Ước tính kế toán
Khái niệm ớc tính kế toán" đề cập tới các khoản mục trên báo cáo tài
chính (BCTC) mà giá trcủa chúng được ước tính chứ không thể đo
lường một cách chính xác bằng các công thức toán học.
Ví dụ v các khoản ước tính kế toán gồm có khấu hao tài sản cố định, dự
phòng phải thu khó đòi, các phương pháp hạch toán hàng tồn kho, ước tính
giá trị lợi thế thương mại… Để đưa ra các ước tính này, người lập BCTC phải
sử dụng các "xét đoán nghề nghiệp".là các xét đoán nên mang nặng tính
chủ quan, khó có một tiêu chuẩno để đánh giá tính hợp lý cả. Chính vì vậy,
tính tin cậy của các ước tính kế toán là mt vấn đề được người sử dụngo
cáoi chính đc biệt quan tâm.
Trên thực tế tồn tại một quan điểm cho rằng việc cho phép người lập BCTC
sử dụng các xét đoán chủ quan khi lậpo cáo sẽ làm giảm độ tin cậy của
thông tin tài chính, vì có khả năng người lập BCTC sẽ tìm cách che giu
những thông tin quan trọng nếu những thông tin đó có ảnh hưởng không tốt
đến quyền lợi của họ. Lập luận này không hẳn là không có lý, thực tế đã
chứng minh "nỗ lực" phù phép báo cáo tài chính là có thực và ngày càng tinh
vi hơn. Những người ủng hộ quan điểm này cho rằng cần phải hạn chế, thậm
chí loại bỏ hoàn tn việc sử dụng các xét đoán chủ quan khi lập BCTC. Bất
chấp những chỉ trích này, việc sử dụng các ước tính kế toán trong BCTC
không những không bị loại bỏ mà còn có chiều hướng ngày càng gia tăng với
việc kế toán theo "giá trị hợp lý" ngày càng lấn lướt kế toán theo "giá gc".
Sự cần thiết phải có các ước tính kế toán
ràng nguy cơ sử dụng các ước tính kế toán để phản ánh sai lệch thông tin
tài chính là có thực, vậy mà người ta vẫn kng tìm cách loại bỏ chúng. Điều
đó cho thấy việc sử dụng các ước tính này hẳn là có mang li những lợi ích
nhất định. Dưới đây là một số nguyên nhân vì sao xét đoán chủ quan vẫn
đưc sử dụng rộng rãi trong lp BCTC, bất chấp những lo ngại về khả năng
"phù phép" báo cáo tài chính.
Th nhất, việc loại bỏ hoàn toàn các ước tính chủ quan là không khả thi và
thiếu hiệu quả kinh tế.
Thtưởng tượng nếu chúng ta không cho phép các doanh nghiệp được tự xác
định tỷ lệ khấu hao tài sản của mình. Khi đó chế độ kế toán sẽ phải cực kỳ chi
tiết, liệt kê tt cả các tình hung có thể và xác định tỷ lệ khấu hao tương ứng
để các doanh nghiệp theo đó mà áp dng. Điều này không khả thi cả về mặt
kinh tế lẫn kỹ thuật. Giả sử về mặt kỹ thuật ta có thể xây dựng được một chế
độ kế toán chi tiết như vậy thì các doanh nghiệp cũng gp rất nhiều khó khăn
trong việc áp dụng. Tình hình kinh doanh thay đổi theo từng ngày, các doanh
nghiệp sẽ phải luôn đối chiếu với những quy định chi tiết trong luật để thay
đổi tỷ lệ khấu hao cho kịp thời.c quan hành pháp cũng sẽ rất vất vả để
bảo đảm các doanh nghiệp tuân thủ đúng chế độ (luật phức tạp như vậy mà
không có hệ thống hành pháp tốt thì chắc chắn sẽ không doanh nghiệp nào
tuân theo). Mới chỉ có khấu hao tài sản mà đã phức tạp như vậy, nếu xây
dựng mt hệ thống luật chi tiết cho tất cả các khoản mục khác trên BCTC thì
rõ ràng là không khả thi và không hiệu quả.
