
Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
320
NHỮNG VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG CỦA HỆ THỐNG
LIÊN HỒ CHỨA TRÊN LƯU VỰC SÔNG BA
TRÊN QUAN ĐIỂM THỦY VĂN SINH THÁI
Nguyễn Văn Sỹ1, Lê Đình Thành1
1Đại học Thủy lợi, email:ngvansy@tlu.edu.vn
1. GIỚI THIỆU CHUNG
1.1. Hệ thống hồ chứa thủy điện, thủy lợi
Tiềm năng tài nguyên nước lưu vực sông
ba phân bố không đều trên lưu vực. Theo thời
gian trong năm, mùa lũ kéo dài 4-5 tháng tùy
theo từng vùng với lượng dòng chảy chiếm
65-75% cả năm, có nghĩa tổng lượng dòng
chảy trung bình mùa kiệt toàn lưu vực chỉ
khoảng 3400 triệu m3. Trên lưu vực sông Ba
hiện đã xây dựng hàng trăm công trình hồ
chứa, đập dâng lớn nhỏ với mục đích phát
điện và cấp nước tưới nông nghiệp. Trong đó
đáng kể nhất là các hồ chứa thủy điện, thủy
lợi như An Khê – Kanak, Krông H năng,
Ayun hạ; sông Ba Hạ, Sông Hinh; đập dâng
Đồng Cam ở hạ lưu.
Hệ thống các hồ chứa được nghiên cứu
trên lưu vực sông Ba hiện có những đặc điểm
nổi bật đó là: (i)- hệ thống hỗn hợp gồm cả
hồ thủy điện, hồ thủy lợi kết hợp thủy điện,
có tiêu hao và không tiêu hao lượng nước
nhưng cùng làm thay đổi chế độ dòng chảy
trong sông; (ii)- các hồ chứa thủy điện hầu
như không có vai trò chống lũ cho hạ lưu mà
chỉ chống lũ cho bản thân công trình; (iii)- có
hồ chứa chuyển nước sang lưu vực khác, đây
là đặc điểm cần hết sức quan tâm trong khai
thác và bảo vệ môi trường.
1.2. Tiếp cận thủy văn sinh thái cho
phát triển bền vững tài nguyên nước lưu
vực sông
Thủy văn sinh thái là một quan điểm mới
trong quản lý tài nguyên nước và bảo vệ môi
trường lưu vực sông, hiện nay thủy văn sinh
thái được xem như một công cụ trong quản lý
tổng hợp tài nguyên nước và bảo vệ môi
trường lưu vực với ba nguyên tắc cơ bản [1]:
Nguyên tắc 1: Chu trình thủy văn có tính
quyết định các chu trình sinh địa hóa trong
phạm vi lưu vực sông. Trong một lưu vực
sông, các quá trình vật lý, sinh học liên tục
xảy ra, trong đó có các chu trình sinh địa hóa
như chu trình Ni tơ, chu trình Cacbon, chu
trình Phốt pho,… các chu trình này đều chịu
tác động của chu trình thủy văn trên phạm vi
lưu vực.
Nguyên tắc 2: Cần có các khu vực tiềm
năng cho việc khuyến khích khả năng chịu
đựng của hệ sinh thái. Lưu vực sông có nhiều
hệ sinh thái khác nhau, trong đó có hai loại
chủ yếu là sinh thái cạn và sinh thái nước.
Các khu vực tiềm năng về sinh thái có ảnh
hưởng lớn đến các điều kiện lưu vực, ví dụ
hệ sinh thái rừng và các hệ sinh thái vùng
ngập nước là những hệ sinh thái có ngưỡng
chịu đựng cao hơn các hệ sinh thái khác.
Nguyên tắc 3: Các khu vực sinh thái có
khả năng điều khiển các quá trình thủy văn
và ngược lại. Trên lưu vực sông các hệ sinh
thái như rừng hay đất ngập nước có vai trò
rất lớn trong “giữ đất, giữ nước”, chúng có
ảnh hưởng trực tiếp đến chế độ thủy văn, môi
trường như lũ lụt, xói mòn đất,… Do vậy
trong quan điểm thủy văn sinh thái, tương tác
qua lại giữa các quá trình thủy văn và các khu
sinh thái là điều rất tự nhiên, rất chặt chẽ và
rất quan trọng đổi với phát triển bền vững.

