc ở Yên Bái
- Sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý Nhà nước ở Trung ương về công
tác thực hiện bình đẳng dân tộc:
Sự lãnh đạo của Đảng và các tổ chức chính trị - xã hội đối với công tác dân
tộc: Có thể nói, đây là yếu tố quyết định việc thực hiện thành công các nhiệm vụ
108
của cách mạng nước ta và nhiệm vụ của công tác thực hiện bình đẳng dân tộc nói
riêng. Tuy nhiên để tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và vai trò của các tổ chức
chính trị - xã hội đòi hỏi phải không ngừng tự hoàn thiện, tự đổi mới nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng. Để đảm bảo sự lãnh đạo thống
nhất và tuyệt đối của Đảng trong việc thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc.
Trong thời gian qua, qua chương trình 134, 135 và các chương trình khác, chúng ta
đã đầu tư hàng ngàn tỷ đồng cho đồng bào vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó
khăn, đã giúp đỡ hàng vạn gia đình đồng bào các dân tộc thiểu số thoát khỏi cảnh
đói nghèo, từng bước vươn lên làm giàu. Tuy nhiên, đó chỉ là những bước đầu, vì
thế chúng ta cần nỗ lực phấn đấu hơn nữa. Do đó sự lãnh đạo thống nhất và tuyệt
đối của Đảng trong công tác dân tộc sẽ là nhân tố tạo nên sự thống nhất trong nhận
thức và hành động của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân dân. Ngoài ra việc
đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng với công tác dân tộc là nhân tố làm cho chủ trương,
đường lối của Đảng được thực thi trong thực tế. Vì thông qua Nhà nước và các tổ
chức chính trị - xã hội, tư tưởng của Đảng không chỉ truyền bá sâu rộng trong nhân
dân mà còn được chế định, cụ thể hoá để nhân dân thực hiện.
Sự điều hành quản lý của Nhà nước về công tác dân tộc: Có thể nói, hiệu
lực, hiệu quả của công tác quản lý Nhà nước về dân tộc là một trong những nhân tố
quyết định sự thành công của công tác bình đẳng dân tộc. Trong giai đoạn hiện nay,
vấn đề này càng có vai trò đặc biệt quan trọng. Thực tế cho thấy, mặc dù chúng ta
có chủ trương, chính sách đúng đối với đồng bào dân tộc, có nhiều chương trình dự
án hỗ trợ phát triển kinh tế vùng đồng bào dân tộc, song hiệu quả vẫn chưa tương
xứng. Trong quá trình triển khai dự án đã xuất hiện các hiện tượng tiêu cực gây thất
thoát, lãng phí cho ngân sách hay các công trình đưa vào sử dụng không phát huy
hiệu quả. Vì vậy việc nâng cao vai trò quản lý Nhà nước về vấn đề bình đẳng dân
tộc càng trở nên cấp bách và công tác này cần phải tập trung vào thực hiện một số
các giải pháp sau:
+ Đẩy mạnh công tác thu thập thông tin về tình hình dân tộc, nhất là những
vùng trọng điểm: Đây là một mắt khâu quan trọng trong quá trình quản lý nói
chung, quản lý nhà nước nói riêng. Tuy nhiên, hiện nay đây là khâu còn có nhiều
bất cập. Công tác thu thập thông tin, nắm bắt tình hình yếu gây khó khăn cho quá
trình hoạch định chính sách, đề xuất giải pháp. Vì thế trong thời gian tới cần phải
đẩy mạnh công tác nắm bắt tình hình tư tưởng và tâm trạng xã hội, đi sâu vào tìm
109
hiểu phong tục, tập quán của đồng bào dân tộc thiểu số đề từ đó có những chủ
trương và giải pháp đúng và trúng trong việc hoạch định chính sách đối với đồng
bào dân tộc thiểu số.
+ Tiếp tục đổi mới việc xây dựng và tổ chức thực hiện chính sách: Việc tổ
chức hoạch định chính sách và tổ chức thực hiện chính sách là khâu cơ bản, thể
hiện trình độ và năng lực quản lý. Vì vậy, khi xây dựng chính sách phải huy động
được sự tham gia của nhiều ngành, nhiều cấp, của cán bộ dân tộc, đồng bào các dân
tộc: trước hết là chính quyền, mặt trận và các đoàn thể quần chúng cơ sở, các già
làng…
+ Đẩy mạnh công tác kiểm tra, giám sát: Kiểm tra, giám sát việc thực hiện
chính sách là một mắt khâu của quá trình quản lý Nhà nước, có tác dụng ngăn
ngừa, uốn nắn những sai lệch và phát hiện những vấn đề mới nảy sinh để giải
quyết. Trong điều kiện trình độ của đồng bào dân tộc thiểu số còn thấp, khả năng
tham gia công tác kiểm tra, giám sát có hạn thì vai trò của các cơ quan chức năng
chuyên làm công tác kiểm tra, giám sát và các cơ quan trong hệ thống chính trị trở
nên quan trọng nhất.
