229
TRÁCH NHIỆM XÃ HỘI CỦA DOANH NGHIỆP
THEO QUY ĐNH TRONG HIỆP ĐỊNH ĐỐI TÁC TOÀN DIỆN VÀ
TIẾN BỘ XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG (CPTPP)
– MỘT SỐ KHUYẾN NGHỊ CHO VIỆT NAM
Nguyễn Thị Hồng Trang 1, Nguyễn Hữu Hoàng Phúc1
1. Khoa Khoa học Quản lý, Trường Đại học Thủ Dầu Một
Liên hệ email: trangnth@tdmu.edu.vn
TÓM TẮT
Trong bối cảnh toàn cầu hóa ngày nay, trách nhiệm hội của doanh nghiệp (Corporate
Social Responsibility CSR) một vấn đề thu hút được sự quan tâm của các quốc gia, doanh
nghiệp và các tổ chức xã hội khác. Ở góc độ pháp luật quốc tế, các hiệp định thương mại tự do thế
hệ mới đang xu hướng cân bằng các lợi ích thương mại truyền thống và các giá trị hội khác
thông qua việc đưa ra cam kết liên quan đến CSR. Không nằm ngoài xu thế chủ đạo này, Hiệp định
Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and Progressive Agreement
for Trans-Pacific Partnership CPTPP) cũng đã đưa ra một số quy định nhằm thúc đẩy sự tuân
thủ CSR. Do đó, bài viết tập trung phân tích các quy định của CPTPP liên quan đến CSR, từ đó, đề
xuất một số giải pháp nhằm thực thi hiệu quả các cam kết của Việt Nam về vấn đề này.
1. ĐẶT VẤN ĐỀ
1.1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong những năm gần đây, doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng, không chỉ góp phần phát
triển nền kinh tế của các quốc gia, cung cấp việc làm, cải thiện mức sống cho người lao động,
các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp cũng có những tác động không nhỏ đến lợi ích của
hội và môi trường. Do đó, doanh nghiệp được kỳ vọng sẽ đảm bảo thực hiện trách nhiệm của mình
đối với xã hội bên cạnh việc theo đuổi các mục tiêu kinh tế. Trong bối cảnh này, trách nhiệm xã hội
của doanh nghiệp (corporate social responsibility – CSR) là một vấn đề nhận được sự quan tâm lớn
của các quốc gia, các doanh nghiệp các tổ chức hội khác. Trong xu thế toàn cầu hóa với những
mục tiêu phát triển bền vững được đẩy mạnh, việc xây dựng một khung pháp hoàn chỉnh điều
chỉnh CSR là một nhu cầu cấp thiết. Ở cấp độ quốc tế, các quốc gia đang nỗ lực đưa ra các công cụ
pháp lý để thúc đẩy một cách hiệu quả trách nhiệm của doanh nghiệp trong hoạt động của họ. Đặc
biệt, CSR đã bắt đầu được đề cập trực tiếp trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới. Đây là
một bước tiến mới trong lĩnh vực luật thương mại đầu quốc tế nhằm nâng cao CSR. Nằm trong
xu thế này, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (Comprehensive and
Progressive Agreement for Trans-Pacific Partnership – CPTPP) cũng đã đưa ra các cam kết để thúc
đẩy sự tuân thủ CSR trong hoạt động của doanh nghiệp.
CPTPP là một hiệp định thương mại tự do thế hệ mới được ký kết giữa 11 quốc gia (Australia,
Brunei, Canada, Chile, Nhật Bản, Malaysia, Mexico, New Zealand, Peru, Singapore và Việt Nam).
