231
1. Đặt vấn đề
Trong bối cảnh các nền kinh tế, đã
và đang dịch chuyển sang nền kinh
tế tri thức, cùng với việc mở rộng
quy mô, thì xu hướng đi vào chiều sâu, nâng
cao chất lượng các yếu tố đầu vào trong phát
triển sản xuất kinh doanh trở thành tất yếu.
Trong đó, văn hóa doanh nghiệp được xem
thành tố quan trọng góp phần giải phóng năng
lực lao động, năng lực sản xuất, đảm bảo sự
phát triển bền vững của doanh nghiệp. Nhận
thức được vai trò to lớn của văn hóa doanh
nghiệp, trong thời gian qua các chủ thể sản
xuất kinh doanh nước ta đã đầu tư nhiều hơn
cho phát triển văn hóa doanh nghiệp, xem đó
vừa động lực, vừa mục tiêu cần hướng
tới, nhờ đó đã đạt được những kết quả nhất
định, khẳng định vị thế, uy tín của mình
thị trường trong nước, khu vực thế giới.
Tuy nhiên, kinh tế thị trường với những mặt
trái của nó, đã tác động tiêu cực đến văn hóa
của doanh nghiệp, lợi nhuận, nhiều doanh
nghiệp đã giẫm đạp lên những chuẩn mực văn
hóa tối thiểu trong sản xuất kinh doanh, làm
ảnh hưởng đến niềm tin của người tiêu dùng
và sự tôn trọng của các đối tác trong và ngoài
nước. Thực tế đó đòi hỏi, nhà nước với chức
năng công cụ của nhân nhân để quản
hội, cần làm tốt hơn nữa chức năng định
hướng, quản trong xây dựng văn hóa doanh
nghiệp.
2. Văn hóa doanh nghiệp thành tố
quan trọng đảm bảo sự phát triển bền
vững của doanh nghiệp
2.1. Văn hóa doanh nghiệp (corporate
culture), một dạng văn hoá tổ chức
(organizational culture) được bắt đầu nghiên
cứu trở thành một khuynh hướng xây dựng,
phát triển doanh nghiệp trên thế giới vào
những năm 1980, xuất phát từ việc các doanh
nghiệp phương Tây nhận ra yêu cầu phải thay
đổi cách tiếp cận về các doanh nghiệp. Từ chỗ
TM TT
Trong điu kin xây dng nn kinh t th trưng đnh hưng x hi ch ngha ở nưc
ta hin nay, vai tr ca nh nưc đi vi vic xây dng văn ha kinh doanh cc
doanh nghip l mt yêu cầu cần thit. N đm bo s điu tit ca nh nưc đi
vi nn kinh t, đồng thi tạo nên nhng gi tr chân, thin, m trong hoạt đng sn
xut kinh doanh ca cc doanh nghip. Bi vit đ cp đn văn ha doanh nghip,
vai tr ca nh nưc đi vi xây dng văn ha doanh nghip, đồng thi đưa ra nhng
gii php để tăng cưng vai tr ca nh nưc đi vi vic xây dng văn ha kinh
doanh ca doanh nghip trong bi cnh ton cầu ha hin nay.
T kha: Văn ha doanh nghip, kinh t th trưng, thnh t, cu trc, vai tr.
VAI TRÒ CỦA NH NƯỚC TRONG XÂY DỰNG VĂN HA
DOANH NGHIỆP Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
ThS. Lê VăN ThAO
Trưng Đi hc Kin trúc Đ Nng
ThS. Lê VăN ThAO
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
232
chỉ dựa vào các cấu phức tạp, chi tiết
chế kế hoạch cứng nhắc chuyển sang xây
dựng, phát triển văn hóa doanh nghiệp như
một thành tố, sức mạnh mềm cho sự phát
triển bền vững của doanh nghiệp. Tuy nhiên,
cho đến nay các quan niệm về văn hóa doanh
nghiệp vẫn còn có nhiều điểm khác biệt.