+ Cần thống nhất nhận thức về tầm quan trọng của công tác dân tộc và vấn
đề bình đẳng dân tộc trong bộ máy chính quyền, của toàn hệ thống chính trị và của
mọi người dân Việt Nam.
- Sự lãnh đạo của Đảng và vai trò quản lý Nhà nước ở địa phương về công
tác thực hiện bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái
+ Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của hệ thống chính trị về vị trí, nhiệm vụ
của công tác dân tộc. Tổ chức việc tuyên truyền, phổ biến chủ trương, chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước tới đồng bào vùng dân tộc với phương pháp và hình
thức phù hợp.
+ Tăng cường củng cố và đổi mới chất lượng hoạt động của hệ thống chính
trị cơ sở. Tập trung củng cố các tổ chức chính trị - xã hội ở vùng đồng bào dân tộc,
bảo đảm đáp ứng được yêu cầu, nhiệm vụ và là hạt nhân của mọi hoạt động. Thực
hiện công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ người dân tộc thiểu số, nhất là
đội ngũ cán bộ cơ sở xã, thôn, bản; luân chuyển, tăng cường cán bộ có năng lực,
phẩm chất về công tác ở các xã và có chính sách đãi ngộ đối với cán bộ tình nguyện
công tác ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa.
110
+ Tăng cường sự lãnh đạo của các cấp uỷ Đảng, phát huy vai trò của Mặt
trận Tổ quốc và các tổ chức đoàn thể trong thực hiện công tác dân tộc, thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước. Đổi mới nội dung và phương pháp vận
động, tập hợp quần chúng. Động viên, sử dụng người có uy tín, già làng, trưởng
bản, trưởng các dòng họ trong việc triển khai thực hiện các công tác và chính sách
dân tộc ở cơ sở.
+ Tăng cường củng cố, kiện toàn hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc từ
tỉnh đến cơ sở, chú trọng công tác đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác
dân tộc các cấp có đủ trình độ, năng lực, đạo đức, phẩm chất chính trị, đáp ứng và
hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao trong tình hình mới...
Thực hiện chính sách bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái trong những năm tới
đòi hỏi không chỉ có quyết tâm cao, nhận thức đúng mà còn phải xây dựng được
những cách làm có hiệu quả, các hình thức bước đi thích hợp với từng nơi, từng
dân tộc, ở mỗi giai đoạn và thời điểm khác nhau cho phù hợp với những cơ chế,
chính sách và giải pháp đồng bộ nhằm xoá đói giảm nghèo bền vững, nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, hạn chế đến mức thấp nhất tốc độ gia tăng
khoảng cách phát triển giữa các vùng nhằm thực hiện mục tiêu chung mà Đảng và
Nhà nước ta đã quán triệt trong văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI
của Đảng.
111
KẾT LUẬN
Yên Bái là một tỉnh miền núi, có nhiều dân tộc anh em cùng chung sống, có
tiềm năng đa dạng về đất đai, tài nguyên rừng, khoáng sản, bản sắc văn hoá; có vị
trí vai trò rất quan trọng về quốc phòng, an ninh. Vì thế để thực hiện mục tiêu đến
năm 2020 đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, trở thành nước công
nghiệp có trình độ phát triển trung bình thì không thể không đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá của tỉnh. Để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đai hóa của tỉnh,
một trong những nhiệm vụ quan trọng là cần phải tìm ra những nhân tố động lực
ảnh hưởng, tác động tích cực và hạn chế, khắc phục những nhân tố tác động tiêu
cực, cản trở công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Trong vấn đề ấy, bình đẳng dân tộc ở
tỉnh Yên Bái có ý nghĩa quyết định và phát triển của tỉnh nói riêng và của Việt Nam
nói chung.
Nhận thức được tầm quan trọng đó, đồng thời xuất phát từ đặc điểm tình
hình của tỉnh nhà. Vì vậy, trong nhiều năm qua, nhất là trong những năm gần đây,
trong công cuộc đổi mới đất nước do Đảng khởi xướng và lãnh đạo, Đảng bộ tỉnh
Yên Bái luôn thể hiện sự quan tâm đặc biệt trong việc giải quyết vấn đề dân tộc và
chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nước, trong đó rất chú trọng đến vấn đề thực
hiện bình đẳng dân tộc. Với những phương hướng cụ thể và những biện pháp giải
quyết kịp thời, Đảng bộ tỉnh Yên Bái đã từng bước đưa những chủ trương, đường
lối, chính sách của Đảng và Nhà nước cũng như đường lối của Đảng bộ tỉnh đi vào
hiện thực cuộc sống của đồng bào các dân tộc trong tỉnh, trong đó có vấn đề bình
đẳng dân tộc. Nhờ vậy, trong những năm qua tình hình kinh tế - xã hội của nhân
dân các dân tộc trong tỉnh đã có bước phát triển quan trọng, góp phần tích cực
trong việc giảm dần sự chênh lệch về mọi mặt giữa đồng bào các dân tộc, giữa các
vùng trong tỉnh.