Hiệp định này chính thức hiệu lực tại Việt Nam từ 14/01/2019. Đây được xem một trong những
điều ước quốc tế quan trọng của Việt Nam trong lĩnh vực thương mại, bao gồm 30 chương với các
điều khoản về tự do hóa thương mại, các quy định điều chỉnh về phòng vệ thương mại, lĩnh vực đầu
tư, lao động, thương mại điện tử, … Những cam kết đầy đủ và toàn diện trong CPTPP chắc chắn sẽ
có tác động lớn đến mối quan hệ thương mại giữa các quốc gia thành viên, cũng như giữa các quốc
gia và doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của mình. Đặc biệt, các thành viên của CPTPP đã đưa
ra những cam kết trong việc đảm bảo sự phát triển bền vững, thúc đẩy sự cân bằng giữa các yếu tố
230
kinh tế, xã hội và môi trường. Một trong số các cam kết này chính là tăng cường CSR. Đây là cơ sở
pháp vững chắc cho mỗi quốc gia thành viên khuyến khích doanh nghiệp lồng ghép các lợi ích
hội vào chiến lược, chính sách hoạt động của họ, từ đó hành xử theo cách thức trách nhiệm
đối với hội. Tuy nhiên, ở góc độ các thành viên là những quốc gia đang phát triển như Việt Nam,
vấn đề này cũng sẽ đặt ra không ít thách thức trong việc ban hành các quy định nội luật chính
sách phù hợp nhằm thực thi một cách hiệu quả các cam kết trong CPTPP. Chính vì vậy, việc nghiên
cứu chủ đề về CSR trong CPTPP là một vấn đề cấp thiết.
1.2. Đối tượng và phương pháp nghiên cứu
Về đối tượng nghiên cứu, xuất phát từ tầm quan trọng của CSR và với mong muốn cung cấp
những phân tích cụ thể về vấn đề này trong CPTPP, bài viết sẽ tập trung phân ch các nội dung sau
đây: (i) xu thế quy định CSR trong các hiệp định thương mại tự do thế hmới; (ii) những cam kết
cụ thể của các quốc gia thành viên về việc tăng cường CSR trong khuôn khổ CPTPP; (iii) một số
kiến nghị cho Việt Nam để thực hiện một cách hiệu quả nghĩa vụ của mình theo quy định của CPTPP
về CSR.
Về phương pháp nghiên cứu, nhóm tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu bao gồm: (i)
phương pháp phân tích và tổng hợp để làm quy định của CPTPP về CSR; (ii) phương pháp so sánh
để trình bày các hướng tiếp cận khác nhau về CSR trong các hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
nói chung và CPTPP nói riêng, từ đó, làm cơ sở để đề xuất các kiến nghị hoàn thiện pháp luật Việt
Nam về CSR, đảm bảo thực thi hiệu quả các cam kết và nghĩa vụ trong CPTPP.
2. KHÁI QUÁT VỀ CSR TRONG CÁC HIỆP ĐỊNH THƯƠNG MẠI TỰ DO THẾ HỆ MỚI
2.1. Khái niệm CSR
Mặc dù tầm quan trọng đặc biệt, khái niệm CSR vẫn chưa được hiểu một cách đồng nhất
trên toàn thế giới (Boki I., 2020). Cho đến hiện nay, có nhiều khái niệm khác nhau về CSR đã được
đưa ra. Từ rất sớm, Hội đồng doanh nghiệp sự phát triển bền vững thế giới (World Business
Council for Sustainable Development) đã đưa ra định nghĩa CSR là việc các doanh nghiệp tiếp tục
những cam kết của nh về hành xử có đạo đức, đóng góp vào sự phát triển kinh tế đồng thời nâng
cao chất lượng cuộc sống của lực lượng lao động, các thành viên trong gia đình của họ cũng như
cộng đồng địa phương và xã hội nói chung (Watts P. và nnk, 1999). Tổ chức Tiêu chuẩn hóa Quốc
tế (International Organisation for Standardisation ISO) cũng định nghĩa trong Tiêu chuẩn ISO
26000 của mình rằng trách nhiệm hội trách nhiệm của một tổ chức đối với các tác động do
quyết định và hoạt động của mình gây ra với xã hội và môi trường nhằm góp phần thúc đẩy sự phát
triển bền vững (Đoạn 2.18). Nhìn chung, trong hai trường hợp trên, CSR được định nghĩa một cách
khái quát với phạm vi rộng, không đề cập đến lĩnh vực cụ thể mà doanh nghiệp cần thực hiện trách
nhiệm xã hội của mình.
Cho đến gần đây, Liên minh Châu Âu (European Union EU) với những cam kết mạnh mẽ
về việc tăng cường CSR đã đưa ra định nghĩa CSR một cách cụ thể hơn trong văn kiện Chiến lược
được đổi mới giai đoạn 2011-14 về Trách nhiệm hội của doanh nghiệp của Ủy ban Châu Âu
(European Commission’s Communication, A Renewed Strategy 2011-14 for Corporate Social
Responsibility), theo đó CSR được hiểu trách nhiệm của doanh nghiệp đối với c động của
doanh nghiệp với xã hội” và các hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp phải đảm bảo tích hợp với
các mối quan tâm của hội, môi trường, đạo đức, quyền con người, người tiêu dùng các bên
liên quan khác (European Commission, 2011). Theo góc nhìn này, các khía cạnh bản của CSR
bao gồm nhiều lĩnh vực khác nhau, không chỉ là các vấn đề xã hội môi trường mà còn bao gồm
các lĩnh vực khác như đạo đức, quyền con người và mối quan tâm của người tiêu dùng.