Theo Georges De Saite Marie, chuyên gia
người Pháp về các doanh nghiệp vừa và nhỏ:
“Văn hóa doanh nghiệp tổng hợp các giá
trị, các biểu tượng, huyền thoại, nghi thức,
các điều cấm kỵ, các quan điểm triết học, đạo
đức tạo thành nền móng sâu xa của doanh
nghiệp” [4, tr.259]. Còn Akihiko Urata (Nhật
Bản), thì cho rằng, văn hóa doanh nghiệp
thể được hiểu như nét đặc trưng của giá trị
văn hóa, hành vi ứng xử dựa trên một mục
tiêu nào đó mà các thành viên cùng chia sẻ
giữ gìn. thể được coi như những tiêu
chuẩn cách ứng xử phổ biến của doanh
nghiệp đó. Một trong những quan niệm được
sử dụng khá phổ biến hiện nay định nghĩa
của nhà hội học người Mỹ E.N.Schein:
“Văn hóa doanh nghiệp tổng thể những
thủ pháp quy tắc giải quyết vấn đề thích
ứng bên ngoài thống nhất bên trong các
nhân viên, những quy tắc đã tỏ ra hữu hiệu
trong quá khứ và vẫn cấp thiết trong hiện tại.
Những quy tắc và những thủ pháp này là yếu
tố khởi nguồn trong việc các nhân viên lựa
chọn phương thức hành động, phân tích và ra
quyết định thích hợp. Các thành viên của tổ
chức doanh nghiệp không đắn đo suy nghĩ về
ý nghĩa của những quy tắc và thủ pháp ấy,
coi chúng là đúng đắn ngay từ đầu”[5]. Cùng
chung quan điểm đó, theo N.Demetr (Pháp),
văn hóa doanh nghiệp, hệ thống những
quan niệm, những biểu tượng, những giá trị,
và những khuôn mẫu hành vi được tất cả các
thành viên trong doanh nghiệp nhận thức
thực hiện theo.
Tổ chức lao động quốc tếthì định nghĩa,
văn hóa doanh nghiệp sự trộn lẫn đặc
biệt các giá trị, các tiêu chuẩn , thói quen
truyền thống , những những thái độ ứng xử
lễ nghi mà toàn bộ chúng là duy nhất đối với
một tổ chức đã biết.
nước ta, quan niệm về văn hóa doanh
nghiệp cũng khá đa dạng phong phú. Tác
giả Nguyễn Manh Quân, trong các chuyên
đề bàn luận về văn hóa doanh nghiệp đã cho
rằng, văn hóa doanh nghiệp sự tổng hợp
của mọi phương thức hoạt động cùng với biểu
hiện của nó mà một tổ chức, doanh nghiệp đã
sáng tạo ra nhằm thích ứng với những yêu
cầu môi trường hoạt động đòi hỏi của sự
cạnh tranh. Còn theo tác giả Phan Thị Minh
Châu, văn hóa doanh nghiệp được hiểu
toàn bộ các giá trị văn hoá được gây dựng
nên trong suốt quá trình tồn tại phát triển
của một doanh nghiệp; trở thành các giá trị,
các quan niệm tập quán, truyền thống ăn
sâu vào hoạt động của doanh nghiệp; chi phối
tình cảm, nếp suy nghĩ hành vi của mọi
thành viên của doanh nghiệp trong việc theo
đuổi và thực hiện các mục đích.
Mặc dù, quan niệm về văn hóa doanh
nghiệp còn có nhiều điểm khác biệt, song đều
thống nhất cho rằng, văn hóa doanh nghiệp là
kết quả của quá trình lao động sáng tạo của
doanh nghiệp, bao gồm các giá trị vật chất
và tinh thần. Tuy nhiên, có một điểm cần lưu
ý khi xác định văn hóa doanh nghiệp hay
phản giá trị văn hóa, đó cần phải xem xét
đến mục đích sử dụng của các giá trị được
tạo ra, xem nó có hướng đến con người, cuộc
sống tốt đẹp của con người hay chỉ lợi ích
ích kỷ của bản thân chủ thể kinh tế.