Ngoài các chi phí trực tiếp như trên, chí phí gián tiếp cònthể lớn hơn nhiều
lần. Một chế độ kế toán "cứng" (không có chỗ cho các xét đoán chủ quan khi
lập BCTC) có thể có ảnh hưởng tiêu cực tới các chính sách sản xuất, đầu tư,
tài chính của doanh nghiệp. Ví dụ, việc yêu cầu tất cả các doanh nghiệp phải
ghi nhận chi pnghiên cu phát triển (R&D) ngay khi phát sinh có th khiến
nhiều doanh nghiệp không có động lực tiến hành các hoạt động R&D, nếu
điều đó ảnh hưởng tiêu cực tới kết quả kinh doanh, qua đó tác động xấu tới
giá c phiếu. Hơn nữa, đặc tính của kinh doanh là luôn tim ẩn yếu tố bất
định, vì vậy sự linh hoạt của người quản lý doanh nghiệp là rất quan trọng đ
đối phó với các tình huống phát sinh. Một chế độ kế toán máy móc có thể sẽ
hạn chế sự linh hoạt cần thiết này.
Th hai, việc cho phép doanh nghiệp sử dụng các xét đoán ch quan trong
lập BCTC cũng mang lại nhiều lợi ích. Lý thuyết đi diện (agency theory) ch
ra rằng tình trạng thông tin không cân xứng (information asymmetry) giữa
nhà quản lý doanh nghiệp và các cổ đông khiến cho rủi ro thông tin tăng lên,
theo đó các nhà đầu tư sẽ yêu cầu một tỷ lệ lợi tức cao hơn để bù đắp cho rủi
ro.
Hệ quả là doanh nghiệp bị đánh giá thấp hơn giá trị thực của nó. Để hạn chế
ảnh hưởng này, BCTC của doanh nghiệp cần cung cấp những thông tin phù
hợp để cổ đôngthể đánh giá chính xác hơn giá trị doanh nghiệp. Việc cho
phép các nhà quản lý sử dụng những xét đoán nghề nghiệp một cách linh hoạt
sẽ giúp cho thông tin BCTC đáp ứng tốt hơn yêu cầu này (báo cáo theo
GAAP không phải khi nào cũng phản ánh hợp lý các thông tin tài chính của
doanh nghiệp). Lợi ích chính của việc cho phép sử dụng các ước tính trong
BCTC là chỗ giúp cho doanh nghiệp có thcung cấp nhưng thông tin cần
thiết về triển vọng phát triển đồng thời tránh phải tiết lộ những thông tin chi
tiết không có lợi cho việc cạnh tranh trên thị trường. Ví dụ, việc vốn hóa
khoản đầu tư vào một dự án mới là mt cách để doanh nghiệp thông báo với
cổ đông rằng lãnh đạo doanh nghiệp tin tưởng vào khả năng thành công của
dự án, thay vì phải tổ chức họp báo công bố chi tiết về dự án đó, vừa tốn kém
lại dễ lộ những thông tin nhạy cảm. Trên thực tế các doanh nghiệp đã và
đang khai thác triệt để sự linh hoạt trong chế độ kế toán để tăng cường hiệu
quả trong quan hệ với nhà đầu tư (IR). Ví dụ, nghiên cu của Bartov và
Bodnar (1996) cung cấp những bằng chứng cho thấy nhiều doanh nghiệp lợi
dụng việc thay đổi các phương pháp kế toán như một biện pháp để cung cp
thông tin tài chính hiệu quả cho c động.
Th ba, cũng lý thuyết đại diện cho rằng nếu cả bên lập BCTC và bên s
dụng BCTC đều ý thức rõ v sự tồn tại của các xét đoán chủ quan trong lập
BCTC thì hsnh tới yếu tnày trong các thoả thuận để có được một hợp
đồng tối ưu.
Vì thế mối lo ngại bên lập BCTC lợi dụng quyền đưa ra các xét đoán chủ
quan của mình để làm li cho bản thân và hại cho bên đối tác sẽ không xảy ra.
Ví dụ, trong hợp đồng cho vay ngân hàng có thyêu cầu doanh nghiệp không
đưc thay đổi phương pháp kế toán trong thời gian vay, nhưng cũng có thể
cho phép bên đi vay sử dụng các quyền tự chủ của mình trong lập BCTC theo
đúng luật. Bù lại ngân hàng có thể yêu cầu một mức lãi suất cao hơn để bù
đắp cho rủi ro có thể phải chịu do bất lợi về thông tin. Nếu doanh nghiệp thấy
mc lãi suất cao hơn là phù hợp so với lợi ích do sự linh hoạt này mang lại thì
h sẽ chấp nhận. Như vậy, không bên nào bị thiệt cả. Trên thực tế các ngân
hàng vẫn thườngnhững hợp đồng như vậy