Như vậy, mặc định nghĩa về CSR cần được làm hơn trong một số phạm vi nhất định
nhưng qua các khái niệm nêu trên, có thể nhận thấy rằng nội hàm khái niệm CSR sẽ có những điểm
chung sau đây: (1) CSR tập trung vào các lợi ích khác ngoài việc tìm kiếm lợi nhuận của doanh
231
nghiệp mà doanh nghiệp cần đảm bảo thực hiện; (2) CSR đề cập đến trách nhiệm xã hội của doanh
nghiệp đối với các tác động doanh nghiệp gây ra; (3) phạm vi của CSR bao gồm nhiều lĩnh
vực khác nhau mà hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp có thể tác động đến, chẳng hạn như môi
trường, đạo đức, quyền con người, người lao động, người tiêu dùng và các lợi ích xã hội khác.
2.2. CSR trong các Hiệp định thương mại tự do thế hệ mới
Các hiệp định thương mại tự do (Free Trade Agreements FTAs) công cụ pháp quan
trọng trong ngành luật thương mại và đầu quốc tế. Trong nhiều năm qua, mục tiêu truyền thống
và chủ đạo trong FTAs là phát triển kinh tế, chẳng hạn như giảm các rào cản thuế quan và phi thuế
quan hay bảo hộ nhà đầu tư cũng như dự án đầu tư của họ. Tuy nhiên, cùng sự phát triển ngày càng
lớn mạnh của doanh nghiệp với những hoạt động kinh doanh diễn ra trên quy toàn cầu trong
chuỗi cung ứng phức tạp, một số tác động tiêu cực từ hoạt động kinh doanh đến các giá trị hội
như nhân quyền, lao động, môi trường đã phát sinh, đặc biệt các quốc gia đang phát triển. Do
đó, nếu chỉ tập trung vào các mục tiêu kinh tế không quan tâm đến các mục tiêu phi kinh tế
hướng đi không còn phù hợp với xu thế chung của sự phát triển bền vững. Trên cơ sở đó, nhiều nỗ
lực đến từ các quốc gia đã được ghi nhận khi tiến hành đàm phán và ký kết FTAs nhằm giảm thiểu
những tác động tiêu cực từ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, một trong số đó đưa ra các
quy định CSR vào trong bối cảnh luật thương mại quốc tế.
Hiện nay, FTAs thế hệ mới từng bước đề cập đến các tiêu chuẩn liên quan đến CSR trong nội
dung quy định của nh. Việc đề cập CSR một cách trực tiếp hay gián tiếp trong FTAs giúp cung
cấp sở pháp và động lực cho quốc gia trong việc khuyến khích doanh nghiệp lồng ghép các
lợi íchhội vào chiến lược, chính sách, hoạt động của họ và hành xử theo cách có trách nhiệm với
xã hội (Boki I., 2020). Từ đó, tạo điều kiện thuận lợi cho sự cân bằng giữa một mặt là thúc đẩy tăng
trưởng kinh tế mặt khác nhu cầu bảo vệ các lợi ích phi kinh tế, đóng góp vào việc theo đuổi
các giá trị phát triển bền vững của quốc gia.
Nhìn chung, CSR được đề cập trong FTAs theo một số phương pháp khác nhau, tùy thuộc vào
kết quả của quá trình đàm phán, cân bằng lợi ích và ký kết điều ước quốc tế của c quốc gia. V
cơ bản, có hai cách thức chủ yếu sau đây để quy định về CSR trong FTAs, cụ thể:
Thứ nhất, CSR được nêu trong Lời mở đầu của các hiệp định, không hiệu lực ràng buộc về
mặt pháp đối với các nhà đầu tư, doanh nghiệp trong việc phải thực hiện các hoạt động trách
nhiệm với xã hội (Boki I., 2020). Các vấn đề liên quan đến CSR được đề cập trong phần mở đầu có
sự khác nhau giữa các điều ước quốc tế, thể từ các vấn đề vlao động môi trường đến phát
triển bền vững. Chẳng hạn như trong Hiệp định Đối tác Toàn diện Kinh tế Khu vực (Regional
Comprehensive Economic Partnership – RCEP), thúc đẩy sự phát triển bền vững (trong đó có CSR)
chỉ được đề cập đến trong Lời mở đầu của Hiệp định không có bất kỳ quy định cụ thể nào liên
quan đến quyền nghĩa vụ c quốc gia thành viên hay doanh nghiệp nhà đầu cần thực
hiện trong lĩnh vực này.
