BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM THÀNH PHỐ HỒ CHÍ MINH TRƯƠNG VĂN HÙNG VẬN DỤNG HỆ PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP- ĐÀM THOẠI VÀ GỢI TÌM TRONG DẠY HỌC TRUYỆN NGẮN VỢ CHỒNG A PHỦ VÀ VỢ NHẶT Ở LỚP 12 (CHƯƠNG TRÌNH CHUẨN) Chuyên ngành: Lí luận và phương pháp dạy học môn văn Mã số: 601410

LUẬN VĂN THẠC SĨ GIÁO DỤC HỌC NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC

TS. NGUYỄN ĐỨC ÂN

Thành phố HCM - 9/ 2010

LỜI CẢM ƠN

Tôi xin chân thành cảm ơn TS - Nguyễn Đức Ân trong suốt thời gian qua đã tận tình chỉ dạy,

hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn này.

Xin chân thành cảm ơn quý thầy, cô Trường Đại học sư phạm TPHCM đã hết lòng giảng dạy

chúng tôi trong suốt khóa hoc.

Xin chân thành cảm ơn Khoa Ngữ văn, Phòng KHCN - SĐH Trường ĐHSP - TPHCM; Sở GD-

ĐT Tây Ninh, Ban Giám Hiệu cùng đồng nghiệp các trường THPT trong tỉnh Tây Ninh đã tạo điều

kiện thuận lợi, nhiệt tình giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập và hoàn thành luận văn.

Tác giả luận văn.

MỤC LỤC

0TLỜI CẢM ƠN0T ...................................................................................................................................... 2

0TMỤC LỤC0T ........................................................................................................................................... 3

0TDANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT0T .................................................................................................. 6

0TPhần Mở đầu0T ....................................................................................................................................... 7

0T1. Lý do chọn đề tài0T ....................................................................................................................................... 7

0T1.1 Xuất phát từ yêu cầu đổi mới nền giáo dục:0T......................................................................................... 7

0T1.2 Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng của việc dạy học Ngữ Văn:0T ................................................ 7

0T1.3 Xuất phát từ việc xây dựng và phát triển PPDH văn:0T ........................................................................... 8

0T2. Phương pháp vấn đáp đàm thoại và gợi tìm trong thực tế dạy học Văn ở PTTH0T ......................................... 9

0T3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu0T ............................................................................................................ 13

0T4. Phương pháp nghiên cứu0T ......................................................................................................................... 14

0T5. Đóng góp của luận văn0T ............................................................................................................................ 14

0T6. Kết cấu luận văn0T ...................................................................................................................................... 15

0TChương 1: HỆ PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP - ĐÀM THOẠI VÀ GỢI TÌM TRONG GIỜ HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở THPT0T ........................................................................................... 16

0T1.1. Những cơ sở lý luận khoa học của phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm:0T .................................. 16

0T1.1.1 Bản chất:0T ........................................................................................................................................ 16

0T1.1.1.1 Phương pháp pháp vấn đáp - đàm thoại:0T ................................................................................. 16

0T1.1.1.2 Phân loại các hình thức đàm thoại:0T.......................................................................................... 17

0T1.1.1.3 Phương pháp gợi tìm (hay gợi mở):0T ........................................................................................ 18

0T1.2. Đặc trưng của phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm:0T................................................................. 20

0T1.3. Ý nghĩa của phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm theo xu thế của quan điểm dạy học tích cực: 0T 20

0T1.3.1 Tính đối thoại và phản hồi của của giờ học:0T ................................................................................... 20

0T1.3.2 Tính hợp tác của hoạt động dạy học:0T .............................................................................................. 21

0T1.4. Vận dụng phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm vào giờ học tác phẩm văn chương. 0T .................. 22

0T1.4.1. Việc đổi mới quan điểm dạy học văn:0T ........................................................................................... 22

0T1.4.2.Đổi mới PPDH tác phẩm:0T ............................................................................................................... 22

0T1.4.3. Vấn đề then chốt của việc vận dụng phương pháp vấn đáp đàm thoại gợi tìm trong giờ học tác phẩm văn chương: Hệ thống câu hỏi đàm thoại - gợi mở. 0T ................................................................................. 23

0T1.4.3.1. Thực trạng:0T ............................................................................................................................ 23

0T1.4.3.2. Vấn đề câu hỏi trong dạy học tác phẩm:0T ................................................................................. 24

0TChương 2: Vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt” ở lớp 12. 0T .......................................................................................... 32

0T2.1. Vấn đề loại thể trong dạy học truyện ngắn THPT0T................................................................................. 32

0T2.1.1. Quan niệm về loại thể0T ................................................................................................................... 32

0T2.1.2.Đặc trưng truyện ngắn hiện đại. 0T ..................................................................................................... 33

0T2.1.2.1 Khái niệm truyện ngắn:0T .......................................................................................................... 33

0T2.1.2.2. Đặc trưng truyện ngắn hiện đại:0T ............................................................................................. 34

0T2.2. Vấn đề dạy truyện ngắn Vợ chồng A Phủ va Vợ nhặt ở lớp 120T ............................................................ 39

0T2.2.1. Dạy học truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt” đặt trong hệ thống của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945- 19750T ...................................................................................................................... 39

0T2.2.1.1. Đặc điểm giai đoạn văn học Việt Nam giai đoạn 1945-19750T .................................................. 39

0T2.2.1.2. Những truyện ngắn và trích đoạn truyện được dạy ở chương trình Ngữ văn 12. 0T ..................... 40

0T2.2.2 Những yêu cầu khi vận dụng hệ thống câu hỏi vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong giờ dạy truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt. 0T .......................................................................................................... 41

0T2.2.2.1. Những yêu cầu đối với Gv0T ..................................................................................................... 41

0T2.2.2.2. Những yêu cầu đối với HS:0T .................................................................................................... 42

0T2.3. Vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”0T .................................................................................................................................................... 43

0T2.3.1. Xây dựng Hệ thống câu hỏi vấn đáp đàm thoại và gợi tìm qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”. 0T .............................................................................................................................................. 43

0T2.3.1.1 Câu hỏi cảm xúc. 0T .................................................................................................................... 44

0T2.3.1.2 Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng. 0T ............................................................................... 44

0T2.3.1.3. Hệ thống câu hỏi hiểu biết nội dung và hình thức của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” , “Vợ nhặt”0T .......................................................................................................................................................... 45

0T2.3.2. Hướng triển khai Hệ phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm qua truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ và Vợ nhặt 0T ....................................................................................................................................... 47

0TChương 3: Thực nghiệm0T .................................................................................................................. 71

0T3.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm0T ........................................................................................................ 71

0T3.1.1. Mục đích thực nghiệm0T .................................................................................................................. 71

0T3.2 Đối tượng thực nghiệm0T .......................................................................................................................... 71

0T3.3. Kế hoạch thực nghiệm0T .......................................................................................................................... 72

0T3.3.1. Thời gian thực nghiệm0T .................................................................................................................. 72

0T3.3.2. Công việc thực nghiệm:0T ................................................................................................................ 72

0T3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm. 0T ........................................................................................................... 101

0T3.4.1. Kết quả thực nghiệm0T ................................................................................................................... 101

0T3.4.1.1. Kết quả trước khi thực nghiệm của lớp chọn thực nghiệm và lớp đối chứng. 0T ........................ 101

0T3.4.1.2 Kết quả sau khi tiến hành thực nghiệm HKII - năm học 2009- 2010.0T .................................... 102

0T3.4.2. Đánh giá kết quả0T ......................................................................................................................... 102

0T3.4.2.1. Đánh giá kết quả qua bài kiểm tra sau giờ học thực nghiệm0T ................................................. 102

0T3.4.2.2. Đánh giá kết quả qua thực nghiệm, nghiên cứu, lấy ý kiến từ GV và HS sau giờ học thực nghiệm0T ............................................................................................................................................. 103

0T2.4. Những vấn đề giải quyết rút ra từ việc dạy truyện ngắn. 0T ..................................................................... 106

0TKết luận0T............................................................................................................................................ 111

DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CCGD: CS: ĐC: GV: HS: HTTCDH: K: KTDH: Kt: LLVH: NV: SL: SGK: SGV: PP: PPDH: THCS: TP: TN: TB: THPT: VN : VHVN:

Cải cách giáo dục Cuộc sống Đối chứng Giáo viên Học sinh Hình thức tổ chức dạy học Kém Kỹ thuật dạy hoc. Kiểm tra Lý luận văn học Nhà văn Số lượng Sách giáo khoa Sách giáo viên Phương pháp Phương pháp dạy học Trung học cơ sở Tác phẩm Thực nghiệm Trung bình Trung học phổ thông Việt Nam Văn học Việt Nam

Phần Mở đầu

1. Lý do chọn đề tài

1.1 Xuất phát từ yêu cầu đổi mới nền giáo dục:

Trong thập niên đấu của thế kỉ XX, nền giáo dục nước ta có bước chuyển biến quan trọng trước

yêu cầu phát triển mạnh mẽ của đất nước trong kỉ nguyên mới. Đáp ứng cho đòi hỏi giáo dục phải có

sụ thay đổi toàn diện mới mẻ theo tinh thần của Nghị quyết Quốc hội khóa X, vào năm 2003, Bộ Giáo

dục & Đào tạo đã thực thi việc thay đổi Chương trình sách giáo khoa Phổ thông. Trước chủ trương lớn

này, toàn bộ quá trình giáo dục - dạy học của trường Phổ thông được thiết kế và tổ chức thực hiện theo

những quan điểm, phương châm, phương pháp giáo dục mới mang ý nghĩa tích cực, năng động sáng

tạo nhằm hướng tới việc đào tạo thế hệ trẻ đáp ứng kịp xu thế phát triển của đất nước trong xu thế hội

nhập với nền giáo dục hiên đại thế giới.

Với vai trò của môn học góp phần quan trọng vào việc trang bị vốn kiến thức khoa học nhân văn

và hoàn thiện nhân cách cho thế hệ trẻ, môn Văn đã có những đổi thay lớn lao.Với tên gọi mới: Ngữ

văn, tính chất và nội dung môn học giờ đây có những thay đổi nhằm hướng tới sự thống nhất chỉnh thể,

đảm bảo tính liên thông đống bộ của môn học nhằm đáp ứng cho mục tiêu đào tạo trong thời kì mới.

Với nguyên tắc tích hợp và phát huy vai trò chủ thể sáng tạo của người học trong quá trình dạy học

văn, nhiều vấn đề lý luận và thực tiễn dạy học đang đặt ra cho người giáo viên Văn trách nhiệm nặng

nề để đảm bảo hiệu quả dạy học cao đối với môn học “vừa là khoa học lại vừa là nghệ thuật”.

1.2 Xuất phát từ yêu cầu nâng cao chất lượng của việc dạy học Ngữ Văn:

Đổi mới việc dạy học Văn là điều tất yếu theo xu thế chung. Và đổi mới là một quá trình bởi

những quan điểm, những thói quen dạy học vốn dĩ không dễ đổi thay trong một sớm một chiều. Cho

nên, có một hiện tượng dễ nhận ra trong nhà trường phổ thông thời gian qua, đó là ít thấy môn học nào

lại chịu áp lực của thay đổi, cải cách như việc dạy học Văn. Chưa nói tới chuyện xảy ra những tranh

cãi, mâu thuẫn quanh chuyện dạy học Văn giữa một số nhà lý luận sư phạm, nhà phương pháp hay

những người có quan tâm tới môn văn trong nhà trường; nội việc chuyển dần những nhận thức, thói

quen, tập quán trong dạy học đã gây ra không ít khó khăn “phiền toái” cho người trực tiếp đứng lớp

như làm quen với các thao tác theo dạy đọc - hiểu, rồi việc tiến hành tiến trình của thiết kế bài dạy theo

quy trình mới cùng với yêu cầu vận dụng những cách thức dạy học nhằm phát huy vai trò tích cực sáng

tạo của học sinh, cho tới khâu đánh giá kết quả. Đây là những công việc cần kíp phải làm mà người

giáo viên không thể chần chừ chờ đợi. Bởi lẽ đó, hiện nay, có một bước chuyển động mới diễn ra trong

thực tiễn dạy học Ngữ văn ở phổ thông, trong đó vai trò của người dạy nổi lên như một động lực thúc

đẩy sự thay đổi. Nhiều giờ dạy theo tinh thần dạy học mới, nhiều ý kiến trao đổi trăn trở để tìm con

đường nâng cao hiệu quả dạy học thể hiện qua các cuộc vận động đổi mới PPDH thôi thúc người giáo

viên Văn. Đó là những tín hiệu hứa hẹn việc đổi mới dạy học Văn sẽ có tính khả thi.

Tuy nhiên, có một thực trạng mà dư luận xã hôi đang hướng sự quan tâm tới đó là chất lượng

dạy học Văn chưa đạt kết quả mong muốn. Cạnh đó, trong xu thế của cuộc cách mạng khoa học công

nghệ, vị thế của bộ môn văn cũng đang đặt học sinh trước những trăn trở khó tránh khỏi. Cho tới nay,

chúng ta vẫn chưa có những biện pháp hữu hiệu để làm tăng hứng thú học tập của học sinh đối với môn

học có sức lôi cuốn và hấp dẫn như đã từng thấy. Chất lượng dạy học Văn, vì thế, vẫn là vấn đề cần

quan tâm hàng đầu. Và đáp số của bài toán chất lượng học tập vẫn chờ lời đáp từ nhiêu phía: của xã

hội, của người dạy và người học, của các cấp quản lý giáo dục.

1.3 Xuất phát từ việc xây dựng và phát triển PPDH văn:

Tới nay, công đoạn đầu của quá trình dạy học văn - chương trình sách giáo khoa - đã hoàn

thiện. Theo quy luật sư phạm, công đoạn tiếp theo - việc dạy học - tất phải có sự đáp ứng tương hỗ. Vì

thế, qua những năm triển khai thay đổi chương trình và sách giáo khoa, đội ngũ giáo viên văn ở PTTH

đã được bồi dưỡng thường xuyên những tri thức cần thiết để thực hiện đổi mới PPDH. Theo đó, hệ

thống PPDH Ngữ văn được vận dụng hiện nay khá phong phú và đa dạng. Bên cạnh một số PPDH cũ

được kế thừa và phát huy vai trò của nó, người giáo viên Văn trong nhà trường hôm nay được tiếp nhận

thêm nhiều PPDH mới theo xu thế của giáo dục hiện đại. Bởi thế, có những cách dạy học tuy nghe nói

từ lâu nhưng hôm nay tác dụng ý nghĩa của nó đã thay đổi, cũng như có những khái niệm về PPDH mà

lần đầu người giáo viên mới tiếp xúc. Trong tình hình nói đó, những quan điểm dạy học mới như dạy

học phát triển, dạy học theo phương thức đối thoại, dạy học phát hiện và giải quyết vấn đề. Tất cả

những PPDH nói đó đều bằng tổ chức các hoạt động để tăng cường năng lực tiếp nhận ở chủ thể - học

sinh.. Đó là những vấn đề cần thiết và quan trọng đặt ra cho việc xây dựng phát triển PPDH tác phẩm

văn chưng theo hướng tích cực hiện đại.

Bởi vậy, căn cứ vào những lý do nêu trên, chúng tôi xác định đề tài của luận văn Thac sỹ cao

học ngành Lý luận và PPDH văn là: Vận dụng hệ phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm trong

dạy học truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt ở lớp 12.

2. Phương pháp vấn đáp đàm thoại và gợi tìm trong thực tế dạy học Văn ở PTTH

2.1 Vì là một PPDH cơ bản ra đời từ sớm, cho nên trong suốt quá trình xây dựng và phát triển

của nhà trường các nước trên thế giới nói chung, PPDH vấn đáp đàm thoại giữ một vai trò quan trọng

và ngày càng được hoàn thiện. Ở nhà trường nước ta PPDH này cũng được biết đền từ lâu. Tuy nhiên,

do điều kiện lịch sử, mục đích và yêu cầu đào tạo của nhà trường có khác nhau do đó, tích chất và tác

dụng của PP vấn đáp đàm thoại và gọi tìm được sử dụng trong nhà trường cũng có những mức độ, hiệu

khác nhau.

Từ sau cách mạng tháng Tám, do tính chất nhà trường thay đổi, từ thời kì đầu của nhà trường

dân chủ nhân dân rồi tiến lên nhà trường xã hội chủ nghĩa như hiên nay, hệ thống giáo dục mới tiến bộ

đã không ngừng từng bước xây dựng hoàn thiện mục tiêu, nội dung và PP đào tạo. Vì thế, việc dạy học

trong nhà trường càng ngày càng vươn lên thích ứng với những phương thức dạy học thích hợp tiến bộ.

Những PPDH có vai trò kích thích phát huy năng lực suy nghĩ tìm tòi của người học đều được nghiên

cứu vận dụng. Nhất là vào giai đoạn hiện nay, trong xu thế phát triển của nền giáo dục hiện đại, việc

dạy học hướng tới vai trò người học, lấy hoạt động tương tác giữa giáo viên và học sinh làm nền tảng

để thực hiện nhiệm vụ trí dục của nhà trường thì vai trò của vấn đáp đàm thoại và gợi tìm lại càng được

quan tâm chú ý.

2.2 Với môn Văn - môn học có tính đặc thù - nhà văn sử dụng hình tượng nghệ thuật được tạo

nên bằng chất liệu ngôn từ để miêu tả phản ánh cuộc sống. Và qua văn bản - tác phẩm, nhà văn muốn

chuyển thông điệp nghệ thuật - là những điều nhà văn khám phá, phát hiện là nỗi lòng của mình – đến

công chúng bạn đọc. Do vậy, không có gì khác hơn điều nhà văn trông đợi ở những “người đọc tiềm

ẩn” là sự cảm thông, hiểu biết của tri âm tri kỷ. Vì thế nên bản thân quá trình sáng tạo và tiếp nhận

nghệ thuật đã hàm chứa trong nó tính đối thoại. Từ đó, trong nhà trường việc dạy học văn bản - tác

phẩm văn chương ở vào bất cứ lúc nào thì con đường giao tiếp, đối thoại, trao đổi là điều không tránh

khỏi. Vì thế cũng dễ thấy, PPDH vấn đáp - đàm thoại được quan tâm từ lâu và được xem là PPDH đặc

thù của giờ văn. Trước đây trong quá trình xây dựng PPDH dân chủ tiến bộ, phương pháp vấn đáp –

đàm thoại đã từng là cách thức dạy học hữu hiệu tạo điều kiện cho giáo viên dẫn dắt học sinh tham gia

vào giờ học theo phương châm “thầy chủ đạo trò chủ động”. Vì thê, trong dạy văn, trong nỗ lực xây

dựng cải tiến PPDH, chúng ta đã chú ý tới việc xây dựng hệ thống câu hỏi, bằng việc đề ra những cơ sở

lý luận và biện pháp cụ thể với nguyên tắc dạy học khá chặt chẽ. Đó là những bài học quý đóng góp

vào kho kinh nghiệm dạy học của bộ môn. Hiên nay, vào thời kỳ phát triển mới của đất nước, trước

tình hình hiện đại hóa giáo dục với sự thay đổi chương trình sách giáo khoa và PPDH Ngữ văn, nhất là

trước xu thế đổi mới quan điểm dục, khi trong cuộc sống xu thế trao đổi, đối thoại dân chủ đang không

ngừng mờ rộng, cùng với những những kiến thức lý luận dạy học và lý thuyết nghiên cứu văn chương

hiện đại được cập nhật mau chóng, đội ngũ giáo viên văn có điều kiện thuận lợi hớn đối với việc nhận

thức rõ yêu cầu, bản chất của cuộc đố thoại qua giờ văn. Từ đó PP vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm có

chỗ đứng vững chắc trong hệ PPDH Ngữ văn.

2.3 Các công trình và tài liệu nghiên cứu có liên quan đến PPDH vấn đáp - đàm thoại và

gợi tìm trong dạy học văn đã được xuất bản và phổ biến ở nước ta:

2.3.1 Các tài liệu thuộc lý luận dạy học

* Những cơ sở của Lý luận dạy học do B. P. Êxipop chủ biên (Tài liệu dịch, 2 tập)

Đây là cuốn giáo trình lý luận dạy học do Viện hàn lâm khoa học giáo dục và Viện Lý luận lịch sử giao

dục học Liên Xô biên soạn. Có thể xem “là công trình tổng kết đầy đủ nhất về lý luận trí dục và dạy

học. Ở đây tác giả xem xét những cơ sở của nội dung trí dục, phương pháp và những hình thức tổ chức

việc dạy học ở trường phổ thông, làm sáng tỏ những cơ sở của pháp luận, tâm lý học và lý luận dạy học

của việc dạy học ” (Lời nhà Xuất bản giáo dục, tr.3) Trong phần Các phương pháp dạy học, trên cơ sở

quan niệm về “sự đa dạng của các phương pháp và sự lựa chọn các phương của giáo viên”, các tác giả

có đề cập tới “Đàm thoại” xem đây là “một trường học của tư duy, sự luyện tập trong quá trình tư duy

cũng đòi hỏi những thao tác từ tư duy tập thể của học sinh, nếu xác lập được nhịp điệu có lợi nhất cho

những suy luận , cho sự tiến hành cuộc đối thoại. Trong khi đàm thoại, sự tiếp xúc giữa giáo viên và

học sinh là cực kì quan trọng” (tr. 96). Tuy không đi sâu lý giải những nội dung cụ thể của PPDH này

nhưng những quan điểm lý luận của tác giả cũng nêu được đặc điểm nổi bật của PP có tác dụng đến

lĩnh vực hứng thú, rung động và kinh nghiệm học tập của học sinh.

* Dạy học nêu vấn đề của I. Ia Lecne (Tài liệu dich) Mục đích công trình nghiên cứu của nhà sư

phạm Liên Xô là làm sáng tỏ bản chất của phương pháp dạy học vấn đề - một phương pháp dạy học

hiện đại hình thành và phát tiển mạnh trong nhà trường các nước tiên tiến. Trong phần trình bày trình

bày “các dạng của dạy học nêu vấn đề”, tác giả có giới thiêu dạng “đàm thoại có tính chất phát kiến”

(hay còn gọi là tìm tòi một phần)” Tác giả nhấn mạnh: “Đàm thoại phát kiến là hệ thống câu hỏi do

giáo viên xây dựng thế nào để mỗi câu hỏi sau được suy ra từ câu hỏi trước, về việc đặt nó trong cuộc

đàm thoại là có lý do, để tất cả các câu hỏi và lời giải của học sinh cho các câu hỏi đó, tập hợp lại, cuối

cùng sẽ giải quyết được một vấn đề nào đó, và điều chủ yếu là sao cho một số các câu hỏi, và là đa số

(nếu không phái là tất cả) các câu hỏi hợp thành những bài toán nhỏ trên con đường đi tới lời giải cho

bài toán cơ bản”

*Giáo trình “Phương pháp giảng dạy văn học ở trường Phổ thông” của V. A. Nhikonxki (2 tập).

Là giáo trình dạy học văn dùng trong nhà trường Liên Xô sớm được dịch ở nước ta. Tác giả cuốn giáo

trình dựa trên những quan điểm giáo dục dạy học hiện đại đã đề cập tới những vấn đề thuộc tính chất,

mục đích, nội dung và kết cấu của chương trình văn trong nhà trường Xô Viết. Xuất phát từ qaun điểm

“Học sinh là độc giả của tác phẩm văn học”, trong phần “Các phương pháp và thủ thuật dạy văn học ở

trường phổ thông” (chương V, tập 1), tác giả đề cập tới phương pháp “Tọa đàm của thầy giáo với học

sinh”: “Thực chất của phương pháp tọa đàm giữa thầy giáo với học sinh là ở chổ thầy giáo tác động

đến hoạt động quan sát và tư duy độc lập của học sinh bằng các câu hỏi của mình về tác phẩm văn học,

và bắt học sinh so sánh và phân biệt các hiện tượng văn học để trên cơ sở đó dẫn dắt đến các kết luận

và khái quát mới” (tr. 85). Tiếp đó, Nhixkonxki phân tích các yêu cầu của việc nêu câu hỏi cũng như

chỉ ra những khó khăn giáo viên cần khắc phục lúc hướng dẫn tọa đàm bởi “Sự suy nghĩ của học sinh

có thể không đi theo đúng con đường mà thầy giáo đã nghĩ” và nêu yêu cầu Giờ học tiến hành bằng

phương pháp tọa đàm đòi hỏi học sinh phải làm bài tập ở nhà dưới dạng trả lời nững câu hỏi nhưng

không phải là nhắc lại những câu hỏi đã nói ở trên lớp, nếu không thì việc làm bài tập ở nhà chỉ là việc

nhớ lại những điều đã biết rõ” (tr. 86)- “đôi khi trong giờ học thầy giáo ngữ văn phải gợi mở một cách

có ý thức một cuộc tranh cãi về một vấn đề nào đó” “Thầy giáo ngữ văn dạy cho học sinh của mình

không những chỉ biết trả lời các câu hỏi, mà còn biết đặt lại câu hỏi cho thầy giáo và đạt câu hỏi cho

nhau.” Những ý kiến của tác giả tuy chưa đề ra một cách đầy đủ rõ ràng về cơ cấu, hình thức nguyên

tắc của tọa đàm nhưng đây là những chỉ dẫn cần thiến đề giáo viên ngữ văn hướng tới môt PPDH có

tính năng động tích của giờ học các kh1o khăn của việcdạy học, người viết rong cuốn giáo trình này

trên cơ sở xác định những PPDH văn, tác giả có đề cập tới “Phương pháp tọa đàm” bằng hình thức trao

đổi thảo luận trên lớp.

* Trong thời gian gần đây, các nhà sư phạm Trung Quốc đã cho ra bộ sách “ Bộ sách bồi

dưỡng dạy học kiểu tách hơp cho giáo viên trung học” gồm 6 cuốn ( Kĩ năng tổ chức lớp – Kĩ năng

biến hóa trong giảng day; Kĩ năng giảng giải – Kĩ năng nêu vấn đề; Kĩ năng dẫn nhập – Kĩ năng kết

thúc; Kĩ năng phản hồi – Kĩ năng luyện tập; Kĩ năng ngôn ngữ - Kĩ nặng nâng cao hiệu quả học tập;

Kĩ năng trình bày bảng- Kĩ năng trình bày trực quan) do Nhà xuất bản giáo dục Việt Nam dịch và giới

thiệu (2009), đặt biệt cuốn Kĩ năng giảng giải – Kĩ năng nêu vấn đề bàn đến các mô thức của giảng

giải, các phương thức và tác dụng nêu câu hỏi của giáo viên ( 20 loại hình nêu vấn đề thường dùng và

5 loại hình dành cho HS trả lời). Bộ sách là nguồn tài liệu hữu ích cho GV Ngữ văn trong nhà trường

phổ thông hiện nay.

2.3.2 Các tài liệu biên soạn trong nước:

Ở nước ta, vấn đề nghiên cứu về phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm được đặt ra từ rất

lâu. Các công trình nghiên cứu này đều hướng tới việc xác định hệ phương pháp dạy học Văn, làm cơ

sở cho giáo viên dạy Văn. Cụ thể có những công trình tiêu biểu sau:

- Giáo trình “Phương pháp giảng dạy Văn học” của ĐHSP 1963 có nêu PP vấn đáp và ở mục

“Phương pháp vấn đáp, đàm thoại, diễn giảng, trực quan”. Đây là cuốn giáo trình đầu tiên của ĐHSP,

tài liêu này bước đầu đã trình bày một cách sơ khởi về phương pháp vấn đáp , đàm thoại .

- Giáo trình “Phương pháp dạy học văn” 1989 của ĐHSP ( Phan Trọng Luận chủ biên) trong

phần “ Phân tích nêu vấn đề” và “Phương pháp gợi mở”, tác giả có nói tới vấn đề “xây dựng hệ thống

câu hỏi” trong dạy học tác phẩm văn chương. Đặc biệt, tác giả đã gắn “ gợi mở” với “đàm thoại” khi

nhấn mạnh quan điểm dạy văn theo hướng đổi mới: “Nếu đặc biệt chú ý đến nhiệm vụ phát triển năng

lực trí tuệ, coi đó là một yêu cầu rất cơ bản trong công tác giảng dạy, chắc chắn người giáo viên sẽ

dành cho phương pháp đàm thoại một vị trí xứng đáng trong quá trình lên lớp… Bằng con đường đàm

thoại gợi mở, giáo viên tạo cho lớp học một không khí tự do tư tưởng, tự do bộc lộ những nhận thức

trực tiếp của mình: mạch kín của giờ dạy được thực hiện dễ dàng” [20 tr.172].

- Liên quan đến phương pháp vấn đáp, đàm thoại trong “Nghệ thuật dạy học” của Mai Tâm (

Giáo dục nguyệt san, Sài Gòn 1969) đề cập đến lịch sử hình thành và phát triển của phương pháp đàm

thoại Xocrate trong nhà trường. Theo tác giả thì hình thức seminar vốn là cách thức dạy học được phát

sinh từ “phương pháp Xocrate”(vấn đáp, đàm thoại) vốn đã được các nhà trường sư phạm Âu Mỹ vận

dụng đưa vào dạy Văn ở bậc phô thông. Đúng như Z.Ia.Rez nhận xét: “ Cái mà hôm qua xem là thuộc

lĩnh vực giảng dạy ở đại học thì hôm nay bắt đầu xâm nhập mãnh liệt ở nhà trường phổ thông” [

Phương pháp luận dạy học văn, tr.35 Z.Ia.Rez.].

- Đặc biệt, giáo trình “Lý luận dạy học đại cương” của Nguyễn Ngọc Quang (2 tập) xuất bản

1989. Đây là công trình lý luận và thực nghiệm đã trình bày các PPDH hiện đại, trong đó có trình bày

rõ những nội dung khoa học – sư phạm của “đàm thoại Ơrixtic”. Tác giả cho rằng “ đàm thoại dần dần

đã trở thành một phương pháp quan trong trong việc dạy học cả phổ thông lẫn đại học”.[9…]

- Giáo trình “Dạy học giảng văn ở trường THPT” của Nguyễn Đức Ân (1997), tác giả đề cập tới

những PPDH văn theo quan điểm đổi mới, nhấn mạnh vai trò của việc tổ chức hình thức thảo luận

nhóm và nêu câu hỏi trong giờ dạy học tác phẩm văn chương theo kinh nghiệm của các nhà sư phạm

Mỹ. Công trình này được đánh giá cao, là tài liệu hữu ích cho giáo viên THPT.

- Đến năm 2000, giáo trình “ Phương pháp dạy học văn” của Trịnh xuân Vũ đã hệ thống hóa

các phương pháp dạy học trong lịch sử nhà trường phổ thông. Tác giả đề cập đến “phương pháp

Xocrate”, “phương pháp Khổng Tử”, “phương pháp nêu vấn đề”, “phương pháp tìm tòi, khảo

sát”,…Cũng trong công trình này, tác giả đã cấu trúc lại hệ phương pháp riêng cho môn Văn ở nhà

trường phổ thông theo hướng tích cực, hiện đại.

- Năm 2003, giáo trình “Rèn luyện tư duy sáng tạo trong dạy học tác phẩm văn chương” của

Nguyễn Trọng Hoàn, tác giả trình bày vấn đề hệ thống câu hỏi tưởng tượng trong dạy học tác phẩm

văn chương.

- Giáo trình “Phương pháp dạy học tác phẩm văn chương theo loại thể” của Nguyễn Viết Chữ,

(XB 2004), tác giả đề cập tới một số PPDH trong đó dành phần trình bày về “Lý thuyết câu hỏi cảm

thụ tác phẩm văn chương và sự vận dụng trong dạy học loại thể như một phương tiện thiết yếu”. Tài

liệu này tác giả đã hệ thống một số loại câu hỏi và những nguyên tắc xây dựng câu hỏi trong giờ học

tác phẩm văn chương theo loại thể.

- Liên quan đến vấn đề câu hỏi trong dạy học tác phẩm văn chương, có những chuyên đề, tạp

chí, luận án đề cấp đến như: “Hệ thống câu hỏi trong sách giáo khoa văn học” ( Luận án tiến sĩ,

Nguyễn Quang Cương, 2000), Phùng Huy Triệu “Lập hệ thống câu hỏi trong giờ giảng văn phổ thông

(NCGD, 3-1970), Ngô Cẩn “ Một cách đặt câu hỏi trong giờ giảng văn” ( tạp chí NCGD, 11-1972),

Phan Huy Dũng “ Mâu thuẫn và đặt thù của tác phẩm văn chương và cách đặt câu hỏi then chốt cho

một giờ giảng văn”(Kỷ yếu HTKH, đổi mới phương pháp dạy học văn, 1995).

- Đặc biệt, thời gian gần đây, trong quá rình hướng dẫn triển khai đổi mới chương trình SGK

Ngữ Văn từ năm 2006, qua các tài liệu bồi dưỡng giáo viên do Bộ giáo dục và đào tạo xuất bản, liên

tiếp trong các năm 2006 đến 2009, vấn đề xây dựng PPDH đã được trình bày tương đối đầy đủ, hệ

thống theo quan điểm hiện đại. Tài liệu dành phần nói rõ các khái niệm về “Phương pháp dạy học” và

“Hình thức tổ chức dạy học theo hướng đổi mới”. Từ đó, tài liệu giới thiệu rõ một số PPDH, HTTCDH

và KTDH, trong đó có vai trò của phương pháp vấn đáp, đàm thoại. Có thể xem đây là bước chuyển

biến mới của PPDH Ngữ Văn trong trường THPT, người giáo viên Ngữ Văn ở THPT có cắn cứ thực

hiện việc đổi mới PPDH theo quan điểm tích cực.

3. Phạm vi và đối tượng nghiên cứu

Đề tài “Vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy học hai truện ngắn

Vợ chồng A Phủ , Vợ nhặt ở lớp 12” sẽ được triển khai và nghiên cứu trong phạm vi sau:

Theo chương trình Ngữ Văn hiện hành, những truyện ngắn Việt Nam giai đoạn văn học 1945-

1975 được chọn giảng dạy trong chương trình Ngữ Văn 12 trung học phổ thông, người viết đề cập đến

các nội dung:

- Quan điểm dạy học theo phương pháp vấn đáp- đàm thoại và gợi tìm

- Vận dụng hệ phương pháp vấn đáp- đàm thoại và gợi tìm nhằm xây dựng một hệ thống câu

hỏi để tổ chức hoạt động đọc – cảm thụ của HS qua truyện ngắn lớp 12 giai đoạn 1945 - 1975 được

chọn giảng trong chương trình 12. Qua hệ thống câu hỏi, vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm, khâu chuẩn bị

bài của học sinh về truyện ngắn, về nhân vật, cốt truyện, nghệ thuật, lời văn nghệ thuật,..,Giáo viên dự

giờ, đối chiếu tiến trình dạy học với mục tiêu, phương pháp một số tiết của một số giáo viên ở trường

THPT Hoàng Văn Thụ, châu thành , Tây Ninh)

- Thiết kế thực nghiệm hai truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ và Vợ nhặt ( giai đoạn 1945- 1975)

theo hướng Vấn đáp- đàm thoại và gợi tìm nhằm đánh giá tính khả thi của đề tài.

4. Phương pháp nghiên cứu

Các phương pháp nghiên cứu sử dụng trong quá trình triển khai, xử lí đề tài:

- Phương pháp điều tra , khảo sát được vận dụng dưới các gốc độ sau:

+ Dạy và dự giờ lên lớp của giáo viên ở trường trung học phổ thông để nắm bắt tình hình dạy

học nói chung và khâu chuẩn bị bài của HS trong quá trình học truyện ngắn theo hệ phương

pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm.

+Kháo sát quá trình học và chuẩn bị của giáo viên và học sinh trong quá trình học bằng phiếu

thăm dò (những thuận lợi và khó khăn khi dạy và học tác phẩm tự sự; mức độ hứng thú đối với

từng thể loại…

+ Điều tra GV (bằng phiếu) về tình hình sử dụng phương pháp trong quá trình dạy học tác

phẩm văn học.

- Phương pháp thống kê dùng để thống kê kết quả khảo sát và kết quảthực nghiệm.

- Phương pháp thực nghiệm: thực nghiệm để đánh giá khả năng ứng dụng của việc vận dụng hệ

phương pháp vào dạy học truyện ngắn. Từ đó rút ra những kết luận cần thiết cho việc dạy và học

truyện ngắn lớp 12.

- Phương pháp so sánh, đối chiếu được vận dụng trong việc so sánh giữa các tiết giảng của giáo

viên trong cùng một bài dạy để rút ra những kết luận cần thiết trong quá trình dạy truyện ngắn cũng

như tính ứng dụng của đề tài.

5. Đóng góp của luận văn

Đề tài nhằm:

Xác định những cơ sở lý luận của hệ phương pháp vấn đáp – đàm thoại và gợi tìm trong dạy

học Văn theo yêu cầu đổi mới phương pháp hiện nay.

Xây dựng một Hệ thống câu hỏi vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm nhằm phát huy tính tích cực chủ

động HS trong quá trình dạy học Văn.

Thiết kế giáo án thực nghiệm và đánh giá khả năng ứng dụng của đề tài trong việc dạy truyện

ngắn lớp 12 chương trình chuẩn.

6. Kết cấu luận văn

Ngoài phần mở đầu, phần Kết luận, phần phụ lục và tài liệu tham khảo, luận văn gồm ba

chương:

Chương 1: Hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy học tác phẩm văn

chương ở THPT

Chương 2:Vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy học hai

truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ, Vợ Nhặt ở lớp 12.

Chương 3: Thực nghiệm

Chương 1: HỆ PHƯƠNG PHÁP VẤN ĐÁP - ĐÀM THOẠI VÀ GỢI TÌM TRONG GIỜ HỌC TÁC PHẨM VĂN CHƯƠNG Ở THPT

1.1. Những cơ sở lý luận khoa học của phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm:

1.1.1 Bản chất:

1.1.1.1 Phương pháp pháp vấn đáp - đàm thoại:

Từ lịch sử hình thành của các PPDH, chúng ta có thể nhận ra rằng phát vấn đáp - đàm thoại và

gợi tìm là những PPDH được sử dụng sớm và dài lâu trong nhà trường. Từ thời cổ đại, các nhà tư

tưởng nổi tiếng như Socrat, Khổng Tử chính là những người khởi xướng và sử dụng có hiệu quả những

phương pháp này. Lý luận dạy học cũng thường chú ý hiện tượng các PPDH có sự tương quan gần gủi,

kết hợp đan xem nhau trong quá trình vận dụng. Vì thế, có sự nối kết giữa vấn đáp - đàm thoại và gợi

mở.

* “Vấn đáp”: “hỏi và đáp lại”(từ điển TV, tr, );

*“Đàm thoại” là nói chuyện trao đổi ý kiến với nhau (Từ điển TV tr,582).

Từ đó, vận dụng vào dạy học, hình thức giao tiếp này được xem là “ Phương pháp trong đó giáo

viên đặt ra những câu hỏi để học sinh trả lời, hoặc có thể tranh luận với nhau và với cả giáo viên, qua

đó HS lĩnh hội được nội dung bài học” (Tài liệu hướng dẫn thực hiện chương trình SGK 12,tr. 7).

- Theo Nguyễn Ngọc Quang “ Lí luận dạy học đại cương” thì:

“Đàm thoại là phương pháp mà trong đó thầy đặt ra một hệ thống câu hỏi để trò lần lượt trả lời,

đồng thời có thể trao đổi qua lại, thậm chí tranh luận với nhau và cả với thầy dưới sự chỉ đạo của thầy.

Qua hệ thống câu hỏi - đáp trò lĩnh hội được nội dung bài học. Như vậy, với phương pháp này, hệ

thống câu hỏi - đáp là nguồn kiến thức chủ yếu” [Nguyễn Ngọc Quang: Lý luận dạy học đại cương, 9,

tr 90]. “Việc dạy học phải là một cuộc đàm thoại giữa thầy và trò để cùng nhau vấn đáp, cùng nhau đi

tìm sự thực” [Nghệ thuật dạy học, 2, tr 157]

Như vậy, xét về bản chất của hoạt động dạy học thì PPDH này chứa đựng trong nó các yếu tố

“hỏi” và “trả lời”, “trao đổi ý kiến” qua lại giữa thầy và trò kể cả giữa trò với trò chính vì thế nó thể

hiện vai trò của sự đối thoại. Đây là dạng hoạt động đặc thù của công việc dạy học vì “Những câu hỏi

của giáo viên đặt ra trong khi giảng dạy chủ yếu liên quan đến những điều mà giáo viên đã biết. Đó là

những câu hỏi về những gì mà học sinh đã học hoặc suy ra được từ những kiến thức đã học. Những câu

hỏi này mang yếu tố mở, yếu tố nhận biết, khám phá hoặc khám phá lại dưới dạng thông tin khác bằng

cách tìm ra mối liên hệ, quan hệ, các quy tắc, các con đường để tạo ra một câu trả lời hay một cách giải

mới… Vì thế, chức năng cơ bản nhất của câu hỏi là tổ chức quá trình lĩnh hội, quá trình tương tác, trao

đổi quan hệ giữa giáo viên và học sinh, giữa học sinh với nhau, giữa học sinh và các nguồn lực học tập

cũng như các nhân tố môi trường” (Đặng Thành Hưng Tương tác hoạt động Thầy – Trò trên lớp học tr.

