BỘ CÔNG THƯƠNG

TRƯỜNG ĐẠI HỌC CÔNG NGHIỆP THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH

VIỆN CÔNG NGHỆ SINH HỌC VÀ THỰC PHẨM

MÔN HỌC: SINH HỌC CHỨC NĂNG ĐỘNG VẬT.

TIỂU LUẬN

GVHD: Th.s Trần Thị Phương Nhung.

Lớp: DHSH7B – LHP: 210511602

Danh sách nhóm 4:

1. Nguyễn Thị Hoa 2. Lâm Thị Nga 3. Lê Thị Đỗ Quyên 4. Nguyễn Tiến Thịnh 5. Nguyễn Thị Lệ Thu 11266621 11246021 11029171 11047541 11069291

LỜI MỞ ĐẦU

Đối với một cuộc sống năng động, hiện đại như hiện nay thì nhu cầu của con người

không chỉ là có cái ăn cái mặc nữa, mà phải làm như thế nào để có thể ăn ngon nhưng

vẫn đảm bảo sức khỏe tốt và một cuộc sống lành mạnh để có thể vui chơi sống và học

tập, trong vô số những thức ăn như hiện nay thì việc lựa chọn các loại thực phẩm phù

hợp với bản thân là không hề đơn giản và loại thực phẩm nào chúng ta nên tránh và có

chế độ ăn như thế nào quả là một vấn đề cấp thiết hiện nay. Và để giúp cho chúng ta có

thêm kiến thức về chế độ dinh dưỡng và một cuộc sống như thế nào để có thể phù hợp

với nhịp sinh học của cơ thể, nhóm chúng em xin được giới thiệu đề tài tiểu luận “”.

Với đề tài này, nhóm chúng em muốn gửi tới cô và mọi người về quá trình sinh

trưởng phát triển, nhu cầu dinh dưỡng, ngoài ra cung cấp một số loại thực phẩm chức

năng trong đời sống con người, giúp mọi người tìm hiểu và khái quát rõ về nhịp sinh

học ở con người ra sao. Thông qua bài tiểu luận này, chúng em mong rằng có thể góp

một phần nào đó cho sự hiểu biết chung đối với vấn đề dinh dưỡng cũng như khắc

phục những quan điểm sai lầm trong lối sống của chúng ta từ đó có thể đem lại cho

chúng ta cuộc sống lành mạnh để có thể học tập, vui chơi giải trí.

Trong quá trình làm tiểu luận chúng em đã sử dụng những tại liện trên internet cũng

như một số sách, đặc biệt hơn chúng em cũng xin chân thành cảm ơn cô Trần Thị

Phương Nhung đang giảng dạy bộ môn Sinh học chức năng động vật đã nhiệt tình chỉ

dẫn chúng em hoàn thành bài tiểu luận này. Trong quá trình làm không thể tránh những

thiếu sót mong cô và các bạn thông cảm./.

MỤC LỤC I. Giới thiệu về con người. ............................................................................................................ 2

II. Chế độ dinh dưỡng của con người. ......................................................................................... 13

1. Nhu cầu nǎng lượng: ........................................................................................................... 25

2. Số lượng, thời gian ăn .......................................................................................................... 25

3. Cách chế biến thức ăn ......................................................................................................... 25

III. Thực phẩm và thực phẩm chức năng trong đời sống con người. .......................................... 40

1. Khái niệm............................................................................................................................. 41

2. Phân biệt thực phẩm chức năng (Functional Food) với thực phẩm (Food) và thuốc (Drug).

41

3. Một số loại thực phẩm chức năng. ...................................................................................... 42

4. Thực phẩm chức năng: dùng không đúng có thể gây hại................................................... 44

IV. Nhịp sinh học ở động vật và người. ........................................................................................ 45

1. Khái niệm............................................................................................................................. 45

2. Nhịp sinh học ở động vật ..................................................................................................... 46

3. Nhịp sinh học của con người (đồng hồ sinh học). ............................................................... 47

V. Nhịp sinh học với đời sống con người. .................................................................................... 49

1. Mối quan hệ nhịp sinh học và chế độ sinh hoạt của con người. ......................................... 49

2. Ứng dụng đồng hồ sinh học trong điều chỉnh hợp lí chế độ dinh dưỡng cho động vật và người. ........................................................................................................................................... 53

VI. Những nghiên cứu mới về nhịp sinh học động vật và người. ................................................ 60

1. Đối với động vật. .................................................................................................................. 60

2. Đối với con người. ................................................................................................................ 62

TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................................................................................. 67

1

I. Giới thiệu về con người.

Con người, theo phân loại học là Homo sapiens, tiếng La-tinh nghĩa là "người thông

thái" hay "người thông minh", là một loài còn sống duy nhất của chi Homo, thuộc

loài động vật có vú, Con người là một loài sinh vật có bộ não tiến hóa rất cao cho phép

thực hiện các suy luận trừu tượng, ngôn ngữ và xem xét nội tâm. Điều trên kết hợp với

một cơ thể đứng thẳng cho phép giải phóng hai chi trước khỏi việc di chuyển và được

dùng vào việc cầm nắm, cho phép con người dùng nhiều công cụ hơn tất cả những loài

khác.

Cũng như những loài linh trưởng khác, con người là một sinh vật xã hội, sống bầy

đàn. Hơn thế nữa, con người cũng rất thành thạo việc sử dụng ngôn ngữ trong giao

tiếp, để biểu lộ những ý kiến riêng của mình và trao đổi thông tin. Con người tạo ra

những xã hội phức tạp trong đó có những nhóm hỗ trợ nhau và đối nghịch nhau ở từng

mức độ, có thể từ những cá nhân trong gia đình cho đến những quốc gia rộng lớn. Giao

tiếp xã hội giữa con người và con người đã góp phần tạo nên những truyền thống, nghi

thức, quy tắc đạo đức, giá trị, chuẩn mực xã hội, và cả luật pháp. Tất cả cùng nhau tạo

nên những nền tảng của xã hội loài người. Con người cũng rất chú ý đến cái

đẹp và thẩm mỹ, cùng với nhu cầu muốn bày tỏ mình, đã tạo nên những sự đổi với

về văn hóa như nghệ thuật, văn chương và âm nhạc.

Con người cũng được chú ý ở bản năng muốn tìm hiểu mọi thứ và điều khiển tự

nhiên xung quanh, tìm hiểu những lời giải thích hợp lí cho những hiện tượng thiên

nhiên qua khoa học, tôn giáo, tâm lý và thần thoại. Bản năng tò mò đó đã giúp con

người tạo ra những công cụ và học được những kĩ năng mới. Trong giới tự nhiên, con

người là loài duy nhất có thể tạo ra lửa, nấu thức ăn, tự may quần áo, và sử dụng

các công nghệ kỹ thuật trong đời sống.

 Sinh lý học và di truyền học

Hình dạng con người về căn bản rất khác nhau. Mặc dầu phần lớn được quy định

bởi các gene, môi trường xung quanh vẫn có một ảnh hưởng rất lớn đến hình dáng như

2

chế độ ăn uống và luyện tập. Một người Việt Nam có chiều cao trung bình của nữ là

1,53 m và nam là 1,64 m trong khi một người Bắc Mỹ lại có chiều cao ở nữ là 1,62 m

và ở nam là 1,75 m.

Con người cũng là một động vật hoàn toàn di chuyển bằng hai chân sau, vì vậy, hai

chi trước (được gọi là tay) có thể tự do linh động và dùng vào những việc như cầm nắm

một vật, được hỗ trợ bằng ngón tay cái. Tuy nhiên, cấu trúc bộ xương con người vẫn

chưa hoàn toàn sẵn sàng cho việc giải phóng bằng hai tay, điều này khiến xương sống

của con người cong lại thành dạng hình chữ S và tạo nên những khó khăn lúc về già.

Mặc dù con người có vẻ như không có nhiều lông so với những loài linh trưởng khác

nhưng con người lại có rất nhiều lông mọc ở phía trên đầu (còn gọi làtóc), dưới nách và

xung quanh cơ quan sinh dục hơn cả loài tinh tinh. Điều khác biệt chính đó là lông của

con người ngắn hơn và có ít màu sắc hơn, vì vậy khó thấy hơn.

Một phụ nữ thuộc bộ tộc Inuit, ảnh năm 1907.

Màu tóc của con người và màu da được quyết định bởi sự hiện diện của các sắc tố có

tên là melanin. Da của con người có thể có màu nâu đậmcho đến màu hồng, và tóc của

con người có thể có màu vàng, màu nâu, cho đến đỏ. Một số khoa học gia cho rằng sự

thay đổi màu da sang một màu tối là một cách của con người nhằm chống lại các tia

cực tím vì melanin là một chất chống tia cực tím hiệu quả. Màu da của con người phần

3

lớn là do các điều kiện địa lý xác định, và có sự liên quan đến cường độ và thời gian

tiếp xúc với tia cực tím. Da con người sẽ có xu hướng đen đi (rám nắng) để phản ứng

với tia cực tím.

Một người bình thường cần ngủ ít nhất là trong khoảng 7 đến 8 tiếng đối với người lớn

và 9 đến 10 tiếng đối với trẻ em, và những người già chỉ ngủ khoảng 6 đến 7 tiếng một

ngày. Những ảnh hưởng không tốt sẽ xảy ra nếu không ngủ đủ giấc. Ví dụ, một người

lớn nếu bị giảm thời gian ngủ xuống còn 4 tiếng một ngày sẽ cho thấy những bất

thường liên quan đến mặt sinh lý và tâm thần, bao gồm mệt mỏi, cáu gắt, khó chịu.

Trong xã hội hiện đại, có xu hướng người ta ngày càng ngủ ít hơn dẫn đến một "hội

chứng mất ngủ".

Con người là một động vật có cấu tạo tế bào đầy đủ. Mỗi tế bào có 23 cặp nhiễm sắc

thể, trong đó có 22 cặp nhiễm sắc thể thường và 1 cặp nhiễm sắc thể giới tính. Mỗi

người được nhận 23 nhiễm sắc thể từ cha và 23 nhiễm sắc thể từ mẹ, tạo thành 23 cặp

tương đồng. Riêng nhiễm sắc thể giới tính ở nam là XY và ở nữ là XX, do đó, nhiễm

sắc thể Y ở nam chỉ được nhận từ cha, còn nhiễm sắc thể X có ở cả 2 giới có thể được

nhận từ cha lẫn mẹ. Khoa học ngày nay cho thấy con người có trung bình 20.000-

25.000 gene và có 98,4% số gene giống với loài động vật gần con người nhất: tinh tinh.

Giống như những loài có vú khác, con người có hệ thống xác định giới tính XY, vì

vậy, phụ nữ sẽ có nhiễm sắc thể giới tính là XX và đàn ông là XY. Nhiễm sắc thể X

lớn hơn và mang nhiều gene hơn nhiễm sắc thể Y, do đó, nhiều bệnh di truyền liên

quan đến nhiễm sắc thể X như bệnh máu không đông, ảnh hưởng nhiều đến đàn ông

hơn.

 Vòng đời

4

Một bào thai trong tử cung người mẹ. Hình phác thảo của Leonardo da Vinci.

Vòng đời sinh học của con người bắt đầu từ khi nhau thai hình thành. Qua quá

trình thụ tinh (ở con người làthụ tinh trong), một con người mới hình thành. Trứng

thường được thụ tinh trong cơ thể phụ nữ cùng với tinh trùng của đàn ông qua quá trình

giao hợp, hay như một trong những tiến bộ khoa học gần đây là quá trình thụ tinh trong

ống nghiệm cũng thường được sử dụng. Trứng đã được thụ tinh, gọi là hợp tử, phân

chia liên tục trong tử cung người phụ nữ và trở thành một bào thai. Sau một khoảng

thời gian kéo dài khoảng 38 tuần, bào thai đó sẽ dần dần phát triển trở thành một con

người thực thụ. Vào thời điểm được sinh ra, bào thai phát triển đầy đủ sẽ ra khỏi cơ thể

người phụ nữ và bắt đầu tự hít thở, và được gọi là "trẻ sơ sinh". Vào thời điểm này, hầu

hết những xã hội hiện đại đều công nhận đứa bé ấy là một người và được bảo vệ trước

pháp luật, tuy nhiên một số khác thừa nhận quyền con người của đứa bé khi nó còn là

một đứa bé trong tử cung người mẹ.

So với những loài động vật khác, việc sinh nở của con người phức tạp hơn hẳn.

Những cơn đau kéo dài suốt 24 tiếng đồng hồ hay hơn thế nữa không hiếm, và cũng có

thể dẫn đến chấn thương hay cả cái chết đến cho đứa bé hay người mẹ. Mặc dù khả

năng đó đã giảm đi rất nhiều trong thế kỉ 20 và 21 trong những nước phát triển vì sự

phát triển những kĩ thuật hỗ trợ sinh sản mới. Sinh sản tự nhiên, tuy có độ nguy hiểm

rất cao, nhưng cũng rất phổ biến trong những vùng chưa phát triển trên thế giới

Con người sau khi được mang thai khoảng 9 tháng thì có cân nặng khoảng 3–4 kg

và cao 50–60 cm. Sau đó, chúng tiếp tục phát triển trong những năm tiếp theo và đạt

đến sự phát triển sinh dục nhất định. Trẻ em gái thường tiếp tục phát triển đến năm 18

tuổi, trong khi trẻ em trai lại tiếp tục phát triển đến năm 21 tuổi. Cuộc sống của một

người có thể được chia thành những giai đoạn quan trọng sau: sơ sinh, thiếu nhi, dậy

thì, thanh niên,trưởng thành và già. Tuy nhiên, độ dài của những giai đoạn trên luôn

không rõ ràng, nhất là giai đoạn cuối.

Có những ý kiến khác nhau về tuổi thọ trên trái đất. Ở những nước đã phát triển,

người ta ngày càng già đi, với độ tuổi trung bình ở mức xấp xỉ 40 tuổi (cao nhất là

5

ở Monaco với mức 45,1 tuổi), nhưng ở những nước thuộc thế giới thứ ba thì độ tuổi

trung bình lại là 15-20 tuổi (thấp nhất là ở Uganda với mức 14,8 năm). Tuổi thọ của con người trung bình được ước tính là 77,2 vào năm 2001 ở Hoa Kì.[10] Tuổi thọ trung

bình ở Singapore là 84,29 năm ở nữ và 78,96 năm đối với nam, trong khi ở Botswana,

do dịch bệnh AIDS đang hoành hành tại đây cho nên tuổi thọ chỉ ở mức 30,99 năm với

nam và 30,53 năm đối với nữ. Cứ năm người châu Âu thì sẽ có một người sống thọ

nhưng phải 20 người châu Phi thì mới có một người sống được hơn 60 tuổi.

Số người có tuổi thọ trên 100 trên thế giới được Liên Hiệp Quốc ước tính là khoảng 210.000 vào năm 2002.[12]. Tuổi thọ lớn nhất ở con người là khoảng 120 năm

(cụ Jeanne Calment đã sống được 122 năm 164 ngày). Trên toàn thế giới, cứ 81 người

đàn ông có tuổi thọ trên 60 tuổi thì có 100 phụ nữ như thế. Và trong số những người

thọ nhất thì tỉ lệ đó là 53 nam: 100 nữ.

Một câu hỏi khác là khi nào con người bắt đầu nhận thức và nó sẽ trở nên như thế

nào sau khi chết vẫn còn đang được tranh cãi. Nỗi lo sợ cái chết khiến hầu hết loài

người cảm thấy bất an và lo sợ. Những lễ chôn cất thường được tổ chức rất trọng thể

trong xã hội loài người thể hiện một lòng tin về sự sống sau cái chết hay sự bất tử.

 Chủng tộc

Con người thường tự phân loại họ thành những chủng tộc khác nhau, mặc dù những

bằng chứng khoa học chứng minh về chủng tộc còn gây nhiều tranh cãi. Con người

thường phân loại chủng tộc dựa vào tổ tiên hay đặc điểm sinh học, đặc biệt là màu da

và những đặc điểm khác trên mặt; ngoài ra còn có các đặc điểm khác như ngôn ngữ,

văn hóa và quốc gia mà họ đang sinh sống. Sự hình thành các chủng tộc có thể dẫn đến

các cách hành xử khác nhau và những sự phân biệt khác nhau đối với người từ chủng

tộc khác, dẫn đến thuyết phân biệt chủng tộc. Do đó, một số xã hội đặt nặng những

6

định kiến của mình về những xã hội khác, trong khi một số khác lại không.

 Sự tiến hóa của con người

Hộp sọ được tái tạo lại của Người Peking, một đại diện xa xưa đã tuyệt chủng được

xem là tổ tiên gần nhất của Homo sapiens: Homo erectus.

Nghiên cứu về sự tiến hóa của loài người cũng là nghiên cứu sự phát triển của

chi Homo, nhưng đôi khi nó cũng có liên quan đến những sinh vật khác thuộc

họ hominidae hay phân họ homininae. "Con người hiện đại được giới khoa học cho vào

phân loài Homo sapiens sapiens, và là một mở rộng của loài Homo sapiens. Ngoài ra,

trong loài Homo sapiens còn có một phân loài khác ngày nay đã tuyệt chủng mang

tên Homo sapiens idaltu (nghĩa là "người thông minh già").

Loài mang quan hệ gần nhất đối với Homo sapiens là loài tinh tinh và loài tinh tinh

lùn. So sánh các sơ đồ gene cho kết quả là "sau 6.5 triệu năm tiến hóa theo những con

đường khác nhau, sự khác nhau giữa tinh tinh và con người gấp 10 lần sự khác nhau

giữa hai người không có quan hệ gì với nhau nhưng vẫn nhỏ hơn 10 lần so với một con

chuột bạch và một con chuột thường". Tuy nhiên trên thực tế, số gene con người giống tinh tinh đến 96%.[14] Người ta cho rằng con đường tiến hóa giữa con người đã đi theo

một hướng khác với tinh tinh vào khoảng 5 triệu năm trong khi đối với gorilla là 8 triệu

năm. Tuy nhiên, một hộp sọ của loài linh trưởng Sahelanthropus tchadensis được cho

là khoảng 7 triệu năm tuổi, có thể nó của một tổ tiên xa hơn của chúng ta.

Có hai lý thuyết khoa học về sự hình thành nguồn gốc con người hiện đại. Tất cả

đều có liên quan đến quan hệ giữa con người và những loài linh trưởng khác.

7

Thuyết một nguồn gốc cho rằng tất cả loài người hiện đại đều tiến hóa ở Châu Phi và

về sau, con người sinh sản nhanh lấn chiếm các loài linh trưởng khác trên tất cả mọi

nơi trên thế giới. Thuyết nhiều nguồn gốc cho răng sự tiến hóa của loài người diễn ra

riêng lẻ ở những bầy linh trưởng khác nhau.

Những nhà di truyền học Lynn Jorde và Henry Harpending của trường đại học Utah

đã cho rằng sự khác biệt ADN của hai người vẫn còn rất nhỏ so với ở loài khác, và

trong suốt kỉ Pleistocene, số lượng con người bị giảm xuống rất nhiều, chỉ còn khoảng

10.000 cặp dẫn đến một số lượng rất nhỏ gene được di truyền. Một số nguyên nhân

khác cho vấn đề này cũng đã được nêu ra, trong đó nổi bật nhất là thuyết thảm họa

Toba.

Sự tiến hóa của con người được đánh dầu bằng những dấu hiệu sinh học khác nhau,

bao gồm sự phát triển của hộp sọ và cả bộ não lên đến mức 1.400 cm³ về thể tích, cao

hơn gấp đôi tinh tinh hay gorilla. Những phần của bộ não con người cũng phát triển

khác so với các loài linh trưởng khác cho phép xuất hiện thêm phần ngôn ngữ. Những

nhà khoa học đang tranh luận về sự quan trọng của cấu trúc bộ não trên cả kích thước

bộ não. Một trong những tiến hóa lớn là số răng nanh giảm, hình thành những di

chuyển bằng hai chân, sự hình thành của dây thanh và hộp âm giúp phát triển tiếng nói.

Ngành nhân loại học vẫn còn nhiều tranh cãi về những tiến hóa và vai trò của chúng

thực sự trên một con người hiện đại.

