Mục Lục Mở đầu .......................................................................................................................................................... 2

Chương 1: Nhận thức chung về cướp giật tài sản ......................................................................................... 4

1.1 Khái niệm ............................................................................................................................................ 4

1.1.1 Cướp giật tài sản .......................................................................................................................... 4

1.1.2 Tâm lý xã hội ............................................................................................................................... 5

1.1.3 Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản ............................................................................. 5

1.1.3.1 Khách thể của tội cướp giật tài sản ....................................................................................... 5

1.1.3.2 Chủ thể của tội cướp giật tài sản ........................................................................................... 6

1.1.3.3 Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản .............................................................................. 7

1.1.3.4 Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản ................................................................................ 15

1.1.3.5 Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cướp giật tài sản .......................................... 16

1.2 Quy trình hình thành hành vi phạm tội ............................................................................................. 20

1.2.1 Nhu cầu và lợi ích ...................................................................................................................... 21

1.2.2 Động cơ, mục đích, ý định phạm tội .......................................................................................... 22

1.2.3 Quyết định thực hiện hành vi phạm tội ...................................................................................... 24

1.2.4 Phương thức thực hiện hành vi phạm tội ................................................................................... 25

Chương 2: Tình hình cướp và các nguyên nhân tâm lý xã hội của tội cướp giật tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh ..................................................................................................................................................... 25

2.1 Tình hình cướp giật tại Hồ Chí Minh ................................................................................................ 26

2.1.1 Thống kê các vụ cướp ............................................................................................................... 26

2.1.2 Một số thủ đoạn .......................................................................................................................... 26

2.1.3 Một số vụ cướp gây xôn xao dư luận thời gian qua ................................................................... 27

2.2 Các nguyên nhân xã hội của tội cướp giật tài sản ............................................................................. 30

2.2.1 Cơ chế kinh tế thị trường và quá trình đô thị hóa ...................................................................... 30

2.2.2 Công tác quản lý vĩ mô .............................................................................................................. 32

2.2.3 Quản lý vi mô : Gia đình – Nhà trường – Xã hội ....................................................................... 43

2.2.4 Ảnh hưởng văn hóa ngoại lai ..................................................................................................... 44

2.3 Các nguyên nhân tâm lý ................................................................................................................... 45

2.3.1 Nhu cầu vật chất ......................................................................................................................... 46

2.3.2 Nhu cầu khoái lạc ....................................................................................................................... 48

2.3.3 Hứng thú kỳ dị ........................................................................................................................... 49

2.3.4 Động cơ trả thù đời .................................................................................................................... 50 0

2.3.5 Quan điểm sai lầm: bần cùng sinh đạo tặc ................................................................................. 52

Chương 3: Một số Biện pháp ...................................................................................................................... 54

3.1 Dự báo tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phồ Hồ Chí Minh .................................... 54

3.2 Một số biện pháp phòng ngừa tội cướp giật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh ........................... 54

3.2.1 Các biện pháp về kinh tế ............................................................................................................ 55

3.2.2 Các biện pháp xã hội .................................................................................................................. 55

3.2.3 Các biện pháp về tổ chức – quản lý xã hội ................................................................................. 56

3.2.4 Đẩy mạnh các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ của cơ quan Công an và các cơ quan chức năng khác. ........................................................................................................................................... 56

3.2.5 Nâng cao vai trò của quần chúng nhân dân ................................................................................ 57

3.2.6 Nâng cao vai trò của Tòa án trong công tác xét xử .................................................................... 57

Kết luận ....................................................................................................................................................... 59

Tài liệu tham khảo ...................................................................................................................................... 61

Sách và văn bản .......................................................................................................................................... 61

Website ........................................................................................................................................................ 62

Phụ Lục Hình Ảnh ....................................................................................................................................... 62

1

Mở đầu

Thành phồ Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế, văn hóa,

giáo dục, khoa học công nghệ, đầu mối giao lưu và hội nhập quốc tế, là đầu tàu, động lực,

có sức hút lan tỏa lớn của vùng kinh tế trong điểm phía Nam,có vị trí chính trị quan trọng

của cả nước. Với vị trí và vai trò của mình, thành phố Hồ Chí Minh là nơi hội tụ các dòng

dịch chuyển dân cư vào đô thị, dân số tăng nhanh cả về thường trú và tạm trú, các loại đối

tượng cùng tập trung về ẩn náu, hoạt động. Bên cạnh sự phát triển về các mặt đời sống

kinh tế - xã hội cũng nảy sinh và tồn tại những mặt trái quả nó, đó là sự tha hóa trong lối

sống, đạo sức, sự xuất hiện của một bộ phận thanh thiếu niên có lối sống tiêu cực, lệch

lạc về nhận thức, muốn hưởng thụ về vật chất nhưng lại không chịu lao động nên đã dấn

thân vào con đường tội phạm. Đặc biệt là sự xuất hiện ngày càng nhiều các tệ nạn xã hội

cũng như các hành vi phạm tội như trộm cắp, cướp giật tài sản…. trong đó cướp giật tài

sản là loại tội diễn ra phổ biến trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh.

Trong lịch sử phát triển, vấn đề lợi ích vật chất luôn là tâm điểm của mọi xung đột

xã hội. Bởi vậy, vấn đề bảo đảm quyền sở hữu các lợi ích vật chất cũng luôn được các

nhà nước trên thế giới quan tâm. Ở nước ta, quyền sở hữu được quy định và bảo hộ trong

Hiến Pháp và các văn bản quy phạm pháp luật trong các lĩnh vực: hình sự, dân sự…

Trong Bộ luật dân sự, quyền sở hữu bao gồm quyền chiếm hữu, quyền sử dụng và quyền

định đoạt của chủ sở hữu hợp pháp đối với tài sản của mình. Tất cả mọi cá nhân, tổ chức

khác đều có nghĩa vụ tôn trọng quyền của chủ sở hữu đó không phân biệt tôn giáo, giai

cấp hay màu da. Nếu một chủ thể nào xâm phạm đến tài sản của chủ thế khác mà gây

thiệt hại thì phải bồi thường toàn bộ, kịp thời, tương ứng với thiệt hải xảy ra.

Trong pháp luật hình sự, quyền sở hữu được bảo vệ thông qua các quy định về các

tội phạm xâm phạm sở hữu. Đây cũng là một trong những nhóm tội được quy định sớm

nhất trong pháp luật hình sự trên thế giới nói chung và ở nước ta nói riêng. Từ khi đất

nước chuyển sang nền kinh tế thị trường, diễn biến tình hình tội phạm nói chung, cũng

như các tội phạm xâm phạm sở hữu nói riêng hết sức phức tạp và ngày càng có chiều 2

hướng gia tăng, gây thiệt hại lớn về tài sản. Trong những năm qua, các cơ quan bảo vệ

pháp luật tuy đã tích cực đấu tranh ngăn chặn các hành vi xâm phạm sở hữu, nhưng việc

điều tra, truy tố, xét xử loại tội phạm này còn chưa kịp thời, chưa có quy mô, chưa đáp

ứng được yêu cầu phòng chống tội phạm. Bởi vậy, loại tội phạm xâm hại sở hữu ngày

càng diễn biến phức tạp, gây dư luận không tốt cho xã hội, làm giảm lòng tin của quần

chúng đối với pháp luật, ảnh hưởng đến hình ảnh của thành phố.

Trước tình hình tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng, bên cạnh

việc đề cao cảnh giác, chúng ta cần có những biện pháp để ngăn chặn tình hình phạm tội

đó ra khỏi đời sống xã hội. Để góp phần vào công tác phòng chống tội phạm này, nhóm

đã mạnh dạn chọn đề tài “Tìm hiểu những nguyên nhân tâm lý xã hội của tội cướp giật tài

sản tại thành phố Hồ Chí Minh” làm bài viết chuyên đề Tâm lý pháp lý.

Đề tài hướng tới việc trình bày tình hình loại tội phạm cướp giật tài sản, phân tích

những nguyên nhân xã hội và nguyên nhân tâm lý dẫn tới phạm tội này, đồng thời cũng

đề ra một số biện pháp phòng chống loại tội phạm này trên địa bàn thành phồ Hồ Chí

3

Minh.

Chương 1: Nhận thức chung về cướp giật tài sản

1.1 Khái niệm

1.1.1 Cướp giật tài sản

Trong các tội xâm phạm sở hữu được quy định trong Chương XIV: Các tội xâm

phạm sở hữu, khách thể mà nhà nước bảo vệ là quyền sở hữu của chủ thể nhất định. Tội

cướp giật tài sản được quy định tại Điều 136 BLHS năm 1999. Đây là một loại tội có tính

chiếm đoạt tài sản của chủ thể khác và được thực hiện một cách cố ý. Người thực hiện tội

phạm cướp giật tài sản phải là người có mục đích chiếm đoạt tài sản từ trước và thực hiện

hành vi chiếm đoạt tài sản của chủ thể sở hữu bằng cách nhanh chóng giật, giằng lấy tài

sản. Việc giật, giằng tài sản này diễn ra một cách công khai. Chủ thể của tội phạm cũng

không hề có ý định che giấu hành vi của mình đối với chủ sở hữu cũng như mọi người

xung quanh. Trong quá trình thực hiện tội phạm có thể phải sử dụng một tác động lực

nhất định nhưng là để nhằm chiếm đoạt tài sản nhanh chóng mà không để cho chủ sở hữu

kịp phản ứng. Như vậy, chỉ sở hữu tuy có biết hành vi phạm tội nhưng do diễn ra khá

nhanh nên chưa kịp phản ứng.

Trong nội dung Điều 136 BLHS năm 1999, các nhà lập pháp chỉ quy định tội cướp

giật tài sản như sau: "Người nào cướp giật tài sản của người khác, thì bị phạt...". Như

vậy, các nhà lập pháp đó không mô tả cụ thể những dấu hiệu của tội cướp giật tài sản mà

chỉ nêu tội danh. Tuy chưa có một định nghĩa chuẩn từ phía các nhà lập pháp nhưng xuất

phát từ lý luận và thực tiễn xét xử, chúng ta có thể đưa ra định nghĩa khoa học của khái

niệm tội cướp giật tài sản như sau:

Tội cướp giật tài sản là hành vi nhanh chóng, công khai chiếm đoạt tài sản

của chủ thể có năng lực trách nhiệm hình sự thực hiện một cách cố ý.

Đại đa số các tội phạm trong chương này này được thực hiện bằng hình thức lỗi cố

ý, chỉ trừ tội vô ý gây thiệt hại nghiêm trọng đến tài sản. Trong số 13 tội xâm phạm sở

4

hữu trong chương này, chúng ta có thể phân chia thành hai nhóm: nhóm các tội có tính

chiếm đoạt và nhóm các tội không có tính chiếm đoạt. Số tội phạm có tính chiếm đoạt

gồm các điều từ 133 đến Điều 140; số tội phạm không có tính chiếm đoạt gồm các điều

từ 141 đến Điều 145.

Từ định nghĩa của khái niệm tội cướp giật tài sản và các quy định của pháp luật

hình sự, chúng ta có thể đi sâu và làm sáng tỏ bản chất xã hội cũng như qua các dấu hiệu

pháp lý đặc trưng của tội cướp giật tài sản.

1.1.2 Tâm lý xã hội

Là những tác động qua lại trong xã hội, bao gồm:

Giữa văn hóa chung và tâm lý cá nhân

Những cách ứng xử trong những điều kiện xã hội

Nhân cách đứng về góc độ xã hội

Tác động qua lại giữa các cá nhân

Các cách ứng xử của các nhóm lớn nhỏ

Tâm lý xã hội đề ra những khái niệm cương vị và vai trò của cá nhân, là những

yếu tố quan trọng của nhân cách. Và xác định khái niệm nhân cách xã hội: sự hình thành

nhân cách qua một quá trình từ bé đến lớn, lần lượt giữa một loạt cương vị và đóng một

vai trò xã hội.

Tâm lý xã hội nghiên cứu về tác động của những phương pháp tuyên truyền,

những phương tiện thông tin đại chúng , của quảng cáo, nghiên cứu dư luận…

1.1.3 Các dấu hiệu pháp lý của tội cướp giật tài sản

1.1.3.1 Khách thể của tội cướp giật tài sản

Khách thể của tội phạm nói chung là những quan hệ xã hội được pháp luật hình sự

bảo vệ tránh khỏi sự xăm hại có tính chất tội phạm nhưng bị tội phạm xâm hại đến và gây

nên (hoặc đe dọa thực tế gây nên) thiệt hại đáng kể nhất định.

Cũng như các tội phạm có tính chiếm đoạt trong phần các tội xâm phạm sở hữu,

5

tội cướp giật tài sản là hành vi chiếm đoạt tài sản nhưng được thực hiện một cách công

khai, nhanh chóng để tránh sự phản kháng của chủ tài sản. Tội cướp giật tài sản trực tiếp

xâm hại đến quyền sở hữu của người khác đối với tài sản của họ. Như vậy ở tội cướp giật

tài sản, khách thể của nó chính là quan hệ sở hữu tài sản và quan hệ này được Nhà nước

bảo vệ. Khách thể của tội cướp giật tài sản tồn tại ngoài ý thức và độc lập với ý thức của

chủ thể và nó bị tội phạm cướp giật tài sản gây thiệt hại khi người phạm tội thực hiện

hành vi phạm tội của mình.

Yếu tố khách thể của tội cướp giật chỉ giúp ta xác định một hành vi nào đó có xâm

phạm sở hữu hay không và phân biệt tội cướp giật tài sản với một vài tội trong nhóm tội

chiếm đoạt khi hành vi đó gây nên sự xâm hại cho nhiều khách thể khác nữa như: tội

cướp tài sản, tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản...

Chủ thể thực hiện tội cướp giật tài sản bao giờ cũng nhằm vào tài sản nhất định

của chủ thể nhất định, không phân biệt là thuộc hình thức sở hữu nào. Do đó, tài sản bị

tội phạm nhằm tới nằm trong và là một bộ phận của khách thể cụ thể là quan hệ sở hữu.

Nó chính là đối tượng tác động của tội phạm cướp giật tài sản. Tuy nhiên, do đặc thù của

tội cướp giật tài sản là chiếm đoạt tài sản của chủ sở hữu, quản lý một cách nhanh chúng

nên tài sản là đối tượng tác động của hành vi cướp giật tài sản có những đặc điểm cơ bản

khác với tài sản là đối tượng tác động của các tội phạm khác. Tài sản này có thuộc tính

chung với các loại tài sản khác là phải được thể hiện dưới dạng vật chất (vật, tiền, giấy tờ

có giá) hoặc phi vật chất (quyền tài sản), có giá trị hoặc giá trị sử dụng, tài sản phải là

thước đo giá trị lao động của con người được kết tinh, để nhằm thoả mãn được các nhu

cầu về vật chất hoặc tinh thần của con người và phải thuộc về một chủ thể nhất định.

1.1.3.2 Chủ thể của tội cướp giật tài sản

Chủ thể của tội phạm là người đó có lỗi trong việc thực hiện hành vi nguy hiểm

cho xã hội bị pháp luật hình sự cấm, có năng lực trách nhiệm hình sự (TNHS) và đủ tuổi

chịu trách nhiệm hình sự theo luật định. Như vậy, chủ thể của tội phạm là người đạt độ

6

tuổi chịu TNHS, có năng lực TNHS và thực hiện một tội phạm. Cơ sở pháp lý để xác

định chủ thể của tội cướp giật tài sản là Điều 12, Điều 13, Điều 136 BLHS năm 1999.

Điều 12 BLHS năm 1999 quy định về tuổi chịu TNHS như sau:

1. Người từ đủ 16 tuổi trở lên phải chịu trách nhiệm hình sự về mọi tội phạm

2. Người từ đủ 14 tuổi trở lên, nhưng chưa đủ 16 tuổi phải chịu trách nhiệm hình

sự về tội phạm rất nghiêm trọng do cố ý hoặc tội phạm đặc biệt nghiêm trọng .

Điều 136 năm 1999 quy định bốn khung hình phạt. Cụ thể:

- Khung 1 có mức hình hạt từ 1 năm đến 5 năm; (tội nghiêm trọng)

- Khung 2 có mức hình hạt từ 3 năm đến 10 năm; (rất nghiêm trọng )

- Khung 3 có mức hình hạt từ 7 năm đến 15 năm; (rất nghiêm trọng )

- Khung 4 có mức hình hạt từ 12 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân. (đặc biệt

nghiêm trọng )

1.1.3.3 Mặt khách quan của tội cướp giật tài sản

Mặt khách quan của tội phạm là sự tổng hợp các dấu hiệu do luật hình sự quy định

và các tình tiết phản ánh hành vi bên ngoài của sự xâm hại cụ thể nguy hiểm đáng kể cho

xã hội đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự.

* Về hành vi phạm tội: Là cách xử sự trái pháp luật hình sự và nguy hiểm cho xã

hội. Hành vi cướp giật tài sản là hành vi của chủ thể nhất định với ý thức chiếm đoạt tài

sản của người khác. Dấu hiệu chiếm đoạt trong tội cướp giật tài sản là một dấu hiệu bắt

buộc dù tài sản là đối tượng của hành vi cướp giật tài sản đó bị chiếm đoạt hoàn toàn

(thuộc chiếm hữu của người phạm tội) hay chưa. Nghĩa là với hành vi chiếm đoạt đó,

người phạm tội có thể là chưa chiếm hữu được tài sản hoặc là đã chiếm hữu được tài sản.

Qua định nghĩa khoa học về tội cướp giật tài sản thì hành vi chiếm đoạt ở tội cướp

giật tài sản có hai dấu hiệu đặc trưng, cơ bản bên cạnh các dấu hiệu khác ở mặt khách

quan để phân biệt với những hành vi chiếm đoạt ở các tội phạm khác. Đó là dấu hiệu

công khai và dấu hiệu nhanh chóng.

7

* Dấu hiệu công khai:

Đây là dấu hiệu có sự khác biệt tương đối với một số tội phạm khác. Dấu hiệu này

chỉ tính chất khách quan của hành vi chiếm đoạt là diễn ra một cách công khai trên thực

tế với mọi người xung quanh và với cả chủ thể. Đồng thời dấu hiệu này cũng thể hiện ý

thức chủ quan của người phạm tội là không hề giấu giếm, che đậy hành vi của mình đối

với những người xung quanh và chủ tài sản. Chính vì vậy, dấu hiệu công khai trở thành

không thể thiếu trong khi nghiên cứu mặt khách quan của tội cướp giật tài sản. Nó là

điểm đặc trưng khá cơ bản của tội cướp giật tài sản, giúp các nhà luật học phân biệt

với dấu hiệu lén lút trong hành vi khách quan của tội trộm cắp tài sản hay dấu hiệu

gian dối trong hành vi khách quan của tội lừa đảo chiếm đoạt tài sản…

Thứ nhất, dấu hiệu công khai của tội cướp giật tài sản đòi hỏi người phạm tội cướp

giật tài sản khi thực hiện tội phạm phải thực hiện công khai đối với mọi người xung

quanh và đặc biệt là đối với người đang chiếm hữu, quản lý tài sản mà người phạm tội

nhắm tới. Hành vi chiếm đoạt chỉ được coi là có tính chất công khai nếu biểu hiện bên

ngoài của hành vi của kẻ phạm tội cho phép mọi người xung quanh, chủ tài sản có khả

năng biết ngay khi hành vi phạm tội cướp giật này xảy ra. Có nghĩa là khi hành vi của

người phạm tội vừa xảy ra thì mọi người xung quanh, chủ sở hữu của tài sản có khả năng

biết. Tuy vậy sự công khai này diễn ra rất nhanh do hành vi diễn ra cũng rất nhanh và bất

ngờ nên mọi người và chủ sở hữu không có cách để can thiệp.

Ở đây, ý thức, thái độ, khả năng nhận biết của người bị hại rất có ý nghĩa để phân

biệt tội cướp giật tài sản với tội trộm cắp tài sản. Nếu hành vi của kẻ phạm tội chỉ công

khai với mọi người nhưng lại không công khai với chủ tài sản thì không thể là hành vi

công khai trong mặt khách quan của tội cướp giật tài sản được. Khi người phạm tội thực

hiện hành vi chiếm đoạt tài sản mà những người xung quanh, chủ sở hữu không biết hoặc

người phạm tội chỉ có ý thức công khai với những người xung quanh cũng có ý thức che

giấu (lén lút) với chủ tài sản thì đó lại là dấu hiệu của tội trộm cắp tài sản.

