63
ts. trần Hoài nam - tHs. nguyễn minH đức
1. Khái quát về văn hóa kinh doanh.
Khái niệm
Trong cuốn Văn hóa nguyên thủy, tác giả
Edward Burnett Tylor (1871) đã đưa ra khái
niệm được nhiều người chấp nhận sử dụng
rộng rãi là:“Văn hóa một tổng thể phức
tạp gồm tri thức, tín ngưỡng, nghệ thuật, đạo
đức, luật lệ, phong tục tất cả những khả
năng, thói quen, tập quán con ngưi đạt
được với cách thành viên của một
hội” [4]. thể thấy văn hóa một khái
niệm rất rộng, thậm chí tới hàng trăm
khái niệm về văn hóa trong những lĩnh vực
khác nhau. Tuy nhiên, dù trong lĩnh vực nào,
các khái niệm đều thống nhất rằng văn hóa
con ngưilà không thể tách rời, văn hóa là
con người sáng tạo ra, đúc kết thành tri thức,
con người lại sử dụng văn hóa tri thức đó
để làm nền tảng, mục tiêu trong các hoạt động
đời sống của mình. Kinh doanh được hiểu
“tổ chức việc sản xuất, buôn bán sao cho sinh
li” [5]. Như vậy, kinh doanh hoạt động
của tổ chức hoặc nhân thông qua các hoạt
động thương mại như bán hàng, sản xuất,
quảng cáo,... nhằm thu lại lợi nhuận.
Như vậy, thể hiểu khái niệm văn hóa
kinh doanh là:
“Văn hóa kinh doanh một hệ thống
các giá trị, các chuẩn mực, các quan niệm
hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong
quá trình kinh doanh, được thể hiện trong các
ứng xử của họ với xã hội, tự nhiên ở một cộng
đồng hay một khu vực”. [1]
“Văn hóa kinh doanh những giá trị
văn hóa gắn với hoạt động kinh doanh một
món hàng hóa cụ thể (thương phẩm/dịch vụ)
trong toàn cảnh mọi mối quan hệ văn hóa -
hội khác nhau của nó. [2]
Từ các khái niệm nêu trên, chúng tôi cho
rằng:”Văn hóa kinh doanh là toàn bộ các giá
trị văn hóa, tri thức được doanh nghiệp sáng
tạo, tiếp thu sử dụng để tạo nên bản sắc
kinh doanh cho riêng mình trong hội”.
Theo quan điểm này, văn hóa kinh doanh của
VĂN HÓA KINH DOANH CỦA DOANH NGHIỆP
SÁNG TẠO TRI THỨC - BÀI HC T NHẬT BẢN
TS. TRầN HOÀI NAM,
THS. NGUyễN MINH ĐỨC
Đại học Thương mại Hà Nội
TÓM TẮT
Hiện nay, các doanh nghiệp đều muốn hướng tới sự phát triển bền vững nhưng
để đạt được kết quả đó lại nhiều yếu tố ảnh hưởng. Văn hóa kinh doanh được
xem như làmột trong những yếu tố quan trọng nhất. Nhắc đến văn hóa kinh doanh
không thể không nhắc đến các doanh nghiệp sáng tạo tri thức Nhật Bản.Sau chiến
tranh thế giới lần thứ hai, họ chính là những thành công điển hình trên thế giới nhờ
sự đề cao chú trọng vào văn hóa kinh doanh. Với sự tương đồng trong văn hóa
con người của hai nước, thành công từ các doanh nghiệp sáng tạo tri thức Nhật
Bản sẽ là những bài học giúp đưa ra giải pháp xây dựng văn hóa kinh doanh cho các
doanh nghiệp Việt Nam trong nền kinh tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa
hiện nay.
Từ khóa: văn hóa kinh doanh; doanh nghiệp sáng tạo tri thức; quản trị tri thức
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
64
doanh nghiệp bao gồm những giá trị văn hóa
sẵn, được doanh nghiệp tiếp thu, lĩnh hội,
những giá trị văn hóa được doanh nghiệp
sáng tạo ra trong quá trình hoạt động kinh
doanh.