 Dân cư và dân số

Sơ đồ về sự định cư của con người cổ dựa vào các bằng chứng vềmtADN. Sơ

8

đồ vẽ với Bắc Cực ở trung tâm và các lục địa được trải ra theo hình phẳng.

Những nhà nhân chủng học hiện đại đang chấp nhận rộng rãi rằng loài Homo

sapiens được hình thành ở những đồng cỏ Châu Phi khoảng 200.000 đến 250.000 năm

về trước, là hậu duệ của loài Homo erectus, tiếp tục mở rộng lãnh địa cư trú và rồi

thống trị lục địa Á-Âu và khu vực Thái Bình Dươngvào khoảng 40.000 năm về trước, cuối cùng là châu Mỹ vào 10.000 năm trước.[18]Chúng thay thế loài Homo

neanderthalensis và loài Homo floresinesis vốn cũng là những hậu duệ khác của

loài Homo erectus(chúng đã phát triển khắp lục địa Á-Âu vào hơn 2 triệu năm trước)

do có sức sinh sản tốt hơn và tìm kiếm thức ăn tốt hơn.

Những người thượng cổ thường kiếm sống bằng cách săn bắn-hái lượm, một lối

sống rất phù hợp với những vùng đồng cỏ Châu Phi. Một số nhóm người về sau bắt

đầu sống lối sống du mục và thường hay bắt thú vật để nuôi lấy thịt, về sau nữa, khi lối

sống định cư phát triển thì nền nông nghiệp cũng ra đời. Những khu vực định cư chính

của con người phụ thuộc rất nhiều vào nguồn nước, vào lối sống, vào tài nguyên thiên

nhiên (như đất đai có phù hợp để gieo trồng hay không, có nhiều cỏ để chăn nuôi hay

không, có nhiều thú để săn bắn hay không). Tuy nhiên, con người lại có khả năng thay

đổi nơi cư trú của họ bằng các phương tiện vận chuyển khác nhau. Do đó, sự thay đổi

môi trường là nhân tố chủ yếu khiến con người thay đổi nơi cư sinh sống.

Khoa học kĩ thuật đã cho phép con người thống trị tất cả những lục địa và sinh tồn ở

bất cứ thời tiết. Trong những thập niên gần đây, con người đã thám hiểm Nam Cực,

dưới biển sâu và ngay cả không gian vũ trụ, mặc dù cư trú lâu dài ở những vùng như

thế là chưa hoàn toàn có thể. Với dân số khoảng 6 tỉ người, con người là loài đông nhất

trong số những loài động vật có vú. Phần lớn người (61%) sống ở Châu Á, phần còn lại

chia đều cho châu Mỹ (14%), châu Phi (13%) và châu Âu (12%). Châu Đại Dương

chiếm 0.5% (xem thêm danh sách các quốc gia theo dân số và danh sách các quốc gia

theo mật độ dân số).

Sự tồn tại của con người ở những vùng vốn có điều kiện khắc nghiệt đối với cuộc

sống như Nam Cực hay ngoài không gian rất hạn chế về mặt thời gian và chỉ tồn tại ở

9

những lĩnh vực thám hiểm, nghiên cứu khoa học, quân sự và công nghiệp. Nhất là sự

sống trên không gian vũ trụ, trong quá khứ và hiện tại, chưa có quá 13 người từng sống

trên không gian cùng lúc. Giữa năm 1969 và 1972, chỉ có 2 người bước đi cùng lúc

trên mặt trăng. Đến năm 2006, chưa có một thiên thể tự nhiên nào khác có bước chân

của con người ngoại trừ mặt trăng mặc dù luôn có con người hiện diện trên trạm không

gian quốc tế từ ngày 31 tháng 10 năm 2000. Từ năm 1800 đến 2000, dân số con người

đã tăng lên 6 lần: từ 1 tỉ lên 5 tỉ. Vào năm 2004, khoảng 2.5 tỉ trên 6.3 tỉ người (39.7%)

sống trong những vùng nông thôn, và con số này sẽ tăng mạnh trong thế kỉ 21. Vấn đề

mà những người trong những đô thị lớn đang gặp phải là ô nhiễm, tội ác và nghèo đói,

nhất là ở trung tâm và những khu vực vùng ven.

 Thức ăn và nước uống

Chợ thức ăn

Sự cần thiết phải nạp vào cơ thể thường xuyên một lượng thức ăn và nước uống thể

hiện một phần văn hóa loài người, và dẫn đến một ngành khoa học thức ăn. Khi không

tìm kiếm đủ thức ăn sẽ dẫn đến tình trạng đói và không tìm kiếm đủ nước uống sẽ dẫn

đến tình trạng khát. Cả đói và khát đều có thể dẫn đến cái chết nếu không được giải

quyết kịp thời. Bình thường, một người có thể sống được từ 2 đến 8 tuần không cần

thức ăn, chỉ dựa vào lượng mỡ dự trữ trong cơ thể, nhưng chỉ tối đa 3 đến 4 ngày

không có nước. Trong xã hội hiện đại, hiện tượng béo phì đang tăng nhanh trong dân

số đến mức có thể gọi đó là một dịch bệnh, gây những vấn đề lớn đến sức khỏe của con

người và gây giảm tuổi thọ ở những nước phát triển và ngay cả ở những nước đang

10

phát triển. Trung tâm điều khiển dịch bệnh quốc gia Hoa kì cho thấy 32% người lớn

trên 20 tuổi là béo phì, trong số 66.5% người thừa cân. Béo phì được tin là do một số

nguyên nhân khác nhau gây ra mà một trong số đó là ăn quá nhiều.

Người là một loài ăn tạp, nghĩa là một loài có thể ăn cả động vật và cả thực vật.

Loài người cổ Homo sapiens là những thợ săn- người hái lượm và đó là cách chính để

tìm kiếm thức ăn, kết hợp giữa việc hái những loài thực vật mọc quanh, nấm, trái cây

và lao vào cuộc chơi đi săn hay bị săn. Một số người hiện đại chọn con đường ăn

chay vì những lý do khác nhau. Họ từ chối ăn thịt vì những lí do tôn giáo, đạo đức, và

sức khỏe. Người ta tin rằng loài người đã biết dùng lửa để chuẩn bị thức ăn và bắt đầu

ăn thức ăn chín từ khi họ hoàn toàn tách ra khỏi loài Homo erectushay có thể sớm hơn.

Khoảng 10.000 năm trước, con người bắt đầu phát triển nông nghiệp, bắt đầu thay

đổi gần như hoàn toàn những gì con người đã ăn trước đây. Điều này dẫn đến việc gia

tăng dân số, sự hình thành những thành phố lớn và cùng với sự gia tăng mật độ dân số

cũng là sự gia tăng các bệnh truyền nhiễm. Các loại thức ăn được chế biến và dùng như

thế nào cũng rất khác nhau tùy theo thời gian, vị trí và nền văn hóa. Thế kỉ 18 đến 20

đã tạo ra những phát minh rất lớn về chế biến, bảo quản, lưu trữ và vận chuyển thức ăn.

Ngày nay, hầu hết bất cứ nơi nào trên thế giới người ta không chỉ có thể thưởng thức

những món ăn truyền thống của nước họ mà còn từ nhiều nước khác nhau.

 Bộ não, tri thức và sự nhận thức

Bộ não của con người là trung tâm của những phản

xạ của con người, điều khiển hầu hết những hoạt động

của con người. Bộ não điều khiển những phản xạ không

điều kiện như điều khiển nhịp tim, tiêu hóa thức ăn,...

và cả những phản xạ có điều kiện có ý thức như suy nghĩ, suy luận, lý luận, trừu tượng.

Bộ não con người được cho là trung tâm của những hành động có ý thức bậc cao và

"thông minh" hơn những loài khác. Trong khi ở những loài động vật khác thì việc sử

dụng công cụ gần như là một bản năng, hay cũng chỉ là một sự bắt chước thì kĩ thuật ở

11

con người thì hoàn toàn phức tạp hơn, luôn bao gồm những cải tiến. Ngay cả những

công cụ trong xã hội cổ của loài người cũng vô cùng hiện đại hơn bất cứ những công

cụ do các loài động vật khác sử dụng.

Khả năng suy luận trừu tượng của con người có thể là duy nhất trong giới động vật.

Con người là một trong số 6 loài vượt qua bài kiểm tra gương (nhận ra bản thân ở trong

gương); trong khi 5 loài còn lại là tinh tinh, tinh tinh lùn, khỉ không đuôi, cá heo và bồ

câu. Tuy nhiên, những người dưới 2 tuổi hầu hết đều không vượt qua bài kiểm tra

gương như trên. Tuy nhiên, cũng có một số ý kiến cho rằng đây là cách phân loại riêng

của loài người nhằm thể hiện rằng con người có ý thức về bản thân, trên thực tế nó

kiểm tra trí nhớ cộng thị giác mà thôi. Các loài khác nhau đều có cách này hoặc cách

khác để giao tiếp với nhau, và có thể có ý thức ở mức độ nào đó mà loài người vẫn

chưa hiểu hết được. Cuộc tranh luận về ý thức của loài người là duy nhất hay không

đến nay vẫn còn chưa xác định bằng chứng rõ rệt. Một số nhà sinh học cho rằng loài

người chỉ là một trong số hàng triệu phiên bản nhánh tiến hóa trong chủng loài trên trái

đất và vẫn có thể có khiếm khuyết buộc phải tiến hóa thích nghi, hoặc bị tuyệt chủng

như bất kỳ loài vật nào trên thế giới. Rằng lịch sử con người trải qua chỉ chừng 5 -10

triệu năm trong khi có những chủng loài khác đã tồn tại qua những đoạn thăng trầm

nhất của lịch sử trái đất như loài gián, loài cá mập, ... từ rất lâu trước khi con người tồn

tại. Vì vậy còn quá sớm để nghĩ rằng ý thức của loài người là tiến bộ nhất, nói như tiến

hóa "tồn tại, thích nghi được mới là kẻ mạnh, phát triển vượt bậc, nhưng không thích

nghi thay đổi sẽ bị tự tiêu diệt".

Bộ não con người cảm nhận thế giới qua các giác quan, và mỗi người bị ảnh hưởng

rất nhiều bởi những kinh nghiệm của họ, dẫn đến nhận thức sự hiện hữu của bản thân

và thời gian. Một số nhà khoa học thậm chí còn cho rằng con người không hề có ý

nghĩ, mà nó chỉ là kết quả của một số quá trình cảm nhận từ bên trong hay từ bên

ngoài, giống như những phần mềm đang chạy song song trên máy tính. Con người đã

nghiên cứu rất nhiều về ảnh hưởng của trí tuệ và bộ não, bằng chứng là sự ra đời những

môn học như thần kinh học để nghiên cứu những vấn đề về hệ thần kinh, tâm lý học để

12

nghiên cứu những khía cạnh biểu hiện về hình thức bên ngoài, và đôi khi có thể kể

thêm môn thần kinh học, một môn học tìm cách chữa những chứng bệnh có liên quan

đến những hành vi cư xử bất thường. Môn tâm lý học không quan tâm chú trọng nhiều

đến cấu trúc bộ não mà chỉ chú ý nhiều đến quá trình xử lý thông tin của bộ não. Trong

thời đại ngày nay, nhờ vào những cuộc tìm kiếm không ngừng nghỉ về cấu trúc bộ não

con người đã giúp cho con người phát triển những ngành khoa học đầy triển vọng khác

như trí thông minh nhân tạo,...

Quá trình suy nghĩ của con người là trung tâm của ngành tâm lý học và những

ngành khác có liên quan. Ngành tâm lý học nhận thức nghiên cứu về sự nhận thức của

con người, quá trình mà con người suy nghĩ để dẫn đến một hành vi nào đó. Những

khía cạnh khác như cảm giác, khả năng học hỏi, giải quyết vấn đề, trí nhớ, sự tập trung,

ngôn ngữ và cả cảm xúc cũng được nghiên cứu rất kĩ càng. Những tiến bộ trong ngành

tâm lí học nhận thức được áp dụng rất rộng rãi trong những lĩnh vực khác nhau trong

cuộc sống. Với mục tiêu chính là nghiên cứu sự hình thành tâm lý của con người trong

cả cuộc đời, ngành tâm lý học phát triển tìm hiểu cách mà con người hiểu được và phản

ứng lại với thế giới xung quanh và sự thay đổi khả năng đó theo thời gian. Ngành này

cũng tập trung nhiều đến vấn đề trí thông minh, tính xã hội, sự đạo đức, nhân đạo của

một người. Ngành tâm lý học xã hội tìm cách liên kết xã hội học với tâm lý học bằng

cách cùng nhau chia sẻ những sự tương đồng và nguồn gốc của những hành vi của con

người trong xã hội và cũng nhấn mạnh về vấn đề giao tiếp của con người. Ngoài ra còn

có môn tâm lý học tiến hóa để nghiên cứu về hành vi của tất cả con người và loài vật

II. Chế độ dinh dưỡng của con người.

Dinh dưỡng là sự cung cấp các dưỡng chất cho cơ thể thông qua các thực phẩm ăn

uống. Theo dinh dưỡng học, để có đầy đủ chất dinh dưỡng thì cơ thể phải được cung

cấp đầy đủ cácvitamin cần thiết. Nếu không đủ các vitamin cần thiết thì cơ thể sẽ bị

13

suy yếu, gọi là suy dinh dưỡng.

 Chế độ dinh dưỡng phù hợp: Chế độ ăn uống, nghỉ ngơi,vui chơi và học

tập…ở mỗi người sẽ khác nhau tuỳ thuộc vào từng lứa tuổi, giới tính, nhóm

máu, thể trạng cơ thể….

 Chế độ dinh dưỡng cho người bình thường trong ngày:

Theo TS-BS Lưu Ngân Tâm - Trưởng khoa Dinh dưỡng và Tiết chế (BV Chợ Rẫy),

nền tảng của tháp dinh dưỡng hiện đại là luyện tập thể dục và uống tám ly nước đun sôi

để nguội (200 - 250ml/ly) mỗi ngày. Bên cạnh đó, một thực đơn giúp cơ thể khỏe mạnh

cần phải cân đối và điều độ, thay đổi thường xuyên và đa dạng thực phẩm.

 20 loại thực phẩm mỗi ngày

TS Tâm cho biết: “Hàng ngày chúng ta cần ăn trên 20 loại thực phẩm, bao gồm cả

các loại gia vị (muối, tỏi…), càng nhiều màu sắc càng đa dạng. Rau đủ loại bao giờ

cũng tốt hơn một thứ. Trên đĩa rau luộc màu xanh, nếu bạn có thêm một ít cà rốt, tức là

bạn đã bổ sung thêm các vitamin A, E. Các loại rau xanh đậm, đỏ sậm chứa rất nhiều

vitamin tan trong chất béo. Những người

bình thường, không bệnh lý, cần phải ăn đủ

muối, không nên ăn quá nhạt (3-6g/ngày).

Ăn nhạt là chế độ ăn chủ yếu dành cho

người bị cao huyết áp (chiếm khoảng 1/3

trong cộng đồng). Việt Nam nằm trong

vùng nhiệt đới, nóng, nên lượng muối mất

Trong bữa ăn hằng ngày cần đa dạng các loại thực phẩm

qua mồ hôi rất nhiều”.

Tinh bột cũng không được bỏ qua, đặc biệt nên chọn những loại thực phẩm làm

tăng đường máu ít hoặc chậm sau ăn. Gạo, bánh mì, khoai củ, mì… chiếm 2/3 khẩu

phần bột đường/ngày, trong đó bánh mì làm tăng đường huyết nhiều, nui gạo làm tăng

vừa phải. Có thể tính như sau: một chén lưng cơm = 1/2 chén xôi trắng = một chén

bún/bánh canh/phở/bánh cuốn = một chén lưng mì/nui đã nấu chín = một củ khoai lang

14

luộc trung bình (năm - sáu củ/kg) = 1/2 củ khoai mì luộc (hai củ/kg) = một ổ bánh mì

con cóc nhỏ = hai củ khoai tây trung bình (10 củ/kg) = một cái bánh chưng nhỏ. Đối

với phụ nữ thể trạng bình thường, mỗi bữa có thể ăn hai chén lưng cơm.

Thực phẩm nhiều canxi giúp phòng chống bệnh loãng xương cũng có thể tìm thấy

trong các loại cá nhuyễn xương (tép, cá bống trứng, cá cơm), tôm, cua, cua đồng, đậu

hủ, hoặc trong một số trái cây (ăn nguyên trái, gọt ra ăn liền) như cam. Những người ăn

đủ lượng rau, củ, đạm, trái cây, các loại đậu… sẽ thu nạp đủ các khoáng chất như kali,

kẽm, magie… hạn chế bị chuột rút.

Việc bổ sung chất béo là rất cần thiết, vì chất béo cũng tham gia vào quá trình xây

dựng tế bào, điều hòa nội tiết và là chất trung gian trong quá trình điều hòa huyết áp,

đông máu; vận chuyển các vitamin tan trong dầu như vitamin A, D, E, K. Như vậy,

chúng ta có thể dùng dưới 30% chất béo trên tổng năng lượng hàng ngày. Cụ thể: thịt

mỡ, da heo có thể dùng một - hai lần/tuần.

Đạm thực vật và đạm động vật dĩ nhiên là thực đơn không thể thiếu. Đạm cá (cá

đối, các trích, cá hồi, cá ngừ, cá thu...), đạm đậu nành sẽ tốt cho việc phòng bệnh tim

mạch và điều chỉnh rối loạn chuyển hóa mỡ. Tuy nhiên, nếu chỉ chăm chăm sử dụng

đạm thực vật, có thể thiếu máu vì thiếu sắt. Còn nếu dùng quá nhiều đạm động vật, đặc

biệt thịt đỏ và hải sản, nguy cơ tăng axit uric - một trong những biểu hiện của bệnh gút

là điều không thể tránh khỏi.

 300 - 400g rau và 250g trái cây/ngày

Mỗi ngày, chúng ta cần khoảng 300 - 400g rau củ, kết hợp ít nhất bốn - năm loại rau

khác nhau trong ngày: một bó rau muống trung bình, bốn bó rau ngót, hai - ba bó rau

mồng tơi, dền, cải, bốn trái cà tím, cà rốt, cà chua, củ cải trắng trung bình, hai trái

mướp, hai trái dưa leo trung bình, 40 trái đậu bắp, 20 trái đậu rồng… Trong khi đó, trái

cây cũng không nên nhiều hơn 300g/ngày. 100g trái cây tương đương với một miếng

đu đủ nhỏ, một miếng dưa hấu nhỏ, một trái chuối nhỏ, hai trái chuối sứ, một quả cam

15

trung bình, 1/4 trái thanh long, 1/4 trái dứa nhỏ…

Nhưng ăn nhiều rau quá cũng gây rối loạn tiêu hóa, nhất là ở những người lớn tuổi.

Các loại rau có nhiều chất xơ không tan, thức ăn tống xuống ruột già chậm, dễ làm

chướng bụng, khó tiêu, có thể gây táo bón nếu không uống đủ nước. Nhóm rau củ

nhớt, xơ tan nhiều, có thể gây tiêu chảy. Trái cây bổ sung nhiều vitamin và chất

khoáng, nhưng nếu ăn không kiểm soát cũng có thể gây ra béo phì, vì trái cây cung cấp

năng lượng, kể cả trái cây lạt hoặc trái cây ngọt. Do đó, có thể dẫn đến rối loạn chuyển

hóa mỡ, tăng glyceride máu dẫn đến gan nhiễm mỡ; hoặc rối loạn chuyển hóa đường ở

Hàng ngày nên bổ sung từ 300g - 400g rau và 250g trái cây các loại

một số bệnh lý như đái tháo đường.

Các chuyên gia dinh dưỡng khuyến cáo: nếu chế độ ăn bình thường, chức năng tiêu

hóa tốt, chúng ta không nên bổ sung các loại men vi sinh. Có chăng, chỉ nên bổ sung

thêm nhóm vitamin tan trong nước (B và C…) bằng một viên đa sinh tố đối với những

người vừa ốm dậy, người lớn tuổi, trẻ đang trong giai đoạn tăng trưởng.

Việc ăn sáng với một chén ngũ cốc không béo, ít đường pha với sữa, sẽ bổ sung rất

nhiều vi chất và chất xơ, rất tốt cho sức khỏe. Bên cạnh đó, các loại hạt, đậu cũng chứa

rất nhiều khoáng chất, chống oxy hóa.