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
321
2. CÁC VẤN ĐỀ MÔI TRƯỜNG DO SỬ
DỤNG TÀI NGUYÊN NƯỚC CỦA HỆ
THỐNG HỒ CHỨA
2.1. Các vấn đề môi trường do hệ thống
liên hồ chứa trên lưu vực sông Ba
Hệ thống liên hồ chứa trên lưu vực đã can
thiệp vào chu trình thủy văn và các hệ sinh
thái của lưu vực sông Ba với những vấn đề
môi trường lớn như sau:
(1) Các mâu thuẫn trong khai thác sử
dụng nước:giữa tiềm năng nguồn nước và
nhu cầu sử dụng; giữa tưới và phát điện; giữa
phát điện và chống lũ hạ lưu; giữa phát triển
thủy điện và bảo vệ môi trường, trong đó các
mâu thuẫn giữa phát điện và phòng chống lũ
và cấp nước hạ lưu là gay gắt nhất.
(2) Chuyển nước ra khỏi lưu vực sông Ba,
hiện trên lưu vực có hai hồ chứa chuyển nước
từ lưu vực sông Ba, đó là công trình thuỷ điện
Kanăk – An Khê trên dòng chính sông Ba
chuyển nước từ trước đập dâng An Khê qua tuy
nen sang sông Kone với lưu lượng trung bình
khoảng 12 m3/s. Hồ chứa thủy điện sông Hinh
chuyển nước qua lưu vực sông Bàn Thạch bằng
việc xây dựng đập dâng trên sông Con với lưu
lượng trung bình khoảng 26,8 m3/s.
(3) Thay đổi điều kiện sinh thái, môi
trường lưu vực: Hệ thống liên hồ chứa trên
lưu vực sông Ba đã làm thay đổi đáng kể các
điều kiện sinh thái và môi trường lưu vực,
đặc biệt là khu vực các lòng hồ, khu vực hạ
lưu và cửa sông. Các hệ sinh thái đất ngập
nước tại lòng hồ được hình thành, các khu
vực canh tác nông nghiệp được phát triển với
cơ cấu cây trồng mới, điều kiện môi trường
hạ lưu thay đổi.
2.2. Những tác động chính đến chu trình
thủy văn trên lưu vực
Hệ thống liên hồ chứa trên lưu vực sông
Ba đã làm thay đổi theo thời gian và không
gian các thành phần trong chu trình thủy văn,
chủ yếu là khối lượng nước giữa các khu vực
thượng và hạ lưu hồ chứa, giữa mùa lũ và
mùa kiệt, giữa các tháng trong năm. Các thay
đổi này có thể thấy qua tổng dung tích các hồ
chứa của hệ thống (6 hồ) là 1455 triệu m3,
trong đó dung tích hữu ích là 1089,5 triệu m3.
Việc chuyển nước sang lưu vực sông Kone từ
hồ An Khê- Ka Nak và sang sông Bàn Thạch
từ hồ sông Hinh cũng tác động lớn đến chu
trình thủy văn.
3. NHỮNG PHÂN TÍCH VÀ THẢO LUẬN
3.1. Hậu quả do tác động thay đổi dòng
chảy trong sông và chu trình thủy văn
lưu vực
Hệ thống liên hồ chứa trên lưu vực sông
Ba cũng gây ra một số tác động bất lợi đối
với tài nguyên và môi trường lưu vực. Với
tổng dung tích hữu ích của các hồ 1089,5
triệu m3so với tổng lượng trung bình cả năm
của toàn lưu vực (11270 triệu m3) chỉ khoảng
9,7%, nhưng so với tổng dòng chảy mùa kiệt
(3400 triệu m3) thì chiếm tới khoảng 43%
nên đã làm thay đổi đáng kể thành phần dòng
chảy và cân bằng nước lưu vực.
Với tổng diện tích mặt hồ tới 162,73 km2
đã làm tăng thêm lượng mất nước do bốc hơi
63,86 triệu m3 mỗi năm [2]. Ngoài ra với
tổng dung tích hồ 1455 triệu m3, hàng năm
cũng làm tổn thất do thấm xuống lòng hồ
khoảng 14,55 triệu m3 (1%), tổng cộng các
lượng nước tổn thất này khoảng 78,41 triệu
m3 mỗi năm. Tổn thất lượng nước ảnh hưởng
trực tiếp đến chu trình thủy văn và cân bằng
nước trên lưu vực sông Ba.
Việc chuyển nước từ lưu vực sông Ba sang
sông Kone và sông Bàn Thạch gây nên các
vấn đề môi trường bất lợi cho vùng hạ lưu
sông Ba như thiếu nước mùa kiệt, khó đảm
bảo dòng chảy môi trường và các tác động
đến hệ sinh thái, ổn định lòng sông hạ lưu và
cửa sông, đặc biệt là ổn định lòng sông hạ
lưu và làm mất ổn định cửa Đà Rằng.