6) Đây là đặc điểm cơ bản của một PPDH thể hiện tính dân chủ và nhân văn cao là “bộ phận hợp thành

quan trọng của lớp học” (Kĩ năng tr 33.).

1.1.1.2 Phân loại các hình thức đàm thoại:

Căn cứ vào nhận thức của người học, lý luận dạy học thường phân loại các hình thức đàm thoại

thành ba nhóm chính:

* Đàm thoại tái hiện: Ở hình thức này, những câu hỏi do Gv chỉ cần HS nhớ lại rồi trả lời trực

tiếp chú không cần phải tìm tòi suy luận. Người ta còn xem đây là lối trả lời có tính chất ghi nhớ may

móc. Là kiểu dạy học kinh thánh hay như thầy đồ dạy học trò học chữ Nho ngày xưa.

* Đàm thoại giải thích - minh họa: có mục đích là giải thích làm sáng tỏ một đề tài nào đó, có

kèm theo những thí dụ minh họa cho lời giải thích. Nội dung giải thích được cấu tạo thành hệ thống câu

hỏi - lời đáp, như vậy sẽ dễ nhớ, dễ hiểu cho người học.

* Đàm thoại - ơrixtic: đây là kiểu đàm thoại có mục đích sử dụng óc phân tích suy luận. Lý

luận dạy học đại cương gọi tên PP này là đàm thoại -ơrixtic (hay tìm tòi - phát hiện) vốn “vận dụng

bản chất của phương pháp đàm thoại Xôcrat” là “Phương pháp mà trong đó thầy tổ chức sự trao đổi,

kể cả tranh luận giữa thầy và cả lớp, có khi giữa trò với nhau, thông qua đó mà trò đạt được mục đích

dạy học” (LLDH tr 91). Có thể thấy PPDH bằng đàm thoại gợi tìm đã thể hiện bản chất của quan điểm

dạy học tích cực bởi nó đã chú trọng tới vai trò tích cực của người học. Vì thế “Đây là một phương

pháp giáo khoa hữu hiệu nhất, nhưng cũng khó khăn nhất vì nó đòi hỏi nơi người thầy và trò một lòng

đăm mê sự thật, với đức khiêm nhường, bền chí lạc quan. Nó còn đòi hỏi nhiều thì giờ và công phu” (

Mai Tâm: Nghệ thuật dạy học tr.157). Dựa vào vai trò của hoạt động nhận thức của HS trong quá trình

học tập mà lý luận dạy học hiện đại xem đây là phương pháp gợi tìm. Phương pháp này gồm ba giai

đoạn:

a. HS độc lập suy nghĩ, tìm kiếm kiến thức theo vấn đề do GV nêu ra qua câu hỏi.

b. HS bình phẩm trao đổi việc đã làm một cách công khai trong giờ học.

c. HS đánh giá việc đã làm, trao đổi, đối chiếu với bài mẫu và những nhận xét phê bình của GV.

Như vậy, từ đây có thể thấy mối quan hệ gắn bó sinh thành giữa đàm thoại và gợi tìm

1.1.1.3 Phương pháp gợi tìm (hay gợi mở):

Tìm tòi vốn là hoạt động nhận thức của con người, có nghĩa là từ nhu cầu của sự hiểu biết mà

chủ thể nhận thức có khả năng phát hiện “vấn đề” bắt nguồn từ sự ngạc nhiên hay thắc mắc từ thực tiễn

cuộc sống để rút ra những kiến thức cho mình. Chính vì thế, trong quá trình nhận thức, tư duy bao giờ

cũng chứa đựng tính sáng tạo. Xét về từ nguyên, gợi tìm có gốc từ tiếng Hi lạp “Euréka” (tìm ra rồi!)

Lý luận dạy học dùng thuật ngữ tiếng Pháp là H’euristique (tìm tòi, phát kiến). Tìm tòi, phát kiến vốn

là năng lực cần thiết nảy nở trong đầu óc của nhà khoa học. Và nhờ đó, nhà khoa học có những tìm tòi

phát hiện ra những kiến thức mang tính sáng tạo - những tri thức mới về thế giới và về các phương thức

hoạt động. Còn đối với lao động học tập “học sinh trong quá trình sáng tạo, tạo ra cái mới không phải

chủ yếu đối với xã hội, mà là đối với chủ quan mình, nhưng cái mới ấy đồng thời cũng có ý nghĩa xã

hội, bởi vì khi đó cá nhân được hình thành và bộc lộ.” (Lecne tr. 16) Chính vì thế, hoạt động sáng tạo

của học sinh giống và trùng với quá trình sáng tạo của nhà khoa học, nếu có khác chăng là ở quy mô

của vấn đề, trình độ độc lập trong nghiên cứu, còn về đặc trưng của quá trình sáng tạo thì có sự tương

đồng.

Trong Lý luận dạy học, gợi tìm còn được gọi là “dạy học tìm tòi một phần” (một mức độ của

dạy học nêu vấn đề) theo đó “…giáo viên lập kế hoạch các bước giải, lập kế hoạch cho quá trình đi đến

lời giải hay làm cho quá trình đó trở nên dễ giải hơn, còn học sinh thì tự lực giải quyết một phần vấn

đề thôi, giải quyết những vấn đề nhỏ trong vấn đề đó thôi. Nhờ dạng dạy học nêu vấn đề này, học sinh

thu được kinh nghiệm hoạt động sáng tạo, nắm được các yếu tố tìm tòi nghiên cứu, nhưng không lĩnh

hội được kinh nghiệm xây dựng và tiến hành toàn bộ cuộc nghiên cứu” (Lecne tr. 52) Theo N. I

Kudriashev “Phương pháp này được thực hiện chủ yếu bằng đàm thoại gợi tìm”. Phương pháp gợi tìm

này có các biện pháp tiêu biểu sau:

a. Xây dựng một hệ thống câu hỏi có logic chặt chẽ, có thể dẫn dắt liên tục sự suy nghĩ của HS

từ quan sát đến phân tích hiện tượng ,từ những kết luận bộ phận đến những kết luận khái quát, hệ thống

câu hỏi tạo nên cuộc đàm thoại gợi tìm, không chỉ đưa HS đến những tri thức tự mình tìm lấy mà còn

phải chỉ ra các phương hướng, phương pháp nhằm đạt tới các tri thức đó.

b. Xây dựng một hệ thống bài tập vê văn bản tác phẩm nghệ thuật hoặc các bài phê bình, về tư

liệu tham khảo cho công việc của toàn lớp hoặc theo nhóm.

c. Đặt thành vấn đề, tố chức tranh luận.

1.2 Mối quan hệ giữa PP vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm:

Lý luận dạy học hiện đại xem quá trình dạy học bao giờ cũng là sự kết hợp đan xen khi vận

dụng các PPDH. Bởi nếu các PPDH đứng độc lập mà không có sự phối hợp giữa chúng một cách chặt

chẽ, hợp lý thì hoạt động dạy học sẽ trở nên đơn điệu xơ cúng, hứng thú học tập cũa HS sẽ giảm sút và

vai trò người GV trở nên mờ nhạt. Thực tiễn dạy học cho thấy đàm thoại là một hình thức dạy học độc

lập, vốn có mặt thường xuyên trong hoạt động sư phạm. Với vai trò của một hình thức dạy học có

nhiều ưu thế, trong quá trình vận dụng hoàn thiện cách thức dạy học này, đàm thoại được đẩy tói bước

phát triển cao và đã chứa đựng trong nó những yếu tố tích cực của một của một PPDH mới đó là đàm

thoại - gợi tìm như đã trình bày ở trên.

Ví thế, cách tiếp cân của chúng tôi là xem vấn đáp - đàm thoại và gợi mở là một hệ PPDH liên

hoàn kết nói tương tác với nhau trong trường hợp vận dụng vào dạy học tác phẩm văn chương. Nhờ ưu

thế riêng của bản thân phương pháp nên khi kết hợp lại chúng ta sẽ có lợi thế đối với yêu cầu phát huy

tồi đa khả năng tiềm lực cua PPDH đã có. Dễ thấy vấn đáp - đàm thoại là một hình thức chứa đựng

trong nó vai trò của sự dẫn dắt của cuộc trao đổi giữa GV với HS và giữa HS với nhau. Còn gợi mở là

sự hướng dẫn, tổ chức của GV nhằm giúp HS đạt đến việc nắm tri thức một cách chủ động, sáng tạo.

Do vậy, không phải ngẫu nhiên mà hai dạng hoạt động này của việc dạy học luôn gắn bó, nương tựa

vào nhau. “Trong phương pháp này hệ thống câu hỏi của thầy giữ vai trò chỉ đạo có tính quyết định đối

với chất lượng lĩnh hội của cả lớp” (LLDHĐC tr. 92) Như tác giả của Giáo trình PPDH văn của ĐHSP

Hà Nội từng khẳng định: “Nếu đặc biệt chú ý đến nhiệm vụ phát triển năng lực trí tuệ, cái đó là một

yêu cầu rất cơ bản trong công tác giảng dạy, chắc hẳn gười giáo viên sẽ dành cho phương pháp đàm

thoại một vị trí xứng đáng trong quá trình lên lớp. Phương pháp gợi mở có những khả năng riêng biệt

mà các phương pháp khác khó có được. Bằng con đường đàm thoại gợi mở, giáo viên tạo cho lớp học

một không khí tự do tư tưởng, tự do bộc lộ những nhận thức trực tiếp của mình: mạch kín của giờ dạy

được thực hiện dễ dàng .” (tr. 172).

Sự kết hợp giữa vấn đáp đàm thoại như vừa trình bày ở trên vào giờ Văn có thể xem là cách vận

dụng Phân hệ phương pháp dạy học chuyên biết hóa là “tập hợp những PPDH (phương tiện dạy học),

trong đó có một phương pháp (phương tiện dạy học) giữ vai trò nòng cốt trung tâm, liên kết những

phương pháp còn lại thành một thể tích hợp, nhằm thực hiện có kết quả một mục đích sư phạm chuyên

biết nào đó. (LLDHĐC tr 67)

Cũng cần thấy trong thực tiễn dạy học ở nhà hiện nay, quan niệm về phân loại PPDH còn gây ra

những quan điểm khác nhau giữa các nhà nghiên cứ sư phạm. Chúng tôi không đi sâu vào việc nêu

những điểm khác biệt nói đó. Tuy nhiên, theo quan điểm chung, được trình bày qua các tài liệu hường

dẫn cũng như giáo trình có thể nhận ra PPDH văn tiêu biểu gồm: đọc sáng tạo, tái tạo, gợi tìm và

nghiên cứu, còn nêu vấn đề được xem như một kiểu dạy học (hay một quan điểm dạy học), đồng thời

thuyết giảng vấn đáp, đàm thoại, trực quan, tháo luận nhóm được xem là thao tác thay thủ pháp dạy học

(Xem Nguyễn Trong Hoàn, Phan Trong Luận, Nguyễn viết Chữ)

1.2. Đặc trưng của phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm:

Mỗi PPDH có một vai trò và tác dụng nổi bật của nó, vì thế khi nói tới vai trò tác dụng của hệ

PP vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm, chúng ta có thể nhận ra những đặc trưng nổi bật như sau:

1.3.1 GV đưa ra hệ thống câu hỏi mang tính nêu vấn đề ơrixtic để buộc trò luôn ở trong trạng

thái có vấn đề , căng thẳng trí tuệ và tự lực tìm lời đáp.

1.3.2 Hệ thống câu hỏi - lời đáp mang tính chất nêu vấn đề để tạo nên nội dung trí dục chủ yếu

của bài học là nguồn kiến thức và là mẫu mực của cách giải quyết một vấn đề nhận thức . Như vậy

thông qua phương pháp này trò không những lĩnh hội được cả nội dung trí dục mà còn học được cả

phương pháp nhận thức và cách diễn đạttư tưởng bằng ngôn ngữ nói.

1.3.3 Hệ thống câu hỏi của thầy giữ vai trò chỉ đạo có tính chất quyết định đối với chất lượng

lĩnh hội của cả lớp; hướng tư duy của trò đi theo một logic hợp lý, nó kích thích tính tích cực tìm tòi, trí

tò mò khoa học và cả sự ham muốn giải đáp của người học.

Thể hiện quan hệ tương tác giữa dạy và học: Thầy là người điều khiển tổ chức còn trò là người

tìm tòi phát hiện. Vì thế khi kết thúc đàm thoại, thầy khéo léo kết luận vấn đề dực vào ngôn ngữ, ý kiến

và nhận xét của chính học sinh (tất nhiên có thêm bớt những kiến thức chính xác và cấu tạo lai với nội

dung chặt chẽ). Trên cơ sở đó, trò lĩnh hội bài học và đạt niềm vui của người nỗ lực góp phần tìm tòi

tìm tòi phát hiện kiến thức.

1.3. Ý nghĩa của phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm theo xu thế của quan điểm dạy học tích cực:

1.3.1 Tính đối thoại và phản hồi của của giờ học:

Nhờ dựa vào hệ thống câu hỏi có mối liên hệ logic chặt chẽ nên mối quan hệ tương tác giữa GV

- HS trong quá trình học tập được đảm bảo. Hệ thống câu hỏi - lời đáp mang tính chất gợi mở vấn đề

tạo nên nội dung trí dục chủ yếu của bài học là nguồn kiến thứcvà là mẫu mực của cách giải quyết một

vấn đề nhận thức. “Như vậy thông qua phương pháp này trò không những lĩnh hội được cả nội dung trì

dục mà còn học được cả phương pháp nhận thức và cách diễn đạt tư tưởng bằng ngôn ngữ nói” Ng.

NG. Quang tr 92) Người GV không giữ vai trò đọc tôn của người ban phát truyền thụ tri thức đon

thuần mà thông qua kênh đối thoại với người học, không khí giờ học được duy trì, tính dân chủ nhân

văn của quá trình dạy học được xây dựng. Mặt khác xét ttheo phương diện điều khiển học, các nhà sư

phạm xem việc dạy học bằng vấn đáp đàm thoại là kênh thông tin phản hồi quan trong bởi những tri

thức mà HS thu được trong quá trình học tập xét theo múc độ nào đó có phần trừu tượng và còn thiếu

hoàn thiện. Bởi thế, “Thông qua phản hồi, giáo viên có thể phát huy tác dụng chỉ đạo của lý luận, có

thể làm cho tư duy của học sinh lý giải sâu sắc thêm tử trừu tượng đến cụ thể, tăng cường tri thức chính

xác, uốn nắn quan điểm sai lầm, điều tiết phương thức tư duy, khai thác năng lực trí tuệ, nâng cao hiệu

quả học tập của học sing” (kĩ năng phản hồi tr. 13)

1.3.2 Tính hợp tác của hoạt động dạy học:

Hoạt động dạy học thường xuyên diễn ra mối quan hệ tương tác giữa dạy và học. Trước đây,

theo quan điểm giáo dục cổ truyền, thầy giáo là người chi phối toàn bộ quá trình giáo dục, áp đặt, nhồi

nhét những giá trị đạo đức và kiến thức kĩ năng như những chân lý bất biến. Còn theo quan điểm giáo

dục tích cực, học sinh được nhìn nhận như một chủ thể tích cực trong quá trình học tập vì thế “người

học không học thụ động, chỉ nghe thầy giảng và truyền đạt kiến thức mà học bằng hành động của chính

mình bằng sự chủ động tự giác tích cực của mình. “Kiến thức chủ quan người học tự lực tìm ra được

đưa ra trình bày, bảo vệ, tranh luận đúng sai ở tập thể lớp học. Từ cách “độc thoại” của thầy bây giờ trở

thành đối thoại”. . Dựa vào vai trò “giao tiếp, đối thoại, tranh luận” của học sinh dưới sự “tổ chức định

hướng” của giáo viên mà quan hệ hợp tác trong hoạt động sư phạm diễn tra. Chính nhờ mối quan hệ

gắn bó và tương hổ này mà lớp học, theo quan điểm dạy học mới, là nơi diễn cuộc trò chuyện , trao đổi

giữa GV và HS và giữa học sinh với nhau. Đây là nền tảng của quan điểm dạy học hợp tác mà từ đó,

các yếu tố của quá trình dạy học được tổ chức lại với sự liên kết cộng tác chặt chẽ. Chúng ta từng biết

tới mô hình về Phương pháp giáo dục của nhà sư phạm nổi tiếng người Pháp Jean Vial và qua đó nhận

ra những đặc trưng của quan điểm giáo dục tích cực hợp tác qua bảng so sánh sau: (Trình bày sơ đồ

của Ô Kỳ tr. 79)

1.4.3 Tính sáng tạo của hoạt động dạy học: Trong quá trình học tập, nhận thức của HS không

ngừng được hình thành và phát triển, nhờ đó nguồn kiến thức, kĩ năng được tích lũy ngày càng bền

vững và phong phú. Nhưng trong thực tề dạy học, cũng có một sự thực cần thấy: những kiến thức học

sinh được trang bị trên ghế nhà trường, phần lớn là kho tàng kinh nghiệm của những thề hệ trước

truyền lại. Do vậy, có một đặc điểm dễ nhận ra là trong quá trình tiếp nhận tri thức tư duy tái hiện giữ

một vai trò quan trọng. “Tuy nhiên, việc dạy học ngày nay cố gắng chẳng những tăng tỷ trọng của tư

duy sáng tạo mà còn phát triển tư duy đó ở mỗi cá nhân đến trình độ sao cho người ta suy nghĩ một

cách sáng tạo về tất cả những điều mình lĩnh hội được bằng con đường tái hiện.” (Lecne tr 16). Sự tiến

bộ của khoa tâm lý học trong gần một thế kỉ qua đã chúng minh cho nguyên tác dạy học sáng tạo nhờ

phát hiện ra mối quan hệ giữa chủ thể và đối tượng. Từ đó vấn đề nổi bật mà khoa sư phạm quan tâm

tới là “quá trinh chuyển vào trong” và “tính hoạt động” trong hoạt động tâm lý của chủ thể học tập -

học sinh. Chính bằng những quan điểm mới mẻ này, các nhà tâm lý - sư phạm hiện đại đã và đang nỗ

lực phát hiện, cung cấp “một sự giải thích tích cực của sự phát triển trí tuệ” và “của tính hoạt động tâm

thần” của trẻ em. Và nói như J. Piaget ,đó “là nguồn gốc của những phương pháp mới” xuất hiên trong

nhà trường hiện đại.

1.4. Vận dụng phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm vào giờ học tác phẩm văn chương.

1.4.1. Việc đổi mới quan điểm dạy học văn:

Trong gần 30 năm qua kể từ sau khi tiến hành cuộc cải cách dạy học văn vào năm 1986, môn

văn trong nhà trường đã trải qua nhiều thay đổi chuyển biến. Đặc biệt vào lần thay đổi chương trình

SGK vào năm 2003, việc dạy học văn ở trường Phổ thông được thay đổi với những quan điểm dạy học

mới thể hiện cho xu thế của nhà trường trong chặng đầu của thế kỉ mới.

2.1.1 Đổi mới quan điểm về môn học (từ giảng văn chuyển sang đọc hiểu). Trước hết cần nói tới

sự tahy đổi về tên gọi môn học, môn văn, qua quá trình dạy học trong nhà trường từ bấy lâu nay từng

được gọi là văn học hay văn với các bộ phận tách biệt là tiếng Việt, văn học, làm văn, nay được xác

định với tên gọi mới là Ngữ văn. Các bộ phận cấu thành của môn học nay không đứng riên rẻ thành ba

bộ sách giáo khoa như trước mà theo nguyên tác tích hợp đã gộp lại thành một thể thống nhất. trong

cấu tạo chương trình trước đây, phần học tác phẩm được gọi là Văn học hay Văn học trích giảng và

việc dạy học tác phẩm văn được xem là việc giảng văn hay phân tích tác phẩm thì nay được thay thế

bằng khai niệm đọc - hiểu văn bản tác phẩm. Dựa trên mối quan hệ tương tác ba chiều giữa Nhà văn

(qua tác phẩm )- Nhà giáo - Học sinh trong dạy văn theo mô hình của R. W. Beach và J. D. Marshall,

chúng ta đã nhận ra mối liên hệ khắng khít của việc liên kết giữa các yếu tố quan trong đó để có sự xử

lý một cách thích hợp. Từ đó nhận ra những vấn đề đích thực đặt ra trong lý luận và thực tiễn dạy văn.

Cũng cần nói tới một nguyên tác sư phạm được vận dụng trong giờ học tác phẩm đó là việc phát huy

vai trò tích cực sáng tạo của học sinh trong hoạt động học tập.

1.4.2.Đổi mới PPDH tác phẩm:

Đổi mới quan điểm dạy học tất sẽ dẫn tới việc đởi mới cách thức dạy học tác phẩm. Trong giờ

“giảng văn” hay “phân tích tác phẩm” trước đây, việc chủ yếu là thầy giáo cảm thụ bài văn , nắm yêu

cầu của việc truyền thụ nội dung và nghệ thuật của bài học từ đó chú trọng vào việc rót kiến thức cho

học sinh. Vì thế vai trò của học sinh bị lãng quên, người học vô hình trung bị biến thành một thính giả

trong cuộc “độc thoại”( nêu những biểu hiện cụ thể của lối giảng văn, lối thầy cảm thụ thay, hiểu thay,

che lấp vai trò học sinh vì thế một số PPDH cũ tồn tại lâu dài :diễn giảng, học thuộc lòng, ghi nhớ…)

Từ đó dẫn tới lối học văn thụ động.

Đến CCGD vào năm 1986 chú trong hoạt động đọc, đề cao vai trò người đoc - học sinh, tăng

cường tính đối thoại trong giờ văn…Đã có 4 PPDH văn được triển khai :đọc sáng tạo, gợi mở, tái tạo,

nêu vấn đề, đến triển khai thay đổi chương trình SGK vào năm 2003 nhiều PPDH mới bổ sung, nhấn

mạnh ( vấn đáp - đàm thoại, phát hiện giải quyết vấn đề, kiến tạo, tổ chức thảo luận..,). Những PPDH

nói đó đa dạng sinh động thể hiện rõ bản chất đối thoại của giờ học tác phẩm.

Sở dĩ có những chuyển biến về cách thức dạy học văn nó đó một phần quan trọng nhờ vào việc

thâm nhập của các thành tựu của Lý luận văn học (đặc biết nhấn mạnh vai trò Lý thuyết tiếp nhận văn

học: hoạt động đọc, kết cấu vẫy gọi, người đọc tiềm ẩn, khoảng trắng,) để nhấn mạnh tới vai trò hoạt

động sáng tạo của tiếp nhận trong giờ học văn . Chính trên những nền móng này, giờ học văn được

xem như giờ đối thoại (viện dẫn những ý kiến đã trao đổi về tính đới thoại của giờ học văn ( chẳng hạn:

xem tài liệu của thầy Chữ) và nêu một số dẫn chứng

1.4.3. Vấn đề then chốt của việc vận dụng phương pháp vấn đáp đàm thoại gợi tìm trong giờ học tác phẩm văn chương: Hệ thống câu hỏi đàm thoại - gợi mở.

1.4.3.1. Thực trạng:

Mặc dù GV đã có nhiều nỗ lực cố gắng trong việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ dạy học

tác phẩm văn chương, nhưng trên thực tế cho thấy trong dạy học tác phẩm văn chương ở nhà trường

phổ thông thời gian qua, GV chưa thực sự quan tâm đúng mức vấn đề đặt câu hỏi theo hướng vấn đáp,

đàm thoại và gợi tìm, xem nhẹ vai trò chủ thể học sinh trong quá trình lên lớp, GV hầu như bám vào

hệ thống câu hỏi hướng dẫn học bài trong SGK mà ít có sự đầu tư thật sự cho việc xây dựng một hệ

thống câu hỏi theo tầm đón nhận của riêng học sinh. Qua giảng dạy, khảo sát và tham dự các chuyên

đề ở THPT do trường và SGD – ĐT Tây Ninh tổ chức, chúng tôi nhận thây rằng, bên cạnh những ưu

thế của câu hỏi trong SGK hiện hành, việc xây dựng hệ thống câu hỏi trong giờ dạy Văn giáo viên còn

lúng túng trong cách đặt câu hỏi. Có thể nêu ra những hiện tượng nói đo như sau:

Hỏi cho có hỏi, câu hỏi thừa chữ, có quá nhiều từ phủ định, có nhiều khả năng lựa chọn, ngôn

từ khá phức tạp so với ý tưởng, câu hỏi đôi khi còn quá dài, quá lớn hoặc quá khó, chưa kích thích tư

duy tìm tòi, óc sáng tạo của HS trong giờ học, thậm chí có khi hỏi GV hỏi HS chỉ trả lời một chiều,

hoặc giáo viên đặt câu hỏi rồi tự trả lời. Vì vậy, chưa phát huy hết được sự tham gia của HS trong quá

trình xây dựng nội dung bài. Nguyên nhân chủ yếu là do Gv chưa nắm rõ hoặc thiếu hiểu biết về bản

chất của phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong quá trình dạy học. Chưa chú ý nhiều đến

phương pháp tìm tòi phát hiện trong quá trình dạy học tác phẩm văn chương. Chưa xem trọng vai trò

HS là một bạn đọc thật sự.

1.4.3.2. Vấn đề câu hỏi trong dạy học tác phẩm:

Không phải tới giờ, vấn đề câu hỏi mới đạt ra trong giờ văn mà đây là vấn đề được quan tâm từ

lâu (các chuyên luận, chuyên đề về câu hỏi trong giảng văn). Nhưng hiện nay câu hỏi đặt ra nhiều vấn

đề cần tìm hiểu bởi xuất phát điểm: cuôc gặp gỡ trò chuyện giữa nhà văn - người đọc (thông qua tương

tác ba chiều của giờ văn) diễn ra sinh động, phong phú, sâu sắc và cách dạy học hiện nay là đọc - hiểu

cho nên giờ học phải mang tính đối thoại. “Trong xu thế đổi mới phương pháp dạy học văn gần đây, có

ý kiến cho rằng: phải trả giờ văn chương lại cho bản chất giao tiếp nghệ thuật, định hướng sư phạm cải

tiến phải tạo nhiều thời gian cho học sinh tiếp xúc với bài văn trước, trong và sau khi học để “cuộc

giao triếp lặng im thực sự diễn ra trong giao tiếp văn chương” (Nguyễn Trọng Hoàn SĐD tr. 134).

Do đó, quá trình tiếp nhận tác phẩm văn học của HS trong nhà trường phải là sự tiếp nhận có ý thức,

chủ động có định hướng chứ không phải là sự tiếp nhận thụ động, tùy tiện. Vấn đề câu hỏi trong dạy

học tác phẩm văn học là những định hướng ban đầu giúp các em tự tìm hiểu, khám phá cái hay, cái đẹp

của tác phẩm một cách đúng hướng cả về nội dung lẫn nghệ thuật. Bản chất của hệ thống câu hỏi này

theo Rez là : “ Nhẳm hướng tới việc lĩnh hội văn bản theo quỹ đạo cần thiết, đồng thời vẫn dành cho

HS một khoảng rộng trong lựa chọn tài liệu các tác phẩm và trong lý giải tài liệu. từ đó mà có các câu

trả lời không đơn điệu” (122- 212). Vì thế, vấn đề câu hỏi trong dạy học tác phẩm văn học có vai trò

rất quan trọng. Câu hỏi có ý nghĩa đối với cả HS và GV, cả việc chuẩn bị bài ở nhà và cả qúa trình

dạy học văn trong nhà trường, đặc biệt là phương pháp nhằm phát huy tính tích cực của chủ thể người

đọc – HS, xem HS là bạn đọc sáng tạo, kích thích tư duy tìm tòi, phát hiện và khám phá của HS. Từ đó

có thể nhận thấy vấn đề câu hỏi có vai trò sau:

Thứ nhất: Giúp HS hiểu đúng và cảm thụ đúng những tác phẩm được học trong nhà trường.

Thông qua những hệ thống câu hỏi này, HS có thể tự mình bước đầu cảm được, hiểu được cái hay, cái

đẹp của một tác phẩm văn học cả về nội dung lẫn nghệ thuật.

Thứ hai: Thông qua hệ thống câu hỏi này giúp HS hình thành rèn luyện phương pháp tự tìm

hiểu, tự khám phá và cảm nhận về một tác phẩm văn học. Trong nhà trường phổ thông hiện nay, HS

không hiểu và cảm thụ những tác phẩm văn học hiện có trong chương trình đã yếu, tự mình tìm hiểu

những tác phẩm không có trong chương trình lại càng khó khăn và yếu kém hơn nhiều. Nguyên nhân

chính là các em chưa được hình thành và rèn luyện tốt phương pháp đọc – hiểu cũng như phương pháp

phân tích, cảm thụ tác phẩm văn hoc.

Thứ ba: hệ thống câu hỏi, bài tập này sẽ giúp HS nắm được tri thức một cách có hệ thống.

Tuy nhiên, đến nay thì lịch sử nghiên cứu vấn đề câu hỏi trong SGK Ngữ văn ở nước ta chưa

dược đề cập đến. Đó cũng là một khó khăn lớn cho HS lẫn Gv khi tiếp cận tác phẩm. Vấn đề câu hỏi

trong dạy học tác phẩm văn học nếu được xây dựng một cách khoa hoc, bài bản còn giúp cho GV xây

dựng cho mình một phương án giảng dạy tối ưu. Thích hợp với hoàn cảnh, đối tượng giảng dạy.

2.2.2.1 Việc phân loại câu hỏi:

Về bản chất của câu hỏi: Phân biệt sự khác nhau giữa hoạt động tái hiện và hoạt động sáng tạo

trong dạy học. Từ đó, thấy rõ bản chất của dạy học tích cực sáng tạo hiện nay.

Về sử dụng câu hỏi: có hai loại thường gặp:

+ Hướng dẫn học tập theo SGK (chuẩn bị bài)

Trước yêu cầu đổi mới phương pháp, chương trình sách giáo khoa Ngữ văn THPT đã có khá

nhiều thay đổi so với sách giáo khoa trước đó. Qua một hệ thống câu hỏi trong phần hướng dẫn học

bài, soạn giả đã chú ý đến việc khắc phục thói quen phân tích tác phẩm theo hướng xã hội học dung tục

và cách dạy nhồi nhét, bắt học trò cảm thụ như giáo viên. Hệ thống câu hỏi trong SGK đã thể hiện

được yêu cầu bài học, có sự gợi mở, hướng dẫn học sinh đông não, tăng cường định hướng cho HS đi

sâu vào phát hiện, khám phá những giá trị nghệ thuật để thể hiện nội dung. Hệ thống câu hỏi hướng dẫn

này là cơ sở để GV bám sát và từ đó xây dựng cho mình một hệ thống câu hỏi riêng phù hợp với từng

đối tượng học sinh.

Phần hướng dẫn học bài kèm sau mỗi bài là những gợi ý tích cực và khá tập trung theo hướng đã

định sẵn. Tất cả đều nhằm gợi nhắc HS lưu ý tới những vấn đề chủ yếu, quan trọng nhất của bài học.

Phần hướng dẫn này thể hiện tập trung nhất, cụ thể nhất quan điểm của soạn giả đối với vấn đề mà

mình đang trình bày. Nhiều câu hỏi đã chú ý đến việc hướng HS vào việc tìm hiểu giá trị nghệ thuật

đích thực, khai thác tác phẩm đúng với nguyên tắc và đặc trưng môn học, chú ý tới giá trị của các hình

thức nghệ thuật trong việc biểu hiện nội dung, buộc người đọc - học sinh phải suy nghĩ, tìm tòi để lý

giải, chỉ ra được cái hay, cái đẹp về nội dung cũng như nghệ thuật của tác phẩm. Hệ thống câu hỏi,

cách hỏi của soạn giả cũng phong phú hơn, gây được sự hứng thú của người đọc - HS. Hướng dẫn cho

HS cách tiếp cận, cách khai thác và làm việc với tác phẩm nhằm rèn kĩ năng cần thiết tự mình tiếp

nhận những tác phẩm cùng loại. Đồng thời gợi mở cho giáo viên những phương hướng trong việc

giảng dạy, khai thác tác phẩm một cách có hiệu quả. Nói như AC. Acbaeva: “ Những câu hỏi, bài tập

xếp đặt trong SGK Văn học có thể góp phần kích thích và phát triển tình cảm, đạo đức của HS; hình

thành phương pháp lịch sử văn học đối với tác phẩm nghệ thuật; giúp đỡ HS phát triển và làm phong

phú lời nói” (165). Đặc biệt, SGK hiện nay chú trọng tới vai trò tác dụng định hướng cho việc tự đọc

độc lập của HS thông qua hệ thống câu hỏi và bài tập. Như vậy, phần hướng dẫn chuẩn bị trong SGK

Ngữ văn hiện nay đóng một vai trò rất to lớn trong việc hình thành và rèn luyện kĩ năng tự tiếp nhậ, tự

phân tích và đánh giá tác phẩm . GS Nguyễn Lộc đã nói: “Phần hướng dẫn học tập là phần rất quan

trọng. Có thể nói phần này quyết định sự thành công của việc dạy và học theo sách mới” ( 54).

Các câu hỏi và bài tập được sắp xếp một cách có thứ tự theo trình tự bài khóa. Đây chính là tính

hệ thống và nguyên tắc nhận thức của hệ thống câu hỏi, bài tập phần hướng dẩn chuẩn bị. trong SGK

Ngữ văn

+ Hướng dẫn sử dụng trong giờ học trên lớp (giáo án):

Từ hệ thống câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị trong SGK đến việc hướng dẫn sử dụng trên lớp ( giáo

án) của GV là khâu rất quan trọng. Bởi lẽ, giáo án là nơi thể hiện rõ nhất hoạt động tiếp nhận tác phẩm

của thầy và trò trong quá trình lên lớp. Do đó, câu hỏi lên lớp của Gv và sự chuẩn bị của HS ở nhà theo

SGK tuy có khác nhau nhưng nhìn chung đều hướng đến một mục đích chung: giúp HS tiếp nhận tốt

tác phẩm được học và vươn tới tự tiếp nhận những tác phẩm khác không được học trong chương trình.

Đúng ra là hệ thống câu hỏi trong SGK và hệ thống câu hỏi lên lớp của GV trong giờ học văn là phải

làm sáng tỏ những vấn đề đặt ra ở hệ thống câu hỏi trong SGK mà HS đã chuẩn bị, giúp các em hiểu

và cảm thụ đúng hơn những gì mình đã chuẩn bị ở nhà. Thực ra, phần hướng dẫn chuẩn bị này thể hiện

tập trung nhất, rõ nhất ý đồ của soạn giả đối với vấn đề mình đang trình bày. Và nếu phần hướng dẩn

học bài được biên soạn công phu, đúng hướng sẽ giúp HS làm tốt công việc chuẩn bị bài ở nhà. Vì thế,

chúng có liên quan mật thiết với nhau, bổ trợ cho nhau. GV xây dựng giáo án không thể không tính đến

nội dung và cách thức của những câu hỏi trong SGK. Lặp lại nguyên si những câu hỏi trong SGK cũng

không được mà thoát li hoàn toàn những câu hỏi ấy cũng không được. Vấn đề đặt ra là mối quan hệ

giũa hệ thống câu hỏi trong phần hướng dẩn chuẩn bị của HS và hệ thống câu hỏi trên lớp của GV có

khác nhau đôi chút nhưng có mối quan hệ rất chặt chẽ, mật thiết với nhau. Hệ thống câu hỏi lên lớp

của Gv trong giờ đọc – hiểu phải tập trung làm rõ những vấn đề đã được đặt ra qua hệ thống bài tập,

câu hỏi trong phần hướng dẫn chuẩn bị mà HS đã chuẩn bị, từ đó giúp các em hiêu và cảm thụ đúng

hơn những gì mình đã tìm hiểu và chuẩn bị ở nhà. Quá trình lên lớp thực chất là quá trình nhằm điều

chỉnh, uốn năn, bổ sung những gì còn thiếu sót cho việc chuẩn bị ở nhà của HS.qua hướng dẫn cua GV

và sự trao đổi với bạn bè HS củng cố thêm cách hiểu của mình. Tránh tình trạng HS chuẩn bị một dằng,

Gv lên lớp lại hỏi một nẻo, giờ học trở nên nặng nề, Gv hỏi HS im lặng, không trả lời được.hiệu quả

giờ dạy không như mong muốn.

2.2.2.2 Dạng câu hỏi sử dụng trong dạy học.

Điểm qua quan điểm một số tác giả:

* Câu hỏi phát hiện; Câu hỏi tái hiện, liên tưởng tưởng tượng; Câu hỏi phân tích; Câu hỏi so

sánh; câu hỏi khái quát và tranh luận; Câu hỏi vận dụng kiến thức..(Nguyễn Trọng Hoàn: Rèn luyện tư

duy sáng tạo, tr. 162)

* Câu hỏi Phát hiện, Câu hỏi nhận xét đánh giá; Câu hỏi so sánh; Câu hỏi bình giá.(Đỗ Thanh

Dương)

* Câu hỏi nêu vấn đề (Phan Trọng Luận: Phương pháp dạy học văn tr.159 - 174).

* Hệ thống câu hỏi cảm thụ (Nguyễn Viết Chữ: PPDH tác phẩm văn chương (theo loại thể).

Hiện nay, SGK Ngữ văn thiết kế theo hướng đọc – hiểu nên có một số dạng câu hỏi quan trọng

chủ yếu trong giờ học tác phẩm mà GV đang thực hiện ở Phổ thông như sau ( theo PGS- TS Đỗ Ngọc

Thống):

- Câu hỏi về đặc điểm thể loại: bao gồm nhận diện về đặc điểm thể loại; phân tích vai trò và tác

dụng của thể loại.

- Câu hỏi hướng vào các yếu tố của văn bản: bao gồm câu hỏi đọc lướt, đọc thông; câu hỏi đọc

sâu, cảm nhận ngôn từ; câu hỏi khái quát giá trị tác phẩm.

- Câu hỏi vầ những yếu tố ngoài văn bản: bao gồm hoàn cảnh sáng tác,; câu hỏi về tác giả.

- Câu hỏi về vai trò của người tiếp nhận: khai thác kinh nghiệm, vốn sống, gia đình, quê hương;

khai thác năng lực, trí tuệ phân hóa khác nhau của HS.

2.2.2.3 Những yêu cầu khi xây dựng hệ thống câu hỏi

Trên cơ sở tổng hợp các loại câu hỏi của các tác giả trên, chúng tôi vận dụng hệ thống câu hỏi

một cách có chọn lọc, linh hoạt, phù hợp với yêu cầu dạy học truyện ngắn trong chương trình Ngữ Văn

12. Tuy nhiên, phương pháp không thể đạt đến sự chính xác, khoa học nếu không được xây dựng trên

các yêu cầu , căn cứ khoa học đáng tin cậy. Có nghĩa là hệ thống câu hỏi sẽ thật sự khoa học nếu ta

hiểu và nắm vững những yêu cầu và nguyên tắc xây dựng nó. Khi ấy, hệ thống câu hỏi mà ta thực

hiện sẽ mang lai những hiệu quả thiết thục trong quá trình học văn. Vì vậy, với đề tài này chúng tôi

dựa vào những yêu cầu, căn cứ , nguyên tắc và tiêu chí như sau:

2.2.2.3.1 Những yêu cầu khi xây dựng hệ thống câu hỏi:

* Mục đích nêu câu hỏi phải rõ ràng: phải xác dịnh những loại câu hỏi nào? Thông qua những

câu hỏi đó thu được những thông tin gì để từ đó điều chỉnh cho hợp lý.

* Nêu câu hỏi phải có giá trị nhất định:câu hỏi dược nêu phải có sự chọn lọc, có ý nghĩa đối với

toàn thể HS và xoay quanh trọng điểm, điểm khó.Trong dạy học, câu trả lời của HS có thế rất đa dạng.

quá trình này có thể là khẳng định cũng có thể là phủ định nhưng vấn đề được nêu trở thành thông tin

trao đổi, giao lưu của cả lớp, cuối cùng Gv hướng dẫn rồi hình thành nhận thức chung.

* Phải nghiên cứu nghệ thuật nêu câu hỏi: Khi thiết kế cậu hỏi, Gv cần lưu ý về mặt thiết kế phải

chặc chẽ, khoa học, về mặt ngôn ngữ phải logic, chặt chẽ, chính xác, làm cho câu hỏi minh bạch, rõ

ràng, ngắn gọn, dễ hiểu. nêu câu hỏi còn phải mới mẽ, thú vị. khi thiết kế câu hỏi. khi thiết kế câu hỏi,

giáo viên cần dựa vào kiến thức mà HS năm vững, mở rộng thêm một bước, khai thác tầm nhìn của

HS, độ sâu của kiến thức, khiến HS nãy sinh hứng thú trong học tập.