Thứ hai, các điều khoản nội dung của FTAs thế hệ mới công nhận nghĩa vụ gián tiếp của các
doanh nghiệp (Boki I., 2020). Cách tiếp cận này chỉ ra rằng các quốc gia thành viên chủ thể chính
có trách nhiệm thúc đẩy hành vi có trách nhiệm của doanh nghiệp. Nghĩa là, thay vì tạo ra các nghĩa
vụ trực tiếp yêu cầu doanh nghiệp phải tôn trọng CSR, FTAs thế hệ mới đưa nghĩa vụ này về phía
các quốc gia thành viên. Theo đó, FTAs yêu cầu các quốc gia này ban hành và thực hiện những biện
pháp thích hợp trong nội luật, chính sách thuộc thẩm quyền của mình để đảm bảo rằng doanh nghiệp
sẽ tuân thủ các tiêu chuẩn hay nguyên tắc về CSR. Thông thường, cách thức quy định này viện dẫn
đến một số công cụ pháp quốc tế của Liên hợp quốc, Tổ chức Lao động Quốc tế hay Tổ chức hợp
tác Phát triển kinh tế OECD (Levashova Y., 2018). Một dụ điển hình cho trường hợp này
chính Hiệp định Thương mại Tự do giữa Việt Nam Liên minh Châu Âu (European Union
Vietnam Free Trade Agreement - EVFTA), trong đó, nghĩa vụ của EU và Việt Nam về việc đẩy
mạnh CSR được quy định trực tiếp tại điểm e, khoản 2, Điều 13.10.
232
Với cách thức trên, có thể khẳng định rằng CSR đã chứng kiến một bước phát triển ý nghĩa
khi được cam kết thực thi trong FTAs thế hệ mới. Việc đưa CSR vào một khung pháp chặt chẽ
hơn như FTAs sẽ tạo ra động lực cho các doanh nghiệp hành xử một cách có trách nhiệm với cộng
đồng, xã hội và môi trường.
3. CSR THEO CÁC QUY ĐỊNH CỦA CPTPP
Nằm trong xu thế chung của FTAs thế hệ mới, CPTPP đã đưa ra những cam kết của các quốc
gia thành viên trong việc thúc đẩy sự tuân thủ CSR của doanh nghiệp. Những cam kết này được đề
cập trong Lời mở đầu, đồng thời, được quy định trong một số điều khoản nội dung của Hiệp định
này. Cụ thể:
3.1. CSR trong Lời mở đầu của CPTPP
Lởi mở đầu được xem một nội dung quan trọng của điều ước quốc tế, cung cấp những thông
tin chi tiết về ý định của các quốc gia ký kết cũng như nêu lên các mục tiêu cơ bản mang tính định
hướng cho toàn bộ các quy định trong điều ước. Với tầm quan trọng như vậy, Lời mở đầu của
CPTPP đã nêu rõ mục tiêu của Hiệp định này là thúc đẩy sự hội nhập kinh tế, tự do hóa thương mại
và đầu tư, tăng cường khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường và thiết lập một khuôn
khổ pháp có tính dự đoán được cho thương mại giữa các quốc gia thành viên. Đặc biệt, CPTPP
đã khẳng định tầm quan trọng của việc thúc đẩy CSR thông qua các cam kết về tăng trưởng kinh
tế lợi ích hội”, mang lại lợi ích cho người tiêu dùng, giảm nghèo thúc đẩy tăng trưởng
bền vững”, thúc đẩy bảo vệ môi trường mức độ cao”, bảo vệ thực thi quyền lao động, cải
thiện điều kiện làm việc và mức sống” cũng như mở rộng các cơ hội để làm giàu bản sắc văn hóa
và sự đa dạng văn hóa trong và ngoài nước.” (CPTPP, Lời mở đầu)
Qua những cam kết trên trong Lời mở đầu, thể thấy rằng CPTPP được kết nhằm tạo nên
sự cân bằng giữa một bên là các mục tiêu mang tính truyền thống của FTAs, ví dụ như thúc đẩy hội
nhập kinh tế tự do hóa thương mại, và một bên là các mục tiêu về phát triển bền vững. Bằng việc
sử dụng các cụm từ như thúc đẩy”, tăng cường”, thừa nhận”, Lời mở đầu của CPTPP cho thấy
sự nỗ lực của các quốc gia thành viên, trong đó có Việt Nam, trong việc đảm bảo các tiêu chuẩn về
bảo vệ môi trường, lao động, bản sắc văn hóa, quyền lợi của người tiêu dùng. Trong bối cảnh này,
áp dụng và tuân thủ các nguyên tắc CSR là một trong những hoạt động cần thiết nhằm đáp ứng các
cam kết đã đề ra. Chính vì vậy, dù không giá trị ràng buộc giống như một điều khoản nội dung,
Lời mở đầu chính là cơ sở vững chắc để đưa ra các quy định nhằm thúc đẩy CSR trong khuôn khổ
CPTPP.