Thứ hai, dấu hiệu công khai của tội cướp giật tài sản đòi hỏi ý thức chủ quan của

người phạm tội khi thực hiện hành vi chiếm đoạt biết hành vi của mình có khả năng bị 8

phát hiện ngay khi tội phạm xảy ra nhưng hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi đó

đối với cả người chiếm hữu, quản lý tài sản và những người xung quanh khu vực có tài

sản.

Ở đây, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình có thể bị phát hiện nhưng

vẫn chọn cách thức hành động cướp giật tài sản vì nghĩ là họ có thể chạy thoát khỏi sự

truy bắt của mọi người khi tội phạm xảy ra.

Trong số các tội xâm phạm sở hữu, có rất nhiều tội phạm cũng có tính chất công

khai trong mặt khách quan của tội phạm. Trong đó dấu hiệu công khai của tội cướp giật

tài sản có nhiều điểm giống với dấu hiệu công khai ở tội công nhiên chiếm đoạt tài sản

làm chúng ta rất dễ nhầm lẫn. Để có cơ sở cho việc định tội chính xác, đòi hỏi chúng ta

phải phân biệt rõ ràng dấu hiệu công khai trong hành vi tội cướp giật tài sản với dấu hiệu

công khai trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản. Công nhiên chiếm đoạt cũng là hành vi

công khai chiếm đoạt tài sản của người khác như tội cướp giật tài sản. Tức là nó cũng bao

gồm việc người phạm tội công khai hành vi của mình đối với mọi người và chủ tài sản

đồng thời họ cũng không có ý định giấu giếm hành vi phạm tội của mình. Người phạm

tội công nhiên thực hiện hành vi phạm tội có biểu hiện công khai một cách rõ ràng hơn cả

tội cướp giật tài sản. Hành vi chiếm đoạt trong tội cướp giật tài sản tuy có công khai với

chủ tài sản nhưng sự công khai này diễn ra rất nhanh, trong một khoảng thời gian ngắn

cũng hành vi chiếm đoạt tài sản trong tội công nhiên chiếm đoạt tài sản diễn ra không

nhanh chóng và trước sự chứng kiến của chủ tài sản cũng như những người xung quanh.

Người phạm tội không cần và không có ý định, hay có bất cứ thủ đoạn nào đối phó với

người quản lý tài sản, cũng không dùng vũ lực, hoặc thủ đoạn khác để uy hiếp tinh thần

của người quản lý tài sản. Điểm khác biệt là ở chỗ trong khi hành vi phạm tội xảy ra

người chủ tài sản có khả năng thậm chí biết tài sản do mình quản lý đang bị chiếm đoạt

nhưng không có điều kiện ngăn cản, đuổi bắt. Còn đối với tội cướp giật tài sản chủ tài sản

không chỉ nhận biết được hành vi chiếm đoạt tài sản của kẻ phạm tội mà còn hoàn toàn

9

có điều kiện, khả năng ngăn cản hoặc đuổi bắt kẻ phạm tội.

* Dấu hiệu nhanh chóng:

Đây là dấu hiệu đặc thù nhất, tiêu biểu nhất, bắt buộc phải có trong mặt khách

quan của tội cướp giật tài sản và được dùng làm tiêu chí chính khi phân biệt với các cấu

thành tội phạm khác. Dấu hiệu này phản ánh phương thức thực hiện hành vi chiếm đoạt

của người phạm tội cướp giật tài sản một cách khẩn trương, vội vã. Khi thực hiện tội

phạm, người phạm tội lợi dụng sơ hở của người chiếm hữu, quản lý tài sản (sơ hở này có

thể là có sẵn hoặc do người phạm tội chủ động tạo ra), nhanh chóng tiếp cận, nhanh

chóng chiếm đoạt tài sản và nhanh chóng tẩu thoát... Dấu hiệu này bao trùm toàn bộ quá

trình diễn ra tội phạm từ khi bắt đầu (nhanh chóng tiếp cận tài sản) đến khi kết thúc

(nhanh chóng tẩu thoát, tẩu tán tài sản). Tuy nhiên để đánh giá thế nào là nhanh chóng,

chúng ta phải căn cứ vào đặc điểm của tài sản (gọn nhẹ, dễ lấy, dễ dịch chuyển hay

không), vị trí, cách thức chiếm giữ, quản lý tài sản (cầm tay, cất trong túi…) cũng như

những hoàn cảnh bên ngoài khác như địa hình, mật độ người qua lại… Trong quá trình

tội phạm xảy ra, dấu hiệu quan trọng nhất, không thể thiếu là nhanh chóng chiếm đoạt.

Các dấu hiệu nhanh chóng tiếp cận, nhanh chóng tẩu thoát là các dấu hiệu phụ trợ nhưng

không bắt buộc. Thông thường hình thức nhanh chóng chiếm đoạt có thể giật lấy tài sản,

giành lấy tài sản và nhanh chóng tẩu thoát (tẩu thoát không phải là dấu hiệu bắt buộc mà

chỉ là thủ đoạn nhanh chóng lẩn tránh của kẻ cướp giật).

Chính nhờ dấu hiệu nhanh chóng mà chúng ta có thể phân biệt tội cướp giật tài sản

với các tội khác có cùng một khách thể bị xâm phạm. Trong mặt khách quan của bất cứ

tội phạm xâm phạm sở hữu nào khác không nhất thiết phải có dấu hiệu nhanh chóng.

Tuy nhiên, tội cướp giật tài sản được thực hiện còn nhờ một yếu tố nữa đó là phải

có sự sơ hở của chủ tài sản. Nếu chủ tài sản cảnh giác thì người phạm tội dù có nhanh

chóng chiếm đoạt cũng không thể thành công với ý định của mình. Đối với tội cướp giật

tài sản, sự sơ hở chủ yếu do người quản lý tài sản tạo ra mà người bên ngoài có thể quan

sát và nhận biết được như để túi xách không được cầm kẹp kỹ, đeo dây chuyền vàng trên

cổ, nghe điện thoại di động nhưng không cầm chắc… Sự sơ hở đôi khi cũng được người 10

phạm tội cố tình tạo ra như việc xô đẩy chen lấn nơi đông đúc để chủ tài sản sao nhãng

việc quản lý tài sản.

Sự sơ hở này có đặc điểm khác với những trở ngại khách quan trong tội công

nhiên chiếm đoạt tài sản. Nếu sự sơ hở là bắt nguồn từ yếu tố chủ quan của chủ tài sản

còn trở ngại khách quan thường là hoàn cảnh khách quan đem lại cho người chủ sở hữu

như đang chờ sang đường mà lại ở cách xa xe ô tô nên không thể ngăn cản người phạm

tội chiếm đoạt gương xe… Như vậy đối với tội cướp giật tài sản sự sơ hở do sự lơ là,

thiếu cẩn trọng của chủ sở hữu, còn trở ngại khách quan trong tội công nhiên chiếm đoạt

tài sản là do những lý do khách quan mà chủ sở hữu không thể khắc phục được.

Trong mặt khách quan của tội cướp giật tài sản, chúng ta cũng thấy xuất hiện dấu

hiệu dùng vũ lực của người phạm tội. Dấu hiệu này ít xảy ra nhưng không thể coi nhẹ

chúng. Trong thực tiễn xét xử, chúng ta rất dễ nhầm lẫn nó trong các tội cướp tài sản,

cưỡng đoạt tài sản. Việc dùng vũ lực ở tội cướp và tội cướp giật tài sản khác nhau về

phạm vi, mức độ và mục đích. Dùng vũ lực, hay đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc là một

dấu hiệu bắt buộc của cấu thành tội cướp tài sản, hành vi dùng vũ lực được tiến hành

ngay trước hoặc song song với hành vi chiếm đoạt tài sản với mục đích làm tê liệt ý chí

phản kháng của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản, cũng hành vi dùng vũ lực trong tội

cướp giật tài sản không phải là dấu hiệu bắt buộc. Hành vi dùng vũ lực (nếu có) trong tội

cướp giật tài sản không phải để khống chế ý chí kháng cự của chủ sở hữu và không nhằm

đe dọa gây nguy hại về tính mạng và sức khỏe cho người chủ sở hữu, mà chỉ là những tác

động nhẹ đến thân thể và với mục đích để tẩu thoát.

Với thủ đoạn nhanh chóng chiếm đoạt tài sản rồi tẩu thoát, người phạm tội cướp

giật tài sản tuy có dùng một lực, một tác động nhất định đối với người đuổi bắt nhưng

không có ý định đối mặt với chủ sở hữu, không có ý thức dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng

vũ lực ngay tức khắc nhằm làm tê liệt ý chớ của chủ tài sản để chiếm đoạt tài sản. Người

phạm tội chỉ mong muốn chủ tài sản không kịp phản ứng và không có điều kiện phản ứng

để ngăn cản hành vi chiếm đoạt của người phạm tội và do vậy chủ sở hữu không có khả 11

năng bảo vệ tài sản, người phạm tội không có ý định dùng bất cứ thủ đoạn nào đề đối phó

với chủ tài sản. Khi thực hiện hành vi cướp giật tài sản, người phạm tội cũng có thể có

hành vi dùng vũ lực nhưng chỉ là một lực nhẹ tác động nhẹ đến thân thể người đang giữ

tài sản, hành vi đó không nhằm gây nguy hại cho tính mạng, sức khỏe người giữ tài sản

và cũng không nhằm tác động đến ý chí của người đó. Hành vi này của người phạm tội

chỉ nhằm để tài sản rời khỏi sự quản lý của người chiếm hữu, quản lý tài sản. Nếu việc

dùng vũ lực trong trường hợp người phạm tội bị phát hiện và đuổi bắt đó có hành vi dùng

sức mạnh chống trả lại người đuổi bắt mình nhưng chỉ có mục đích nhằm tẩu thoát thì

được coi là tình tiết tăng nặng của tội cướp giật tài sản. Như vậy, dùng vũ lực là cách

thức chính để thực hiện việc chiếm đoạt ở tội cướp, còn ở tội cướp giật tài sản dùng vũ

lực chỉ là biện pháp hỗ trợ, nhằm tạo điều kiện cho việc thực hiện tội phạm được nhanh

chóng mà thôi.

Nếu chúng ta cho rằng mọi trường hợp có dấu hiệu dùng vũ lực trong quá trình

chiếm đoạt đều cấu thành tội cướp tài sản hoặc chỉ coi việc dùng vũ lực là tình tiết tăng

nặng định khung của tội cướp giật tài sản hoặc chỉ là dấu hiệu để tăng nặng cho hành vi

cướp giật tài sản thì đều dẫn đến cái những sai lệch về bản chất của tội cướp giật tài sản.

Chúng ta cần phân biệt thời điểm, mục đích dùng vũ lực của người phạm tội thì

mới cụ thể đánh giá đúng bản chất vấn đề.

- Nếu người phạm tội cướp giật đó thực hiện hành vi chiếm đoạt nhưng chưa

chiếm đoạt được tài sản hoặc người phạm tội đó chiếm đoạt được tài sản, nhưng chủ sở

hữu hoặc người khác đó lấy lại được tài sản hay đang giành giật tài sản với người phạm

tội mà người phạm tội dùng vũ lực hoặc đe dọa dùng vũ lực ngay tức khắc để chiếm đoạt

bằng được tài sản. Trường hợp này được coi là chuyển hóa từ tội cướp giật tài sản thành

tội cướp tài sản. Ở đây việc chiếm đoạt tài sản chưa hoàn thành, tài sản vẫn cũng trong sự

kiểm soát của chủ sở hữu, người phạm tội phải dùng vũ lực để chiếm đoạt tài sản nên

12

định tội cướp tài sản là hoàn toàn hợp lý.

Hành vi chiếm đoạt tài sản bằng các thủ đoạn khác trước khi dùng vũ lực hoặc đe

dọa dùng vũ lực ngay tức khắc vũ lực được coi là diễn biến của vụ án.

* Hậu quả phạm tội:

Là sự thiệt hại cụ thể nhất định và đáng kể do hành vi phạm tội gây ra cho các lợi

ích (khách thể) được bảo vệ bằng pháp luật hình sự. Các nhà làm luật xây dựng tội cướp

giật tài sản có cấu thành vật chất. Hành vi cướp giật tài sản ngay khi thực hiện đó tác

động đến quan hệ sở hữu, đe dọa phá vỡ nó nên hậu quả của hành vi cướp giật tài sản

xuất hiện ngay khi người phạm tội thực hiện hành vi. Vì vậy, hậu quả của tội phạm là dấu

hiệu bắt buộc phải có trong mặt khách quan của tội phạm này. Khi tội phạm hoàn thành,

hậu quả trên thực tế đó xảy ra qua sự biến đổi nhất định trong thực tế khách quan dưới

dạng thiệt hại về vật chất hoặc phi vật chất.

Trong thực tiễn xét xử, hành vi chiếm đoạt trong tội cướp giật tài sản phải được

hiểu là người phạm tội đó chiếm đoạt được, tức là đó gây hậu quả nhất định qua sự biến

đổi nhất định trong thực tế khách quan cho dù người phạm tội đó thực sự chiếm hữu tài

sản hay chưa. Hậu quả này phải có mối quan hệ nhân quả với hành vi phạm tội. Hành vi

chiếm đoạt coi là bắt đầu khi người phạm tội bắt đầu thực hiện việc làm mất khả năng

chiếm hữu của chủ tài sản, để tạo khả năng đó cho mình. Khi người phạm tội đó làm chủ

được là sản chiếm đoạt thì lúc đó hành vi chiếm đoạt được coi là đó hoàn thành, người

phạm tội coi là đó chiếm đoạt được tài sản.

Không phải trong tất cả mọi trường hợp việc chiếm đoạt thể hiện như nhau mà để

kết luận đó chiếm đoạt hay chưa? phải dựa vào đặc điểm, vị trí, cách thức giữ tài sản bị

chiếm đoạt thì mới thể hiện được ý thức của hành vi thực tế mà người phạm tội đó thực

hiện.

- Nếu vật nhỏ gọn, dễ lấy như dây chuyền, hoa tai... thì coi là đó chiếm đoạt được

tài sản khi người phạm tội giật được tài sản rời khỏi sự kiểm soát của chủ sở hữu.

- Nếu vật chiếm đoạt không thuộc loại nói trên thì coi chiếm đoạt được tài sản khi

13

người phạm tội đó giật được tài sản khỏi vị trí ban đầu.

Ở tội cướp giật tài sản, tài sản bị chiếm đoạt thường có thể tích nhỏ, gọn nhẹ, dễ

lấy, dễ dịch chuyển như dây chuyền, điện thoại di động, túi xách… thì chỉ kết luận là đó

chiếm đoạt khi chuyển dịch được tài sản khỏi vị trí ban đầu và khỏi sự kiểm soát của chủ

sở hữu. Sự kiểm soát này phải được đánh giá, xác định thông qua cách thức chiếm hữu,

giữ, bảo quản tài sản. Cách thức chiếm hữu, giữ, bảo quản tài sản có thể được thực hiện

theo hai cách: tài sản được giữ trong tầm quan sát (thường là phía trước người quản lý tài

sản); tài sản được giữ ngoài tầm quan sát của người quản lý tài sản nhưng họ phải có thể

kiểm soát được sự dịch chuyển của tài sản đó như để ở túi quần sau, đeo túi đằng sau

lưng, kẹp đằng sau xe …

Đối với những tài sản được giữ trong tầm quan sát của người quản lý tài sản thì

khi hành vi cướp giật tài sản xảy ra, người quản lý tài sản thường nhận biết được ngay.

Nhưng đối với những tài sản được giữ ở ngoài tầm quan sát của người quản lý tài sản thì

việc nhận thức của người bị cướp giật tài sản có ý nghĩa rất quan trọng trong việc định

tội. Nếu người quản lý tài sản nhận biết được ngay khi có hành vi của người chiếm đoạt

thì hành vi đó mới cấu thành tội cướp giật tài sản. Trong trường hợp người quản lý tài sản

không nhận biết được ngay khi có hành vi của người phạm tội mà chỉ khi những người

xung quanh hô hoán mới biết, thì hành vi của người chiếm đoạt tài sản khi đó có dấu hiệu

lén lút, bí mật. Hành vi này khi đó thiếu tính công khai. Hậu quả xảy ra khi đó là do hành

vi trong cấu thành tội trộm cắp tài sản. Thời điểm người phạm tội cướp giật tài sản hoàn

thành hành vi chiếm đoạt chính là thời điểm mà chủ sở hữu bị xâm phạm quyền chiếm

hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản của mình. Tại thời điểm đó, quan hệ sở hữu đó bị

hành vi cướp giật tài sản xâm hại và người đang quản lý tài sản không còn khả năng thực

hiện các quyền năng đối với tài sản của mình. Đối với tội cướp giật tài sản, thời điểm

hoàn thành của tội phạm cũng là thời điểm hoàn thành hành vi chiếm đoạt, tức là dịch

chuyển một cách bất hợp pháp đối với tài sản của chủ sở hữu, sự dịch chuyển này không

phụ thuộc vào kết quả cuối cùng là kẻ phạm tội có thực hiện được quyền chiếm giữ, sử

14

dụng, định đoạt tài sản hay không.

1.1.3.4 Mặt chủ quan của tội cướp giật tài sản

Mặt chủ quan của tội phạm là đặc điểm tâm lý bên trong của cách xử sự có tính

chất tội phạm xâm hại đến khách thể được bảo vệ bằng pháp luật hình sự, tức là thái độ

tâm lý của chủ thể được thể hiện dưới hình thức cố ý hoặc vụ ý. Đối với tội cướp giật tài

sản, người phạm tội nhận thức được hành vi của mình, thực hiện hành vi đó một cách

công khai và hoàn toàn không có ý định che giấu hành vi đó. Người phạm tội mong muốn

bằng hành động của mình làm chủ tài sản không kịp có phản ứng ngăn cản việc chiếm

đoạt tài sản nên không cần dùng bất cứ thủ đoạn nào khác để đối phó trực tiếp với chủ tài

sản để chiếm đoạt thành công tài sản của họ. Người phạm tội biết tài sản thuộc quyền sở

hữu của người khác nhưng vẫn muốn chiếm đoạt bằng được. Như vậy,người phạm tội đó

có dấu hiệu cố ý để hậu quả thực tế xảy ra là chiếm được tài sản từ người khác. Để đạt

được mục đích của mình (để hậu quả nêu trên xảy ra), người phạm tội đó phải lựa chọn

cách hành động không được pháp luật cho phép là nhanh chóng giật lấy tài sản rồi bỏ

chạy. Như vậy, người thực hiện tội phạm đó có sự cố ý đối với hành động bất hợp pháp

của mình. Khi đó, người thực hiện hành vi đó có lỗi trong việc thực hiện tội phạm tội

cướp giật tài sản.

Điều 9 BLHS năm 1999 quy định về lỗi cố ý:

1. Người phạm tội nhận thức từ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy

trước được hậu quả của hành vi đó và mong muốn hậu quả xảy ra;

2. Người phạm tội nhận thức từ hành vi của mình là nguy hiểm cho xã hội, thấy

trước hậu quả của hành vi đó có thể xảy ra, tuy không mong muốn nhưng có ý thức để

mặc cho hậu quả xảy ra. Hành vi tội cướp giật tài sản được thực hiện bằng lỗi cố ý trực

tiếp theo quy định tại đoạn 1 Điều 9 nêu trên. Bởi lẽ, người thực hiện hành vi phạm tội

cướp giật tài sản khi phát hiện thấy sơ hở của người quản lý tài sản, mong muốn chiếm

đoạt tài sản đó và để thực hiện mong muốn đó người phạm tội đó dựng thủ đoạn nhanh

chóng công khai chiếm đoạt tài sản dù biết rằng hành vi của mình nguy hiểm cho xã hội,

15

trái pháp luật nhưng vẫn thực hiện hành vi chiếm đoạt tài sản. Người phạm tội biết tài sản

thuộc sở hữu của người khác và đang trong sự quản lý của họ, nhưng vẫn thực hiện hành

vi chiếm đoạt một cách bất hợp pháp và mong muốn biến tài sản đó thành tài sản của

mình.