 Thế nào là bữa ăn cân đối? Bữa ăn cân đối có khẩu phần năng lượng từ tinh

bột chiếm từ 65-70%; chất đạm là 12-14% và chất béo là 18-20%. Ngoài ra, nên

16

ăn thêm đậu phụ, vừng, lạc, rau và hoa quả tráng miệng.

 Nên phối hợp các loại đạm trong bữa ăn

Thức ăn cung cấp chất đạm gồm 2 loại là thức ăn cung cấp đạm nguồn gốc động vật

và nguồn gốc thực vật. Ðạm động vật ưu điểm là có đủ 8 acid amin cần thiết ở tỷ lệ cân

đối, còn đạm thực vật thường thiếu một hoặc nhiều acid amin cần thiết ở tỷ lệ không

cân đối. Vì vậy, nên dùng đạm động vật để hỗ trợ cho đạm thực vật hoặc phối hợp

những đạm thực vật với nhau.

Hàm lượng chất đạm trong các loại thịt như thịt lợn, gà, vịt, bò, chim đều xấp xỉ

như nhau nhưng còn tuỳ theo thịt nạc hay mỡ mà hàm lượng chất đạm cao hay thấp.

Về chất lượng, chất đạm của thịt đều có đầy đủ các acid amin cần thiết và ở tỷ lệ cân

đối, có tác dụng hỗ trợ tốt cho ngũ cốc.

(Nguồn: Viện Dinh dưỡng Quốc Gia)

 Chế độ dinh dưỡng theo chế giới tính:

Một chế độ ăn uống hợp lý có thể góp phần cải thiện chất lượng tinh trùng, qua đó

giúp nam giới tăng khả năng làm bố.

Vitamin: Thiếu hụt vitamin A được cho có liên quan với tình trạng chậm chạp của

tinh trùng và làm giảm khả năng sinh sản. Nên ăn nhiều ớt đỏ, yến mạch, cà rốt, quả

mơ khô, khoai lang, cải bó xôi và bông cải xanh để giúp tăng hàm lượng vitamin A

trong cơ thể. Vitamin C, có nhiều trong dâu tây, măng tây, trái cây và rau củ màu vàng,

Bông cải xanh. Ảnh: Selfmagazine

17

có tác dụng tích cực đối với khả năng tồn tại và di chuyển của tinh trùng.

Vitamin C, E và B12 là những chất chống ô xy hóa, có tác dụng chống các phân tử

gốc tự do gây hại, đồng thời có thể giúp kích thích sản xuất tinh trùng và tăng khả năng

dịch chuyển của tinh trùng. Nếu bạn cảm thấy không nhận đủ lượng vitamin hỗ trợ cho

tinh trùng từ chế độ ăn uống thì nên dùng các viên bổ sung vitamin tổng hợp, theo

trang tin health24.com dẫn nguồn từ các chuyên gia.

Khoáng chất: Thiếu kẽm có thể gây giảm số lượng tinh trùng. Nguồn thực phẩm

giúp cung cấp khoáng chất này là trứng, hàu, hải sản, hạt bí đỏ, thịt bò, yến mạch, thịt

cừu, sữa chua, các loại hạt và lúa mạch. Selen cũng được cho có lợi cho khả năng di

chuyển và sức khỏe của tinh trùng. Bạn có thể bổ sung đủ selen bằng cách ăn thịt đỏ,

phô mai, thịt gia cầm và trứng.

Axít béo: Nhiều nghiên cứu chỉ ra rằng tinh trùng của cánh mày râu “mắn đẻ”

thường có hàm lượng chất béo không bão hòa, đặc biệt là các loại a xít béo omega 3 và

omega 6, cao hơn hẳn so với giới mày râu có khả năng sinh sản kém. Các loại chất béo

không bão hòa này có nhiều trong quả óc chó và các loại cá như cá cơm, cá mòi và cá

hồi.

Axít folic: Ở một số nam giới bổ sung đủ axít folic cùng chất kẽm từ chế độ dinh

dưỡng hằng ngày, số lượng tinh trùng tăng khoảng 70%. Và nghiên cứu cũng cho thấy

vài nam giới có hàm lượng a xít folic thấp dễ có nhiều tế bào tinh trùng bị khiếm

khuyết (bất thường) về nhiễm sắc thể hơn. Để không rơi vào những trường hợp này,

phái mạnh cố gắng ăn nhiều rau xanh rậm lá, ngũ cốc nguyên hạt, quả bơ, các loại đậu

và trái cây.

Lycopene, carotene: Có trong cà chua, nước xốt cà chua, cà rốt, dưa hấu và quả đu

đủ đã được chứng minh có tác dụng tăng số lượng tinh trùng.

Nước: Uống đủ nước trong ngày có thể chống lại tình trạng mất nước, vốn là một trong

những yếu tố chính liên quan tới lượng tinh dịch thấp.

Rửa sạch rau quả tươi trước khi ăn: Rau quả có thuốc trừ sâu sẽ tác động tiêu cực đến

18

sức khỏe của tinh trùng và khả năng sinh sản.

Hạn chế thực phẩm đóng hộp: Bisphenol-A (BPA), một loại hóa chất phá vỡ

hormone có trong một số đồ nhựa, có thể làm giảm sức khỏe tinh trùng và nhiều nhà

nghiên cứu tin rằng, chúng ta phơi nhiễm chất này nhiều nhất là từ các thực phẩm đựng

trong bao bì, đồ hộp. Mặt trong của một số lon, hộp đựng thực phẩm và đồ uống có

quét một lớp nhựa chứa BPA. Nên chọn ăn thực phẩm tươi và thực phẩm được chứa

trong đồ thủy tinh hơn là đồ nhựa.

Ngoài chế độ dinh dưỡng hợp lý, theo các chuyên gia, nam giới cần tránh uống quá

nhiều rượu bia, hạn chế hút thuốc lá, tránh mặc quần quá chật, vốn có thể ảnh hưởng

đến khả năng sinh sản

 Chế độ dinh dưỡng hoàn hảo cho phụ nữ

PNO-Chị em nên tuân thủ một chế độ

ăn đa dạng bao gồm các loại ngũ cốc

nguyên chất, trái cây, rau xanh tươi, chất

béo có lợi và các nguồn protein từ thịt

nạc. Vì theo các chuyên gia, những loại

thực phẩm này không chỉ cung cấp đủ

năng lượng cho cơ thể mà đồng thời còn

là chất liệu chìa khóa mang lại nhiều lợi

ích cho sức khỏe chị em mọi lứa tuổi.

Chọn thực phẩm nguồn gốc thực vật: Hãy làm đầy bao tử của bạn với những loại

trái cây và các loại rau lá xanh để tăng cường chất chống oxy hóa, giúp cơ thể chống

bệnh tật. Bên cạnh đó, chị em cũng cần tiêu thụ nhiều loại ngũ cốc nguyên hạt, các loại

đậu nhằm tăng cường chất xơ, giúp các cơ quan trong cơ thể hoạt động hiệu quả hơn.

Bổ sung canxi:

Phụ nữ thường đối diện với nguy cơ loãng xương cao hơn so với nam giới. Vì thế,

chị em cần cung cấp đủ lượng canxi vào cơ thể trong chế độ ăn hằng ngày để gia cố độ

chắc khỏe của xương. Trong khi các sản phẩm làm từ bơ, sữa được đánh giá là các

19

nguồn phong phú canxi, thì ngược lại, các loại chất béo và protein động vật lại làm gia

tăng quá trình loại thải canxi khỏi cơ thể. Ngoài bơ, sữa, các nguồn dồi dào canxi khác

có từ thực vật như các loại đậu, bông cải xanh và cải bẹ xanh.

Hạn chế protein:

Bạn nên biết, protein là phần thiết yếu trong chế độ ăn lành mạnh. Tuy nhiên, khi

nạp quá nhiều protein sẽ đặc biệt nguy hiểm đối với chị em phụ nữ. Bởi thành phần tạo

calo này vào cơ thể có thể làm gia tăng tiến trình mất canxi. Lâu dần, điều này có thể

dẫn đến tình trạng giảm mật độ xương và hình thành bệnh loãng xương.

Đủ sắt:

Nhiều phụ nữ không nhận đủ lượng

sắt từ chế độ ăn hằng ngày. Chị em cần

lưu ý là trong lúc hành kinh, cơ thể sẽ

mất đi nhiều loại khoáng chất quan

trọng như sắt. Vì thế, việc tăng cường

tiêu thụ các loại thực phẩm giàu chất sắt

như thịt đỏ, thịt gia cầm, đậu hạt, rau bó

xôi, quả hạch và các loại ngũ cốc sẽ

mang lại nhiều lợi ích cho sức khỏe.

Hạn chế rượu và cà phê: Các cuộc nghiên cứu chỉ ra rằng, những phụ nữ uống

nhiều hơn hai ly rượu/ngày có thể gia tăng nguy cơ bị loãng xương. Bên cạnh đó, khi

việc tiêu thụ nhiều cafein sẽ ngăn cản mức sản xuất hormone trong cơ thể, cũng như

làm mất canxi. Hãy cố gắng hạn chế việc tiêu thụ rượu, chỉ ở mức một ly rượu/ngày và

với cà phê là một tách/ngày.

 chế độ dinh dưỡng theo lứa tuổi:

Ở mỗi độ tuổi, chế độ ăn uống thích hợp là sự cung cấp đầy đủ dinh dưỡng, và phù

hợp với tình trạng phát triển.

Trẻ mới sinh:

Trong khoảng thời gian từ 0 đến 6 tháng tuổi , các bé chỉ cần sữa mẹ hoặc sữa thay

thế để nhận được tất cả dinh dưỡng mà cơ thể cần. Nếu bú mẹ, một trẻ sơ sinh cần

20

được cho bú từ 8 đến 12 lần mỗi ngày hoặc tùy theo nhu cầu của bé. Khoảng 4 tháng,

số lần bú có thể giãm xuống còn 4 -6 lần mỗi ngày, tuy nhiên lượng sữa mẹ trong mỗi

lần bú sẽ tăng lên.

Những bé được nuôi bằng sữa thay thế nên được cho bú khoảng 6 -8 lần mỗi ngày,

trẻ sơ sinh bắt đầu với 57 – 85 gram sữa bột cho mỗi lần ( tổng cộng khoảng 450 – 680

g mỗi ngày) Tương tự với trường hợp trẻ bú sữa mẹ, số lần cho bú sẽ giãm khi bé lớn

hơn một tí, nhưng lượng sữa thay thế sẽ tăng khoảng từ 170-227 gram/ lần.

Không nên vệ sinh miệng cho trẻ bằng mật ong cho bé, vì mật ong chứa những bào

tử có thể làm bé bị ngộ độc. Hệ miễn dịch của trẻ sơ sinh chưa phát triển đầy đủ để

chống lại. Mặc dù bé có thể ngủ suốt đêm, nhưng cha mẹ vẫn có thể đánh thức bé để

cho bú nếu nhận thấy trong ngày bé ăn chưa đủ hoặc nếu bé thiếu cân. Nên thường

xuyên kiểm tra cân nặng kết hợp với bác sĩ hay các chuyên gia dinh dưỡng để giám sát

quá trình phát triển của con bạn, chắc chắn rằng trẻ có được những bữa ăn đầy đủ chất

dinh dưỡng mỗi ngày. Bác sĩ hoặc chuyên gia dinh dưỡng sẽ cho bạn biết khi nào cần

phải cho bé ăn thêm các buổi ban đêm

Từ 4-6 tháng tuổi:

Ở tháng tuổi này, trẻ cũng bắt đầu tập ăn dặm thêm những thức ăn lõng. Không nên

cho trẻ ăn những loại thức ăn đặc, nó có thể khiến cho bé bị nghẹt thở do cơ thể chưa

thích nghi được.

Có nhiều giai đoạn phát triển cho thấy bé đã sẵn sàng để ăn thức ăn đặc:

 Cân nặng gấp đôi lúc mới sinh

 Bé có thể kiểm soát tốt đầu và cổ

 Bé có thể ngồi với sự giúp đỡ.

 Bé có thể thể hiện việc không đồng ý đầy đủ bằng cách xoay đầu đi nơi

khác hoặc không mở miệng

 Bé bắt đầu tỏ ra quan tâm (hứng thú) với thức ăn trong khi những người

khác đang ăn.

Bắt đầu chuẩn bị thức ăn đặc cho trẻ với bột gạo ngũ cốc tăng cường thêm chất

sắt trộn với sữa mẹ hoặc thay thế để làm loãng độ đặc. Bột ngũ cốc có thể được

21

pha đặc hơn một tí đễ bé học cách kiễm soát thức ăn trong miệng.

 Lúc ban đầu, cho ăn bột ngũ cốc 2 lần/ ngày, mỗi lần 1 hoặc 2 muỗng canh

bột khô trộn với sữa bột hoặc sữa mẹ

 Dần dần tăng lên 3 hoặc 4 muỗng canh bột ngũ cốc.

 Không nên cho ăn bột ngũ cốc trong chai trừ khi có yêu cầu của bác sĩ hoặc

chuyên gia dinh dưỡng

Trong thời gian bé ăn dặm với bột gạo ngũ cốc hằng ngày , bạn nên đưa thay đổi

một loại bột ngũ cốc có bổ sung sắt mới mỗi tuần, nó giúp bạn có thể theo dõi và chọn

lọc loại thực phẩm cho bé nhằm tránh trường hợp không dung nạp hoặc dị ứng. Không

bao giờ để bé trên giường với miệng vẫn còn đang ngậm bình sữa vì có thể dẫn

đến sâu răng.

Từ 6-8 tháng tuổi:

Tiếp tục cho bé bú mẹ hoặc sữa thay thế từ 3 -5 lần một ngày, Viện dinh dưỡng Trẻ

Em Hoa kỳ khuyến cáo không nên dùng sữa bò cho trẻ em dưới 1 tuổi. Bé sẽ bắt đầu

bú ít sữa mẹ hoặc sữa thay thế khi mà thức ăn đặc trở thành nguồn dinh dưỡng chính.

Sau khi bé đã thử nhiều loại bột ngũ cốc khác nhau. Bạn bắt đầu kiểm tra sự dung

nạp của cơ thể bé đối với các loại loại củ, quả được hầm nhừ, các loại rau

 Dành cho hoa quả, củ hầm : thử 1loại/ lần và chờ 2 -3 ngày để kiễm tra có

xuất hiện dị ứng nào không

 Bắt đầu với rau củ thông thường như đậu xanh , khoai tây , cà rốt, khoai

lang, bí , đậu hạt , củ cải đường, và trái cây thường như chuối, quả mơ, táo,

đào , dưa.

Bạn nên nhớ cân nhắc lượng trái cây, hoa quả khi cho trẻ ăn, nó phụ thuộc vào trọng

lượng của bé và việc cơ thể bé đáp ứng tốt như thế nào khi dùng trái cây và rau. Độ đặc

của thức ăn có thể được tăng lên dần dần tùy theo mức độ cho phép của cơ thể em bé.

Đối với những loại thức ăn mà trẻ có thể tự cầm và ăn, chỉ nên đưa cho bé một ít,

tuyệt đối tránh những thức ăn như táo cắt khoanh, cắt lát mõng, xúc xích, các loại hạt,

kẹo tròn, rau cải chưa nấu….. nó rất nguy hiểm, có thể khiến trẻ bị ngạt thở.

Bạn có thể để đưa cho trẻ tự cầm và ăn những loại thực phẩm như : rau cải nấu

22

mềm, trái cây rửa sạch gọt vỏ, bánh qui, bánh mì nướng. Các loại thức ăn có vị mặn

hoặc có đường nằm ngoài danh mục được khuyến cáo , trong thời gian trẻ bắt đầu mọc

răng.

Từ 8-12 tháng tuổi:

Nên tiếp tục cho trẻ bú sữa mẹ hoặc sữa thay thế 3-4 lần/ ngày trong độ tuổi này

Ở độ tuổi 8 – 12 tháng, khẩu phần ăn của bé sẽ được chuẩn bị thêm các loại thịt hầm,

thịt băm/tháii nhỏ. Dành cho trẻ bú mẹ , bé được tập ăn thịt lúc đạt 8 tháng tuổi (sữa

mẹ không có nguồn sắt dồi dào , nhưng bé có đầy đủ lượng sắt dự trữ cho đến 8 tháng

tuổi. Vào lúc này, thịt là nguồn cung cấp dinh dưỡng và bổ sung chất sắt tốt cho con

bạn .

Tương tự với với những thức ăn khác, ta cũng nên kiểm tra từng loại thịt trước khi

đưa vào khẩu phần ăn thường xuyên của trẻ, chỉ cho ăn 1 loại thịt / tuần, lượng thịt

khoảng 3 muỗng canh/3lần/ngày, hầm và nghiền nhỏ thịt nạc

Lượng trái cây hoặc rau cải trong khẩu phần ăn của trẻ tăng đến 3 muỗng canh, 3 lần/

ngày,

Có thể bổ sung thêm trứng mỗi tuần ,nhưng chỉ cho trẻ ăn tròng đỏ ,cho đến khi bé

được 1 tuổi bởi vì một số bé nhạy cảm với lòng trắng trứng.

Khoảng 1 tuổi , đa số các bé không dùng bình sữa , nếu bé vẫn còn dùng bình sữa thì

nó chỉ nên dùng để chứa nước.

Từ 01 tuổi:

Sau khi bé được 1 tuổi,có thể thay thế sữa mẹ bằng sữa toàn phần, trẻ dưới 2 tuổi

không nên uống sữa có chất béo thấp( 2%, 1% hoặc sữa đã được loại bỏ phần kem béo)

bởi vì chúng cần thêm calories từ chất béo nhằm bảo đảm một quá trình sinh trưởng và

phát triển hoàn thiện

Trẻ em dưới 1 tuổi không nên dùng sữa toàn phần bởi nó có thể làm giảm tế bào

máu. Tuy nhiên bạn có thể cho trẻ dùng một lượng nhỏ phô mai , phô mai làm từ sữa

có hàm lượng béo thấp, hoặc yogurt . Bé 1 tuổi cần được cung cấp nhiều chất dinh

dưỡng từ thịt , trái cây, rau, bánh mì và hạt ngũ cốc và nhóm sữa, đặt biệt sữa nguyên

23

kem.

Cung cấp nhiều loại thức ăn sẽ giúp đảm bảo đầy đủ lượng vitamin và khoáng chất

cho trẻ. Những em bé mới biết đi, không phát triễn nhanh như trẻ sơ sinh, vì thế nhu

cầu dinh dưỡng của chúng ít nhiều liên quan đến sự giãm kích cỡ trong năm thứ hai.

Mặc dù bé vẫn tiếp tục tăng cân nhưng không còn tăng gấp đôi số cân như trong giai

đoạn sơ sinh

Tuy nhiên, cha mẹ cũng nên nhớ rằng trong thời gian này bé trở nên rất hiếu động

bởi chúng đang học cách bò và đi .Các bé đang trong giai đoạn tập đi và các trẻ nhỏ sẽ

luôn luôn ăn ít thức ăn trong 1 bữa ăn, nhưng sẽ ăn thường xuyên( 4 -6 lần) trong cả

ngày, vì vậy, cha mẹ nên thêm những cử ăn nhẹ ngoài khẩu phần cho trẻ

Lời khuyên về ăn uống:

 Không nên cho trẻ dùng thức ăn đặc quá sớm

 Chỉ nên cho ăn một loại thức ăn mới trong vài ngày, rồi theo dõi có xuất hiện

phản ứng dị ứng hay không ( phát ban , ói mữa, tiêu chảy )

 Không cho ăn thức ăn đặc vào bình sữa.

 Nếu bé của bạn không thích thức loại thực phẩm mới , hãy cho bé thử lại

một lần khác

An toàn trong các bữa ăn :

 Không nên để thức ăn bị nhiễm bẩn nhằm bảo vệ trẻ khỏi những bệnh lây

nhiễm do thức ăn gây ra.

 Thức ăn của bé phải được chứa/ đựng trong những hộp có nắp, đậy kín, và

bảo quản trong tủ lạnh không quá 2 ngày.