Bản chất vai trò của văn hóa kinh
doanh
Văn hóa kinh doanh những giá trị văn
hóa gắn liền với hoạt động sản xuất, kinh
doanh của doanh nghiệp; Do đó, xét về bản
chất, văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp
bao gồm các yếu tố: triết kinh doanh, đạo
đức kinh doanh, văn hóa doanh nhân, văn hóa
doanh nghiệp văn hóa ứng xử trong hoạt
động kinh doanh của doanh nghiệp. Các yếu
tố riêng biệt này có những điểm giao thoavới
nhau, tạo nên một thể thống nhất văn hóa
kinh doanh của doanh nghiệp. Hình 1 dưới
đây thể hiện sự giao thoa các yếu tố của văn
hóa kinh doanh.
Nguồn:[1]
Hình 1: Sự giao thoa các yếu tố của văn
hóa kinh doanh
Với những yếu tố cấu thành như trên, ta
thấy rằng văn hóa kinh doanh bao trùm rất
rộng những hoạt động trong doanh nghiệp.
Xét về vai trò, văn hóa kinh doanh có ý nghĩa
quan trọng trong hoạt động nội bộ doanh
nghiệp như các hoạt động quản trị; hoạt động
sản xuất; tác phong làm việc; phương pháp
tác nghiệp hay sự thống nhất trong văn hóa
ứng xử trong doanh nghiệp,… Không những
vậy, đối với hoạt động bên ngoài, các hoạt
động ứng xử với đối tác, khách hàng; đạo
đức, trách nhiệm của doanh nghiệp trong kinh
doanh,… Văn hóa kinh doanh cũng đóng vai
trò then chốt, thể hiện rằng thể hiện nhận thức
và sự coi trọng của doanh nghiệp đối với các
giá trị tốt đẹp, trách nhiệm với hội, với
khách hàng đối tác. Thể hiện uy tín của
doanh nghiệp trên thương trường, định hướng
hoạt động kinh doanh theo cái đúng, cái đẹp
đem lại ích lợi đối với hội. Chính
vậy, văn hóa kinh doanh còn được coi là một
khía cạnh trong văn hóa xã hội nói chung.
2.Văn hóa kinh doanh của các doanh
nghiệp sáng tạo tri thức.
Văn hóa kinh doanh bao trùm rất nhiều
hoạt động trong ngoài doanh nghiệp như
quản trị, sản xuất, nghiên cứu... Song bản
thân chịu sự tác động chi phối của chính
các yếu tố môi trường, con người, quá trình
quản trị, sản xuất,... Mỗi một doanh nghiệp
có những yếu tố, điều kiện khác nhau sẽ hình
thành nên văn hóa kinh doanh khác nhau.
vậy, thể khẳng định văn hóa kinh doanh
một phần vốn tri thức của doanh nghiệp,
được doanh nghiệp sáng tạo ra trong quá trình
sản xuất, kinh doanh của mình. Do đó, việc
xây dựng, sử dụng phổ biến tri thức trong
doanh nghiệp có tính chất quyết định tới việc
hình thành văn hóa kinh doanh của doanh
nghiệp. Tuy nhiên, doanh nghiệp cần phải có
sự kết hợp chặt chẽ giữa các cá nhân trong tổ
chức, kết hợp được tri thức của mỗi người sẽ
tạo ra được tri thức của tập thể. Để đạt được
điều đó, một trong những hoạt động không
thể thiếu của doanh nghiệp hiện đại chính
quản trị tri thức. Hoạt động quản trị tri thức
xu hướng các doanh nghiệp Việt Nam
nói riêng, các doanh nghiệp trên thế giới đang
đặc biệt quan tâm trong những năm qua. Đó
một trong các do thôi thúc các doanh
nghiệp đang dần đổi mới để trở thành doanh
nghiệp sáng tạo tri thức.