Như vậy, thái độ tâm lý của người phạm tội cướp giật tài sản là mong muốn cho

hậu quả xảy ra là chiếm đoạt tài sản của người khác.

Đối với tội cướp giật tài sản, hậu quả của tội phạm là dấu hiệu bắt buộc cho nên

người cố ý trực tiếp phạm tội không những nhận thức được tính chất nguy hiểm cho xã

hội của hành vi của mình mà ngay khi thực hiện hành vi cũng đó thấy trước được hậu quả

của nó.

Những trường hợp lầm tưởng là tài sản của mình hoặc tài sản không có người

quản lý hay không có mục đích chiếm đoạt tài sản đều không phải là hành vi tội cướp giật

tài sản. Những trường hợp này sẽ không cấu thành tội cướp giật tài sản hoặc cấu thành

một tội phạm khác.

1.1.3. 5 Trách nhiệm hình sự đối với người phạm tội cướp giật tài sản

Qua qua trình thực tiễn và công tác xét xử, BLHS năm 1985 đó không còn đáp

ứng được yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm nói chung và tội phạm xâm phạm sở

hữu nói riêng nữa. Việc phân định tài sản thuộc sở hữu XHCN hay tài sản của công dân

đó gây rất nhiều phức tạp, khó khăn trong quá trình xét xử và không còn cần thiết. Trước

tình hình đó, tại lần pháp điển hóa luật hình sự lần thứ hai, hai chương IV và VI của

BLHS năm 1985 đó được nhập vào thành một chương XIV với 13 tội danh trong BLHS

năm l999. Trước khi BLHS năm 1999 ra đời, tội cướp giật tài sản và tội công nhiên

chiếm đoạt tài sản được quy định tại cùng một điều luật là Điều 131 (cướp giật tài sản

XHCN) và Điều 154 (cướp giật tài sản của công dân) BLHS năm 1985. Đến BLHS năm

1999 thì tội cướp giật tài sản và tội công nhiên chiếm đoạt tài sản đó được quy định thành

hai tội phạm ở hai điều khác nhau, tội cướp giật tài sản (Điều 136 BLHS năm 1999) và

16

tội công nhiên chiếm đoạt tài sản (Điều 137 BLHS năm 1999). Điều này phản ánh đúng

tính chất, mức độ nguy hiểm lớn hơn cho xã hội của tội cướp giật tài sản so với tội công

nhiên chiếm đoạt tài sản.

Với thái độ cương quyết của chính sách hình sự đối với tội cướp giật tài sản, Điều

136 BLHS năm 1999 được quy định bao gồm bốn khung mức hình phạt BLHS năm 1999

quy định nghiêm khắc hơn so với BLHS năm 1985. Người phạm tội cướp giật tài sản có

thể bị phạt tù chung thân.

- Khung 1 (cấu thành cơ bản) BLHS năm 1999 quy định hình phạt tự từ một năm

đến năm năm.

- Khung 2: hình phạt tự từ ba năm đến mười năm áp dụng đối với trường hợp

phạm tội có tình tiết định khung tăng nặng gồm:

a) Có tổ chức: phạm tội có tổ chức hình thức đồng phạm đặc biệt, là trường hợp

phạm tội có từ 2 người trở lên, có sự cấu kết chặt chẽ giữa những người phạm tội, có sự

bàn bạc, phân công giữa những người thực hiện tội phạm. Loại hình phạm tội này có xu

hướng tăng trong những năm gần đây, gây thiệt hại, thất thoát lớn về tài sản.

b) Có tính chất chuyên nghiệp là trường hợp phạm tội nhiều lần và coi hoạt động

tội cướp giật tài sản là cách thức kiếm sống, nguồn sống chính cho bản thân [29, tr. 247].

Người phạm tội cố ý phạm tội liên tục về cùng một tội phạm, lấy các lần phạm tội làm

nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính. Những kẻ phạm

tội có tính chất chuyên nghiệp trong tội cướp giật tài sản thường là những phần tử sa đọa,

biến chất, lưu manh, là đối tượng tệ nạn xã hội… nên tính chất của hành vi phạm tội của

chúng mang tính nguy hiểm cao cho xã hội.

c) Tái phạm nguy hiểm. Đây là trường hợp người phạm tội đó bị kết án về loại tội

rất nghiêm trọng trở lên chưa được xóa án mà lại phạm loại tội rất nghiêm trọng trở lên

do cố ý. Tức là người phạm tội đó bị phạt tự về tội rất nghiêm trọng, tội đặc biệt nghiêm

trọng do lỗi cố ý, chưa được xóa án tích mà lại phạm tội cướp giật tài sản có tình tiết tăng

nặng chuyển khung hoặc đó tỏi phạm, chưa được xóa án tích, nay phạm tội cướp giật tài

17

sản.

d) Dùng thủ đoạn nguy hiểm là trường hợp người phạm tội thực hiện hành vi

nhanh chóng chiếm đoạt tài sản bằng thủ đoạn mà có thể gây nguy hiểm đến tính mạng,

sức khỏe của chủ sở hữu hoặc người quản lý tài sản. Dùng thủ đoạn nguy hiểm là biểu

hiện của sự quyết tâm chiếm đoạt bằng được tài sản của người phạm tội nhưng tính nguy

hiểm cao, đe dọa trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của người bị hại như dùng mô tô, xe

máy để thực hiện hành vi cướp giật hoặc cướp giật tài sản của người đang đi mô tô, xe

máy... Do vậy, tính chất mức độ của tội phạm nguy hiểm cao hơn trong trường hợp phạm

tội cướp giật tài sản bình thường. Hiện nay đây là thủ đoạn nhiều nhất mà bọn phạm tội

cướp giật tài sản sử dụng để hoạt động phạm tội cướp giật tài sản .

đ) Hành hung để tẩu thoát là trường hợp mà người phạm tội chưa chiếm đoạt được

tài sản hoặc đã chiếm đoạt được tài sản, nhưng bị phát hiện và bị bắt giữ hoặc bị bao vây

bắt giữ thì đã có những hành vi chống trả lại người bắt giữ hoặc người bao vây bắt giữ

như đánh, chém, bắn, xô đẩy... nhằm tẩu thoát. Người phạm tội sau khi thực hiện hành vi

phạm tội bị phát hiện đuổi bắt đó có hành vi dùng sức mạnh chống lại việc bắt giữ của

chủ sở hữu hoặc của người khác để tẩu thoát. Việc chống trả này không đòi hỏi có gây

thương tích đáng kể hay không. Mục đích của việc chống trả là nhằm tẩu thoát, nếu nhằm

để giữ bằng được tài sản vừa cướp giật được thì là trường hợp chuyển hóa từ tội cướp

giật tài sản thành tội cướp tài sản. Tính nguy hiểm của tình tiết này được biểu hiện ở việc

ngoài gây thiệt hại về tài sản còn xâm hại đến sức khỏe của chủ sở hữu và những người

khác, xâm phạm đến trật tự xã hội.

e) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương

tật từ l1% đến 30%.

g) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm mươi triệu đồng đến dưới hai trăm triệu

đồng.

18

h) Gây hậu quả nghiêm trọng.

- Khung 3: BLHS năm 1999 quy định hình phạt tự từ bảy năm đến mười lăm năm

áp dụng trong trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết tăng nặng định khung quy

định thể hiện tính nghiêm khắc cao hơn và bao gồm các tình tiết sau:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương

tật từ 31% đến 60%.

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ hai trăm triệt đồng đến dưới năm trăm triệu

đồng.

c) Gây hậu quả rất nghiêm trọng.

- Khung 4: BLHS năm 1999 quy định hình phạt tự từ mười hai năm đến hai mươi

năm hoặc tù chung thân áp dụng trường hợp phạm tội có một trong các tình tiết tăng nặng

định khung quy định:

a) Gây thương tích hoặc gây tổn hại cho sức khỏe của người khác mà tỷ lệ thương

tật từ 61% trở lên hoặc làm chết người. Gây chết người là trường hợp người bị tấn công

chết nhưng nguyên nhân trực tiếp dẫn đến cái chết của nạn nhân không phải do hành vi

tấn công mà nằm ngoài ý muốn của kẻ phạm tội và do những nguyên nhân khách quan, ví

dụ do bị giật tài sản, người bị hại ngã xe đập đầu xuống dường dẫn đến chết người.

b) Chiếm đoạt tài sản có giá trị từ năm trăm triệu đồng trở lên.

c) Gây hậu quả đặc biệt nghiêm trọng.

Các tình tiết ''gây hậu quả nghiêm trọng'', ''gây hậu quả rất nghiêm trọng'', ''gây

hậu quả đặc biệt nghiêm trọng'' trong các khoản 2, 3, 4 của điều luật này không phải là

hậu quả về sức khỏe, tính mạng vì thiệt hại này đã được quy định là một tình tiết định

khung riêng biệt. Hậu quả này có thể là về an ninh, trật tự, an toàn xã hội, ảnh hưởng đến

chính trị hoặc thiệt hại về tài sản. Do đó phải đánh giá một cách toàn diện, đầy đủ các hậu

quả mà tội phạm gây ra để xác định thuộc trường hợp nào.

- Khoản 5 quy định hình phạt bổ sung: BLHS năm 1999 quy định hình phạt bổ

sung vào từng điều luật cụ thể, đối với tội cướp giật tài sản hình phạt bổ sung là: Người

19

phạm tội có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một trăm triệu đồng.

Tội phạm cướp giật tài sản là loại tội xâm phạm đến vấn đề sở hữu của chủ sở

hữu. Nó đe dọa hoặc trực tiếp gây thiệt hại về vật chất cho chủ sở hữu tài sản. Do vậy,

trong phần chế tài, các nhà lập pháp đã quy định hình phạt tiền là hình phạt bổ sung để

Tòa án có thể tùy từng trường hợp lựa chọn áp dụng nhằm trừng phạt về vật chất nhất

định đối với người phạm tội. Việc áp dụng chế tài này cụ thể là tước đi một khoản tiền

nhất định của người phạm tội để sung vào công quỹ của Nhà nước với mức tối thiểu là 10

triệu đồng và tối đa là 100 triệu đồng.

1.2 Quy trình hình thành hành vi phạm tội

Trong khoa học pháp lý hình sự, hành vi phạm tội được hiểu là hành vi có ý thức

và ý chí, là thể thống nhất giữa mặt khách quan và mặt chủ quan của tội phạm, đồng thời

nó còn được coi như một khái niệm cơ bản nhất của luật hình sự. Dưới góc độ tâm lý học

người ta nghiên cứu quá trình hình thành hành vi phạm tội bao gồm những nội dung sau

đây:

Nhu cầu và lợi ích -

Động cơ, mục đích và ý định phạm tội. -

Quyết định thực hiện hành vi phạm tội. -

Phương thức thực hiện hành vi phạm tội. -

20

Quá trình hình thành hành vi phạm tội có thể biểu thị qua sơ đồ dưới đây:

1.2.1 Nhu cầu và lợi ích

a) Nhu cầu

Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và

phát triển. Nhu cầu và việc thỏa mãn nhu cầu của con người là động lực thúc đẩy hoạt

động, điều chỉnh hành vi của cá nhân và nhóm xã hội.

Trong lĩnh vực pháp lý hình sự, nhu cầu thực hiện chức năng làm động lực thúc

đẩy hành vi của người phạm tội. Nó qui định xu hướng lựa chọn ý định, động cơ, mục

đích phạm tội. Ngoài những nhu cầu nói chung, nhu cầu của người phạm tội còn có thể

có các đặt tính sau:

- Tính nhỏ nhen, nghiêng về vật chất, thực dụng.

- Sự lệch lạc so với chuẩn mực xã hội, chống đối lại xã hội.

- Nhu cầu quá cao ngoài khả năng thỏa mãn cho phép.

- Tính đồi bại, suy thoái.

Nhu cầu con người và nhu cầu xã hội nói chung thường có phần cao hơn khả năng

hiện có, đó là cơ sở cho sự phát triển đi lên. Tuy nhiên, sự chênh lệch giữa nhu cầu và

khả năng hiện có có thể trở thành điều kiện (nhưng không phải là nguyên nhân) của hành

vi phạm tội (khi mức thỏa mãn nhu cầu quá thấp). Nhu cầu quá lớn, lòng tham, tính đố kị,

ý muốn “hơn người” thường dẫn đến hành vi tham ô, hối lộ, trộm cắp, cướp giật, cưỡng

đoạt…

b) Lợi ích

Lợi ích con người thể hiện mối quan hệ của con người với điều kiện hiện tại, với

cả ước muốn ở kế hoạch hoạt động sống của họ trong tương lai. Đôi khi có những dạng

hành vi nhất định trở thành lợi ích độc lập của cá nhân, tách khỏi điều kiện xuất phát.

Hành vi vu khống, đổ lỗi cho người khác, cãi cọ và thậm chí vi phạm pháp luật thường

biểu hiện như hình thức biến dạng của sự khẳng định và của “ tính tích cực xã hội”:. Nhìn

chung, người phạm tội thường xử lý không đúng mối quan hệ giữa lợi ích của cá nhân

21

với lợi ích của người khác, của tập thể, của xã hội.

1.2.2 Động cơ, mục đích, ý định phạm tội

a) Động cơ phạm tội

Động cơ phạm tội là nguyên nhân tâm lý, động lực bên trong thúc đẩy người phạm

tội thực hiện hành vi phạm tội. Ví dụ: giết người vì động cơ trả thù, giết người để che dấu

hoặc thực hiện một tội phạm khác …Nhu cầu của con người khi đã được nhận thức đầy

đủ và có khả năng thực hiện thì có thể trở thành động cơ. Động cơ và thái độ xử sự của

con người là hiện tượng hết sức phức tạp, nó không chỉ xuất hiện trong mỗi cá nhân trên

cơ sở các nhu cầu cấp thiết mà cả trong mối quan hệ của cá nhân với người khác, với

hoàn cảnh xã hội. Hành vi của con người trong trạng thái tâm lý bình thường đều được

diễn ra do sự thúc đẩy của một hoặc một số động cơ nhất định. Trong những trường hợp

phạm tội cố ý thì bao giờ hành vi của người phạm tội cũng do động cơ phạm tội thúc đẩy.

Thường những trường hợp phạm tội này được thực hiện do xung đột tình cảm, được tích

tụ lại. Đôi khi hình ảnh xuất hiện đột ngột, kích động con người hành động mà họ không

phân tích kỹ hậu quả tất yếu của nó hoặc không biết hành vi của mình là hành vi phạm tội

hoặc tin hành vi của mình không trở thành hành vi phạm tội. Có những trường hợp không

hành động theo ý muốn của mình mà có sự điều khiển chi phối của người khác hoặc

nhóm người khác và đã dẫn đến phạm tội.

Trong hành vi phạm tội, việc phát hiện ra động cơ phạm tội và nghiên cứu chúng

sẽ rất thiết thực đối với việc:

Xác định mức độ nguy hiểm cho xã hội của hành vi phạm tội -

Dự báo khả năng tái phạm của người phạm tội -

Xác định khung hình phạt đối với người phạm tội. Ví dụ: động cơ đê hèn là -

dấu hiệu định khung tăng nặng được phản ánh trong cấu thành tội phạm tăng nặng của tội

giết người (điểm q khoản 1 Điều 93 Bộ luật hình sự)

- Xác định những tình tiết tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự khi

22

quyết định hình phạt đối với người phạm tội (trong những tình tiết giảm nhẹ hoặc tăng

nặng trách nhiệm hình sự được qui định ở Điều 46 và 48 Bộ luật hình sự có nhiều tình

tiết thuộc động cơ phạm tội).

Thường những hành vi phạm tội xuất phát từ những động cơ sau:

Động cơ vụ lợi gắn liền với những ham muốn vật chất hẹp hòi như muốn -

món đồ vật quí, có tích lũy lớn, làm giàu bất hợp pháp

Động cơ gắn liền với những suy tính nhằm nâng cao thể diện cá nhân -

(muốn hơn người, có địa vị xã hội cao )

Động cơ mang tính chất hiếu chiến, kết hợp với ý thức coi thường lợi ích -

của người khác, của xã hội, không tôn trọng nhân phẩm con người.

Động cơ đi ngược lại với lợi ích xã hội gắn liền với tình trạng vô trách -

nhiệm và không hoàn thành nghĩa vụ với Nhà nước.

b) Mục đích phạm tội

Mục đích phạm tội là cái mà người phạm tội đặt ra trong trí óc mình dưới dạng

hình ảnh, biểu tượng và mong muốn đạt được nó thông qua hành vi phạm tội.

Người phạm tội khi thực hiện tội phạm đều nhắm tới những mục đích nhất định.

Nhưng chỉ có thể nói đến mục đích phạm tội của những hành vi phạm tội với lỗi cố ý trực

tiếp và chỉ trong trong trường hợp này người phạm tội mới có sự mong muốn thực hiện

tội phạm để đạt những mục đích nhất định. Còn ở các trường hợp phạm tội khác (như

phạm tội với lỗi cố ý gián tiếp, vô ý vì cẩu thả, vô ý vì quá tự tin) người phạm tội cũng có

mục đích nhưng không phải là mục đích phạm tội. Bởi vì người phạm tội hoàn toàn

không mong muốn thực hiện một tội phạm hoặc họ không biết hành vi của mình có thể

trở thành hành vi phạm tội hoặc họ biết nhưng không muốn nó trở thành hành vi phạm

tội.

Mục đích phạm tội thường do chủ thể định ra và được nhận thức như là yếu tố cần

thiết và có khả năng thực hiện trong điều kiện nhất định. Sự hình thành mục đích là giai

23

đoạn đầu tiên của sự hình thành hành vi phạm tội.

Việc lựa chọn mục đích là do động cơ quyết định. Từ động cơ người ta xác định

mục đích hành động, vạch ra kế hoạch cụ thể để đạt kết quả tối ưu.

c) Ý định phạm tội

Ý định phạm tội được xuất hiện trên cơ sở những động cơ phạm tội và gắn liền với

sự phân tích đánh giá hoàn cảnh cụ thể và việc xác định mục đích phạm tội cụ thể. Ý định

phạm tội không mang tính khách quan mà là yếu tố tâm lý có tính chủ quan.

Trong lĩnh vực pháp lý hình sự, chủ thể chịu trách nhiệm hình sự không phải vì ý

định phạm tội của mình mà chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự khi người phạm tội đã có

những hành vi nguy hiểm cụ thể được thể hiện ra ngoài thế giới khách quan. Ví dụ: Tìm

kiếm dao, súng để giết người (giai đoạn chuẩn bị phạm tội) hoặc can phạm đã có hành vi

đâm, bắn, bóp cổ trong tội giết người (giai đoạn thực hiện tội phạm). Tuy nhiên, ý định

phạm tội chính là cơ sở tâm lý dẫn đến việc thực hiện tội phạm.

Ý định phạm tội có quan hệ chặt chẽ với điều kiện thực hiện tội phạm. Điều kiện

thay đổi có thể làm thay đổi ý định phạm tội hoặc làm xuất hiện ý định phạm tội mới. Ví

dụ: lúc đầu chủ thể có ý định trộm cắp tài sản nhưng khi điều kiện thay đổi y thực hiện

hành vi cướp tài sản. Ý định phạm tội sẽ biến mất khi không có điều kiện khách quan

thuận lợi cho việc thực hiện hành vi phạm tội. Đôi khi có dấu hiện phạm tội nhưng chủ

thể tự nguyện từ bỉ ý định phạm tội với nhiều lý do khác nhau.

1.2.3 Quyết định thực hiện hành vi phạm tội

Cực điểm dẫn đến hành vi phạm tội là việc hình thành quyết định hành động cụ

thể, sự “khẳng định” hoàn toàn phương án đã chọn là thời điểm xuất phát để thực hiện

hành vi, là điểm nút của toàn bộ quá trình chuẩn bị phạm tội. Có thể nói rằng đến thời

điểm này nhân cách đã chuyển hóa, mục đích phạm tội đã chi phối toàn bộ suy nghĩ, tình

cảm hành động của tội phạm hướng đến kết quả sẽ đạt được thông qua hành vi phạm tội.

