26
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Dương Hoa
*Email: hoasdin@gmail.com
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
TRƯỜNG ĐẠI HỌC HÙNG VƯƠNG
Tập 36, Số 3 (2024): 26 - 38
JOURNAL OF SCIENCE AND TECHNOLOGY
HUNG VUONG UNIVERSITY
Vol. 36, No. 3 (2024): 26 - 38
Email: tapchikhoahoc@hvu.edu.vn Website: www.jst.hvu.edu.vn
TRỞ NGẠI VỚI NHÀ ĐẦU TƯ KHI ĐÁNH GIÁ CÁC YẾU TỐ ESG
TRONG DOANH NGHIỆP TẠI VIỆT NAM
Nguyễn Dương Hoa1*
1 Viện nghiên cứu Phát triển bền vững Vùng, Viện Hàn lâm KH&XH Việt Nam, Hà Nội
Ngày nhận bài: 12/7/2024; Ngày chỉnh sửa: 15/8/2024; Ngày duyệt đăng: 18/8/2024
DOI: https://doi.org/10.59775/1859-3968.212
Tóm tắt
Bằng phương pháp nghiên cứu định tính, dựa trên các tài liệu thứ cấp, nghiên cứu tìm hiểu việc thực hiện
ESG và đầu tư dựa trên ESG tại Việt Nam, từ đó xác định ba khó khăn chính đối với các nhà đầu tư là: hạn
chế về công cụ đo lường ESG, doanh nghiệp thiếu minh bạch và nỗ lực trong việc thực hiện ESG, và thiếu đội
ngũ chuyên gia ESG.
Từ khóa: ESG, phát triển bền vững, doanh nghiệp, đầu tư.
1. Đặt vấn đề
Khái niệm đầu trách nhiệm hội
(SRI), hay còn gọi đầu bền vững, tiêu
chuẩn môi trường, xã hội, quản trị (ESG)
gốc rễ sâu xa từ các phong trào dân quyền,
phản đối chiến tranh và bảo vệ môi trường từ
những năm 60, 70 của thế kỷ trước [1]. Tuy
nhiên, đến năm 2004, khái niệm ESG mới
lần đầu được chính thức nhắc tới trong báo
cáo “Who Cares Wins”, khẳng định việc đưa
các yếu tố ESG vào các quyết định đầu tư sẽ
góp phần giúp thị trường ổn định dễ dự
đoán hơn, lợi ích của tất cả các tác nhân
trong thị trường [2]. Định nghĩa ESG bao
gồm ba khía cạnh. Khía cạnh môi trường (E)
đo lường tác động của doanh nghiệp với hệ
sinh thái tự nhiên, bao gồm lượng khí thải, sử
dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong
quá trình sản xuất, ô nhiễm và chất thải và nỗ
lực đổi mới để thiết kế sinh thái sản phẩm.
Khía cạnh hội (S) bao gồm các mối quan
hệ của công ty với lực lượng lao động, khách
hàng hội. Khía cạnh quản trị (G) nắm
bắt các hệ thống quản tại chỗ để hành động
lợi ích tốt nhất của các cổ đông dài hạn
[3]. Đầu gắn với các tiêu chí ESG đã
đang phát triển mạnh mẽ, không chỉ châu
Âu trên toàn cầu, trở thành chiến lược
được sử dụng rộng rãi nhất bởi các nhà đầu
tư SRI [4].