3.2. CSR trong các điều khoản nội dung của CPTPP
Không chỉ được đề cập đến trong Lời mở đầu, CSR được quy định trực tiếp trong một số điều
khoản nội dung của CPTPP, bao gồm Điều 9.17 trong Chương 9 liên quan đến hoạt động đầu tư,
Điều 19.7 trong Chương 19 về quyền lao động cuối cùng Điều 20.10 trong Chương 20 điều
chỉnh các vấn đề về môi trường. thể thấy rằng, CSR trong CPTPP không được tiếp cận theo
nghĩa rộng, bao quát tất cả các lĩnh vực đề cập ràng đến một số khía cạnh cụ thể về đầu tư,
lao động i trường. Tuy nhiên, được đề cập đến các lĩnh vực khác nhau, CPTPP đã xây
dựng nhất quán cấu trúc chung cho các điều khoản về CSR. Theo đó, các quốc gia thành viên sẽ nỗ
lực khuyến khích các doanh nghiệp hoạt động trên lãnh thổ của mình tham gia một cách tự nguyện
vào các sáng kiến liên quan đến CSR, đồng thời, chủ động đưa các nguyên tắc về CSR trong lĩnh
vực i trường, lao động vào chính sách hoạt động của nh, phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế đã
được công nhận.
Như vậy, CPTPP không trực tiếp quy định nghĩa vụ cho doanh nghiệp phải tuân thủ CSR.
Thay vào đó, các Bên, tức là các quốc gia thành viên chủ động nỗ lực ban hành các chính sách hay
nội luật cần thiết để khuyến khích, tạo động lực cho doanh nghiệp hoạt động theo cách thức phù
hợp với CSR. Nói cách khác, đây là một phương thức quy định gián tiếp. Các quốc gia thành viên,
233
chứ không phải bản thân doanh nghiệp, chủ thể chính thực hiện các nghĩa vụ được đưa ra trong
CPTPP để tăng cường CSR. Một số biện pháp mà các quốc gia thể cân nhắc ban hành bao gồm
tăng cường các hoạt động giáo dục, đào tạo, trao đổi thông tin hay tư vấn về CSR. Đồng thời, ngôn
ngữ mà CPTPP sử dụngngôn ngữ “mềm”. Nghĩa vụ của quốc gia là nằm ở sự “nỗ lực” mà không
phải “bắt buộc” phải ban hành chính sách hay nội luật khuyến khích doanh nghiệp tuân thủ CSR.
Điều này thể được lý giải bởi số lượng thành viên của CPTPP. CPTPP là một hiệp định thương
mại sự tham gia của nhiều thành viên với sự khác biệt vtrình độ phát triển kinh tế mức độ
quan tâm đến lợi ích hội. Việc áp đặt một nghĩa vụ bắt buộc phải đảm bảo ban hành các chính
sách về CSR thể dẫn tới nhiều khó khăn cho các quốc gia đang phát triển trong việc cân bằng
giữa các lợi ích kinh tế và lợi ích xã hội, từ đó, ảnh hướng đến tính hiệu quả trong quá trình thực thi
các nghĩa vụ của CPTPP.