* Phảo nắm vững mức độ khó dễ của câu hỏi: Khi thiết kế câu hỏi, Gv phải nắm vững kiến thức

và khả năng lí giải bài khóa của HS. Câu hỏi nên là những câu mà HS không tìm thấy câu trả lời có sẵn

trong bài khóa nhưng lại liên quan chặt chẽ đến bài khóa và những kiến thức đã được học. Nếu câu hỏi

quá khó, HS vận dụng kiến thức hiện có mà không trả lời dược thì tư duy sẽ gặp khó khăn, mất đi lòng

tin trả lời câu hỏi, không thể kiểm nghiệm trình độ HS một cách chân thực, hữu hiệu. mặt khác, nếu câu

hỏi được thiết kế không có độ khó, dễ quá cũng không thúc đẩy được tính tích cực suy nghĩ của HS,

không có lợi cho việc khơi gợi hứng thú trả lời câu hỏi của HS.

*Phải đánh giá kịp thời và chuẩn xác: thông qua nêu câu hòi, HS trra3 lời tên lớp, thông tin phản

hồi mà Gv thu được muôn hình muôn vẻ. vì vậy, Gv đánh giá kịp thời để thỏa mãn nhu cầu tự khẳng

định của HS, kích thích năng lực tiềm ẩn của các em. Đối với những ý kiến bất đồng, đặc biệt là những

ý kiến lấp lững nước đôi, phải có sự đánh giá thật chuẫn xác có như vậy hiệu quả của giờ dạy sẽ được

nâng cao.

1.5.3.2.1.Những căn cứ cơ bản cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi theo hướng tích cực:

Một là: dựa vào lý luận dạy học hiện đại làm xuất phát điểm cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi

trong dạy học truyện ngắn lớp 12. Theo tinh thần dạy học hiện đai, người học được xem là đối tượng

hướng tới của hệ thống câu hỏi. Phương pháp dạy học hiện đại là “đặt người học vào vị trí trung tâm

của quá trình dạy học”( Phan Trọng Luận – dẫn lời của Bộ giáo dục Pháp). Không có một giải pháp

sư phạm nào được gọi là tích cực, là mới nếu chúng đi chệch ra ngoài quỹ đạo của lý luận dạy học hiện

đại. Xây dựng hệ thống câu hỏi cho tác phẩm văn chương cũng vây. Hệ thống câu hỏi chỉ thật sự khoa

học khi nó tạo ra được hoạt động cho cả thầy và trò đúng với vai trò và chức năng mới. Bằng hệ thống

câu hỏi giáo viên sẽ tạo được một hệ thống việc làm giúp học sinh thi công bài học của mình. Đồng

thời khi học sinh thi công bài học của mình trên hệ thống câu hỏi, chúng phải tự trình bày ý kiến của

mình với tác phẩm.

Hai là: dựa vào thành tựu của tâm lý học hiện đại làm căn cứ khoa học cho việc xây dựng một hệ

thống câu hỏi. Khoa tâm lí học hiện đại trong thế kỉ XX lần đầu tiên cho ta nhìn thấy tâm lí con người

trong quá trình hoạt động. Chính tâm lí học đã xác nhận tính khoa học của hoạt động dạy và học. Hai

hoạt động này diễn một cách đồng bộ thì hệ thống câu hỏi sẽ là cách tốt nhất để thiết kế hoạt động của

thầy và trò trong quá trình chiếm lĩnh tác phẩm. Từ lý thuyết hoạt động này, khi xây dựng hệ thống

câu hỏi chúng ta chú ý đến đặc điểm đối tương, mức độ, lứa tuổi..

Ba là: dựa vào lý luận văn học về đặc trưng loại thể của tác phẩm, về hoạt động tiếp nhận văn học

và về phương pháp tiếp cận tác phẩm văn chương trong nhà trường làm các căn cứ khoa học để xây

dựng câu hỏi. Chính phương thức và cách thức tồn tại của tác phẩm quy định cách tiếp cận tương ứng.

Trong ba thể loại cơ bản: tự sự; kịch; trữ tình, việc xây dựng hệ thống câu hỏi cũng phải chú ý đến

từng thể loại sẽ cũng khác nhau. Về mặt thể tài của tác phẩm văn học, nếu tác phẩm văn học tồn tại với

3 yếu tố đặc trưng là: cốt truyện, nhân vật, lời kể thì hệ thống câu hỏi sẽ xoay quanh những yếu tố này.

Nếu tác phẩm tồn tại ở dạng thơ thì hệ thống câu hỏi sẽ hướng về nội dung và hình thức, bám vào các

dấu hiệu của hình thức thơ từ đó cảm nhận tâm trạng tác giả - nhân vật trữ tình bài thơ.

Trong các cơ sở khoa học về xây dựng hệ thống câu hỏi, còn có vấn đề tiếp cận tác phẩm văn

học nhà trường.Quan điểm tiếp cận đồng bộ tác phẩm văn chương sẽ mở ra hướng tiếp cận đồng bộ

của hoạt động dạy học thông qua hệ thống câu hỏi. Tác phẩm văn chương là một hệ thống mở, chính

bạn đọc là người hoàn thiện vòng đời của tác phẩm theo tinh thần HS là một bạn đọc đồng sáng tạo.

Bốn là: Xuất phát từ đặc trưng của tư duy nghệ thuật có tính hình tượng và tính cảm xúc cho nên

các loại câu hỏi cảm thụ phân tích tác phẩm trong nhà trường dược vận dụng cho việc xây dựng hệ

thống câu hỏi. Cho đến nay, tuy chúng ta chưa xác lập hệ thống lý luận về các loại câu hỏi cảm thụ tác

phẩm văn chương trong nhà trường, nhưng câu hỏi về hướng dẫn chuẩn bị bài trong SGK và giáo án

của GV vẫn cứ tồn tại. Tính thuyết phục của những câu hỏi này là ở chổ nó khai thác đúng tâm lí của

người đọc do tác phẩm gây nên dù còn nhiều vấn đề cần phải trao đổi thêm.

Cuối cùng là dựa vào mục tiêu bài học làm mục đích cho việc xây dựng hệ thống câu hỏi. Nếu

như ở hoạt động dạy là giúp học sinh hình thành và lĩnh hội tri thức, phát triển tâm lí, hình thành nhân

cách thì hoạt động học là chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, kĩ xảo, hướng vào làm thay đổi chính mình.

Bằng một hệ thống câu hỏi giúp HS chiếm lĩnh tri thức cần đạt, mặt khác giúp HS rèn kĩ năng , kĩ xảo,

đồng thời khơi dậy tình cảm đạo đức một cách đúng đắn.

1.5.3.2.2 Những nguyên tắc xây dựng hệ thống câu hỏi.

Từ những cơ cở lý luận như đã trình bày phần trên, chúng tôi nhận thấy cần phải xây dựng một số

nguyên tắc cho việc xây dựng một hệ thống câu hỏi trong dạy học truyện ngắn lớp 12.

Nguyên tắc 1: Đảm bảo tính khoa học - hệ thống:

Cần đảm bảo tính chính xác về nội dung cũng như các thuật ngữ, khái niệm. Tính hệ thống thể

hiện trong cách trình bày, lựa chọn câu hỏi sao cho phù hợp với nhau và với nội dung bài học. Mỗi

bài có những loại và dạng câu hỏi khác nhau nhưng phải nằm trong hệ thống phù hợp với ý đồ thiết

kế sư phạm đã đề ra.

Nguyên tắc 2: Bảo đảm tính sư phạm:

Tính sư phạm của hệ thống câu hỏi thể hiện ở việc chú ý đến nhu cầu và hứng thú của HS, khơi

gợi khả năng tham gia tranh luận, đối thoại trong qúa trình khám phá tác phẩm. Hệ thống câu hỏi

không chỉ chú ý tới việc hỏi cái gì, mà quan trọng hơn là phải hỏi như thế nào?. Ở từng lớp, từng bài sẽ

có một hệ thống câu hỏi khác nhau theo nguyên tắt từ dễ đến khó, từ đơn giản đến phức tạp. Mục đích

cuối cùng của hệ thống câu hỏi này nhằm giúp HS giải mã được nội dung và nghệ thuật của bài học.

Nguyên tắc 3: Đảm bảo tính toàn diện:

Câu hỏi ở nhiếu cấp độ, nhiều bình diện từ nội dung đến hình thức nghệ thuật cũng như phương

pháp tiếp cận. Đặc biệt là mối quan hệ giữa nội dung và hình thức tác phẩm, không chỉ yêu cầu HS

nắm bắt được nội dung mà còn hình thành cách thức phân tích, phương pháp tiếp cận tác phẩm một

cách hiệu qua.

Nguyên tắc 4:Thông qua hoạt động khuyến khích sáng tạo:

Đa dạng hóa các dạng câu hỏi nhằm khơi gợi óc tìm tòi sáng tạo của HS. Quá trình tham gia vấn

đáp, đàm thoại của HS trong xây dựng bài học trên lớp phải được giáo viên ghi nhận, khuyến khích và

nhận xét một cách sư phạm, tạo cho các em một tâm lí năng phát biểu, khơi gợi những tìm năng cảm

thụ văn chương của các em thông qua những giờ học trên lớp.

Ngoài các nguyên tắc trên, trong xây dựng một hệ thống câu hỏi chúng tôi dựa vào các tiêu chí:

Tiêu chí 1:Câu hỏi phải bám sát văn bản:

Câu hỏi phải hướng vào văn bản, bám sát hình tượng nhân vật và những chi tiết có ý nghĩa tạo nên

giá trị tác phẩm.

Tiêu chí 2:Câu hỏi phải hướng vào HS:

Câu hỏi phải hướng vào nhu cầu đòi hỏi giải đáp thắc mắc của HS khi tiếp cận tác phẩm. phải

nắm bắt được trình độ, tâm lí lứa tuổi cũng như kinh nghiệm của bản thân HS để từ đó có những câu

hỏi sát hợp, kích thích được những rung cảm, tìm tòi của HS trong quá trình vấn đáp, đàm thoại.

Tiêu chí 3: Câu hỏi phải mang tính định hướng cao:

Câu hỏi phải thỏa mãn nhu cầu, hứng thú của HS nhưng đồng thời lại phải có tính định hướng cao.

Câu hỏi cần tập trung vào trọng tâm, trọng điểm, những vấn đề theo chốt của tác phẩm. từ đó hướng

dẫn HS tìm hiểu thâm nhập và khám phá cái hay, cái đặc sắc của tác phẩm..

Tiêu chí 4:Câu hỏi phải có diện và điểm:

Câu hỏi một mặt phải bao quát đyược các đơn vị kiến thức cơ bản và các cấp độ hình thức nghệ

thuật của tác phẩm, mặt khác ở mỗi tác phẩm câu hỏi phải nêu lên được những câu hỏi then chót,

phải có diện và có điểm, dẫn dắt đúng và trúng vấn đề.

Tiêu chí 5:Câu hỏi phải vừa sức và hài hòa.

Câu hỏi phai phân hóa được trình độ tiếp nhận của HS trong quá trình tham gia vấn đáp, đàm thoại

và gợi tìm.

Những căn cứ và nguyên tắc này được chúng tôi vận dụng trong xây dựng hệ thống câu hỏi ở chương 2.

Chương 2: Vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy hai truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt” ở lớp 12.

2.1. Vấn đề loại thể trong dạy học truyện ngắn THPT

2.1.1. Quan niệm về loại thể

Vấn đề dạy học theo loại thể đã được đặt ra từ lâu trong thực tiễn dạy học văn ở nhà trường phổ

thông và nó là mối quan tâm, tìm tòi và suy nghĩ của GV Ngữ văn. Hiểu đúng vấn đề loại thể giúp GV

giảng dạy một cách có hiệu quả theo mục tiêu nhà trường phổ thông đề ra. Lịch sử việc phân chia loai

thể tồn tại nhiều quan niệm và cũng chưa hoàn toàn có sự thống nhất. Từ những góc độ khác nhau,

nhiều tác giả đã có nhiều quan niệm về loại thể trong tiếp nhận văn học, nghiên cứu, sáng tác. Nhìn

chung có ba loại cơ bản: tự sự, trữ tình và kịch. Ở mỗi thể loại có những đặc điểm riêng. Vì vậy, việc

xác định “chất” của “loại” trong “thể” là vấn đề mấu chốt trong quá trình dạy học tác phẩm văn

chương ở nhà trường phổ thông.

Cho đến nay, việc dạy học tác phẩm văn chương trong nhà trường chưa thoát khỏi tình trạng rập

khuôn, máy móc. Người dạy còn bị chi phối bởi “thể”của tác phẩm hơn là chú ý đến tính “chất” của

“loại” trong “thể”. Nguyên nhân chính có là chưa xác định được loại thể của tác phẩm. Vấn đề phân

chia loại thể cần được làm rõ từ nhiều góc độ. Từ điển tiếng việt in lần thứ hai xác định: “tự sự - lối

văn thuật đúng sự thực đã xảy ra”, “ Trữ tình – nói nghệ thuật nặng về tả tình cảm của con người”,

“Kịch – nghệ thuật dùng sân khấu làm phương tiện để diễn tả những cảnh đời đang có vấn đề hoặc có

xung đột gay go cần được giải quyết”. Nhưng khi đi vào chuyên ngành văn và phương pháp dạy học

văn thì nó còn chứa đựng những dấu hiệu của “chất trữ tình”, “chất tự sự” trong các thể. Xét về

phương diện cấu trúc nội dung của tác phẩm thì “loại” là chất mà “ thể” là hình thức biểu hiện cụ thể

của “loại”, không có “thể” thì “loại” không biểu hiện ra được. Nhưng khi đã thể hiện ra thành “thể’

thì “thể” lại có tình độc lập tương đối của nó. Trong mỗi “loại” có một “thể” tiêu biểu, tạo thành ấn

tượng khi nói đến tự sự - truyện, thơ - trữ tình… Do đó, tầm nhìn của người cảm thụ bị khúc xạ và

phiến điện đi nhiều. Với truyện ngắn lớp 12 giai đoạn 1945- 1975 nếu ta xác định được thi pháp tư

tưởng, cái phong cách, cái “ tạng” riêng của từng nhà văn thì dễ dàng giúp ta khám phá ra “chất của

loại” trong tác phẩm. Trong phương pháp dạy văn, ngoài thành tựu về cách chia loại thể của lí luận

văn học, chúng ta cần kế thừa có chọn lọc, phải xác định cho được “chất’” của “loại” trong thể ở từng

tác phẩm cụ thể. Nắm vững vấn đề này thì công việc đọc - hiểu tác phẩm văn chương mới đi theo đúng

quỹ đạo đích thực của nó, mới tận dụng có hiệu quả các phương pháp, biện pháp dạy học.

2.1.2.Đặc trưng truyện ngắn hiện đại.

2.1.2.1 Khái niệm truyện ngắn:

Hiện nay có rất nhiều định nghĩa về truyện ngắn của nhiều nhà văn, nhà phê bình văn học trong

nước và thế giới. Mỗi người quan niệm về truyện ngắn theo cách của riêng mình và đề cao những đặc

điểm mà họ cho là quan trọng.

Theo “Từ điển thuật ngữ văn học” thì “ truyện ngắn là tác phẩm tự sự cở nhỏ. Nội dung thể loại

của truyện ngắn bao trùm hầu hết các phương diện của đời sống: đời tư, thế sự hay sử thi, nhưng cái

độc đáo của nó là ngắn. Truyện ngắn được viết ra để tiếp thu liền một mạch, đọc một hơi không

nghỉ”[9, tr252].

Theo Nguyễn Công Hoan thì “ truyện ngắn không phải là truyện mà là một vấn đề được xây

dựng bằng các chi tiết với sự bố trí chặt chẽ và bằng thái độ với cách đặt câu, dùng tiếng có cân nhắc”

[29,tr13]

Nguyện Kiên thì cho rằng “mỗi truyện ngắn là một trường hợp… trong mối quan hệ giữa con

người và đời sống, có những khoảnh khắc nào đó, thời gian nào đó, một mối quan hệ nào đó được bộc

lộ. Truyện ngắn phải nắm bắt được cái trường hợp ấy. Trường hợp ở đây là một màn kịch chớp

nhoáng, có khi là một trạng thái tâm lí, một biến chuyển tình cảm kéo dài chậm rãi trong nhiều ngày.

Nhưng nhìn chung thì vẫn có thể gọi là một trường hợp”.[29, tr 38].

Nhà văn Nguyên Ngọc thì coi “ truyện ngắn là một bộ phận của tiểu thuyết”, vì thế “không nên

nhất thiết trói buộc truyện ngắn vào những khuôn khổ gò bó. Truyện ngắn vốn có nhiều vẽ. Có truyện

viết cả đời, lại có truyện chỉ ghi lại vài giây phút thoáng qua”[29, tr83].

Theo U.Xaroyan, một nhà văn Mỹ cho rằng “ truyện ngắn, đó là một cái gì đó không cùng(…)

chỉ nội dung trong cốt truyện thôi, mỗi truyện ngắn đã hàm chứa rất nhiều khả năng. Nói chi đến

những yếu tố khác làm nên thiên truyện, đó thật là một cái gì đó khơi mãi không hết – cuộc sống trải

ra vô tận và đối với các nhà văn, truyện ngắn là một hình thức khó đi tới hết bậc nhất” [29, tr83].

Nhà văn K. Pautopxki của Liên Xô lại cho rằng “ truyên ngắn là một truyện viết ngắn gọn,

trong đó cái không bình thường hiện ra như cái bình thường và cái gì bình thường hiện ra như một cái

gì không bình thường’[ 29, tr105].

Còn rất nhiều quan niệm khác nhau về truyện ngắn, cho thấy đây là thể loại phức tạp tuy không

mới nhưng lại có khả năng phát triển, là nơi nhà văn có thể sáng tạo ra nhiều hình thức mới nhằm phù

hợp với cuộc sống hiện đại, đang không ngừng phát triển của con người, đung như Tô Hoài nói: “

Truyện ngắn là một thể văn tập cho người viết nhiều nét quý lắm. Chỉ với truyện ngắn người ta mới

biết tận dụng từng chữ, lo săn sóc từng chữ (..). Truyện ngắn là nơi ta thử tìm phong cách cho mình.

Truyện ngắn đòi hỏi hoàn thiện. Ở đây, người ta rèn luyện đến việc dùng từng dấu phẩy”[29, tr 7-8].

Có lẽ chính vì vậy mà vấn đề truyện ngắn được nhiều người quan tâm, nhất là giáo viên trong quá trình

nhiên cứu giảng dạy.

Do sự phong phú và không có sự thống nhất về định nghĩa truyện ngắn, chúng tôi xin được trình

bày những đặc điểm chính về truyện ngắn trên cơ sở tiếp thu quan điểm của các nhà lí luận, nhà văn,

nhà phê bình đã trinh bay ở trên, tôi rút ra những đặc điểm chính về truyện ngắn như sau:

Truyện ngắn là một thể tài tự sự cở nhỏ ( nhỏ ở đây là ngắn gọn, cô đúc; ngắn ở đây là là tính

hàm súc, sự tinh lọc và hấp dẫn). Tính quy định về dung lượng và cốt truyện thường tập trung vào một

biến cố, vài mặt nào đó của đời sống; các sự kiện tập trung vào một không gian, thời gian nhất định.

Nhân vật và chi tiết trong truyện ngắn thể hiện một trạng thái tâm thế của con người trong thời

đại, đóng vai trò quan trọng và có tính chất biểu tượng. Từ những hiếu biết về nội hàm của khái niệm

truyện ngắn, chúng tôi đi vào những đặc trưng cơ bản của thể loại này.

2.1.2.2. Đặc trưng truyện ngắn hiện đại:

Như trên đã trinh bày, truyện ngắn là một hình thức tự sự cở nhỏ, nó cũng có những đặc trưng

cơ bản của thể loại tự sự: tình tiết, cốt truyện, dung lượng, nhân vật, lời kể, không gian và thời gian…

Nhưng khác với tiểu thuyết, truyện ngắn chỉ thể hiện một bước ngoặc, một trường hợp hay một tâm

trạng nhân vật và tính cách nhân vật trong truyện ngắn được làm rõ tại một thời điểm quan trọng.

Truyện ngắn là cách phát hiện nghệ thuật đời sống theo chiều sâu. Do đó, về mặt thi pháp, truyện ngắn

có những đặc trưng riêng.

Dung lượng truyện ngắn: là sức chứa thể hiện nội dung phản ánh hiện thực của tác phẩm.

Truyện ngắn là hình thức tự sự cở nhỏ, tập trung xoáy vào một điểm, những biến cố quan trọng trong

cuộc đời nhân vật, còn những chặng đường khác thì chỉ được thuật lại, kể lại một cách nắn gọn để

người đọc biết được lai lịch và cảnh ngộ của nhân vật, như là sự chuẩn bị cho những biến cố quan

trọng sẽ dược miêu tả trực tiếp.. Như nhà văn Nguyên Ngọc đã nói “Dung lượng truyện ngắn hiện nay

rất lớn, trong ba trang mấy nghìn chữ mà rõ mặt một cuộc đời, một kiếp người, một thời đại. các

truyện ngắn bây giờ rất năng , dung lượng của nó là cả cuốn tiểu thuyết”[96, 77], còn Tô Hoài thì cho

rằng:“truyện ngắn là cưa lấy một khúc của đời sống”. Còn Nguyễn Minh Châu thì nói: “nếu tiểu thuyết

là một đoạn của dòng đời thì truyện ngắn là cái mặt cắt của dòng đời”{…} Trong truyện ngắn Vợ

chồng A Phủ của nhà văn Tô Hoài thì dung lượng của nó tương đối dài. Với Chí Phèo là những sự kiện

liên tiếp diễn ra trong mấy ngày đêm, từ cái đêm Chí say rượu rồi gặp thị Nở ở vườn chuối cho đến khi

Chí đâm chết Bá Kiến và tự sát. Trong nữa đầu của truyện Vợ chồng A Phủ thì đó là hai đêm rất có ý

nghĩa trong cuộc đời Mị: đêm Tết Mị muốn đi chơi và đêm Mị cắt dây trói cứu A Phủ.. Trong văn học

thế giới cũng như văn học Việt Nam, có rất nhiều truyện ngắn nhưng lại có dung lượng không thua

kém gì tiểu thuyết như “Viên mở bò” của Mô pát xăng, “AQ chính truyện” của Lỗ Tấn, “Chí Phèo” của

Nam Cao…. Như vậy, dung lượng truyện ngắn ở đây được xét ở sức chứa, là khả năng phản ánh hiện

thực của tác phẩm.

Cốt truyện: trong truyện ngắn là chuổi các sự kiện, biến cố được tổ chức theo những mối liên

hệ nhất định, nhằm tái hiện bức tranh đời sốngvà thể hiện nhân vật trong tác phẩm. Cốt truyện thường

được nhà văn lấy làm cốt lõi để truyền đạt chủ đề, tư tưởng. Thông thường thì truyện ngắn có dầy đủ

các phần cơ bản của cốt truyện: mở đầu, thắt nút, phát triển, đỉnh điểm và kết thúc. Tìm hiểu cốt truyện

của truyện ngắn không chỉ dừng lại ở việc nhận dạng cốt truyện thuộc loại nào, chỉ ra các bước ấy mà

quan trọng hơn là nhận ra sự sáng tạo, tính độc đáo và hấp dẫn của cốt truyện trong tác phẩm đó, đồng

thời chỉ ra ý nghĩa tác dụng của cốt truyện trong đời sống và cách thể hiện nhân vật. Trong truyện ngắn

“ Vợ chồng A Phủ” của Tô Hoài đã cho người đọc thấy được tài dựng truyện tài tinh của tác giả, có

xung đột, mâu thuẫn và giải quyết mâu thuẫn dưới ánh sáng của cách mạng. Tìm hiểu các phần này của

truyện ngắn giúp ta nắm được chủ đề, tư tưởng của truyện, qua đó, ta thấy được tính cách nhân vật

trong tác phẩm. Tuy nhiên, cũng có những truyện không đầy đủ các thành phần của cốt truyện mà

trong cốt truyện nhà văn thường chú ý đến chi tiết và đoạn kết. Truyện ngắn sống được là nhờ vào các

chi tiết hay, hấp dẫn. Truyện ngắn có nhiều chi tiết hay sẽ tạo cho cảnh trí, không khí, tình huống, hành

động, tính cách , tâm tư tình cảm của nhân vật được bộc lộ đầy đủ. Những chi tiết hay này còn có khả

năng nâng tác phẩm lên cấp độ tượng trưng, tạo sức ám ảnh. Chính những chi tiết phát sáng này mà

chủ đề tư tương tác phẩm được khắc sâu. Nói như Nguyễn Công Hoan “ Truyện ngắn không phải là

truyện mà là một vấn đề được xây dựng bằng chi tiết” [30, 318]. Về điểm này, nhà văn Nguyên Ngọc

nói “ Truyện ngắn có thể có cốt truyện, thậm chí cốt truyện li kì, gay cấn, kể được. Truyện cũng có thể

chẳng có cốt truyện gì cả, không kể được nhưng truyện ngắn không thể nghèo chi tiết, nó sẽ như nước

lã”[ 29, tr38].

Trong truyện ngắn vai trò của đoạn kết cũng rất quan trọng. Truyện ngắn hiện đại thường có kết

thúc mở. Tức là tạo ra sự bất ngờ, sức ám ảnh, dư ba trong lòng bạn đọc. Cốt truyện của truyện ngắn

thường diễn ra trong một khoảng thời gian và không gian hạn chế. Mặc dù vậy, truyện ngắn vẫn mang

nội dung hoàn toàn đầy đủ và hấp dẫn. Đặc biệt, nó chứa đựng toàn bộ thông tin, sự kiện của bức tranh

xã hội.

Nhân vật: truyện ngắn cũng như các loại truyện truyện khác bao giờ cũng có nhân vật. Nếu tiểu

thuyết chiếm lĩnh đời sống trong toàn bộ sự đầy đặn và toàn vẹn của nó thì truyện ngắn thường khắc

họa một hiện tượng, phác họa một nét bản chất trong quan hệ nhân sinh hay đời sống tâm hồn nhân vật.

Do đó, trong truyện ngắn thường có ít nhân vật, ít sự kiện. Nhân vật trong truyện ngắn thường được

nhà văn giới thiệu qua một giai đoạn nhất định trong toàn bộ đời sống của nhân vật, của đời người.

Nhân vật đưa vào truyện ngắn là tiêu biểu cho nhiều nhân vật, nêu bật được nội dung, tư tưởng của tác

phẩm và thể hiện được ý đồ của tác giả. Truyện ngắn sống được bằng nhân vật, Nguyễn Kiên cho rằng:

“Dù không thể xây dựng những nhân vật hoàn chỉnh như tiểu thuyết, nhưng truyện ngắn cũng phải có

những nhân vật với những động cơ bên trong, những khát vọng của nó. Và đây là đầu mối của truyện,

bản thân các nhân vật phải mang vấn đề, nếu người viết chỉ dùng nhân vật như một thứ phương tiện

bất đắc dĩ, giữa chủ đề và nhân vật, hai cái không ăn khớp với nhau thì dù cả hai có hay ho, sinh động

đến mấy cũng không tránh khỏi vô nghĩa” [29, tr38]. Trong truyện Vợ nhặt của Kim Lân, người đọc

cảm thấy xót thương cho tấm lòng của bà cụ Tứ giàu lòng thương con, một người đàn bà được nhặt về

trong lúc nạn đói đang đe dọa đến mạng sống con người. Nó có sức khái quát cao về một bức tranh xã

hội đương thời.

Ma Văn Kháng cũng đã nói “nhân vật trong truyện ngắn không thể phức tạp như trong kiểu

truyện dài, nhưng cũng có thể có nhiều khía cạnh khiến người đọc cảm thấy cả nhân vật lẫn tác giả

của nó không hề đơn giản”[29, tr 57]

Do vậy, khi tìm hiểu nhân vật là phải chỉ ra được đặc điểm tính cách, ý nghĩa khái quát về nhân

sinh, xã hội của nhân vật. Trong nữa đầu của truyện Vợ chồng A Phủ, dù tác giả có nói Mị là một cô

gái trẻ đẹp, nhưng chân dung của nhân vật này chỉ được tô đậm ở một nét chung: “lúc nào cũng cuối

mặt, mặt buồn rười rượi”, rồi lai “lùi lũi như con rùa nuôi sống trong xó cửa”. Phải đến phần sau, khi

Mị và A Phủ trốn khỏi nhà Pá Tra, tìm đến Phiềng Sa thì Tô Hoài mới tả Mị ngẩng mặt. Đôi khi ngoại

hình làm cho người đọc ít nhiều đoán định được về thân phận, tính cách của nhân vật. Thân hình thô

kệt, tấm lưng to bè luôn ở trần, áo vắt trên vai và dáng đi gù gù của Tràng là ngoại hình của người lao

động chất phác, sống bằng công việc kéo xe bò, bốc vác thuê. Có khi ngoại hình nhân vật xấu xí, thô

kệch nhưng bên trong lại chứa đựng một tâm hồn đẹp đẽ hay một tính cách cao thượng. Và cùng một

hoàn cảnh số phận nhưng mỗi nhân vật lại có một tính cách riêng. Ba nhân vật trong truyện Vợ nhặt (

Tràng, vợ Tràng, bà cụ Tứ) rất gần nhau về thân phận nhưng lời lẽ và ý nghĩ của mỗi nhân vật lại khác

nhau. Mị và A Phủ ( Vợ chồng A Phủ) có cùng số phận – một người là con dâu gạt nơ, người kia thì bị

bắt ở trừ nợ, nhưng mỗi người có một tính cách riêng. Mị thì trầm lặng, sống nhiều bằng nội tâm ( ở

nựa đầu của truyện, Mị hầu như không nói), nhưng sức sống mạnh mẽ bên trong một khi được khơi

dậy thì bùng lên thành những hành động quyết liệt. Còn A Phủ thì bộc trực, phóng khoáng, sôi nổi,

những đặc điểm tính cách ấy dược thể hiện rõ trong ngôn ngữ và hành động của nhân vật.

Nghệ thuật trần thuật: bao gồm các hành động và các biến cố trong thời gian, mô tả chân dung,

hoàn cảnh và hành động, ngoại cảnh, lời trực tiếp, gián tiếp, đối thoại, độc thoại của nhân vật…nhằm

thúc đẩy sự việc, câu chuyện phát triển, mặt khác, nhằm khắc họa có hiệu quả hơn chân dung, tâm lí

nhân vật.

Lời văn nghệ thuật: qua giọng kể, lời kể, cách kể góp phần rút ngắn khoảng cách giữa tác giả và

nhân vật với độc giả. Vừa làm cho ngôn ngữ nhân vật sinh động, đa dạng, cá thể hóa cao. “Các nhà viết

truyện nhận thấy lời kể , câu văn chính là nơi bộc lộ phong cách , cá tính của mình rõ nhất, đồng thời

thì đây cũng là một nguồn hấp dẫn thẩm mĩ và nghệ thuật thuật đối với người đọc không kém gì tình

tiết và nhân vật”[7, tr 146]. Chính qua giọng kể, cách kể mà bạn đọc sẽ nhận ra những nét đặc thù của

nhà văn này với nhà văn khác. Với sáng tác của Tô Hoài rất da dạng về đề tài và thể loại vì thế, ta bắt

gặp ở ông nhiều giọng điệu khác nhau: tự nhiên dí dỏm xen lẫn trữ tình man mác đượ buồn.

Tình huống truyện: cũng góp phần thể hiện chủ đề truyện cũng như trong khắc họa tâm lí nhân

vật.nhờ biết đặt câu chuyện và nhân vật vào những tình huống tiêu biểu, sự tinh tế, cô đúc về tư tưởng

nghệ thuật của truyện ngắn rõ hơn các thể loại trong tự sự. Trong truyện ngắn, tình huống thường gắn

với biến cố của sự kiện, biến cố của hành động nhân vật. theo Xtây lin thì “ những tình huống này cần

thiết đối với việc xây dựng hình tượng nhiều mặt và sâu sắc, cũng như đối với việc xây dựng một hệ

thống tình tiết nhiều mặt, thống nhất và logic nội tại cho tác phẩm nghệ thuật”[28, tr55]

Nhà văn Nguyên Ngọc nói “ Truyện ngắn dẫu sao cũng phải ngắn, do đó thủ thuật chủ yếu của

truyện ngắn là thủ thuật điểm huyệt (…) Truyện ngắn điểm huyệt được thực hiện chủ yếu bằng cách

nắm bắt trúng những tình huống cho phép phơi bày cái chủ yếu nhưng lại bị che dấu trong muôn mặt

cuộc sống hàng ngày. Nhìn chung, mỗi truyện ngắn bao giờ cũng được xây dựng trên một tình huống,

khai hác tình huống ấy” [96,114]. Tình huống trong truyện ngắn có nhiều loại, tùy theo quan niệm và

ý đồ nghệ thuật của nhà văn. Tiêu biểu có những kiểu tình huống như: tình huống tâm lí, tình huống

tượng trưng hay tình huống thắt nút, tình huống tương phản, tình huống luận đề.

Tình huống tâm trạng thường gặp trong các loại truyện ngắn tâm tình, loại truyện không có

chuyện, nghĩa là không tiêu biểu về cốt truyện nhưng sâu sắc về tâm lí. Kiểu tình huống này ta có thể

bắt gặp trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Tuân.. Đến với truyện Vợ nhặt của Kim Lân, ai

cũng chú ý đến tình huống đặc biệt độc đáo của truyện. Ở đây “ cái bình thường diễn ra như một cái gì

không bình thường” Pau tốp xki. Lấy vợ có thể là chuyện bình thường của nhiều người, nhưng chuyện

của anh Tràng “nhặt” được vợ một cách dễ dàng giữa những ngày đói quay quắt là không bình thường.

Nhưng cái không bình thướng ấy lại cho thấy cái bình thường rất trân trọng: khát vọng hạnh phúc,

niềm khao khát mái ấm gia đình, tình thương và sự cưu mang, đùm bọc nhau trong xã hội( như mẹ con

Tràng và người vợ nhặt). Hay trong truyện Vợ chồng A Phủ, cốt truyện trải dài theo nhiều đoạn đời của

nhân vật chính Mị - A Phủ , nên trong nữa đầu của truyện, tình huống cơ bản là tình cảnh nô lệ của Mị

và A Phủ trong nhà thống lí Pá Tra. Từ tình huống này, đã dẫn đến những biến cố quan trọng trong

cuộc đời nhân vật, mà nổi bật là hai trường hợp: đêm màu xuân, Mị quyết định đi chơi rồi bị A Sử trói

vào cột và một đêm mùa đông, Mị cắt dây trói cứu A Phủ, hai người cùng nhau chạy trốn khỏi nhà Pá

Tra….

Kết cấu của truyện ngắn: kết cấu là một yếu tố của hình thức, nhưng xét đến cùng thì nó cũng

chịu sự chi phối của nội dung mà nó thể hiện. ở truyện ngắn, sự thống nhất giữa nội dung và hình thức

càng đòi hỏi một bước cao hơn, tinh xảo hơn. Nói như nhà văn Nguyễn Minh Châu: “ Nếu tiểu thuyết

là một đoạn dòng đời thì truyện ngắn là cái mặt cắt của dòng đời. Vì thế mà cũng như kịch ngắn,

truyện ngắn đòi hỏi ở người viết một công việc tổ chức và cấu trúc truyện hết sức nghiêm ngặt. Nó

cũng giống như kĩ thuật của người làm pháo, dồn nén tư tương vào trong một cốt truyện thật ngắn

gọn, tự nhiên”[96, 101]. Nhiệm vụ của kết cấu là tổ chức tác phẩm sao cho chủ đề tập trung , tư tưởng

thống nhất.trong đó,tổ chức hệ thống nhân vật và tổ chức không gian , thời gian la hai bình diện quan

trọng của kết cấu truyện. Vì thế, kết cấu chính là nơi để nhà văn tìm tòi, sáng tạo thể hiện phong cách

của mình . Ví dụ như : E Hêminguê với kết cấu về lí thuyết “ tảng băng trôi”..

Không gian và thời gian trong trong truyện ngắn cũng là phương diện không thể thiếu thiếu

trong kết cấu tác phẩm.Nó không chỉ có vai trò tái hiện, phục dựng bức tranh đời sống với các biến cố

sự kiện mà còn thể hiện ý đồ nghệ thuật của tác giả cũng như góp phần thể hiện tư tướng tác phẩm.

Không phải ngẫu nhiên mà trong Vợ nhặt, Kim Lân chỉ tập trung miêu tả hai không – thời gian chính:

buổi chiều ảm đạm giữa những ngày đói, Tràng lại đưa người đàn bà lạ về nhà, và cảnh buổi sớm hôm

sau có nắng ấm, cả mẹ và vợ Tràng ra sức dọn dẹp, quét tước căn nhà, mãnh vườn nghèo nàn xơ xác

như để mở đầu cho chặng dường mới của họ. Bên cạnh thời gian mang tính khách quan còn có thời

gian tâm lí mang tính chủ quan của con người. Chẳng hạn như trong truyện Vợ chồng A Phủ , Tô Hoài

đã tạo dựng thời gian trần thuật rất chậm chạp, dường như ngưng động để thể hiện cuộc sống nặng nề,

quẫn quanh của Mị trong nhà Pá Tra. Không gian trong tác phẩm này được Tô Hoài thể hiện rất tinh tế

dưới sự tác động của ngoại cảnh đến tâm trạng và hành động mạnh mẽ của nhân vật Mị.

Như vậy, truyện ngắn là một truyện có tổ chức nghệ thuật hoàn chỉnh , thể hiện vấn đề một cách

tự nhiên, uyển chuyển, không gò bó, không lan man và nhất là làm cho vấn đề bám sát vào nhân vật thể

hiện.

2.2. Vấn đề dạy truyện ngắn Vợ chồng A Phủ va Vợ nhặt ở lớp 12

2.2.1. Dạy học truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt” đặt trong hệ thống của nền văn học Việt Nam giai đoạn 1945- 1975

2.2.1.1. Đặc điểm giai đoạn văn học Việt Nam giai đoạn 1945-1975

Văn học 1945- 1975 đã kế thừa và phát huy mạnh mẽ những truyền thống tư tưởng lớn của dân

tộc. Là nền văn học của chế độ mới, vận động và phát triển dưới sự lãnh đạo của Đảng. Chính hoàn

cảnh lịch sử, xã hội đó dã tạo nên Văn học Việt Nam giai đoạn này có những đặc điểm cơ bản sau:

Nền văn học chủ yếu vận động theo hướng cách mạng hóa, gắn bó sâu sắc với vận mệnh chung

của đất mước. Thời kì văn học mới được mở đầu bằng sự ra đời của nhà nước nhân dân còn non trẻ,

lại trải qua ba mươi năm chiến tranh ác liệt chống thực dân Pháp và đế quốc Mĩ, vận nước có lúc ngàn

cân treo sợi tóc. Vì vậy, ý thức trách nhiệm của người nghệ sĩ được đề cao. Gắn bó với dân tộc, nhân

dân, đất nước và cách mạng là yêu cầu của thời đại, đồng thời cũng là tình cảm, ý thức tự giác của

người cầm bút. Toàn bộ nền văn học, từ thơ ca, truyện kí đến nghệ thuật sân khấu đều tập trung khai

thác xung đột, mâu thuẫn giữa ta và địch, đặt lợi ích của tổ quốc, của toàn dân tộc lên trên hết. Con

người trong đời sống cũng nhu trong văn chương chủ yếu được nhìn nhận ở tư cách công dân, ở phẩm

chất chính trị. Nội dung tình cảm chủ yếu trong thơ ca là những tình cảm yeu nước, tình đồng bào,

đồng chí.. Nhân vật trung tâm của văn học là những người chiến sĩ trên mặt trận vũ trang, du kích,

thanh niên xung phong… Tổ quốc trở thành nguồn cảm hứng lớn của các nhà văn thơ lúc bấy giờ:

Nguyên Ngọc, Nguyễn Minh Châu…. Cùng với đề tài chiến tranh là đề tài xây dựng chủ nghĩa xã hội ở

Miền Bắc cũng trở thành nguồn cảm hứng lớn trong sáng tác.nhân vật trung tâm là những con người

lao động mới, sự hài hòa giữa cái chung và riêng…với những phẩm chất tốt đẹp. Có thể nói văn học

giai đoạn này là tấm gương phản chiếu những vấn đề lớn lao, trọng đại nhất của Cách mạng Việt Nam .