ESG rất quan trọng cho sự phát triển bền
vững của các quốc gia, đặc biệt Việt
Nam, quốc gia nguy cơ bị ảnh hưởng bởi
biến đổi khí hậu mất 14,5% GDP vào
năm 2050. Cam kết đưa lượng khí thải ròng
về mức 0% vào năm 2050 của Việt Nam sẽ
giúp mở ra các cơ hội hợp tác mới, thúc đẩy
27
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 36, Số 3 (2024): 26-38
nền kinh tế tuần hoàn, thích ứng với biến đổi
khí hậu [5]. ESG đang trở thành yếu tố quan
trọng hơn đối với các nhà đầu khi đưa ra
quyết định đầu tư, đặc biệt trong trường hợp
nguồn vốn từ châu Âu các quốc gia phát
triển. Các công ty báo cáo ESG đáng tin
cậy các thủ tục sẽ có thêm lợi thế khi nhận
được nguồn tài trợ. Với 753 tỷ USD thu hút
đầu vào khí hậu từ năm 2016 đến năm
2030, các công ty có cơ hội thị trường rất lớn
nếu kịp thời sáng tạo và thực hiện tiêu chuẩn
ESG [6]. Tại Việt Nam, ứng dụng ESG trong
đầu vào doanh nghiệp đang được phát
triển các lĩnh vực: tài chính - ngân hàng,
năng lượng tài nguyên, bất động sản
sản xuất. Do đó, ESG đang nhận được sự
quan tâm lớn từ chính phủ, các nhà đầu tư
doanh nghiệp.
Tuy nhiên, khi xem xét ESG như một yếu
tố quan trọng trong quá trình đưa ra quyết
định đầu tư, các nhà đầu bền vững gặp
nhiều khó khăn trong quá trình sử dụng bộ
tiêu chí này để đánh giá hoạt động của doanh
nghiệp. Đầu tiên, hiện nay nhiều dịch
vụ hướng dẫn các chính phủ doanh nghiệp
đánh giá và làm báo cáo ESG như: Đầu tư
trách nhiệm hội (GRI), Hội đồng Chuẩn
mực Kế toán Bền vững (SASB), Môi trường,
hội & Quản trị doanh nghiệp (UNGC), Tổ
chức Hợp tác và Phát triển Kinh tế (OECD),
Tổ chức Tiêu chuẩn Quốc tế (ISO 26000),
Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), các nhà
đầu vẫn hoài nghi về chất lượng của các
bản tự báo cáo, liên quan đến các vấn đề như
đặc thù ngành, tiềm ẩn xung đột lợi ích, tính
xác thực của các con số trong báo cáo...[7].
Một thực tế khác việc dữ liệu ESG luôn
sẵn trên một số nền tảng tài chính như
Bloomberg cũng làm gia tăng lo ngại về chất
lượng của dữ liệu. Các chỉ số này thể
xanh “giả”, rất khó để nhận diện thường
không nhất quán giữa các doanh nghiệp. Đến
hiện tại, cũng chưa có một danh sách đầy đủ,
cụ thể, thống nhất về các vấn đề ESG có thể
định lượng được để các nhà đầu đưa ra
đánh giá khách quan, chính xác [3]. Sự thiếu
ràng trong các thông số chi phối việc tích
hợp các yếu tố ESG cũng dẫn đến khó khăn
trong việc đánh giá mức độ thực hiện ESG
tại các doanh nghiệp. Trong khi đó, không
thể áp dụng một công thức ESG cho tất cả
các công ty, hay cho cả doanh nghiệp và nhà
đầu tư [4].
Bài viết này tập trung phân tích thực trạng
thực hiện các tiêu chí ESG tại Việt Nam, từ
đó chỉ ra các trở ngại với các nhà đầu tư khi
xem xét các yếu tố ESG để đưa ra quyết định
đầu tư, từ đó đưa ra một số khuyến nghị với
doanh nghiệp và nhà đầu tư.
2. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp thu thập tài liệu thứ cấp:
Nghiên cứu thu thập các tài liệu nghiên cứu
bao gồm: sách, tạp chí, luận văn, luận án của
các nhà xuất bản trên thế giới Việt Nam
mà nội dung có bàn đến bộ tiêu chí đánh giá
việc thực hiện các tiêu chí ESG trong doanh
nghiệp vào doanh nghiệp dựa trên tiêu chí
ESG, các yếu tố của ESG, trách nhiệm hội
của doanh nghiệp, kinh tế bền vững, tính bền
vững. Từ đó, xác định các nội dung cốt lõi
của việc đầu tư dựa trên ESG.