3.2. Hậu quả do tác động thay đổi các hệ
sinh thái
Do mất rừng thượng lưu các hồ chứa dẫn
đến gia tăng xói mòn và bồi lắng lòng hồ,
đặc biệt là thượng lưu có những vùng đất
bazan dễ canh tác nhưng cũng dễ bị xói
mòn. Rừng đầu nguồn phía thượng lưu các
hồ chứa đóng vai trò đặc biệt quan trọng

Tuyển tập Hội nghị Khoa học thường niên năm 2015. ISBN: 978-604-82-1710-5
322
trong chống xói mòn lưu vực, hạn chế bồi
lấp lòng hồ và hỗ trợ điều tiết dòng chảy
phía thượng lưu. Hệ thống liên hồ chứa trên
lưu vực sông Ba với tổng diện tích đất bị
chiếm dụng là 178,69 km2, trong đó mặt
nước 162,73 km2 và 780 ha đất rừng. Rừng
và thảm phủ còn bị chặt phá trong quá trình
làm hệ thống giao thông, khai thác vật liệu,
chuẩn bị mặt bằng… Mặc dù dự án đã có kế
hoạch trồng bổ sung và phục hồi nhưng đến
nay là không đáng kể.
Trong hệ thống có 4 hồ chứa gây ra đoạn
sông bị cạn kiệt sau đập, điển hình là sau đập
An Khê đoạn sông bị cạn kiệt kéo dài tới
32 km, và 8 km sau đập sông Ba Hạ do nhà
máy thủy điện sông Ba Hạ đặt cách xa đập
nên tạo thành đoạn sông không có nước khi
hồ tích nước và phát điện, ở những đoạn này
chỉ có lượng dòng chảy tối thiểu của công
trình xả trả lại hạ lưu. Các đoạn sông này hầu
như bị thiếu nước trầm trọng trong các tháng
kiệt [2]. Các khu bảo tồn thiên nhiên và vườn
quốc gia cũng bị ảnh hưởng do các hồ chứa đã
tạo điều kiện như phát triển giao thông thuận
lợi cho dân chúng tiếp cận vì khoảng cách
không quá xa. Do tất cả các hồ chứa đều
không có dung tích chống lũ cho hạ lưu nên
khi vận hành chống lũ cho bản thân công trình
lại gây ra sự gia tăng lũ ở hạ lưu làm ngập lụt
ảnh hưởng đến môi trường và sinh thái.
Không cấp đủ dòng chảy tối thiểu cho hạ lưu
do vận hành chủ yếu theo nhu cầu phát điện,
hậu quả dẫn đến thiếu nước trong mùa cạn
cho các nhu cầu môi trường và phát triển kinh
tế, xã hội, nhiều năm các tháng mùa kiệt
không có đủ nước chảy tràn qua đập Đồng
Cam ở hạ lưu.
4. KẾT LUẬN
Trên quan điểm tiếp cận thủy văn sinh thái,
phát triển và hoạt động của hệ thống liên hồ
chứa trên lưu vực sông Ba đã làm thay đổi căn
bản chu trình thủy văn và cân bằng nước lưu
vưc. Lợi ích của hệ thống liên hồ chứa đối với
phát triển kinh tế, xã hội là không thể phủ
nhận, tuy nhiên hậu quả là các vùng hạ lưu
thiếu nước vào thời kỳ khô kiệt, dẫn đến mâu
thuẫn giữa các ngành dùng nước, thậm chí
giữa các địa phương trên lưu vực, ô nhiễm
môi trường, suy giảm các hệ sinh thái, mất ổn
định lòng sông, bãi sông và cửa sông... cụ thể
là hàng trăm km2 đất tự nhiên bị chiếm dụng
với hàng trăm ha rừng dẫn đến hậu quả xói
mòn đất, thay đổi hệ sinh thái, ô nhiễm môi
trường, hàng chục km đoạn sông hạ lưu bị cạn
kiệt trong mùa khô dẫn tới hậu quả các hệ sinh
thái ven các đoạn sông này bị phá hủy, ảnh
hưởng đến cuộc sống của dân cư dọc sông...
Theo nguyên tắc của thủy văn sinh thái, để
nâng cao hiệu quả của hệ thống liên hồ chứa,
đảm bảo phát triển bền vững và bảo vệ môi
trường, nhất thiết phải tiếp tục nghiên cứu,
đánh giá chính xác, cụ thể những hậu quả bất
lợi do tích lũy các tác động môi trường của
hệ thống liên hồ chứa trên lưu vực sông Ba./.
5. TÀI LIỆU THAM KHẢO
[1] Lê Đình Thành (2014), Thủy văn sinh
thái và ứng dụng, Bài giảng cao học Môi
trường, Đại học Thủy lợi.
[2] Nguyễn Văn Sỹ, Lê Đình Thành (2015),
Xác định và đề xuất chỉ thị đánh giá tác
động tích lũy của hệ thống liên hồ chứa
trên lưu vực sông Ba. Tạp chí khoa học
kỹ thuật và môi trường số 48.