Trên thực tế, sự lựa chọn phương án thực hiện hành vi có thể thích hợp, có cơ sở,

hợp lý, có tính đến logic phát triển của các sự kiện. Nhưng cũng có thể không thích hợp,

không hợp lý khi những phương án có khả năng không được sắp xếp theo trình tự “hợp 24

lý” và không được phân tích, so sánh một cách kỹ lưỡng. Tuy vậy, đối với tất cả mọi

hành vi phạm tội, chủ thể của nó đều gây ra hậu quả xấu cho xã hội và sự trừng phạt của

xã hội đối với họ là không thể tránh khỏi.

1.2.4 Phương thức thực hiện hành vi phạm tội

Phương thức thực hiện hành vi phạm tội là hệ thống phương pháp được lựa chọn

xuất phát từ động cơ, mục đích phạm tội đã hình thành và do đặc điểm tâm lý của người

thực hiện hành vi phạm tội qui định.

Phương thức thực hiện hành vi phạm tội phản ánh ý định và quá trình chuẩn bị

phạm tội. Việc làm rõ phương thức thực hiện hành vi phạm tội sẽ giúp thấy được động cơ

thúc đẩy người phạm tội, mục đích mà họ theo đuổi, tính chất và mức độ nguy hiểm cho

xã hội bởi hành vi phạm tội của họ. Trong phương thức còn thể hiện đặc điểm tâm lý,

trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen, các mối quan hệ xã hội, kiểu khí chất, trạng thái tâm

lý của người phạm tội. Ví dụ: Những hành vi côn đồ thường có ở những người thuộc khí

chất nóng, không biết kiềm chế, thiếu giáo dục.

Trong hành vi phạm tội, phương thức thực hiện hành vi quan hệ mật thiết với động

cơ và mục đích. Nếu động cơ xác định mục đích thì đến lượt mục đích lại xác định tính

chất và phương thức thực hiện hành vi.

Chương 2: Tình hình cướp và các nguyên nhân tâm lý xã hội của tội cướp giật tài sản tại thành phố Hồ Chí Minh

25

2.1 Tình hình cướp giật tại Hồ Chí Minh

2.1.1 Thống kê các vụ cướp

Tình hình tội phạm cướp, cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố trong những

năm gần đây có diễn biến phức tạp, tính chất tội phạm có xu hướng manh động hơn trong

vài năm trở lại đây; phần lớn đối tượng phạm tội là những thanh thiếu niên, không có

việc làm ổn định, thường xuyên tụ tập chơi bời, sử dụng các loại chất kích thích (bia,

rượu, ma túy…), sau đó hình thành các băng nhóm khoảng từ 02 đến 06 tên thực hiện các

hành vi phạm tội nhằm chiếm đoạt tài sản để thỏa mãn các nhu cầu cá nhân không lành

mạnh, chúng thường sử dụng xe môtô, có mang theo hung khí (dao, kiếm, công cụ hỗ

trợ…) để tấn công nạn nhân hoặc chống trả lại lực lượng truy bắt khi bị phát hiện. Qua

ghi nhận trong năm 2012 trên địa bàn Thành phố Hồ Chí Minh xảy ra 392 vụ Cướp tài

sản (Năm 2011 là 428 vụ) và 1.119 vụ Cướp giật tài sản (Năm 2011 là 1.265 vụ), trong

đó 1.011 vụ có phương tiện.

Theo đại tá Ngô Minh Châu, Phó Giám đốc Công an TP HCM, tình hình tội phạm

(ma túy, kinh tế, môi trường, mại dâm…) vẫn diễn biến phức tạp. 5 tháng đầu năm 2013

số vụ án cướp giật và trộm cắp tài sản không chỉ gia tăng mà còn chiếm đến 80% tổng số

vụ phạm pháp hình sự, trong khi đó tỷ lệ điều tra phá các loại án này thấp, chỉ đạt hơn

50%. Đáng chú ý, án cướp giật tài sản và trộm cắp tài sản có dấu hiệu gia tăng trở lại

(cướp giật tăng 2,24%, trộm tài sản tăng gần 11%%)

Thống kê năm 2013 tại thành phố Hồ Chí Minh, tội phạm cướp tài sản 1.121 vụ,

xảy ra chủ yếu ở các quận huyện ven thành phố như Bình Tân, Tân Bình, Bình Chánh,

Hóc Môn… với phương thức, thủ đoạn sử dụng xe gắn máy đeo bám nạn nhân đến nơi

tối vắng rồi dung roi điện, công cụ hỗ trợ, dao, mã tấu, gậy… bất ngờ tấn công hoặc dàn

cảnh gây va chạm giao thông để cướp; kêu xe ôm chở về gần cơ quan nhà nước để nạn

nhân tin tưởng, mất cảnh giác rồi tấn công, cướp tài sản. Tội phạm cướp giật tài sản 3.319

vụ, trong đó phần lớn là cướp giật có phương tiện 2.920 vụ.

26

2.1.2 Một số thủ đoạn

Đối với các băng nhóm hoạt động phạm tội cướp tài sản, chúng có sự bàn bạc,

phân công nhiệm vụ từ trước, thường sử dụng xe honda phân khôi lớn đeo bám theo nạn

nhân đi một mình ban đêm trên đường vắng, ép nạn nhân vào lề đường dùng dao, búa,

đánh cướp xe và tài sản khác; dàn cảnh va quẹt xe để ăn vạ rồi cướp tài sản, giả thuê

mướn xe honda ôm, xe taxi điều nạn nhân đến nơi vắng để đánh cướp, giả khách vào cửa

hàng mua đồ, vào quán uống nước thấy vắng người đánh nạn nhân cướp, đánh cướp TS

của các cặp tình nhân ngồi tâm sự nơi tối vắng, thời gian hoạt động phần lớn từ khoảng

18h00 đến 06h00 ngày hôm sau.

Đối với các băng nhóm hoạt động phạm tội cướp giật tài sản, chúng thường theo

dõi những người có mang theo tài sản gọn nhẹ, có giá trị, dễ tiêu thụ (ĐTDĐ, máy chụp

hình, nữ trang, túi xách, vàng, tiền mặt…), đáng chú ý là những khách hàng đến rút tiền,

vàng tại ngân hàng, điểm giao dịch, tiệm vàng… Thủ đoạn hoạt động của bọn tội phạm

này rất táo bạo, quyết liệt bất chấp mọi nguy hiểm đến tính mạng và sức khỏe của người

khác. Đặc điểm chung của bọn này là sử dụng các loại xe nhỏ gọn có tốc độ cao, gắn

bảng số giả đi trên đường phố, phát hiện sơ hở của nạn nhân liền áp sát gây án, nhanh

chóng tẩu thoát khỏi hiện trường, khi bị truy đuổi sẵn sàng sử dụng hung khí mang theo

chống trả. Địa bàn hoạt động chủ yếu là ở những nơi tập trung đông người (bến xe, nhà

ga, chợ, trung tâm thương mại…); trong đó khu vực xung quanh trường học, ký túc xá

sinh viên cũng là nơi các đối tượng thường xuyên gây án, thời gian hoạt động phần lớn

trong khoảng từ 06h00 đến 11h00 và từ 13h00 đến 18h00.

2.1.3 Một số vụ cướp gây xôn xao dư luận thời gian qua

* Vụ cướp của băng chặt tay cô gái cướp xe SH trên cầu Phú Mỹ

Hồ Duy Trúc và Nguyễn Hoàng Phương (21 tuổi) từng tham gia vào nhiều vụ

cướp trên địa bàn tỉnh Ninh Thuận. Bị công an tỉnh này truy bắt, hai tên rủ nhau vào

TP.HCM lập nghiệp. Nơi đất khách quê người, không có nghề nghiệp ổn định lại nghiện

27

ma túy nên Trúc và Phương thành lập băng cướp mới. Băng cướp này có 5 thành viên

gồm Trúc, Luông, Phương, Tuyền và Huỳnh Thanh Sơn. Ban ngày chúng tụ tập nhậu

nhẹt, sử dụng ma túy. Đêm xuống cả nhóm điều khiển xe máy mang theo dao, mã tấu

lòng vòng trên nhiều tuyến đường tìm các "con mồi" để ra tay chém, cướp. Từ tháng 6 -

11/2012, nhóm này đã gây ra 18 vụ chém người, cướp tài sản trên địa bàn TP.HCM.

Băng cướp chiếm đoạt được 15 xe máy các loại, tổng trị giá gần 570 triệu đồng; một số

tài sản khác là vàng, tiền, điện thoại trị giá hơn 43 triệu đồng. Như vậy với thủ đoạn hết

sức tàn bạo, Trúc và đồng bọn đã chiếm đoạt hơn 610 triệu đồng; gây thương tích cho 12

nạn nhân. Đặc biệt là vụ chặt tay chị Nguyễn Thị Ngọc Thúy (sinh năm 1984, ngụ quận

2) cướp xe SH trên cầu Phú Mỹ gây xôn xao dư luận. Nạn nhân may mắn thoát chết

nhưng bị thương tật với tỷ lệ 47%. Trong 2 ngày 24 và 25/12/2013, TAND TP.HCM đưa

vụ án ra xét xử sơ thẩm. Kết thúc phiên tòa, HĐXX tuyên phạt Trúc tử hình, Luông tù

chung thân, Phương 20 năm tù, Sơn 18 năm, Tuyền 12 năm cùng về tội Cướp tài sản.

* Cướp laptop, đâm chết người

Giật giỏ xách chứa laptop trên đường phố, bị truy đuổi, bị cáo Lập dùng dao đâm

chết người rồi tiếp tục gây thương tích cho nhiều người khác trên đường tháo chạy. Hành

vi phạm tội của bị cáo gây nguy hiểm cho xã hội, Lập phải nhận bản án tử hình.

Ngày 19/12, TAND Tối cao tại TPHCM đã bác đơn kháng cáo của bị cáo và bị

hại, tuyên y án sơ thẩm đối với bị cáo Cao Trung Lập (29 tuổi, ngụ TPHCM) án tử hình

về tội “Giết người”, 5 năm tù về tội “Cố ý gây thương tích” và 5 năm tù về tội “Cướp giật

tài sản”. Tổng hợp hình phạt chung là tử hình.

Theo bản án sơ thẩm, khoảng hơn 10h ngày 17/9/2012, bị cáo Cao Trung Lập điều

khiển xe máy, lưu thông trên đường Cộng Hòa hướng về ngã tư Hoàng Hoa Thám, quận

Tân Bình.

Bị cáo Lập nhìn thấy anh Hoàng Ngọc Tri điều khiển xe máy chở chị Nguyễn Thị

Kim Huệ đang chạy cùng chiều, phía trước xe có để 1 túi xách đựng laptop nên nảy sinh

28

ý định cướp giật.

Chạy áp sát vào xe anh Tri, bị cáo Lập dùng tay giật túi xách rồi tăng ga bỏ chạy.

Do gặp đèn đỏ ở ngã tư nên không chạy được nhanh, bị cáo Lập bị anh Tri đuổi theo tông

vào xe là ngã xuống đường.

Chạy bộ được chừng 10m thì anh Tri đuổi kịp bị cáo Lập. Bị anh Tri ôm ngang

hông, bị cáo Lập dùng con dao có sẵn thủ sẵn đâm một nhát thấu tim làm anh Tri gục tại

chỗ.

Bị cáo Lập tiếp tục cầm dao chạy vào con hẻm thuộc đường Hoàng Hoa Thám.

Anh Võ Sỹ Hoàng (thuộc đội CSĐT tội phạm về ma túy – Công an quận Tân Phú) và anh

Nguyễn Văn Bình đang đi xe mô tô thấy tình hình như trên nên đuổi theo bị cáo Lập.

Anh Hoàng kéo áo Lập lại thì bị Lập dùng dao đâm một nhát dao vào mang tai gục

xuống đường. Anh Bình lao vào hỗ trợ thì tiếp tục bị hung thủ đâm một nhát vào tay.

Trên đường tháo chạy vào đường Đồng Xoài, Lập tiếp tục đâm một nhát vào hông

anh Trần Văn Nam khi anh này không đồng ý chở Lập đi. Chạy đường một khúc, Lập

thấy một chiếc xe tay ga đang dựng bên đường có cắm sẵn chìa khóa nên lên xe bỏ chạy.

Chủ nhân tri hô, cùng lúc này Thuận, người trước đó dùng ống bô xe máy truy cản

Lập chạy xe tới tông vào xe làm Lập té xuống đường. Người dân xung quanh đã hỗ trợ

anh Thuận khống chế và bắt bị cáo Lập giao cho công an phường 12, quận Tân Bình. Tại

cơ quan cảnh sát điều tra bị cáo Lập đã khai nhận toàn bộ hành vi phạm tội của mình.

*Cướp của làm nạn nhân bị xe đâm dẫn đến tử vong

Nửa đêm 24/8/2014, chị Võ Thị Ngọc Liên (29 tuổi, ở quận Bình Tân, TP.HCM)

điều khiển xe máy đi làm. Đến đoạn giao cắt Tân Khai - Hương lộ 2 (quận Bình Tân), chị

bị 2 thanh niên đi xe máy ép sát, giật chiếc balô đang đeo. Dù bất ngờ nhưng nạn nhân

vẫn giữ lại được chiếc balô, tuy nhiên chị này bị ngã xuống đường. Liền lúc đó, một

chiếc taxi 7 chỗ từ phía sau lao đến đâm trực diện. Chiếc xe taxi và 2 tên cướp bỏ chạy,

để mặc nạn nhân nằm bất tỉnh trên đường. Mặc dù được người dân đưa đi cấp cứu, nhưng

nạn nhân đã tử vong. Sau 3 ngày truy tìm, cơ quan công an đã bắt giữ băng cướp gồm 4

tên nghiện ma túy, đã gián tiếp gây ra cái chết cho chị Liên. Bọn chúng gồm Danh Lâm 29

(24 tuổi), Trương Tấn Thọ (21 tuổi, cùng ngụ quận Bình Tân), Sơn Ngọc Hậu (19 tuổi)

và Dương Phú Lợi (27 tuổi, cùng ở tỉnh Bạc Liêu). Băng này khai nhận đã gây ra nhiều

vụ cướp giật ở các quận, huyện tại TP.HCM.

2.2 Các nguyên nhân xã hội của tội cướp giật tài sản

Nguyên nhân, điều kiện của tội phạm nói chung là tổng hợp các yếu tố trong xã

hội loài người làm hình thành, xuất hiện và tồn tại tội phạm. Tội phạm là một hiện tượng

xã hội nhưng không được xã hội chấp nhận và coi nó là một hiện tượng xã hội tiêu cực.

Tội phạm xuất hiện, tồn tại trong quá trình lịch sử của loài người cùng sự xuất hiện của

Nhà nước và pháp luật. Bởi vậy, nguyên nhân và điều kiện của tội phạm cũng là từ xã hội

mà ra. Nó là tổng hợp các hiện tượng tiêu cực, các quá trình xã hội làm phát sinh và tồn

tại tội phạm trong xã hội.

Do mối liên hệ giữa tội phạm với các quá trình hiện tượng xã hội khác nên muốn

tìm hiểu nguyên nhân, điều kiện của tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng,

chúng ta phải xuất phát từ từng quá trình xã hội cụ thể. Tức là khi tìm hiểu những nguyên

nhân và điều kiện của tội cướp giật tài sản ở thành phố Hồ Chí Minh, chúng ta phải căn

cứ vào những hiện tượng, quá trình đang tồn tại ngay tại thành phố Hồ Chí Minh. Nó bao

gồm những yếu tố mang tính khách quan như cơ chế, chính sách của nhà nước, nền kinh

tế và những yếu tố mang tính chủ quan thuộc về chính bản thân người phạm tội, chủ thể

tiến hành hoạt động đấu tranh phòng ngừa tội phạm.

Để tìm hiểu nguyên nhân và điều kiện của tội cướp giật tài sản chúng ta lần lượt

xem xét: các điều kiện kinh tế - xã hội, chính sách pháp luật, chính sách quản lý nhà nước

và các cơ quan bảo vệ pháp luật.

2.2.1 Cơ chế kinh tế thị trường và quá trình đô thị hóa

Sau một thời gian chuyển đổi sang cơ chế kinh tế thị trường, nền kinh tế của nước

ta đã có bước tăng trưởng khá tốt. Cùng với đà tăng trưởng của kinh tế cả nước, nền kinh

30

tế Hồ Chí Minh thoát khỏi trì trệ, tăng trưởng kinh tế. Cuộc sống của nhân dân thành phố

Hồ Chí Minh đã có sự thay đổi đáng kể, mức sống của người dân từng bước được nâng

cao. Bên cạnh các yếu tố tích cực, nền kinh tế thị trường với quy luật cạnh tranh, mục

tiêu lợi nhuận đó nảy sinh ra những vấn đề xó hội như sự phân hoá giàu nghèo, sự xuống

cấp về đạo đức, lối sống... Một lượng không nhỏ là dân lao động có thu nhập thấp, phải lo

ăn hàng ngày, thiếu ổn định như xe ôm, thợ nề, thợ mộc... Một bộ phận khác do nhiều

nguyên nhân đã có thu nhập cao, sinh hoạt xa hoa. Từ sự phân hoá giàu nghèo, dẫn đến

mâu thuẫn về lợi ích kinh tế, mâu thuẫn xã hội tăng cao giữa các tầng lớp, bộ phận dân

cư. Đây thực sự là một tiền đề cơ bản và có ý nghĩa sâu xa dẫn tới hành vi phạm tội nói

chung và hành vi cướp giật tài sản nói riêng.

Trong cơ chế kinh tế thị trường, cơ hội làm ăn kinh tế tăng lên nhưng mục đích lợi

nhuận, lợi ích kinh tế là trên hết. Chỉ vì lợi ích kinh tế, giá trị đạo đức đã bị xuống cấp,

nhiều người có thể làm bất cứ điều gì để duy trì sự tồn tại, để làm giàu bất chấp cả việc

thực hiện hành vi phạm tội. Một số hành vi phạm tội trở lên phổ biến và tăng nhanh như

tội về kinh tế, chức vụ, xâm phạm sở hữu... Những tội phạm đó và đang tác động tới tình

hình tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Do tác động của nền kinh tế thị

trường, xuất hiện nhiều nghề và các loại hình dịch vụ mới rất đa dạng như: nghề kinh

doanh internet, cầm đồ, cho thuê phương tiện, kinh doanh nhà trọ, nhà hàng... Những

năm gần đây, bọn tội phạm đó lợi dụng những nghề này để phạm tội như thuê phương

tiện để phạm tội, những hiệu cầm đồ, hiệu kinh doanh vàng bạc là nơi tiêu thụ tài sản của

bọn phạm tội... Bên cạnh đó tệ nạn xã hội như mại dâm, cờ bạc, nghiện rượu, ma túy

cũng gia tăng và cũng ảnh hưởng đến diễn biến của tội phạm. Những tệ nạn này đó và

đang tác động mạnh mẽ đến lớp trẻ, làm thay đổi cách suy nghĩ và lối sống, hình thành

những nhu cầu lệch chuẩn, dễ dẫn tới phạm tội. Đa số người có tiền án, tiền sự không có

nghề nghiệp, vì vậy dễ đi vào con đường phạm tội.

Như vậy, những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội cướp giật tài sản có

nguồn gốc sâu xa về kinh tế - xã hội của thành phố và để giải quyết cơ bản tình hình tội

31

cướp giật tài sản, phải có những biện pháp kinh tế - xã hội thích hợp.

Thông qua thông tin từ các cơ quan báo chí cho thấy các đối tượng phạm tội lần

đầu đều là những người không có công ăn việc làm hoặc việc làm không ổn định thu

nhập thấp, đồng tiền kiếm được không đủ trang trải cho bản thân. Một số đối tưởng khác

thì do liên quan đến các tệ nạn như rượu chè, cờ bạc sinh ra nợ nần cũng dẫn đến dễ

phạm tội. Một số ít khác thì do bị lôi kéo bởi các đối tượng xấu. Điển hình như trường

hợp của Hồ Duy Trúc và Nguyễn Hoàng Phương (21 tuổi) do không có nghề nghiệp ổn

định lại nghiện ma túy nên Trúc và Phương thành lập băng cướp. Ban ngày chúng tụ tập

nhậu nhẹt, sử dụng ma túy. Đêm xuống cả nhóm điều khiển xe máy mang theo dao, mã

tấu lòng vòng trên nhiều tuyến đường tìm các "con mồi" để ra tay chém, cướp. Từ tháng

6 - 11/2012, nhóm này đã gây ra 18 vụ chém người, cướp tài sản trên địa bàn TP.HCM.