Nền văn học hướng về đại chúng. Văn học giai đoạn 1945- 1975 quan tâm tới đời sống nhân dân

lao động, nói lên những bất hạnh của người lao động nghèo khổ bị áp bức, bóc lột trong xã hội cũng

như niềm vui, niềm tự hào của họ đối với cuộc sống mới. Khẳng định sự đổi đời của nhân dân lao

động cũng gắn liền với tinh thần phục sinh của họ, từ chổ mê muội, thậm chí lạc đường đến chổ được

giác ngộ về tư tưởng, được giải phóng về tâm hồn ( Làng của Kim Lân, Vợ chồng A Phủ của Tô

Hoài…) Nhiều tác phẩm đã thể hiện quá trình đến với cách mạng như một quy luật tất yếu của nhâ dân

lao động, phát hiện ra ở họ những phẩm chất tốt đẹp, anh hùng. Hướng về đại chúng trước hết là tầng

lớp công nông binh, vì thế, văn học Việt Nam 1945-1975 phần lớn những tác phẩm tương dối ngắn

gọn, nội dung dể hiểu, chủ dề rõ ràng đúng là nền văn nghệ của nhân dân lao động. Nó có tác dung cổ

vũ cho phong trào sáng tác quần chúng rộng khắp.

Nền văn học chủ yếu mang khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Ra đời và phát triển

trong hoàn cảnh chiến tranh ác liệt kéo dài suốt ba mươi năm , vấn đề dân tộc nổi lên hàng đầu, văn

học Việt Nam từ 1945-1975 tất nhiên không là tiếng nói riêng của cá nhân mà đề cập đến số phận của

cả cộng đồng, của toàn dân tộc. Cuộc chiến tranh nhân dân đã huy động được sức mạnh của cả cộng

đồng, khối đại đoàn kết toàn dân tạo ra một thời đại anh hùng, thời đại sử thi. Nhân vật chính là những

con người tiêu biểu cho lý tưởng cộng đồng, dân tộc. Thể hiện sự kết tinh những phẩm chất đẹp của cả

cộng đồng. Con người được khám phá ở trách nhiệm, bổn phận, nghĩa vụ công dân, ý thức chính trị, ở

lẽ sống lớn và tình cảm lớn, sẵn sàng hy sinh hạnh phúc cá nhân cho nhân dân, dân tộc.

Văn học 1945-1975 vừa mang đậm tính sử thi và thấm đẫm chất trữ tình và cảm hứng lãng mạn.

Cảm hứng lãng mạn của văn học giai đoạn này chủ yếu thể hiện ở phương diện khẳng định vẻ đẹp cuộc

sống con người, ca ngợi chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa anh hùng cách mạng, tin tưởng vào tương lai

tươi sáng của dân tộc. Cảm hứng lãng mạn nâng đỡ con người vượt lên trên mọi thử thách , trong máu

lửa của chiến tranh hướng đến ngày mai tuoi đẹp.

Chính những đặc điểm này đã nuôi dưỡng và phát huy lòng yêu nước và tinh thần dân tộc, thực

sự trở thành một mặt trận, phục vụ tích cực, có hiệu quả các nhiệm vụ chính trị, có tác dụng to lớn

trong việc xây dựng tư tưởng, bồi đắp tâm hồn, hoàn thiện và phát triển nhân cách cao đẹp cho con

người Việt Nam. Do vậy, khi giảng dạy truyện ngắn “Vợ Nhặt” và “Vợ chồng A Phủ” lớp 12 ta phải

chú ý đến đặc điểm văn học giai đoạn này để giảng dạy hợp lý.

2.2.1.2. Những truyện ngắn và trích đoạn truyện được dạy ở chương trình Ngữ văn 12.

Chương trình Ngữ văn 12 được tổ chức sắp xếp theo trật tự truyền thống, theo trục lịch sử văn

học: Văn học Việt Nam từ 1945-2000 gồm hai giai đoạn: giai đoạn từ 1945- 1975 và giai đoạn từ 1975-

2000. Toàn bộ các tác phẩm và trích đoạn đều đặt đúng vào khung lịch sử của nó. Trong từng giai đoạn

văn học thì tác phẩm, đoạn trích lại được sắp xếp theo cụm thể loại nhằm tạo thuận lợi cho việc hình

thành kĩ năng đọc Văn theo thể loại. So với chương trình SGK trước đây thì chương trình SGK hiện

hành không còn một số tác phẩm như: Chiều tối, Cảnh chiều hôm, Mới ra tù tập leo núi, tâm tư trong

tù, Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu, Đi đường, Tiếng hát đi đày, Đôi mắt, Các vị la hán

chùa Tây Phương, Mùa lạc, Kính gửi cụ Nguyễn Du, Thời và thơ Tú Xương, Mãnh trăng cuối rừng,

Huệ Chi trước lễ cưới, Tin thắng trận, Tặng cụ Bùi, Lên núi, Đồng chí, Người đi tìm hình của nước,

Quê mẹ, mẹ Tơm, Tờ hoa, Mũi Cà Mau, Quán rượu người câm, Trở về quê nội. ( 26 tác phẩm). Giữ

nguyên 11 tác phẩm học chính sau: Tuyên ngôn độc lập, Vợ chồng A Phủ, Vợ nhặt, Tây tiến, Tiếng hát

con tàu, Việt Bắc, Đất nước ( Nguyễn Khoa Điềm), Người lái đò Sông Đà, Những đứa con trong gia

đình, Rừng xà nu và một tác phẩm đọc thêm Bắt sấu rừng U Minh Hạ. Chuyển sang đọc thêm Bên kia

sông đuống, Đất nước ( Nguyễn Đình Thi).Thêm 6 văn bản mới: Nguyễn Đình Chiểu, ngôi sao sáng

trong văn nghệ cả dân tộc, Đàn chi ta của Lor-car, Ai đã đặt tên cho dòng sông?, Hồn Trương Ba da

hàng thịt, Một người Hà Nội, Chiếc thuyền ngoài xa, và 4 văn bản nhật dụng: Con đường trở thành

“kẻ sĩ hiện đại”, Nhìn về vốn văn hóa dân tộc, Thông điệp ngày thế giới phòng chống AIDS 1-12-2003,

Tư duy hệ thống - nguồn sức sống mới của đổi mới tư duy. Đọc thêm có 8 bài mới: Mấy ý nghĩ về thơ,

Thương tiếc nhà văn Nguyên Hồng, Dọn về lang, bác ơi!, Đò Lèn, Những ngày đầu của nước Việt Nam

Mới, đất, Mùa lá rụng trong vườn. Như vậy, bên cạnh cụm văn Nghị luận, cụm Thơ, cụm Kí, cụm

Kịch, cụm văn bản Nhật dụng, chương trình Ngữ văn 12 có cụm Truyện ngắn. Trong luận văn này, tôi

chọn giảng hai tác phẩm Vợ chồng A Phủ của Tô Hoài va Vợ Nhặt của Kim Lân giai đoạn 1945 –

1975( chương trình SGK cơ bản)

Chương trình Ngữ văn 12 thể hiện sự thống nhất giữa phân môn Đọc văn – Tiếng Việt – Làm

văn. Chương trình chú trọng nguyên tắc tích hợp, rèn luyện kĩ năng đọc – hiểu và làm văn.

2.2.2 Những yêu cầu khi vận dụng hệ thống câu hỏi vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong giờ dạy truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt.

2.2.2.1. Những yêu cầu đối với Gv

Dạy học văn là công việc của một quá trình nhận thức khoa học thuần túy. Thế nhưng, ở nước ta

, trong lịch sử dạy học văn vẫn chưa có một lý thuyết câu hỏi, đây là vấn đề hết sức mới mẻ. Trong

cuốn giáo trình “ Phương pháp dạy học văn tập I ” Phan Trọng Luận đã phê phán loại câu hỏi trong

hoạt động tái hiện thường vun vặt, rời rạc và đưa ra một số yêu cầu như :

Khi xây dựng hệ thống câu hỏi vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm qua trong truyện ngắn “Vợ chồng

A Phủ” và “Vợ nhặt” ,Gv cần chú ý:

- Câu hỏi vấn đáp đàm thoại và gợi tìm nói chung nhất thiết phải vạch ra được mối liên hệ hữu

cơ giữa những vấn đề cụ thể với những vấn đề tổng hợp của tác phẩm. Nghĩa là phải đảm bảo tính

thống nhật tổng thể của tác phẩm trong quá trình đọc – hiểu tác phẩm. trong truyện Vợ chồng A Phủ,

có rất nhiều chi tiết đặc sắc: “ Mị đến góc nhà, xăn thêm miếng mỡ bỏ vào đĩa đèn cho sang”, “ Mị lấy

váy hoa trên vách, sửa soạn đi chơi”, chi tiết đặc tả căn buồng Mị ở “ lúc nào cũng mờ mờ, chỉ có một

lỗ của sổ nhỏ bằng bàn tay”…Vì vậy phải đặt chúng trong mối quan hệ giữa chi tiết với cả hệ thống thì

khi ấy nguoi đoc mới hiểu hết được giá trị biểu đat của chúng.

- Câu hỏi nói chung phải căn cứ vào đặc điểm nội dung và nghệ thuật của bài văn., phát huy

được tính tích cực chủ động tham gia tranh luận, trao đổi, kích thích được óc tìm tòi của HS trong quá

trình tìm hiểu truyện ngắn “Vợ chồng A phủ” và “Vợ nhặt”.

- Câu hỏi phải đạt được mục đích kích thích sự cảm thụ của học sinh đối với tác phẩm. Câu hỏi

phải xác định được cảm xúc và rung động thẩm mĩ có tính chất trực giác của học sinh.

- Câu hỏi phải xác định được bức tranh toàn cảnh có diện và có điểm để giờ dạy học truyện ngắn

có trong tâm, khắc phục sự nhạt nhẽo.

- Câu hỏi phải xác định được mức độ học sinh từ dễ đến khó.

- Câu hỏi phải giúp học sinh phát hiện ra những chi tiết nghệ thuật có giá trị và toàn bộ cấu trúc

tác phẩm

- Câu hỏi phải mã hóa lượng thông tin một cách đơn giản phù hợp sát thực với thể loại, nội dung

cụ thể và tâm lí lứa tuổi, khai thác được cốt truyện, nhân vật, nghệ thuật trong tác phẩm một cách có

hiệu quả.

Như vậy, trong quá trình xây dựng hệ thống câu hỏi, GVCần phải đa dạng hóa các hình thức vấn

đáp, đàm thoại và gợi tìm: thảo luận nhóm, …Trong đó, khâu hướng dẫn chuẩn bị bài là rất quan

trọng, nó thể hiện quá trình làm việc được diễn ra giữa thầy và trò trong qua trình lên lớp. Tạo không

khí giao hòa thân mật giữa GV và HS trong quá trình vấn đáp, đàm thoại. Xem HS là một bạn đọc mà

GV là một bạn đọc có kinh nghiệm đang hướng dẫn bạn đọc chưa có kinh nghiệm cùng chiếm lĩnh tác

phẩm., trong quá trình giảng dạy, cần cho HS đọc những đoạn trích quan trọng trên lớp, phân vai …

Tuy nhiên , để quá trình vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm được diễn ra một cách sinh động, hiệu

quả thì vai trò của GV trong quá trình hướngng dẫn, tổ chúc, định hướng là rất quan trọng. GV phải

biết chắt lọc những hiểu biết của HS, đưa ra những câu hỏi hướng cho HS con đường đi tới câu trả lời

thông qua buổi tọa đàm. Đồng thời GV tìm kiếm kiến thức một cách tỉ mĩ, rõ ràng để giúp HS trình bày

những ý tưởng, suy nghĩ của bản thân theo sự phác họa của giáo viên. Phải có những câu hỏi mời gọi

HS tham gia đám thoại, tranh luận vấn đề một cách trọng tâm,có mở rộng, kết nối và nâng cao. Chú ý

những phát sinh mới trong quá trình vấn đáp, đàm thoại để có những tình huống sư phạm hợp lý.

2.2.2.2. Những yêu cầu đối với HS:

HS cần phải đọc tác phẩm trước ở nhà và chuẩn bị hệ thống câu hỏi hướng dẫn trong sách giáo

khoa kèm theo hệ thống câu hỏi GV đưa ra. Phải tóm tắt được cốt truyện và tuyến nhân vật, chuẩn bị

những vấn đề nội dung nghệ thuật cần trao đổi với lớp trong quá trình tự học có hướng dẫn của GV (

phiếu học tập)

Phải mạnh dạn trao đổi, tranh luận và đưa ra những suy nghĩ, cảm nhận của bản thân từ đó có

những nhận xét, đánh giá một cách chính xác vấn đề nội dung và nghệ thuật tác phẩm.

Để thực hiện được những yêu cầu trên thì bản thân học sinh - chủ thể cảm thụ tác phẩm phải ý

thức tham gia quá trình đọc tác phẩm một cách tích cực và tự giác, chủ động. HS không tham gia vào

quá trình đọc văn một cách tự nguyện thì quá trình tiếp nhận sẽ không mang lại hiệu quả. Đỗ Đức

Hiểu đã từng nói: “ Thi pháp học hiện đại, đọc là một hoạt động giúp người đọc đi vào tri giác phân

tích và cảm thụ, người đọc sống trong một thế giới tưởng tượng của mình, xây dựng cho mình thông

qua tác phẩm một xứ sở riêng”. Từ việc đọc tác phẩm, HS sẽ học được cách lĩnh hội tri thức, biết đánh

giá sâu sắc về kinh nghiệm tình cảm của nhân loại. Thực tế cho thấy không thể hiểu được bất cứ một

tác phẩm nào dù nó rõ ràng đến mấy, dù sức mạnh gợi cảm và gây ấn tường của nó lớn lao đến mấy,

nếu bản thân HS không tự mình dám gánh vác chịu mọi được mất, bản thân trong ý thức của mình theo

con đường tác giả vạch ra trong tác phẩm. Đọc là một hoạt động tích cực của người đọc nhập cuộc,

hóa thân với những cảm xúc riêng, ý nghĩa của việc đọc trở thành khâu quan trọng đầu tiên trong quá

trình tiếp nhận tác phẩm. Do đó, để quá trình vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm đạt được hiệu quả thì quá

trinh hướng dẫn HS đọc và trả lời hệ thống câu hỏi là rất quan trong. Khi đó quá trình tiếp nhận tác

phẩm diễn ra với sự tham gia của các yếu tố: GV- HS – TP một cách tích cực.

2.3. Vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”

2.3.1. Xây dựng Hệ thống câu hỏi vấn đáp đàm thoại và gợi tìm qua truyện ngắn “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”.

Như đã trình bày phần trên, cốt lõi của phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm là hình thức

thảo luận thông qua hệ thống câu hỏi gợi tìm. Đây là hệ phương pháp dẫn dắt HS từng bước tham gia,

phân tích và đánh giá từng bộ phận của tác phẩm. Nó đòi hỏi sự nỗ lực tìm tòi, khám phá của HS dưới

sự hướng dẫn, điều khiển khéo léo, đúng đắn của giáo viên. Nếu chúng ta không chuẩn bị tốt hệ thống

câu hỏi giờ đàm thoại sẽ trở nên nhạt nhẽo. Cần phải thấy rằng câu hỏi là một trạng thái tâm lí được

nãy sinh trong một tinh huống có vấn đề yêu cầu chủ thể HS tiếp nhận, giải quyết dựa trên những kinh

nghiệm vốn có của bản thân để làm sáng tỏ vấn đề đó. Rubinxten nhận xét : “ tư duy con người chỉ bắt

đầu từ một vấn đề hay một sự ngạc nhiên hay sự thắc mắc, từ một mâu thuẫn” .

Hệ thống câu hỏi bao gồm nhiều câu hỏi, mỗi câu là một cái mốc trong quá trình khám phá tác

phẩm, câu hỏi sau bổ sung cho câu hỏi trước, câu hỏi trước chuẩn bị cho câ hỏi sau làm thành một

chuỗi những liên hệ nối tiếp nhau trong một hệ thống vấn đề. Hệ thống câu hỏi này không chỉ phục vụ

cho hoạt động trí tuệ để HS tự tìm lấy kiến thức mà còn phải chỉ ra được phương hướng, cách thức lĩnh

hội tri thức phù hợp với đặc trưng bộ môn. Trong đề tài này, chúng tôi giới thiệu những loại câu hỏi

sau:

2.3.1.1 Câu hỏi cảm xúc.

Là hình thức câu hỏi phản ánh phản ứng trực giác của người đọc –HS bị tác động bởi nội dung

và hình thức của tác phẩm ở mức độ ấn tượng ban đầu. câu hỏi này gồm có hai dạng:

- Câu hỏi cảm xúc vật chất: là câu hỏi luôn hướng về những rung động vật chất( trạng thái tâm

lí) của người đọc – HS trước sự tác động của số phận nhân vật và mâu thuẫn có tính chất xã hội, những

tình tiết đầy kịch tính trong tác phẩm.

Ví dụ: Trong truyện ngắn Vợ chồng A Phủ, nhân vật Mị đã để lại cho em ấn tượng gì?

Ấn tượng của em về tính cách nhân vật A Phủ (qua hành động đánh nhau với A Sử, lúc bị xử

kiện và về làm công gạt nợ ở nhà thống lí Pá Tra)?

Trong truyện Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân, nhân vật nào đã để lại cho em nhiều xúc động

nhất?

- Câu hỏi cảm xúc nghệ thuật: là những câu hỏi hướng về những rung động ba đầu tác động bởi

hình thức nghệ thuật , nhạc điệu, tiết tấu và cấu trúc độc đáo trong tác phẩm.

Ví dụ: Hình ảnh rừng xà Nu trong truyện ngắn cùng tên của Nguyên Ngọc đã để lại cho em ấn

tượng gì?

Hình ảnh nạn đói 1945 được tái hiện trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân đã để lại cho em

những cảm xúc gì? Đoạn văn nào, chi tiết nào của tác phẩm gây xúc động và để lại ấn tượng sâu sắc

nhất cho anh (chị)? Vì sao? Phân tích ý nghĩa đoạn kết của tác phẩm Vợ Nhặt?

2.3.1.2 Hệ thống câu hỏi hình dung tưởng tượng.

Sự tưởng tượng càng phong phú và càng mãnh liệt thì cảm xúc càng thăng hoa. “giai doạn khó

nhất của tưởng tượng từ tái tạo là tổng hợp các dấu hiệu khác nhau thành một hình ảnh toàn vẹn, sự

tổng hợp này sẽ dễ dàng hơn nếu có dựa vào tính chất trực quan của tri giác đặc biệt” ( tâm lí học đại

cương ). Những câu hỏi hình dung tưởng tượng giúp HS xác nhận sự hình dung của mình dưới tác

động của hình tượng văn học. Nó có tác dụng vận dụng trí nhớ, huy động tối đa và sự lựa chọn kinh

nghiệm cá nhân, hướng HS và hiện thực tâm lí của tác phẩm bằng những yêu cầu trả lời kiến thức, xác

lập mối quan hệ giữa tác phẩm với nội dung bài học.

- Câu hỏi hình dung tưởng tượng tái tạo: dựa trên mức độ thiết lập câu hỏi đã gợi ý, định hướng

cho HS bước vào bức tranh nghệ thuật từng bộ phận, sắc sảo, tinh tế, có kịch tính trong tác phẩm văn

học.

Ví dụ: Em thử hình dung Cảnh ngộ Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ ở nhà Pá Tra qua truyện Vợ

chồng A Phủ của Tô Hoài?. Từ đó, em có nhận xét gì về cuộc đời làm dâu của Mị ở nhà Pá Tra? Em

thử hình dung tâm trạng Mị khi cởi tró cho A Phủ?

Em thử hình dung tâm trạng của người đàn bà không tên khi nhận Tràng làm chồng? (Truyện

Vợ nhặt- Kim Lân)

- Câu hỏi hình dung tưởng tượng tái hiện: là loại câu hỏi yêu cầu HS và Gv tự xác định lại bức

tranh nghệ thuật trong tâm hồn mình khi đọc tác phẩm hoặc khêu gợi trí tưởng tượng trong và sau khi

đọc tác phẩm.

Ví dụ: Em hãy tái hiện lại bức tranh trong đêm tình mùa xuân qua truyện ngắn Vợ chồng A

Phủ? Bức tranh ấy thể hiện khát vọng gì của Mị? Chi tiết nào thể hiện điều đó?.

Em hãy tái hiện lại khung cảnh Tràng dẫn cô Vợ nhặt về làng qua truyện ngắn Vợ nhặt? Chi tết

thể hiện điều đó?

2.3.1.3. Hệ thống câu hỏi hiểu biết nội dung và hình thức của tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” , “Vợ nhặt”

2.3.1.3.1. Hệ thống câu hỏi hiểu biết nội dung tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt”.

Câu hỏi hiêu biết nội dung tác phẩm văn học được ứng với ba mức độ từ thấp đến cao để thâm

nhập vào tác phẩm. Từ khả năng Kể lại được cốt truyện đến việc Phân tích lý giải những sự kiện biến

cố đối với nhân vật và đối chiếu so sánh để có những suy diễn đối lập.

Ví dụ: Tại sao Kim Lân lại lấy tên là Vợ nhặt cho truyện ngắn của minh? Giải thích ý nghĩa

nhan đề tác phẩm? Em hãy tóm tát tác phẩm Vợ nhặt ?

Vì sao người dân xóm ngụ cư lại ngạc nhiên khi thấy Tràng đi cùng người đàn bà lạ về nhà?

Niềm khát khao tổ ấm gia đình của Tràng qua tác phẩm này?

Hình ảnh Rừng xà nu trong truyện ngắn cùng tên của Nguyên Ngọc thể hiện ý nghĩa như thế

nào?

Cưới cùng là Phát biểu quan điểm của mình về tác phẩm ở mức độ cao nhất khi thâm nhập vào

tác phẩm. Trả lời dược câu hỏi này, HS đã thể hiện được khiếu thẩm mĩ và khả năng cảm thụ sâu sắc

của bản thân về tác phẩm.

Ví dụ: Em nghỉ thế nào về số phận của người dân miền núi dưới ách thống trị thực dân phong

kiến qua truyện ngắn Vợ chồng A Phủ? Phát biểu chủ đề tác phẩm? Qua hai nhân vật Mị và A Phủ , em

hãy phát biểu ý kiến của mình về giá trị nhân đạo của tác phẩm?

Phân tích hoàn cảnh xuất thân của A Phủ, khi bị bắt ở trừ nợ cho nhà Pá Tra, tính cách nổi bật

của nhân vật này?

Phát biểu cảm nghĩ của em về tấm lòng của bà cụ Tứ dối với con trong truyện Vợ nhặt của Kim

Lân? Qua tình huống Tràng nhặt được vợ, em hiểu gì về Tính cảnh và thân phận của người nông dân

nghèo trong nạn đói khủng khiếp 1945?

2.3.1.3.2.Hệ thống câu hỏi hiểu biết về hình thức tác phẩm “Vợ chồng A Phủ”, “Vợ nhặt”

Câu hỏi về hình thức nghệ thuật của tác phẩm văn học gợi ý cho người đọc – HS đi sâu vào

khám phá chi tiết nghệ thuật và cấu trúc nghệ thuật của tác phẩm. Nó có tác dụng vừa suy diễn ý chí

từ những chi tiết nghệ thuật vừa tìm ra mối tương quan hệ thống qua việc phân tích. Loại câu hỏi này

gồm có :

- Câu hỏi chi tiết hình thức nghệ thuật tác phẩm.

- Câu hỏi về cấu trúc hình thức tác phẩm

Ví dụ: Diễn biến tâm trạng Mị khi bị bắt về làm dâu gạt nợ cho nhà thống lí Pá Tra?, Trong đêm

mùa xuân về? Khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói? Hành động cắt dây trói ứu A Phủ và cùng nhau chạy

trốn khỏi Hồng Ngài?

Phân tích tâm lí các nhân vật : Tràng, Vợ Tràng và bà cụ Tứ qua truyện ngắn Vợ nhặt của Kim

Lân?

Những nét độc đáo trong quan sát và diễn tả của tác giả về đề tài miền núi trong phong cách sinh

hoạt, phong tục tập quán, cảnh thiên nhiên, con người, tình huống , cốt truyện, nghệ thuật dẫn truyện

của tác giả Tô Hoài qua truyện Vợ chồng A Phủ?

Tình huống truyện độc đáo của Truyện Vợ Nhặt? Tình huống truyện này có tác dụng gì trong

thể hiện nội dung tác phẩm? Phân tích tâm trạng của nhân vật Tràng khi dẫn vợ về nhà và nhất là trong

bưổi sáng đầu tiên có vợ? Tâm trạng của người đàn bà không tên trước và sau khi làm vợ Tràng? Diễn

biến tâm trạng Bà cụ Tứ như thế nào khi thấy con mình đã có được vợ? Vì sao bà cụ nói: “ thôi thì các

con phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng lòng” sau đó lại nói: “chúng mày lấy nhau lúc này , u

thương quá”? Nhận xét của em về nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, cách kể chuyện của nhà văn?

Bằng cách nào tác giả đã tạo ra được một cách rất cụ thể không khí nông thôn nước ta trong nạn đói

khủng khiếp 1945?

2.3.1.3.3. Hệ thống câu hỏi về những yếu tố ngoài văn bản và vai trò của người tiếp nhận

- Câu hỏi về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm, bố cục tác phẩm.

Ví dụ: Hoàn cảnh ra đời truyện ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân ?

Hoàn cảnh ra đời truyện Vợ Chồng A Phủ của Tô Hoài?

Bố cục của truyện Vợ Chồng A phủ được chia làm mấy phần? Nội dung từng phần?

Dựa vào mạch truyện Vợ nhặt có thể chia văn bản thành mấy phần? trình bày vắn tắt nội dung

từng phừng? từ đó nhận xét mạch truyện được dẫn dắt như thế nào?

- Câu hỏi về tác giả và vai trò người tiếp nhận..

Ví dụ: Trình bày những hiểu biết khái quát của em về tác giả Kim Lân? Tô Hoài?. Qua truyện

ngắn Vợ Nhặt của Kim Lân, em hãy nêu giá trị hiện thực và nhân đạo ?.

Cảm nhận của em về nạn đói khủng khiếp 1945 qua hiện tượng nhắt vợ của Tràng? Phát biểu

giá tri hiện thực của tác phẩm?

2.3.1.3.4. Câu hỏi so sánh, khái quát.

Nhận xét của em về nghệ thuật miêu tả và dựng truyện của Tô Hoài qua truyện Vợ chồng A

Phủ? Nhận xét của em về tư tưởng nhân đạo của truyện? Nêu sự tương đồng và khác biệt giữa hai nhân

vật Mị và A phủ? Đề tài mà truyện phản ánh là gì?

Phân tích sự giống và khác nhau trong tâm trạng của các nhân vật : Tràng, vợ Tràng, bà cụ Tứ?

Nhận xét của em về cuộc sống và số phận của họ?

2.3.2. Hướng triển khai Hệ phương pháp vấn đáp - đàm thoại và gợi tìm qua truyện ngắn Vợ Chồng A Phủ và Vợ nhặt

Trong quá trình dạy học, GV có thể vận dụng kết hợp giữa vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm. Tuy

nhiên, GV cần khuyến khích sử dụng hình thức vấn đáp tìm tòi. Có thể thực hiện theo các bước sau:

Bước 1: GV đặt câu hỏi nhỏ, riêng lẽ.

Bước 2: GV chỉ định từng HS trả lời hoặc trao đổi nhóm, tranh luận để học sinh tự nguyện trả

lời (mỗi học sinh trả lời một câu hỏi và trước mỗi câu hỏi nên để thời gian cho HS suy nghĩ câu trả lời)

Bước 3: GV tổng hợp ý kiến và nêu ra kết luận dựa trên những câu trả lời đúng của HS

Việc tiến hành các bước trên một cách linh hoạt trong quá trình lên lớp, tranh những áp đặt công

thức một cách cứng nhắc mà phải phù hợp với đối tượng HS ở từng lớp. Sau đây là thiết kế xây dựng

hệ thống câu hỏi cho truyện Vợ Chồng A Phủ và Vợ nhặt:

2.3.2.1. Thiết kế bài: VỢ CHỒNG A PHỦ

(Trích)

Tô Hoài

I. Mục tiêu bài học.

1. Kiến thức: Giúp HS:

Hiểu được cuộc sống cơ cực, tăm tối của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách

thống trị áp bức, kìm kẹp của thực dân và chúa đất đồng thời thấy được quá trình giác ngộ cách mạng ,

vùng lên tự giải phóng cuộc đời mình, đi theo tiếng gọi của Đảng các dân tộc thiêu số.

Thấy được những đóng góp của nhà văn trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật; sự tinh tế

trong diễn tả cuộc sống nội tâm; sở trường của nhà văn trong quan sát những nét mới lạ trong phong

tục tập quán và cá tính người Mông; nghệ thuật trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế mang màu sắc dân

tộc và giàu chất thơ.

2. Kĩ năng: rèn cho HS kĩ năng đọc- hiểu truyện ngắn, biết cách khai thác truyện ngắn theo đặc

trưng thể loại.

3. Thái độ: Tình yêu đồng loại, yêu quê hương đất nước, đến với Cách mạng của cộng đồng các

dân tộc thiểu số ở nước ta .

II> Chuẩn bị.

1. Giáo viên:

- Tư liệu phim tài liệu về bức tranh quật khởi của các dân tộc vùng cao trong những ngày đầu

đến với cách mạng., những phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, chân dung tác giả

Tô Hoài.

- Tư liệu về cuộc đời của Tô Hoài.

- Xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn HS vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm khai thác nội dung

và nghệ thuật tác phẩm.

2. Học sinh:

- Đọc và tóm tắt được cốt truyện, nắm được chủ đề của tác phẩm.

- Soạn và trả lời hệ thống câu hỏi trong SGK kết hợp với hệ thống câu hỏi mà GV đã hướng dẫn

cho HS thông qua phiếu học tập(Work Sheets).

- Phân nhóm chuẩn bị tiến hành vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong quá trình lên lớp.

III> Phương pháp.

- Vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong quá trình tìm hiểu tác phẩm kết hợp với hình thức thảo

luận nhóm.

- Phương pháp đọc một số đoạn tiêu biểu thể hiện nội dung tác phẩm.

IV. Tiến trình lên lớp.

1. Ổn định lớp.

2. Kiểm tra bài cũ: ( GV kiểm tra sự chuẩn bị bài của HS qua vở bài soạn)

3. Bài mới: lời vào bài:

Tây bắc và đồng bào các dân tộc thiểu số luôn là đề tài hấp dẫn đối với nhiều nhà văn. Họ đến

với Tây Bắc từ nhiều lí do khác nhau, song họ đều để lại những trang viết sinh động về đồng bào các

dân tộc. Tô Hoài là một trong số những nhà văn thành công khi viết về đề tài miền núi. Trong đó, tập

“Truyện Tây Bắc” gây được ấn tượng sâu sắc cho độc giả. Cùng với “Mường Giơn”, “Cứu đất cứu

mường” thì “ Vợ chồng A Phủ” là tác phẩm gây được xúc động mạnh nhất đối với người đọc.

Bước 1.I. Giới thiệu chung.

1. Tác giả: Tô Hoài (1920- 2007)

* GV: yêu cầu HS đọc phần tiểu dẫn SGK và trình bày khái quát những hiểu biết của bản thân

về tác giả Tô Hoài? ( Câu hỏi về tác giả)

* HS: dựa vào tiêu dẫn SGK trả lời và GV định hướng cho HS một số nội dung chính sau:

- Trước cách mạng tháng, 8 Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi tiếng với “Dế Mèn phiêu lưu kí”.

Sau cách mạng tháng tám ông vẫn viết điều đặn.

- Tô hoài là nhà văn lớn có số lượng tác phẩm đồ sộ trong nền văn học hiện đại bằng con đường

tự học. Ông có vốn hiểu biết phong phú và sâu sắc về phong tục tập quán văn hóa ở nhiều vùng của

nước ta.

- Tô Hoài là nhà văn có khả năng quan sát tinh tường, rất thành công khi viết về đề tài miền núi.

Ông có lối kể chuyện sinh động, ngôn ngữ giàu chất thơ, tạo hình.

- 1996, Ông được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật.

- Tác phẩm tiêu biểu: “ Dế mèn phiêu lưu kí”, “O Chuột”, “Truyện Tây Bắc”, “ Miền Tây”, “Vợ

chồng A Phủ”….

2. Hoàn cảnh sáng tác.

* GV: Dựa vào tiểu dẫn và văn bản em hãy cho biết hoàn cảnh sáng tác truyện “Vợ Chồng A

Phủ”?( Câu hỏi về hoàn cảnh ra đời tác phẩm)

* HS trả lời và GV định hướng:

“Vợ chồng A Phủ” in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết quả của chuyến đi công tác cùng bộ đội

vào giải phóng Tây Bắc 1952, tác giả được tận mắt chứng kiến cuộc sống tăm tối tủi nhục và tình cảm

gắn bó với cách mạng của nhân dân Tây Bắc dưới ách thống trị thực dân phong kiến.

* GV: Dựa vào văn bản em hãy tóm tắt nội dung đoạn trích? ( Truyện gồm có những nhân vật

nào? Truyện kể về ai? Cuộc đời và số phận nhân vật đó như thế nào? Mối quan hệ giữa những nhân vật

trong truyện ra sao? Diễn biến tâm trạng và hành động của các nhân vật trong truyện như thế nào? Kết

thúc truyện ra sao? Truyện phản ánh vấn đề gì?) Đây là một hệ thống câu hỏi hướng dẫn HS tóm tắt

tác phẩm.

* HS tóm tắt và GV sẽ định hướng tóm tắt:

Đoạn trích kể về cuộc đời của Mị và A Phủ (dân tộc Mèo). Mị là một cô gái hồn nhiên, tài giỏi,

hiếu thảo. Mị bị bắt về làm dâu nhà thống lí Pá Tra để trừ nợ cho bố mẹ. Mị định tự tử nhưng nghĩ

thương bố nên lại thôi. Mị sống trong nhà thống lí như nô lệ, phải làm việc từ sáng đến tối, hết năn này

qua năm khác. Vào một đêm xuân, nghe tiếng sáo, tiếng khèn gọi bạn, Mị uống rượu và muốn đi chơi

nhưng bị A Sử trói đứng vào cột suốt đêm cho tới sáng hôm sau, khi A Sử đi chơi bị đánh, Mị mới

được cởi trói để đi lấy thuốc cho chồng.

A Phủ là cháng trai mồ côi, lao động giỏi, dũng cảm nhưng không cưới được vợ vì nghèo. Vì A

Phủ đánh con quan nên bị bắt, bị đánh, bị phạt vạ. A Phủ phải đi ở đợ cho nhà thống lí để lấy tiền nộp

phạt. A Phủ phải phát nương, làm rẫy, quanh năm suốt tháng ngoài rừng. Vì hổ ăn mất con bò nên A

Phủ bị trói đứng vào cột suốt mấy ngày đêm liền. Cảm thương cho A Phủ, Mị đã cởi trói cho A Phủ và

cùng A Phủ chạy trốn khỏi Hồng Ngài.

( Tóm tắt phần còn lại: Mị và A Phủ đã thành vợ chồng, đưa nhau đến Phiềng Sa, dựng nhà

trên đồi gianh trông xuống cánh đồng Bản Pe. Họ ước mong làm được một ngôi nhà gỗ tốt, có cuộc

sống yên bình.

Một lần bọn lính đồn Bản Pe lên, bắt lợn nhà A Phủ, lại bắt A Phủ khiêng lợn về đồn. A Phủ bị

bọn tây ở đồn Bản Pe vu cho là nuôi cán bộ, rồi bị chúng đánh đập, cắt cả tóc. A Phủ trốn thoát về

được.

A Châu, cán bộ kháng chiến tìm đến nhà A Phủ. Qua Phút hiểu nhầm ban đầu, A Phủ nhận ra

cán bộ là người tốt, cùng một bụng ghét thằng Tây. Lễ ăn thề kết làm anh nem giữa A Phủ và A Châu

diễn ra đơn sơ mà thiêng liêng, cảm động.

Ngày tết trong khu du kích Phiền Sa tự do, A Phủ và Mị đi chơi tết. Giựa lúc ấy, giặc kéo lên

càng quét. Mị và nhiều người già, phụ nữ bị chúng bắt đưa về đồn. Du kích chặn đánh, Mị thoát được

về. Mị hoảng hốt khi biết t9n Pá Tra đã theo Tây về ở trong đồn Bản Pe. Nhưng A Phủ vẫn vững vàng,

thuyết phục Mị không sợ. Hai người đi hợp đội du kích để chuẩn bị đánh đồn cứu người già và trẻ con

về).

* Qua nội dung tóm tắt trên em hãy cho biết bố cục đoạn trích.? Loại câu hỏi tìm hiểu kết cấu

tác phẩm)

* HS trả lời và GV định hướng chia đoạn:

Đoạn trích chia làm hai phần:

- Phần 1: Từ đầu cho đến “ A Sử đi chơi bị đanyh1 vỡ đầu“: kể về việc Mị bị bắt về làm dâu nhà

thống lí Pá Tra và tình cảnh của Mị .

- Phần 2: Tiếp theo cho đến: A Phủ vẫn bị trói“ Cảnh A Phủ đánh A Sử và cuộc xử kiện.

- Phần 3: Đoạn còn lại: A Phủ bị trói sắp chết và Mị cứu A Phủ, hai người cùng nhau chạy trốn

khỏi Hồng Ngài.

*GV: Từ bố cục trên, em hãy phát biểu chủ đề đoạn trích? Đây là loại câu hỏi khái quát buộc

HS phải khái quát được nội dung chính một cách ngắn gọn trên cơ sở tóm tắt và xác định kết cấu từng

phần ở trên)

* HS: phát biểu và GV định hướng chủ đề:

Người dân miền núi, mà tiêu biểu là Mị và A Phủ trong quá trình đấu tranh giành quyền sống và

được hạnh phúc đã trải qua bao gian khổ, tủi cực, đắng cay. Họ đã đấu tranh để tự giải phóng mình.

Bước 2: II. Hướng dẫn đọc – hiểu.

1. Nhân vật Mị.

GV: Phần đầu đoạn trích tác giả đã giới thiệu cho người đọc về việc cô Mị bị bắt về làm dâu gạt

nợ cho Nhà Pá tra, em hãy cho biết cảnh ngộ và cuộc sống của Mị khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra

như thế nào? Chi tiết nào cho thấy điều đó? (Chú ý cuộc sống của Mị trước khi về làm dâu nhà thống lí

thì Mị là cô gái như thế nào?. Khi về làm dâu nhà thống lí thì cuộc sống ra sau?) Đây la loại câu hỏi

hướng dẫn HS tìm hiểu phân tích nhân vật, từ đó làm nỗi bật lên tính cách, hoàn cảnh và số phận của

nhân vật).

*HS: dựa vào phần đầu đoạn trích trả lời và GV định hướng nội dung :

a. Khi còn tự do (ở nhà ):

- Nhà nghèo, chăm làm, hiếu thảo với cha mẹ.

- Hồn nhiên, yêu đời, tràn đầy sức sống: Mị có tài thổi sao, có nhiều trai làng theo Mị.

- Mị có khao khát sống tự do, hạnh phúc. Mỵ có người yêu, Mỵ không muốn về làm dâu nhà thống

lí, Mị muốn làm chủ cuộc đời mình.

=> Mị là cô gái với những phẩm chất tốt đẹp, xứng đáng được hưởng hạnh phúc.

b. Khi bị bắt làm dâu ở nhà thống lí:

* GV: Nguyên nhân nào khiến Mị bị bắt về làm dâu nhà thống Lí? Suy nghĩ của em về nguyên

nhân này? Câu hỏi này vừa là sự tái hiện vừa là sự cảm nhận của bản thân HS.

*HS trình bày và GV định hướng:

- Mị bị bắt về làm dâu để trừ nợ cho nhà thống lí, món nợ truyền kiếp, Mị phải trả bằng cả tuổi

trẻ, hạnh phúc và tự do của mình.

- Nỗi bất hạnh của người phụ nữ Mèo nghèo khổ, tố cáo hình thức bóc lột của bọn phong kiến

miền núi bằng hình thức cho vay năng lãi đã buộc chặt người lao động nghèo vào kiếp nô lệ hết đời này

sang đời khác.

* GV: Khi mới về làm dâu nhà thống lí, Mị phản ứng như thế nào? Phản ứng đó chứng tỏ thái

độ gì của Mị? Câu hỏi gợi tìm này giúp HS thấy được phản ứng của nhân vật.

* HS trả lời và GV định hướng:

Lúc mới về nhà thống lí: Mị vô cùng đau đớn, uất ức “có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị

cũng khóc,Mị muốn tự tử’’

Mị ý thức được nỗi khổ nhục của mình, nhưng thương cha, Mị đành chấp nhận sống cam chịu,

nhẫn nhục “Mị chỉ bưng mặt khóc. Mị ném lá ngón xuống đất’’ -> Giọt nước mắt của cuộc đời và cảnh

ngộ éo le, khổ đau, cơ cực nhưng ẩn chứa sức sống tiềm tàng mãnh liệt, táo bạo.

*GV: Mị đã trải qua những tháng ngày làm dâu như thế nào? Thái độ của tác giả khi nói về

cuộc sống này của Mị? Những chi tiết nghệ thuật nào thể hiện cuộc sông khổ cực của Mị? Đây vẫn là

một câu hỏi gợi tìm giúp HS phát hiện ra những chi tiết nghệ thuật có tác dụng khắc họa cuộc sống của

nhân vật.