3. Kết quả nghiên cứu và thảo luận
3.1. Một số quy định về việc thực hiện ESG
trong doanh nghiệp tại Việt Nam
Tại Việt Nam, ESG đang ngày càng nhận
được sự quan tâm của Chính phủ, các doanh
nghiệp và nhà đầu tư.
Tại COP26, Việt Nam đưa ra một loạt
cam kết hành động khí hậu, tập trung vào
việc giảm khí nhà kính hướng tới nền kinh
tế tuần hoàn [8]. Những điều này sẽ tác
động tích cực đến quá trình chuyển đổi sang
trạng thái trung hòa carbon và đưa Việt Nam
hướng tới nền kinh tế bền vững [9].
28
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Dương Hoa
Hình 1. Cam kết của Việt Nam trong việc ứng phó với biến đổi khí hậu
(Nguồn: Công ước khung của Liên hợp quốc về biến đổi khí hậu, Bộ Tài nguyên và Môi trường)
Đạt mục tiêu
phát thải ròng bằng 0
Năm
2030
Loại bỏ dần
nhiệt điện than
Năm
2040
Chấm dứt
nạn phá rừng
Năm
2030
Giảm phát thải
khí nhà kính
(Greenhouse Gas
Năm
2030
Việt Nam là một
trong 12 quốc gia
hoàn thành cập nhật
mức đóng góp quốc gia
tự quyết định (NDC)
vào ngày 11/9/2020
Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết
định số 167/QĐ-TTg ngày 8/2/2022 về việc
phê duyệt chương trình hỗ trợ doanh nghiệp
khu vực nhân kinh doanh bền vững giai
đoạn 2022-2025. Trong đó, doanh nghiệp
được đánh giá và công nhận là doanh nghiệp
kinh doanh bền vững sẽ được hỗ trợ vấn
tiếp cận tài chính, gọi vốn đầu [10]. Gần
đây nhất Quyết định số 843/QĐ-TTg
ngày 14/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ
về chương trình hành động quốc gia hoàn
thiện chính sách và pháp luật nhằm thúc đẩy
thực hành kinh doanh có trách nhiệm tại Việt
Nam giai đoạn 2023-2027. Mục tiêu tổng
quát của chương trình thúc đẩy thực hành
kinh doanh có trách nhiệm, phát huy các mặt
tích cực giảm thiểu các mặt tiêu cực của
các hoạt động phát triển kinh tế, kinh doanh
đối với hội, môi trường (tập trung vào
các lĩnh vực đầu tư, lao động, môi trường;
bảo vệ quyền lợi ích hợp pháp của người
lao động, người tiêu dùng và các nhóm dễ bị
tổn thương), qua đó thúc đẩy phát triển kinh
tế tuần hoàn, hoàn thiện thể chế kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Việt
Nam [11].
Ngoài ra, các ngành cụ thể cũng ban hành
các văn bản để hướng dẫn, thúc đẩy thực
hiện ESG.
Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN)
các ban ngành liên quan đã đưa ra nhiều
chỉ thị, thông thúc đẩy cam kết trong
ngành tài chính - ngân hàng với mục tiêu
tăng trưởng xanh và phát triển bền vững.
- Chỉ thị số 03/CT-NHNN ngày 24/3/2015
của Thống đốc NHNN về thúc đẩy tăng
trưởng tín dụng xanh quản rủi ro
môi trường hội trong hoạt động cấp
tín dụng.