 Sử dụng muỗng nhỏ khi đút bé ăn

 Tránh đặt bé nằm trên giường, ngậm bình có chứa sữa, nước trái cây, nước

giải khát ngọt vì có thể làm phát triển những bệnh răng miệng. Nếu thực sự

cần, hãy cho trẻ dùng nước lọc

 Tránh những thức ăn có thể khiến cho bé bị nghẹt thở

Những lời khuyên khác:

24

 Có thể cho trẻ uống nước giữa những bữa ăn

 Việc cho trẻ ăn chất ngọt hoặc nước giải khát có đường không được khuyến

cáo vì chúng sẽ làm hỏng sự thèm ăn và góp phần làm sâu răng.

 Muối, đường, gia vị mạnh cũng không được khuyến cáo

Dinh dưỡng thông minh cho trẻ 1 – 3 tuổi

1. Nhu cầu nǎng lượng:

Ở tuổi này trẻ cần 110 calo/kg cân nặng. Vì vậy, trẻ nặng khoảng 9 - 13 kg cần 900 –

1.300 kcal. Trong đó, tỷ lệ giữa các thành phần sinh nǎng lượng là: Đạm: béo: đường

bột = 15: 20: 65.

Bạn có thể ước tính năng lượng của các thức ăn như sau: 1 gam đường (Glucid), hay 1

gam chất đạm (Protein) cho 4 kcal/gam, chất béo (Lipid) cho 9 kcal/gam. Lượng chất

đường, đạm, béo thường được ghi trên nhãn mác sản phẩm, bạn nên lưu ý tới chúng

khi mua đồ ăn cho trẻ. Việc cho trẻ ăn thừa hoặc thiếu so với nhu cầu này đều không

tốt bởi trẻ có thể thừa cân, béo phì hoặc suy dinh dưỡng.

Bắt đầu từ 6 tháng tuổi, trẻ cần được bổ sung thêm nước ngoài lượng nước trong sữa.

Nhu cầu nước của trẻ là 10 - 15% tính theo trọng lượng cơ thể (bao gồm cả nước trong

sữa).

2. Số lượng, thời gian ăn

Trẻ nên ăn sau bữa một ngày, trong đó ba bữa chính vào lúc 6 - 7 h, 11h và 16h30 -

17h. Bữa ăn phụ vào giữa bữa sáng, giữa bữa chiều và bữa ăn đêm. Khoảng cách giữa

các bữa ăn của trẻ (từ 1 - 3 tuổi) là 3 - 4 tiếng. Thời gian giới hạn cho những bữa phụ là

10 - 15 phút, bữa chính là 30 phút hoặc hơn.

Nếu trẻ không bú mẹ, bạn nên cho trẻ ăn thêm 200 – 250ml sữa vào mỗi đêm. Nếu

không muốn bé ăn đêm, bạn nên lui thời gian cho bé ăn bữa cuối lại hoặc bắt đầu bữa

đầu tiên sớm hơn.

3. Cách chế biến thức ăn

Nấu cháo cho trẻ 13 - 24 tháng: Bạn có thể nấu một nồi cháo trắng nhừ, mỗi bữa

25

múc một bát vào xoong con rồi cho thêm thịt, cá, trứng, tôm, gan, đậu phụ... tùy ý.

Bạn nên thêm rau xanh và dầu mỡ như nấu bột nhưng với số lượng nhiều hơn. Nấu

cơm nát cho trẻ 24 - 36 tháng tuổi: Bạn nấu cơm nhiều nước hơn bình thường rồi nấu

canh thịt, cá, tôm, cua trộn với cơm cho bé ăn. Bạn không nên chỉ cho trẻ ăn nước rau

luộc trộn cơm.

Bạn cũng có thể nấu kiểu cơm nát thập cẩm: Dùng các loại bí đỏ, su hào, khoai

tây... cắt nhỏ 2 x 3 cm, đun chín nhừ, nghiền nát, cho gạo vào nước rau củ để nấu cơm.

Thịt, cá băm nhỏ, mồi bữa 30 - 40g cho vào hấp khi cơm đã chín. Nếu dùng thịt nạc,

cá, tôm... bạn cần cho thêm 1 - 2 thìa dầu mỡ, trộn đều.

Nấu các món súp cho trẻ: Bạn có thể nấu các món súp bổ dưỡng như súp trứng - thịt

tôm, súp đậu xanh - bí đỏ - thịt, súp trứng chim cút - nấm hương, súp cà rốt - mật ong,

súp củ cải - nấm hương - đậu Hà Lan, súp bột mì - trứng gà, súp thịt bò – cà chua, súp

khoai tây… Với cách chế biến này, bạn có thể dễ dàng kết hợp đầy đủ các nhóm chất

dinh dưỡng trong một tô súp. Hơn nữa, màu sắc tươi sáng của món ăn sẽ rất dễ hấp dẫn

bé.

Bữa ăn phụ: Với các món nước ép hoa quả, bạn nên chọn hoa quả theo mùa để đảm

bảo an toàn vệ sinh thực phẩm cho bé. Các món này cung cấp vitamin mà không làm

bé bị đầy bụng. Bạn nên bổ sung thêm các loại sữa bột, sữa tươi, sữa chua, váng sữa,

pho mai… vào các bữa ăn phụ này. Một chế độ dinh dưỡng hợp lý sẽ được thể hiện

qua việc phát triển thể chất, tinh thần của bé. Nếu bé đạt được cân nặng theo chuẩn và

ngày càng lanh lợi, thông minh, điều đó thể hiện bạn đã chăm sóc bé đúng cách.

Chế độ ǎn cho trẻ em lứa tuổi tiểu học ( 6 – 12 tuổi)

Từ 6 tuổi trẻ bắt đầu đi học,

các chất dinh dưỡng cung cấp

hàng ngày cho trẻ qua thức ǎn

không chỉ để trẻ phát triển về thể

chất, mà còn cung cấp nǎng lượng

cho trẻ học tập. Vì vậy ǎn uống

26

hợp lý ở lứa tuổi này giúp trẻ

thông minh, khoẻ mạnh và phòng chống được bệnh tật.

Nhưng ở lứa tuổi này, nếu cho trẻ ǎn uống quá mức sẽ dẫn đến thừa cân và béo phì,

tình trạng này đang có xu hướng gia tǎng trong những nǎm gần đây, nhất là ở các thành

phố lớn. Ngược lại nếu ǎn không đủ trẻ sẽ bị còi cọc, hay ốm đau, bị thiếu máu hay

buồn ngủ, ngủ gật trong giờ học dẫn đến học kém và chán học.

Vậy ở lứa tuổi này trẻ nên ǎn bao nhiêu là đủ?

Nhu cầu về nǎng lượng và chất đạm ở lứa tuổi này như sau:

Lứa tuổi (nǎm) Nǎng lượng (Kcalo) Chất đạm (g)

6 1600 36g

7 – 9 1800 40g

10 – 12 2100 – 2200 50g

Cụ thể một ngày nhu cầu về các loại thực phẩm ở lứa tuổi này như sau:

Tên thực phẩm Trẻ 6 – 9 tuổi 10 – 12 tuổi

220 – 250g 300- 350g 1. Gạo

2. Thịt 50g 70g

3. Cá(tôm) 100g 150g

4.Đậu phụ 100g 150g

5. Trứng 1/2 quả 1quả

6.Dầu(mỡ) 20g 25g

7.Sữa 400 – 500ml 400 – 500ml

8.Đường 10 – 15g 15 – 20 g

27

9.Rau xanh 250 – 300g 300 – 500g

10. Quả chín 150 – 200g 200 – 300g

Chú ý: Nếu không có điều kiện chế biến nhiều loại món ǎn trong một ngày thì có thể

 Cứ 100g thịt nạc tương đương với 150g cá hoặc tôm, 200g đậu phụ, 2 quả trứng

tính lượng đạm của trẻ như sau:

 Nếu ǎn các loại bún, miến, phở, khoai, ngô, sắn thì phải giảm bớt lượng gạo đi.

vịt hoặc 3 quả trứng gà.

Chế biến thức ǎn cho trẻ như thế nào?

Lứa tuổi này trẻ đã hoàn toàn ǎn cùng với gia đình, tuy nhiên các bà mẹ cần lưu ý một

 Cho trẻ ǎn no và nhiều vào bữa sáng (để tránh ǎn quà vặt ở đường phố hoặc một

số điểm sau:

số trẻ ǎn quá ít, nhịn sáng sẽ ảnh hưởng đến kết quả học tập, thậm chí hạ đường

 Nên cho trẻ ǎn nhiều loại thực phẩm khác nhau, tránh ǎn một vài loại nhất định.

 Khuyến khích trẻ ǎn nhiều rau, để tránh táo bón, đồng thời cung cấp nhiều vi

huyết trong giờ học).

 Ǎn đúng bữa, không ǎn vặt, không ǎn bánh, kẹo, nước ngọt trước bữa ǎn.

 Không nên nấu thức ǎn quá mặn, tập thói quen ǎn nhạt.

 Không nên ǎn quá nhiều bánh kẹo, nước ngọt vì dễ bị sâu rǎng.

 Đến bữa ǎn nên chia suất ǎn riêng cho trẻ, để tránh ǎn quá ít hoặc quá nhiều.

 Tập thói quen uống nước kể cả khi không khát, lượng nước nên uống một ngày

chất dinh dưỡng cần thiết cho sự phát triển của trẻ.

 Giáo dục cho trẻ thói quen vệ sinh ǎn uống: rửa tay trước khi ǎn và sau khi đi

1 lít.

 Số bữa ǎn: nên chia 4 bữa 1 ngày: 3 bữa chính một bữa phụ.

đại tiện.

28

Chế độ ǎn cho học sinh trung học cơ sở và phổ thông trung học (13 -18 tuổi)

Đây là lứa tuổi vị thành niên và lứa

tuổi dậy thì, trẻ có sự tǎng vọt về chiều

cao và cân nặng cho nên nhu cầu về

các chất dinh dưỡng rất cao và có sự

khác biệt giữa nam và nữ. Nếu ǎn

không đầy đủ trẻ sẽ bị còi cọc, ốm yếu

ảnh hưởng đến học tập và sinh hoạt.

Cần quan tâm đặc biệt đến các em nữ, các em có yêu cầu được nuôi dưỡng tốt để

phát triển trong hiện tại và để chuẩn bị làm mẹ trong tương lai. Thiếu canxi và thiếu

máu là những vấn đề thường gặp, do đó đối với nữ ở lứa tuổi bắt đầu thấy kinh phải

tǎng cường canxi và sắt trong khẩu phần ǎn.

Tuy nhiên ở lứa tuổi này các em nữ lại có xu hướng ǎn ít hoặc nhịn ǎn để cho người

mảnh mai, nhiều trẻ ǎn quá ít hoặc nhịn ǎn đã đến suy nhược cơ thể và chán ǎn thực sự

ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ.

Nhu cầu về chất đạm và nǎng lượng ở lứa tuổi này như sau:

Nǎng lượng (Kcalo) Đạm (g) Tuổi

HS Nữ: 2200 55

13 – 15 tuổi 2300 60

16 – 18 tuổi

HS Nam: 2500 60

13 – 15 tuổi 2700 65

16 – 18 tuổi

Cụ thể lượng thực phẩm nên ǎn một ngày như sau:

29

Tên thực phẩm Học sinh nam Học sinh nữ

1.Gạo 400-500g 350-400g

150g 100g 2. Thịt(cá)

1 quả 1 quả 3.Trứng

200g 150g 4. Đậu phụ

30g 25g 5. Dầu(mỡ)

20g 20g 6. Đường

300-400g 300-400g 7. Rau

300g 300g 8. Quả chin

250ml 250ml 9. Sữa

Cũng như ở các lứa tuổi khác bữa sáng phải là bữa ǎn chính. Các em nữ muốn có

thân hình đẹp thì phải kết hợp với thể dục, thể thao, không nên nhịn ǎn hoặc ǎn không

đủ nhu cầu dinh dưỡng sẽ ảnh hưởng rất xấu đến sức khoẻ. Cũng như ở mọi lứa tuổi

khác cần phải uống đủ lượng nước trong ngày từ 1,5 -2 lít. Số bữa ǎn từ 3 – 4

bữa/ngày.

Trẻ ở tuổi dậy thì ăn rất nhiều vì nhu cầu nhiệt lượng cao (2.200-2.500 Kcal mỗi

ngày). Trong 3 bữa chính, bữa ăn sáng nên được coi trọng để giúp trẻ có đủ năng lượng

học tập và hoạt động với cường độ cao trong thời gian dài của buổi sáng. Nếu trẻ phải

thức khuya để học bài, nên cho ăn thêm bữa phụ.

Nhu cầu về chất đạm ở lứa tuổi này là 55-60 g/ngày. Tỷ lệ năng lượng do chất đạm

cung cấp cần đạt 14-15% so với tổng năng lượng của khẩu phần. Trong đó tỷ lệ đạm

động vật/tổng số đạm cần đạt từ 50% trở lên vì 3 lý do: Thứ nhất, đây là giai đoạn cơ

thể phát triển với tốc độ nhanh, rất cần đạm để xây dựng các cấu trúc tế bào. Thứ 2,

đây là giai đoạn phát triển các nội tiết tố về giới tính mà bản chất của chúng đều là chất

30

đạm. Thứ ba, tuổi dậy thì có nhiều hoạt động tiếp xúc với ngoại cảnh và môi trường

sống, rất cần chất đạm để tham gia vào hệ thống miễn dịch (tạo kháng thể) nhằm tăng

sức đề kháng.

Chất béo cũng rất cần thiết cho trẻ. Dầu, mỡ giúp trẻ ăn ngon miệng, là nguồn cung

cấp năng lượng tốt và giúp cơ thể hấp thu các vitamin tan trong chất béo như vitamin

A, D, E, K. Ngoài ra, cần chú ý đến các chất dinh dưỡng khác phù hợp với lứa tuổi này

như:

Sắt: Trẻ trai chỉ cần 12-18 mg/ngày, nhưng trẻ gái cần đến 20 mg/ngày. Các thực phẩm

giàu sắt cần được đưa vào bữa ăn cho trẻ gồm thịt bò, tiết bò, tim lợn, gan gà, trứng vịt,

rau họ cải...

Vitamin A: Rất cần để duy trì sự phát triển của cơ bắp. Thiếu vitamin A, sức đề kháng

của trẻ sẽ giảm. Vitamin A chỉ có trong các thức ăn có nguồn gốc động vật như gan,

trứng, thịt... Cơ thể có thể tạo thành vitamin A từ các caroten trong nguồn thức ăn thực

vật, đặc biệt là từ beta-caroten (có trong các loại rau, củ, quả có màu vàng, đỏ hay xanh

thẫm).

Canxi: Rất cần thiết cho lứa tuổi dậy thì, nếu được cung cấp đủ sẽ giúp xương chắc

khỏe và độ đậm xương đạt mức tối đa, giúp trẻ phát triển tốt về chiều cao và phòng

được bệnh loãng xương khi cao tuổi. Canxi có nhiều trong sữa (cả sữa bò và sữa đậu

nành), các loại thủy sản, xương cá. Nên kho nhừ cá nhỏ và ăn cả xương.

Vitamin C: Trong cơ thể, vitamin C tham gia vào các phản ứng ôxy hóa khử. Đó là

yếu tố cần thiết cho sự tổng hợp collagen, là chất gian bào ở các thành mạch, mô liên

kết, xương, răng. Khi thiếu vitamin C, vết thương sẽ lâu thành sẹo, làm việc và học tập

chóng mệt mỏi. Vitamin C có nhiều trong các loại rau xanh, quả chín. Tuổi dậy thì cần

ăn 300-500 g rau quả/ngày, vừa đảm bảo cung cấp vitamin C, caroten..., vừa cung cấp

được chất xơ giúp kích thích tiêu hóa và đào thải chất độc ra khỏi cơ thể.

Dinh dưỡng cho lứa tuổi 30, 40, 50

Chế độ ăn uống tốt nhất cho lứa tuổi là bí quyết chinh phục những thay đổi đang diễn

ra liên tục trong cơ thể, và đó cũng chính là năng lượng tiếp sức cho bạn trong những

thử thách của cuộc sống. Các chuyên gia dinh dưỡng hàng đầu của Mỹ sẽ phân tích

31

những gì chúng ta cần nhất khi ở tuổi 30, 40, 50, độ tuổi sung mãn nhất của cuộc đời.

Lứa tuổi 30

Ảnh có chất minh họa

Là người phải cân bằng mọi việc: nghề nghiệp, con cái, bạn bè và giữ sức khỏe. Chế

độ dinh dưỡng cần thiết cho giai đoạn này là gì? Sắt, folic acid và canxi. Trong đó, bạn

cần 18 mg sắt mỗi ngày để loại bỏ bệnh thiếu máu và tăng cường hệ miễn dịch. Nếu có

ý định sinh con, folic acid là yếu tố rất quan trọng cho phụ nữ, 400 mg mỗi ngày giúp

ngăn chặn dị tật về ống thần kinh ở thai nhi.

Riêng canxi cần thiết cho hệ xương khỏe mạnh bởi người ta bắt đầu mất một lượng

xương lớn sau 35 tuổi, trong khi độ tuổi từ 19 đến 50 cần 1.000mg canxi mỗi ngày

nhưng hơn một nửa số họ không thực hiện được nhu cầu đó.

Lưu ý:thịt lợn, thịt bò thăn và các loại đậu rất giàu chất sắt. Nên bổ sung đủ thực phẩm

chứa folic acid như cam, các loại rau màu xanh. Còn các sản phẩm chế biến từ sữa như

sữa tươi, sữa chua, pho mát sẽ giúp tăng cường canxi.

Lứa tuổi 40

Công việc, con cái và cả cha mẹ già, tất cả đang cần đến bạn hơn bao giờ hết.

Những “gánh nặng” đó không làm cho bạn giảm bớt trọng lượng cơ thể bởi nhiều

người có xu hướng béo ra. Lứa tuổi 40 cần nhất là chất xơ, kali, canxi, các thực phẩm

giàu dinh dưỡng nhưng có thành phần calo thấp. Lúc này, sự chuyển hóa trong cơ thể

đang chậm dần, trong khi cholesterol trong máu và huyết áp có xu hướng tăng lên làm

32

tăng nguy cơ mắc các bệnh về tim mạch và đái tháo đường type 2.

Chế độ ăn uống tốt nhất cho người ở độ tuổi 40 là khoảng 3 lần trong ngày sử dụng

các loại hạt ngũ cốc (gạo, ngô, yến mạch), uống ít nhất 2 cốc hoa quả hay nước ép hoa

quả, nghiêng về các loại chuối, dâu tây, táo… Hạn chế thức ăn đã chế biến để kiểm

soát huyết áp. Tăng cường bộ xương chắc khỏe với các loại rau cải xanh, sữa đậu nành

có bổ sung canxi.

Lứa tuổi 50

Những người bước sang tuổi 50 đã có đủ kinh nghiệm để kiểm soát cuộc sống của

mình, giờ chỉ còn lựa cách đối xử với các loại hormone của họ mà thôi. Dù sao thì cơ

thể đã bước vào giai đoạn thay đổi lớn. Với phụ nữ tuổi mãn kinh, hormone nữ

estrogen giảm đồng nghĩa với tăng nguy cơ các bệnh tim, loãng xương và bệnh liên

quan đến tuổi già.

Hãy bảo vệ tim bằng các loại vitamin B, chúng sẽ giúp ngăn chặn hóa chất có tên

homocysteine gây xơ cứng động mạch. Ngoài ra, cần duy trì vitamin D, thức ăn chống

ôxy hóa, đặc biệt là canxi - yếu tố quan trọng hơn cả để chống loãng xương.

Các loại thức ăn bổ dưỡng cho người ở lứa tuổi 50 là chuối, khoai tây, lựu bổ sung

vitamin B6, thịt gà, cá, trứng bổ sung vitamin B12. Phụ nữ cần tăng cường các loại rau

xanh đậm, rau và quả có màu cam, vàng đậm… chứa nhiều chất chống ôxy hóa phòng

ngừa ung thư vú; có thể giảm các triệu chứng tiền mãn kinh bằng đậu nành, ngô, quả

táo, đào lộn hột. Bổ sung đủ canxi bằng các sản phẩm từ sữa như sữa tươi, sữa chua,

pho mát…

33

Dinh dưỡng ở tuổi già

Theo độ tuổi, chức năng của các cơ quan đều giảm dần, số lượng các tế bào hoạt

động ở các cơ quan khác nhau, dẫn đến giảm cường độ trao đổi chất trong cơ thể,

ngoài ra người già thường vận động ít hơn. Vì vậy, ở tuổi gia, nhu cầu về năng

lượng của cơ thể giảm, vấn đề ăn uống ở độ tuổi này cần phải được đặc biệt chú ý.