2.2. Về mặt cấu trúc, hiện nay khá nhiều
cách phân chia khác nhau về các yếu tố cấu
thành văn hóa doanh nghiệp, nổi bật quan
điểm của Edgar H. Schein, ông cho rằng, cấu
trúc văn hóa doanh nghiệp gồm ba lớp:
233
- Cấp độ thực thể hữu hình cấp độ dễ
thấy nhất, bao gồm các yếu tố liên quan đến
cách kiến trúc trụ sở của doanh nghiệp, cách
tổ chức không gian làm việc, trang phục của
thành viên trong doanh nghiệp, dòng chảy
thông tin trong tổ chức đi như thế nào, ngôn
ngữ sử dụng trong các thông điệp,... Cụ thể
như: Kiến trúc trụ sở của doanh nghiệp; Sản
phẩm; Các nghi lễ; Giai thoại; Biểu tượng;
Ngôn ngữ, khẩu hiệu.
- Cấp độ các giá trị v nguyên tắc những
giá trị được thể hiện, bao gồm những nguyên
tắc, quy tắc của hành vi ứng xử, thể chế lãnh
đạo, những tiêu chuẩn của các hoạt động
trong doanh nghiệp. Dựa trên những giá trị
này các thành viên trong doanh nghiệp sẽ xác
định hành vi, thái độ cho phù hợp. Các giá
trị này bao gồm: Tầm nhìn; Sứ mệnh; Triết
kinh doanh; Các quy trình, thủ tục, hướng
dẫn, các biểu mẫu; Phong cách lãnh đạo; Giá
trị cốt lõi.
- Cấp độ các quan niệm/giả định bản
các giá trị ngầm định bao gồm niềm tin,
nhận thức, suy nghĩ, cảm xúc… những giá trị
ăn sâu, hình thành một chuẩn mực trong
tưởng, suy nghĩ của các thành viên trong tổ
chức. Đây chính tầng sâu nhất trong cấu
trúc văn hóa doanh nghiệp. Những quan niệm
chung những niềm tin, nhận thức tình
cảm tính thức, được mặc nhiên công
nhận trong doanh nghiệp. Sự khác biệt giữa
các giá trị nguyên tắc với những quan
niệm chung thể hiện ngay bản thân hai từ
giá trị và quan niệm.
Theo TS Phan Quốc Việt và ThS. Nguyễn
Huy Hoàng, cấu trúc văn hóa doanh nghiệp
gồm: Triết quản kinh doanh; Động
lực của nhân tổ chức; Quy trình qui
định; Hệ thống trao đổi thông tin; Phong trào,
nghi lễ, nghi thức.
2.3. Trong điều kiện phát triển kinh tế
tri thức, văn hóa doanh nghiệp một trong
những thành tố quan trọng, góp phần khai
thác hiệu quả các nguồn lực của doanh
nghiệp, đảm bảo sự phát triển hài hòa và bền
vững của doanh nghiệp. Điều này được thể
hiện trên các phương diện sau:
Một l, với nghĩa các giá trị vật chất
được sáng tạo trong quá trình lao động sản
xuất, văn hóa doanh nghiệp sức mạnh nội
sinh của mỗi doanh nghiệp, khẳng định vị thế,
sự sống còn của doanh nghiệp trong điều kiện
cạnh tranh khốc liệt của cơ chế thị trường.