Ngoài ra việc kinh tế phát triển cũng tạo ra nhiều người giàu hơn với tài sản lớn.

Một bộ phận những người này luôn muốn chứng tỏ điều kiện của mình nên sẵn sàng

mang theo những vật dụng giá trị cao bên mình. Tội phạm cướp giật luôn xem những

người này là miếng mồi ngon béo bở.

2.2.2 Công tác quản lý vĩ mô

+ Quản lý nhân khẩu:

Trong những năm gần đây, thành phố đang ở vào thời kỳ đô thị hoá nhanh, dẫn tới

cơ cấu dân cư của thành phố luôn thay đổi, những người di dân tự do từ các địa phương

khác về Hồ Chí Minh đang ngày một tăng. Đa số họ không có nơi cư trú ổn định, lâu dài.

Điều này khiến cho công tácquản lý nhân, hộ khẩu của thành phố hết sức khó khăn. Hiện

tại thành phố vẫn chưa có biện pháp để giải quyết được tình trạng di dân tự do, chưa quản

lý được số nhân khẩu này và đây là một kẽ hở trong công tác quản lý cư trú. Lợi dụng

tình trạng này, nhiều đối tượng hình sự, đối tượng truy tố của các tỉnh về Hồ Chí Minh ẩn

náu và hoạt động phạm tội. Rất nhiều bọn tội phạm là người tỉnh ngoài, bọn tội phạm bị

truy tố đa số ẩn náu ở các khu nhà trọ rẻ tiền mà không bị kiểm soát, phát hiện. Hiện nay

32

trong thành phố có hàng nghìn nhà cho thuê nhưng đa số không khai báo đăng ký, vì vậy

rất khó khăn cho công tác quản lý. Bên cạnh đó, tình trạng đăng ký hộ khẩu một nơi, ở

một nơi khác hoặc không có hộ khẩu đang khá phổ biến.

Công tác quản lý nhân khẩu còn rất yếu do cảnh sát khu vực bận nhiều việc, thiếu

trách nhiệm. Chính quyền địa phương chưa quan tâm, sự thiếu trách nhiệm đó tạo ra sơ

hở trong quản lý con người. Bọn tội phạm đó lợi dụng chính những sơ hở, lỏng lẻo trong

quản lý nhân khẩu để hoạt động phạm tội. Tình trạng thanh niên bỏ nhà sống lang thang

hoặc đi thuê nhà ở và hoạt động phạm tội đang tăng, làm cho công tác phòng ngừa tội

cướp giật tài sản gặp nhiều khó khăn. Mặt khác, thành phố Hồ Chí Minh hiện nay vẫn

còn tồn tại những địa bàn phức tạp, đó là những ''xóm bụi'', ''xóm liều'', hình thành qua

quá trình lấn chiếm đất công cư trú trái phép của người dân. Dân cư sống ở đây thường là

dân lao động từ các tỉnh khác về, thành phần đa dạng và ngày càng nhiều đối tượng hình

sự ở đủ mọi lứa tuổi đến đây dựng lều để ở.

Ở các khu vực này, công tác quản lý xã hội ở đây rất khó khăn và thường bị buông

lỏng do không có sự hỗ trợ của tổ dân phố, tổ chức xã hội khác ở địa phương. Đây là

những địa điểm tạo điều kiện cho bọn tội phạm gặp gỡ, trú ẩn và tiếp tục hoạt động phạm

tội. Trong việc giải quyết các địa bàn xóm liều, Công an các cấp phải thực hiện công tác

điều tra cơ bản từng đối tượng, phân loại và tiến hành các biện pháp quản lý đối tượng,

triệt phá mạnh các tụ điểm tội phạm hình sự qua đó ngăn chặn khả năng phát sinh tội

cướp giật tài sản.

+ Quản lý việc đăng ký, chuyển nhượng, cho thuê xe máy.

Thời gian gần đây, kẻ phạm tội thường sử dụng xe máy để làm phương tiện cướp

giật tài sản do đặc điểm xe máy tương đối sẵn có, dễ sử dụng, khả năng tẩu thoát nhanh.

Trong thực tế hiện nay, công tác quản lý, kiểm tra việc sử dụng xe máy, giấy tờ đăng ký

xe máy đang bị buông lỏng. Tình trạng mua bán trao tay, sử dụng xe máy không có giấy

tờ hợp pháp hoặc giấy tờ không chính chủ là khá phổ biến. Hiện tượng bọn tội phạm sử

dụng biển số xe giả, xe máy không mang biển kiểm soát là khá phổ biến. Dịch vụ cho cho

33

thuê xe máy cũng bị bọn tội phạm lợi dụng để thuê xe đi gây án, nhằm tránh sự phát hiện

của cơ quan Công an. Tình trạng xe máy nhập lậu về là khá phổ biến, đang làm cho việc

đăng ký quản lý xe máy càng sơ hở. Những vấn đề trên đó tạo điều kiện để bọn tội phạm

thực hiện hành vi cướp giật tài sản, gây khó khăn cho công tác điều tra, phòng chống tội

phạm. Thông thường người bị hại, người làm chứng chỉ kịp nhìn hình dáng, quần áo và

biển kiểm soát xe, nhưng thông qua biển kiểm soát xe cơ quan điều tra không thể xác

định được đối tượng phạm tội và chúng dùng biển kiểm soát giả, xe đi thuê bằng giấy

chứng minh thư của người không quen biết hoặc không tìm được chủ sở hữu thực sự của

xe máy do chủ cũ đó bán trao tay mà không làm thủ tục sang tên. Từ đó cho thấy, công

tác quản lý đăng ký, mua bán, cho thuê xe cần phải được chấn chỉnh nhằm bịt kín những

kẽ hở này.

+ Quản lý nhà nước ở một số lĩnh vực khác về an ninh trật tự.

Trong thời kỳ bao cấp, thông tin văn hoá chưa phong phú, đa dạng về nguồn, thể

loại... Công tác quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực văn hoá như kiểm soát việc lưu

hành, phát hành ấn phẩm các loại phim ảnh được quản lý khá chặt chẽ. Từ khi chuyển

sang cơ chế thị trường, cùng với việc bùng nổ thông tin, các loại văn hoá phẩm tăng

nhanh, trong số đó nhiều loại có nội dung xấu cũng ồ ạt phát tán trong xã hội. Các nhà

xuất bản, cơ quan quản lý mạng internet không kiểm soát chặt chẽ, cho xuất bản các loại

ấn phẩm, thông tin có nội dung kích động bạo lực, đồi trụy, tuyên truyền lối sống buông

thả, chỉ biết hưởng thụ. Các loại băng, đĩa hình, phim ảnh bạo lực tràn ngập thị trường.

Trong đó có khá nhiều phim miêu tả chi tiết các hành vi giết người, cướp của, cướp

giật...tạo ra những tư tưởng lệch lạc, suy thoái đạo đức, trái thuần phong mỹ tục của

người Việt Nam đặc biệt là đối với lớp trẻ. Tình trạng đó đó tác động rất lớn đến tình

hình phạm tội ở Hồ Chí Minh và cả nước, từ đó dẫn đến hình thành ý thức vụ lợi cho bản

thân, lười lao động, phá hoại lợi ích chung trong xã hội. Vấn đề lập lại trật tự trong công

tác quản lý Nhà nước về lĩnh vực thông tin, văn hoá là một yêu cầu cấp thiết góp phần

làm lành mạnh xã hội, tạo môi trường tư tưởng tốt cho thế hệ trẻ Việt Nam, giảm sự gia

tăng của các loại tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng. Cơ chế thị trường

34

kéo theo sự phát triển nhiều loại hình kinh doanh như dịch vụ như cầm đồ, buôn bán xe

máy, điện thoại cũ, kinh doanh vàng bạc... Trong khi đó công tác quản lý nhà nước các

loại dịch vụ này còn nhiều sơ hở, chính quyền các cấp cơ sở chưa quan tâm tới việc kiểm

tra, quản lý hoạt động của các loại hình dịch vụ này. Tình trạngvi phạm các quy định của

Nhà nước về việc kinh doanh như phải có giấy tờ chứng minh nguồn gốc hàng hóa, chủ

sở hữu hợp pháp, kê khai... là khá phổ biến nhưng không được xử lý kiên quyết. Việc xử

lý thường bị bỏ qua hoặc chỉ dưới dạng xử lý hành chính, mang tính hình thức. Do đó,

nhiều người vì lợi nhuận kinh tế mà họ bất chấp các quy định dẫn đến trực tiếp hoặc gián

tiếp tiếp tay cho bọn tội phạm cướp giật tài sản hoạt động. Trong số tài sản bọn tội phạm

cướp giật tài sản chiếm đoạt thì chủ yếu là dây chuyền, lắc vàng và điện thoại di động...

là các tài sản gọn nhẹ, dễ giật, dễ tiêu thụ. Và chính các hiệu cầm đồ và cửa hàng điện

thoại, hiệu vàng là nơi tiêu thụ lý tưởng cho chúng.

+Về chính sách pháp luật:

Đất nước bước vào công cuộc đổi mới trong điều kiện cơ chế quản lý chưa thật

đồng bộ, chính sách kinh tế - xã hội còn nhiều sơ hở, thiếu sót. Hệ thống pháp luật của

chúng ta tuy đó có nhiều về số lượng, thay đổi về chất lượng nhưng chưa đáp ứng được

yêu cầu đấu tranh, phòng chống tội phạm của xã hội, thiếu tính ổn định, đồng bộ. Trước

ngưỡng cửa gia nhập kinh tế thế giới, chúng ta cần phải có hệ thống pháp luật đầy đủ để

điều chỉnh mọi mặt của đời sống xã hội, phục vụ cho quản lý kinh tế và quản lý xã hội.

Hệ thống văn bản pháp quy về lĩnh vực quản lý nhà nước còn chậm ban hành, làm cho

các ngành, các cơ quan hành chính lúng túng trong công tác quản lý. Mặt khác, do kinh

nghiệm lập pháp của ta có phần hạn chế, năng lực dự báo và nắm bắt tình hình tiến triển

của các nhà làm luật còn yếu. Công tác thống kê của các cơ quan tư pháp không thống

nhất, các số liệu thống kê báo cáo chưa chính xác do nhiều nguyên nhân như quy định về

thời gian thống kê không đồng bộ, ngành Công an thời hạn thống kê từ ngày 20 tháng 11

hàng năm, Viện kiểm sát là ngày 31 tháng 8 hàng năm, còn Tòa án là ngày 31 tháng 9

hàng năm, hay phương tiện thống kê chưa đầy đủ, trình độ cán bộ thống kê còn chưa cao

để sai sót số liệu. Từ đó dẫn đến tình trạng đánh giá không đúng tình hình tội phạm, các

35

biện pháp phòng chống tội cướp giật tài sản không đạt hiệu quả cao. Bởi vậy, tuy có

nhiều văn bản pháp luật được xây dựng nhưng vẫn còn bất hợp lý, chưa đáp ứng được

yêu cầu gây ảnh hưởng không nhỏ tới quá trình áp dụng pháp luật của các cơ quan tiến

hành tố tụng. Ví dụ: Việc ban hành các văn bản dưới luật để hướng dẫn thi hành luật còn

chậm, như các thông tư liên ngành 01, 02 (CA-VKS-TA), ngay trong các thông tư này có

nhiều điểm khó thực hiện, Bộ luật hình sự năm 1999 ra đời đó có hiệu lực từ ngày

01.7.2000 nhưng Nghị quyết số 02 của Hội đồng thẩm phán TANDTC hướng dẫn việc

xét xử một số tội xâm phạm sở hữu đến năm 2002 mới được ban hành. Vì vậy, còn khá

nhiều khái niệm trong điều luật chưa được hiểu một cách thống nhất, ảnh hưởng không

nhỏ tới quá trình áp dụng luật. Từ những hạn chế này làm cho việc áp dụng pháp luật có

nhiều khó khăn, vướng mắc không giải quyết được, từ đó làm yếu đi khả năng của các cơ

quan bảo vệ pháp luật, trong đó có đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản. Việc thực

thi pháp luật của các cơ quan tiến hành tố tụng bị hạn chế là nguyên nhân và điều kiện

cho tội cướp giật tài sản tồn tại.

Như vậy, công tác quản lý nhà nước vẫn còn có nhiều tồn tại để bọn tội phạm

cướp giật tài sản lợi dụng trong quá trình khi gây án, tiêu thụ và trốn tránh pháp luật.

Tình trạng trên là do lĩnh vực công tác này còn thiếu kinh nghiệm, thiếu kiến thức và

thiếu biện pháp quản lý. Mặt khác, chính sách pháp luật của nước ta còn thiếu tính thực

tế, chưa có tính bao quát lâu dài mà thường chỉ chạy theo giải quyết gấp các vấn đề bức

xúc. Cơ chế thực hiện các chính sách pháp luật không đồng bộ, thiếu bền vững, mang

tính thời điểm, hình thức. Vai trò, trách nhiệm của các cá nhân, tổ chức, cơ quan hành

chính có nhiệm vụ quản lý còn hạn chế, còn tình trạng đùn đẩy trách nhiệm quản lý ở các

cấp, các ngành. Công tác quản lý nhà nước ở nhiều ngành, nhiều cấp còn mang nặng tính

hành chính, quan liêu xa rời thực tiễn. Tình trạng trên là một trong những nguyên nhân và

điều kiện thuận lợi cho tình hình tội phạm nói chung và tình hình tội cướp giật tài sản nói

riêng phát triển. Việc nâng cao trách nhiệm và năng lực của các cơ quan nhà nước, các tổ

chức trong việc thiết lập lại kỷ cương quản lý ở các mặt, lĩnh vực nói trên là một yêu cầu

cần thiết phải thực hiện.

36

+ Về phía cơ quan bảo vệ pháp luật

Trong quá trình tiến hành tố tụng, chủ thể tiến hành tố tụng đó còn thiếu trách

nhiệm, chủ quan, sai lầm trong việc điều tra, truy tố, xét xử. Nguyên nhân do trình độ,

năng lực nhận thức của cán bộ các cơ quan tư pháp về pháp luật, nhất là những tội phạm

có mặt khách quan tương đối giống nhau như tội cướp tài sản, tội cướp giật tài sản, tội

công nhiên chiếm đoạt tài sản, tội trộm tài sản... hoặc do chủ quan, duy ý chí, lợi ích vật

chất dẫn đến việc áp dụng pháp luật hình sự không đúng quy định, chủ trương, chính

sách. Có rất nhiều quan điểm khi đánh giá về một hành vi, nảy sinh những vướng mắc

trong xử lý các vụ phạm tội giữa cỏc cơ quan thi hành pháp luật. Việc vận dụng quy định

về các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ... trong BLHS khi truy tố, xét xử các vụ án còn thiếu

chính xác. Đặc biệt trong quá trình xét xử việc quyết định hình phạt không tương xứng

với hành vi phạm tội, không đạt mục đích giáo dục, răn đe, phòng ngừa tội phạm. Việc áp

dụng Bộ luật tố tụng trong quá trình điều tra, truy tố, xét xử và thi hành án hình sự còn

nhiều thiếu sót nhất là việc áp dụng các biện pháp ngăn chặn, biện pháp nghiệp vụ điều

tra... Những thiếu sót này đó làm ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả điều tra, truy tố, xét xử

và công tác đấu tranh phòng chống tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng.

Một mặt khác, do trình độ lập pháp của ta chưa cao. Các văn bản pháp luật khi ban

hành chưa thực hiện được ngay mà còn phải chờ hướng dẫn nên người dân và ngay cả

bản thân người công tác làm tư pháp không nắm được tinh thần, quy định của pháp luật.

Các văn bản pháp luật và văn bản hướng dẫn thường chậm, không có tính ổn định lâu dài

do không có sự dự báo chính xác tình hình tội phạm. Thực tế yêu cầu phổ biến pháp luật

rộng rãi trong nhân dân ngày càng cao, trong khi đó công tác giáo dục pháp luật chưa

thực sự được quan tâm đúng mức. Do thiếu hiểu biết pháp luật mà người dân dễ dẫn đến

vi phạm pháp luật. Như vậy, ý thức pháp luật kém cũng là một trong những nguyên nhân

dẫn đến phạm tội.

- Về phía người quản lý tài sản:

Trong thời kỳ đổi mới, mức sống người dân được nâng lên. Nhiều người, đặc biệt

là phụ nữ có cơ hội làm đẹp qua các vật dụng như điện thoại di động, trang sức đắt tiền…

37

Quá trình sử dụng, các chủ thể này quản lý tài sản không cẩn thận là một trong những

nguyên nhân chủ yếu tạo sơ hở cho kẻ cướp giật thực hiện tội phạm. Phân tích những vụ

án cướp giật tài sản cho thấy hầu hết xuất phát từ sự sơ hở của những bị hại trong việc

quản lý tài sản còn rất ít trường hợp là do các đối tượng phạm tội chủ động tạo ra các sơ

hở. Sự sơ hở có thể có nhiều dạng khác nhau, xuất phát từ ý thức chủ quan thiếu đề

phòng, thiếu cẩn trọng trong quản lý tài sản như để túi xách trên giỏ xe máy, cầm tiền hớ

hênh, đeo nhẫn vàng, hoa tại vàng, đồ trang sức khi đi đường... đó tạo điều kiện cho bọn

thực hiện hành vi cướp giật tài sản có cơ hội hoạt động.

Bên cạnh đó, người dân còn thiếu thông tin về tình trạng, thủ đoạn cũng như địa

điểm mà bọn cướp giật hay chọn để hành động. Từ đó, người dân không chú ý đến việc

bảo quản tài sản của bản thân. Sự sơ hở nói trên là một sự thật khá phổ biến và là một

nguyên nhân của tội cướp giật tài sản. Nắm bắt được nguyên nhân này, chúng ta có thể có

những biện pháp giúp người dân có ý thức cảnh giỏc, cỏch thức bảo quản hữu hiệu tài sản

của mình như không vừa đi xe máy vừa cầm, nghe điện thoại di động, đeo túi xách trên

vai…Việc tìm hiểu nguyên nhân này có lợi ích trong việc đề ra các biện pháp khả thi

trong việc xoá dần và khắc phục tình trạng sơ hở trong quản lý tài sản những thời gian

tới.

+ Nguyên nhân của những tồn tại trong đấu tranh phòng, chống tội cướp giật tài

sản tại thành phố Hồ Chí Minh

Những tồn tại trong đấu tranh phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản là trách

nhiệm của toàn xã hội, từ người dân đến tổ chức, cơ quan nhà nước. Trong đó, trách

nhiệm chính và chủ yếu xuất phát từ phía các cơ quan tư pháp. Về phía cơ quan công an,

dù được trang bị đầy đủ kiến thức, công cụ, phương tiện…nhưng hoạt động phòng chống

tội phạm nói chung và tội cướp giật tài sản nói riêng vẫn còn chưa đạt hiệu quả cao. Về

phía cơ quan Viện kiểm sát, công tác truy tố tuy kịp thời nhưng quá trình kiểm sát điều

tra chưa thực sự đạt hiệu quả, không phát hiện hoặc thiếu triệt để trong việc định hướng

điều tra, sợ trách nhiệm dẫn đến việc bỏ lọt các hành vi cướp giật tài sản. Về phía cơ

38

quan Tòa án, việc xét xử kịp thời các vụ án cướp giật đó góp phần to lớn vào việc đấu

tranh, phòng chống tội phạm. Tuy vậy, qua việc quyết định hình phạt, áp dụng các tình

tiết vụ án chưa chính xác đó không đem lại tác dụng giáo dục, răn đe người phạm tội.