- Quyết định số 1552/QĐ-NHNN ngày
06/8/2015 của Thống đốc NHNN ban hành
Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng
thực hiện Chiến lược quốc gia về tăng trưởng
xanh đến năm 2020. Thực tiễn báo cáo ESG
của hệ thống ngân hàng Việt Nam thông qua
một số văn bản như sau [12]:
29
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Tập 36, Số 3 (2024): 26-38
Hình 2. Sơ lược các luật định, chính sách, quy định quan trọng liên quan đến ESG
và phát triển bền vững tại Việt Nam [9]
Nghị định về
giảm phát thải khí
nhà kính và bảo vệ
tầng ozone, lộ trình
ban đầu cho thị
trường cacbon
trong nước
(2019)
Bộ Luật Lao động
Dự thảo Nghị định
Bảo vệ dữ liệu
cá nhân
Luật Ngân hàng/
các định chế
tài chính
(2019) Luật Bảo vệ
quyền lợi
người tiêu dùng
(2023) Dự thảo Luật Bảo vệ
quyền lợi
người tiêu dùng
(sửa đổi)
Chiến lược
quốc gia về
tăng trưởng xanh
giai đoạn 2021-2030,
tầm nhìn đến
năm 2050
Quy hoạch năng
lượng 8 (PDP 8)
đang hoàn thiện,
trong đó bao gồm
mục tiêu loại bỏ
dần điện than Chiến lược
quốc gia về
biến đổi khí hậu
đến năm 2050
Quy định về
Trách nhiệm mở rộng
của Nhà sản xuất
(”EPR”)
Ngân hàng nhà nước
soạn thảo thông tư
Hướng dẫn thực hiện
quản lý rủi ro
về môi trường
(2019) Luật
Chứng khoán
Nghị định 155/NĐ-CP
hướng dẫn
Luật chứng khoán
(2019)
Bộ Nguyên tắc
Quản trị công ty
theo Thông lệ
tốt nhất
Luật Đầu tư
năm 2020
không cho gia hạn
thực hiện dự án đầu tư
sử dụng công nghệ
lạc hậu
(2017) HOSE
công bố Chỉ số
phát triển bền vững
(VNSI)
Bộ Tài chính
đặt ra một số hướng
dẫn về việc công bố
thông tin trên thị trường
chứng khoán (bao gồm
cả các khía cạnh liên
quan đến ESG)
Thành lập
Ban chỉ đạo
thực hiện cam kết
COP28
(2020)
Luật Doanh nghiệp
Phê duyệt đề án
phát triển kinh tế
tuần hoàn
Luật và thông tư
hướng dẫn bảo vệ
môi trường
Môi trường
Xã hội
Quản trị
Việt Nam
hướng tới
thực hành ESG
Chiến lược
bảo vệ môi trường
quốc gia đến năm 2030
tầm nhìn
đến năm 2050
- Sổ tay năm 2015 về hướng dẫn quản
rủi ro nôi trường hội trong hoạt động
cấp tín đụng đối với 15 ngành kinh tế.
- Thông số 39/2016/TT-NHNN ngày
30/12/2016 của Thống đốc NHNN quy định về
hoạt động cho vay của TCTD, chỉ nhánh ngân
hàng nước ngoài đối với khách hảng, trong đó
(Điều 4) quy định nguyên tắc cho vay của
TCTD đối với khách hảng phải phù hợp với
quy định của pháp luật về bảo vệ môi trường.
- Quyết định số S13/QĐ-NHNN ngày
24/4/2017 của Thống đốc NHNN về Chương
trình cho vay khuyến khích phát triển nông
nghiệp ứng dụng công nghệ cao, nông
nghiệp sạch theo Nghị quyết 30/NQ-CP ngày
07/3/2017 của Chính phủ.
- Văn bản số 9050/NHNN-TD ngày
03/11/2017 hướng dẫn các TCTD báo cáo
tình hình cấp tín dụng đối với các lĩnh vực
xanh đánh giá rủi ro môi trường, hội
trong hoạt động cấp tín dụng.
- Quyết định số 1604/QĐ-NHNN ngày
07/8/2018 của Thống đốc NHNN về việc phê
duyệt Đề án phát triển ngân hàng xanh tại
30
TẠP CHÍ KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ Nguyễn Dương Hoa
Việt Nam, trong đó xác định mục tiêu hướng
dòng vốn tín dụng vào việc tài trợ dự án thân
thiện với môi trường.
- Quyết định số 1731/QĐ-NHNN ngày
31/8/2018 của Thống đốc NHNN ban hành
Kế hoạch hành động của ngành Ngân hàng
thực hiện Chương trình Nghị sự 2030 sự
phát triển bền vững.