Ăn vừa đủ

Trái cây cung cấp nhiều chất xơ và vitamin cho người già. Cùng với độ tuổi,

lượng calo sử dụng cần phải giảm một chút, tuy nhiên vẫn phải được cung cấp thỏa

đáng. Ăn ít có thể gây nên hiện tượng bị thiếu protid (chất đạm) và dẫn đến teo cơ,

chóng mệt mỏi.

Về các chất dinh dưỡng, thì nhu cầu của cơ thể về chất đạm ở người trưởng

thành và người có tuổi là như nhau. Khuyến cáo nhu cầu về chất đạm trên 1 kg cân

nặng ở tuổi già (1,0-1,2g/kg/ngày) và gần tương đương với nhu cầu về đạm ở tuổi

trẻ em, vì nhu cầu đạm cho quá trình tái tạo ở tuổi già là rất lớn. Ở tuổi già, quá

trình lão hóa diễn ra mạnh mẽ, do vậy lượng chất đạm phải được cung cấp đầy đủ

để phục vụ cho việc tái tạo các tổ chức mô. Một số người già, vì một lý do nào đó

(do không nhận thức được ý nghĩa của việc ăn uống điều độ và hợp lý, do bệnh tật,

do hoàn cảnh, do yếu tố tâm lý..) thường ăn ít, đặc biệt là ăn không đủ các chất đạm

và kết quả là cơ thể gầy yếu, mệt mỏi, suy giảm khả năng đề kháng của cơ thể và dễ

bị mắc bệnh.

Cơ thể người già cần được cung cấp một lượng tinh bột đầy đủ, tuy nhiên nên

hạn chế dùng đường và bánh kẹo ngọt. Giảm sử dụng mỡ sẽ giảm được lượng calo

sử dụng chung và giúp phòng chống vữa xơ động mạch, bệnh tim mạch, tiểu

đường, đau khớp... Trong khẩu phần ăn của người già, tỷ lệ năng lượng do mỡ cung

cấp nên dưới 20%.

Không quên bổ sung thực phẩm giàu vi chất

34

Thức ăn của người già cần chứa nhiều các vitamin khác nhau (rau quả, trái cây),

các chất khoáng và chất xơ. Chất xơ có trong trái cây, rau và ngũ cốc. Chất xơ có

tác dụng phòng ngừa bệnh táo bón ở tuổi già, ngoài ra chất xơ còn có tác dụng làm

giảm mức độ cholesterol trong máu

Cháo là món ăn phù hợp cho bộ máy tiêu hóa của người cao tuổi.

Các vitamin được đưa vào cơ thể trong thành phần của các nhóm chất dinh dưỡng.

Những người già thường không hay quan tâm đến việc ăn hoa quả và rau. Nhiều

người trong số họ không có thói quen uống sữa, nguồn cung cấp chủ yếu canxi để

phòng ngừa bệnh loãng xương... Tất cả những thói quen đó, kết hợp với khả năng

hấp thụ các chất của cơ thể người già kém hơn dẫn đến trong cơ thể người già

thường bị thiếu các loại vitamin và các khoáng chất khác nhau. Người già cần phải

thường xuyên uống từ 2-3 cốc sữa một ngày để phòng ngừa phát triển bệnh loãng

xương. Tuy nhiên cần chú ý rằng, ở người già khả năng tiêu hóa sữa kém hơn, do

vậy khuyến cáo uống rải nhiều lần trong ngày, mỗi lần 100-120ml. Cơ thể người

già thỉnh thoảng nên được cung cấp vitamin bổ sung ở dạng dược phẩm. Đặc biệt là

các vitamin nhóm B, vitamin có tính chất chống lão hóa như vitamin A, C, E.

Cùng với tuổi tác, hệ thống tiêu hóa làm việc kém hiệu quả hơn, cường độ trao

đổi chất trong cơ thể người già diễn ra chậm, do vậy thức ăn cần được chế biến kỹ,

tinh, tránh ăn các thức ăn khó tiêu như đồ rán, thịt mỡ, sụn, gân, da và cổ cánh gia

cầm... Người già nên ăn làm nhiều bữa trong ngày, có thể là 4 hoặc 5 bữa. Cần rèn

cho mình thói quen ăn hoa quả hằng ngày để tăng cường cung cấp vitamin cho cơ

thể.

Uống đủ nước và chăm chỉ tập luyện

Và cuối cùng, nước đóng vai trò quan trọng trong dinh dưỡng của người già. Cơ

thể người già cần phải được cung cấp đủ nước, trong một ngày, người già nên uống

khoảng 1-1,5lít nước ở dạng nước trắng, nước hoa quả, nước chè. Uống đủ nước sẽ

làm cho quá trình tiêu hóa thức ăn tốt hơn, phòng ngừa chứng táo bón.

35

Chế độ ăn uống đầy đủ các chất dinh dưỡng, đủ calo, có tỷ lệ cân đối giữa các

chất, kết hợp việc tăng cường tập luyện thể dục thể thao với các bài tập rèn sức bền

(đi bộ, chạy bước nhỏ, bơi, đạp xe đạp) có cường độ hợp lý và một cuộc sống tinh

thần thoải mái sẽ đảm bảo một cuộc sống mạnh khỏe và hạnh phúc ở người già.

 Chế độ dinh dưỡng theo mùa

Chế độ dinh dưỡng trong mùa lạnh:

Hướng dẫn chế độ dinh dưỡng trong mùa đông với 4 bước hết sức rõ ràng

1. Ăn carbohydrate (chất tinh bột) chất lượng cao

Hãy lắng nghe cảm giác thèm ăn của bạn - đó là một lý do để bạn quan tâm đến chất

tinh bột! Trong mùa đông, có ít giờ nắng, kho dự trữ chất serotonin (một chất truyền

thần kinh chủ yếu được tìm thấy trong đường tiêu hóa hệ thống thần kinh trung ương)

của bạn bắt đầu giảm. Cảm giác thèm ăn của bạn đối với carbohydrate chính là việc cơ

thể cần nhiều serotonin hơn. Nhưng hãy cẩn thận khi lựa chọn carbohydrate để tăng

cường serotonin! Lựa chọn các loại ngũ cốc dinh dưỡng và chọn carbohydrate chất

lượng cao như khoai lang, bí ngô, và quả bí.

2. Yêu các sản phẩm của mùa đông

Sản phẩm của mùa đông có thể không được thú vị và đầy màu sắc như là trái dâu mùa

hè, nhưng có vẫn còn rất nhiều sự lựa chọn cho sức khoẻ của bạn. Ăn các loại quả mùa

đông như lựu, quả nam việt quất, quả họ cam quýt, nho tím, và các loại rau củ màu

vàng, bạn sẽ không chỉ có thêm màu sắc cho bữa ăn, mà còn có những chất dinh dưỡng

rất cần thiết và quan trọng .

3. Xem xét việc bổ sung Vitamin D

Bạn đang sống ở bán cầu Bắc và nếu bạn dùng kem chống nắng quanh năm, hãy xem

xét việc bổ sung vitamin D. Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng uống lượng 1000 đơn vị

(UI) vitamin D có thể làm giảm nguy cơ ung thư đại tràng, vú và buồng trứng tới 50%.

Vitamin D có trong các sản phẩm sữa, cá béo, lòng đỏ trứng. Tuy nhiên, đạt mức

36

khuyến cáo mà chỉ thông qua thức ăn là khá khó khăn. Vì vậy, Hiệp hội Ung thư

Canada khuyến cáo rằng tất cả người lớn cần bổ sung vitamin D hàng ngày trong suốt

mùa thu và mùa đông. Hãy hỏi ý kiến bác sĩ của bạn trước khi bắt đầu bất kỳ bổ sung

vitamin D nào.

4. Dinh dưỡng khi bị cảm lạnh

Mặc dù bạn có thể đã nghe nhiều lời khuyên rằng, biện pháp khắc phục, bổ sung chế độ

ăn uống khoa học không chứng minh hiệu quả trong việc phòng ngừa cảm lạnh và

cúm. Tuy nhiên, các nghiên cứu đã chỉ ra rằng 1.000mg bổ sung vitamin C có thể làm

cho bệnh cảm lạnh của bạn nhẹ hơn và rút ngắn thời gian bị bệnh. Ngoài ra, có một

điều tốt hơn, đầy hứa hẹn cho những người yêu thích sữa chua. Một nhà nghiên cứu

người Đức phát hiện ra rằng các chế phẩm sinh học (được tìm thấy trong sữa chua) có

thể rút ngắn thời gian bị cảm lạnh của bạn gần hai ngày.

 Chế độ dinh dưỡng cho mùa nóng

Khắp nơi trên cả nước đang trong những ngày nắng nóng cao điểm. Ăn uống thế

nào để giải nhiệt trong mùa nóng. Chúng ta cùng theo dõi tư vấn của chuyên gia dinh

dưỡng.

Tại nhiều nơi trên cả nước, nhiệt độ ngoài trời lên đến 39 - 40 độ C. Trong điều kiện

thời tiết như vậy, cơ thể thường đổ mồ hôi nên mất nhiều nước. Để bù lại lượng nước

cho cơ thể, mọi người nên chọn những loại thức ăn đồ uống thích hợp.

Theo chuyên gia dinh dưỡng Nghiêm Nguyệt Thu, ăn nhiều hoa quả là cách lý

tưởng giúp cơ thể bù được lượng nước và cung cấp các vitamin cần thiết. Mùa hè nên

ăn các loại hoa quả giàu vitamin C và giải nhiệt tốt như cam, quýt, bưởi, chuối, táo,

dưa hấu. Tuy nhiên, mùa này cũng có một số trái cây có hàm lượng đường cao, có tính

nóng, không nên ăn nhiều như mít, xoài, nhãn…

Bên cạnh đó, rau xanh là loại thực phẩm không thể thiếu trong bữa ăn của người

Việt, đặc biệt vào mùa hè. Các món được ưa chuộng là rau muống luộc lấy nước, rau

dền, rau mùng tơi nấu canh cua, canh bầu nấu với tôm, cà tím nấu bung… Rau xanh có

37

tác dụng bổ sung nhiều loại vitamin cho cơ thể và cung cấp chất xơ ngăn ngừa táo bón,

ung thư, béo phì, tiểu đường, giảm mỡ máu. Ngoài ra, rau xanh cũng cung cấp các chất

chống ôxy hóa, rất tốt cho cơ thể.

Nắng nóng khiến trẻ em và người già mệt mỏi, ăn không ngon. Vì vậy, các bà nội

trợ cần tăng cường sức đề kháng cho người thân bằng cách bổ sung chất đạm (thịt, cá,

trứng, sữa...). Thức ăn nên luộc, nấu canh hoặc hấp vì vừa dễ ăn, vừa bổ sung nước.

Tránh thức ăn nhiều dầu mỡ như quay, chiên, xào hay nêm gia vị quá cay vì dễ tạo

nhiệt, tạo cảm giác nóng trong cơ thể.

Một điều dễ nhận thấy là tại siêu thị hay các cửa hàng thực phẩm mùa này tràn ngập

các loại đồ uống đóng sẵn, nước giải khát có gas. Nhiều người coi đó là sự lựa chọn tối

ưu để giảm nóng và bù nước tức thời. Tuy nhiên, nếu lạm dụng sẽ không tốt cho cơ

thể.

Thêm một lưu ý nữa là khi trời nắng nóng, chúng ta dễ bị ngộ độc thực phẩm bởi

thức ăn nhanh hỏng. Do vậy, các bạn nên hạn chế ăn ở bên ngoài, không nên ăn ở

những hàng ăn không đảm bảo vệ sinh. Thực phẩm đã chế biến chỉ nên ăn trong ngày,

nếu sử dụng không hết cần được bảo quản trong tủ lạnh và hâm kỹ trước khi dùng.

 Chế độ dinh dưỡng theo nhóm máu:

Con người có 4 nhóm máu A, B, O, AB. Các nhà khoa học trên thế giới đã nghiên

cứu và phát hiện, mỗi loại nhóm máu thì có chế độ dinh dưỡng phù hợp. Bạn thử xem

mình thuộc nhóm máu nào dưới đây:

Với người có nhóm máu B

Nếu như thực đơn của người có nhóm máu AB nghiêng về thực vật thì người có

nhóm máu B lại thích hợp với một chế độ ăn gồm thịt, trứng, sản phẩm từ sữa ít chất

béo. Ngoài ra, cần ăn thêm cá, đậu hạt, ngũ cốc, trái cây và rau.

Những thức ăn kiêng với người có nhóm máu B gồm ngô, kiều mạch, đậu lăng, lạc,

vừng và lúa mì - vì chúng chứa các lectin làm trì trệ sự chuyển hóa, dẫn tới mệt mỏi, ứ

dịch và hạ đường huyết. Thịt gà, vốn có những lectin kết dính tấn công luồng máu tuần

38

hoàn của nhóm B, cũng có thể dẫn tới đột quỵ và những bệnh rối loạn miễn dịch. Một

số đậu hạt như đậu lăng, đậu trắng hàm chứa lectin cản trở tiến trình sản xuất insulin.

Cũng như với người có nhóm máu O, người nhóm B cũng không nên ăn cà chua.

Do ít phải “đương đầu” với môi trường như nhóm máu O, và ít phải chịu “gánh

nặng” về mặt thể chất như nhóm máu A nên những người thuộc nhóm máu B cần hoạt

động thể chất xen kẽ loại cường độ cao với các hình thức thư giãn. Ví dụ như ba ngày

mỗi tuần chơi thể dục nhịp điệu, đánh tennis, tập judo, đi bộ, đạp xe đạp, bơi lội, chạy

Rau, hoa quả tươi có nhiều vitamin luôn phù hợp với mọi lứa

tuổi

bộ hay cử tạ; còn 2 ngày khác có thể tập yoga, vận động nhẹ.

Những người thuộc nhóm máu B có nhiều nguy cơ bị virus phát triển chậm tấn công

hệ thần kinh hơn những người thuộc nhóm máu khác. Họ cũng hay bị bệnh xơ cứng

hơn. Hệ miễn dịch của họ không nhận biết được các virus kể trên. Thịt gà và ngô vốn

có những lectin khiến người nhóm máu B dễ nhạy cảm hơn với loại virus này nên cũng

là những thức ăn cần kiêng cữ.

Với người có nhóm máu A. Ống tiêu hóa của người thuộc nhóm máu A thích hợp

với chế độ ăn có nguồn đạm chủ yếu từ cây cỏ và ngũ cốc, hoặc cá đánh bắt được từ

hồ, sông, biển kề cận nơi cư ngụ.

Những người có nhóm máu A thích hợp với chế độ ăn chủ yếu có nguồn gốc từ thực

vật như các sản phẩm từ đậu nành, các hạt họ đậu, ngũ cốc, rau, trái cây... và một ít cá.

Thỉnh thoảng có thể ăn thịt gà, thịt vịt và những sản phẩm từ sữa lên men chua (như

39

yaourt).

Những thức ăn có hại cho máu nhóm A là thịt và các sản phẩm từ sữa. Dạ dày của

những người này vốn chỉ quen tiêu hóa rau, ít tiết ra axit không thích hợp với việc tiêu

hóa đạm động vật. Thịt sẽ được chuyển hóa chậm và hậu quả là độc tố bị ứ lại trong

ruột, làm viêm tấy niêm mạc ruột. Khi niêm mạc đã bị tổn thương, các lectin và độc tố

có thể xâm nhập vào vòng đại tuần hoàn, di chuyển tới đâu sẽ sinh bệnh ở đó.

Những thức ăn từ sữa không được tiêu hóa đến nơi đến chốn sẽ gây nên những phản

ứng insulin. Khi chức năng dẫn đường vào tế bào của insulin không được hoàn tất,

nhịp chuyển hóa chậm lại, năng lượng không được tiêu hao và calo không dùng tới sẽ

chuyển thành mỡ dự trữ.

Cũng như người có nhóm máu O, người thuộc nhóm máu A cũng nên tránh ăn cà

chua. Khi bị căng thẳng (stress), người có nhóm máu A hay nóng nảy, dễ lo âu, cáu

gắt. Nhiều công trình nghiên cứu cho thấy nồng độ cortisol (do tuyến thượng thận tiết

ra) trong máu của họ cao hơn nhiều so với những người có nhóm máu khác. Điều này

giải thích tại sao người nhóm máu A có tỷ lệ mắc bệnh tim cao hơn các nhóm kia.

Những môn thể dục nặng và có tính chất đối kháng dễ làm suy kiệt năng lực thần

kinh của những người nhóm máu A. Họ thích hợp hơn với những phương pháp luyện

tập nhẹ nhàng như yoga, ngồi thiền, hoặc những môn thể thao không có tính đối kháng

như đánh golf, đi bộ, thể dục, bơi lội, đạp xe hay những bài quyền nhịp chậm.

Các bệnh người thuộc nhóm máu A dễ mắc phải:

- Bệnh tim mạch: Vì họ có lượng trigglycerid và cholesterol máu cao (do tiêu hóa thịt

và chất béo bão hòa kém).

- Ung thư.

- Bệnh thiếu máu ác tính: Người nhóm máu A có ít axit trong dạ dày nên rất khó hấp

thu sinh tố B12 (Cobalamin) - một yếu tố cần thiết cho việc sản xuất huyết sắc

tố hemoglobin.

40

III. Thực phẩm và thực phẩm chức năng trong đời sống con người.

1. Khái niệm.

Thực phẩm, là mọi vật chất,được sử dụng trên cơ thể sống (ăn....) nhằm đảm bảo

cho sự tồn tại ,phát triển và sức khoẻ.

Thực phẩm chức năng (Functional foods) được người Nhật sử dụng đầu tiên trong

những năm 1980 để chỉ những thực phẩm chế biến có chứa những thành phần tuy

không có giá trị dinh dưỡng nhưng giúp nâng cao sức khoẻ cho người sử dụng.

Theo Viện Khoa học và Đời sống quốc tế (International Life Science Institute -

ILSI) thì "thực phẩm chức năng là thực phẩm có lợi cho một hay nhiều hoạt động của

cơ thể như cải thiện tình trạng sức khoẻ và làm giảm nguy cơ mắc bệnh hơn là so với

giá trị dinh dưỡng mà nó mang lại". Theo IFIC, thực phẩm chức năng là những thực

phẩm hay thành phần của chế độ ăn có thể đem lại lợi ích cho sức khoẻ nhiều hơn giá

trị dinh dưỡng cơ bản. Thực phẩm chức năng có thể là sản phẩm có nguồn gốc tự nhiên

hoặc là thực phẩm trong quá trình chế biến được bổ sung thêm các chất "chức năng".

Cũng như thực phẩm thuốc, thực phẩm chức năng nằm ở nơi giao thoa giữa thực phẩm

và thuốc và người ta cũng gọi thực phẩm chức năng là thực phẩm - thuốc.

Bộ Y tế Việt Nam định nghĩa thực phẩm chức năng: là thực phẩm dùng để hỗ trợ

chức năng của các bộ phận trong cơ thể người, có tác dụng dinh dưỡng, tạo cho cơ thể

tình trạng thoải mái, tăng sức đề kháng và giảm bớt nguy cơ gây bệnh. Tuỳ theo công

thức, hàm lượng vi chất và hướng dẫn sử dụng, thực phẩm chức năng còn có các tên

gọi sau: thực phẩm bổ sung vi chất dinh dưỡng, thực phẩm bổ sung, thực phẩm bảo vệ

sức khoẻ, sản phẩm dinh dưỡng y học.

2. Phân biệt thực phẩm chức năng (Functional Food) với thực phẩm

(Food) và thuốc (Drug).

 Được sản xuất, chế biến theo công thức: bổ sung một số thành phần có lợi hoặc

loại bớt một số thành phần bất lợi (để kiêng). Việc bổ sung hay loại bớt phải

được chứng minh và cân nhắc một cách khoa học và được cơ quan nhà nước có

41

thẩm quyền cho phép (thường là phải theo tiêu chuẩn).