* HS : trao đổi và trả lòi GV định hướng:

- Cuộc đời làm dâu của Mị sống như một nô lệ:

+ Mấy năm sau, bố chết, Mị cũng không còn nghĩ đến cái chết nữa“ Ở lâu trong cái khổ, Mị

quen rồi“.

+ Mị làm lụng vất vả quanh năm suốt tháng không được nghĩ ngơi “ đàn bà con gái nhà này thì

vùi vào việc làm cả đêm cả ngày’’.

+ Mị bị đối xử thua súc vật, không hề biết đến hạnh phúc gia đình: Bị A Sử trói khi muốn đi

chơi xuân, bị A Sử đánh vô tội vạ“ Khi đó A Sử bèn đạp chân vào mặt Mi“, “có đêm A Sư chợt về,

thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp’’.

=> Nỗi khổ nhục của người phụ nữ Mèo.

* GV: Nhận xét của em về cuộc sống của Mị? Từ sự phân tích trên, HS sẽ tự do phát biểu nhận

xét .

*HS: trao đổi và trả lời, GV định hướng:

- Sức sống dường như bị tê liệt:

+ Sống cô độc, âm thầm: “Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa’’.

+ Cuộc sống không còn ý niệm về thời gian, về thế giới xung quanh :“Ở cái buồng Mị nằm, kín

mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không

biết là sương hay là nắng ’’.

+ Cuộc sống cam chịu nhẫn nhục: “bây giờ Mị tưởng mình cũng là con trâu, mình cũng là con

ngựa.., ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi làm mà thôi“.

+ Mị mất hết niềm tin vào cuộc sống: “ Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông ấy mà

trông ra, đến bao giờ chết thì thôi’’. Mị không hi vọng vào sự đổi thay: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta

về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi’’.

*GV: Từ cảnh ngộ của Mị bị bắt về làm dâu cho nhà thống lí Pá Tra, em thấy cuộc sống của cô

gái Mèo xinh đẹp ngày nào còn ở với cha bây giờ thì ra sao? Đây vẫn là câu hỏi gợi tìm, giúp HS thấy

được hoàn cảnh bi đát của nhân vật, quá khứ và hiện tại để đi đến những nhận định khái quát về nhân

vật.

*HS rút ra kết luận về nhân vật sau những chi tiết đã phân tích ở trên, GV định hướng:

=> Mị không có bạn bè, không có người tâm giao, không có hiện tại, không có tương lai, cuộc

đời Mị chỉ là công cụ , là con vật để cha con thống lí sai khiến, là nạn nhân của chế độ phong kiến và

thần quyền. Tô Hoài đã cảm thông sâu sắc về thân phận đau đớn, bất hạnh của Mị đồng thời tố cáo tội

ác của tầng lớp thống trị tàn bạo chà đạp lên quyền sống con người.

* GV: Em hãy cho biết bút pháp nghệ thuật tiêu biểu cho phần mở đầu đoạn trích? ( Chú ý điểm

nhìn trần thuật của tác giả? Các thủ pháp miêu tả? Kể? Và đối thoại?). Đây là loại câu hỏi gợi mở

hướng dẫn HS tìm hiểu nghệ thuật tác phẩm

*HS: trao đổi thảo luận và Gv định hướng:

Cách vào truyện gây ấn tượng tạo ra những đối nghịch:

+ Một co gái lẽ loi, âm thầm gần như lẫn vào các vật vô tri nhưng cô gái ấy lại là dâu một gia

đình quyền thế, giàu có nhung lúc nào cũng “cúi mặt’’, “mặt buồn rười rượi“.

+ Kết hợp miêu tả và kể chuyện: mở đầu miêu ta Mị trong một không gian đặc trưng: cô thường

“ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa“ ở nhà thống lí Pá Tra. Tiếp đó, tác giả mới kể

về lai lịch của Mị và việc Mị bị bắt về làm dâu trừ nợ. Trong mạch kể có xen vào những đoạn miêu tả

cảnh A Sử lừa bắt Mị, cảnh căn buồng Mị sống...

+ Kết hợp miêu tả ngoại cảnh với miêu tả ngoại hình và tâm trạng nhân vật.

+ Lời trần thuật ở ngôi thú ba từ điểm nhìn bên ngoài, nhưng có nhiều đoạn nhập vào ý nghĩ và

lời độc thoại của Mị.

+ Nhịp điệu trần thuật chậm, trầm lặng với giọng điệu xót xa thương cảm trước số phận nhân

vật.

c. Sức sống tiềm tàng của Mị.

Tô Hoài không chỉ dừng lại ở việc mô tả cuộc sống tối tăm của người lao động Mèo, ông còn đi

sâu vào tâm trạng nhân vật để phát hiện ra sức sống mãnh liệt tiềm ẩn trong tâm hồn nhân vật, để khi

gặp được hoàn cảnh thích hợp, sức sống ấy trỗi dậy mạnh mẽ, tạo nên sự thay đổi cho nhân vật . Phát

hiện này tạo nên giá trị nhân đạo sâu sắc của tác phẩm.

C1: Sức sống mãnh liệt này trước hết thể hiện trong đêm tình mùa xuân:

*GV: GV hướng dẫn HS chu ý đoạn từ “Ngày tết ... đau dứt từng mảnh thịt’’, chú ý diễn tả đúng

tâm trạng Mị.

Em hãy phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đoạn này? (Chú ý làm rõ yếu tố ngoại cảnh làm

thức tỉnh nội tâm nhân vật, tâm trạng Mị khi mùa xuân về, trong những đêm cô đơn dậy sớm để sưởi

lửa, khi bị A Sử trói ) Đây là câu hỏi gợi mở, hướng dẫn HS tìm hiểu chuyển biến tâm trạng nhân vật.

* HS trao đổi và GV định hướng:

- Tác động của ngoại cảnh: “ Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng“, “những chiếc váy hoa sặc sở

đem ra phơi’’, đám trẻ cười đùa, ngoài đầu núi đã có tiếng sáo rủ bạn đi chơi.=> Ngoại cảnh là biểu

tượng của niềm vui tự do, hạnh phúc, có tác động trực tiếp đến đời sống tâm hồn Mị.

* GV gợi mở: Khi nghe tiếng sáo vọng lại tâm trạng Mị bấy giờ như thế nào? Mị đã có những

hành động nào? Có sự chuyển biến như thế nào về mặt tâm lí?

- Nghe tiếng sáo vọng lại, Mị bừng tỉnh , thoát khỏi trạng thái vô cảm bây lâu nay:

+ Mị cảm nhận tiếng sáo bằng tâm trạng thiết tha bồi hồi.

+ Nhẩm theo bài hát của người đang thổi.

+ Mị lấy rượu uống“ Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát’’. Cách uống ừng ực này cho

thấy Mị muốn dìm nén nỗi đau buồn, để quên đi nỗi cô đơn, quên đi thực tại, nhưng Mị không thể quên

được “Lòng Mị đang sống về ngày trước’’, ngày Mị còn tự do. Mùa xuân, Mị thổi sáo “ có biết bao

người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi theo Mị’’

+ Sức sống trong Mị bắt đầu hồi sinh“ Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng

như những đêm Tết ngày trước’’

+ Mị ý thức được thực tại mình :“ Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi’’; Mị cũng ý

thức được vấn đề quan trọng: hạnh phúc “ Bao nhiêu người có chồng cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi

A Sử với Mị, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở với nhau’’.

+ Khi lòng khao khát sống hạnh phúc trào dâng cũng là lúc Mị lại nghĩ đến cái chết. “Nếu có

nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại chỉ thấy

nước mắt ứa ra’’=> Mị ý thức sâu sắc nỗi tủi nhục, bất hạnh của mình.

+ Nhưng tiếng sáo của tình yêu vẫn kéo Mị về nỗi khao khát tự do, hạnh phúc.“Mà tiếng sáo gọi

bạn yêu vẫn lơ lững bay ngoài đường’’

( GV có thể nói thêm: Mị sống trong trạng thái đầy mâu thuẫn giữa một bên là sức sống tiềm ẩn trong

con người Mị với một bên là cảm thức về thân phận, cho nên sự thoát ra khỏi thực tại là điều không

phải dễ dàng . Từ đó cho thấy tài mô tả diển biến tâm lí nhân vật tinh tế của Tô Hoài.).

- Lòng yêu đời, yêu cuộc sống khao khát hạnh phúc, tự do đã trỗi dậy mãnh liệt trong Mị: “Mị

muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi’’, “Mị quấn lại tóc, lấy váy hoa... ’’

*GV: Khát vọng của Mị có được thực hiện không? Vì sao? Chi tiết nào thể hiện điều đó? Câu

hỏi gợi tìm này hướng HS nắm bắt được diễn biến tâm trạng nhân vật.

* HS trao đổi và GV định hướng:

- Mị bị A Sử trói đứng vào cột nhà. Mị bị trói nhưng Mị “như không biết mình đang bị trói’’,

vẫn “thiết tha bồi hồi’’, vẫn hướng theo tiếng sáo tiếng sáo gọi bạn tình.“tiếng sáo đưa Mị đi theo

những cuộc chơi, những đám chơi’’, “Mị vùng dậy bước đi. Nhưng tay chân đau không cựa được’’ ->

sức sống đang trỗi dậy trong tình trạng bi thảm của Mị, khao khát tự do, hạnh phúc đã lấn át đi nỗi đau

về thể xác thực tại.

* GV: Lúc này đay tâm trạng Mị như hế nào?. Tiếng sáo có ý nghĩa gì trong việc là chuyển biến

tâm lí của Mị?

* HS trả lời và Gv định hướng:

Tiếng sáo chính là âm thanh của tình yêu, hạnh phúc, tự do; tiếng sáo gợi lại kỉ niệm của quá khứ, thức

dậy sức sống tiềm ẩn trong tâm hồn Mị; tiếng sáo gợi tả tâm trạng khác nhau của Mị trong đêm tình

mùa xuân.

*GV: Em hãy cho biết nghệ thuật của đoạn trích này? Tác dụng của những biện pháp nghệ

thuật đó? Thái độ của tác giả ở đoạn này thể hiện như thế nào? Loại câu hỏi phát hiện, giúp HS phát

hiện ra được bút pháp nghệ thuật của đoạn trích, từ đó khái quát giá trị nội dung .

* HS rao đổi, trả lời và GV gợi ý:

- Bằng nghệ thuật trần thuật với thủ pháp tương phản, miêu tả sự đối lập giữa hoàn cảnh sống và

số phận Mị. Từ đó, làm nỗi bật khao khát tự do, hạnh phúc của Mị đồng thời thấy được sức sống con

người dù bị chà đạp, đè nén tới đâu nhưng vẫn không dập tắt được ước mơ, khát vọng của Mị.

- Tô Hoài căm phẫn tố cáo chế độ phong kiến miền núi trói buộc, vùi dập con người -> Giá trị nhân đạo

sâu sắc của tác giả.

C 2. Khi chứng kiến cảnh A Phủ bị trói.

GV: Em hãy phân tích tâm trạng Mị Khi thấy A Phủ bị trói? Chi tiết nào thể hiện hành động

cởi trói cứu A Phủ? Loại câu hỏi phân tích nghệ thuật thể hiện tâm trạng nhân vật.

*HS trao đổi và GV gợi ý:

- Lúc đầu Mị rất lạnh lùng trước cảnh A Phủ bị trói.“Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A

Phủ là cái xác chết đứng đấy cũng thế thôi’’: Tâm hồn Mị đã khô héo, chai sạn với cuộc sống chung

quanh.

- Nhưng rồi một hôm, qua ánh lửa bếp, Mị nhìn sang “thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò

xuống hai hõm má đã đen xám đen lại’’ - những giọt nước mắt của sự đau đớn, tuyệt vọng, Mị đã

không cầm lòng được.

+ Mị nhớ lại hoàn cảnh của mình ngày trước cũng từng bị A Sử trói“ Mị cũng bị trói đứng thế

kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống cổ không biết lau đi đâu được’’.=> Mị thương

mình để rồi cảm nhận cảnh ngộ của A Phủ, thấy đồng cảm với A Phủ.

+ Mị nhớ đến và căm phẫn tội ác của cha con thống lí“ nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày

trước cũng ở cái nhà này. Chúng thật độc ác’’.

+ Mị cảm thương cho A Phủ.“ Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói,

chết rét, phải chết’’.

+ Mị đồng cảm với A Phủ và nghĩ đến mình“ là thân đàn bà, nó dã bắt ta về trình ma nhà nó rồi

thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi“, còn A Phủ “việc gì phải chết thế’’. => Mị nhận thức

được sự vô lí đối với A Phủ.

+ Mị tưởng tượng cảnh A Phủ trốn được, Mị sẽ phải chết thay nhưng Mị khộng thấy sợ“ Nghĩ

thế, trong tình cảnh này,làm sao Mị cũng không thấy sợ..’’ => tình người đã thắng sự sợ hãi.

+ Mị quyết định cởi trói cho A Phủ -> hành động táo bạo, dứt khoát để giải thoát cho A Phủ.

*GV: Khi Mị quyết định cởi trói cho A Phủ, bấy gờ tâm trạng Mị thế nào? Hãy hình dung cảnh

ấy? Nhận xét của em về hành động này? Câu hỏi nhận xét, đánh giá về nhân vật.

*HS trao đổi và GV gợi ý:

+ Cởi trói xong, Mị hốt hoảng“ đứng lặng trong bóng tối’’ -> Mị vụt chạy theo A Phủ để tìm tự

do, để tự thay đổi sốn phận.

=> Hành động tự giải thoát có tính chất tự phát song là kết quả tất yếu của một quá trình bị dồn

nén, búc xúc về tinh thần đòi hỏi phải được giải thoát.

*GV: Nghệ thuật tiêu biểu của đoạn văn này?

* HS trao đổi GV gợi ý:

- Nghệ thuật miêu tả diển biến tâm lí nhân vật đặc sắc, phù hợp với bản chất thật và quy luật

cuộc sống con người Mị luôn có hai mặt mâu thuẫn: chấp nhận cuộc sống đọa đày và khao khát cuộc

sống con người; khuất phục và phản kháng. Cuối cùng khao khát hạnh phúc và sức phản kháng ấy đã

chiến thắng.

- Mị là tiêu biểu cho người phụ nữ Mèo nghèo khổ, có tâm hồn trong sáng, yêu đời, khao khát

hạnh phúc nhưng bị chà đạp đau khổ đã vùng dậy tự giải thoát.

2. Nhân vật A Phủ.

* GV:HS chú ý đoạn viết về A Phủ và trao đổi trả lời câu hỏi sau:

Qua ngòi bút miêu tả của tác giả, A Phủ được giới thiệu như thế nào? Ấn tượng của em về tính

cách của nhân vật A Phủ? Câu hỏi thiên về cảm xúc nghệ thuật giúp HS tìm hiểu bước đầu về nhân vật.

• HS trả lời và GV gợi ý:

- A Phủ với số phận đặc biệt:

+ Mồ côi, sống một mình, không người thân thích từ bé.

+ A Phủ vượt qua cơ cực thử thách, trở thành chàng trai Mông khỏe mạnh, tháo vát, thông minh,

nhiều cô gái trong làng mơ ước được lấy A Phủ làm chồng.

+ Nghèo, không lấy nỗi vợ vì phép làng và tuc lệ cưới xin ngặt nghèo. Là nạn nhân của tập tục,

dã man, bị đánh, bị phạt vạ, phải đi ở cho thống lí Pá Tra.

+ Cuộc sống nô lệ trong nhà thống lí Pá Tra: phải làm lụng vất vã“ quanh năm mộ thân một

mình bôn ba rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng“. Chỉ vì đánh A Sử mà không có tiền nộp vạ.

+ Bị trói suốt mấy ngày đêm chỉ vì hổ ăn mất một con bò.

+ Được Mị cởi trói chạy trốn để tự giải thoát cho mình.

- A Phủ với cá tính đặc biệt:

+ Gan góc từ bé.

+ Ngang tàng , sẵn sàng trừng trị kẻ xấu, dám đánh A Sử con quan.

(GV gợi ý thêm cho HS khi hình dung cảnh tượng A Phủ đánh A Sử, từ đó khắc sâu tính cách của

nhâh vật này).

+Khi trở thành người làm công gạt nợ, A Phủ vẫn là một con người tự do, không biết sợ cường

quyền, kẻ ác.

*GV: Nhận xét của em về nghệ thuật của đoan văn này? Tác dụng của nó trong việc khắc họa

tính cách nhân vật A Phủ? Câu hỏi tìm hiểu nội dung nhân vật qua hình thức nghệ thuật.

*HS trao đổi và rút ra nghệ thuật tiêu biểu:

- Thủ pháp kể kết hợp với miêu tả, dùng nhiều động từ chỉ hành động => khắc họa sinh động

tính cách ngang tàng, dũng cảm .

=> A Phủ tiêu biểu cho người thanh niên lao động nghèo khổ, bất hạnh nhưng có sức sống

mãnh liệt, có tinh thần phản khán mạnh mẽ.

* GV : Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, em hãy nêu những nét tương đồng và khác biệt giũa hai

nhân vật này?. Đây là câu hỏi so sánh khái quát về nhân vật giúp HS thấy được những nét tương đồng

và khác biệt của nhân vật.

*HS trao đổi và GV định hướng:

- A Phủ và Mị có những nét tương đồng gần nhau về số phận, về tính cách , họ là những lao

động nghèo khổ, bị áp bức bóc lột, có phẩm chất tốt đẹp.

- Nếu Mị thiên về nội tâm, sức sống tiềm ẩn bên trong thì A Phủ lại là con người bộc trực, thẳng

thắn, hồn nhiên, ham hoạt động, giác ngộ cách mạng nhanh và tích cực đấu tranh để giải phóng mình

và quê hương.

Họ là điển hình cho người lao động nghèo khổ dưới ách thống trị của giai cấp phong kiến và

con đường tự giải thoát của người lao động các dân tộc thiểu số vùng cao.

* GV : Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, em hãy nêu giá trị nhân đạo của truyện? Loại câu hỏi

khái quát giá trị nội dung của tác phẩm.

*HS trao đổi và GV định hướng:

- Niềm cảm thông, thương xót những con người bất hạnh, bị chà đạp, bị lăng nhục bởi xã hội

thực dân phong kiến.

- Sự thấu hiểu, trân trọng những phẩm chất cao quí của con người. Truyện thể hiện giá trị hiện

thực và nhân đạo sâu sắc của tác giả.

3. Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích.

*GV: Nhận xét của em về nghệ thuật miêu tả và dựng truyện của nhà văn? Đây là loại câu hỏi

phát biểu ý kiến về nghệ thuật của tác phẩm.

* HS trao đổi và GV định hướng:

- Nghệ thuật xây dựng nhân vật, đặc biết là miêu tả tâm lí nhân vật một cách tinh tế, sinh động

có cá tính ( Mị, A Phủ..).

- Ngòi bút tả cảnh sinh động với những phong tục tập quán , sinh hoạt , thiên nhiên núi rùng Tây

Bắc... giàu chất thơ và chất tạo hình.

- Lối kể chuyện, trần thuật ngắn gọn, gây ấn tượng mạnh mẽ đối với người đọc.

- Ngôn ngữ giáu chất tạo hình, giọng văn trầm lắng, thương cảm

Bước 3.III. Hướng dẫn HS Tổng kết

GV hướng dẫn HS tổng kết nội dung và nghệ thuật truyện, lưu ý phần ghi nhớ trong sách giáo

khoa.

Với nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật sắc sảo, truyện thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu

sắc. Đồng thời giúp ta hiểu được cuộc sống, tâm hồn, khao khác tự do và quá trình đấu tranh để tự giải

phóng mình của các dân tộc Tây Bắc lúc bấy giờ.

Bước 4: Hướng dẫn HS củng cố kiến thức và chuẩn bị ở nhà.

- Ghi nhớ nội dung bài học, tóm tắt lại nội dung, nêu được chủ đề tác phẩm ,những đặc sắc nghệ

thuật của tác phẩm.

- Phân tích diễn biến tâm lí nhân vât Mị trong đoạn trích?

- Giá trị hiện thực và nhân đạo qua tác phẩm?

HS chuẩn bị đọc và tóm tắt truyện Vợ Nhặt của Kim Lân, soạn và trả lời hệ thống câu hỏi SGK kết hợp

với hướng dẫn của GV để chuẩn bị tốt nội dung vấn đáp, đàm thoại.

2.3.2.2. Thiết kế bài: VỢ NHẶT

Kim Lân

I. Mục tiêu

1. Kiến thức: Giúp HS:

- Hình dung được nạn đói khủng khiếp 1945 ở nước ta và tội ác diệt chủng của bọn thực dân Pháp,

phát xít Nhật.

- Hiểu được khát khao hạnh phúc gia đình và niềm tin bất diệt của người lao động .

- Hiểu được những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả.

2. Kĩ năng: Hình thành kĩ năng đọc - cảm thụ truyện ngắn qua việc phân tích, tìm hiểu nhân vật.

3. Thái độ: Trân trọng những khát vọng, phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo. Thái độ tố cáo

sâu sắc đối với bọn thực dân, phát xít.

II> Chuẩn bị:

1. Giáo viên:

- Tư liệu về nạn đói 1945 ở nước ta, tư liệu về cảnh phá kho thóc của nhân dân ta, chân dung về Kim

Lân.

- Hướng dẫn học sinh đọc những đoạn đan xen tiếng hờ khóc bi thương với tiếng nói cười nhỏ nhẹ,

hóm hỉnh , lạc quan của truyện.

- Sách hướng dẫn GV, tài liệu “ Giảng văn văn học Việt Nam’’ Đỗ Kim Hồi; Trần Đình Sử : Vợ Nhặt

(trong Đọc văn học), Sách thiết kế Ngữ Văn ( Phan Trọng Luận); Giáo án mẫu ( Nguyễn Trọng Hoàn,

Phan Trọng luận, Nguyễn Hải Châu)

2. Học sinh:

- Đọc và tóm tắt tác phẩm.

- Soạn và trả lời hệ thống câu hỏi dựa và SGK và hướng dẫn của GV qua phiếu học tập ( Work Sheet)

- Nhớ lại truyện Làng được học ở THCS để nắm được văn phong của Kim Lân.

III> Phương pháp.

- Vấn đáp,đàm thoại và gợi tìm kết hợp với hình thức thảo luận nhóm.

- Đọc và tóm tắt được nội dung và chủ đề truyện.

IV. Tiến trình lên lớp.

1. Ổn định lớp.

2. Kiểm tra bài cũ:

- Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ ? ( Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).

- Phát biểu chủ đề của truyện?

* HS trả lời và Gv nhận xét đánh giá.

3. Bài mới: Lời vào bài.

Nạn đói năm 1945 đã gây bao hậu quả khủng khiếp cho dân tộc Việt Nam: hơn hai triệu người

chết đói. Một miếng ăn lúc ấy là vấn đề sinh mệnh của con người. Trong hoàn cảnh ấy, những

người cùng cảnh ngộ nghèo đói mà chia sẻ cho nhau miếng ăn là cả một nghĩa cử hào hiệp. Nhiều

nhà văn đã cầm bút ghi lại trung thực hiện thực này như Tố Hữu, Nam Cao, Văn Cao... Bằng tiếng

nói nghệ thuật riêng của mình, Kim Lân đóng góp cho văn học giai đoạn 1945- 1975 một tác phẩm

truyện ngắn thành công :“ Vợ nhặt“

Bước 1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu chung.

1. Tác giả: ( Kim Lân 19202007)

* Gv gọi HS đọc phần tiểu dẫn SGK và phát vấn:

Qua phần tiểu dẫn, em hãy cho biêt đôi nét khái quát về nhà văn Kim Lân? (Loại câu hỏi hiểu biết về

tác giả mang tính chất tài hiện)

*HS trả lời và GV định hướng:

- Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn Tài – quê Bắc Ninh.

- Năm 1944 , ông tham gia hội văn hóa cứu quốc và hoạt động văn nghệ phục vụ kháng chiến.

- Ông có sở trường về truyện ngắn, am hiểu sâu sắc về nông thôn, cuộc sống và con người nông thôn

với những tình cảm gắn bó tha thiết.

- “Vợ nhặt“ là tác phẩm xuất sắc nhất của ông.

2. Hoàn cảnh sáng tác.

* GV: Dựa và tiểu dẫn SGK và văn bản, em hãy cho biết hoàn cảnh sáng tác truyện ngắn này? ( Loại

câu hỏi hiểu biết về hoàn cảnh ra đời của tác phẩm)

* HS trả lời và Gv định hướng:

- “Vợ nhặt“ được viết ngay sau khi cách mạng tháng Tám thành công, nạn đói đầu 1945 vẫn còn

ảnh hưởng nặng nề đến các tầng lớp nghèo trong xã hội.

- Truyện lúc đầu có tên là “Xóm ngụ cư“, đến 1954 đổi lại thành “Vợ Nhặt“.

3. Bố cục .

*GV: Dựa vào văn bản, em hãy phân chia bố cục truyện gồm có mấy phần? Nội dung từng

phần? ( Loại câu hỏi tìm hiểu bố cục văn bản)

* HS trả lời và GV định hướng : truyện có hai cách chia bố cục:

Cách 1: có thể chia thành 5 phần nhỏ.

- Phần 1: “Cái đói đã tràn đến...thành vợ thành chồng“: giới thiệu bức tranh nạn đói 1945.

- Phần 2: tiếp theo đến ...“rồi cùng đẩy xe bò về“: Tràng nhặt được vợ trong lúc nạn đói khủng

khiếp đang diễn ra.

- Phần 3: tiếp theo cho đến hết chổ lược một đoạn: tâm trạng Tràng khi dẫn dẫn vợ về nhà.

- Phần 4: tiếp theo cho đến “một nỗi tủi hờn len lỏi vào tâm trí mọi người“: Tâm trạng bà cụ Tứ.

- Phần 5: Kết theo cho đến hết tác phẩm ( phần in chữ nhỏ): cảnh gia đình sum họp và hình ảnh

lá cờ đỏ của Việt Minh.

Cách 2: có thể chia làm 3 phần.

- Phần 1: “Cái đói đã tràn đến ...“rồi cùng đẩy xe bò về’’: Tràng nhặt được vợ và đưa vợ về nhà

trong niềm tin yêu và trân trọng.

- Phần 2: từ “ Tràng chợt đứng dừng lại’’ tiếp theo cho đến“ nghe càng rõ’’: bà cụ Tứ nhận con

dâu, lòng bùi ngùi xúc động.

- Phần 3: phần còn lại từ “ sớm hôm sau’’ cho đến hết: niềm vui và hạnh phúc gia đình trong

bữa cơm đạm bạc.

* GV: Em hãy tóm tắt truyện một cách ngắn gọn? Câu hỏi này mang tính khái quát nội dung cốt

truyện.

* HS tóm tắt và GV định hướng tóm tắt:

Nạn đói đầu năm 1945 đã làm cho rất nhiều người chết và nhiều gia đình lâm vào cảnh khốn

cùng, trong đó có gia đình Tràng. Tràng là một thanh niên chưa vợ, sống ở xóm ngụ cư. Trong lúc cái

đói đang hoành hành khắp nơi, Tràng dắt về nhà một phụ nữ làm mọi người ngạc nhiên và làm thay đổi

bộ mặt của xóm. Người đàn bà về làm vợ Tràng từ một lời đùa giỡn, chị cũng rất nghèo đói, rách rưới.

Mẹ Tràng hết sức bất ngờ nhưng vẫn chấp nhận nàng dâu mới. Bà mùng cho con nhưng lại buồn tủi vì

nghèo nên không có nổi mâm cơm ra mắt cho con. Có nàng dâu mới, gia đình Tràng ấm cúng hẵn.

Tràng cũng ý thức được trách nhiệm của mình với gia đình. Họ sống hạnh phúc ; bà cụ Tứ luôn

khuyên chúng con những lời chí tình, luôn tin tưởng ở tương lai tươi sáng. Qua thông tin của người vợ,

Tràng biết Việt Minh phá kho thóc của Nhật để chia cho dân nghèo. Tràng thấy tiếc rẻ vẩn vơ và trong

óc Tràng hình ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới.

* GV: Từ việc tóm tắt nội dung truyện, em hãy cho biết tác phẩm đề cập đến vấn đề gì? Cảm

nhận đầu tiên của em truyện ngắn „“Vợ nhặt“? Câu hỏi khái quát tạo cho HS phát biểu ấn tượng ban

đầu về tác phẩm.

* HS trả lời và Gv định hướng:

Số phận người nông dân nghèo trong nạn đói 1945 với tình huống truyện lạ lùng từ đó để mọi

người hiểu sâu hơn về tình người trong hoàn cảnh khó khắn đói kém.

Bước 2: II. Hướng dẫn HS đọc - hiểu truyện.

1. Hướng dẫn HS tìm hiểu nhan đề của truyện:

* GV: Dựa vào tiêu đề tác phẩm, em hãy giải thích ý nghĩa nhan đề của tác phẩm? Câu hỏi khái

quát trên cơ sở HS đã tóm tắt tác phẩm. Tạo tiền đề đi vào tìm hiểu giá trị hiện thực và nhân đạo

qua tác phẩm.

* HS phát biểu và GV định hướng:

“Vợ nhặt’’ : nhặt được, lượm được vợ một cách tình cờ.. Gợi một hoàn cảnh, số phận của nhân

vật Tràng nhặt được vợ như nhặt đuợc vật rơi vãi trên đường; người phụ nữ thành vợ nhặt trong cảnh

tối sầm lại vì đói.

=> Tình huống éo le, độc đáo, vừa bi thảm, vừa thấm đẫm tình người, vừa có giá trị hiện thực,

vừa mang giá trị nhân đạo sâu sắc.

2. Hướng dẫn HS tìm hiểu tình huống truyện:

* GV : Truyện “Vợ nhặt“ thể hiện một tình huống lạ, độc đáo kịch tính. Đó là tình huống gì?

Chi tiết nào thể hiện tình huống đó? Nhận xét của em về tình huống này? ( Hãy hình dung cảnh tượng

Tràng nhặt được vợ?) câu hỏi vừa tái tạo vừa tái hiện cho HS trinh bày tự do).

* HS trao đổi và Gv định hướng:

- Tình huống Tràng nhặt được vợ, dẫn vợ về nhà:

+ Tình huống bất ngờ, lạ: Tràng lấy được vợ, dám lấy vợ trong lúc nạn đói đang đe dọa, miếng

ăn trở thành vấn đề mạng sống con người. Gây ngạc nhiên cho xóm ngụ cư và mẹ Tràng.

+ Tình huống éo le: nhà Tràng đã đói lại có thêm người; vừa mừng lại vừa lo; vừa hạnh phúc lại

vừa ai oán xót thương.

=> Tình huống giàu ý nghĩa, thật oái ăm, làm nỗi bật chủ đề tác phẩm, gây chú ý cho người đọc.

3. Hướng dẫn HS tìm hiểu giá trị hiện thực của tác phẩm.

Tác phẩm phản ánh một hiện thực lớn của xã hội Việt Nam nạn đói khủng khiếp năm 1945 .

a. Bức tranh ảm đạm về xã hội Việt Nam trong nạn đói:

*GV: Truyện được mở đầu bằng cảnh tượng nào? ( Hiện thực được phản ánh trong tác phẩm là

hiện thực như thế nào? Nó có tác dụng như thế nào trong thể hiện tình huống truyện?). Câu hỏi gợi tìm,

suy luận.

* HS trao đổi thảo luận và Gv định hướng:

- Bối cảnh nạn đói:

+ Không khí vẫn lên mùi thối của rác rưởi và mùi gây của xác người.

+ Nhà cửa thì úp súp tối om, không nhà nào có ánh lửa, đèn.

+ Âm thanh: tiếng quạ cứ gào lên từng hồi thê thiết, tiếng hờ khóc tỉ tê của những gia đình có người

chết đói.

+ Khung cảnh tối sầm lại vì đói khát.

- Nạn đói ảnh hưởng nặng nế đến người lao động:

+ Xóm ngụ cư: Trẻ con ngồi rũ rượi dưới những xó tường không buồn nhúc nhích vì đói. Bao trùm

cả xóm ngụ cư la không khí chết chóc, người đói xanh xám như những bóng ma, người chết như ngã

rạ, không sáng nào mà không gặp ba bốn cái thây nằm còng queo bên đường.

* GV nói thêm : Dựng lên bối cảnh nạn đói 1945, tác giả như muốn nói rằng – trong cái xã hội ấy -

thân phận con người trở nên rẻ rúng hơn, đồng thời qua đó tố cáo tội ác của Pháp và phát xít Nhật.).

+ Cô vợ Tràng : theo Tràng chỉ vì miếng ăn để được sống.

+ Gia đình Tràng : phải ăn cám

=> Nạn đói đe dọa tính mạng mọi người, làm thay đổi cuộc sống bình lặng của xóm ngụ cư. Miếng

ăn là vấn đề sinh mệnh con người – số phận bất hạnh của người nghèo khổ.

* GV : Qua việc thể hiện búc tranh nạn đói, em hãy cho biết thái độ của Kim Lân đối với nạn đói

1945? Câu hỏi bộc lộ cảm xúc, đánh giá, nhận định.

* HS trả lòi và GV định hướng:

Tác giả thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc: quan tâm đến số phận bất hạnh cảu nười nông dân

nghèo xóm ngụ cư. Tố cáo tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra thảm kịch cho nhân

dân.

* GV: liên hệ mở rộng kiến thức: trong chương trình Ngữ văn THPT, em đã được học những tác

phẩm nào đề cập đến hậu quả của nạn đói?. Câu hỏi liên tưởng, tái hiện.

b. Tác phẩm đã mở ra hướng giải quyết nạn đói của người lao động nghèo.

* GV : Mở đầu tác phẩm là khung cảnh tối sầm lại vì đói, kết thúc tác phẩm là lá cờ đỏ bay phấp

phới. Em hãy nhận xét cách kết thúc này? Câu hỏi phát biểu ý kiến bản thân về kết thúc truyện.

*HS trao đổi tra lời và Gv định hướng:

- Kết thúc tác phẩm: “Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp phới’’:

+ Hình ảnh lá cờ đỏ tượng trưng cho cách mạng: trong cảnh khốn cùng , họ đã hướng về cách

mạng, hy vọng vào ngày mai tươi sáng.

+ GV mở rộng: Dương xuân Quỹ đã đặt tiêu đề cho truyện là “ Ngọn lửa tình người trong một

đêm đông“. Còn Kim Lân lại đổi nhan đề từ “Xóm ngụ cư’’ sang “Vợ nhặt’’. Điều này cho thấy: Hình

ảnh lá cờ đỏ chuyển từ hiện thực phê phán sang hiện thực xã hội, toát lên ở tác phẩm một ngọn lửa tình

người.

=> Tác phẩm đã mở ra một hướng giả quyết tốt đẹp cho người lao động nghèo trong nạn đói.

4. Giá trị nhân đạo.

Tác phẩm thể hiện những phẩm chất tốt đẹp của con người lao động nghèo trong nạn đói 1945.

a.Đặc điểm chung:

*GV: Dưới ngòi bút của Kim Lân, người đọc thấy được những phẩm chất tốt đẹp nào của người lao

động? Câu hỏi suy luận từ những vấn đề tìm hiểu ở trên, HS rút ra nhận xét, đánh giá về con người

trong tác phẩm.

* HS trao dổi tư do và GV định hướng:

- Trong cảnh khốn cùng, người lao động nghèo vẫn giàu tình thương, nhân hậu, hướng về sự

sống, khao khát mái ấm gia đình, hi vọng tương lai. “đói cơm rách áo“ không làm mất đi vẽ đẹp tình

người, trên nền xám xịt của cảnh đói khát nhưng vẫn chan chứa tình người.

b. Biểu hiện cụ thể:

b1: Hướng dẫn HS tìm hiểu nhân vật Tràng.

*GV:Dưới ngòi bút của Kim Lân, nhân vật tràng hiện ra như thế nào? Cách đặt tên nhân vật cùng

những từ ngữ miêu tả ngoại hình của Tràng có tác dụng như thế nào trong khắc họa nhân vật? Câu

hỏi gợi tìm vừa tái hiện vừa tái tạo kiến thức đồng thời nhận định về nhân vật.

* HS trao đổi trả lời và GV định hướng:

- Tràng dân ngụ cư, nghèo, làm nghề đẩy xe bò mướn, cuộc sống bấp bênh, đang bị cái đói đe

dọa.

- Tràng là người tốt bụng, hiền lành, chất phác: ngay cả cái tên và cả những cái liên quan đến nhà

Tràng ( cành dong rấp cổng, tấm phên rách che nhà, mãnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại...)cũng rất tự

nhiên. Nhưng cái tên “Tràng“- một thứ đồ vật của thợ mộc với “hai con mắt nhỏ tí, hai bên quaio hàm

bạch ra, bộ mặt thô kệch, thân hình vậm vạp’’ cùng với cái kiểu “ ngửa mặt lên cười hềnh hệch, cái đầu

trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu’’.

=> Cuộc sống chân chất, nghèo nàn của người dân xóm ngụ cư nhưng nổi lên cái xấu xí , thô kệch

là tấm lòng nhân hậu của người dân quê hiền lành chất phát.

- Trong lúc cái đói đang đe dọa, vấn đề miếng ăn là sinh mệnh, Tràng đã sẵn sàng mời người phụ

nữ không quen biết bốn bát bánh đúc.

- Tràng chấp nhận người phụ nữ làm vợ.

GV tiếp tục dẫn dắt và đưa ra vấn đề cần trao đổi: Con người xấu xí, thô kệch như Tràng vậy mà đã

có vợ. Một người đàn bà đã bước vào cuộc đời Tràng. Hạnh phúc đã đến với Tràng. Con người ấy

sống lay lắt, vật vờ nhưng vẫn toát lên nỗi khát thèm được sống yêu thương và hy vọng.

*GV : Đoạn miêu tả cảnh Tràng dẫn vợ về nhà ngang qua xóm ngụ cư phần nào thể hiện được

tính cách của Tràng. Em hãy cho biết thái độ của xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn một người đàn bà lạ

về nhà? Câu hỏi dẫn dắt HS gợi tìm.

* HS trao đổi và trả lời, Gv định hướng:

- Họ ngạc nhiên khi thấy Tràng dẫn người đàn bà lạ về nhà.“Người trong xóm là lắm. Họ đứng cả ra

trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán’’.

- Họ vui mừng với Tràng“ Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ hẵn lên. Có

cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói khát, tăm tối ấy của họ’’.

- Họ cũng lo lắng cho Tràng :“biết có nổi nhau sống qua được cái thì này không?’’.

=> thể hiện tình làng nghĩa xóm của những người cùng cảnh ngộ.

* GV: Khi dẫn vợ về nhà , diễn biến tâm trạng của Tràng bấy giờ như thế nào? Câu hỏi gợi tìm.

* HS trả lời và Gv định hướng:

- Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng vui mùng, vụng về:

+ Vẻ mặt phơn phơ khác thường“ tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lấp lánh’’; “ Thích

ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình’’.

+ Tràng rất hãnh diện khi đi bên cạnh người đàn bà với bản chất hồn nhiên, trong sáng, chất

phát.

+ Đoạn đối thoại rời rạc, lúng túng, vụng về, cộc lốc, ngượng ngùng e thẹn.“ Hắn cứ lúng ta

lúng túng, tay nọ xoa xoa và vai kia đi bên người đàn bà’’

+ Tràng bàng hoàng, cảm nhận hạnh phúc đang đến nên “trong một lúc Tràng hình như quên hết

những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát ghê gớm đang đe dọa’’.

+ Tràng cảm thấy mới mẻ, lạ lùng chưa từng có“ Một cái gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở

người đàn ông nghèo khổ ấy’’.

+ Cái “chậc lưỡi’’ của Tràng như đã đánh cược cả cuộc đời cùng cái đói, mong một cuộc sống

tốt đẹp hơn dù có lúc Tràng lại thấy chợn lại vì cảnh đói.

* GV: Có ý kiến cho rằng:“ bao giờ cái hạnh phúc được thương yêu cũng quý hơn tất cả, ngay

cả khi người ta tưởng như không còn cần gì hơn là một miến cơm ăn’’. Ý kiến của em như thế nào?

Câu hỏi nêu vấn đề phát biểu cảm xúc bản thân.

* HS phát biểu tự do, GV định hướng và vấn đáp: Trong truyện Kim Lân đã sử dụng những chi

tiết rất đắt để miêu tả thay đổi trong tâm lí của Tràng khi có được hạnh phúc trong tay. Đó là những chi

tiết nào? Tác dụng?

* HS trả lời và GV định hướng:

- “ Hắn định nói với thị một câu rõ tình tứ’’ ở nơi “ vắng vẻ’’ nhưng lại ngượng nghịu, khổ sở “

tay nọ xoa xoa vào tay kia.’’.

- Thậm chí khi hỏi thị hỏi, hắn trả lời ngờ nghệch, ngây thơ:“ có một mình tôi, mấy u’’.