+ Công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật: Công tác tuyên truyền nâng

cao nhận thức, ý thức cảnh giác cho nhân dân chưa được các ngành, các cấp thực hiện

thường xuyên, có chiều sâu và bề rộng. Trong khi đó, có rất nhiều sơ hở mà bọn tội phạm

có thể lợi dụng hoạt động phạm tội. Ý thức cảnh giác, tự phòng ngừa mang tính chủ động

trong mỗi người dân còn hạn chế. Nhiều biện pháp phòng ngừa được nêu ra nhưng không

được mọi người thực hiện một cách tích cực.

+ Công tác nghiệp vụ của ngành Công an: Công tỏc quản lý những người có tiền

án, tiền sự hoặc có biểu hiện phạm tội theo yêu cầu của công tác phòng ngừa tội phạm,

theo hướng làm mất đi khả năng, điều kiện có thể hoạt động phạm tội trong những năm

qua của Công an chưa tốt. Việc nắm tình hình, thực hiện công tác quản lý con người cũn

mang tính hình thức, hành chính. Những biện pháp chủ động nhằm ngăn chặn ý đồ phạm

tội của người có tiền án, tiền sự chưa được thực hiện một cách thường xuyên, có hiệu

quả.

Nhiều người trước khi phạm tội có những biểu hiện nghi vấn nhưng không được

đưa vào diện quản lý, hoặc tuy có đưa vào nhưng không có biện pháp tác động tích cực

nhằm loại trừ khả năng phạm tội. Trong qúa trình thực hiện chính sách pháp luật, vai trò

của người dân, tổ chức, chính quyền tham gia quản lý giáo dục người phạm tội tại cộng

đồng dân cư chưa thực sự được phát huy.

+ Công tác phối hợp giữa các lực lượng phòng, chống tội phạm: Những biện pháp

để phòng, chống tội phạm cướp giật tài sản trên địa bàn công cộng như vườn hoa, công

viên... còn chưa được thực hiện thường xuyên. Công tác tuần tra kiểm soát, hoạt động của

các chốt phòng, chống tội phạm còn chưa hiệu quả. Ở các tụ điểm phức tạp, lực lượng

cảnh sát công khai và các lực lượng tự quản còn mỏng. Vì vậy, còn có nhiều sơ hở để bọn

39

tội phạm có điều kiện hoạt động cướp giật tài sản trên các địa bàn này.

+ Công tác quản lý, giáo dục phạm nhân: tại các trại cải tạo, công tác giáo dục

pháp luật, lao động cải tạo cũn nhiều yếu kém. Trại cải tạo chưa thật sự trở thành một

trường để giáo dục, cải tạo người phạm tội, định hướng nghề nghiệp giúp họ trở thành

người lương thiện khi ra trại, tái hoà nhập với cộng đồng. Những người phạm tội ra tù

thường không có việc làm, thu nhập ổn định, đời sống khó khăn, thiếu sự quan tâm của

chính quyền, xã hội dẫn đến khả năng tái phạm tội cao.

+ Công tác kiểm tra, quản lý phương tiện giao thông: Hiện nay, phương tiện giao

thông cá nhân quá nhiều. Xe máy hiện rất sẵn có, để sử dụng một chiếc xe máy, đối

tượng phạm tội thường thuê xe, đi xe không biển kiểm soát, biển kiểm soát giả hoặc xe

không có giấy tờ… mà không bị sự quản lý, kiểm tra của cơ quan chức năng. Trang bị

đầu tư áp dụng khoa học kỹ thuật vào công tác quản lý trật tự an toàn giao thông còn

nhiều hạn chế. Việc trang bị các phương tiện, công cụ hỗ trợ phục vụ công tác tuần tra

kiểm soát an toàn giao thông còn rất thiếu và không đồng bộ. Bên cạnh đó công tác quản

lý công tác đăng ký quản lý phương tiện chưa được chặt chẽ để quản lý chính xác toàn bộ

số xe. Việc sử dụng biển số giả, xe mua bán qua nhiều chủ không sang tên còn phổ biến.

Hiện tượng xe nhập lậu chưa được chấm dứt. Đây là lý do làm cho công tỏc quản lý nhà

nước trong lĩnh vực giao thông đường bộ gặp nhiều khó khăn, gây khó khăn cho công tác

phát hiện tội phạm cướp giật tài sản.

+ Trong công tác điều tra, truy tố, xét xử tội cướp giật tài sản:

Công tác điều tra: tỷ lệ điều tra mới đạt khoảng 50,05%. Như vậy còn khoảng 49%

số vụ cướp giật tài sản chưa được điều tra làm rõ. Ngoài ra còn có số tội phạm ẩn là các

vụ tội cướp giật tài sản chưa được thống kê và tiến hành điều tra, vậy còn nhiều kẻ phạm

tội nhởn nhơ ngoài vòng pháp luật, gây tâm lý coi thường các cơ quan thực thi pháp luật

và chúng tiếp tục phạm tội. Công tác tiếp nhận tin báo, tố giác tột phạm ở Công an cấp

phường, xã còn nhiều thiếu sót đó là: tiếp nhận thông tin chậm, ghi thiếu chính xác, đôi

khi còn bỏ lọt tin báo, tố giác...Còn tình trạng dấu vụ việc vì thành tích, từ đó ảnh hưởng

không ít tới kết quả điều tra các vụ cướp giật tài sản. Hầu hết các vụ án được điều tra vẫn

40

còn mang nặng tính hành chính, chậm chạp chưa có sự phối kết hợp chặt chẽ giữa các

biện pháp nghiệp vụ trinh sát với công tác điều tra tố tụng. Tình trạng điều tra tố tụng đơn

thuần vẫn còn phổ biến, nên rất đơn giản khi thu thập chứng cứ, đánh giá chứng cứ, từ đó

định hướng cho công tác điều tra còn hạn chế. Hầu hết các vụ cướp giật tài sản xảy ra

trên địa bàn công cộng, những tụ điểm phức tạp, dấu vết bọn tội phạm để lại rất ít, nếu

điều tra viên không biết cách khai thác tài liệu thì công tác điều tra sẽ gặp khó khăn.

Công tác khai thác mở rộng các vụ án đó được điều tra làm rõ còn hạn chế, không điều

tra kết luận được tất cả các hành vi phạm tội của kẻ phạm tội.

Công tác kiểm sát điều tra và thực hành quyền công tố: Trong giai đoạn điều tra,

các kiểm soát viên chỉ chú trọng kiểm soát hồ sơ về tố tụng mà chưa thực sự sắc sảo

trong nội dung vụ án để từ đó định hướng điều tra, phối hợp điều tra các hành vi phạm

tội. Hầu hết các vụ cướp giật tài sản Viện kiểm soát không tham gia ngay từ đầu chỉ khi

có hoạt động bắt giữ hoặc khởi tố vụ án thì Viện kiểm soát mới tham gia. Viện kiểm soát

hầu như không tham gia thực sự suốt quá trình điều tra mà chỉ giám sát một số hoạt động

thu thập chứng cứ như khám nghiệm hiện trường, đối chất, khám xét... hoặc ở các vụ án

đặc biệt nghiêm trọng. Do đó dẫn đến tình trạng hồ sơ trả điều tra bổ sung nhiều, việc đấu

tranh với tội phạm cướp giật tài sản chưa được kịp thời. Việc phê chuẩn hay huỷ bỏ các

biện pháp ngăn chặn của cơ quan điều tra cũn mang tính hành chính, nhiều khi thiếu kịp

thời gây trở ngại cho công tác điều tra.

Nhiều vụ án cướp giật tài sản đưa ra truy tố trước Tòa án chậm. Trình độ Kiểm

soát viên nhiều khi chưa cao để đảm bảo tranh tụng tại phiên toà. Việc đề nghị áp dụng

mức hình phạt đối với các hành vi phạm tội không đồng đều, cùng một hành vi phạm tội

giống nhau nhưng mức hình phạt được đề nghị áp dụng khác nhau. Công tác xét xử của

Tòa án: Tại phiên tòa, việc xét xử vẫn mang tính hình thức, có nhiều hạn chế, vai trò của

hội thẩm nhân dân chưa được phát huy. Các Thẩm phán không có cơ chế đảm bảo

nguyên tắc độc lập xét xử. Những vụ án phức tạp, có nhiều nguồn, sức ép tác động, Hội

đồng xét xử không thực hiện được quyền tự quyết mà đều phải quyết định theo các chỉ

đạo từ trước hoặc xin ý kiến chỉ đạo. Việc áp dụng hình phạt của Tòa án cũng không

41

thống nhất, đa số hình phạt đối với tội cướp giật tài sản còn nhẹ, chưa đảm bảo sự nghiêm

minh của pháp luật cũng như chính sách pháp luật hình sự. Cơ chế, tổ chức của các cơ

quan tiến hành tố tụng còn hạn chế: Đội ngũ cán bộ ở các cơ quan tư pháp còn thiếu và

yếu. Cơ quan điều tra còn thiếu lực lượng ở các cấp cơ sở. Trình độ, năng lực của đội ngũ

điều tra viên và cán bộ trinh sát còn hạn chế, bộ máy tổ chức của cơ quan điều tra vẫn

còn bất hợp lý, cồng kềnh, chồng chéo dẫn đến không hiệu quả. Phối kết hợp giữa cơ

quan điều tra và các cơ quan trinh sát của lực lượng cảnh sát nhân dân các cấp thiếu nhịp

nhàng, chặt chẽ trong quá trình điều tra. Đội ngũ kiểm soát viên các cấp, Thẩm phán của

Tóa án hình sự các cấp còn thiếu về số lượng, một số bộ phận trình độ năng lực chuyên

môn kém, kiến thức xã hội thấp, trình độ lý luận chính trị thấp và không có cơ chế đào

tạo bổ sung, không đáp ứng được yêu cầu công tác truy tố, xét xử. Đặc biệt là khả năng

điều tra, tranh tụng công khai trước Toà của kiểm soát viên và Tòa án còn nhiều hạn chế.

Một số cán bộ còn thiếu trách nhiệm, nể nang, cơ hội… hoặc có khuynh hướng né tránh,

đùn đẩy trong thực hiện nhiệm vụ. Việc tiếp thu, áp dụng khoa học kỹ thuật cìn chậm. Đa

số cán bộ trong ngành tư pháp không biết về internet, fax thậm chí không biết cả việc sử

dụng máy vi tính, máy photo coppy.

Sự phối kết hợp giữa các cơ quan tiến hành tố tụng còn hạn chế do năng lực, trình

độ chuyên môn chênh lệch, tư tưởng bảo thủ đó đôi lúc cản trở nhau, kém hơn nhau. Vấn

đề này rất hay xảy ra, gây khó khăn cho quá trình giải quyết vụ án, ảnh hưởng đến quan

hệ giữa các ngành trong hoạt động tố tụng hình sự. Cơ sở vật chất của các cơ quan tiến

hành tố tụng còn thiếu thốn, nhiều trụ sở làm việc, phòng xét xử của Tòa án còn rất tồi tệ.

Trong hoạt động tố tụng các cơ quan tư pháp vẫn dùng phương pháp thủ công, ít có sự áp

dụng khoa học kỹ thuật từ việc tiếp nhận thông tin, xử lý thông tin, lưu trữ thông tin, bảo

quản hồ sơ… đến báo cáo thống kê do vậy làm ảnh hưởng đến việc đánh giá tình hình tội

phạm, đề ra chính sách, định hướng đấu tranh phòng, chống tội phạm. Chế độ đãi ngộ

thấp ảnh hưởng đến kết quả điều tra.

+ Dự báo về tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Dự báo tình hình tội phạm là dự báo xu hướng phát triển của tội phạm trong tương

42

lai, các nguyên nhân, điều kiện phạm tội và khả năng phũng ngừa tội phạm ở từng giai

đoạn. Dự báo tình hình tội phạm cướp giật tài sản chính là việc phán đoán tình trạng

phạm loại tội này trong tương lai và khả năng đấu tranh, phòng, chống tội cướp giật tài

sản. Nếu việc dự báo này chính xác, chúng ta sẽ có thể xác định được diễn biến, mức độ

của tình hình tội phạm trong tương lai, phát hiện những diễn biến và quy luật ảnh hưởng

tới tình hình tội phạm, trên cơ sở đó đề ra các biện pháp chuẩn bị, ngăn chặn, điều tiết

phục vụ cho việc đấu tranh, phòng chống tội phạm.

Dự báo tội phạm có ý nghĩa hết sức quan trọng. Những kết quả của nó cho phép

lựa chọn phương pháp tối ưu, phù hợp với thực tế để tổ chức đấu tranh, phòng chống tội

phạm có hiệu quả. Từ đó, các cơ quan chức năng có phương hướng hoạt động của mình

được xác định chính xác hơn, giảm các chi phí về vật chất, sức lực và thời gian trong việc

đấu tranh phòng chống, phòng ngừa tội phạm. Muốn có dự báo chính xác, bản thân số

liệu thống kê phải chính xác, các tài liệu dự báo tình hình kinh tế, chính trị, xã hội phải

chính xác, trình độ cán bộ chuyên môn phải cao để có đánh giá chính xác tình hình tội

phạm hiện tại từ đó đưa ra dự đoán sát thực tế nhất. Những dự báo về tình hình tội cướp

giật tài sản trên cơ sở phân tích, đánh giá về các nguyên nhân, điều kiện của tội cướp giật

tài sản, những nhân tố ảnh hưởng tới tình hình tội cướp giật tài sản. Các tài liệu dự báo về

tình hình chính trị, kinh tế, dân số, văn hóa, xã hội của Hồ Chí Minh trong thời gian tới,

có thể làm căn cứ cho việc nghiên cứu đưa ra dự báo về tình hình tội cướp giật tài sản ở

Hồ Chí Minh, trong thời gian 5 năm kế tiếp.

2.2.3 Quản lý vi mô : Gia đình – Nhà trường – Xã hội

Gia đình là môi trường hình thành các chuẩn mực về đạo đức, nhân cách của con

người. Đây là yếu tố tác động trực tiếp đến quá trình hình thành nhân cách của con người.

Trên thực tế hiện nay nhiều trong gia đình cha mẹ do lo toan kiếm tiền nuôi gia đình mà

quên đi nhiệm vụ dạy dỗ con cái. Lại có những gia đình có quan niệm sai lệch rằng có

tiền thì có thể có quyền lực và địa vị trong xã hội nên đánh mất vai trò làm cha mẹ trong

43

việc giáo dục con cái. Từ đó, những người trẻ dễ bị xa ngã, lôi kéo vào con đường phạm

tội. Ngoài ra một số gia đình trước những việc làm sai trái của con mình nhưng không

nhận ra sai trái của con mà hùa theo, đồng tình cho con mình sai lầm nổi tiếp sai lầm.

Nền giáo dục Việt Nam trong gần đây ngày càng cho thấy sự yếu kém. Giáo dục

mang nặng thành tích bề nổi, chỉ chú trọng giáo dục kiến thức khoa học mà quên đi việc

dạy kiến thức xã hội và giáo dục nhân cách con người. Nhiều trường học bỏ qua hoặc dạy

rất ít những giờ học mang tính giáo dục đạo đức hoặc giảng dạy cách ứng xử thích hợp

trong cuộc sống. Rất nhiều thanh thiếu niên còn trong tuổi đi học,thậm trí đang ngồi trên

ghế nhà trường là tội phạm cướp giật được cơ quan công an bắt giữ trong những năm gần

đây.

Trong một xã hội người ta ngày càng thờ ơ trước khó khăn của người khác thì tình

trạng phạm tội trong đó có phạm tội cướp giật tài sản sẽ ngày càng gia tăng. Thực tế

nhiều vụ cướp giật ở thành phố Hồ Chí Minh được báo chí đưa tin cho thấy những người

xung quanh gần như không có phản ứng gì trước việc một người nào đó bị cướp giật. Nếu

mỗi người đều có hành động cảnh báo người xung quanh về việc tự giữ gìn tài sản khi

người đó lơ đãng hoặc tri hô khi xảy ra cướp giật thì những tên cướp chắc chắn sẽ thấy

khó mà hạn chế bớt.

2.2.4 Ảnh hưởng văn hóa ngoại lai

Trong thời đại thế giới phẳng hiện nay, người dân đặc biệt là giới trẻ tiếp cận rất

dể dàng với các văn hóa ngoại lai. Lớp trẻ hiện đang bị “đầu độc” bởi quá nhiều thứ văn

hóa nghe nhìn, giải trí có nội dung kích động bạo lực. Chỉ cần bật các kênh truyền hình

được cấp phép hoạt động cũng thấy hàng ngày đang có quá nhiều phim bạo lực. Rồi

Internet, game online có nội dung bạo lực tràn ngập. Họ là những người rất dễ bị ảnh

hưởng bởi những dòng văn hóa mới tạo ra sự lệch lạc về tâm lý, đạo đức và nhận thức

đúng sai. Đây chính là nguyên nhân xã hội đang từng giờ từng ngày tác động tới tâm sinh

lý của một bộ phận thanh thiếu niên. Bởi ở độ tuổi đang trong giai đoạn hình thành nhân

cách, khi tiếp cận với quá nhiều thứ giải trí bạo lực sẽ khiến con người bị lệch lạc về nhân

44

cách, hành động theo bản năng và rất dễ có hành vi bạo lực khi bị kích động.

Khi một đứa trẻ không được giáo dục, không còn biết sợ vì bị bố mẹ đánh đập quá

nhiều đến mức chai lì thì các em sẽ hành động theo quán tính. Tiếp xúc với phim ảnh bạo

lực, với hành vi bắn giết vô tội vạ trên game được mô tả một cách kỹ lưỡng, lại có khả

năng kiềm chế kém nên khi gặp những tình huống thật ngoài đời sống các em dễ bị kích

động và hành xử theo quán tính, chém giết như lúc đang chơi game. Một số phạm nhân

phạm tội giết người bị nghiện game online mà nhóm nghiên cứu tiếp xúc cho biết cách

hành xử bị ảnh hưởng nặng bởi game. Khi bị tấn công thực ngoài đời các em tưởng tượng

ngay đến cảnh trong game và hành xử như cách mình làm trong thế giới ảo. Chúng ta

thường lên án và kiểm soát chặt chẽ văn hóa phẩm đồi trụy vì nó tác động xấu đến giới

trẻ, nhưng những trò chơi, đồ chơi mang tính chất bạo lực không được kiểm tra đúng

mức.

Bên cạnh đó, ma túy tổng hợp gây ảo giác cũng là một nguyên nhân khiến gia tăng

các vụ trọng án. Chẳng hạn như vụ án của Trần Đỗ Minh Quân khai, tuy gia cảnh không

khá giả, nhưng nhân dịp Quân đỗ Đại học, gia đình mua cho chiếc xe máy trên để Quân

tiện đi lại, học tập. Tuy nhiên từ khi xa gia đình, được tự do Quân sa vào những trò game

trên Internet bao nhiêu tiền gia đình gửi không đủ cho Quân trang trải vào thú vui của

mình. Giữa lúc đang túng tiền như vậy thì Quân gặp Lê Văn Duy ở gần nhà, Duy không

học hành gì mà lang thang chơi bời. Cả hai đã bàn nhau đi cướp giật. Đối tượng bọn

chúng nhắm đến là học sinh, sinh viên vừa đi xe đạp vừa nghe điện thoại. Tại cơ quan

công an, 2 đối tượng khai nhận, từ đầu năm 2013 đến nay, Quân và Duy sử dụng xe máy

mang BKS 77Y4-0300 thực hiện hàng chục vụ cướp giật điện thoại trên địa bàn Tp Quy

Nhơn. Sau khi cướp được điện thoại, bọn chúng mang bán cho một cửa hàng điện thoại ở

đường Ngô Mây – Tp Quy Nhơn lấy tiền chia nhau chơi game.