Nói về doanh nghiệp sáng tạo tri thức,
Ikujiro Nonaka cho rằng đó những chủ
thể sáng tạo tri thức thông qua tổng hợp
mâu thuẫn định hình lại môi trưng cũng
như quá trình sáng tạo tri thức [3]. Theo
Nonaka,nếu nhưcác doanh nghiệp thông
thường chỉ dừng lại việc giải quyết vấn đề
tồn tại, thì các doanh nghiệp sáng tạo tri thức
65
ts. trần Hoài nam - tHs. nguyễn minH đức
còn chủ động tìm kiếm, phát hiện vấn đề
kiểm soátcác vấn đề đó. Ông cho rằng, doanh
nghiệp sáng tạo tri thức trở nên khác biệt do
những nhà quản tầm nhìn, mong
muốn và nỗ lực tạo ra sự khác biệt. Nói cách
khác, bản chất của doanh nghiệp sáng tạo tri
thức, theo Nonaka, sáng tạo đổi mới dựa
trên tri thức. Trong các doanh nghiệp sáng tạo
tri thức, quá trình sản xuất kinh doanh được
định nghĩalà quá trình sử dụng tri thức để tạo
ra các giá trị vật chất tri thức mới cho
hội; Đồng thời quá trình này cũng giúp hình
thànhvăn hóa kinh doanh của doanh nghiệp.
Do vậy, các doanh nghiệp sáng tạo tri thức
những doanh nghiệp hiểu rõ nhất vị trí và vai
trò của tri thức trong việc hình thành văn hóa
kinh doanh, các giá trị văn hóa có mối liên hệ
chặt chẽ với hoạt động kinh doanh dưới dạng
tri thức, kiến thức, thúc đẩy đảm bảo cho
quá trình kinh doanh của doanh nghiệp được
phát triển bền vững.
Văn hóa kinh doanh tri thức được
doanh nghiệp sáng tạo, đúc kết trong quá
trình kinh doanh của doanh nghiệp. Do vậy,
để hình thành phổ biến văn hóa kinh doanh
tới từng thành viên, tới đối tác và khách hàng
đòi hỏi các doanh nghiệp cần phải áp dụng
các nguyên tắc hình quản trị tri thức.
Điều này, đã được khẳng định qua thực tế hoạt
động của các doanh nghiệp sáng tạo tri thức
Nhật Bản, quốc gia nhiều đặc điểm văn
hóa hội tương đồng với Việt Nam, khiến
họ trở thành các hình mẫu thành công luôn
được nhắc đến với một thái độ tôn trọng.
Đặc trưng văn hoá kinh doanh của Nhật
Bản hình quản chú trọng nguồn lực
con người, coi trọng con người và sự hài hòa
trong mối quan hệ con người, mọi người
trong tổ chức đều tham gia vào quá trình hoạt
động quản tập thể quan trọng hơn
nhân. Con người của đất nước mặt trời mọc
luôn nổi tiếng về tính nghiêm túc, “làm ra
làm, chơi ra chơi” trong mọi hoạt động. Các
doanh nghiệp sáng tạo tri thức của Nhật Bản
dưới đây cũng luôn được biết đến những
doanh nghiệp tính kỉ luật, làm việc hiệu
quả cao; văn hóa kinh doanh điều
họ luôn chú trọng xây dựng, bảo tồn phát
triển. Dưới đây một số điển hình tiêu biểu
của các doanh nghiệp loại này:
Công ty trách nhiệm hữu hạn Dược
phẩm EISAI
Công ty trách nhiệm hữu hạn Dược phẩm
Eisai được Toyoji Naito thành lập năm 1941.