- Thông số 17/2022/TT-NHNN ngày
23/12/2022 của Thống đốc NHNN hướng
dẫn thực hiện quản rủi ro về môi trường
trong hoạt động cấp tín dụng của TCTD, chi
nhánh ngân hàng nước ngoài.
- Quyết định số 1408/QĐ-NHNN ngày
26/7/2023 của Thống đốc NHNN.
Bộ Tài chính đã ban hành Thông số
96/2020/TT-BTC ngày 16/11/2020 nêu
các tiêu chuẩn hướng dẫn công bố thông
tin ESG trên thị trường chứng khoán đối với
các doanh nghiệp giao dịch đại chúng tại Việt
Nam. Theo hướng dẫn của Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước (SSC), họ phải công bố các
thông tin ESG như phát thải khí nhà kính,
quản nguyên vật liệu, tiêu thụ nước
năng lượng, tuân thủ luật bảo vệ môi trường,
chính sách liên quan đến nhân viên, hành vi
đối với địa phương, cộng đồng các báo
cáo liên quan đến hoạt động thị trường vốn
xanh [6].
3.2. Thực trạng đầu dựa trên ESG tại
Việt Nam
3.2.1. Xu hướng nhà đầu tư dựa trên ESG
để ra quyết định lựa chọn với các doanh
nghiệp Việt Nam
Thực tế cho thấy việc xem xét các yếu tố
ESG trong quy trình đầu thể mang lại
lợi nhuận tích cực, đặc biệt ở thị trường mới
nổi như Việt Nam, với nhu cầu lớn từ các nhà
đầu tư và điều kiện vĩ mô thuận lợi.
Theo báo cáo của Vietnam Report, với
các quỹ đầu tư, đặc biệt các quỹ quy
lớn, các tiêu chuẩn ESG đã trở thành một
phần trong chiến lược dài hạn. Sàn chứng
khoán TP. HCM (HSX) đã bộ chỉ số phát
triển bền vững (VNSI) nhằm “định hướng
bản” các chuẩn phát triển bền vững cho
doanh nghiệp giúp các nhà đầu xác
định các đặc điểm “xanh”. Thực tế, nhóm 20
cổ phiếu dẫn đầu về chỉ số này luôn nhận
được sự quan tâm của các quỹ đầu khi
vượt trội về số lượng trong các danh mục của
quỹ. Báo cáo đầu tiên của quỹ VinaCapital
về ESG cũng nhấn mạnh về “chính sách đầu
trách nhiệm” được xây dựng từ nhiều
năm trước. Công ty quản quỹ UOB Asset
Management Việt Nam (UOBAM) cũng ra
mắt Quỹ đầu cổ phiếu United ESG Việt
Nam (UVEEF) chỉ tập trung đầu vào các
cổ phiếu có nền tảng cơ bản vững chắc, tiềm
năng tăng trưởng tốt xếp hạng ESG cao.
Ngoài ra, việc thẩm định rủi ro ESG cũng
trở nên quan trọng đối với các thương vụ
M&A IPO thành công trong thế giới hậu
COVID-19. Các nhà đầu thường đánh
giá các yếu tố ESG để hiểu hơn về tính
bền vững tổng thể thực tiễn đạo đức của
công ty (Vietnam Report, 2024). Vietnam
Holding (VNH), một quỹ đóng tập trung vào
tiêu dùng trong nước, công nghiệp hóa và đô
thị hóa, đầu vào các doanh nghiệp tăng
trưởng cao tại Việt Nam cũng cam kết phát
triển bền vững cốt lõi của chiến lược đầu
tìm cách kết hợp các yếu tố ESG vào
quy trình đầu tư, đồng thời chỉ đầu vào
các doanh nghiệp thể đạt được các mục
tiêu ESG và tài chính. Tương tự như các quỹ
khác, VNH tự phát triển các tiêu chí xem xét
sự bền vững khi đầu doanh nghiệp dựa
trên Nguyên tắc đầu trách nhiệm của
Liên Hiệp Quốc (UNPRI) và hướng dẫn của
Tập đoàn Tài chính Quốc tế (IFC).