Hai l, với nghĩa các giá trị tinh thần
(vô hình), văn hóa doanh nghiệp keo gắn
kết các thành viên của doanh nghiệp. Nó giúp
các thành viên thống nhất về cách hiểu vấn
đề, đánh giá, lựa chọn định hướng hành
động. Khi phải đối mặt với xu hướng xung
đột lẫn nhau thì văn hoá chính là yếu tố giúp
mọi người hoà nhập và thống nhất; Góp phần
điều phối kiểm soát hành vi nhân bằng
các câu chuyện, truyền thuyết; các chuẩn
mực, thủ tục, quy trình, quy tắc... Khi phải
ra một quyết định phức tạp, văn hoá doanh
nghiệp giúp ta thu hẹp phạm vi các lựa chọn
phải xem xét; Tạo động lực làm việc, giúp
nhân viên thấy mục tiêu, định hướng
bản chất công việc mình làm, tạo ra các mối
quan hệ tốt đẹp giữa các nhân viên một
môi trường làm việc thoải mái, lành mạnh,
cảm giác mình làm công việc ý nghĩa hãnh
diện một thành viên của doanh nghiệp.
Điều này càng ý nghĩa khi tình trạng “chảy
máu chất xám” đang phổ biến; Tổng hợp các
yếu tố gắn kết, điều phối, kiểm soát, tạo động
lực... làm tăng hiệu quả hoạt động tạo sự
khác biệt trên thị trường. Hiệu quả và sự khác
biệt sẽ giúp doanh nghiệp cạnh tranh tốt trên
thị trường.
Như vậy, thể thấy rằng, văn hóa doanh
nghiệp là một trong những nhân tố quyết định
sự trường tồn, thoái lui, hay phát triển của
doanh nghiệp. giúp doanh nghiệp trường
tồn vượt xa cuộc đời của những người sáng
lập.Văn hóa doanh nghiệp đã vượt ra một
tài sản của doanh nghiệp mà còn là một công
cụ quyền năng cho các nhà quản trị.
ThS. Lê VăN ThAO
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
234
3.Nhà nước trong định hướng văn hóa
doanh nghiệp
Văn hóa kinh doanh, một phần của văn
hóa nói chung sản phẩm của sự phản ánh
tồn tại xã hội, thuộc về thành tố của kiến trúc
thượng tầng, chịu sự quy định của những điều
kiện sinh hoạt vật chất của hội, của các
quan hệ sản xuất thống trị của xã hội đó. Bởi
vậy, thực tiễn lịch sử chỉ ra rằng, trong
hội đối kháng giai cấp, giai cấp sở hữu
liệu sản xuất không chỉ thống trị về mặt kinh
tế còn thông qua công cụ bạo lực, tức
quyền lực nhà nước, đồng thời thống trị về
mặt chính trị. Bên cạnh đó, để củng cố địa vị
thống trị của mình, giai cấp thống trị còn thực
hiện nô dịch về tư tưởng đối với các giai cấp
và tầng lớp khác trong xã hội. Do đó, các giá
trị văn hóa bao hàm văn hóa kinh doanh cũng
chịu sự chi phối của giai cấp thống trị, biến
thành công cụ, phương tiện để thực hiện
lợi ích của mình, ru ngủ tinh thần phản kháng
của các lực lượng đối lập. Còn trong hội
hội chủ nghĩa, khi liệu sản xuất đã thuộc
về đại đa số nhân dân lao động, thì việc xây
dựng thực hiện các nguyên tắc chuẩn
mực văn hóa của các doanh nghiệp không chỉ
nhằm hướng đến lợi ích của chính bản thân
doanh nghiệp, nhất hướng đến sự tiến
bộ chung của hội. Do đó, nhà nước với
chức năng công cụ của nhân dân để quản
hội đóng vai trò cốt lõi trong việc định
hướng việc xây dựng phát triển văn hóa
doanh nghiệp. Nhà nước thực hiện vai trò của
mình thông qua việc xây dựng các nguyên tắc,
chuẩn mực về văn hóa kinh doanh, thực hiện
giáo dục để xây dựng ý thức cho các chủ thể
kinh doanh, đảm bảo các điều kiện cần thiết
cho việc xây dựng văn hóa doanh nghiệp.