Một điểm đáng lưu ý là CPTPP đã không đưa ra định nghĩa cụ thể thể nào là CSR mà chỉ yêu
cầu rằng việc tuân thủ CSR phù hợp với các tiêu chuẩn quốc tế đã được công nhận rộng rãi. Mặc
khác, các điều khoản về CSR này không viện dẫn trực tiếp đến bất kỳ nguyên tắc, hướng dẫn hay
tiêu chuẩn quốc tế cụ thể nào. Điều này có thể xem một chế mở để các quốc gia linh hoạt áp
dụng các tiêu chuẩn quốc tế về CSR phù hợp với định hướng và tiềm lực phát triển của mình. Nhìn
chung, dựa trên thực tiễn áp dụng và nội dung của một số FTAs thế hiện mới hiện nay (ví dụ như
EVFTA), một số tiêu chuẩn được cộng đồng quốc tế công nhận rộng rãi liên quan đến CSR bao
gồm Nguyên tắc hướng dẫn của Liên hợp quốc về kinh doanh và nhân quyền, Hướng dẫn của Tổ
chức hợp tác Phát triển kinh tế cho các doanh nghiệp đa quốc gia về hoạt động kinh doanh
trách nhiệm, Hiệp ước toàn cầu của Liên hợp quốc, và Tuyên bố ba bên của Tổ chức Lao động quốc
tế về các Nguyên tắc liên quan đến doanh nghiệp đa quốc gia và chính sách xã hội.
Thứ nhất, Nguyên tắc hướng dẫn của Liên hợp quốc về kinh doanh và nhân quyền (United
Nations Guiding Principles on Business and Human Rights – UNGPs)
UNGPs là một tiêu chuẩn được quốc tế được công nhận liên quan đến CSR, đặc biệt là trong
lĩnh vực nhân quyền. UNGPs đã được Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc nhất trí thông qua vào
năm 2011 (Ruggie J.G., 2014). Về cơ bản, UNGPs một bộ tiêu chuẩn toàn cầu nhằm ngăn ngừa
giảm thiểu c động bất lợi của các doanh nghiệp đa quốc gia đối với nhân quyền giải quyết
khoảng cách giữa luật pháp và thực tiễn liên quan đến CSR trong lĩnh vực này, từ đó góp phần vào
quá trình toàn cầu hóa bền vững về mặt xã hội. Tuy nhiên, UNGPs không phải là một công cụ pháp
lý có thể được các quốc gia ký kết hoặc phê chuẩn, tức là UNGPs không thể đưa ra bất kỳ nghĩa v
ràng buộc pháp mới nào đối với các quốc gia hoặc doanh nghiệp kinh doanh. Thay vào đó, UNGPs
cung cấp chi tiết làm hơn các nghĩa vụ hiện trong một số tiêu chuẩn nhân quyền quốc tế
khác, góp phần làm sáng tỏ cho cả quốc gia doanh nghiệp về cách thực hiện các nghĩa vụ này
trên thực tế gắn với CSR (United Nations, 2014). vậy, bản chất của UNGPs được xác định
“luật mềm” (soft law).
Thứ hai, Hiệp ước toàn cầu của Liên hợp quốc (The United Nations Global Compact)
Hiệp ước này của Liên hợp quốc được công nhận sáng kiến lớn nhất về CSR trên thế giới
hiện nay với sự tham gia của hơn 8000 doanh nghiệp trụ sở tại hơn 160 quốc gia vùng lãnh
thổ. Hiệp ước được Liên hợp quốc thúc đẩy nhằm mục tiêu kêu gọi các doanh nghiệp trên quy
toàn cầu cam kết thực hiện các hoạt động kinh doanh trách nhiệm với hội, môi trường. Hiệp
ước toàn cầu của Liên hợp quốc đưa ra mười nguyên tắc chung liên quan đến CSR trong các lĩnh
vực quyền con người, lao động, môi trường chống tham nhũng, đồng thời thực hiện các hành
động nhằm thúc đẩy các mục tiêu xã hội thực hiện phát triển bền vững. Các doanh nghiệp tham
gia sẽ tự nguyện tích hợp những nguyên tắc của Hiệp ước vào chiến lược và hoạt động kinh doanh
hằng ngày của mình (United Nations Global Compact, 2014).
Thứ ba, Hướng dẫn của Tổ chức hợp tác Phát triển kinh tế cho các doanh nghiệp đa
quốc gia về hoạt động kinh doanh có trách nhiệm (Organisation for Economic Co-operation and
Development Guidelines for Multinational Enterprises on Responsible Business Conduct
OECD Guidelines)