- Chi tiết Tràng khoe với thị chai dầu trong tay. Những chi tiết này tạo nên cảm giác vừa buồn

cười, vừa xúc động, vừa cay đắng xót xa trước sự thay đổi của một người đàn ông thô kệch và chai sạn

thành người hiền lành.

* GV: Khi về đến nhà, phải chờ đợi mẹ về để giới thiệu với mẹ về người vợ mới của mình,

Tràng có biểu hiện khác ngày thường. Em hãy tìm những biểu hiện ấy và phấn tích điển biến tâm trạng

của Tràng lúc này? Câu hỏi gợi tìm.

* HS trao đổi và Gv định hướng:

-Khi chờ mẹ về:

+ Tràng xăm xăm bước vào nhà, thu dọn nêu bát, sống áo vứt bừa bãi.

+ Tràng thấy sợ, ngượng nghịu, đứng tây ngây giữa nhà một lúc.

+ Tràng lấm lét ra sân, hết chạy ra ngõ ngóng lại chạy vào sân nhìn trộm vào.

+ Hắn cười một mình..., chưa tin là mình đã có vợ’’ Nhìn thị ngồi ngay giũa nhà ..... có vợ rồi

đấy ư?’’

=>Tràng vừa mừng vừa lo, vừa nôn nóng vừa như sợ. Tình cảm đang xen lẫn lộn. Hạnh phúc

đến quá bất ngờ.

* GV: Tâm trạng cảu Tràng trước những thay đổi hết sức đơn giản của cuộc sống gia đình? Vì

sao Tràng lại có tâm trạng đó? Câu hỏi suy luận.

* HS trả lời và GV định hướng:

- Trước những thay đổi của gia đình, Tràng thấy thắm thía và cảm động, thương yêu và gắn bó

với gia đình hơn, thấy có bổn phận với gia đình.“Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn

phải có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này’’.

- Tràng thấy hạnh phúc trong bữa ăn dù cái đói vẫn đang hiện diện.

=> Tràng lấy vợ không nghiêm túc trong hình thức nưng rất nghiêm túc trong suy nghĩ, bổn

phận và trách nhiệm -> khát khao tổ ấm gia đình hạnh phúc của Tràng thật cảm động.

* GV chuyển ý: Trong quá trình dẫn dắt câu chuyện từ bức tranh nạn đói 1945, tác giả đả để

nhân vật xuất hiện xen giữa những câu văn miêu tả về đôi vợ chồng trẻ với cảnh sống dật dờ như

những bóng ma, tiếng khóc hờ nĩ non trong đêm tân hôn.... như càng khẳng định một điều: sự sống

nãy sinh từ cái chết, con người bắt đầu từ bóng ma đói dật dờ kia. Người đọc không ngạc nhiên khi

thấy mở đầu bằng truyện là hình ảnh của buổi chiều chạng vạng, sáng không ra sáng, chỉ nhờ nhờ ấy

xuất hiện hai nhân vật lầm lũi đi trên con đường khẳng khiu để kết thúc là buổi sáng mai nắng vàng .

Bóng tối đi qua, ánh sáng đã tràn vào căn nhà ọp ẹp của gia đình Tràng, tạo nên một sự thay đổi mới

mẻ, khác lạ. Ánh sáng ấy phải chăng là hình ảnh người đàn bà lạ mà Tràng dẫn về nhà và gọi là “nhà

tôi“?

b 2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu cô vợ Tràng:

* GV: Nhà văn Kim Lân đã miêu tả về nhân vật này như thế nào? Câu hỏi gợi tìm.

* HS trao đổi trả lời và Gv định hướng:

- Xuất hiện không tên tuổi, quê quán, gốc tích, đói khát rách rưới -> Chị là hiện thân của hàng

triệu người bần cùng, đói rách tha phương, vất vưởng kiếm ăn trong nạn đói 1945.

- Cái đói đã làm cho chị quên đi sự ý tứ cần có của người phụ nữ, trở nên trơ trẽn, sống sượng

khi gợi ý Tràng để được ắn liền một mạch “bốn bát bánh đúc“.

- Liều lĩnh , nhắm mắt đưa chân khi theo về làm Vợ Tràng

* GV: Theo em, điều gì đã làm người đàn bà này thay đổi khi làm vợ Tràng? Khi thấy mọi

người bàn tán thì thái độ của chị thế nào? Thái độ này có gì khác với lúc đầu gặp Tràng? Câu hỏi trình

bày ý kiến bản thân.

* HS trả lời và Gv định hướng:

- Chị cần có một chổ dựa, một miếng ăn để tồn tại, cần một mái ấm gia đình.

- Đôi mắt tư lự, bở ngỡ khi đặt chân trên con đường mới, lo lắng, ngượng nghịu, cái dáng điệu

khép nép khi ngồi ở mép giường và tiếng chào u lúng búng...nhưng tỏ ra có chút thất vọng về gia cảnh

của Tràng.“ Túp nhà rách nát và rúm ró’’. Nhưng sau đó thì:

- Chị đảm đang khi don dẹp nhà cửa.

- Bình thản trong bửa ăn tối.

- Hiểu biết rộng khi thông tin cho Tràng .

Nếu trước kia chị cong cớn, trơ trẽn bấy nhiêu thì bây giờ thì e de, ngượng nghịu bấy nhiêu. Chị

ý thức được bổn phận và trách nhiệm.

*GV chuyển ý: Câu chuyện như tăng thêm phần hấp dẫn khi tác giả để nhân vật bà mẹ xuất hiện

và giữa câu chuyện của đôi vợ chồng trẻ. Trước sự việc xảy ra quá bất ngờ như vậy, tâm trạng của bà

mẹ Tràng ra sao?

b.3. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nhân vật bà cụ Tứ:

Là nhân vật xuất hiện muộn nhất nhưng để lại ấn tượng sâu sắc nhất trong lòng bạn đọc.

* GV: Khi thấy người dàn bạ lạ ngồi trong nhà và chào bà bằng u thì lúc bấy giờ tâm trạng bà

cụ Tứ thế nào? Câu hỏi tìm tòi.

* HS trả lời và Gv định hướng:

- Bà lão là người lao động nghèo, lam lũ nhưng rất giàu tình thương.

- Bà rất ngạc nhiên“ đứng sững và càng ngạc nhiên hơn.... bà quay lại nhìn con và tỏ ý không

hiểu’’ khi người đàn bà lạ này chào bà bằng u.

* GV. Nhưng rồi thái độ của bà lão ra sao? Tại sao“ bà lão lại nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa

con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời khổ cực dài dằng dặc của mình’’? Em cảm nhận tâm trạng của

người mẹ nghèo khổ luôn lo lắng cho con được Kim Lân thể hiện như thế nào? Câu hỏi cảm nhận bản

thân vừa tái hiện vừa tái tạo kiến thức về nhân vật.

* HS trao đổi GV định hướng:

Bà nghĩ đến quá khứ cay đắng, khổ cực, nỗi lo lắng của một con người suốt đời đã gánh nặng

khổ cực. Bà lão xót xa cho số kiếp của con trai’’. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy đã hiểu ra biết bao

nhiêu cơ sự’’ - ý thức được nghịch cảnh đầy éo le của cuộc hôn nhân.

* GV tại sao trong nổi lo âu, buồn tủi bà vẫn“ mừng lòng“? câu hỏi gợi mở.

* HS trả lời và GV định hướng:

- Tâm trang vừa mừng vừa lo, vừa buồn vừa tủi của bà lão trước số phận nghèo khổ của con trai.

Bà thương cảm cho con dâu bằng tấm lòng của người phụ nữ từng chịu cảnh cơ hàn, nghèo đói.

- Bà tủi hờn cho thâmn mình vì đã chưa làm tròn bổn phận cho con.

- Bà mừng vì con lấy được vợ nhưng lo lắng không biết chúng nó có vượt qua cơn đói khát này

không.

- Bà khổ tâm “ao ước có được dăm ba măm thì phải ...., nhưng nhà nghèo...“.

- Bà ân cần với con, khuyên con giữ đạo vợ chồng.

- Bà hy vọng vào tương lai

* GV: Từ nổi buồn tủi, lo lắng của người mẹ nghèo, qua một đêm trời sáng, mọi việc đã thay

đổi. Theo em, chi tiết nào trong truyện thể hiện sự thay đổi này? Ý nghĩa?. Câu hỏi mang tính suy luận.

* HS trả lời Gv định hướng:

Bà lão vui mừng trước cảnh gia đình đầm ấm:

- Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường. “Cái mặt bủn beo u ám ngày thường

rạng rỡ hẵn lên“.

- Bà cùng con dâu quét dọn nhà cửa sạch sẽ.

- Nói toàn chuyện vui, chuyện tương lai hạnh phúc“ toàn chuyện sung sướng về hạnh phúc sau

này“ để động viên hai con.

- Khi phải ăn cám bà vẫn khen ngon đáo để. .

=>Kim Lân đã dành trọn tình cảm yêu mến , kính trọng khi đễn tả rất chấn thật và cảm động hình

ảnh bà cụ Tứ: chất phát, nhân hậu, giàu tình mẫu tử, ý thức trách nhiệm với con, hy vong vướt qua số

phận nghiệt ngã hướng đến tương lai.

5. Giá trị nghệ thuật.

* GV : Em hãy nêu những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn này? Câu hỏi gợi tìm.

* HS trình bày và GV định hướng:

- Tình huống truyện độc đáo, giàu ý nghĩa, làm nổi bật tư tưởng tác phẩm.

- Trần thuật tự nhên, hấp dẫn; dựng truyện đơn giản nhưng chặt chẽ; miêu tả tâm lí nhân vật tinh tế,

chân thật, cảm động.

- Giọng văn mộc mạc, giản dị, ngôn ngữ khẩu ngữ nhưng có sự chọn lọc.

Bước 3. Hướng dẫn học sinh tổng kết.

*GV : Em hãy nêu chủ đề truyện? Giá trị nội dung và nghệ thuật của truyện?

* HS trả lời và GV định hướng ghi nhớ trong sách giáo khoa.

- Niềm khát khao hạnh phúc gia đình và niềm tin bất diệt của con người lao động nghèo đối với

cuộc sống và tương lai.

- Truyện không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người nông dân nước ta trong nạn đói

khủng khiêp 1945, thể hiện tinh thần nhân đạo sâu sắc, cách nhìn mới của nhà văn về cuộc sống của

người lao động.

- Tình huống truyện độc đáo, cách kể, tả tâm lí nhân vật tinh tế, đối thoại sinh động.

Bước 4.Hướng` dẫn học sinh củng cố kiến thức , dặn dò chuẩn bị

- Học và đọc tác phẩm, tóm tắt lại truyện. Học thuộc nội dung bài.

- Phân tích hoàn cảnh và tâm trạng các nhân vật Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ để làm rõ giá trị

hiện thực và nhân đạo của tác phẩm?

- Những đặc sắc về nghệ thuật của truyện?

GV hứng dẫn HS chuẩn bị bài cho tiết sau. Chú ý dựa vào hệ thống câu hỏi gợi ý trong SGK và của

GV thông qua phiếu học tập ( Work Sheets).

Chương 3: Thực nghiệm

3.1. Mục đích và yêu cầu thực nghiệm

3.1.1. Mục đích thực nghiệm

Thực nhiệm dạy học nhằm:

Một là : Nhằm kiểm chứng việc vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm

trong dạy học truyện ngắn lớp 12 qua hai tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt”.

Hai là: hoàn chỉnh những nghiên cứu lý luận để ứng dụng lý thuyết vào thực tế dạy học,

từ đó đánh giá tính khả thi của đề tài.

3.1.1.2. Yêu cầu thực nghiệm Để thực nghiệm có hiệu quả người thực nghiệm phải chú ý những yêu cầu sau:

Một là thực nghiệm phải trên diện rộng (ít nhất la hai trường).

Hai là thực nghiệm ở nhiều bài, nhiều tác phẩm khác nhau.

Ba là thực nghiệm trên nhiều đối tượng học sinh khác nhau.

Từ yêu cầu trên chúng tôi tiến hành chọn địa bàn thực nghiệm

3.2 Đối tượng thực nghiệm

Chúng tôi chọn HS hai trường THPT thuộc địa bàn tỉnh Tây Ninh:

(1) Trường THPT Tây Ninh.

(2) Trường THPT Hoàng Văn Thụ.

Chọn hai trường thực nghiệm trên với nhiều đối tượng học sinh khác nhau thuộc vùng trung

tâm của tỉnh Tây Ninh và trường huyện vùng biên giới. Đây là hai địa bàn có sự chênh lệch nhau về

vốn sống, mặt bằng kiến thức, tâm lí nhận thức, khả năng tư duy và điều kiện học tập.

Trường THPT Tây Ninh là trường chất lượng cao nằm ở trung tâm tỉnh, hầu hết HS đều có điều

kiện học tập, trang thiết bị dạy và học được trang bị khá đầy đủ.

Trường THPT Hoàng Văn Thụ thuộc huyện Châu Thành, đây là một trường trung tâm của

huyện vùng biên giới nên mức sống và mặt bằng dân trí , điều kiện học tập của học sinh nơi đây còn

nhiều hạn chế. Mặc dù vậy nhưng cả hai trường này được xếp vào bảng A của tỉnh ( trường chất lượng

có số lượng HS tốt nghiệp tương đối cao trong tỉnh)

Như vậy, việc thực hiện ở hai trường nói trên là thực nghiệm trên những đối tượng học sinh

khác nhau. Kết quả giải quyết vấn đề của học sinh cũng sẽ là cơ sở để đánh giá tính khả thi của đề tài.

Chọn bài thực nghiệm:

Trong chương trình Ngữ văn 12 chúng tôi chon thực nghiệm hai tác phẩm truyện ngắn nằm ở

HKII:

+ Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài ( 3 tiết)

+ Vợ nhắt- Kim Lân ( 2 tiết)

3.3. Kế hoạch thực nghiệm

3.3.1. Thời gian thực nghiệm

Thời gian thực hiện vào đầu HKII năm học 2009-2010 ở hai trường phổ thông nói trên.

3.3.2. Công việc thực nghiệm:

Sau khi liên hệ với hai trường THPT nói trên, chúng tôi dự kiến thực hiện như sau:

Người viết luận văn sẽ trực tiếp đứng lớp giảng dạy thực nghiệm trên 4 lớp ở trường THPT

Hoàng Văn Thụ với tống số tiết là: 20 tiết cho hai bài dạy trên. Tổ chuyên môn sẽ cùng dự và đóng

góp ý kiến. Ngoài ra, chúng tôi xin dự giờ một số lớp đối chứng với số tiết chi hai bài dạy trên là 10

tiết. Cụ thể:

Khảo sát tình hình lớp và xin số liệu kết quả học tập bộ môn Ngữ văn học kì I các lớp 12 năm

học 2009-2010 ở các lớp thực nghiệm. Trên cơ sở kết quả học tập này, chúng tôi chọn mẫu là những

lớp có trình độ tương đương nhau. Cùng học một chương trình chuẩn ban cơ bản.

Đối với trường THPT Hoàng Văn Thụ: Lớp 12a1, 12c2 ( hai lớp tương đối khá; lớp 12a2, 12

b1 ( hai lớp có trình độ trung bình ). Dự giờ đối chứng lớp 12c1,12d1 ( 2 lớp khá) và 2 lớp có trình độ

trung bình: 12b2, 12d2. Đồng thời tiến hành khảo sát bằng phiếu, kiểm tra có kết luận.

Đối với trường THPT Tây Ninh, Chúng tôi tiến hành gặp giáo viên , đề nghị được giúp đỡ và

triển khai thực nghiệm:

Giao tài liệu thực nghiệm ( giáo án, phiếu học tập, đề kiểm tra – đáp án, phiếu khảo sát GV và

HS)

Thống kê kết quả khảo sát có kết luận và đề nghị.

Cụ thể:

GV:Trần Hữu Đằng dạy thực nghiệm theo hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm lớp

12a 2, 12a4 hai lớp này có trình độ tương đối khá, lớp đối chứng 12a3 theo giáo án thông thường

3.3 Thiết kế giáo án thực nghiệm

Soạn giảng hai bài “Vợ chồng A Phủ” và “Vợ nhặt” trong chương trình Ngữ văn 12

3.3.1 Bài : VỢ CHỒNG A PHỦ

(Trích)

Tô Hoài

I. Mục tiêu bài học.

1. Kiến thức: Giúp HS:

Hiểu được cuộc sống cơ cực, tăm tối của đồng bào các dân tộc thiểu số vùng cao dưới ách

thống trị áp bức, kìm kẹp của thực dân và chúa đất đồng thời thấy được quá trình giác ngộ cách mạng,

vùng lên tự giải phóng cuộc đời mình, đi theo tiếng gọi Cách Mạng của các dân tộc thiểu số.

Thấy được những đóng góp của nhà văn trong nghệ thuật khắc họa tính cách nhân vật; sự tinh tế

trong diễn tả cuộc sống nội tâm; sở trường của nhà văn trong quan sát những nét mới lạ trong phong

tục tập quán và cá tính người Mông; nghệ thuật trần thuật linh hoạt, lời văn tinh tế mang màu sắc dân

tộc và giàu chất thơ.

2. Kĩ năng: rèn cho HS kĩ năng đọc - hiểu truyện ngắn, biết cách khai thác truyện ngắn theo đặc

trưng thể loại.

3. Thái độ: Tình yêu đồng loại, yêu quê hương đất nước, đến với Cách mạng của cộng đồng các

dân tộc thiểu số ở nước ta .

II. Chuẩn bị.

1. Giáo viên:

- Tư liệu phim tài liệu về bức tranh quật khởi của các dân tộc vùng cao trong những ngày đầu

đến với cách mạng, những phong tục tập quán của đồng bào các dân tộc Tây Bắc, chân dung tác giả Tô

Hoài.

- Tư liệu về cuộc đời của Tô Hoài.

- Xây dựng hệ thống câu hỏi hướng dẫn HS đàm thoại, tranh luận khai thác nội dung và nghệ

thuật tác phẩm.

2. Học sinh:

- Đọc và tóm tắt được cốt truyện, nắm được chủ đề của tác phẩm.

- Soạn và trả lời hệ thống câu hỏi trong SGK kết hợp với hệ thống câu hỏi mà GV đã hướng dẫn

cho HS ( Phiếu Work Sheets).

- Phân nhóm chuẩn bị tiến hành vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong quá trình lên lớp.

III> Phương pháp.

- Vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong quá trình tìm hiểu tác phẩm kết hợp với hình thức thảo

luận nhóm.

- Phương pháp đọc một số đoạn tiêu biểu thể hiện nội dung tác phẩm.

IV. Tiến trình lên lớp.

1. Ổn định lớp.

2. Kiểm tra bài cũ: ( GV kiểm tra sự chuẩn bị bài của HS qua vở bài soạn)

3. Bài mới: lời vào bài:

Tây Bắc và đồng bào các dân tộc thiểu số luô là đề tài hấp dẫn đối với nhiều nhà văn. Họ đến

với Tây Bắc từ nhiều lí do khác nhau song họ đều để lại những trang viết sinh động về đồng bào các

dân tộc. Tô Hoài là một trong số những nhà văn thành công khi viết về đề tài miền núi, trong đó , tập

truyện Tây Bắc gây được ấn tượng sâu sắc cho độc giả. “Vợ chồng A Phủ” là một tác phẩm như thế.

Hoạt động của thầy và trò Nội dung

Hoạt động 1. I. Giới thiệu chung.

* GV yêu cầu HS đọc phần tiểu dẫn SGK và trình bày khái quát 1. Tác giả: Tô Hoài (1920)

những hiểu biết của bản thân về tác giả Tô Hoài? - Tên thật là Nguyễn Sen.

* HS dựa vào tiêu dẫn SGK trả lời và GV định hướng cho HS một - Quê nội: Thanh Oai – Hà

số nội dung chính sau Đông.

- Trước Cách mạng tháng Tám, Tô Hoài là nhà văn hiện thực nổi - Quê ngoại làng Nghĩa Đô,

tiếng với “Dế Mèn phiêu lưu kí”. Sau cách mạng tháng tám ông ven sông Tô Lịch, phủ Hoài

vẫn viết điều đặn, là tấm gương của sự lao động cần mẫn. Đức, tỉnh Hà Đông.

- Tô Hoài là nhà văn lớn có số lượng tác phẩm đồ sộ trong nền - Bút danh Tô Hoài.

văn học hiện đại bằng con đường tự học. Ông có vốn hiểu biết - Học hết tiểu học, kiếm sống

phong phú và sâu sắc về phong tục tập quán văn hóa ở nhiều vùng bằng nhiều nghề khác nhau.

của nước ta. - 1943 ông tham gia hội văn

- Tô Hoài là nhà văn có khả năng quan sát tinh tường, rất thành hóa cứu quốc.

công khi viết về đề tài miền núi. Ông có lối kể chuyện sinh động, - Kháng chiến chống Pháp, Tô

ngôn ngữ giàu chất thơ, tạo hình. Hoài làm báo và hoạt động văn

- 1996 ông được trao giải thưởng Hồ Chí Minh về văn học nghệ nghệ ở Miền Bắc.

thuật * Tác phẩm chính: SGK

*GV: Nêu những sáng tác chính của Tô Hoài trước và sau Cách

mạng tháng Tám 1945?

*HS: Tác phẩm tiêu biểu: “ Dế mèn phiêu lưu kí”, “O Chuột”,

“Truyện Tây Bắc”, “ Miền Tây”, “Vợ chồng A Phủ”….

* GV: Dựa vào tiểu dẩn và văn bản em hãy cho biết hoàn cảnh

sáng tác truyện Vợ Chồng A Phủ?

* HS trả lời và GV định hướng:

Vợ chồng A Phủ in trong tập Truyện Tây Bắc, là kết quả của 2.Hoàn cảnh sáng tác Tác

chuyến đi công tác cùng bộ đội vào giả phóng Tây Bắc 1952 với phẩm “Vợ chồng A Phủ”

thời gian khoảng 80 ngày. Tác giả đã “ 3 cùng”: ăn - ở - chiến đấu - 1952 Tô Hoài theo bộ đội lên

với các dân tộc vùng Tây Bắc, được tận mắt chứng kiến cuộc sống giải phóng Tây Bắc.

tăm tối, tủi nhục và tình cảm gắn bó với cách mạng của nhân dân - Tập “Truyện Tây Bắc” là kết

tây Bắc dưới ách thống trị thực dân phong kiến. quả của chuyến đi thực tế này.

Tập truyện Tây Bắc gồm: “Mường Giơn, Cứu đất cứu mường, Vợ - Trong tập “Truyện Tây Bắc”

chồng A Phủ” có truyện “ Vợ chồng A Phủ”.

* GV: Dựa vào văn bản em hãy tóm tắt nội dung đoạn trích?

* HS tóm tắt và GV sẽ định hướng tóm tắt:

( Tóm tắt phần còn lại: Mị và A Phủ đã thành vợ chồng, đưa nhau

đến Phiềng Sa, dựng nhà trên đồi gianh trông xuống cánh đồng

Bản Pe. Họ ước mong làm được một ngôi nhà gỗ tốt, có cuộc sống 3. Tóm tắt

yên bình. Đoạn trích kể về cuộc đời của

Một lần bọn lính đồn Bản Pe lên, bắt lợn nhà A Phủ, lại bắt A Phủ Mị và A Phủ (dân tộc Mèo). Mị

khiêng lợn về đồn. A Phủ bị bọn tây ở đồn Bản Pe vu cho là nuôi là một cô gái hồn nhiên, tài

cán bộ, rồi bị chúng đánh đập, cắt cả tóc. A Phủ trốn thoát về giỏi, hiếu thảo. Mị bị bắt về

được. làm dâu nhà thống lí Pá Tra để

A Châu, cán bộ kháng chiến tìm đến nhà A Phủ. Qua Phút hiểu trừ nợ cho bố mẹ. Mỵ định tự

nhầm ban đầu, A Phủ nhận ra cán bộ là người tốt, cùng một bụng tử nhưng nghĩ thương bố nên

ghét thằng Tây. Lễ ăn thề kết làm anh em giữa A Phủ và A Châu lại thôi.Mị sống trong nhà

diễn rqa đơn sơ mà thiêng liêng, cảm động. thống lí như nô lệ, phải làm

Ngày tết trong khu du kích Phiền Sa tự do, A Phủ và Mị đi chơi việc từ sáng đến tối, hết năn

tết. Giữa lúc ấy, giặc kéo lên càng quét. Mị và nhiều người già, này qua năm khác.Vào một

phụ nữ bị chúng bắt đưa về đồn. Du kích chặn đánh, Mị thoát đêm xuân, nghe tiếng sáo, tiếng

được về. Mị hoảng hốt khi biết tin Pá Tra đã theo Tây về ở trong khèn gọi bạn, Mị uống rượu và

đồn Bản Pe. Nhưng A Phủ vẫn vững vàng, thuyết phục Mị không muốn đi chơi nhưng bị A Sử

sợ. Hai người đi hợp đội du kích để chuẩn bị đánh đồn cứu người trói đứng vào cột suốt đêm cho

già và trẻ con về). tới sáng hôm sau, khi A Sử đi

* Qua nội dung tóm tắt trên em hãy cho biết bố cục đoạn trích.?. chơi bị đánh, Mị mới được cởi

* HS trả lời và GV định hướng chia đoạn: trói để đi lấy thuốc cho chồng.

Tác phẩm chia làm hai chặng đời: A Phủ là chàng trai mồ côi, lao

(1). Mị và A Phủ ở Hồng Ngài. động giỏi, dũng cảm nhưng

(2). Mị và A Phủ ở Phiềng Sa. không cưới được vợ vì nghèo.

Chặng đời (1) chú ý: Vì A Phủ đánh con quan nên bị

- Diễn biến tâm trạng Mị trong đêm tình mùa Xuân. bắt, bị đánh, bị phạt vạ. A Phủ

- Tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ phải đi ở đợ cho nhà thống lí để

lấy tiền nộp phạt. A Phủ phải

phát nương,làm rẫy, quanh năm

suốt tháng ngoài rừng. Vì hổ ăn

mất con bò nên A Phủ bị trói

*GV: Từ bố cục trên, em hãy phát biểu chủ đề đoạn trích? đứng vào cột suốt mấy ngày

đêm liền. Cảm thương cho A * HS: phát biểu và GV định hướng chủ đề:

Phủ, Mị đã cởi trói cho A Phủ

và cùng A Phủ chạy trốn khỏi

Hoạt động 2.Hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung và nghệ thuật. Hồng Ngài.

GV phân chia nhóm cho HS đàm thoại, tranh luận, đối thoại về 4. Bố cục:

nhân vật Mị các câu hỏi sau: Đoạn trích chia làm ba phần:

Nhóm 1, thảo luận 5 phút. - Phần 1: Từ đầu cho đến “ A

*GV: Phần đầu đoạn trích tác giả đã giời thiệu cho người đọc về Sử đi chơi bị đánh vỡ đầu’’: kể

việc cô Mị bị bắt về làm dâu gạt nợ cho Nhà Pá Tra, em hãy cho về việc Mị bị bắt về làm dâu

biết Mị được giới thiệu như thế nào? Ấn tượng của em về cách nhà thống lí Pá Tra và tình

giời thiệu của tác giả về nhân vật này? Cảnh ngộ và cuộc sống của cảnh của Mị

Mị khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra như thế nào? Chi tiết nào - Phần 2: Tiếp theo cho đến

cho thấy điều đó? (Chú ý cuộc sống của Mị trước khi về làm dâu “A Phủ vẫn bị trói’’: Cảnh A

nhà thống lí thì Mị là cô gái như thế nào?). Phủ đánh A Sử và cuộc xử

*HS: dựa vào phần đầu đoạn trích trả lòi và GV định hướng nội kiện.

dung : - Phần 3: Đoạn còn lại: A Phủ

- Nhân vật Mị: Hình dáng – mặt buồn rười rượi, lúc nào cũng cuối bị trói sắp chết và Mị cứu A

mặt...; nội tâm - lúc nào cũng buồn với thân phận con dâu gạt nợ. Phủ, hai người cùng nhau chạy

* Sự đối lập trong hoàn cảnh và thân phận đã dự báo điều gì về trốn khỏi Hồng Ngài.

cuộc đời của Mị? 5. Chủ đề:

*GV: Khi Mị con ở với gia đình thì cộc sống như thế nào? Người dân miền núi, mà

* HS trả lời và Gv định hướng nói thêm: tiêu biểu là Mị và A Phủ trong

- Mị có tài thổi sao, có nhiều trai làng theo Mị. Mỵ có người yêu, quá trình đấu tranh giành

Mỵ không muốn về làm dâu nhà thống lí, Mị muốn làm chủ cuộc quyền sống và dược hạnh phúc

đời mình. đã trải qua bao gian khổ, tủi

cực, đắng cay. Họ đã đấu tranh

để tự giải phóng mình.

II. Hướng dẫn đọc – hiểu.

1. Nhân vật Mị và cách giớ

thiệu của tác giả.

* GV: Nguyên nhân nào khiến Mị bị bắt về làm dâu nhà thống Lí? a. Ấn tượng:

Suy nghĩ của em về nguyên nhân này? - Mị xuất hiện không phải là

*HS trình bày và GV định hướng: chân dung mà là ở thân phận

- Nỗi bất hạnh của người phụ nữ Mèo nghèo khổ, tố cáo hình thức nghiệt ngã và đau khổ.

bóc lột của bọn phong kiến miền núi bằng hình thức cho vay năng - Mị là một cô gái trẻ đẹp luôn

lãi đã buộc chặt người lao động nghèo vào kiếp nô lệ hết đời này có vẻ mặt buồn rười rượi.

sang đời khác - Sự đối lập giữa gia đình Pá

Nhóm 2:thảo luận 5 phút. Tra giàu có và thân phận Mị là

* GV: Khi mới về làm dâu nhà thống lí, Mị phản ứng như thế con dâu gạt nợ cho nhà Pá Tra.

nào? Phản ứng đó chứng tỏ thái độ gì của Mị? - Sự đối lập dự bào cuộc đời

* HS trả lời và GV định hướng: Mị không bằng phẳng, sẽ chịu

nhiều đau khổ, éo le trong cuộc “ Có đến hàng mấy tháng, đêm nào Mị cũng khóc. Mị chỉ bưng

mặt khóc. Mị ném lá ngón xuống đất - Giọt nước mắt của cuộc đời sống.

và cảnh ngộ éo le, khổ đau, cơ cực nhưng ẩn chứa sức sống tiềm

b.Khi Mị còn tự do (ở nhà ): tàng mãnh liệt, táo bạo.

*GV: Mị đã trải qua những tháng ngày làm dâu như thế nào? - Nhà nghèo, chăm làm, hiếu

Thái độ của tác giả khi nói về cuộc sống này của Mị? thảo với cha mẹ.

- Hồn nhiên, yêu đời, tràn đầy Những chi tiết nghệ thuật nào thể hiện cuộc sông khổ cực của Mị?

sức sống. * HS : trao đổi và trả lòi GV định hướng chi tiết:

- Mị có khao khát sống tự do, “ Ở lâu trong cái khổ, Mị quen rồi’’.

hạnh phúc. “ đàn bà con gái nhà này thì vùi vào việc làm cả đêm cả ngày’’.

=> Mị là cô gái với những Mị bị A Sử trói khi muốn đi chơi xuân, bị A Sử đánh vô tội vạ’’

Khi đó A Sử bèn đạp chân vào mặt Mị’’, “có đêm A Sư chợt về, phẩm chất tốt đẹp, xứng đáng

thấy Mị ngồi đấy, A Sử đánh Mị ngã ngay xuống cửa bếp’’. được hưởng hạnh phúc.

* GV: Em có nhận xét gì về sức sống của Mị? c. Khi bị bắt làm dâu ở nhà

Chi tiết thể hiện điều đó? thống lí:

*HS: trao đổi và trả lời, GV định hướng chi tiết: - Mị bị bắt về làm dâu để trừ

“Mỗi ngày Mị càng không nói, lùi lũi như con rùa nuôi trong xó nợ cho nhà thống lí vì món nợ

cửa’’. truyền kiếp, Mị phải trả bằng

:“Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, có một chiếc cửa sổ một lỗ vuông cả tuổi trẻ, hạnh phúc và tự do

bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, không của mình.

biết là sương hay là nắng ’’... “bây giờ Mị tưởng mình cũng là -Lúc mới về nhà thống lí: Mị

con trâu, mình cũng là con ngựa.., ngựa chỉ biết việc ăn cỏ, biết đi vô cùng đau đớn, uất ức và Mị

làm mà thôi’’. Mị nghĩ rằng mình cứ chỉ ngồi trong cái lỗ vuông muốn tự tử.

ấy mà trông ra, đến bao giờ chết thì thôi’. Mị không hi vọng vào - Mị ý thức được nỗi khổ nhục

sự đổi thay: “Ta là thân đàn bà, nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi của mình, nhưng thương cha, Mị

thì chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi“. đành chấp nhận sống cam chịu,

nhẫn nhục *GV: Từ cảnh ngộ của Mị bị bắt về làm dâu cho nhà thống lí Pá

Tra, em có nhận xét gì về cuộc sống của cô gái Mèo xinh đẹp - Cuộc đời làm dâu của Mị

ngày nào còn ở với cha bây giờ thì ra sao? sống như một nô lệ:

*HS rút ra kết luận về nhân vật sau những chi tiết đã phân tích ở + Mấy năm sau, bố chết, Mị

trên, GV định hướng thêm: Tô Hoài đã cảm thông sâu sắc về thân cũng không còn nghĩ đến cái

phận đau đớn, bất hạnh của Mị đồng thời tố cáo tội ác của tầng chết nữa

lớp thống trị tàn bạo chà đạp lên quyền sống con người. + Mị làm lụng vất vả quanh

Nhóm 3. thảo luận 5 phút năm suốt tháng không được

* GV: Em hãy cho biết bút pháp nghệ thuật tiêu biểu cho phần mở nghĩ ngơi

đầu đoạn trích?( Chú ý điểm nhìn trần thuật của tác giả? Các thủ + Mị bị đối xử thua súc vật,

pháp miêu tả? Kể? Và đối thoại? Lời văn ? Nhịp điệu trần thuật? ) không hề biết đến hạnh phúc

*HS: trao đổi thảo luận và Gv định hướng: gia đình

=> Nỗi khổ nhục của người

phụ nữ Mèo.

GV chuyển ý:

Tô Hoài không chỉ dừng lại ở việc mô tả cuộc sống tối tăm của

người lao động Mèo, ông còn đi sâu vào tâm trạng nhân vật để - Sức sống dường như bị tê liệt:

phát hiện ra sức sống mãnh liệt tiềm ẩn trong tâm hồn nhân vật, để + Sống cô độc, âm thầm:

khi gặp được hoàn cảnh thích hợp, sức sống ấy trỗi dậy mạnh mẽ, + Cuộc sống không còn ý niệm

tạo nên sự thay đổi cho nhân vật . Phát hiện này tạo nên giá trị về thời gian, về thế giới xung

nhân đạo sâu sắc của tác phẩm. quanh

+ Cuộc sống cam chịu nhẫn

nhục:

- Mị mất hết niềm tin vào cuộc

sống:

+ Mị không hi vọng gì ở tương

lai.

+ Thái độ buông xuôi tât cả.

=> Mị không có bạn bè, không Nhóm 4. thảo luận 5 phút.

có người tâm giao, không có *GV: GV hướng dẫn HS chú ý đọc đoạn từ “Ngày tết ... đau dứt

hiện tại, không có tương lai, từng mảnh thịt“, chú ý diễn tả đúng tâm trạng Mị.

cuộc đời Mị chỉ là công cụ , là Em hãy phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đoạn này? (Chú ý

con vật để cha con thống lí sai làm rõ yếu tố ngoại cảnh làm thức tỉnh nội tâm nhân vật, tâm trạng

khiến, là nạn nhân của chế độ Mị khi mùa xuân về, trong những đêm cô đơn dậy sớm để sưởi

phong kiến và thần quyền. lửa, ki bị A Sử trói )

* HS trao đổi và GV định hướng:

“ Gió thổi vào cỏ gianh vàng ửng“, “những chiếc váy hoa sặc sở

đem ra phơi“, đám trẻ cười đùa, ngoài đầu núi đã có tiếng sáo rủ

bạn đi chơi.

GV gợi mở: Khi nghe tiếng sáo vọng lại tâm trạng Mị bấy giờ

như thế nào? Mị đã có những hành động nào? Có sự chuyển biến

như thế nào về mặt tâm lí?

* HS: “ Mị lén lấy hũ rượu, cứ uống ừng ực từng bát“. Cách uống

ừng ực này cho thấy Mị muốn dìm né nỗi đau buồn, để quên đi

- Cách vào truyện gây ấn tượng nỗi cô đơn, quên đi thực tại, nhưng Mị không thể quên được

tạo ra những đối nghịch: “Lòng Mị đang sống về ngày trước’’ ngày Mị còn tự do. Mùa

+ Một cô gái lẽ loi, âm thầm xuân , Mị thổi sáo “ có biết bao người mê, ngày đêm đã thổi sáo đi

theo Mị’’ gần như lẫn vào các vật vô tri

“ Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như nhưng cô gái ấy lại là dâu một

những đêm Tết ngày trước“ gia đình quyền thế, giàu có

:“ Mị trẻ lắm, Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi“; Mị cũng ý thức nhung lúc nào cũng “cúi mặt’’,

được vấn đề quan trọng: hạnh phúc’’ Bao nhiêu người có chồng “mặt buồn rười rượi’’.

cũng đi chơi ngày Tết. Huống chi A Sử với Mị, không có lòng + Kết hợp miêu tả và kể

với nhau mà vẫn phải ở với nhau’’. chuyện: mở đầu miêu ta Mị

.“Nếu có nắm lá ngón trong tay lúc này, Mị sẽ ăn cho chết ngay trong một không gian đặc

chứ không buồn nhớ lại nữa, nhớ lại chỉ thấy nước mắt ứa ra’’. trưng: cô thường “ngồi quay

“Mà tiếng sáo gọi bạn yêu vẫn lơ lững bay ngoài đường“, “Mị sợi gai bên tảng đá trước cửa,

muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi“, Mị quấn lại tóc, lấy váy cạnh tàu ngựa’’ nhà thống lí

hoa...’’ Pá Tra. Tiếp đó mới kể về lai

GV có thể nói thêm: Mị sống trong trạng thái đầy mâu thuẫn giữa lịch của Mị và việc Mị bị bắt

một bên là sức sống tiềm ẩn trong con người Mị với một bên là về làm dâu trừ nợ. Trong mạch

cảm thức về thân phận, cho nên sự thoát ra khỏi thực tại là điều kể có xen vào những đoạn

không phải dễ dàng . Từ đó cho thấy tài mô tả diển biến tâm lí miêu tả cảnh A Sử lừa bắt Mị,

nhân vật tinh tế của Tô Hoài.). cảnh căn buồng Mị sống...

*GV: Khát vọng của Mị có được thực hiện không? Vì sao? Chi + Kết hợp miêu tả ngoại cảnh

tiết nào thể hiện điều đó? với miêu tả ngoại hình và tâm

* HS trao đổi và GV định hướng: trạng nhân vật.

HS:“như không biết mình đang bị trói’’, vẫn “thiết tha bồi hồi’’, + Lời trần thuật ở ngôi thú ba

vẫn hướng theo tiếng sáo tiếng sáo gọi bạn tình.“tiếng sáo đưa Mị từ điểm nhìn bên ngoài, nhưng

đi theo những cuộc chơi, những đám chơi“, “Mị vùng dậy bước có nhiều đoạn nhập vào ý nghĩ

đi. Nhưng tay chân đau không cựa được’’.. và lời độc thoại cảu Mị.

* GV: Lúc này đây tâm trạng Mị như hế nào?. Tiếng sáo có ý + Nhịp điệu trần thuật chậm,

nghĩa gì trong việc là chuyển biến tâm lí của Mị? trầm lặng với giọng điệu xót xa

* HS trả lời và Gv định hướng: thương cảm trước số phận nhân

vật.

d. Sức sống tiềm tàng của Mị.

*GV: Em hãy cho biết nghệ thuật của đoạn trích này? Tác dụng d.1: Sức sống mãnh liệt này

của những biện pháp nghệ thuật đó? Thái độ của tác giả ở đoạn trước hết thể hiện trong đêm

này thể hiện như thế nào? tình mùa xuân:

* HS rao đổi, trả lời và GV gợi ý: - Tác động của ngoại cảnh:

Bút pháp trần thuật làm nỗi bật khao khát tự do, hạnh phúc của Mị Ngoại cảnh là biểu tượng của

đồng thời thấy được sức sống con người dù bị chà đạp, đè nén tới niềm vui tự do, hạnh phúc, có

đâu nhưng vẫn không dập tắt được ước mơ, khát vọng của Mị. tác động trực tiếp đến đời sống

*GV: Em hãy phân tích tâm trạng Mị Khi thấy A Phủ bị trói? Chi tâm hồn Mị.

tiết nào thể hiện hành động cởi trói cứu A Phủ? - Nghe tiếng sáo vọng lại, Mị

*HS trao đổi và GV gợi ý: bừng tỉnh , thoát khỏi trạng thái

- “Mị vẫn thản nhiên thổi lửa hơ tay. Nếu A Phủ là cái xác chết vô cảm bây lâu nay:

đứng đấy cũng thế thôi’’: + Mị cảm nhận tiếng sáo bằng

- Mị nhìn sang “thấy một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai tâm trạng thiết tha bồi hồi.

hõm má đã đen xám đen lại’’, những giọt nước mắt của sự đau + Nhẩm theo bài hát của người

đớn, tuyệt vọng, Mị đã không cầm lòng được. “ Mị cũng bị trói đang thổi.