 Có tác dụng với sức khỏe (một số chức năng sinh lý của cơ thể) nhiều hơn là các

chất dinh dưỡng thông thường. Nghĩa là, thực phẩm chức năng ít tạo ra năng

lượng (calorie) cho cơ thể như các loại thực phẩm, ví dụ, gạo, thịt, cá…

 Liều sử dụng thường nhỏ, thậm chí tính bằng miligram, gram như là thuốc.

 Đối tượng sử dụng có chỉ định rõ rệt như người già, trẻ em, phụ nữ tuổi mãn

kinh, người có hội chứng thiếu vi chất, rối loạn chức năng sinh lý nào đó…

 Đối với thực phẩm chức năng, nhà sản xuất công bố trên nhãn sản phẩm là thực

phẩm, đảm bảo chất lượng vệ sinh an toàn sức khỏe, phù hợp với các quy định

về thực phẩm. Đối với thuốc, nhà sản xuất công bố trên nhãn là sản phẩm thuốc,

có tác dụng chữa bệnh, phòng bệnh với công dụng, chỉ định, liều dùng, chống

chỉ định.Thuốc là những sản phẩm để điều trị và phòng bệnh, được chỉ định để

nhằm tái lập, điều chỉnh hoặc sửa đổi chức năng sinh lý của cơ thể.

 Có thể sử dụng thường xuyên, lâu dài nhằm nuôi dưỡng (thức ăn qua sonde), bổ

dưỡng hoặc phòng ngừa các nguy cơ gây bệnh… mà vẫn an toàn, không có độc

hại, không có phản ứng phụ.

 Người tiêu dùng có thể tự sử dụng theo “hướng dẫn cách sử dụng” của nhà sản

xuất mà không cần khám bệnh, hoặc thầy thuốc phải kê đơn

3. Một số loại thực phẩm chức năng.

a. Các loại thực phẩm chưa qua chế biến:

 Đậu nành, cà chua, tỏi, trà

42

 Bông cải và các loại rau họ cải

 Cam, quýt, chanh, bưởi

 Cá

 Sữa và các chế phẩm từ sữa

b. Thực phẩm chế biến.

 Nhóm bổ sung vitamin và

khoáng chất

 Nhóm bổ sung chất xơ

 Thực phẩm giúp cân bằng hệ vi

khuẩn đường tiêu hóa

 Bổ sung các chất dinh dưỡng đặc

biệt khác

 Thực phẩm loại bỏ bớt một số thành phần

43

 Các thực phẩm cho nhu cầu dinh dưỡng đặc biệt

 Một số lưu ý:

Đối với những thực phẩm ở dạng tự nhiên, việc chọn lựa cần lưu ý chọn lựa những

sản phẩm tươi, mới và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như dư lượng thuốc bảo vệ

thực vật. Để đạt được những lợi ích về sức khỏe, cần sử dụng thường xuyên với số

lượng khuyến nghị.

Những sản phẩm đã qua chế biến, đòi hỏi người tiêu dùng phải có kỹ năng đọc nhãn

bao bì.Thực phẩm chức năng thường được đóng gói giống như thực phẩm thông

thường. Ngoài các thông tin của một thực phẩm thông thường, thực phẩm chức năng

bắt buộc phải ghi rõ tên nhóm sản phẩm như thực phẩm bổ sung vi chất hay thực phẩm

bảo vệ sức khỏe, thực phẩm ăn kiêng, ….

4. Thực phẩm chức năng: dùng không đúng có thể gây hại

Từ một bài báo dân trí : ( trích)

Không thể phủ nhận vai trò của TPCN, xu hướng sử dụng TPCN trên toàn thế giới

và Việt Nam. Các chuyên gia khuyến cáo: Chỉ khi người sử dụng đã hiểu rõ hoặc

được thầy thuốc hướng dẫn rõ ràng thì TPCN mới có thể mang lại lợi ích tốt nhất cho

sức khỏe.

Lợi khi dùng đúng GS.TS Nguyễn Thị Dụ, nguyên Giám đốc Trung tâm chống độc

(BV Bạch Mai), nguyên chủ nhiệm Bộ môn Hồi sức cấp cứu trường Đại học Y cho

rằng, không ai có thể phủ nhận giá trị, tác dụng của TPCN. “Bởi đây là dạng thực

phẩm được chiết xuất từ các loại thảo mộc, các thành phần quý từ động vật và đã được

loại bỏ bớt thành phần không có lợi, bổ sung thêm những thành phần có lợi để phục

vụ nâng cao sức khỏe, giảm nguy cơ mắc bệnh cho con người”, GS khẳng định.

Cũng theo TS Nguyễn Thị Dụ, TPCN khác hoàn toàn với thực phẩm thông thường

mà chúng ta vẫn ăn hàng ngày. Bởi với thực phẩm thông thường thì giá trị dinh dưỡng

là quan trọng nhất nhằm cung cấp năng lượng cho cơn thể. Còn TPCN đã được thay

đổi thành phần qua chế biến có chủ đích để nâng cao sức khỏe con người, giảm nguy

cơ mắc bệnh, có tác dụng tăng cường sức khỏe con người là chính chứ không phải là

44

bổ sung dinh dưỡng.

Cùng quan điểm này, GS.TS Trần Thị Phương Mai, Nguyên Phó vụ trưởng Vụ Sức

khỏe bà mẹ và Trẻ em - Bộ Y tế, cho rằng: “Phần lớn TPCN được tinh chiết từ các

loại thảo dược quý trong thiên nhiên. Đó là những vị thuốc quý mà các đời ông cha

mình đã sử dụng và chắc chắn có hiệu quả. Tất nhiên, TPCN không phải là thuốc để

điều trị bệnh cấp tính mà mang tính phòng bệnh, đồng thời hỗ trợ cho thuốc trong quá

trình điều trị, củng cố sức khỏe và duy trì hiệu quả về sau.”.

Dùng sai: mọi thứ đều là chất độc.. Đánh giá cao vai trò của TPCN, nhưng GS

Nguyễn Thị Dụ cũng khuyến cáo, người sử dụng phải hiểu về sản phẩm mà mình

dùng: “Một nhà độc học nổi tiếng đã từng khẳng định: Mọi thứ đều là chất độc.

Không có cái gì là cái không độc cả, và chỉ không độc khi được dùng đúng liều

lượng”.

Cũng theo GS, ngay cả thực phẩm cũng có thể gây bất lợi khi ăn không đúng cách.

Ví như: Muối là chất không thể thiếu trong thực phẩm nhưng nếu ăn quá nhiều cũng

trở thành chất độc gây suy tim, phù, tăng huyết áp. Nhiều loại thực phẩm cũng có thể

gây dị ứng và nguy kịch cho người ăn ngay lập thức. TPCN cũng vậy, nếu chúng ta sử

dụng mà chưa biết nó có phù hợp với cơ địa của mình không, có tương tác với các

thuốc đang dùng không, TPCN cũng có thể gây sốc phản vệ như dị ứng… Vì thế,

người sử dụng nó phải hiểu nó thành phần có gì, tác dụng ra sao và phải có sự tư vấn

của nhân viên y tế để phòng các nguy cơ này.

Cùng quan điểm, GS Phạm Gia Khải, Chủ tịch Hội tim mạch Việt Nam, cũng

khuyến cáo: “Không thể tùy tiện dùng TPCN bởi dùng không đúng cũng rất nguy

hiểm, có thể gây hậu quả nghiêm trọng. Thực tế có người dùng bị phù do dị ứng

TPCN, người bị luput ban đỏ mà dùng TPCN không phù hợp làm bệnh tình nặng

thêm…. Vì thế, rất cần phải có hướng dẫn để người dân dùng đúng.Khi đó, nguy cơ bị

tai biến, dị ứng sẽ giảm đi vì được giám sát, tư vấn của nhân viên y tế”.

IV. Nhịp sinh học ở động vật và người.

45

1. Khái niệm.

Nhịp sinh học là khả năng phản ứng của sinh vật một cách nhịp nhàng với những

thay đổi có tính chu kỳ của môi trường. Đây là sự thích nghi đặc biệt của sinh vật với

môi trường và có tính di truyền.

2. Nhịp sinh học ở động vật

a. Nhịp điệu mùa

Vào mùa đông giá lạnh động vật biến

nhiệt thường ngủ đông lúc đó trao đổi chất

của cơ thể con vật giảm đến mức thấp

nhất, chỉ đủ để sống. Các hoạt động sống

của chúng sẽ diễn ra sôi động ở mùa ấm

(xuân, hè). Một số loài chim có bản năng

di trú, rời bỏ nơi giá lạnh, khan hiếm thức

ăn về nơi khác ấm hơn và nhiều thức ăn

hơn, sang mùa xuân chúng lại bay về quê

hương. Hiện tượng chim di trú

Ở vùng nhiệt đới do dao động về lượng thức ăn, độ ẩm, nhiệt độ, ánh sáng không

quá lớn nên phần lớn sinh vật không có phản ứng chu kỳ mùa rõ rệt. Tuy nhiên cũng có

một số nhộng sâu sòi và bọ rùa nâu ngủ đông, nhộng bướm đêm hại lúa ngô ngủ hè vào

ếch ngủ đông trong bùn

Hiện tượng ngủ hè ở hải sâm ssaam

thời kỳ khô hạn.

Đáng chú ý là các phản ứng qua đông và qua hè đều được chuẩn bị từ khi thời tiết

46

còn chưa lạnh hoặc chưa quá nóng, thức ăn còn phong phú. Cái gì là nhân tố báo hiệu?

Sự thay đổi độ dài chiếu sáng trong ngày chính là nhân tố báo hiệu chủ đạo, bao giờ

cũng diễn ra trước khi có sự biến đổi nhiệt độ và do đó đã dự báo chính xác sự thay đổi

mùa.

Nhịp điệu mùa làm cho hoạt động sống tích cực của sinh vật trùng khớp với lúc môi

trường có những điều kiện sống thuận lợi nhất.

b. Nhịp chu kì ngày đêm

Có nhóm sinh vật hoạt động tích cực vào ban ngày, có nhóm vào lúc hoàng hôn và

có nhóm vào ban đêm. Cũng như đối với chu kỳ mùa, ánh sáng giữ vai trò cơ bản trong

nhịp chu kỳ ngày đêm. Đặc điểm hoạt động theo chu kì ngày đêm là sự thích nghi sinh

học phức tạp với sự biến đổi theo chu kì ngày đêm của các nhân tố vô sinh.

Trong quá trình tiến hoá, sinh vật đã

hình thành khả năng phản ứng khác nhau

đối với độ dài ngày và cường độ chiếu

sáng ở những thời điểm khác nhau trong

ngày. Do đó sinh vật đơn bào đến đa bào

đều có khả năng đo thời gian như là những

“đồng hồ sinh học”. Ở động vật, cơ chế

hoạt động của “đồng hồ sinh học” có liên

quan tới sự điều hoà thần kinh - thể dịch. Gà gáy váo sáng sớm và buổi trưa

3. Nhịp sinh học của con người (đồng hồ sinh học).

Nhịp sinh học của con người hay còn gọi là đồng hồ sinh học, là chu kỳ hoạt động

trong vòng 24 giờ ảnh hưởng đến các quá trình sinh lý của hầu hết cơ thể sống. Những

quá trình này bao gồm hoạt động của não bộ, sự sản xuất kích tố (hormon), các hoạt

động của tế bào và nhiều hoạt động sinh học khác. Đồng hồ sinh học giúp điều hòa các

thay đổi về huyết áp, thân nhiệt và sự tỉnh táo vốn thay đổi tùy thời gian trong ngày.

 Cơ sở khoa học của “Thuyết Nhịp sinh học ” hiện đại.

Nghiên cứu hoạt động của vũ trụ có tính chu kỳ, người ta thấy có nhiều nhịp dạng

47

sóng ( hình sin), tuần hoàn với các chu kỳ khác nhau. Khoa học đã chứng minh mỗi

người sinh ra đều có một chu kỳ sinh học riêng, căn cứ theo ngày tháng năm sinh của

mình. Nhịp điệu thể chất, trí tuệ hay cảm xúc của con người vận động liên tục theo chu

kỳ này – đó là nhịp sinh học!

Nhịp sinh học là chu kỳ về sinh lý học hay hoạt động của các cơ thể sống theo chu

trình thời gian.

Giáo sư William Fliess, người Đức đã vẽ lại sơ đồ sự bột phát những trận ốm,

sốt của những đứa trẻ. Từ đó ông xác định tồn tại chu kỳ về sức khoẻ trong

những bệnh nhân của ông là 23 và 28 ngày.

Vào những năm 1920, tiến sỹ Alfred Teltscher đã quan sát những dao động

theo chu kỳ về mặt năng lực trí tuệ trong những sinh viên của ông với một quãng

thời gian 33 ngày. Nhiều nhà nghiên cứu sau đó đã có những kết luận tương tự

về chu kỳ trí tuệ 33 ngày.

Những nghiên cứu trong suốt những năm 1940 và 1950 đều chỉ ra rằng có

khuynh hướng tăng lên đối với các vụ tai nạn do sai lầm của con người trùng

khớp với chu kỳ sinh học của những người bị nạn.

Một số nghiên cứu cũng đưa ra các thông số:

 Chu kỳ về trực giác ( Các giác quan thu nhận thông tin : nghe, nhìn…)

bằng 38 ngày;

 Chu kỳ thẩm mỹ ( cảm nhận & sáng tạo nghệ thuật) = 43 ngày

 Chu kỳ về tâm linh ( Lòng tin ) =53 ngày.

Ngày nay, môn khoa học này đã phát triển và nhịp sinh học là khái niệm được

dùng để chỉ khuynh hướng riêng biệt của mỗi người theo từng ngày. Nhịp sinh

học đo xu hướng của từng cá nhân dựa vào ngày sinh của mỗi người. Nhịp sinh

học tính toán các chu kỳ ứng với các khía cạnh khác nhau của mỗi người.

Có 3 chu kỳ sinh học cơ bản: thế chất, cảm xúc và trí tuệ. Chúng hoạt động

theo mô hình đường biểu diễn hình sin như sơ đồ bên (Hình 1 ).

48

Ví dụ đường “Sức khỏe” :

Bắt đầu từ mốc A (0) vào lúc sinh; tăng dần và sau khi đạt đến mức tối đa (1) thì

đường biểu diễn giảm xuống mgang bằng 0 (2). Sau đó sẽ đi theo giá trị âm

xuống mực cực tiểu (3); Tiếp đó, chu kỳ lại chuyển động lặp lại ( tuần hoàn ).

Các đường biểu diễn “tình cảm”; “Trí tuệ” cúng biến thiên theo hình sin

tương tự. Trong đó Chu kỳ tình cảm ngược pha với sức khỏe; chu kỳ trí tuệ xuất

hiện chậm hơn nhưng thời gian dài hơn.

V. Nhịp sinh học với đời sống con người.

1. Mối quan hệ nhịp sinh học và chế độ sinh hoạt của con người.

a. Đồng hồ sinh học với sinh hoạt

hằng ngày.

Các chuyên gia về liệu pháp thời gian -

một lĩnh vực nghiên cứu mới trong y

học đã khám phá những thời điểm khác

nhau trong ngày và đêm sẽ tác động đến

sức khoẻ cơ thể con người như thế nào.

1 giờ đêm: Cơ thể, thần kinh rất nhạy cảm với các cơn đau, viêm, loét, cơ khớp.

49

 2 giờ đêm: . Đa số các cơ quan nội trong cơ thể con người hoạt động ở mức thấp nhất, riêng Gan hoạt động mạnh, thải độc tố tích cực nhất những chất cần thiết để thải ra các độc tố. Độ tinh nhạy của mắt thấp. Tai nạn giao thông hoặc tai nạn

lao động thường xảy ra ở thời gian này. Nếu bạn không ngủ trong thời gian đó thì cũng không nên dùng rượu hay cà phê vì dễ làm hại Gan. Tốt hơn cả là hãy uống 1 cốc nước hoặc 1 cốc sữa chẳng hạn.

 3 giờ đêm: Cơ thể nghỉ ngơi, nó hoàn toàn cạn sức. Nếu như cần thức để làm việc thì đừng để phân tán tư tưởng mà hãy cố gắng tập trung trí tuệ vào công việc mình phải hoàn thành. Vào thời điểm này, áp suất máu thấp nhất, nhịp đập của Tim và nhịp thở cũng chậm nhất.

 4 giờ sáng: -Huyết áp còn thấp, não được cung cấp lượng máu ít nhất, cơ thể làm việc ở mức thấp nhất; ngược lại Thính giác rất nhạy cảm, một tiếng động nhỏ có thể làm thức giấc. Vào giờ này người bị bệnh tim mạch thường hay tử vong nhất. →Từ 1-4 giờ sáng: Là khoảng thời gian trẻ em thường sinh ra và cũng là lúc người có bệnh nặng cũng dễ chết vào thời điểm này. Tuyến giáp trạng hoạt động cực đại, nồng độ nguyên tố đồng vị phóng xạ iốt 127 cao nhất. Người bị bướu cổ đơn thuần nên xoa bóp vùng tuyến giáp. Các lái xe, công nhân làm ca đêm hay phạm lỗi hoặc xảy ra tai nạn.

 5 giờ sáng: Thận rất yên tĩnh và không bài tiết. Những người thức dậy vào thời gian này thường nhanh chóng bước vào trạng thái sảng khoái. Chúng ta đã qua giấc ngủ không sâu với những giấc mơ và sau đó trải qua giấc ngủ sâu và không nằm mơ.

 6 giờ sáng : Huyết áp tăng lên, Tim đập nhanh lên. Lúc này cortison được tạo thành trong cơ thể, nó “nạp điện” cho bộ “ắc-quy” bên trong của chúng ta, dù rằng bạn có muốn đi ngủ chăng nữa thì thân thể bạn cũng tự thức dậy và bắt đầu ngày làm việc tốt nhất.

 7 giờ sáng: Khả năng miễn dịch cao, hoạt động tốt. Người bị bệnh do vi khuẩn,

virut gây ra thì thấy ít đau nhức hơn các giờ khác.

 8 giờ sáng: Gan thải ra khỏi cơ thể các độc tố lần thứ 2. Vào giờ đó tuyệt nhiên không được uống rượu vì gan làm việc căng thẳng. Hormon giới tính tràn đầy: giờ yêu đương.

 9 giờ: Tinh thần hưng phấn. Sự nhậy cảm với những cơn đau giảm xuống. Tim

hoạt động với toàn bộ công suất.

50

 10 giờ: Khả năng hoạt động tăng lên. Chúng ta ở thời điểm sung sức nhất, tưởng như có thể dời núi được. Trạng thái hưng phấn này được duy trì cho tới tận bữa ăn trưa, có cảm giác như có thể giải quyết được bất cứ công việc nào. Vào thời gian này nếu bạn lại ngồi uống cà phê, hay tán dóc thì đó quả là 1 sự phung phí khả năng làm việc mà sau đó không thể nào lấy lại được. Từ 9-10 giờ là giờ tiếp xúc ngoại giao, dễ gần gũi, bắt tay mạnh mẽ nhất.

 11 giờ: Tim tiếp tục hoạt động đều đặn, hài hòa với trạng thái tinh thần hưng

phấn, không cảm thấy sự căng thẳng nào.

 12 giờ trưa: Tim hoạt động mạnh. Đây là giờ cuối của thời kỳ cao điểm trong lao động sáng tạo. Phải ngủ, nghỉ trưa hoặc thư giãn từ 30 phút đến 1 tiếng. Giờ cao điểm giữa dương cực âm cực. Không ăn trưa giờ này, tốt hơn là hoãn bữa ăn lại 13 giờ. Khoảng từ 12 giờ 30 phút đến 13 giờ: Khả năng làm việc của mỗi người giảm 20%.

 13 giờ: Là giờ ăn, dạ dày có nhiều men tiêu hóa nhất, Gan nghỉ ngơi, trong máu có một ít glucogen.Giai đoạn đầu của khả năng hoạt động ban ngày đã qua, cơ thể mệt mỏi cần có sự nghỉ ngơi.

 14 giờ: -Năng lượng cơ thể thấp nhất; đường cong năng lượng đi xuống. Đây là điểm Thấp nhất thứ 2 trong chu trình 24 giờ (lần thứ nhất lúc 4 giờ sáng). Gan làm việc yếu. Các phản ứng chậm lại.