2.3 Các nguyên nhân tâm lý

Tình hình cướp giật xảy ra khá phổ biến ở Việt Nam, nhất là ở Tp HCM. Có rất

45

nhiều nguyên nhân tâm lý gây nên hiện tượng này:

2.3.1 Nhu cầu vật chất

Nhu cầu chủ yếu gây nên trình trạng cướp giật chính là nhu cầu về vật chất. Nhu

cầu này có thể xuất phát từ tâm lý “nhàn cư vi bất thiện”. Đây là tâm lý thường gặp ở

nước ta. Do là nước đang phát triển, kinh tế chủ yếu là nông nghiệp, người dân hết vụ

mùa thường không có việc làm. Người dân hay tụ tập rượu chè, bài bạc… Tiền kiếm

được từ nông nghiệp là rất ít, không đủ xài, càng không đủ để thỏa mãn rượu chè, hay các

thú vui khác. Chính việc rảnh rang, không có việc gì làm, cộng với túi tiền hạn hẹp,

người dân dễ dàng sa vào những hành vi sai trái pháp luật: bài bạc, trộm cắp, rồi đến

cướp giật. Rồi khi địa bàn bị hạn hẹp, họ kéo nhau sang địa bàn khác kiếm ăn. Ở thành

phố Hồ Chí Minh, nạn cướp giật lại càng đáng báo động. Trong chúng ta, ai cũng ít nhất

một lần là nạn nhân hay cũng từng chứng kiến việc cướp giật trên đường phố. Đối tượng

cướp giật thường là dân ngoại tỉnh, không có việc làm, rời bỏ làng quê lên thành phố để

tìm cơ hội đổi đời. Họ không hình dung được đó là nơi đất chật người đông, có nhiều

việc làm nhưng không phải là mảnh đất màu mỡ. Với sức lực dẻo dai, trình độ thấp, họ

chỉ có thể tìm được công việc phổ thông, lương thấp, không đủ nuôi sống bản thân. Họ bỏ

việc, mà không thích trở lại quê hương. Không việc, không nhà, không tiền,… họ dễ bị

cuốn vào con đường bất lương. Có thể họ bị rủ rê vào trong các tổ chức cướp giật hay

làm đàm em của các ông trùm, lấy cướp giật làm nghề nghiệp của mình. Họ có thể hoạt

động độc lập, đi ăn hàng một mình, canh người đi đường sơ hở để giật túi xách, điện

thoại, dây chuyền vàng. Họ có thể hoạt động theo nhóm: dàn cảnh cướp xe, cướp tiệm

vàng hay gia nhập tổ chức có quy mô chuyên cướp giật dưới sự điều hành của ông trùm

nào đó. Ngày 15-1-2013, CA TPHCM thông báo kết quả 1 tháng cao điểm ra quân trấn

áp tội phạm. Đáng lo ngại, số vụ án có tội phạm ngoại tỉnh tham gia chiếm đến một nửa.

Vụ án chặt tay cô gái cướp xe SH do thành phần thất nghiệp ngoại tỉnh vào thành phố để

hoạt động. Ngay cả những bạn trẻ có học vấn, bằng cắp cao vẫn vướng vào con đường

phạm tội. Họ là những sinh viên trẻ có năng lực, học giỏi, hiếu thảo. Nhưng do ra trường

không kiếm được việc làm phù hợp, đã theo tiếng gọi của đồng tiền mà tham gia cướp 46

giật. Theo thống kê của Bộ Lao động - thương binh và xã hội (LĐTBXH), tỷ lệ thất

nghiệp tiếp tục tăng cao ở thanh niên. Trong đó, những người từ 20 đến 24 tuổi tốt nghiệp

cao đẳng và đại học trở lên có tỷ lệ thất nghiệp rất cao (trên 20%). Các cử nhân này có

thể bị đưa đẩy, trở thành kẻ lừa đảo, bán dâm, tú bà, hay tham gia đường dây cướp giật để

duy trì cuộc sống của mình.

Nhu cầu vật chất còm thể hiện ở tâm lý đua đòi theo chúng bạn, thể hiện đẳng cấp.

Đây là tâm lý của các cậu ấm, cô chiêu, con nhà giàu có. Họ sống trong nhung lụa, được

cha mẹ cung phụng tiền bạc đầy đủ, nhưng không được hưởng sự quan tâm, chăm sóc,

chỉ bảo, hướng dẫn cách sống. Họ trơ trọi trong quá trình hòa nhập với cộng đồng, và mất

định hướng trong việc kết bạn. Họ không biết ai là bạn tốt, ai là bạn không tốt. Họ không

biết kết bạn với ai sẽ giúp họ tiến bộ hơn trong cuộc sống. Kết giao với bạn không tốt, ăn

chơi sa đọa, thác loạn. Họ lêu lỏng ăn chơi, đua đòi vật chất, xài hàng hiệu, điện thoại

thông minh, đi xe sang, uống rượu ngoại, bỏ học hành, đi vũ trường, quán bar… Có

trường hợp sống bầy đàn cùng nhau, dùng hàng đá, bồ đà, ma túy…Khi cha mẹ không đủ

khả năng chu cấp, họ có thể sa vào nhiều tội ác: cướp giật, dàn cảnh tự bắt cóc mình, sau

đó tống tiền chính cha mẹ ruột của mình. Đúng là: “gần mực thì đen, gần đèn thí sáng”,

chỉ vì giao du với bạn không tốt, muốn bằng bạn, bằng bè, các bạn trẻ đã dùng tuổi xuân

của mình để đổi lấy những thứ phù phiếm, rồi lao vào con đường phạm pháp. Ngày

15/10/2013, Đội Cảnh sát điều tra tội phạm trật tự về xã hội (công an quận 1) đang tạm

giữ Đỗ Hồng Lê (40 tuổi) và Nguyễn Hoài Phong (27 tuổi ở quận 7, Tp. HCM) để điều

tra hành vi cướp giật tài sản.

Chiều 12/10, Lê điều khiển xe gắn máy chở Phong rảo quanh nhiều tuyến đường.

Đến giao lộ Nguyễn Thái Học – Phạm Ngũ Lão (quận 1) chúng phát hiện người phụ nữ

đang dừng chờ đèn đỏ, phía trước xe có treo móc túi xách. Lê chạy sang đường Nguyễn

Thái Học, đứng nổ máy chờ sẵn còn Phong đi bộ tiếp cận. Sau khi giật được chiếc túi

xách của chị này, Phong lên xe của đồng bọn tẩu thoát. Từ phía sau, 3 trinh sát của đội

cảnh sát hình sự (công an quận 1) nghe tiếp truy hô 'cướp, cướp' liền tăng tốc truy đuổi. 47

Sau ít phút, đến giao lộ Trần Hưng Đạo – Nguyễn Văn Cừ, các trinh sát bắt giữ được cặp

đôi này và thu toàn bộ tang vật vụ cướp giật.Tại cơ quan điều tra Phong thừa nhận hành

vi phạm tội và khai Lê là kẻ chủ mưu, rủ anh ta tham gia cướp giật. Tuy nhiên Lê không

thừa nhận hành vi phạm tội. Lê vốn là quý tử trong 1 gia đình cán bộ, giàu có, cha là Phó

tổng giám đốc một công ty Nhà nước. 16, 17 tuổi Lê đã tập tành ăn chơi và rủ hàng chục

thanh thiếu niên toàn con nhà giàu tham gia đi cướp.Với lợi thế là một tay đua tốc độ

khét tiếng nhất Sài Gòn những năm 1990, chỉ trong 3 tháng đầu năm băng nhóm này gây

ra 43 vụ cướp giật tài sản của người đi đường trên đường phố, gây hoang mang cho hàng

triệu người dân mỗi khi bước chân ra đường. Vài tháng sau đó, cả băng nhóm này sa lưới.

Tuy nhiên, Lê lại được cha bảo lãnh cho tại ngoại. Trong thời gian tại ngoại, người đàn

ông này lại tiếp tục lôi kéo khoảng 30 quý tử toàn con nhà có máu mặt, tiếp tục lập một

băng nhóm xã hội đen và gây ra hàng loạt vụ bắn người, cướp tài sản.Với hàng loạt tội

danh như: cướp giật tài sản, cướp tài sản, tàng trữ và sử dụng trái phép vũ khí quân dụng

Lê phải lãnh án tù chung thân. Cải tạo được 20 năm, Lê được đặc xá. Vừa mới ra tù trở

về được một năm, Lê lại tiếp tục phạm tội.

2.3.2 Nhu cầu khoái lạc

Thường diễn ra ở những đối tượng nghiện hút chích, bài bạc, rượu chè. Có nhiều

con đường dẫn đến nghiện ngập: chán đời, thất tình, bị cha mẹ ruồng rẩy, hay bị bạn rủ

rê, lôi kéo. Khi đã nghiện thì họ không thể rút chân lại. Để thoải mãn thú vui thể xác, để

có nhứng giây phút thăng hoa bên nàng tiên nâu hay những thứ đam mê của mình, họ sẵn

sàng làm đủ thứ chuyện trên đời: trộm cắp, cướp giật, thậm chí giết người. Một khi cơn

nghiện đã đến, họ không còn đủ lý trí để phân biệt chuyện đúng sai, phạm pháp hay vô

nhân tính. Họ không còn tỉnh táo phân biệt ai là người thân thuộc của mình nữa. Họ lấy

bất cứ thứ gì có giá trị trong nhà đi cầm cố, hoặc sang bán. Có người giết luôn ông bà,

cha mẹ, vợ con của mình để giành món đồ trong nhà đem đi cầm cố, thỏa mãn bản thân.

Ngày 3/6/2014, cơ quan CSĐT Công an quận 11, TP.HCM xác nhận đang tạm giữ hình

sự Trần Khả Lâm (38 tuổi, ngụ quận 11) để điều tra, xử lý về hành vi “Cướp tài sản”. 48

Ngay sau khi bị áp giải về trụ sở công an, Lâm có dấu hiệu nghiện ma túy và trong tình

trạng lờ đờ, ngáp dài vì “đói thuốc”. Tại đây, ban đầu Lâm khai nhận, do thiếu tiền mua

ma túy nên nảy sinh ý định cướp tiệm vàng. Theo điều tra bước đầu, Lâm nghiện ma tuý

nặng và đã từng 2 lần đi cai nhưng khi được cho về thì lại tái nghiện. Bản thân lại không

có công ăn việc làm, suốt ngày đi lang thang. Trưa 2/7, sau khi nhậu với bạn bè tại quận

12, Lâm đón xe buýt về chợ Thiếc, quận 11 với ý định tìm tiệm vàng nào sơ hở để cướp.

Khi về tới chợ Thiếc, Lâm đi vào chợ rồi sau đó quay ra với cục đá xanh trên tay. Lâm

tiến tới tiệm vàng Ngọc Thành, lúc này bên trong tiệm có vợ chồng anh Đặng Văn Hiệp

(36 tuổi) và anh Đặng Kim Hạc. Lâm cầm đá đập vỡ tủ kính rồi thò tay vơ một số dây

chuyền vàng và bỏ chạy. Chứng kiến sự việc 3 người trong tiệm lao ra truy đuổi. Chưa

được 10 mét thì Lâm đã bị vợ chồng anh Hiệp, anh Hạc cùng một số người dân khống

chế, bắt giữ và giao nộp cho cơ quan công an. Theo cơ quan điều tra, đối tượng Trần Khả

Lâm là con nghiện ma túy nặng, từng có 2 tiền án về tội “Cướp giật tài sản”. Trước đây,

Lâm có căn nhà nằm trên đường Huyền Trân Công Chúa (quận 3, TP.HCM) nhưng sau

khi cha mẹ qua đời Lâm bán hết tài sản ăn chơi lêu lổng rồi nghiện ma túy. Được biết

thêm, nhiều năm trước Lâm vốn là “công tử” con của một gia đình giàu có sở hữu căn

nhà mặt tiền đường Công Chúa Ngọc Hân (quận 11, ngay trung tâm thành phố). Tuy

nhiên Lâm không chí thú làm ăn mà sớm sa vào con đường nghiện ngập. Cũng vì lẻ đó

mà cha mẹ Lâm buồn bã đỗ bệnh và qua đời sớm. Vậy nhưng đối tượng này vẫn không

thức tỉnh càng lún sâu vào con đường nghiện ngập đến mức căn nhà và toàn bộ tài sản bị

bán sạch để nướng vào làn khói ma túy..

2.3.3 Hứng thú kỳ dị

Có những người không phải do thiếu thốn vật chất, cũng không vướng vào nàng

tiên nâu đen hay trắng. Họ đi cướp vì hị thích đi cướp. Họ có công việc đàng hoàng, thu

nhập đảm bảo nhưng thấy việc cướp dễ dàng, dễ kiếm tiền đam ra thích. Có người đi

cướp vì thích nhìn cảnh người khác bị cướp, hoảng loạn, la hét. Hai nghi can là Hồ

Hoàng Hảo (18 tuổi, ngụ Bình Dương) và Nguyễn Việt Thái (15 tuổi, ngụ quận Thủ Đức, 49

TP.HCM). Lý giải về hành động của mình, 2 tên cho rằng do tuổi trẻ bồng bột, háo thắng

nên làm bậy. Ngày 13/12, HĐXX TAND Bình Dương nhận định hành vi của các bị cáo

là manh động, coi thường pháp luật. Mặc dù các bị cáo còn nhỏ tuổi nhưng đã liên tiếp

thực hiện hàng loạt vụ cướp giật tài sản gây ảnh hưởng đến tình hình an ninh trật tự ở địa

phương. HĐXX đã tuyên phạt Hồ Hoàng Hảo 16 tháng tù, Nguyễn Việt Thái 15 tháng tù

giam về hành vi cướp giật tài sản. Theo cáo trạng, do không tiền xài, 2 tên đèo nhau trên

xe máy đi tìm học sinh tan trường thì ra tay cướp giật tài sản. Cách đây 1 tháng, phát hiện

em Linh D. chạy xe đạp cùng chiều, Hảo ép vào để Thái ngồi sau chồm qua giật túi xách

của D., rồi chạy về quán cà phê lục lấy được 300.000 đồng và 1 máy tính hiệu Casino.

Sau đó chúng mang túi xách vứt bên đường. Sau khi đã xài hết tiền, tối hôm đó chúng lại

chờ học sinh đi học thêm về thì ra tay cướp giật. Khoảng 20h, chúng bám theo em Cẩm

T. giật túi xách rồi chạy về quán cà phê lục tìm tài sản nhưng không có gì giá trị, chúng

bực mình vứt túi xách trong quán rồi lên đường tiếp tục hành động. Lần này nạn nhân là

một cô gái vừa chạy xe vừa nghe điện thoại. Sau khi đã giật được chiếc điện thoại, chúng

chạy về hướng phường Tân Đông Hiệp, thị xã Dĩ An thì bị lực lượng công an địa phương

tuần tra phát hiện khả nghi nên bắt giữ cùng tang vật. Sau khi bị bắt, qua điều tra, Hảo và

Thái thừa nhận trước đó đã thực hiện hàng loạt vụ cướp giật tài sản trên địa bàn Dĩ An và

quận Thủ Đức. Hai thanh niên này thừa nhận trước đó chúng cùng đồng bọn tên Chính

thực hiện 5 vụ cướp giật túi xách của học sinh. Thường ngày, canh vào giờ tan trường,

các đối tượng rảo xe máy trước cổng trường tìm “con mồi”. Phát hiện học sinh nào để túi

xách trước giỏ xe thì bám theo. Khi thời cơ thích hợp chúng ép xe giật túi xách. Tại cơ

quan điều tra, Hảo và Thái thừa nhận do cần tiền nên đi cướp giật. Ngoài ra 2 kẻ này còn

cho biết động cơ đi cướp giật cũng vì thích cái cảm giác nhìn nạn nhân bị chiếm đoạt tài

sản mà bất lực nhìn theo, nên chúng chỉ “ăn hàng” của những học sinh, công nhân chạy

xe đạp.

50

2.3.4 Động cơ trả thù đời

Đây là kiểu tâm lý của người từng bị mất mát trong quá khứ, từng bị ức chế, đau

khổ, mất mát đau thương. Có thể người thân của họ ra đi trong vụ cướp của giết người,

hay bản thân họ từng bị hãm hại. Tâm lý sang chấn in đậm trong cuộc đời họ. Họ không

quên được quá khứ đau thương, họ ôm hận trong lòng, quyết tâm trả thù đời. Mỗi người

có cách riêng đễ vượt qua nhưng họ không chọn được con đường tốt đi lấp đau thương,

họ chọn cách thực hiện lại điều họ đã từng bị chịu đựng. Họ mang tâm lý không còn gì để

mất, gieo nhân nào sẽ gặt quả nấy. Họ trả thù người, trả thù đời bằng cách cướp lại của

người khác những gì họ đã bị mất. Có rất nhiều vụ cướp xảy ra do động cơ trả thù. Ngày

2/6, Công an huyện Bình Chánh (TP.HCM) cho biết, đã bắt giữ một nhóm nghi can gồm

3 người để điều tra xử lý về hành vi “Cướp tài sản”. Theo đó, các nghi can bị bắt giữ

gồm: Hồ Văn Thuận (21 tuổi), em trai Hồ Văn Thảo (19 tuổi, cùng ngụ Bà Rịa – Vũng

Tàu); Đào Văn Tiếng (17 tuổi, ngụ TP.HCM). Ngoài ra công an đã giải toả Đào Thị T

(16 tuổi, là em ruột của Tiếng) do chưa đủ tuổi vị thành niên để xử lý hình sự. Theo hồ sơ

điều tra, ngày 27/5, Thuận có nói với Tiếng về việc mình bị một cô gái mới quen qua

mạng lừa lấy mất chiếc xe máy. Nghe vậy, Tiếng cũng cho biết có quen một cô gái có

nickname “Py…”, và qua mô tả của Tiếng, Thuận nhận ra cô gái có nickname này chính

là chị Huỳnh Ngọc Thùy Tr. (17 tuổi, ngụ TP.HCM), người đã lừa chiếm đoạt tài sản của

mình. Sau đó, cả hai đã lên kế hoạch để “rửa hận” bằng cách hẹn chị Tr. đi chơi cùng

Thuận. Khoảng 2h45 ngày 31/5, chị Tr. chở bạn là chị Ngô Thị Ánh T. (33 tuổi, ngụ

TP.HCM) đến gặp Thuận để dẫn đi chơi. Khi cả hai đi đến giao lộ Nguyễn Văn Linh –

Phạm Hùng (thuộc xã Bình Hưng, huyện Bình Chánh, TP.HCM) thì được Thuận dẫn đi

vào một con hẻm vắng. Lúc này, Thuận bảo hai người dừng xe và bất ngờ tấn công đánh

liên tiếp vào người hai chị này. Cùng lúc này, Tiếng cùng em gái đi đến hiện trường hỗ

trợ cho Thuận. Tiếng xông vào đánh đấm vào mặt chị Tr. Em gái của Tiếng đến đỡ nạn

nhân đứng dậy nhưng bị Thuận la nên chỉ đứng xem Một đồng bọn khác của Thuận đã

phục kích từ trước, chạy ra cướp xe máy của hai chị này và tẩu thoát. Người dân đã đưa

chị Tr. đi cấp cứu, riêng chị T. đã đến công an trình báo sự việc. Từ lời trình báo của chị 51

T., công an nhanh chóng truy xét và bắt giữ an hem Tiếng. Qua lời khai, công an tiếp tục

bắt giữ anh em Thuận ngay sau khi cả hai bỏ trốn xuống Bà Rịa – Vũng Tàu. Tại cơ quan

công an, Thuận khai nhận toàn bộ hành vi trên. Hiện công an huyện Bình Chánh đang mở

rộng điều tra làm rõ. Đồng thời cũng làm rõ khai báo của Thuận cho rằng trước đây từng

bị nạn nhân là chị Tr. lừa chiếm đoạt xe máy.

2.3.5 Quan điểm sai lầm: bần cùng sinh đạo tặc

Đây là tâm lý bần cùng sinh đạo tặc. Gia đình quá nghèo khổ, lại có người bệnh

tật. Họ không có tiền ăn, lai càng không có tiền thuốc thang chửa trị cho người thân. Họ

đi vay mượn khắp nơi, nhưng cuối cùng cũng không còn mượn ai được nữa. Họ không

biết làm sao, chỉ còn cách liều lĩnh đi cướp giật. Họ đáng thương nhưng cũng đáng giận.