đứng thế kia. Nhiều lần khóc, nước mắt chảy xuống miệng, xuống + Mị lấy rượu uống.

cổ không biết lau đi đâu được’’. + Sức sống trong Mị bắt đầu

“ Nó bắt trói đến chết người đàn bà ngày trước cũng ở cái nhà này. hồi sinh

Chúng thật độc ác’’. Mị nghĩ + Mị ý thức được thực tại mình

“ Cơ chừng này chỉ đêm mai là người kia chết, chết đau, chết đói, + Khi lòng khao khát sống

chết rét, phải chết’’. hạnh phúc trào dâng cũng là

- “Ta là thân đàn bà, nó dã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn lúc Mị lại nghĩ đến cái chết

biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi’’, còn A Phủ “việc gì phải chết

thế’’. Nghĩ đến đây, Mị cũng thấy không sợ nữa: “ Nghĩ thế,

trong tình cảnh này, làm sao Mị cũng không thấy sợ..’’ => Mị ý thức sâu sắc nỗi tủi

nhục, bất hạnh của mình.

+ Nhưng tiếng sáo của tình

yêu vẫn kéo Mị về nỗi khao

khát tự do, hạnh phúc

*GV: Khi Mị quyết định cởi trói cho A Phủ, bấy giờ tâm trạng Mị

thế nào? Hãy hình dung cảnh ấy? Nhận xét của em về hành động - Lòng yêu đời, yêu cuộc sống

này? khao khát hạnh phúc, tự do đã

*HS trao đổi và GV định hướng. trỗi dậy mãnh liệt trong Mị

* GV:Nhận xét của em về nhân vật này (tâm trạng trong đêm mùa - Mị bị A Sử trói đứng vào cột

xuân về và hành động cởi trói cho A Phủ)? nhà. Mị bị trói nhưng Mị

* HS trao đổi GV gợi ý: -> sức sống đang trỗi dậy trong

- Những đêm trước nhìn thấy A Phủ bị trói Mị hoàn toàn dửng tình trạng bi thảm của Mị, khao

dưng, vô cảm. Đêm ấy, dòng nước mắt A Phủ đã dánh thức và khát tự do, hạnh phúc đã lấn át

làm hồi sinh lòng thương người trong Mị. đi nỗi đau về thể xác thực tại.

- Từ cảnh ngộ của mình và những người đàn bà bị hành hạ ngày

trước đến cảnh đau đớn và bất lực của A Phủ trước mắt, Mị nhận

thấy rõ tội ác của chúng....

*GV: Nghệ thuật tiêu biểu của đoạn văn này? - Tiếng sáo chính là âm thanh

HS trả lời và Gv định hướng. của tình yêu, hạnh phúc, tự do;

tiếng sáo gợi lại kỉ niệm của

quá khứ, thức dậy sức sống

tiềm ẩn trong tâm hồn Mị;

tiếng sáo gợi tả tâm trạng khác

nhau của Mị trong đêm tình

mùa xuân.

- Bằng nghệ thuật trần thuật

với thủ pháp tương phản, miêu

tả sự đối lập giữa hoàn cảnh

sông và số phận Mị.

- Tô Hoài căm phẫn tố cáo chế

* GV: Em hãy tóm tắt quá trình diễn biến tâm độ phong kiến miền núi trói

lí của Mị trong đêm mùa xân về? Nhận xét của em về tình huống buộc, vùi dập con người -> Giá

truyện? trị nhân đạo sâu sắc của tác giả.

* HS rút ra sau quá trình phân tích nhân vật, GV định hướng. d. 2. Khi chứng kiến cảnh A

Phủ bị trói.

- Lúc đầu Mị rất lạnh lùng

trước cảnh A Phủ bị trói. Tâm

hồn Mị đã khô héo, chai sạn

với cuộc sống chung quanh.

- Nhưng rồi một hôm, qua ánh

lửa bếp, Mị nhìn thấy A Phủ

khóc.

+ Mị nhớ lại hoàn cảnh của

mình ngày trước cũng từng bị

A Sử trói.

=> Mị thương mình để rồi cảm

nhận cảnh ngộ của A Phủ, thấy

(GV chuyển ý hướng dẫn HS tìm hiểu nhân vật A phủ) đồng cảm với A Phủ.

* GV:HS chú ý đoạn viết về A Phủ và trao đổi trả lời câu hỏi sau: + Mị nhớ đến và căm phẫn tội

Qua ngòi bút miêu tả của tác giả, A Phủ được giới thiệu như thế ác của cha con thống lí.

nào? Ấn tượng của em về tính cách của nhân vật A Phủ? + Mị cảm thương cho A Phủ

+ Mị đồng cảm với A Phủ và

nghĩ đến mình

=> Mị nhận thức được sự vô lí

đối với A Phủ. *HS trả lời và GV gợi ý:

+ Mị tưởng tượng cảnh A Phủ

trốn được, Mị sẽ phải chết thay

GV gợi ý thêm cho HS khi hình dung cảnh tượng A Phủ đánh A nhưng Mị không thấy sợ =>

Sử, từ đó khắc sâu tính cách của nhâh vật này). tình người đã thắng sự sợ hãi.

Khi trở thành người làm công gạt nợ, A Phủ vẫn là một con người + Mị quyết định cởi trói cho A

tự do, không biết sợ cường quyền, kẻ ác. : Chỉ vì đánh A Sử mà Phủ -> hành động táo bạo,

không có tiền nộp vạ, phải làm lụng vất vã“ quanh năm một thân quyết liệt, dứt khoát để giải

một mình bôn ba rong ruổi ngoài gò, ngoài rừng’’. thoát cho A Phủ và chính mình.

+ Cởi trói xong, Mị hốt

hoảng,“ đứng lặng trong bóng

*GV: nhận xét của em về nghệ thuật của đoan văn này? Tác dụng tối’’ -> Mị vụt chạy theo A Phủ

của nó tong việc khắc họa tính cách nhân vật A Phủ? để tìm tự do để tự thay đổi sốn

*HS trao đổi và rút ra nghệ thuật tiêu biểu: phận.

=> Hành động tự giải thoát có

tính chất tự phát song là kết

quả tất yếu của một quá trình bị

dồn nén, búc xúc về tinh thần

đòi hỏi phải được giải thoát.

* GV : Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, em hãy nêu những nét - Nghệ thuật miêu tả diển biến

tương đồng và khác biệt giũa hai nhân vật này? tâm lí nhân vật đặc sắc, phù

*HS trao đổi và GV định hướng: hợp với bản chất thật và quy

luật cuộc sống con người Mị

luôn có hai mặt mâu thuẫn:

chấp nhận cuộc sống đọa đày

và khao khát cuộc sống con

người; khuất phục và phàn

kháng. Cuối cùng khao khát

hạnh phúc và sức phản kháng

ấy đã chiến thắng.

=> Mị là tiêu biểu cho người

phụ nữ Mèo nghèo khổ, có tâm

* GV : Qua hai nhân vật Mị và A Phủ, em hãy nêu giá trị nhân hồn trong sáng, yêu đời,khao

đạo của truyện? khát hạnh phúc nhưng bị chà

*HS trao đổi và Gv định hướng: đạp đau khổ đã vùng dậy tự

Truyện thể hiện giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc của giải thoát.

tác giả, phát hiện và miêu tả sức sống mãnh liệt, khát vọng tự do + Từ vô cảm đến đồng cảm. Mị

của người lao động bị áp bức trong xã hội cũ. nhận ra sự độc ác và bất công.

+ Hành động cứu người: tình

thương và lòng căm thù đã giúp

Mị có sức mạnh hành động để

quyết định cắt dây trói cứu A

Phủ.

+ Tự giải thoát cuộc đời mình:

*GV: Nhận xét của em về nghệ thuật miêu tả và dựng truyện của đối mặt với hiểm nguy nhưng

nhà văn? lòng ham sống mãnh liệt đã

* HS trao đổi và GV định hướng: thúc giục Mị chạy theo A Phủ.

+ Tình huống truyện độc đáo,

hấp dẫn, miêu tả tâm lí tài tình

tạo nên sự thay đổi nhân vật

một cách thuyết phuc.

2. Nhân vật A Phủ.

- A Phủ với số phận đặc biệt:

+ Mồ côi, sống một mình,

không người thân thích từ bé.

+ A Phủ vượt qua cơ cực thử

thách, trở thành chàng trai

Mông khỏe mạnh, tháo vát,

thông minh, nhiều cô gái trong

làng mơ ước được lấy A Phủ

làm chồng.

+ Nghèo, không lấy nỗi vợ vì

Hoạt động 3. Hướng dẫn học sinh tổng kết. phép làng và tuc lệ cưới xin

( Trên cơ sở tìm hiêu nội dung và nghệ thuật của truyện, Gv yêu ngặt nghèo. Là nạn nhân của

cầu HS đọc phần ghi nhớ trong sách giáo khoa để lưu ý cho HS tập tục, dã man, bị đánh, bị

khắc sâu kiến thức bài học.) phạt vạ, phải đi ở cho thống lí

Pá Tra.

+ Cuộc sống nô lệ trong nhà

thống lí Pá Tra. Bị trói suốt

mấy ngày đêm chỉ vì hổ ăn mất

một con bò.

+ Được Mị cởi trói chạy trốn

để tự giải thoát cho mình.

- A Phủ với cá tính đặc biệt:

+ Gan góc từ bé.

+ Ngang tàng , sẵn sàng

trừng trị kẻ xấu, dám đánh A

Sử con quan.

- Thủ pháp kể kết hợp với

miêu tả, dùng nhiều động từ chỉ

hành động => khắc họa sinh

động tính cách ngang tàng,

dũng cảm .

=> A Phủ tiêu biểu cho người

thanh niên lao động nghèo khổ,

bất hạnh nhưng có sức sống

mãnh liệt, có tinh thần phản

kháng mạnh mẽ.

- A Phủ và Mị có những nét

tương đồng gần nhau về số

phận, về tính cách, họ là những

lao động nghèo khổ, bị áp bức

bóc lột, có phẩm chất tốt đẹp.

- Nếu Mị thiên về nội tâm, sức

sống tiềm ẩn bên trong thì A

Phủ lại là con người bộc trực,

thẳng thắn, hồn nhiên,ham hoạt

động, giác ngộ cách mạng

nhanh và tích cực đấu tranh để

giải phóng mình và quê hương.

=> Họ là điển hình cho người

lao động nghèo khổ dưới ách

thống trị của giai cấp phong

kiến và con đường tự giải thoát

của người lao động các dân tộc

thiểu số vùng cao.

- Niềm cảm thông, thương xót

những con người bất hạnh, bị

chà đạp, bị lăng nhục bởi xã

hội thực dân phong kiến.

- Sự thấu hiểu, trân trọng

những phẩm chất cao quí của

con người.

3. Đặc sắc nghệ thuật của đoạn

trích.

- Nghệ thuật xây dựng nhân

vật, đặc biết là miêu tả tâm lí

nhân vật một cách tinh tế, sinh

động có cá tính ( Mị, A Phủ..)

- Ngòi bút tả cảnh sinh động

với những phong tục tập quán ,

sinh hoạt , thiên nhiên núi rùng

Tây Bắc... giàu chất thơ và chất

tạo hình.

- Lối kể chuyện, trần thuật

ngắn gọn, gây ấn tượng mạnh

mẽ đối với người đọc.

- Ngôn ngữ giáu chất tạo hình,

giọng văn trầm lắng, thương

cảm

III. Hướng dẫn HS Tổng kết

- Truyện thể hiện giá trị hiện

thực và nhân đạo sâu sắc. Đồng

thời giúp ta hiểu được cuộc

sống , tâm hồn ,khao khác tự

do và quá trình đấu tranh để tự

giái phóng mình của các dân

tộc Tây Bắc lúc bấy giờ.

- Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài

tình, dựng cảnh, kể chuyện

khéo léo, ngôn ngữ giàu chất

thơ.

4. Dặn dò và Hướng dẫn học sinh chuẩn bị bài ở nhà.

- Đọc vá tóm tắt lại nội dung của truyện, chú ý diễn biến tâm trạng nhân vật Mị. Phân tích diễn

biến tâm trạng của Mị trong đêm mùa xuân và hành động cởi trói cứu A Phủ?

- Giá trị hiện thực và nhân đạo của truyện, những đặc sắc nghệ thuật của truyện.

- Về nhà chuẩn bị soạn bài theo hệ thống câu hỏi hướng dẫn của SGK và định hướng của Gv.

3.3.2. Thiết kế bài: VỢ NHẶT

Kim Lân

I. Mục tiêu

1. Kiến thức: Giúp HS:

- Hình dung được nạn đói khủng khiếp 1945 ở nước ta và tội ác diệt chủng của bọn thực dân Pháp,

phát xít Nhật.

- Hiểu được khát khao hạnh phúc gia đình và niềm tin bất diệt của người lao động .

- Hiểu được những sáng tạo nghệ thuật độc đáo của tác giả.

2. Kĩ năng: Hình thành kĩ năng đọc - cảm thụ truyện ngắn qua việc phân tích, tìm hiểu nhân vật.

3. Thái độ: Trân trọng những khát vọng, phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo. Thái độ tố cáo

sâu sắc đối với bọn thực dân, phát xít.

II> Chuẩn bị:

1. Giáo viên:

- Tư liệu về nạn đói 1945 ở nước ta, tư liệu về cảnh phá kho thóc của nhân dân ta, chân dung về Kim

Lân.

- Sách hướng dẫn GV, tài liệu “ Giảng văn văn học Việt Nam“ Đỗ Kim Hồi; Trần Đình Sử : Vợ Nhặt

(trong Đọc văn học), Sách thiết kế Ngữ Văn ( Phan Trọng Luận); Giáo án mẫu ( Nguyễn Trọng Hoàn),

...

2. Học sinh:

- Đọc và tóm tắt tác phẩm.

- Chuẩn bị hệ thống câu hỏi mà Gv đã cho ( Phiếu Work Sheets) và dựa vào hướng dẫn trong SGK

soạn bài.

III> Phương pháp.

- Vấn đáp,đàm thoại và gợi tìm kết hợp với hình thức thảo luận nhóm.

- Đọc và tóm tắt được nội dung và chủ đề truyện.

IV. Tiến trình lên lớp.

3. Ổn định lớp.

4. Kiểm tra bài cũ:

- Phân tích diễn biến tâm trạng Mị trong đêm cởi trói cho A Phủ ? ( Vợ chồng A Phủ - Tô Hoài).

- Phát biểu chủ đề của truyện?

* HS trả lời và Gv nhận xét đánh giá.

3. Bài mới: Lời vào bài.

Nạn đói năm 1945 đã gây bao hậu quả khủng khiếp cho dân tộc Việt Nam: hơn hai triệu người

chết đói. Một miếng ăn lúc ấy là vấn đề sinh mệnh của con người. Trong hoàn cảnh ấy, những

người cùng cảnh ngộ nghèo đói mà chia sẻ cho nhau miếng ăn là cả một nghĩa cử hào hiệp. Nhiều

nhà văn đã cầm bút ghi lại trung thực hiện thực này như Tố Hữu, Nam Cao, Văn Cao... Bằng tiếng

nói nghệ thuật riêng của mình, Kim Lân đóng góp cho văn học giai đoạn 1945- 1975 một tác phẩm

truyện ngắn thành công : “Vợ Nhặt’’.

Hoạt động của thầy và trò Nội dung

Hoạt động 1. GV hướng dẫn tìm hiểu chung. 1. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu

* Gv gọi HS đọc phần tiểu dẫn SGK và phát vấn: chung.

Qua phần tiểu dẫn, em hãy cho biêt đôi nét khái quát về nhà 1. Tác giả: ( Kim Lân 1920)

văn Kim Lân? - Kim Lân tên thật là Nguyễn Văn

*HS trả lời và GV định hướng: Tài – quê Bắc Ninh.

- Năm 1944 , ông tham gia hội văn

hóa cứu quốc và hoạt động văn

nghệ phục vụ kháng chiến.

- Ông có sở trường về truyện ngắn,

am hiểu sâu sắc về nông thôn,

cuộc sống và con người nông thôn

với những tình cảm gắn bó tha

* GV: dựa và tiểu dẫn SGK và văn bản, em hãy cho biết hoàn thiết.

cảnh sáng tác truyện ngắn này? - “Vợ nhặt’’ là tác phẩm xuất sắc

* HS trả lời và Gv định hướng: nhất của ông.

2. Hoàn cảnh sáng tác.

- “Vợ nhặt’’ được viết ngay sau

khi cách mạng tháng Tám thành

*GV: Dựa vào văn bản, em hãy phân chia bố cục truyện gồm công, nạn đói đầu 1945 vẫn còn

có mấy phần? Nội dung từng phần? ảnh hưởng nặng nề đến các tầng

* HS trả lời và GV định hướng : truyện có thể chia thành 3 lớp nghèo trong xã hội.

phần: - Truyện lúc đầu có tên là “Xóm

* GV: Em hãy tóm tắt truyện một cách ngắn gọn? ngụ cư“, đến 1954 đổi lại thành

* HS tóm tắt và GV định hướng tóm tắt: “Vợ Nhặt“.

Nạn đói đầu năm 1945 đã làm cho rất nhiều người chết và 3. Bố cục .

nhiều gia đình lâm vào cảnh khốn cùng, trong đó có gia đình - Phần 1: “Cái đói đã tràn đến

Tràng. Tràng là một thanh niên chưa vợ, sống ở xóm ngụ cư. ...“rồi cùng đẩy xe bò về’’: Tràng

Trong lúc cái đói đang hoành hành khắp nơi, Tràng dắt về nhà nhặt được vợ và đưa vợ về nhà

một phụ nữ làm mọi người ngạc nhiên và làm thay đổi bộ mặt trong niềm tin yêu và trân trọng.

của xóm. Người đàn bà về làm vợ Tràng từ một lời đùa giỡn, - Phần 2: từ “ Tràng chợt đứng

chị cũng rất nghèo đói, rách rưới. Mẹ Tràng hết sức bất ngờ dừng lại’’ tiếp theo cho đến“ Nghe

nhưng vẫn chấp nhận nàng dâu mới. Bà mùng cho con nhưng càng rõ’’: bà cụ Tứ nhận con dâu,

lại buồn tủi vì nghèo nên không có nổi mâm cơm ra mắt cho lòng bui ngùi xúc động.

con. Có nàng dâu mới, gia đình Tràng ấm cúng hẵn. Tràng -- Phần 3: phần còn lại từ “ sớm

cũng ý thức được trách nhiệm của mình với gia đình. Họ sống hôm sau’’ cho đến hết: niềm vui

hạnh phúc ; bà cụ Tứ luôn khuyên chúng con những lời chí tình và hạnh phúc gia đình trong bữa

, luôn tin tưởng ở tương lai tươi sáng. Qua thông tin của người cơm đạm bạc.

vợ, Tràng biết Việt Minh phá kho thóc của Nhật để chia cho 4. Tóm tắt.

dân nghèo. Tràng thấy tiếc rẻ vẩn vơ và trong óc Tràng hình Nếu tóm tắt ngắn gọn nội dung

ảnh lá cờ đỏ bay phấp phới bằng cách nêu đại ý, ta có thể dùng

* GV: Từ việc tóm tắt nội dung truyện, em hãy cho biết tác ba câu sau:

phẩm đề cập đến vấn đề gì? Cảm nhận đầu tiên của em truyện - Cảnh Tràng đưa vợ về nhà trong

ngắn “Vợ nhặt“? buổi chiều chạng vạng và giữa lúc

* HS trả lời và Gv định hướng. nạn đói khủng khiếp dang diễn ra,

người chết như ngả rạ.

- Cảnh ba mẹ con Tràng gặp nhau

Hoạt động 2. hướng dẫn học sinh tìm hiểu nội dung và nghệ tại nhà với bao cảm xúc khác

thuật . nhau.

* GV: Dựa vào tiêu đề tác phẩm, em hãy giải thích ý nghĩa - Sau đêm tân hôn và bửa ăn cháo

nhan đề của tác phẩm? cám.

* HS phát biểu và GV định hướng: 5. Chủ đề.

“Vợ nhặt’’: nhặt được, lượm được vợ một cách tình cờ.. Gợi Số phận người nông dân

một hoàn cảnh, số phận của nhân vật Tràng nhặt được vợ như nghèo trong nạn đói 1945 với tình

nhặt dược vật rơi vãi trên đường; người phụ nữ thành vợ nhặt huống truyện lạ lùng từ đó để mọi

trong cảnh tối sầm lại vì đói. người hiểu sâu hơn về tình người

trong hoàn cảnh khó khắn đói

kém.

II. Hướng dẫn HS đọc hiểu

truyện.

1. Hướng dẫn HS tìm hiểu nhan đề

Nhóm 1. thảo luận 5 phút của truyện:

- Ý nghĩa hiện thực: nạn đói 1945

* GV : Truyện “Vợ nhặt’’ thể hiện một tình huống lạ, độc đáo đã xem con người như cái rơm, cái

kịch tính. Đó là tình huống gì? Chi tiết nào thể hiện tình huống rac có thể nhặt được ở bất cứ đâu -

đó? Nhận xét của em về tình huống này? ( Hãy hình dung cảnh > tố cáo phát xít Nhật và thực dân

tượng Tràng nhặt được vợ?) Pháp gây ra nạn đói năm Ất Dậu .

* HS trao đổi và Gv định hướng. - Ý nghĩa nhân đạo: trong hoàn

cảnh đói quay, đói quắt con người

vẫn khao khát hạnh phúc gia đình

và bao bọc che chở nhau.

=> Tình huống éo le, độc đáo, vừa

bi thảm, vừa thấm đẫm tình người.

2. Hướng dẫn HS tìm hiểu tình

huống truyện:

- Tình huống Tràng nhặt được vợ,

dẫn vợ về nhà: Nhóm 2: thảo luận 5 phút.

*GV: Truyện được mở đầu bằng cảnh tượng nào? ( Hiện thực + Tình huống bất ngờ, lạ: Tràng

được phản ánh trong tác phẩm là hiện thực như thế nào? Nó có lấy được vợ, dám lấy vợ trong lúc

tác dụng như thế nào trong thể hiện tình huống truyện?). nạn đói đang de dọa, miếng ăn trở

Những chi tiết nào thể hiện bức tranh ảm đạm này? thành vấn đề mạng sống con

người, gây ngạc nhiên cho xóm

* HS trao đổi thảo luận và Gv định hướng. ngụ cư và mẹ Tràng.

* GV nói thêm : Bao trùm cả xóm ngụ cư la không khí chết + Tình huống éo le: nhà Tràng đã

chóc, người đói xanh xám như những bóng ma, người chết như đói lại có thêm người; vừa mùng

ngả rạ, không sáng nào mà không gặp ba bốn cái thây nằm lại vừa lo; vừa hạnh phúc lại vừa ai

còng queo bên đường. oán xót thương.

Dựng lên bối cảnh nạn đói 1945, tác giả như muốn nói rằng – => Tình huống giàu ý nghĩa, thật

trong cái xã hội ấy - thân phận con người trở nên rẻ rúng hơn, oái ăm, làm nỗi bật chủ đề tác

đồng thời qua đó tố cáo tội ác của Pháp và phát xít Nhật.). phẩm, gây chú ý cho người đọc.

3. Hướng dẫn HS tìm hiểu giá trị

hiện thực của tác phẩm.

Tác phẩm phản ánh một hiện

thực lớn của xã hội Việt Nam nạn

đói khủng khiếp năm 1945 .

a. Bức tranh ảm đạm về xã hội

* GV: Em có nhận xét gì về bức tranh nạn đói 1945 được phản Việt Nam trong nạn đói:

ánh qua tác phẩm? - Bối cảnh nạn đói:

+ Không khí vẫn lên mùi thối

* GV : Qua việc thể hiện búc tranh nạn đói, em hãy cho biết của rác rưởi và mùi gây của xác

thái độ của Kim Lân đối với nạn đói 1945? người.

* HS trả lòi và GV định hướng: + Nhà cửa thì úp súp tối om,

không nhà nào có ánh lửa, đèn.

* GV liên hệ mở rộng kiến thức: trong chương trình Ngữ văn + Âm thanh: tiếng quạ cứ gào

THPT, em đã được học những tác phẩm nào đề cập đến hậu lên từng hồi thê thiết, tiếng hờ

quả của nạn đói?. khóc tỉ tê của những gia đình có

người chết đói.

+ Khung cảnh tối sầm lại vì đói

khát.

- Nạn đói ảnh hưởng nặng nế đến

người lao động:

* GV : Mở đầu tác phẩm là khung cảnh tối sầm lại vì đói, kết + Xóm ngụ cư: Trẻ con ngồi rũ

thúc tác phẩm là lá cờ đỏ bay phấp phới. Em hãy nhận xét cách rượi dưới những xó tường không

kết thúc này? buồn nhúc nhích vì đói.

*HS trao đổi tra lời và Gv định hướng. + Cô vợ Tràng : theo Tràng chỉ

+ GV mở rộng: Dương xuân Quỹ đã đặt tiêu đề cho truyện là “ vì miếng ăn để được sống.

Ngọn lửa tình người trong một đêm đông“. Còn Kim Lân lại + Gia đình Tràng : phải ăn cám

đổi nhan đề từ “xóm ngụ cư“ sang “Vợ nhặt“. Điều này cho => Nạn đói đe dọa tính mạng

thấy: Hình ảnh lá cờ đỏ chuyển từ hiện thực phê phán sang mọi người, làm thay đổi cuộc sống

hiện thực xã hội, toát lên ở tác phẩm một ngọn lửa tình người. bình lặng của xóm ngụ cư. Miếng

“Trong óc Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ bay phấp ăn là vấn đề sinh mệnh con người

phới“: – số phận bất hạnh của người

*GV: Dưới ngòi bút của Kim Lân, người đọc thấy được những nghèo khổ.

phẩm chất tốt đẹp nào của người lao động? Ở họ có những - Tác giả thể hiện tấm lòng nhân

điểm chung nào? đạo sâu sắc: quan tâm đến số phận

* HS trao dổi tư do và GV định hướng: bất hạnh của nười nông dân nghèo

xóm ngụ cư. Tố cáo tội ác của bọn

thực dân Pháp và phát xít Nhật đã

gây ra thảm kịch cho nhân dân.

b. Tác phẩm đã mở ra hướng giải

quyết nạn đói của người lao động

nghèo.

- Kết thúc tác phẩm:

Nhóm 3. thảo luận 5 phút. + Hình ảnh lá cờ đỏ tượng trưng

*GV: Kim Lân giớ thiệu nhân vật tràng hiện ra như thế nào? cho cách mạng; trong cảnh khốn

Cách đặt tên nhân vật cùng những từ ngữ miêu tả ngoại hình cùng , họ đã hướng về cách mạng,

của Tràng có tác dụng như thế nào trong khắc họa nhân vật? hy vọng ngày mia tươi sáng.

* HS trao đổi trả lời : +Tác phẩm đã mở ra một hướng

GV tiếp tục dẫn dắt và đưa ra vấn đề cần trao đổi: Con người giả quyết tốt đẹp cho người lao

xấu xí. Thô kệch như Tràng vậy mà đã có vợ, ngay cả cái tên động nghèo trong nạn đói.

và cả những cái liên quan đến nhà Tràng ( cành dong rấp cổng,

tấm phên rách che nhà, mãnh vườn lổn nhổn toàn cỏ dại...)

cũng rất tự nhiên.

Nhưng cái tên “Tràng“- một thứ đồ vật của thợ mộc với “hai 4. Giá trị nhân đạo.

con mắt nhỏ tí, hai bên quai hàm bạch ra, bộ mặt thô kệch, Tác phẩm thể hiện những

thân hình vậm vạp’’ cùng với cái kiểu “ngửa mặt lên cười hềnh phẩm chất tốt đẹp của con người

hệch, cái đầu trọc nhẵn, cái lưng to rộng như lưng gấu’’. lao động nghèo trong nạn đói

Một người đàn bà đã bước vào cuộc đời Tràng. Hạnh phúc đã 1945.

đến với Tràng. Con người ấy sống lay lắt, vật vờ nhưng vẫn a.Đặc điểm chung:

toát lên nỗi khát thèm được sống yêu thương và hy vọng. - Trong cảnh khốn cùng, người lao

*GV : Đoạn miêu tả cảnh Tràng dẫn vợ về nhà ngang qua xóm động nghèo vẫn giàu tình thương,

ngụ cư phần nào thể hiện được tính cách của Tràng. Em hãy nhân hậu, hướng về sự sống, khao

cho biết thái độ của xóm ngụ cư khi thấy Tràng dẫn một khát mái ấm gia đình, hi vọng

người đàn bà lạ về nhà? tương lai. “đói cơm rách áo“

* HS trao đổi và trả lời, Gv định hướng. không làm mất đi vẽ đẹp tình

“ Những khuôn mặt hốc hác u tối của họ bỗng dưng rạng rỡ người, trên nền xám xịt của cảnh

hẵn lên. Có cái gì lạ lùng và tươi mát thổi vào cuộc sống đói đói khát nhưng vẫn chan chứa tình

khát, tăm tối ấy của họ“ Nhưng họ lại thấy lo cho Tràng :“biết người.

có nổi nhau sống qua được cái thì này không’’?. b. Biểu hiện cụ thể:

* GV: Khi dẫn vợ về nhà , diễn biến tâm trạng của Tràng bấy b1: Hướng dẫn HS tìm hiểu nhân

giờ như thế nào? vật Tràng.

* HS trả lời : - Tràng dân ngụ cư, nghèo, làm

Tràng “ Tủm tỉm cười một mình và hai mắt thì sáng lấp nghề đẩy xe bò mướn, cuộc sống

lánh“,“thị thích ý lắm, cái mặt cứ vênh lên tự đắc với mình“. bấp bênh, đang bị cái đói đe dọa.

.“ Hắn cứ lúng ta lúng túng, tay nọ xoa xoa và vai kia di bên - Tràng là người tốt bụng, hiền

người đàn bà’’ và “ trong một lúc Tràng hình như quên hết lành, chất phác:

những cảnh sống ê chề, tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát => Cuộc sống chân chất, nghèo

ghê gớm đang đe dọa’’. Để rồi Tràng cảm nhận có “ Một cái nàn của người dân xóm ngụ cư

gì mới mẻ, lạ lắm, chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ nhưng nổi lên cái xấu xí , thô kệch

ấy“. là tấm lòng nhân hậu của người

- “ Hắn định nói với thị một câu rõ tình tứ’’ ở nơi“ vắng vẻ’’ dân quê hiền lành chất phát.

nhưng lại ngượng nghịu, khổ sở“ tay nọ xoa xoa vào tay kia.’’ - Trong lúc cái đói dang đe dọa,

HS trả lời và GV định hướng. vấn đề miếng ăn là sinh mệnh,

* GV: Có ý kiến cho rằng:“ bao giờ ... cái hạnh phúc được Tràng đã sẵn sàng mời người phụ

thương yêu cũng quý hơn tất cả, ngay cả khi người ta tưởng nữ không quen biết bốn bát bánh

như không còn cần gì hơn là một miến cơm ăn“. Ý kiến của em đúc.

như thế nào? Câu hỏi nêu vấn đề. - Tràng chấp nhận người phụ nữ

* HS phát biểu tự do, GV định hướng và vấn đáp: Trong làm vợ.

truyện Kim Lân đã sử dụng những chi tiết rất đắt để miêu tả - Họ ngạc nhiên khi thấy Tràng

thay đổi trong tâm lí của Tràng khi có được hạnh phúc trong dẫn người đàn bà lạ về nhà.“Người

trong xóm là lắm. Họ đứng cả ra tay. Đó là những chi tiết nào? Tác dụng?

trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán“ * HS trả lời và GV định hướng:

- Họ vui mừng với Tràng * GV: Khi về đến nhà, phải chờ đợi mẹ về để giới thiệu với mẹ

- Họ cũng lo lắng cho Tràng về người vợ mới của mình, Tràng có biểu hiện khác ngày

=> thể hiện tình làng nghĩa xóm thường. Em hãy tìm những biểu hiện ấy và phấn tích điển biến

của những người cùng cảnh ngộ. tâm trạng của Tràng lúc này?

* HS trao đổi và Gv định hướng:

- Trên đường dẫn vợ về nhà, Tràng

vui mùng, vụng về:

+ Vẻ mặt phơn phơ khác thường * GV: Tâm trạng của Tràng trước những thay đổi hết sức đơn

+ Tràng rất hãnh diện khi đi bên giản của cuộc sống gia đình? Vì sao Tràng lại có tâm trạng đó?

cạnh người đàn bà với bản chất * HS trả lời và GV định hướng:

hồn nhiên, trong sáng, chất phát. * GV chuyển ý: Trong quá trình dẫn dắt câu chuyện từ bức

+ Đoạn đối thoại rời rạc, lúng tranh nạn đói 1945, tác giả đả để nhân vật xuất hiện xen giữa

túng, vụng về, cộc lốc, ngượng những câu văn miêu tả về đôi vợ chồng trẻ với cảnh sống dật

ngùng e thẹn dờ như những bóng ma, tiếng khóc hờ nĩ non trong đêm tân

+ Tràng bàng hoàng, cảm nhận hôn.... như càng khẳng định một điều: sự sống nãy sinh từ cái

hạnh phúc đang đến. chết, con người bắt đầu từ bóng ma đói dật dờ kia. Người đọc

+ Tràng cảm thấy mới mẻ, lạ lùng không ngạc nhiên khi thấy mở đầu bằng truyện là hình ảnh của

chưa từng có. buổi chiều chạng vạng, sáng không ra sáng, chỉ nhờ nhờ ấy

+ Cái chậc lưỡi của Tràng như đã xuất hiện hai nhân vật lầm lũi đi trên con đường khẳng khiu để

đánh cược cả cuộc đời cùng cái kết thúc là buổi sáng mai nắng vàng . Bóng tối đi qua, ánh sáng

đói, mong một cuộc sống tốt đẹp đã tràn vào căn nhà ọp ẹp của gia đình Tràng, tạo nên một sự

hơn dù có lúc tràng lại thấy chợ lại thay đổi mới mẻ, khác lạ. .“Bây giờ hắn mới thấy hắn nên

vì cảnh đói. người, hắn thấy hắn phải có bổn phận phải lo lắng cho vợ con

- Thậm chí khi hỏi thị hỏi, hắn trả sau này’’.

lời ngờ nghệch, ngây thơ:“ có một Nhóm 4. thảo luận 5 phút.

mình tôi, mấy u“. Ánh sáng ấy phải chăng là hình ảnh người đàn bà lạ mà

Tràng dẫn về nhà và gọi là “nhà tôi“? - Chi tiết Tràng khoe với thị chai

* Nhà văn Kim Lân đã miêu tả về nhân vật này như thế nào? dầu trong tay. Những chi tiết này

* HS trao đổi trả lời và Gv định hướng: tạo nên cảm giác vừa buồn cười,

vừa xúc động vừa cay đắng xót xa

trước sự thay đổi của một người

đàn ông thô kệch và chai sạn thành

người hiền lành.

*GV: Em hãy cho biết chuyển biến tâm lí của nhân vật người -Khi chờ mẹ về:

đạn bà không tên này khi nhận theo Tràng về nhà? Vì sao cô lại + Tràng xăm xăm bước vào nhà,

nhân lời theo Tràng? thu dọn nêu bát, sống áo vứt bừa

* HS trao đổi và GV định hướng. bãi.

Cái tâm trạng ngượng nghịu, cái dáng điệu khép nép khi ngồi ở + Tràng thấy sợ, ngượng nghịu,

đứng tây ngây giữa nhà một lúc. mép giường và tiếng chào u lúng búng...nhưng tỏ ra có chút

thất vọng về gia cảnh của Tràng.“ Túp nhà rách nát và rúm ró’’ + Tràng lấm lét ra sân, hết chạy ra

ngõ ngóng lại chạy vào sân nhìn

trộm vào.

+ Hắn cười một mình..., chưa tin là

mình đã có vợ“ Nhìn thị ngồi ngay

giũa nhà ..... có vợ rồi đấy ư?“

=>Tràng vừa mừng vừa lo, vừa

nôn nóng vừa như sợ. Tình cảm

đang xen lẫn lộn. Hạnh phúc đến

quá bất ngờ. * GV: Cảm nhận của em về những vẻ đẹp khuất lắp của người

- Trước những thay đổi của gia vợ nhặt này?

đình, Tràng thấy thắm thía và cảm * HS: trên cơ sở phân tích HS rút ra những vẻ đẹp của nhân vật

động, thương yêu và gắn bó với bày. GV định hướng cho HS.

gia đình hơn, thấy có bổn phận

với gia đình- Tràng thấy hạnh

phúc trong bữa ăn dù cái đói vẫn

đang hiện diện.

=> Tràng lấy vợ không nghiêm túc Nhóm 5. thảo luận 5 phút.

trong hình thức nưng rất nghiêm *GV chuyển ý: Câu chuyện như tăng thêm phần hấp dẫn khi

tác giả để nhân vật bà mẹ xuất hiện và giữa câu chuyện của đôi túc trong suy nghĩ, bổn phận và

vợ chồng trẻ. Trước sự việc xảy ra quá bất ngờ như vậy ,tâm trách nhiệm -> khát khao tổ ấm gia

đình hạnh phúc của Tràng thật cảm trạng của bà mẹ Tràng ra sao?

động. * HS trả lời và GV định hướng.

GV: Khi thấy người đàn bạ lạ ngồi trong nhà và chào bà bằng

u thì lúc bấy giờ tâm trạng bà cụ Tứ thế nào?

* HS trả lời và Gv định hướng:

“ Đứng sững và càng ngạc nhiên hơn.... bà quay lại nhìn con và

tỏ ý không hiểu “ khi người đàn bà lạ này chào bà bằng u.

* GV. Nhưng rồi khi hiểu ra cớ sự, thái độ của bà lão ra sao?

b. 2. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu Tại sao“ bà lão lại nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út.

cô vợ Tràng: Bà lão nghĩ đến cuộc đời khổ cực dài dằng dặc của mình“? Em

- Xuất hiện không tên tuổi, quê cảm nhận tâm trạng của người mẹ nghèo khổ luon lo lắng cho

quán, gốc tích, đói khát rách rưới - con được Kim Lân thể hiện như thế nào?

> Chị là hiện thân của hàng triệu *HS: “ Lòng người mẹ nghèo khổ ấy đã hiểu ra biết bao nhiêu

người bần cùng, đói rách tha cơ sự..“ ý thức được nghịch cảnh đầy éo le của cuộc hôn nhân.

phương vất vưởng kiếm ăn trong * HS trao đổi GV định hướng:

nạn đói 1945. * GV tại sao trong nổi lo âu, buồn tủi bà vẫn“ mừng lòng“?

- Cái đói đã làm cho chị quên đi sự * HS trả lời và GV định hướng.

ý tứ cần có của người phụ nữ, trở

nên trơ trẽ sống sượng khi gợi ý

Tràng để được ắn liền một mạch

“bốn bát bánh đúc“.

- Liều lĩnh , nhắm mắt đưa chân

khi theo về làm Vợ Tràng * GV: Từ nổi buồn tủi, lo lắng của người mẹ nghèo, qua một

- Chị cần có một chổ dựa, một đêm trời sáng, mọi việc đã thay đổi. Theo em, chi tiết nào trong

miếng ăn để tồn tại, cần một mái truyện thể hiện sự thay đổi này? Ý nghĩa?

ấm gia đình. * HS trả lời Gv định hướng:

- Đôi mắt tư lự, bở ngỡ khi đặt Trong bữa cơm đạm bạc nấu bằng cám, bà lão nói: “ toàn

chân trên con đường mới, lo lắng chuyện sung sướng về hạnh phúc sau này“ để động viên hai

và đầy ngượng nghịu. con.

- Chị đảm đang khi dọn dẹp nhà

cửa.

- Bình thản trong bửa ăn tối.

- Hiểu biết rộng khi thông tin cho

GV: Nhận xét của em về thái độ của nhà văn Kim Lân dành Tràng .

cho bà cụ Tứ? =>Nếu trước kia chị cong cớn, trơ

* HS tranh luận, Gv định hướng. trẽn bấy nhiêu thì bây giờ thì e de,

ngượng nghịu bấy nhiêu. Chị ý

thức được bổn phận và trách

nhiệm.