Mặc đã đạt được những kết quả nhất
định, song việc thực hiện vai trò định hướng,
quản việc xây dựng triển khai văn hóa
doanh nghiệp hiện này nhiều bất cập, hạn
chế, chưa đáp ứng được yêu cầu của trình hội
nhập kinh tế quốc tế. Do đó, việc nâng cao
hiệu quả thực hiện vai trò của nhà nước đang
là một vấn đề cấp thiết hơn bao giờ hết.
4. Xây dựng văn hóa doanh nghiệp
trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay
Để làm tốt vai trò của nhà nước trong việc
xây dựng văn hóa doanh nghiệp Việt Nam
hiện nay, thiết nghĩ chung ta cần thực hiện
đồng bộ và linh hoạt các giải pháp sau:
4.1. Xây dựng hoàn tiêu chí đánh giá
văn hóa doanh nghiệp
Thực tế hiện nay cho thấy, nhằm nâng cao
uy tín thương hiệu của mình các chủ thể
kinh doanh đang tự xây dựng cho mình những
quy tắc, chuẩn mực văn hóa riêng. tầm
quốc gia, năm 2007, Việt Nam cũng đã thành
lập Mạng lưới Hiệp ước Toàn cầu Việt Nam
(GCNV) hỗ trợ các nguyên tắc hoat động
của Hiệp ước Toàn cầu của Liên hợp quốc
qua đó nhằm cải thiện các điều kiện hội
và môi trường cho người lao động Việt Nam,
cộng đồng hoạt động của các Công ty
họ làm việc. GCNV được tài trợ bởi Chương
trình Phát triển Liên Hợp quốc (UNDP), do
Phòng Thương mại Công nghiệp Việt Nam
(VCCI) quản lý và thực hiện.
Để đo lường, đánh giá văn hóa doanh
nghiệp, đến nay đã một số công cụ như:
DISC, KMC-CHMA; DENISON,…
DISC hình nghiên cứu của Tiến
William Moulton Marston để kiểm tra hành vi
cá nhân của con người trong một tình huống,
môi trường cụ thể. Theo hình, con người
bốn nhóm tính cách chính D-Dominance
(Xông xáo), I-Influence (Nhiệt tình),
S-Submission (Điềm đạm), C-Compliance
(Chuẩn xác), qua đó chỉ ra sự khác biệt giữa
các nhóm và cách thức phối hợp hiệu quả.
Phần mềm KMC-CHMA được KMCsoft
viết trên sở nghiên cứu 16 năm về Văn
Hoá Doanh Nghiệp của Tiến Trịnh Quốc
Trị để đo lường các yếu tố then chốt của văn
hóa doanh nghiệp.
235
Bên cạnh đó, hình DENISON cũng
được sử dụng rộng rãi trên thế giới như một
công cụ đánh giá văn hóa của các doanh
nghiệp, để từ đó doanh nghiệp nhận thức được
những điểm mạnh, điểm yếu. Với những tiêu
chí đúng đắn doanh nghiệp sẽ đưa chúng trở
thành các quy tắc duy trì qua thời gian để
trở thành thành các giá trị ngầm định được
chia sẻ rộng rãi trong doanh nghiệp.
Mặc vậy, những tiêu chí này vẫn còn
nhiều điểm bất cập, chưa thực sự phù hợp với
bối cảnh văn hóa của nước ta. Thực tế đó, đòi
hỏi cần phải xây dựng một Bộ tiêu chí văn
hóa kinh doanh làm sở để đánh giá văn hóa
của các doanh nghiệp hiện nay.