Công ty được tái cấu trúc mạnh mẽ dưới sự
lãnh đạo của Haruo Naito (chủ tịch kiếm
CEO đời thứ ba) vào năm 1988. Năm 1989,
ông đưa ra một sứ mệnh gọi “Cam kết đổi
mới”, với câu hỏi: “Thế giới đang thay đổi,
bạn thể thay đổi cùng thế giới?”. Kèm theo
đó là câu trả lời trong tuyên bố “Cam kết đổi
mới” của công ty: bệnh nhân gia đình họ
những đối tượng tham gia quan trọng nhất
trong quá trình chăm sóc sức khỏe, công ty sẽ
gia tăng lợi ích của họ thông qua hoạt động
kinh doanh của mình. Đây thông điệp rất
ràng về văn hóa kinh doanh của công ty: Cam
kết phục vụ những người cần dược phẩm của
mình. Do vậy, câu hỏi quan trọng của Eisai
chuyển từ “Chúng ta nên làm để sản
phẩm chất lượng cao với chi phí thấp?” sang
“Chúng ta sản xuất dược phẩm với mục đích
gì?”. ta cũng hiểu rằng, văn hóa kinh
doanh của Eisai nhằm đem lại lợi ích từ
quá trình cung cấp dược phẩm chứ không
phải là lợi nhuận từ việc bán hàng. Khẩu hiệu
của văn hóa kinh doanh mới “human health
care” (viết tắt hhc) được phổ biến rộng rãi
tới từng nhân viên trong công ty để trở thành
mục tiêu làm việc, kim chỉ nam trong văn hóa
kinh doanh của họ.Công ty xúc tiến các hoạt
động đẩy mạnh việc phổ biến, tiếp thu, thấm
nhuần văn hóa kinh doanh hhc tới từng
nhân trong công ty. Để giải quyết vấn đề này,
năm 1997, Eisai đã trở thành công ty đầu tiên
của Nhật Bản thành lập bộ phận sáng tạo tri
thức nhằm phổ biến văn hóa kinh doanh hhc
ra toàn công ty quản trị quá trình sáng tạo
tri thức.
Bộ phận sáng tạo tri thức của Eisai đã thực
hiện nhiều công việc nhằm đẩy mạnh văn hóa
kinh doanh hhc tới được với các thành viên
Hội thảo Văn hóa kinh doanh trong điều kiện kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam
66
trong công ty. Từ đó, các nhân viên của Eisai
giờ đây suy nghĩ hành động đều dựa trên
xem xét ý nghĩa hội của các mục tiêu đề
ra dưới góc độ văn hóa kinh doanh hhc. CEO
Naito khẳng định mục tiêu duy nhất số
một của công ty đạt được sự hài lòng của
bệnh nhân. Điều này đã được đưa vào Điều
lệ công ty, đưa hhc “hãy nghĩ trước tiên đến
bệnh nhân gia đình họ, gia tăng lợi ích
của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe” trở thành
khái niệm của công ty. Công ty Eisai cho rằng
việc tuyên truyền hhc để nhân viên trong
công ty thực hiện thông qua hoạt động
sáng tạo tri thức liên tục trong công việc. Nhờ
vậy, thay vì tập trung vào khách hàng chủ yếu
của công ty là bác sỹ bệnh viện của họ, các
nhân viên của công ty đã nghiên cứu, sáng
tạo ra sản phẩm nhằm mục đích đem lại lợi
ích nhiều hơn cho người bệnh. Với công ty
Eisai, một loại thuốc tốt phải vượt qua hiệu
quả của nó, không chỉ chữa được cho người
bệnh mà phải giúp đỡ được tình trạng của gia
đình họ như: tính toán khoa học để chi phí
chữa bệnh không quá cao, không đem lại tác
dụng phụ,… Và như thế, văn hóa kinh doanh
của Eisai đã thể hiện ràng: lợi nhuận không
phải mục tiêu đóng góp cho lợi ích của
người bệnh mới là quan trọng nhất.
Công ty trách nhiệm hữu hạn HONDA
MOTOR
Năm 1948, Soichiro Honda đã sáng lập
ra Công ty TNHH Honda Motor tại thành
phố Hamamatsu. Từ đó, công ty đã phát triển
thành một đối thủ cạnh tranh toàn cầu trong
ngành xe hơi với quá trình phát triển chiến
lược, văn hóa kinh doanh công nghệ độc
đáo. Honda tham gia vào ngành kinh doanh
sản xuất, bán các loại ô tô, xe máy và các sản
phẩm tạo năng lượng: động đốt trong, máy
phát điện,… Đến năm 2008, doanh thu bán
hàng của Honda đạt được 95,5 tỷ đô la Mỹ
và có 167.200 nhân viên.Soichiro Honda cho
rằng “trên cả công nghệ, cái chúng ta phải
đánh giá cao nhất là con người. Công nghệ sẽ
không có ý nghĩa gì cả nếu nó không dựa trên
nền tảng con người”. Do đó, trong phát
triển sản phẩm, công ty nhận thức rằng các
loại xe trách nhiệm phục vụ con người,
vậy, sự an toàn thoải mái của người sử
dụng bao giờ cũng được ưu tiên. Mặc công
ty Honda chủ thể kinh doanh nên rất cần
lợi nhuận nhưng Soichiro Honda nhấn mạnh
rằng công ty tồn tại để phục vụ con người
hội, vậy mọi hoạt động từ nghiên cứu,
sáng tạo tri thức cho tới sản xuất đều hướng
tới đóng góp cho xã hội.