- Một số vẻ đẹp khuất tiêu biểu:

* GV : Em hãy nêu những đặc sắc nghệ thuật của truyện ngắn + Phí sau tình cảnh trôi dạt, vất

này? vưởng là một lòng ham sống mãnh

* HS trình bày và GV định hướng: liệt.

+ Phía sau vẻ nhếch nhác, dơ dáng

lại là một người biết ý tứ, biết

điều.

+ Bên trong vẻ chao chát, chỏng

lỏn, lại là một người phụ nữ hiền

lành, đúng mực, biết lo toan.

b.3. Hướng dẫn học sinh tìm hiểu

nhân vật bà cụ Tứ:

Hoạt động 3. hướng dẫn tổng kết. Là nhân vật xuất hiện muộn

*GV : Em hãy nêu chủ đề truyện? Giá trị nội dung và nghệ nhất nhưng để lại ấn tượng sâu sắc

thuật của truyện? nhất trong lòng bạn đọc.

* HS trả lời và GV định hướng ghi nhớ trong sách giáo khoa. - Bà lão là người lao động nghèo,

- Truyện không chỉ miêu tả tình cảnh thê thảm của người lam lũ nhưng rất giàu tình thương.

nông dân nước ta trong nạn đói khủng khiêp 1945, thể hiện - Bà rất ngạc nhiên và tỏ ý không

tinh thần nhân đạo sâu săc, cách nhìn mới của nhà văn về cuộc hiểu.

sống của người lao động. - Bà nghĩ đến quá khứ cay đắng,

khổ cực, nỗi lo lắng của một con

người suốt đời đã gánh nặng khổ

cực . Bà lão xót xa cho số kiếp của

con trai.

- Tâm trang vừa mừng vừa lo, vừa

buồn vừa tủi của bà lão trước số

phận nghèo khổ của con trai..Bà

thương cảm cho con dâu bằng tấm

lòng của người phụ nữ từng chịu

cảnh cơ hàn, nghèo đói.

- Bà tủi hờn cho thâmn mình vì đã

chưa làm tròn bổn phận cho con.

- Bà mừng vì con lấy được vợ

nhưng lo lắng không biết chúng nó

có vượt qua cơn đói khát này

không.

- Bà khổ tâm ao ước có được dăm

ba măm thì phải ..., nhưng nhà

nghèo...

- Bà ân cần với con, khuyên con

giữ đạo vợ chồng.

- Bà hy vọng vào tương lai

Bà lão vui mừng trước cảnh gia

đình đầm ấm:

- Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm,

tươi tỉnh khác ngày thường. Cái

mặt bun beo u ám ngày thường

rạng rỡ hẵn lên.

- Bà cùng con dâu quét dọn nhà

cửa sạch sẽ.

- Nói toàn chuyện vui, chuyện

tương lai hạnh phúc Khi phải ăn

cám bà vẫn khen ngon đáo để. .

=>Kim Lân đã dành trọn tình

cảm yêu mến , kính trọng khi đễn

tả rất chấn thật và cảm động hình

ảnh bà cụ Tứ: chất phát, nhân hậu,

giàu tình mẫu tử, ý thức trách

nhiệm với con, hy vong vướt qua

số phận nghiệt ngã hướng đến

tương lai.

5. Giá trị nghệ thuật.

- Tình huống truyện độc đáo, giàu

ý nghĩa, làm nổi bật tư tưởng tác

phẩm.

- Trần thuật tự nhên, hấp dẫn;

dựng truyện đơn giản nhưng chặt

chẽ; miêu tả tâm lí nhân vật tinh

tế, chân thật, cảm động.

- Giọng văn mộc mạc, giản dị,

ngôn ngữ khẩu ngữ nhưng có sự

chọn lọc.

III. Hướng dẫn học sinh tổng kết.

- Niềm khát khao hạnh phúc gia

đình và niềm tin bất diệt của con

người lao động nghèo đối với cuộc

sống và tương lai.

- Tình huống truyện độc đáo, cách

kể, tả tâm lí nhân vật tinh tế, đối

thoại sinh động.

4.Hướng dẫn học sinh củng cố kiến thức, dặn dò chuẩn bị

- Học và đọc tác phẩm, tóm tắt lại truyện. Học thuộc nội dung bài.

- Phân tích hoàn cảnh và tâm trạng các nhân vật Tràng, vợ Tràng và bà cụ Tứ để làm rõ giá trị

hiện thực và nhân đạo của tác phẩm?

- Vẻ đẹp khuất lắp của người vợ nhặt trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân ?

- Những đặc sắc về nghệ thuật của truyện?

+ HS chuẩn bị soạn bài dựa vào hệ thống câu hỏi trong SGK và phiếu học tập( Work Sheets) mà Gv

cung cấp cho HS.

3.4. Đánh giá kết quả thực nghiệm.

Sau khi tiến hành các tiết dạy học thực nghiệm, chúng tôi kiểm tra kết quả học tập của HS bằng

hình thức :

Kiểm tra viết 15 phút cho cả hai bài.

3.4.1. Kết quả thực nghiệm

3.4.1.1. Kết quả trước khi thực nghiệm của lớp chọn thực nghiệm và lớp đối chứng.

KẾT QUẢ KIỂM TRA HKI NĂM HỌC 2009-2010 THPT HOÀNG VĂN THỤ

LỚPTN TS GIỎI KHÁ TB YẾU KÉM TS>5 %

12A1 49/23 3 11 27 6 41 83.67 2

12C2 44/33 1 8 27 7 36 81.82 1

12A2 48/19 1 4 26 14 31 64.58 3

12B1 40/23 3 25 10 28 70 2

LỚP ĐỐI CHỨNG

12C1 42/33 1 11 22 8 34 80.82

12D1 43/33 1 10 23 8 34 79.07 1

12D2 45/33 1 4 14 17 19 42.22 9

12A4 46/23 6 26 9 32 69.57 5

KẾT QUẢ KIỂM TRA HKI NĂM HỌC 2009- 2010 THPT TÂY NINH

LỚP TS GIỎI KHÁ TB YẾU KÉM TS>5 %

TN

12A2 45/33 3 30 7 5 40 88,8 0

12A4 46/34 1 20 15 10 36 78.2 0

LỚP ĐỐI CHỨNG

12A3 45/34 1 18 15 11 34 74.8 0

3.4.1.2 Kết quả sau khi tiến hành thực nghiệm HKII - năm học 2009- 2010.

LỚP TS GIỎI KHÁ TB YẾU KÉM TS>5 %

TN

12A1 49/23 5 46 93.8 20 21 3 0

12C2 44/33 2 40 90.9 20 18 4 0

12A2 48/19 3 46 95.8 10 33 2 0

12B1 40/23 1 34 85 13 20 6 0

LỚP ĐỐI CHỨNG

12C1 42/33 1 36 85.7 12 23 6

12D1 43/33 1 34 79.1 15 20 6 1

12D2 45/33 1 31 68.8 14 16 10 4

12A4 46/23 37 80.4 8 29 5 4

KẾT QUẢ KIỂM TRA HKII NĂM HỌC 2009- 2010 THPT TÂY NINH

LỚP TS GIỎI KHÁ TB YẾU KÉM TS>5 %

TN

1 0 12A2 45/33 4 33 7 44 96.8

3 0 12A4 46/34 3 26 14 43 93.5

5 0 12a3 45/34 2 20 18 40 88.8

3.4.2. Đánh giá kết quả

Do giới hạn về thời gian, việc tổ chức thực nghiệm chỉ được tiến hành ở 6 lớp với 2 giáo án,

tổng số tiết thực nghiệm của hai giáo viên ở hai trường là 34 tiết. Mặc dù trên cơ sở chọn những lớp

có kết quả học tập tương đương nhau ở HKI, nhưng trong quá trình thực nghiệm ít nhiều có sự chênh

lệch về chất lượng học tập. Qua thực nghiệm, dự giờ đồng nghiệp cùng với những góp ý của tổ chuyên

môn, chúng tôi đã có một số căn cứ để rút kinh nghiệm cho việc vận dụng hệ phương pháp vấn đáp,

đàm thoại và gợi tìm và đánh giá kết quả thực nghiệm như sau:

3.4.2.1. Đánh giá kết quả qua bài kiểm tra sau giờ học thực nghiệm

- Tỉ lệ HS TB, khá và giỏi ở lớp thực nghiệm cao hơn so với các bài ở lớp đối chứng.

- Tỉ lệ HS dưới TB và yếu kém giảm đi nhiều so với trước đó.

Kết quả của việc vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy học truyện

ngắn đã chú ý đến tính tích cực chủ động học tập của HS, phù hợp với tinh thần đổi mới phương

pháp.Thông qua hệ thống câu hỏi chuẩn bị bài bằng phiếu học tập ( Work Sheets), GV đã hướng dẫn

HS chuẩn bị tốt những vấn đề cho việc vấn đáp, đàm thoại. Hoạt động này diễn ra một cách song

phương giữa GV và HS trong quá trình lên lớp.

3.4.2.2. Đánh giá kết quả qua thực nghiệm, nghiên cứu, lấy ý kiến từ GV và HS sau giờ học thực nghiệm

3.4.2.2.1. Qua thực nghiệm và quan sát giờ học

* Nhận xét chung:

Hầu hết HS ở các lớp thực nghiệm đều trả lời khá chính xác hệ thống câu hỏi mà Gv đưa ra

trong phiếu học tập (Work Sheets). Trong đó có những câu HS trả lời với nhiều ý kiến khác nhau, thể

hiện cách tư duy độc lập trong quá trình vấn đáp, đàm thoại. HS thảo luận, đối thoại và tranh luận vấn

đề trở nên sôi nổi hơn giờ học bình thường. Tính tích cực của HS được phát huy tối đa, HS tự do phát

biểu ý kiến trình bày những cảm nhận riêng mang màu sác cá nhân rõ nét. Nhiều ý kiến hay và khá

chính xác. Bằng vấn đáp đàm thoại và gợi tìm, GV tạo cho lớp học một không khí đối thoại, tranh luận

công bằng, tự do tư tưởng, tự do bộc lộ, trao đổi trực tiếp những nhận thức của mình. Từ đó, HS dược

rèn luyện thói quen tự nhận thức, tự đối thoại để tìm tri thức.

* Cụ thể:

Bài Vợ chồng A Phủ:

- Lớp 12A1, HS chuẩn bị bài tương đối khá tốt các vấn đề mà GV hướng dẫn trước đó. HS trả

lời khá chính xác các câu hỏi mang tính chất tổng hợp, so sánh, khái quát. HS phát hiện khá nhanh

những chi tiết miêu tả về nhân vật Mị, A Phủ cũng như những cảm nhận của bản thân về hai nhân vật

này. Phần trả lời về những đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích ( chỉ có 4 HS đưa tay) nhưng khi được chỉ

định thì HS trả lời tương đối đầy đủ.

- Lớp 12A2, HS sử dụng tương đối hiệu quả phiếu chuẩn bị bài. Bằng hệ thống câu hỏi gợi tìm,

GV đã dẫn dắt HS tham gia đàm thoại phần tìm hiểu về nhân vật Mị một cách có hiệu quả. HS có

những nhận định đúng về nhân vật Mị và A Phủ. Tuy nhiên, HS chưa trả lời tốt loại câu hỏi mang tính

khái quát, so sánh và tổng hợp. Với loại câu hỏi này, GV đã phải dùng biện pháp gợi mở, diễn giảng

nhiều thì lúc đó HS mới có thể trả lời được câu hỏi.

- Lớp 12 C2, HS sử dụng phiếu học tập tốt, HS trả lời tốt hệ thống câu hỏi gợi tìm khi tìm hiểu

về nhân vật Mị, về đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích. Có HS tỏ ra lung túng trong cách diễn đạt, cảm

nhận về nhân vật còn chung chung. Tuy nhiên, hầu hết HS cảm nhận đúng về sức sống tiềm tàng của

Mị trong đêm tình mùa xuân và hành động cởi trói cho A Phủ. Đặc biệt HS trả lời khá chính xác câu

hỏi so sánh để tìm những nét tương đồng và khác biệt về hoàn cảnh và số phận nhân vật Mi, A Phủ

cũng như giá trị hiện thực và nhân đạo của đoạn trích.

- Lớp 12B1, Phiếu học tập được HS chuẩn bị chưa tốt, HS mạnh dạn trao đổi ý kiến của mình

khi tìm hiểu về nhân vật Mị, A Phủ. Phần tìm hiểu về giá trị hiện thực và nhân đạo của đoạn trích, HS

tỏ ra khá lúng túng trong trả lời,( chỉ có 3HS đưa tay), khi được chỉ định thì HS chỉ trả lời được 50%

yêu cầu câu hỏi. Ở lớp này, GV phải dùng biện pháp gợi mở để dẫn dắt HS tìm hiểu nội dung bài học.

Việc đàm thoại giữa Gv và HS diễn ra không dược thuận lợi, HS chưa có sự chuẩn bị bài tốt ở nhà.

Bài Vợ nhặt

- Lớp12A1, HS chuẫn bị tốt phiếu học tập, HS trả lời khá chính xác hệ thống câu hỏi trong quá

trình lên lớp của GV. Trong đó có những HS trả lời mang màu sắc cảm nhận rõ nét, có những nhận

định hay về nhân vật Vợ nhặt, bà cụ Tứ, về Tràng. Với câu hỏi so sánh, khái quát, HS trả lới khá

nhanh và chính xác:Trong số những nhân vật (Tràng, Vợ Nhặt, bà cụ Tứ) theo em ai là nhân vật đáng

thương nhất, tội nghiệp nhất? Vì sao?). Phần tìm hiểu về nghệ thuật của truyện, HS đã trình bày khá

chi tiết những đặc sắc của tác phẩm.

- Lớp 12A 2, phiếu chuẩn bị bài được HS sử dụng tương đối tốt. Quá trình đàm thoại dược diễn

ra một cách thuận lợi, GV sự dụng hệ thống câu hỏi gợi tìm một cách chi tiết giúp HS tìm hiểu bức

tranh nạn đói 1945, cuộc đời và số phận của nhân vật Tràng, người vợ nhặt, bà cụ Tứ. HS cảm nhận

được giá trị hiện thực và nhân đạo qua tác phẩm, những phẩm chất tốt đẹp của người lao động nghèo.

Tuy nhiên, phần tìm hiểu về nghệ thuật HS trả lời còn lúng túng, chưa chính xác về tình huống truyện,

ý nghĩa của tình huống này.

- Lớp 12B1, HS chuẩn bị phiếu học tập tương đối dầy đủ, trả lời câu hỏi tương đối chính xác.

Dặc biệt là câu hỏi về tình huống truyện, ý nghĩa nhan đề của truyện, về diễn biến tâm trạng của nhân

vật Tràng, bà cụ Tứ. Tuy nhiên phần tìm hiểu về vẻ đẹp khuất lấp của nhân vật Vợ nhặt thì HS trả lời

chưa đầy đủ, chỉ có 2 HS đưa tay.

- Lớp 12C2, HS trả lời tương đối tốt các câu hỏi khi tìm hiểu về diễn biến tâm trạng Tràng, bà

cụ Tứ và người Vợ nhặt. Tuy nhiên phần tìm hiểu về tình huống truyện, HS trả lời còn chung chung

cũng như chưa nêu đúng được ý nghĩa nhan đề của truyện. phần nghệ tuật, HS trả lời tương đối chính

xác.

3.4.2.2.2 Quan khảo sát lấy ý kiến GV và HS:

* Qua khảo sát lấy ý kiến giáo viên:

Qua khảo sát lấy ý kiến của 50 giáo viên ở 4 trường THPT trong tỉnh Tây Ninh với kết quả như

sau:

Hầu hết Gv thừa nhận sử dụng phiếu học tập để giao việc cho HS chuẩn bị bài là có hiệu quả,

phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp, phát huy tính tích cực tự học của HS dưới sự hướng dẫn

của giáo viên. Để có sự đổi mới thực sự trong cách thức tổ chức hoạt động dạy học văn nói chung và

dạy học truyện ngắn nói riêng thì trước hết phải thay đổi cách thức bồi dưỡng thường xuyên, đổi mới

chuẩn đánh giá giờ học theo hướng không đòi hỏi phải dạy đủ, dạy hết bài mà chủ yếu dạy cho HS biết

cách đọc văn bản, cách tiếp cận văn bản, biết cảm thụ và lý giải được những vấn đề dặt ra trong tác

phẩm. từ đó HS có thể vận dụng tốt những kiến thức phần đọc văn phục vụ cho phần làm văn một cách

có phương pháp, có sức thuyết phuc. Muốn vậy thì vai trò của Gv trong hướng dẫn HS chuẩn bị bài là

rất quan trọng, trong đó cốt lõi vẫn là xây dựng hệ thống câu hỏi trong phiếu học tập cho HS trên cơ sở

hệ thống câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị trong SGK. Đa số Gv điều cho rằng hệ thống câu hỏi trong SGK

còn mang tính khái quát cao, vì thế chưa phát huy hết được tính tự học của HS trong chuẩn bị bài. HS

không thể tự mình trả lời theo hệ thống câu hỏi này. Vì thế, ngoài hệ thống câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị

học bài trong SGk còn tồn tại hệ thống câu hỏi trong giáo án của Gv khi lên lớp. Làm thế nào để xây

dựng hệ thống câu hỏi dẫn dắt đúng và trúng vấn đề trung tâm của bài học hiện là mối quan tâm hàng

dầu của GV. Hơn nữa, khi lên lớp người Gv phải vận dụng phối hợp nhiều phương pháp, biện pháp,

hình thức tổ chức dạy học nhầm phát huy khả năng của HS và tránh sự nhàm chán của HS trong giờ

học. Hoạt động dạy và học của HS phải được tiến hành đồng bộ, nhịp nhàng, cân đối, khi ấy hiệu quả

của giờ dạy mới được nâng cao. Qua khảo sát cũng cho thấy rằng hầu hết Gv ngại cho HS đàm thoại vì

cho rằng mất nhiều thời gian, việc tổ chúc cho HS vấn đáp, đàm thoại đòi hỏi sự chuẩn bị của cả thầy

và trò thật công phu, kĩ lưỡng.

* Qua khảo sát lấy ý kiến học sinh:

Qua khảo sát lấy ý kiến của 500 lớp 12 ở hai trường THPT Hoàng Văn Thụ - Châu Thành và

trường THPT Tây Ninh – tỉnh Tây Ninh với kết quả như sau:

Thứ nhất: Hầu hết HS đều gập khó khăn trong quá trình học truyện ngắn. Trong đó, HS thừa

nhận rằng hệ thống câu hỏi hướng dẩn chuẩn bị bài trong SGK rất khó trả lời, mang tính khái quát cao,

ít câu hỏi gợi mở, tìm tòi. HS thích được Gv cung cấp hệ thống câu hỏi chi tiết hướng dẩn HS tìm hiểu

từng vấn đề trong tác phẩm thông qua phiếu học tập. HS thích được làm việc theo nhóm, ở đó HS

dược thổ lộ với bạn cùng lứa những suy nghĩ của mình và của bạn vừa tầm với nhau, đồng thời HS

thích được giáo viên động viên, tôn trọng ý kiến sau khi nhóm trả lời đúng. 100% HS thừa nhận hệ

thống câu hỏi vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm đã giúp HS tiếp cận tác phẩm một cách hiệu quả. Với hệ

thống câu hỏi mà Gv đưa ra đã có tác dụng dẫn dắt HS phát hiện tìm tòi, phân tích cắt nghĩa và đánh

giá giá trị tác phẩm. Việc thảo luận nhóm, theo HS tối đa là 8 người ( tương đương với hai bàn học

trong lớp). Tuy nhiên theo các em, vẫn còn có những hạn chế nhất định trong việc học truyện ngắn:

thiếu vốn từ do diễn đạt, thiếu tự tin khi tham gia vấn đáp, đàm thoại trong quá trình giao tiếp, khả

năng phát hiện và giải quyết vấn đề còn chậm, chưa trả lời chính xác các câu hỏi mà Gv đưa ra.

Thứ 2: Việc chuẩn bị bài của HS ở nhà chưa được phát huy có hiệu quả trong những giở lên

lớp. Những gì GV đặt ra trong giờ học HS ít được hưởng ứng vì thấy còn xa lạ với những gì mình

chuẩn bị ở nhà. Do vậy, HS khi được chỉ định HS trả lời lúng túng, thiếu sự đồng cảm. Nguyên nhân

này xuất phát từ việc hướng dẫn chuẩn bị bài của GV trong SGK và giáo án khi lên lớp được GV vận

dung khai thác khá ít,. Mối quan hệ giữa hệ thống câu hỏi trong SGK Ngữ văn và các câu hỏi lên lớp

trong giờ giảng của Gv là lỏng lẻo, ít hổ trợ cho nhau, HS thì chuẩn bị một đằng, GV hỏi theo một

nẻo, làm hạn chế tính tích cực của HS trong chuẩn bị bài ở nhà.

2.4. Những vấn đề giải quyết rút ra từ việc dạy truyện ngắn.

Những năm gần đây, nhờ thực hiện đổi mới phương pháp day học trong nhà trường, từng bước

hoàn thiện chương trình cũng như mục đích, nhiệm vụ đào tạo, chúng ta đã khắc phục được tình trạng

dạy học theo lối truyền thụ một chiều, từ đó phát huy được tính tích cực chủ động của HS. Không khí

giờ học trở nên sinh động, hứng thú hơn, HS có điều kiện trình bày những suy nghĩ của bản thân về bài

học như một bạn đọc thực sự. Từ sự vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy

học truyện ngắn 1945- 1975, chúng tôi rút ra một số vấn đề sau:

Những ưu điểm:

Thứ nhất: Thừa nhận hệ phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm là một trong những phương

pháp dạy học tích cực đang được Gv vận dụng khá phổ biến trong nhà trường phô thông hiện nay.

Phương pháp này có tác dụng:

- Kích thích tính tích cực, độc lập sáng tạo trong học tập của HS

- Bồi dưỡng cho HS năng lực diễn đạt những vấn đề học tập bằng lời.

- Giúp GV thu thập thông tin từ phía HS để kịp thời điều chỉnh hoạt động dạy học.

- Tạo không khí học tập sôi nổi trong giờ học. HS được trực tiếp bày tỏ chính kiến của bản thân

đối với vấn đề mà Gv đưa ra.

Thứ 2: Nhìn chung hệ thống câu hỏi mà GV đưa ra đã tập trung vào những vấn đề cơ bản, làm

sáng tỏ cái hay cái đẹp về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm; đã chú ý đến việchình thành các kĩ

năng văn học cần thiết cho HS. Hệ thống câu hỏi hướng dẫn chuẩn bị bài ở nhà được HS vận dụng khá

triệt để vào hệ thống câu hỏi trong giáo án của Gv khi lên lớp cũng như hệ thống câu hỏi trên lớp sẽ

được làm sáng tỏ các câu hỏi mà HS chuẩn bị ở nhà. Một số câu hỏi trong SGK đã được Gv vận dụng

trong giáo án khi lên lớp của Gv, phần lớn câu hỏi được cấu tạo dưới một dạng thức khác nhưng vẫn

tập trung làm sáng tỏ cho các câu hỏi mà HS đã chuẩn bi ở nhà.

Vấn đề đặt ra ở đây là hệ thống câu hỏi biên soạn cho HS trong SGK Ngữ văn là một vấn đề hết

sức quan trọng, câu hỏi đó phải buộc HS khởi động tư duy, kích thích suy nghĩ, tìm tòi và sáng tạo.

Câu hỏi đó phải giúp cho HS tiếp nhận một cách chủ động, tích cực. Vì thế, việc xây dựng một hệ

thống câu hỏi hướng dẫn HS tìm hiểu, chuẩn bị bài ở nhà là cần thiết như ng cần phải bám sát đối

tượng. Từ trước tới nay, vấn đề câu hỏi dường như chủ yếu mới chỉ giúp người Gv hình thành những kĩ

năng và phương pháp khi dạy học tác phẩm trên lớp. Hệ thống này hướng tới GV mà ít hướng tới

người học. Nó có tác dụng giúp các em độc lập suy nghĩ, tìm hiểu ở nhà. Đúng ra là hệ thống câu hỏi

lên lớp của Gv trong giờ học phải tập trung là sáng tỏ vấn đề đã dược đặt ra qua hệ thống câu hỏi trong

SGK mà HS đa chuẩn bị, giúp các em cảm thụ đúng hơn những gì mình đã chuẩn bị ở nhà. Nghĩa là

sau khi chuẩn bị những gì ở nhà thì HS có thể tự mình thâm nhập và nắm tác phẩm một cách cơ bản

theo tầm đón nhận của các em. Quá trình học trên lớp chỉ là sự điều chỉnh, bổ sung trao đổi với bạn bè

và GV để khẳng định và củng cố thêm cho ách hiểu, cách cảm của chính HS chứ không phải là đến lớp

để nghe GV trình bày cách hiểu của thầy về tác phẩm. Việc xây dựng hệ thống câu hỏi khi lên lớp cho

dù với phương pháp dạy học nào thì cũng đều phải dựa trên những vấn đề cơ bản đã đặt ra ở những câu

hỏi mà HS đã chuẩn bị ở nhà ( dù là trong SGK hay là Gv cung cấp). Tránh tình trạng hai hệ thống câu

hỏi này không liên quan gì nhau. Thực tiễn dạy học và các tài liệu giảng dạy bộ môn cho thấy, vấn đề

câu hỏi trong giờ dạy học văn được nghiên cứu khá phong phú và tận dụng có hiệu quả, trong khi đó hệ

thống câu hỏi trong SGK Ngữ văn cho HS thì ít được chú ý đúng mức.

Thứ 3: Sách giáo khoa Ngữ văn mới là một thành tựu rất nổi bật và quan trọng của giai đoan

hiện nay. Nó đã tạo ra một bước tiến khá xa trên nhiều phương diện so với SGK trước đó. Các tác giả

biên soạn đã chú ý tới vấn đề hệ thống câu hỏi giúp HS chuẩn bị bài, nhưng nhìn chung vẫn còn chưa

chú ý đúng mức, thực tế khảo sát lấy ý kiến Gv lẫn HS đều cho rằng hệ thống câu hỏi này còn mang

tính khái quát cao, HS không thể tự mình trả lời được, chưa kích thích được tính tích cực, chủ động tự

học của HS.

Thứ 4: Một vấn đề nữa đặt ra là giữa hệ thống câu hỏi trong SGK và trong giáo án của Gv khi

lên lớp, sự chuẩn bị bài ở nhà của HS phải có sự thống nhất, quan hệ chặt chẽ với nhau thì khi ấy giờ

học vấn đáp, đàm thoại mới diễn ra một cách có hiệu quả. Tránh tình trạng HS chuẩn bị bài một đằng,

GV lên lớp nêu câu hỏi một nẻo, không liên quan gì đến nhau. Và như vậy, giờ học sẽ trở nên căng

thẳng, GV phát vấn, HS im lặng. những gì HS chuẩn bị ở nhà không được cọ xát, trao đổi, phương

pháp dạy học văn trở nên đơn điệu, HS nhàm chán, hiệu quả không cao.

Thứ 5: Đa dạng hóa các loại câu hỏi và hình thức tổ chức dạy học trong qua trình lên lớp, tránh

tình trạng gây nhàm chán cho HS. Một điều rất quan trọng là khi đặc câu hỏi phải chú ý đến đối tượng

HS ở từng lớp. Đối với HS lớp có mặt bằng kiến thức khá, giỏi( lớp chọn) thì ngoài hệ thống câu hỏi

gợi tìm cần tằng cường vận dụng những loại câu hỏi khái quát, tổng hợp, so sánh, phát biểu ý kiến, nêu

cảm nhận, nhận định và đánh giá vấn đề để nâng cao dần năng lực cảm thụ của bản thân HS. Đối với

những lớp trung bình, yếu thì chúng ta tăng cường vận dung hệ thống câu hỏi tái hiện, tái tạo, gợi tìm,

liên tưởng dẫn dắt HS từng bước khám phá cái hay cái đẹp của tác phẩm; đối với những loại câu hỏi so

sánh, khái quát, tổng hợp, phát biểu cảm nhận thì vận dụng ở mức độ vừa phải, khi đó quá trình vấn

đáp, đàm thoại mới diễn ra một cách thuận lợi.

Những hạn chế:

: Thứ nhất: Nếu người giáo viên chưa có nghệ thuật tổ chức, điều khiển phương pháp vấn đáp,

đàm thoại và gợi tìm thì dễ làm mất thời gian, ảnh hưởng tới việc thực hiện kế hoạch bài học. Vì thời

lượng trên lớp chỉ có 45 phút

Thứ hai:Có thể biến đàm thoại thành cuộc tranh luận giữa GV và học sinh, giữa các thành viên

của lớp với nhau nếu Gv không tổ chức, điều khiển hợp lý cũng như ứng phó những tình huống mà HS

đi chệch hướng so với ý định ban dầu của GV trong qua trình lên lớp.

Thứ ba: để xây dựng hệ thống câu hỏi thât tốt, có liên quan chặt chẽ với nhau, câu hỏi trước là

tiền đề cho câu hỏi sau, câu hỏi sau là sự kế tục và phát triển kết quả của câu hỏi trước. Mỗi câu hỏi là

một cái “nút” của từng bộ phận mà HS cần lần lượt tháo gỡ thì mới được kết quả cuối cùng đây là diều

không dễ dàng đối với tất cả giáo viên.

Thứ tư: Để tăng thêm hiệu quả của việc sử dụng phương pháp vấn đáp,đàm thoại và gợi tìm, GV

cần tổ chức đối thoại theo nhiều chiều: GV - HS, HS - HS; và HS - GV. Điều này còn phụ thuộc rất lớn

vào năng lực của giáo viên và trình độ tiếp nhận của HS.

Hướng khắc phục:

Để phát huy tính tích cục chủ động của HS trong quá trình tham gia vấn đáp , đàm thoại và gợi

tìm, giáo viên cần phát huy những ưu điểm của hệ phương pháp này đồng thời cần khắc phục những

hạn chế đã nêu. Qua thực nghiệm, chúng tôi đưa ra một số biện pháp khắc phuc như sau:

Thứ nhất: Kĩ năng dẫn nhập và kết thúc của Gv trong quá trình lên lớp:

Kĩ năng này có vai trò kích thích sự ham muốn hiểu biết, hứng thú ở HS không chỉ có lợi cho

việc hoc một bài mà còn bồi dưỡng tinh thần tự giác học tập cho HS. Kết thúc bài học không chỉ là sự

tổng kết, quy nạp những kiến thúc đã hoc mà còn tạo dư âm không dứt, kéo dài và có mở rộng, liên hệ

thực tiễn nhằm khơi gợi sự suy nghĩ của HS.

Thứ hai: Kĩ năng Ngôn ngữ dẫn nhập và Kĩ năng nâng cao hiệu quả học tập:

GV phải luôn làm mới minh, tránh nhạt nhẽ, nhàm chán, rập khuôn; thái độ vừ nghiêm trang

vừa vui đùa vừa độ, tránh dung tục. Lời nói ngắn gọn và súc tích tránh dài dòng nặng nề thể hiện được

tình cảm, cảm xúc trong giờ lên lớp. Làm được những điều ấy sẽ có tác dụng tạo dựng không khí bình

đẳng, dân chủ trong quá trình đàm thoại. Qua đàm thoại, Gv có thể nắm bắt dược những thông tin

phản hồi từ HS để từ đó Gv c tự điều chỉnh hanh vi và hoat động của mình cho phù hợp.

Thứ 3: Kĩ năng giảng giải và nêu vấn đề:

Gv phải biết cách kết hợp tối ưu vai trò chủ đạo của mình với tính chủ động học tập của HS,

giữa hệ thống kiến thức bài học với tầm đón nhận của HS; kết hợp tối ưu giữa việc nắm vững tri thức

đẵ chuẩn bị ở nhà của GV và HS với khả năng tư duy, tranh luận bày tỏ quan điểm trên lớp một cách

hiệu qủa; kết hợp tối ưu các phương pháp dạy và học một cách có hiệu quả, phù hợp với năng lực và

đối tượng cụ thể. Biết dược dâu là vấn đề cần nêu nhầm tập trung sự chú ý, kích thích thắc mắc, gợi suy

nghĩ của HS trong tham gia xây dựng bài.Thực hiện tốt các yêu cầu trên, Gv sẽ dẫn dắt HS đến với

trạng thái tinh thần tốt nhất trong học tập.

Những kiến nghị:

Hiện nay vấn đề đổi mới phương pháp dạy học nói chung và dạy học Ngữ văn nói riêng trong

nhà trường phổ thông là vấn đề bức xúc, đòi hỏi cuộc cách mạng thực sự. Đây là vấn đề hết sức khó

khăn và phức tạp, chúng tôi cho rằng: cần có một quan điểm chung, thống nhất về những tiêu chí,

nguyên tắc, mục đích, các dạng và loại câu hỏi cho mỗi lớp, mỗi đối tượng cụ thể khác nhau. Tức là

cần chú ý tới sự phân hóa năng lực của HS trong việc đề ra hệ thống câu hỏi hướng dẫn HS chuẩn bị

tốt bài học ở nhà và giúp Gv thực hiện có hiệu quả hơn trong giờ giảng trên lớp của GV.

Từ hệ thống câu hỏi trong SGK đến hệ thống câu hỏi trong giáo án lên lớp của Gv phải và sự

chuẩn bị của HS phải có sự thống nhất và liên quan mật thiết với nhau. Tránh tình trạng mạnh ai nấy

xây dựng hệ thống câu hỏi mà không chú ý đến hiệu quả, chất lượng của từng câu hỏi.Có như thế giờ

học mới phát huy có hiệu quả.

GV cần phải quán triệt tinh thần, mục tiêu của việc đổi mới phuong pháp dạy học hiện nay.

Theo đó, Gv là người thiết kế, tổ chức hướng dẫn HS thực hiện các hoạt động học tập với nhiều hình

thức đa dạng, phong phú, có sức hấp dẫn người học, phù hợp với đặc trưng bài học và trình độ HS, với

điều kiện cụ thể của từng lớp học. do đó cần phải có sự vận dung kết hợp các phương pháp truyền

thống và hiện đại một cách phù hợp. không được tuyệt đối hóa bất kì một phương pháp dạy học.

Phương thức kiểm tra, đánh giá kết quả học tập của HS và cách đánh giá hiệu quả giờ dạy của

Gv cũng cần được thay đổi. Đa dạng hóa các hình thức kiểm tra theo tinh thần phát huy tính tích cục

của HS. Đề kiểm ta phải phân loại được HS, đánh giá được mức độ tiếp nhận của HS.

Kết luận

Xuất phát từ thực tế dạy học môn Ngữ văn, từ những cơ sở lí luận dạy học trong nhà trường

phô thông, luận văn đã đề cập đến vấn đề đổi mới phương pháp dạy học trên tinh thần đổi mới. Sau khi

hoàn thành thực nghiệm luận văn nghiên cứu đề tài: “ Vận dụng hệ phương pháp vấn đáp, dàm thoại

và gợi tìm trong dạy học truyện ngắn Vợ chồng A Phủ và Vợ nhặt chương trình Ngữ văn 12” ( chương

trình cơ bản), người viết rút ra những kết luận sau:

Luận văn đặt vấn đề vận dụng phương pháp vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm trong dạy học truyện

ngắn giai đoạn 1945-1975 ở lớp 12 ( chương trình chuẩn) là phù hợp với yêu cầu đổi mới phương pháp

dạy học nói chung và phù hợp với yêu cầu bộ môn nói riêng. Bằng vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm đã

phát huy được tính tích cực chủ động của người học, chống lại thói quen học tập thụ động, khắc phục

được lối dạy học truyền thống truyền thụ kiến thức một chiều từ GV. HS được trực tiếp tham gia tranh

luận, trao đổi , đối thoại với bạn bè và với cả Gv trong qúa trình tìm hiểu tác phẩm. Vấn đáp, đàm

thoại là con đường hướng tới đối thoại trong dạy học văn hiện nay, là một phương pháp nổi bật không

có phương pháp dạy học nào thay thế được.

Từ những vấn đề về mặt lý luận mà luận văn đề cập, giúp chúng tôi chủ động trong việc vận

dung phương pháp dạy học theo hướng tích cực nhằm phát huy tính chủ động , tích cực tiếp thu bài

của HS, tìm kiếm và xây dựng một hệ thống câu hỏi thiết thực và chuẩn xác; đưa ra những loại câu hỏi

phù hợp hơn đối với trình độ và khả năng của từng lớp, tạo điều kiện cho HS tham gia trao đổi, tranh

luận và bảo vệ chính kiến của mình. Ngoài những vấn đề lý luận về phương pháp dạy học, luận văn đã

cố gắng xây dựng được một hệ thống câu hỏi, cách thức tổ chứa giờ học vấn đáp, đàm thoại và gợi tìm

giúp HS tiếp cận đúng và trúng vấn đề trọng tâm của bài học.

Trong quá trình nghiên cứu và thực hiện đề tài, bằng thực tiễn dạy học và lí luận dạy học, người

viết mong muốn đóng góp những hiểu biết của bản thân vào đổi mới phương pháp dạy học. Những kết

quả mà thực nghiệm thu được đã cho phép chúng tôi một lần nữa khẳng định phương pháp vấn đáp,

đàm thoại và gợi tìm là một trong những phương pháp nằm trong hệ thống phương pháp giáo dục tích

cực mà BGD - ĐT đang triển khai cho GV THPT thực hiện đã mang lại hiệu quả thiết thực trong quá

trình dạy học Ngữ văn. Tuy nhiên, chúng ta không được tuyêt đối hóa bất kì một phương pháp dạy học

nào, còn vận dụng nó như thế nào là tùy vào đối tượng HS, đặc điểm bài học và sở trường của GV.

Từ thực tế thực hiện đề tài này, chúng tôi phân ra ba dạng HS như sau:

- Dạng thứ nhất:

+HS lười phát biểu do mất kiến thức cơ bản. Dạng này thể hiện rõ nhất qua các giờ hoc trên lớp,

qua các bài kiểm tra, qua qúa trình tham gia vấn đáp, đàm thoại, hầu như các em này chưa phân biệt

được đâu là vấn đề trọng tâm cần trao đổi, cần khai thác. Do vậy, đối với dạng HS này, chúng ta cần

có kế hoạch phụ đạo hàng tuần, có sự kiểm tra, đánh giá bằng hệ thống câu hỏi, bài tập thông qua chủ

đề bám sát, nhằm vào việc ôn luyện kiến thức đã học. Trong giờ chính khóa GV cũng cần có loại câu

hỏi dành riêng cho đối tượng này một cách thích hợp.

+HS lười phát biểu, tham gia tranh luận do chưa ý thức được việc học của mình, thiếu sự quan tâm

đồng bộ từ phía GV - phụ huynh và các đoàn thể. Đối với dạng này, Gv cần phải phối hợp đồng bộ,

chặt chẽ ba luc luong nay đồng thời phải gần gũi HS hơn, khuyến khích các em thấy được tầm quan

trong của môn học. GV vừa là người thầy vừa là người anh hướng dẫn các em tích cực tham gia xây

dựng bài thông qua hoạt động trên lớp. Cần có những lời động viên chân thành, nhẹ nhàng đối với các

em.

-Dạng thứ 2: Những HS thu động, không tự tin phát biểu ý kiến, chưa làm chủ được kiến thức của

mình, còn sợ sai.

+Nguyên nhân chính: Do bản chất HS còn thụ động, rụt rè, nhút nhát, chưa mạnh dạng phát biểu

tham gia tranh luận. Đối với dạng này,GV cần phải tăng cường gọi các em thường xuyên phát biểu.

Sau mỗi lần phát biểu, Gv phải có những lời động viên, nhận xét , dánh giá khuyến khích kịp thời để

động viên tinh thần cho các em.

- Dạng thứ ba: những HS tích cục phát biểu, tham gia tranh luận sôi nổi, đây là những HS có mặt bằng

kiến thức trung bình trở lên. Các em khá năng động trong vấn đáp, đàm thoại, tích cực phát biểu ý

kiến xây dựng bài.

Do năng lực có hạn nên những vấn đề mà luận văn đề cập chúng tôi mong muốn đóng góp một

phần nhỏ của mình việc thưc hiện đổi mới phương pháp gảng dạy hiện ở nhà trường phổ thông hiện

nay một cách nhìn toàn diện hơn về hệ phương pháp này.

Điều cuối cùng mà chúng tôi muốn nhấn mạn ở đây là khâu soạn giảng cho giờ lên lớp của Gv rất

quan trọng. Gv phải chuẩn bị chu đáo hệ thống câu hỏi từ dễ đến khó, câu hỏi thảo luận, tranh luận,

đối thoại, câu hỏi phát triển tư duy theo từng cấp độ. Bên cạnh đó là sự chuẩn bị tích cực của HS thì

khi ấy hiệu quả giờ dạy sẽ được nâng lên rất nhiều. muốn vậy, GV phải có lòng yêu nghề, tận tâm với

HS, không ngừng tìm tòi nghiên cứu, vận dụng những phương pháp dạy học tích cực mang lại hiệu

quả cao cho từng bài dạy, từng tiết dạy và phù hợp với đối tượng HS.