4.2. Giáo dục nâng cao nhận thức của
chủ thể doanh nghiệp về văn hóa doanh
nghiệp
Sự hình thành ý thức về việc xây dựng
triển khai văn hóa doanh nghiệp cho các chủ
thể sản xản xuất kinh doanh một quá trình
lâu dài. Để cho quá trình này diễn ra nhanh
hơn thì giáo dục được yếu tố hết sức quan
trọng. Việc giáo văn hóa doanh nghiệp có thể
thức hiện bằng nhiều phương thức, hình thức,
phương tiện khác nhau:
- Thứ nhất, giáo dục văn hóa doanh nghiệp
trong nhà trường, đặc biệt các khối ngành
kinh tế. Việc giáo dục phải gắn liền với thực
tiễn kinh doanh, để qua đó người học thấy
được vai trò của văn hóa doanh nghiệp, thấy
được hậu quả của những hành vi vi phạm các
nguyên tắc, chuẩn mực văn hóa trong kinh
doanh của doanh nghiệp nhằm hình thành cho
người học những chủ thể kinh doanh của
tương lai ý thức tự giác trong xây dựng
triển khai văn hóa doanh nghiệp khi tham gia
vào hoạt động kinh doanh trên thực tế.
- Thứ hai, phương tiện thông tin đại
chúng sẽ một công cụ hữu hiệu để cung cấp
cho các chủ thể kinh doanh những tri thức về
văn hóa kinh doanh, từ đó hình này nên sở,
động lực cho các chủ thể sản xuất kinh doanh
nghiên cứu xây dựng triển khai văn hóa
kinh doanh cho phù hợp với điều kiện thực tế
của doanh nghiệp mình.
Bên cạnh đó, nhà nước cần những chính
sách nhằm động viên, khuyến khích, tôn vinh
những doanh nghiệp thành công trong xây
dựng văn hóa trong kinh doanh, lấy văn hóa
kinh doanh làm tiêu chí cho việc xếp loại các
doanh nghiệp,.. đồng thời cần lên án mạnh, xử
nghiêm các doanh nghiệp những hành
vi phản văn hóa, góp phần làm lành mạnh hóa
môi trường kinh doanh của nước ta hiện nay.
4.3. Hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh
tế – tiêu chí văn hóa tối thiểu của các doanh
nghiệp
Xuất phát từ một nước nông nghiệp lạc
hậu, tâm tiểu nông trong các hoạt động
sản xuất kinh doanh, nên sự tự giác trong xây
dựng và triển khai văn hóa doanh nghiệp của
các chủ thể sản xuất kinh doanh còn nhiều
hạn chế. Vì vậy, cần phải xây dựng hệ chuẩn
mực về văn hóa của doanh nghiệp trong hệ
thống pháp luật. Các quy chuẩn về văn hóa
của doanh nghiệp phải được cụ thể hóa trong
các quy phạm pháp luật, nhất trong hệ thống
pháp luật về kinh tế nhằm bảo vệ những giá
trị văn hóa kinh doanh, tạo ra một môi trường
kinh doanh lành mạnh. Để làm được điều này,
thiết nghĩ cần phải:
Thứ nhất, hon thiện công tác xây dựng
v ban hnh pháp luật: Trong lĩnh vực kinh
doanh, hiện nay còn nhiều lĩnh vực chưa
quy định, chế tài một cách minh bạch,
ràng; các bộ luật, đạo luật và kế cả những văn
bản dưới luật chưa xác định một cách đầy đủ
đối tượng điều chỉnh, phạm vi áp dụng. Điều
đó dẫn đến nhiều hệ lụy cho việc xử các
hành vi vi phạm trong hoạt động kinh doanh.
Tình hình đó, đòi hỏi chúng ta phải từng bước
bổ sung hoàn chỉnh hệ thống pháp luật,
đồng thời phải loại ra ngoài hệ thống pháp
luật những văn bản không còn thích hợp với
thực tế trong lĩnh vực sản xuất và kinh doanh.
Mặt khác, cần chủ trọng việc xây dựng ban
hành những bộ luật, đạo luật mới cho phù hợp
ThS. Lê VăN ThAO