 15 giờ: Lại bắt đầu trạng thái sảng khoái của cơ thể. Các cơ quan cảm xúc nhạy cảm tới mức tối đa, đặc biệt là các cơ quan khứu giác và vị giác. Những người sành ăn cho rằng nên ăn vào đúng lúc này (Có thể ăn uống chút ít giữa ca) . Cơ thể và khả năng lao động chúng ta trở lại trạng thái bình thường.

 16 giờ: Mức đường trong máu cao lên, một số bác sĩ gọi quá trình đó là quá trình đái tháo sau bữa ăn trưa, đó là 1 hiện tượng bình thường. Sau thời kỳ hưng phấn đầu tiên năng lượng cơ thể và khả năng lao động của mỗi người tiếp tục đi xuống. Từ 15-16 giờ là “giờ hoa tay”. Các ngón tay khéo léo nhất, thợ thủ công làm việc tốt nhất.

 17 giờ: Hiệu suất lao động vẫn còn cao. Các vận động viên luyện tập với năng

lượng gấp đôi.

 18 giờ: Cơ thể cảm thấy hứng thú muốn vận động tay chân: tập thể thao, y võ dưỡng sinh. Vệ sinh da, thân thể. Giảm cảm giác đau của các vết loét, sưng cơ khớp. Nhưng sự sảng khoái tinh thần lại giảm dần. Năng lượng của phổi thấp nhất trong ngày. Nên ngồi thở dưỡng sinh để tăng ôxy trong phổi. Giờ này hay xảy ra tai biến mạch máu não làm chết người, nhất là vào tháng 2 trong năm. Vào 18 giờ của các ngày tháng 2 các bệnh viện cần có người trực chăm sóc bệnh nhân tim mạch cẩn thận chu đáo. Đây cũng là giờ các móng tay, móng chân phát triển dài nhất trong ngày.

 19 giờ: Huyết áp tăng lên, ít bình tĩnh nhất là lúc này, người ta có thể cãi nhau về bất cứ chuyện vụn vặt nào. Đây là thời gian tệ hại nhất đối với những người hay bị dị ứng. Bắt đầu những cơn đau.

51

 20 giờ: Vào giờ này, các phản ứng trong cơ thể diễn ra mạnh, tốc độ cao. Lái xe cảm giác sản khoái và an toàn, không xảy ra tai nạn vào lúc này. Giờ xoa bóp

làm đẹp da mặt. Giờ này gan lọc độc tố tốt, nên uống 1 ly nhỏ rượu thuốc trước khi ngủ sẽ có hiệu quả hơn các giờ khác. Nhưng giờ này hay xảy ra tai biến về tim mạch.

 21 giờ: Trạng thái tinh thần bình thường, trí nhớ tối đa, khả năng học nhớ, hiểu biết sâu sắc hơn ban ngày. Thời gian thích hợp cho sinh viên, diễn viên học thuộc bài và nhập vai diễn.

 22 giờ: Giờ miễn dịch, trong máu có nhiều bạch cầu (khoảng 12.000/1cm3, mức bình thường là 5.000-8.000). Sức đề kháng cơ thể cao nhất, chống các vi trùng xâm nhập có hiệu quả cao nhất (lần thứ nhất lúc 7 giờ). Nhiệt độ cơ thể giảm xuống.

→Từ 20-22 giờ: là giờ giao tiếp. Lúc này người ta cảm thấy cô đơn nhất và rất cần gặp bạn bè, người thân để tâm sự, hoặc xem tivi để giải nỗi cô đơn.

 23 giờ: Cơ thể chuẩn bị nghỉ ngơi đồng thời vẫn khôi phục lại các tế bào .  24 giờ: Giờ cuối cùng trong ngày, có người đã ngủ 2-4 tiếng đồng hồ và hay nằm mơ. Não nghỉ ngơi, lúc này không chỉ cơ thể mà não cũng tiến hành tổng kết và thải ra những gì không cần thiết. →Từ 23 giờ đến 1 giờ sáng tim hoạt động yếu nhất. b. Tác động của Môi trường đến nhịp sinh học.

Ô nhiễm ánh sáng có thể là một trong

những yếu tố làm rối loạn nhịp sinh học,

gây mất ngủ, suy nhược cơ thể, ung thư

và các bệnh về tim mạch. “jet-lag” là hiện

tượng mệt mỏi do xáo trộn đồng hồ sinh

học của cơ thể sau một chuyến bay dài

qua nhiều múi giờ. Hiện tượng suy giảm chức năng não cũng có thể xảy ra ở những

người thường làm việc ca đêm, hoặc theo những thời gian biểu không cố định.

Do đó, những người liên tục bị phá vỡ nhịp sinh học hàng ngày - trong đó có tiếp

viên hàng không, nhân viên y tế trong bệnh viện, hay công nhân làm việc theo ca - đều

dễ bị ảnh hưởng lâu dài tới hành vi và chức năng nhận thức. Những người thường

xuyên phải bay qua nhiều múi giờ còn có biểu hiện mất trí nhớ hoặc giảm khả năng

52

học tập, thậm chí xuất hiện hiện tượng teo thùy não thái dương.

Các nhà khoa học khẳng định, chính chênh lệch múi giờ đã làm giảm sự hình thành

và phát triển tế bào thần kinh ở “đồi hải mã” và có thể dẫn tới nguy cơ giảm thiểu chức

năng ở khu vực não bộ này. Phát hiện mới này có thể lý giải phần nào nguyên nhân

khiến những công nhân thường xuyên phải làm ca kíp và những người thường đi máy

bay đường dài… thường phản ứng chậm chạp và dễ bị mắc các căn bệnh. Để giảm

thiểu những tác động có hại này, các nhà khoa học khuyến cáo, những người thường

xuyên phải thay đổi đồng hồ sinh học nên dành một thời gian nghỉ ngơi thích đáng khi

bị thay đổi múi giờ. Việc hiểu được những chuyển biến của đồng hồ sinh học cơ thể sẽ

giúp bạn có được một chế độ sinh hoạt thích hợp và đạt hiệu quả cao nhất trong ngày.

Đồng hồ sinh học liên quan đến cả tuổi tác. Các nhà khoa học còn nhận thấy phụ

nữ thường có áp lực phải lập gia đình trước tuổi 40, khi cơ hội mang thai của họ (dù tự

nhiên hay có sự can thiệp của công nghệ hỗ trợ sinh sản) bắt đầu giảm rõ rệt do số

lượng và chất lượng trứng giảm. Đàn ông cũng không nên chậm trễ kết hôn nếu muốn

có con.

Một nghiên cứu điều trị 570 người hiếm muộn bằng thụ tinh trong ống nghiệm: Để

bảo đảm tuổi của người phụ nữ không ảnh hướng đến kết quả nghiên cứu, các chuyên

gia chỉ sử dụng trứng của những phụ nữ trẻ và khỏe mạnh. Kết quả cho thấy, so với

nhóm đàn ông trẻ thực hiện thụ tinh ống nghiệm thành công, độ tuổi trung bình của

nhóm đàn ông 45 tuổi là thất bại nhiều hơn rõ rệt.

Đồng hồ sinh học, là bộ phận đo thời gian nội sinh, hiện diện trong hầu như tất cả

các sinh vật, giúp đồng bộ hóa các quá trình sinh học với ngày và đêm Đồng hồ này

hoạt động thông qua mối quan hệ hợp tác giữa các gen "sáng" và gen "tối". Protein

được mã hóa bởi các gen sáng ức chế gen tối ở thời điểm rạng sáng, nhưng vào ban

đêm mức độ hoạt động của những protein ấy thấp xuống và các gen tối được kích hoạt.

Điều thú vị là những gen tối này cần thiết để bật gen sáng và hoàn thành chu kỳ 24 giờ.

2. Ứng dụng đồng hồ sinh học trong điều chỉnh hợp lí chế độ dinh dưỡng cho

động vật và người.

Với nhịp điệu sinh học con người hiện nay thì việc điều chỉnh chế độ dinh dưỡng

53

hợp lý để phù hợp hơn với nhịp sống hiện đại cũng như phải đảm bảo một cơ thể khỏe

mạnh là điều vô cùng quan trọng, với thói quen của người Việt Nam hiện nay là một

thói quen sai lầm khi thường ăn ít vào buổi sáng và thậm chí là bỏ buổi ăn sáng và có

xu hướng ăn nhiều vào buổi tối vì quan niệm rằng bữa tối là thời gian rãnh rỗi gia đình

sum họp nên các bà nội trợ thường tập trung nấu rất nhiều món vào buổi tối để gia đình

có thể vây quần và thưởng thức nhiều món ăn ngon. Điều đó là sai lầm bởi theo các

nhà khoa học Anh, thịt nguội, xúc xích, trứng, đậu đỗ, nấm, cà chua, món tráng miệng

có màu đen… nếu có trong bữa sáng thì sẽ là cách tốt nhất để khởi động năng lượng

cho một ngày mới.

Bởi một bữa sáng với các món rán sẽ khởi động hệ thống chuyển dưỡng trong cơ

thể sau một đêm nghỉ ngơi, giúp nó dễ dàng “đốt cháy” các bữa ăn chính và phụ khác.

Và các nhà nghiên cứu cho rằng một bữa ăn sáng nhiều chất béo, hoành tráng, một

bữa trưa vừa phải và một bữa ăn tối nhẹ nhàng sẽ là điều kiện lý tưởng cho sức khỏe.

Nói cách khác, “hãy ăn sáng như một ông hoàng, bữa trưa như một hoàng tử và bữa tối

như một kẻ ăn mày” để có được chất và tinh thần khỏe mạnh.

Nghiên cứu của họ cũng cho thấy những ảnh hưởng khi ăn nhiều loại thực phẩm

khác nhau và ở những thời điểm khác nhau trong ngày. Kết quả cho thấy ăn bữa sáng

giàu chất bột đường, bữa tối nhiều chất béo sẽ gây ra một số vấn đề như tăng cân và

quá trình chuyển hóa đường gặp trục trặc, làm tăng nguy cơ tiểu đường. Xét nghiệm

máu cũng cho thấy dấu hiệu gia tăng các nguy cơ mắc bệnh tim và đột quỵ.

 Những người làm việc ban đêm.

Những người làm việc ban đêm phải có một chế độ dinh dưỡng hết sức hợp lý, để

không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và đáp ứng được nhu cầu tiêu hao năng lượng cơ

thể.

Do tính chất nghề nghiệp đặc thù nên nhiều người thường phải thức khuya để làm

việc, và đa phần họ là những người lao động trí óc. Thức đêm, cơ thể con người sẽ

thay đổi về nhịp sinh học và kéo theo sự mệt mỏi, suy yếu về thể chất lẫn tinh thần.

Đặc biệt, thức đêm là quá trình thúc đẩy cơ thể con người sớm lão hóa do mắt thâm

54

quầng, làn da nhăn và sớm xuất hiện các nếp nhăn. Nếu bù lại thức đêm bằng giấc

ngủ ban ngày thì cơ thể cũng không thể hồi phục sức lực so với khi bạn có được giấc

ngủ đêm đều đặn. Do vậy, với những người làm việc ban đêm phải có một chế độ

dinh dưỡng hết sức hợp lý, để không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe và đáp ứng được

nhu cầu tiêu hao năng lượng cơ thể.

 Chế độ ăn giàu protein

Nên ăn nhiều thịt gà

Các nhà dinh dưỡng cho rằng, chế độ dinh dưỡng cho

người làm việc trí óc ban đêm trước hết phải đầy đủ

protein chất lượng cao như thịt nạc, tôm, cá, các loại trứng

và các chế phẩm từ đậu, sữa. Protein trong các thức ăn có

nguồn gốc động vật chứa nhiều axit amin cần thiết cho cơ thể, đặc biệt là thịt gà.

Nghiên cứu dinh dưỡng cho thấy, thịt gà chứa nhiều acid amin và niacin (một loại

vitamin B), giúp hồi phục sức lực một cách nhanh chóng, đồng thời kích thích sự

tăng sinh, phát triển các tế bào da và chống lại sự lão

hóa của tế bào thần kinh. Các loại cá béo cũng là nguồn dinh dưỡng cần thiết duy trì

sự hoạt động đều đặn của hệ thần kinh trung ương, giúp con người phục hồi trí nhớ.

Tuy nhiên, sử dụng các loại cá dưới dạng hấp hay kho sẽ tốt hơn cá rán khô giòn.

 Chế độ ăn uống giàu vitamin

Cần bổ sung nhiều vitamin A, C

Vitamin C có tác dụng tăng sức đề

kháng, giúp cơ thể chống mệt mỏi và ngăn

ngừa các bệnh nhiễm trùng. Thiếu vitamin C

có thể làm cho sức đề kháng bị giảm sút,

gây mệt nhọc, bực bội, có thể xuất chảy máu

55

chân răng và giảm cân. Bởi vậy, ngoài các loại rau có lá màu xanh đậm giàu vitamin

C, cần bổ sung thêm các loại quả như táo, chanh, cam, bưởi... Một ly nước cam tươi

vào những buổi tối làm việc sẽ giúp ích cho bạn rất nhiều trong việc tăng cường sức

khỏe và xua tan sự mệt mỏi.

Ngoài ra, khi làm việc ban đêm mắt thường bị mỏi do căng thẳng thị lực, cần bổ

sung các thức ăn giàu vitamin A bởi vitamin này có tác dụng tham gia vào quá trình

điều tiết chất cản quang của võng mạc mắt, có thể nâng cao khả năng thích nghi của

mắt đối với các tia sáng trong bóng tối. Vitamin A có nhiều trong những thực phẩm

có nguồn gốc động vật, đặc biệt trong gan, lòng đỏ

trứng gà, cá, dầu gan cá và sữa bò. Các loại rau củ

như cà rốt, bí đỏ rau, đậu vàng, khoai lang và cà

chua... đều chứa nhiều caroten. Chất này khi vào cơ

thể, dưới tác động của niêm mạc ruột non sẽ chuyển

hóa thành vitamin A.

 Chú ý bữa ăn phụ

Cần bổ sung bữa ăn đêm bằng các món ăn nhẹ

Những người làm việc ban đêm thường phải tiêu tiêu hao nhiều năng lượng, vì thế,

ngoài bữa ăn chính (sáng, trưa, tối) cần bổ sung bữa ăn đêm bằng các món ăn nhẹ, dễ

tiêu hóa như cháo thịt, cháo đậu hay uống sữa tươi... Không nên ăn các món chiên

rán nhiều dầu mỡ vào ban đêm sẽ làm tăng thêm gánh nặng tiêu hóa, không tốt cho

dạ dày và gan, đồng thời gây khó ngủ.

 Đối với người già.

Nhu cầu năng lượng của con người giảm đi theo thời gian, khi về già, người cao tuổi

ăn ít hơn so với lúc trẻ. Tuy nhiên, có nhiều người khi ăn vẫn thấy ngon miệng, không

giảm chế độ ăn nên mắc các bệnh như béo phì, tăng huyết áp... Vì vậy khi về già, người

cao tuổi nên ăn ít hơn, chọn lựa các thực phẩm phù hợp. Các sinh tố và muối khoáng

cần cho sự hoạt động của cơ thể có sẵn trong các thực phẩm chúng ta ăn vào hằng ngày.

Các thực phẩm như gạo, thịt, mỡ, đường, bánh kẹo, rượu bia nên hạn chế dùng, chế độ

56

ăn nhạt là phù hợp.

Nên ăn nhiều đậu, lạc, vừng, khoai củ các loại: Tốt nhất nên ăn gạo lứt và có thể

thay thế bằng gạo dẻo, không mốc và không xát trắng quá. Việc tiêu hóa, hấp thu các

chất đạm đối với người cao tuổi rất kém nên việc ăn bổ sung chất béo, chất đạm từ thực

vật như lạc, đậu và vừng là rất quan trọng. Đặc biệt là các chế phẩm từ đậu nành như

đậu phụ, giá đậu nành, đặc biệt, đậu nành còn có tác dụng phòng chống ung thư.

Ăn nhiều rau tươi, quả chín: Đối với người cao tuổi, táo bón luôn là nỗi "bức xúc".

Táo bón ở người cao tuổi là do ít vận động, ăn không đủ chất xơ, uống không đủ nước,

sức co bóp của dạ dày giảm, nhu động ruột cũng giảm... Vì vậy, người cao tuổi nên chú

ý ăn nhiều rau tươi, quả chín để bổ sung chất xơ nhằm kích thích nhu động ruột, tránh

gây táo bón. Các thực phẩm nên ăn là cà chua (giảm nguy cơ ung thư tuyến tiền liệt),

bắp cải, súp lơ (chống ung thư bàng quang)... Quan trọng hơn cả, rau quả tươi còn cung

cấp các loại vitamin, các yếu tố vi lượng và các chất chống ôxy hóa - các chất dinh

dưỡng mà người cao tuổi cần bổ sung.

Ăn nhiều cá, uống sữa: Đối với người cao tuổi, nên hạn chế ăn thịt và tăng cường ăn

cá, tốt nhất nên ăn cả xương cá để có thêm canxi, phòng xốp và loãng xương. Bổ sung

sinh tố và muối khoáng. Sữa chua rất tốt cho mọi lứa tuổi, đặc biệt là người già.

Dinh dưỡng phù hợp đối với người cao tuổi ngoài việc lựa chọn thực phẩm, khẩu

phần ăn thì việc ăn đúng, ăn đủ rất quan trọng. Tránh để người già ăn quá no, tránh thức

ăn cứng và nhất định trong bữa ăn hằng ngày nên có canh (theo mùa). Canh vừa cung

cấp nước lại bổ sung các chất dinh dưỡng cho cơ thể. Thức ăn phải chế biến dưới dạng

ninh nhừ, thái nhỏ, hấp... Khi ăn uống, người cao tuổi phải bảo đảm đa dạng thực phẩm,

ăn đúng giờ, nhai kỹ, nuốt chậm. Người già cũng không nên ăn mặn vì cơ thể sẽ thừa

muối làm ảnh hưởng tới tim, thận…

 Mùa thi: Cần một chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý

Năm học sắp kết thúc, cũng là mùa các em học sinh tập trung cao độ vào việc ôn

thi. Một chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý trong thời gian này là rất quan trọng. Thế

57

nhưng có những thói quen không đúng mà học sinh và phụ huynh cần tránh.

Uống trà đậm, cà phê để thức khuya học bài là một thói quen sai nhưng lại khá phổ

biến ở học sinh. Do quan niệm rằng càng học khuya càng tốt vì đêm khuya yên tĩnh

chữ dễ vào đầu, nhưng lại hay buồn ngủ nên biện pháp tốt nhất là dùng chất kích thích

(trà, cà phê) để tỉnh táo. Nhưng theo tiến sĩ Nguyễn Hữu Đức, Trường Đại học Y

Dược, cảm giác buồn ngủ, mỏi mệt là dấu hiệu tự nhiên của cơ thể đòi được nghỉ ngơi.

Việc dùng trà, cà phê để tìm sự tỉnh táo đã làm rối loạn nhịp điệu sinh học của cơ

thể, điều này không có lợi cho sức khỏe. Sự mệt mỏi này khiến các em tiếp thu bài

kém, thậm chí là "từ chối nhập dữ liệu". Chính vì vậy đã có nhiều trường hợp học sinh

học thuộc bài nhưng vào lớp (hoặc vào phòng thi) lại không thể trình bày mạch lạc

được, hoặc không còn một chữ nào trong đầu!

Đi ngủ sớm và dậy sớm để học bài là phương pháp học tập khá hữu hiệu, bởi sau

khi nghỉ ngơi, cơ thể lấy lại sức lực, đầu óc tỉnh táo, minh mẫn hơn vì thế sẽ hiểu và

nhớ bài hơn. Hơn nữa, khi đi ngủ trước 12 giờ khuya, học sinh sẽ hưởng được kích

thích tố tăng trưởng tiết ra mạnh nhất vào lúc này, điều này có lợi cho sự phát triển hài

hòa của cơ thể, nhất là chiều cao.

Ăn uống là một phần rất quan trọng trong mùa thi. Ăn uống đúng cách, đầy đủ chất

dinh dưỡng sẽ giúp cho học sinh có đủ sức khỏe chịu đựng được những áp lực trong

thời gian tập trung cho thi cử.