Tuy nhiên, nếu xem xét một cách khách quan, nghiêm túc, đánh giá đúng
thực trạng tình hình mọi mặt giữa các dân tộc trong tỉnh, chúng ta thấy còn có sự
chênh lệch khá rõ về trình độ phát triển nói chung. Sự chênh lệch đó ngoài những
nguyên nhân khách quan như: điều kiện tự nhiên, địa lý, địa bàn cư trú, truyền
thống bản địa, phong tục tập quán… còn có những nguyên nhân chủ quan tác động
làm tăng thêm sự chênh lệch về mọi mặt giữa các dân tộc là: trình độ nhận thức của
112
cán bộ, đảng viên và nhân dân còn hạn chế; năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện của
các cấp, các ngành và các đoàn thể chính trị xã hội còn nhiều bất cập; việc đầu tư
cho phát triển kinh tế - xã hội miền núi, vùng đồng bào dân tộc chưa đáp ứng được
yêu cầu thực tiễn đề ra; đội ngũ cán bộ làm công tác dân tộc và cán bộ là người dân
tộc còn rất thiếu và yếu…
Xuất phát từ thực trạng vấn đề dân tộc và thực hiện bình đẳng dân tộc trong
thời gian qua của tỉnh Yên Bái, đồng thời xuất phát từ yêu cầu cấp thiết của việc
nhanh chóng xoá bỏ sự chênh lệch về mọi mặt giữa đồng bào các dân tộc, giữa các
vùng trong tỉnh. Vì vậy trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong giai
đoạn hiện nay, chúng ta cần khẳng định lại và bổ sung thêm những mục tiêu,
phương hướng và đề ra các giải pháp cụ thể nhằm thực hiện tốt hơn vấn đề bình
đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái.
Bình đẳng dân tộc là một quan điểm trong chính sách dân tộc của Đảng và
Nhà nước ta. Nghiên cứu bình đẳng dân tộc ở tỉnh Yên Bái là một nhiệm vụ có ý
nghĩa cả về phương diện lý luận và thực tiễn. Mong rằng luận văn sẽ đóng góp
được một phần bé nhỏ vào sự thực hiện bình đẳng dân tộc và những chính sách dân
tộc của tỉnh Yên Bái trong thời gian tới.
113
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2002), Vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
2. Đảng Cộng sản Việt Nam (1965), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ III, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
3. Đảng Cộng sản Việt Nam (1965), Văn kiện Đại hội Đảng về chính sách
dân tộc, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1978), Văn kiện của Đảng về chính sách dân
tộc (1960-1977), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (1982), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ V, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
6. Đảng Cộng sản Việt Nam (1987), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VI, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
7. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb. Sự thật, Hà Nội.
8. Đảng Cộng sản Việt Nam (1997), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VIII, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
9. Đảng Cộng sản Việt Nam (2002), Văn kiện Đại hội IX của Đảng về chính
sách dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
10. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội X của Đảng về chính
sách dân tộc, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
11. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XI, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Đảng bộ tỉnh Yên Bái (2010), Báo cáo tổng kết (2000 - 2010), quán triệt nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ X của Đảng cộng sản Việt Nam, Nghị quyết Đại hội
XVI Đảng bộ tỉnh Yên Bái và triển khai nhiệm vụ (2011 - 2015), Yên Bái.
13. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 24, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
14. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 24, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
15. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 25, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
114
16. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 27, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
17. V.I.Lênin (1980), Toàn tập, tập 38, Nxb. Tiến bộ, Matxcơva.
18. C.Mác và Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 3, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
19. C.Mác và Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. C.Mác và Ph. Ănghen (1995), Toàn tập, tập 21, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
21. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 2, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
22. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 4, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
23. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 10, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
24. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 11, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
25. Hồ Chí Minh (2000), Toàn tập, tập 12, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.
26. Sở Giáo dục và Đào tạo tỉnh Yên Bái (2010), Báo cáo tổng kết năm học (2009 -
2010), Yên Bái.
27. Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Yên Bái - Trung tâm khuyến nông
(2010), Khuyến nông Yên Bái chặng đường 10 năm xây dựng và phát triển,
Yên Bái.
28. Sở Văn hoá - Thông tin (4/2010), Báo cáo xây dựng môi trường văn hoá và kết
quả hoạt động đời sống văn hoá ở vùng cao Yên Bái, Yên Bái.
29. Tỉnh uỷ Yên Bái - Ban Dân vận và dân tộc (6/2000), Một số nét đặc trưng các
dân tộc tỉnh Yên Bái, Yên Bái.
30. Từ điển Chủ nghĩa cộng sản khoa học (1986), Nxb. Sự thật, Hà Nội.
31. Từ điển tiếng Việt (1994), Trung tâm Từ điển ngôn ngữ Hà Nội - Việt Nam.
32. Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (2/2004), Báo cáo đánh giá kết quả thực hiện
Chương trình 135 năm 2004, phương hướng nhiệm vụ và một số giải pháp
năm 2005, Yên Bái.
33. Ủy ban nhân dân tỉnh Yên Bái (2/2009), Báo cáo tình hình kinh tế - xã hội
vùng cao và các xã vùng đặc bịêt khó khăn, Yên Bái.