Họ biến nỗi đau của mình thành tai họa cho người khác. Để có tiền chữa bệnh cho người

thân, họ cướp giật của người khác, đôi khi lại gây ra cái chết vô tình cho người khác. Bản

thân của họ rồi cũng vướng vào nỗi ăn năn, hối hận và tù tội. Ngày 23-12, TAND

TPHCM xét xử sơ thẩm, tuyên phạt Phạm Văn Đầy (SN 1992 tại Châu Đức - Bà Rịa,

Vũng Tàu) tù chung thân về hai tội “ Giết người và cướp tài sản”. Theo cáo trạng, Đầy

làm nghề thu mua đu đủ tại Bà Rịa, Vũng Tàu, bỏ mối ở chợ. Từ tháng 12-2013, Đầy

quen biết anh N.N.T cùng hành nghề buôn đu đủ tại Thủ Đức - TPHCM. Thỉnh thoảng,

Đầy giúp anh T kiểm tra hàng từ đầu mối gửi về. Lâu dần, anh T nảy sinh tình cảm yêu

thương đồng tính với Đầy. Trong khi đó, Đầy thấy anh T có nhiều tài sản nên nảy sinh ý

định giết, cướp tài sản lấy tiền tiêu xài và chữa bệnh. Ngày 18-01-2014, anh T kêu Đầy

ngủ lại qua đêm. Sau đó, Đầy đến khách sạn thuê phòng trước. Khoảng 21h30, anh T đến

khách sạn. Trong lúc cả hai đang quan hệ với nhau, Đầy dùng dao đâm vào lưng anh T

dẫn đến hai bên xảy ra ẩu đả. Lúc này, nhân viên khách sạn nghe tiếng ẩu đả nên báo cho

bảo vệ khu phố đến kiểm tra. Sau đó, nhân viên này gọi điện cho Đầy xuống quầy kiểm

tra giấy tờ. Khi đến quầy lễ tân, Đầy định bỏ trốn nhưng bị bắt giữ. Còn anh T được phát

hiện đã tử vong. Hay có vụ án cướp giật đầy thương xót, đói quá làm liều đi cướp đồ ăn.

52

Hay vụ án thương tâm, cha đi cướp tiền 50 000 VND để thăm con trong bệnh viện.

53

Chương 3: Một số Biện pháp

3.1 Dự báo tình hình tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành phồ Hồ Chí Minh

Phòng ngừa tình hình tội phạm là biện pháp đấu tranh, phòng chống tội phạm có

hiệu quả nhất. Để đạt được mục đích loại trừ tội phạm ra khỏi đời sống xã hội, Hồ Chí

Minh đã coi công tác phòng ngừa tình hình tội phạm là hoạt động thường xuyên, cần thiết

nhằm khắc phục những nguyên nhân và điều kiện của tình hình tội phạm, đảm bảo an

ninh trật tự trên địa bàn thành phố.

Tuy nhiên, chương trình đấu tranh cũng như chiến lược, chiến thuật phòng chống

tội phạm sẽ trở thành hình thức nếu nhưng không được xây dựng trên cơ sở những dự báo

tình hình tội phạm. Đây là một việc làm cần thiết và có ý nghĩa quan trọng trong công tác

đấu tranh và phòng ngừa tội phạm. Có dự báo tốt, chúng ta mới chủ động và có giải pháp

kịp thời để ngăn chặn hành vi phạm tội, từ đó mới hạn chế được tội phạm và hậu quả có

thể xảy ra.

Trong điều kiện kinh tế, xã hội của thành phố có thể cho phép dự báo tình hình tội

phạm nói chung và tội cướp giật nói riêng trong thời gian tới vẫn tiếp tục gia tăng cả về

số lượng, phức tạp về phương pháp, thủa đoạn phạm tội; tính chất, mức độ phạm tội ngày

càng nghiêm trọng. Xu hướng phạm tội có tính chất ổ nhóm có chiều hướng gia tăng,

thiếu niên chưa có công ăn việc làm, các đối tượng nghiên hút…

Vì vậy, để nâng cao công tác đấu tranh, phòng ngừa tội cướp tài sản, trong thời

gian tới, các cơ quan Công An, Viện kiểm sát, Tòa án và các cơ quan chức năng khác có

sự phối hợp chặt chẽ với nhau và đề ra các giải pháp hữu hiệu nhằm ngăn chặn và đẩy lùi

loại tội phạm này ra khỏi đời sống xã hội.

3.2 Một số biện pháp phòng ngừa tội cướp giật trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh

Thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010 của Bộ Chính trị về

“Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội phạm trong tình

54

hình mới và các đề án cụ thể, công tác phòng ngừa và đấu tranh chống tội cướp tài sản

của thành phố không thể tách rời với các biện pháp chung của toàn xã hội và của các cơ

quan bảo vệ pháp luật. Tuy nhiên, mỗi loại tội phạm đều có đặc điểm, phương thức, thủ

đoạn hoạt động riêng nên với từng loại tội phạm phải có những biện pháp phòng ngừa

tương ứng. Để đẩy mạnh hơn nữa công tác đấu tranh phòng chống tội cướp tài sản, giữ

gìn trật tự trị an trên địa bàn thành phố, chúng ta cần thức hiện những biện pháp sau:

3.2.1 Các biện pháp về kinh tế

Biện pháp này đòi hỏi phải nâng cao đời sống nhân dân, mở rộng mạng lưới giáo

dục xã hội, tổ chức việc làm cho người lao động (cho cả đối tượng phạm nhân đang chấp

hành hoặc người đã chấp hành xong hình phạt tù) nhằm từng bước giải quyết tình trạng

thanh niên thất nghiệp, thiếu việc làm, tạo điều kiện cho họ có thu nhập để đảm bảo cuộc

sống hàng ngày, từ đó sẽ phần nào hạn chế được tình trạng cướp giật trên địa bàn thành

phố.

Ngoài ra, cần chú ý đến vấn đề dạy nghề cho đối tượng ở trại giam, đưa chương

trình làm việc vào các trường giáo dưỡng, cơ sở giáo dục, hỗ trợ giải quết việc làm cho

các đối tượng đã mãn hạn tù, giúp họ hòa nhập với cộng đồng.

3.2.2 Các biện pháp xã hội

Thường xuyên tổ chức quần chúng nhân dân tham gia phát hiện các biểu hiện nghi

vấn của những đối tượng có khả năng gây án, tổ chức tố giác tội phạm cướp giật tài sản

hoặc chủ động báo cho các cơ quan chức năng ngăn chặn kịp thời hành vi phạm tội,

không để bọn phạm tội gây án.

Cần tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật cho người dân

để nâng cao ý thức pháp luật cho họ, đặc biệt là những người có độ tuổi từ 16 đến 30 vì

đây là những đối tượng có khả năng gây án cao. Nếu làm tốt công tác này sẽ giúp người

dân hiểu rõ và chấp hành pháp luật một cách nghiêm chỉnh đồng thời năng cao ý thức

cảnh giác đề phòng nạn cướp giật tài sản, bảo vệ an toàn tài sản của chính họ. Mặt khác,

cần xây dựng lối sống văn minh, lành mạnh tại các cộng đồng dân cư trên địa bàn thành 55

phố, trong nhà trường cũng như trong gia đình để các hành vi không có “cơ hội” len lỏi

vào trong cuộc sống gia đình.

Đẩy mạnh các hoạt động của đoàn thanh niên, hội phụ nữ… đối với việc quản lý,

giáo dục thanh niên trên địa bàn thành phố, giáo dục những đối tượng có biểu hiện nghi

vấn tại địa phương để họ tự nhận thức đúng đắn mà từ bỏ ý định phạm tội nhằm giúp đỡ

và cảm hóa những người lầm lỗi, tại điều kiện cho họ ra trình diện, khai báo với cơ quan

điều tra về hành vi phạm tội của mình.

Đối với các đối tượng cướp giật tài sản là học sinh, người chưa thành niên thì gia

đình, nhà trường cần phải quan tâm giáo dục hơn nữa để họ có cơ hội sửa chữa sai lầm

của mình, trở thành công dân tốt cho xã hội và điều quan trọng là để các em không quay

lại con đường phạm tội. Mặt khác, gia đình phải thường xuyên giữa mối liên lạc với nhà

trường để kịp thời phát hiện, uốn nắn và giáo dục các em sửa chữa những khuyết điểm,

sai lầm đã mắc phải.

3.2.3 Các biện pháp về tổ chức – quản lý xã hội

Công tác xây dựng, bố trí lực lượng nhằm điều tra, phát hiện tội phạm nói chung

và tội cướp giật tài sản nói riêng phài phù hợp với địa bàn của từng quận, huyện trong

thành phố. Đối chuyên trách chống tội phạm cướp giật tài sản thuộc Công an thành phố

Hồ Chí Minh hay công an phường, quận, huyện phải tăng cường tuần tra vào ban đêm ở

những khu vực tập trung đông dân cư và các khu vực thường xuyên xảy ra các vụ cướp

giật tài sản.

3.2.4 Đẩy mạnh các biện pháp phòng ngừa nghiệp vụ của cơ quan Công an và các

cơ quan chức năng khác.

Để công tác phòng ngừa, ngăn chặn tội phạm có hiệu quả, ngoài các biện pháp

trinh sát bí mật, cơ quan Công an cần tiến hành các biện pháp tuần tra trinh sát bí mật, cơ

quan Công an cần tiến hành các biện pháp tuần tra và các biện pháp kỹ thuật khác.

Việc quản lý người phạm tội cũng phải được cơ quan chức năng tiến hành một

cách chặt chẽ và thường xuyên. Lực lượng Công an và các đội tự vệ phải tập trung rà soát 56

kỹ các đối tượng đã có tiền án, tiền sự về tội cướp giật tài sản. qua đó theo dõi nắm chắc

tình hình hoạt động, phương thức, thủ đoạn phạm tội của các vụ cướp giật trên địa bạn

thành phố.

3.2.5 Nâng cao vai trò của quần chúng nhân dân

Đấu tranh phòng chống tội phạm là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, của các

cấp chính quyền về bảo vệ tài sản của Nhà nước, của nhân dân. Do vậy, trong quá trình

đấu tranh, phòng chống tội cướp giật tài sản phải tố chức quần chúng tham gia vào một

số hoạt động như:

 Khi phát hiện thấy tội phạm, cần báo cho cơ quan chức năng để có biện

pháp xử lý kịp thời.

 Ngăn ngửa tội cướp giật đang diễn ra.

 Phối hợp với các cơ quan Nhà nước, các tổ chức xã hội… trên địa bàn mình

sinh sống để thức hiện các chương trình phòng chống tội cướp giật tài sản.

3.2.6 Nâng cao vai trò của Tòa án trong công tác xét xử

Trong cuộc đấu tranh, phòng chống tội phạm, Tòa án nhân dân nhân danh Nhà

nước kết tội và tuyên án người phạm tội bằng bản án. Đối với các đối tượng phạm tội

cướp giật tài sản, nhất là những đối tượng có tính chất đồng phạm, tài phạm nhiều lần gây

hậu quả nghiêm trọng cho xã hội thì Tòa án nên áp dụng khung hình phạt thích đáng,

nghiêm minh,đảm bảo xét xử đúng người đúng tội nhằm cách lý các đối tượng này ra

khỏi xã hội một thời gian cần thiết để họ tự nhận thức và sửa chữa sai lầm của mình,

đồng thời việc đưa ra mức hình phạt thích đáng sẽ có tác dụng răng đe, cảnh báo cho

những đối tượng khác có ý định phạm tội, từ đó phần nào hạn chế bớt loại tội phạm này.

Trong quá trình xét xử, cùng với vệc ra bản án, Tòa án ra kiến nghị đối với các cơ

quan, tổ chức áp dụng những biện pháp cần thiết để khắc phục những nguyên nhân và

điều kiện làm phát sinh tội phạm tại cơ quan, tổ chức đó.

Như vậy, công tác đấu tranh, phòng chống tội cướp giật tài sản trên địa bàn thành

phồ Hồ Chí Minh đang là vấn đề cấp bách hiện nay. Nó đòi hỏi phải tăng cường hơn nữa 57

sự phối hợp của tất cả các cơ quan chính quyền, các ban ngành đoàn thể cùng toàn bộ

nhân dân tham gia công tác này một cách tích cực. Đấu tranh, phòng chống loại tội phạm

này cần thiết phải có sự chủ động, có kế hoạch dự liệu từ trước. Điều cơ bản là loại trừ

trước các điều kiện phát sinh tội phạm chứ không phải là bị động chạy theo việc loại trừ

58

các điều kiện để tội phạm tồn tại và gia tăng.

Kết luận

1. Cướp giật tài sản là loại tội phạm có tính chất nguy hiểm cho xã hội, đe dọa đến

tính mạng, sức khỏe và tài sản của Nhà nước, của công dân, làm ảnh hưởng đến tình hình

an ninh xã hội và trật tự công cộng. Vì vậy đấu tranh phòng chống tội phạm là nhiệm vụ

hết sức quan trọng và cấp thiết của toàn xã hội trong giai đoạn hiện nay. Đây là cuộc đấu

tranh lâu dài và đầy khó khăn, đòi hỏi phải có sự tham gia góp sức của toàn xã hội. Tình

hình tội cướp giật tài sản ở Hồ Chí Minh và đang diễn ra phức tạp, tăng giảm thất thường.

Bọn tội phạm hoạt động với thủ đoạn chủ yếu là dùng phương tiện xe máy áp sát để cướp

giật của những người tham gia giao thông, tính chất tội phạm ngày càng táo bạo, trắng

trợn, và xảy ra liên tiếp. Địa bàn phạm tội xảy ra chủ yếu ở các địa bàn công cộng, đường

giao thông. Hậu quả gây ra cho xã hội ngày càng nghiêm trọng, thiệt hại cả tài sản và sức

khoẻ của con người, gây tâm lý hoang mang lo lắng trong nhân dân, tác động tới trật tự

an toàn xã hội ở Hồ Chí Minh. Từ đó ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế và ổn định

chính trị của thành phố. Trong tương lai nó có xu hướng gia tăng không chỉ về số vụ mà

cả về tính chất và mức độ ngày càng trầm trọng.

2. Nguyên nhân của tội cướp giật tài sản chủ yếu gồm: nguyên nhân về kinh tế - xã

hội đó là sự phân hoá giàu nghèo? Những tiêu cực từ bên ngoài tác động tới nhiều mặt

của đời sống xã hội. Trong xã hội còn nhiều vấn đề bức xúc, những tiêu cực, tệ nạn xã

hội chưa giải quyết được. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực an ninh trật tự còn

buông lỏng, hiệu lực quản lý hạn chế, tạo ra lỗ hổng mà bọn phạm tội lợi dụng để phạm

tội. Việc giáo dục đạo đức lối sống, pháp luật trong nhân dân chưa được thực hiện tốt.

Công tác phòng ngừa và đấu tranh phòng chống tội phạm cướp giật tài sản chưa tạo ra

sức mạnh đồng bộ, tổng hợp của toàn xã hội. Các cơ quan chức năng chưa phát huy hết

hiệu quả trong hoạt động này. Kết quả đấu tranh phòng chống tội phạm chưa cao. Hệ

thống pháp luật của chúng ta chưa đồng bộ, nhận thức pháp luật của chúng ta còn hạn

59

chế.

3. Đấu tranh phòng chống tội cướp giật tài sản phải tiến hành đồng bộ các biện

pháp, giải pháp, phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội theo hai hướng: ngăn chặn

sự phát sinh tội phạm từ đối tượng mới và ngăn ngừa tái phạm tội. Trước hết phải thực

hiện các biện pháp kinh tế - xã hội: phát triển kinh tế gắn với thực hiện các chính sách xã

hội. Nâng cao chất lượng công tác giáo dục, xây dựng con người mới XHCN. Nâng cao

chất lượng giáo dục trong trường học cả về trình độ văn hoá, pháp luật, đạo đức lối sống

cho lớp trẻ. Phát huy vai trò của nhân dân chủ động phòng ngừa tội phạm. Nâng cao chất

lượng nghiệp vụ các ngành nội chánh. Việc nghiên cứu tình hình tội cướp giật tài sản làm

sáng tỏ đặc điểm, quy luật của tội phạm, nguyên nhân và điều kiện của tình trạng phạm

tội trên cơ sở đó để ra những biện pháp đấu tranh phòng, chống tội cướp giật tài sản có

60

hiệu quả.

Tài liệu tham khảo

Sách và văn bản

1.Bộ luật Hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

2.Bộ luật Tố tụng hình sự của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam

3.Báo cáo “Sơ kết 3 năm thực hiện Chỉ thị 48-CT/TW ngày 22 tháng 10 năm 2010

của Bộ Chính trị về “Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tội

phạm trong tình hình mới” trên địa bàn thành phố, ngày 15.11.2013.

4. Bình luận khoa học Bộ luật hình sự (1996), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

5. Bình luận khoa học Bộ luật tố tụng hình sự (1994), Nxb Chính trị quốc gia, Hà

Nội.

6. Bộ Công an (2000), Tài liệu tập huấn chuyên sâu Bộ luật hình sự năm 1999,

Công ty In Ba Đình, Hà Nội.

7. Bộ Công an, Tổng cục Cảnh sát nhân dân (1994), Tội phạm ở Việt Nam thực

trạng, nguyên nhân và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, mó số KX.04.14, Hà Nội.

8. Bộ Công an, Tổng cục Cảnh sát nhân dân (1994), Tệ nạn xã hội ở Việt nam

thực trạng, nguyên nhân và giải pháp, Đề tài nghiên cứu khoa học, mó số KX.04.14, Hà

Nội.

9. Bộ luật hình sự Việt Nam (1985), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

10. Bộ luật hình sự Việt Nam (1999), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

11. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (1988), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

12. Bộ luật tố tụng hình sự Việt Nam (2003), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

13. Lê Cảm (1999) Hoàn thiện pháp luật hình sự Việt Nam trong giai đoạn xây

dựng Nhà nước pháp quyền (Một số vấn đề cơ bản của phần chung), Nxb Công an nhân

61

dân, Hà Nội.

14. Nguyễn Ngọc Chí (2000), Trách nhiệm hình sự đối với các tội xâm phạm sở

hữu, Luận án Tiến sĩ luật học, Viện Nghiên cứu Nhà nước và Pháp luật, Hà Nội.

15. Công an thành phố Hồ Chí Minh (2001-2005), Báo cáo tổng kết công tác năm,

Hồ Chí Minh.

16. Công an thành phố Hồ Chí Minh (2001 -2005), Báo cáo thống kê, Hồ CHí

Minh.

17. Công an thành phố Hồ Chí Minh, Cơ quan Cảnh sát điều tra (2001 - 2005),

Báo cáo tổng kết công tác năm, Hồ Chí Minh.

18. Công an thành phố Hồ Chí Minh, Phòng Cảnh sát hình sự (2001-2005), Báo

cáo tổng kết công tác năm, Hồ Chí Minh.

19. Cục quản lý giam giữ cải tạo phạm nhân (2001- 2005), Báo cáo tổng kết năm

công tác quản lý thi hành án phạt tù, Hồ Chí Minh.

20. Đảng Cộng sản Việt Nam (2005), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ

X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.

21. Đỗ Ngọc Quang (1999) Giáo trình tội phạm học, Nxb Đại học Quốc gia,

HàNội.

22. Đinh Văn Quế (1998), Bình luận án, Nxb Thành phố Hồ Chí Minh, Thành phố

Hồ Chí Minh.

23. Lê Thị Sơn (1998), "Về các giai đoạn thực hiện tội phạm", Luật học.

24. Hoặng Ngọc Thanh (2002), Đấu tranh phòng, chống tội trộm cắp tặi sản trên

địa bàn tỉnh Thừa Thiên - Huế, Luận văn Thạc sĩ luật học, Khoa Luật.

Website

62

1. http://catphcm.bocongan.gov.vn

2. http://dantri.com.vn/phap-luat.

3. http://vnexpress.net/tin-tuc/phap-luat

4. http://www.doisongphapluat.com

5. http://vtv.vn

6. http://giaoduc.net.vn/Xa-hoi.

7. http://vietnamnet.vn

8. http://plo.vn/phap-luat

9. www.hochiminhcity.gov.vn/

63

10. www.congan.com.vn/

Phụ Lục Hình Ảnh

Hành vi cướp giật điện thoại

64

Hành vi cướp giật laptop

Hành vi cướp giật dây chuyền

65

Hành lang pháp lý phân định tội danh cướp, cướp giật tài sản và trộm