Theo bác sĩ Nguyễn Lân Đính, chuyên viên dinh dưỡng thì mọi người, đặc biệt là

học sinh không nên bỏ bữa ăn sáng. Ngoài hai bữa chính (trưa và chiều) cũng nên ăn

thêm các bữa phụ vào khoảng 9 giờ sáng và 3 giờ chiều để vừa giải lao trí óc vừa nạp

thêm năng lượng. Một ít đậu phộng, chén tàu hũ nước đường, một ít trái cây hoặc nước

ép trái cây... đều rất tốt cho cơ thể.

Do cơ thể các em phát triển rất mạnh trong giai đoạn này nên cần chú ý tăng cường

canxi để cải thiện chiều cao. Canxi có nhiều trong các loại rau cải; các món bún riêu,

bún ốc; đậu hũ, sữa, cam, tôm cua, sò, ốc, hến… Sữa chứa nhiều canxi và khoáng chất

do đó nên ưu tiên dùng. Trường hợp không uống được sữa có thể dùng các chế phẩm

58

từ sữa như: yaourt, phô mai…

Sau mỗi bữa ăn cần nghỉ ngơi khoảng 30 phút rồi mới bắt đầu vào học để không ảnh

hưởng đến hệ tiêu hóa.

 Muốn khỏe cần nghỉ ngơi hợp lý.

Theo các chuyên gia về phong cách ứng xử thì việc

không sắp xếp được thời gian biểu làm việc và nghỉ

ngơi với tiến độ và tỉ lệ hợp lý sẽ là lý do gây rối loạn

nhịp sinh học của chính chúng ta.

Một trong các giải pháp chống lại sự rối loạn nhịp

sinh học chính là nghỉ ngơi theo đúng nguyên tắc “tắt

bếp đúng lúc để nước đừng cạn”, nhằm khôi phục sự quân bình. Quân bình tất nhiên

không bó buộc phải 50/50 mà là thay đổi tùy theo bối cảnh cá biệt của mỗi đối tượng,

miễn là có nghỉ ngơi thay vì “chịu đấm ăn xôi” để rồi cuối cùng “mất cả chì lẫn chài”.

Khó chính là ở chỗ không phải ai cũng nhấn nút tắt một cách dễ dàng trong cuộc

sống. Kẹt hơn nữa là không phải ai cũng có thể thiết kế cho chính mình một mô hình

nghỉ ngơi như mong muốn khi phải đương đầu với đủ thứ áp lực từ công việc. Biết vậy

nên các chuyên gia về tâm lý lao động ở Đại học Konstanz (Đức) đã đưa ra những lời

khuyên như sau:

 Nên mạnh dạn quyết định nghỉ hè khi bắt đầu ghi nhận thời gian cuối tuần

không đủ để nghỉ ngơi khiến suy giảm nghị lực khi bước vào ngày đầu tuần

mới.

 Đừng theo đuổi chương trình nghỉ dưỡng nào đó chỉ vì lời quảng cáo đường

mật. Vận động thể dục thể thao trong lúc nghỉ hè là điều nên làm nhưng trong

nhiều trường hợp, làm biếng trong lúc nghỉ ngơi lại là hình thức tốt nhất, kiểu

nào cũng được, miễn là trái với nhịp làm việc thường ngày.

 Trong lúc nghỉ hè cần tránh cho bằng được kiểu sinh hoạt trái ngược với nhịp

sinh học, chẳng hạn thức thật khuya hay ngủ quá sớm, vì như thế chẳng khác

nào đẩy cơ thể vào một tình huống stress mới.

 Mô hình nghỉ ngơi quá ngắn (1-2 ngày) thường không có lợi vì tâm thể chưa kịp

59

thích ứng với môi trường mới thì lại khăn gói lên đường trở về mái nhà xưa.

 Tránh chương trình du lịch quá căng thẳng cũng như kéo dài nhiều giờ không có

chặng nghỉ giữa đường, vì hiệu quả cuối cùng là đòn đo ván khi chúng ta đến

nơi.

 Tuyệt đối đừng từ văn phòng lên đường một lèo đến khu nghỉ dưỡng vì công

việc còn tồn đọng chắc chắn sẽ bám sát chúng ta trong mấy ngày đầu. Nếu

chuyến đi nghỉ chỉ có mấy ngày thì lại càng bằng không. Tốt nhất nên thu xếp

để có 1- 2 ngày yên tĩnh trước khi khởi hành.

 Nếu không thể nghỉ hè thì tối thiểu nên chọn hình thức giải trí nào đó nhiều lần

trong tuần. Theo nhiều chuyên gia ở Đức, cách tốt nhất là… tham gia nấu ăn.

Chúng ta sẽ vừa được thưởng thức tác phẩm của mình để thấm thía hơn về ý

nghĩa khác biệt giữa “nạn nhân” và “thủ phạm” vừa được thư giãn.

 Hình thức nghỉ hè tuy có thể ngắn hạn nhưng nhiều lần thì sẽ có tác dụng giải

tỏa stress tốt hơn loại nghỉ hè một lần nhưng quá lâu .

Stress chẳng khác nào thuốc lào, chúng ta có “chôn” xuống rồi thì lại tự “đào” lên mà

thôi. Cơ thể con người cũng tựa như cái máy. Không dễ gì mở máy lần nào cũng ngon

ơ nhưng khó hơn nhiều lại là làm sao biết tắt máy trước khi cháy máy.

VI. Những nghiên cứu mới về nhịp sinh học động vật và người.

1. Đối với động vật.

Có một loài cá mù sống trong

hang động ở Somalia nhưng

chúng hoàn toàn biết chúng

đang ở thời điểm nào trong

ngày. Tuy nhiên, "ngày" của

chúng có độ dài gấp đôi ngày

60

của chúng ta.

Hầu hết các động vật đều có đồng hồ sinh học trong cơ thể - hay còn gọi là nhịp sinh

học. Đồng hồ sinh học kéo dài khoảng 24 giờ và được thay đổi theo chu kì sáng tối

của một ngày.

Tuy nhiên một nhóm các nhà nghiên cứu quốc tế đã chỉ ra rằng cá mù sống trong

hang có nhịp sinh học kéo dài gần 2 ngày. Nghiên cứu này được đăng tải trên tạp chí

PloS Biology.

Cá sống trong hang – hay còn có tên là Phreatichthysandruzzii – đã phát triển gần 2

triệu năm trong những hang động tối tăm bị cô lập bên dưới sa mạc Somalia.

Giáo sư Nick Foulkes tới từ Viện Công nghệ Karlsruhe của Đức cho biết loài cá đặc

biệt này đã được chọn "vì nó là một ví dụ điển hình, bị cô lập khỏi chu kì ngày đêm

quá lâu". Trong quá trình tiến hóa, loài này đã mất mắt, khả năng phân biệt màu sắc

và quy mô – những thứ không cần thiết với chúng trong môi trường tối đen như mực

của hệ thống hang dưới lòng đất.

Tuy nhiên, dường như sự vắng mặt của ngày và đêm đã gây ra sự thay đổi sâu sắc

hơn nhiều trong nhịp sinh học của loài cá này. Ánh sáng được phát hiện chủ yếu

bằng mắt, nhưng hầu hết các tế bào trong cơ thể đều có một số phản ứng với các mức

độ ánh sáng. Ở những động vật có vú như cá, bộ phận dò ngoại vi đóng một vai trò

quan trọng hơn. Điều này có nghĩa là, mặc dù cá sống trong hang đã mất mắt trong

quá trình tiến hóa, nhưng cơ thể chúng vẫn có thể phản ứng với sự thay đổi của ánh

sáng.

Tuy nhiên, khi so sánh phản ứng nhịp sinh học của cá sống trong hang với cá ngựa

vằn "bình thường", cá mù không phản ứng gì với sự thay đổi ánh sáng bên ngoài như

cá ngựa vằn. Sau 2 triệu năm trong bóng tối, cá trong hang không cần phải phản ứng

với ánh sáng và đồng hồ sinh học của chúng đã thay đổi vĩnh viễn để phản ánh điều

này. Tuy vậy, cá mù vẫn có đồng hồ sinh học và nó được thiết lập lại bởi những kích

hoạt khác, chứ không phải bởi ánh sáng.

Việc cho cá ăn vào những thời điểm nhất định cho thấy cả cá ngựa vằn và cá hang

61

đều phản ứng bởi sự thiết lập lại nhịp sinh học. Ngoài ra, khi cá hang được thiết lập

lại đồng hồ sinh học theo nhịp tự nhiên, các nhà nghiên cứu đã phát hiện ra "ngày"

của chúng dài 47 giờ.

2. Đối với con người.

Một nhóm các nhà khoa học thuộc đại học Cambridge đã thành công trong việc xác

định cơ chế làm việc của đồng hồ sinh học trong cơ thể con người.nhịp điệu sinh học

này không chỉ có trong các tế bào của con người mà còn được tìm thấy ở những dạng

sinh vật khác ví dụ như tảo, và nó đã tồn tại từ hàng triệu năm. Theo các nhà nghiên

cứu, kết quả đạt được sẽ giúp hiểu sâu hơn về những vấn đề liên quan đến làm việc

theo ca, các trạng thái ngủ của con người hay thậm chí sự di trú của những đàn bướm.

Nghiên cứu trên - được thực hiện bởi Học viện khoa học chuyển hóa thuộc đại học

Cambidge, Anh - đã chỉ ra rằng hồng cầu trong máu chính là nơi "sở hữu" nhịp điệu

sinh học. Trong quá trình nghiên cứu, các nhà khoa học đã ủ các hồng cầu khỏe mạnh

trong bóng tối ở trạng thái nhiệt độ cơ thể trong nhiều ngày và lấy mẫu thường xuyên.

Họ phát hiện ra nồng độ chất peroxiredoxin (một loại protein được sản sinh trong máu)

hoạt động theo một chu kỳ 24 giờ. Điều này đã phủ định mọi suy đoán trước đó về sự

liên quan giữa nhịp điệu sinh học và ADN, vì khác với các loại tế bào khác, tế bào máu

62

không chứa ADN.

"Phát hiện này có ý nghĩa vô cùng quan trọng cho y học!", dẫn lời Akhilesh Reddy,

đồng tác giả của nghiên cứu. Các chứng bệnh thuộc về rối loạn tâm sinh lý như tiểu

đường, tâm thần hay ung thư đều có liên quan đến sự hoạt động của đồng hồ sinh học.

Từ những phát hiện trên, các nhà khoa học sẽ có cơ sở để nghiên cứu sâu hơn mối

tương quan giữ nhịp điệu sinh học và các loại bệnh lý, từ đó phát triển các phương

pháp chữa trị hiệu quả hơn.

 Phát hiện gen kiểm soát nhịp sinh học mới.

Ra nước ngoài có thể là một trải nghiệm thú vị nhưng thường kèm theo đó là sự mệt

mỏi khó chịu vì bay đường dài và chứng mất ngủ do lệch mũi giờ. Việc thay đổi trong

nhịp sinh học từ lâu đã được xác định là nguyên nhân gây ra những hiện tượng như

vậy. Nhưng hiện nay một nhóm các nhà khoa học Hàn Quốc đã khám phá ra một loại

gen mới kiểm soát nhịp sinh học, từ đó có thể giúp làm giảm các chứng mệt mỏi và rối

loạn giấc ngủ nói trên. Trong phần 2 chương trình hôm nay, Giáo sư Choi Joon-ho

thuộc khoa Công nghệ sinh học, Viện Khoa học và công nghệ tiên tiến Hàn Quốc

(KAIST) sẽ giải thích thêm về nghiên cứu này.

 Phát hiện gen kiểm soát nhịp sinh học mới.

“Vòng tuần hoàn của thiên nhiên được quyết định bởi những chu kì tự quay của trái

đất, của trái đất xoay quanh mặt trời hay của mặt trăng quay quanh trái đất, từ đó mà

sinh ra ngày, tháng, năm. Tất cả các sinh vật trên hành tinh đều có nhịp sinh học bị chi

phối bởi vòng tuần hoàn này. Ví dụ, tập tính ngủ đông của gấu diễn ra hàng năm, chu

kì kinh nguyệt của phụ nữ diễn ra hàng tháng, cả đến hoạt động của cơ thể con người

cũng dựa theo chu kì hàng ngày. Nhịp sinh học này của con người do hơn 10 gen kiểm

soát, trong đó quan trọng nhất là gen “period (thời kì)” và gen “clock (đồng hồ)”. Các

gen khác chỉ có nhiệm vụ kích hoạt, giúp hai gen này hoạt động bình thường. Nhưng

với nghiên cứu gần đây, chúng tôi đã phát hiện thêm 1 loại gen mới là gen “twenty-

four (24)”, với cơ chế hoạt động và chức năng khác cho nên có thể coi nó là 1 loại gen

63

kiểm soát nhịp sinh học mới.”

Vòng tuần hoàn 24 giờ của Trái Đất đã được “ghi” vào trong DNA của chúng ta,

giúp ta có những thói quen như thức ban ngày và ngủ vào ban đêm. Cho đến giờ, các

nhà khoa học đã tìm ra khoảng 10 gen kiểm soát các protein nhịp sinh học có thể nhận

biết được ngày và đêm đều đặn như 1 chiếc đồng hồ. Nhưng gen mới mà nhóm nghiên

cứu của giáo sư Choi tìm được lại khác các gen ở trên về cơ chế hoạt động. Tất cả các

gen nhịp sinh học trước đó đều tác động trong quá trình phiên mã từ DNA sang

mRNA, nhưng loại gen mới này lại có cơ chế hoạt động đặc biệt diễn ra sau quá trình

phiên mã, khi mRNA chuyển thành protein trong ribôxôm. Vậy làm thế nào Giáo sư

Choi tìm ra được loại gen nhịp sinh học mới này ?.

 Phát hiện gen “24” kiểm soát nhịp sinh học của ruồi giấm.

“Thông thường, nhịp sinh học của con người quy định rằng chúng ta duy trì hoạt

động ban ngày và nghỉ ngơi vào buổi đêm. Tuy nhiên, vòng tuần hoàn này có thể

chênh lệch tùy theo từng đối tượng, ví dụ có người đi ngủ rất sớm vào khoảng 7-8 giờ

tối và thức dậy lúc 4 hay 5 giờ sáng hôm sau. Có thể nói đây là người quá thiên về hoạt

động ban ngày. Khi đó, nhịp sinh học của cả gia đình của người này cũng thay đổi theo

thói quen đó. Chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu gen của những người này và nhận ra

rằng gen “period” của họ bị biến đổi. Gen “period” lần đầu tiên được tìm thấy ở loài

ruồi giấm nhưng chúng tồn tại trên hầu hết các loài sinh vật. Chúng tôi đã nghiên cứu

vòng tuần hoàn hoạt động của 15 nghìn con ruồi giấm bị biến đổi như thế và phát hiện

ra một vòng tuần hoàn của chúng là 27 giờ chứ không phải 24 giờ. Chúng tôi đã khám

phá ra rằng loài ruồi giấm với vòng tuần hoàn 27 giờ có một loại gen nhịp sinh học

khác hẳn và chúng tôi đặt tên cho gen đó là “gen 24” (Twenty-four). Ban đầu chúng tôi

không biết gen này có chức năng gì, nhưng sau khi nghiên cứu 2 năm, chúng tôi đã tìm

ra và mất thêm 2 năm nữa để công bố chính thức kết quả của nghiên cứu này trên tạp

chí Nature.”

Nhóm nghiên cứu của giáo sư Choi đã tìm ra một gen nhịp sinh học mới ở loài ruồi

giấm. Họ đã tạo ra sự biến đổi gen bằng cách nuôi loài ruồi giấm với các gen nhịp sinh

64

học bị chỉnh sửa khiến chúng có vòng tuần hoàn 27 giờ mỗi ngày. Khi phân tích các

gen của chúng, Giáo sư Choi và các cộng sự của ông đã nhận thấy rằng một trong

những gen này bị thiệt hại và sai chức năng và dẫn tới việc làm hỏng nhịp sinh học 24

giờ. Giáo sư Choi đã đặt tên cho gen này là “24” bởi mỗi ngày có 24 giờ và số seri của

gen này là CG4857, có tổng là 24. Vậy phát hiện của giáo sư Choi về gen “số 24” sẽ

giúp ích gì cho nhân loại ?.

 Ứng dụng chữa chứng mất ngủ, thay đổi nhịp sinh học của cơ thể.

“Giấc ngủ, sự mệt mỏi sau chuyến bay dài, ăn uống và các hiện tượng sinh lý học

khác đều liên quan mật thiết tới “đồng hồ sinh học” của chúng ta. Hiểu được nhịp sinh

học sẽ giúp con người giải quyết được các bệnh như mất ngủ, nhức mỏi, rối loạn giấc

ngủ và thậm chí cả các vấn đề về sức khỏe khác. Ví dụ, các thuốc chữa ung thư được

biết là có các tác dụng khác nhau khi được uống vào buổi sáng hoặc ban đêm, bởi các

điều kiện sinh lý của con người khác nhau ở các thời điểm trong ngày và điều này ảnh

hưởng tới hiệu ứng của thuốc. Phòng thí nghiệm của tôi vẫn đang tiếp tục tìm kiếm các

gen nhịp sinh học mới. Hiện chúng tôi cũng đang nghiên cứu về giấc ngủ của loài ruồi

giấm. Bạn có thể băn khoăn liệu ruồi giấm có ngủ không nhưng thực sự là chúng có,

khoảng 800 phút một ngày. Chúng tôi mới tìm ra được con ruồi giấm chỉ ngủ 400 phút

một ngày trong số những con bị biến đổi gen và đang cố gắng tìm ra xem loại gen nào

gây ảnh hưởng tới giấc ngủ của chúng.”

Như vậy, có thể nói thành quả nghiên cứu của giáo sư Choi sẽ mở ra cánh cửa bí

mật cho những vấn đề liên quan đến nhịp sinh học, đến giấc ngủ của con người, từ đó

đưa nhân loại tiến gần hơn tới việc kiểm soát thời gian.

 Các nhà nghiên cứu Mỹ nói rằng, việc ăn uống quá mức gây rối loạn đồng

hồ cơ thể giống như sự mệt mỏi sau một chuyến bay dài qua nhiều múi giờ.

Tiến sĩ Louis Ptacek thuộc Đại học California, San Francisco, cho biết protein

PKCγ đóng vai trò hệ trọng đối với việc điều chỉnh đồng hồ thực phẩm nếu những thói

65

quen ăn uống thay đổi.

Cuộc nghiên cứu cho thấy, chuột thí nghiệm được cung cấp đồ ăn chỉ trong khuôn

khổ thời gian ngủ bình thường sẽ điều chỉnh giờ ăn của chúng qua thời gian và bắt đầu

thức dậy và chạy loanh quanh chờ giờ ăn mới.

Tuy nhiên, những con chuột thiếu gen PKCγ đã không thể phản xạ với những thay

Tiến sĩ Louis Ptacek thuộc Đại học California, San Francisco, cho biết protein PKCγ đóng vai

trò hệ trọng đối với việc điều chỉnh đồng hồ thực phẩm nếu những thói quen ăn uống thay đổi

(Ảnh minh họa)

đổi về giờ ăn, thay vào đó chúng ngủ qua cả bữa ăn.

Ở hầu hết sinh vật, đồng hồ sinh học được quản lý bởi một “đồng hồ mẹ”, còn được

gọi là “bộ dao động tuần hoàn”, vốn theo dõi thời gian và điều phối các quy trình sinh

học với nhịp độ 24 tiếng đồng hồ ngày và đêm.

Phát hiện mới có thể giúp ích cho việc tìm hiểu cơ sở của bệnh tiểu đường, béo phì

và các hội chứng trao đổi chất khác do một đồng hồ thực phẩm mất đồng bộ có thể là

một phần của bệnh lý đằng sau những rối loạn này, ông Ptacek nói.

Kết quả nghiên cứu đã được công bố trên chuyên san Proceedings of the National

66

Academy of Sciences, số ra mới nhất.

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Nguyễn Điểm. Giáo trình sinh lí người và động vật. Trường đại học Quy Nhơn năm

2009.

2. Th.s Nguyễn Minh Thủy. Giáo trình Dinh dưỡng người. Trường đại học Cần Thơ

năm 2005.

3. http://www.thuviensinhhoc.com/

4. http://vi.wikipedia.org

67

5. http://violet.vn