công ty Honda, sáng tạo tri thức của
nhân viên được coi tận, người quản
phải trách nhiệm nhận ra điều đó. Do
vậy, công ty đánh giá rất cao tri thức ẩn thu
được từ quá trình sản xuất trực tiếp, đồng thời
nhấn mạnh vai trò của các lý thuyết đúng đắn
trong sáng tạo thực thi hiệu quả những ý
tưởng mới để có thể trở thành một công ty đổi
mới. để nhân viên công ty luôn tập trung
hướng tới việc tạo ra giá trị cho hội, công
ty Honda một nền tảng của văn hóa kinh
doanh, đó “ba niềm vui”: mua hàng, bán
hàng sáng tạo. Niềm vui một dạng cảm
xúc của con người, đem đến cảm giác thoải
mái, dễ chịu khi người ta đạt được điều gì đó.
Niềm vui mua hàng là của khách hàng, người
cảm thấy vui khi mua được một món hàng ưng
ý. Niềm vui của người bán hàng bán được
hàng, là đem lại niềm vui cho khách hàng của
mình. Và cuối cùng, niềm vui sáng tạo của
những nhân viên ngày đêm đem trí tuệ, sức
lực của mình nghiên cứu nhằm tạo ra công
nghệ mới phục vụ con người. Ba niềm vui này
được coi như là ước mơ theo đuổi của công ty.
Do vậy, nó được duy trì, nhấn mạnh, phổ biến
rộng rãi tới từng nhân viên của Honda từ thời
nhà sáng lập Soichiro cho đến những CEO
sau này của Honda. Với kim chỉ nam đó, quá
trình sáng tạo tri thức ở Honda đều được định
hướng bởi tưởng, ước những trải
nghiệm thực tế. Như vậy thể thấy, Honda
không chỉ một công ty không chỉ nghiên
cứu về công nghệ còn nghiên cứu về con
người. Nghiên cứu bởi con người nhằm phục
vụ chính bản thân con người. “Ba niềm vui”
ở trên chính là thước đo cho sự thành công và
cũng văn hóa kinh doanh mang đậm trách
nhiệm xã hội của công ty Honda.
67
ts. trần Hoài nam - tHs. nguyễn minH đức
Qua hai dụ điển hình từ các doanh
nghiệp sáng tạo tri thức của Nhật Bản, ta khẳng
định được rằngvăn hóa kinh doanh chính
tri thức được doanh nghiệp hình thành và xây
dựng từ quá trình hoạt động của mình. Các
doanh nghiệp sáng tạo tri thức của Nhật Bản
những doanh nghiệp thực hiện rất tốt hoạt
động quản trị tri thức. Do đó, văn hóa kinh
doanh của những doanh nghiệp này luôn được
chú trọng giữ gìn, phát triển. Kết quả của việc
xây dựng văn hóa kinh doanh dựa trên quản trị
tri thức này đã tạo ra một công ty có tầm nhìn
và hướng tới trách nhiệm xã hội, hoạt động vì
lợi ích chung; kèm theo đó một kết quả kinh
doanh tốt đẹp và bền vững.
3. Một số vấn đề về văn hóa kinh doanh
của các doanh nghiệp Việt Nam.
Kể từ khi nước chuyển sang nền kinh
tế thị trường định hướng hội chủ nghĩa,
các doanh nghiệp Việt Nam cũng dần chuyển
mình, đóng góp to lớn cho sự phát triển của
đất nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển
đó thì mặt tiêu cực của các doanh nghiệp
cũng tỉ lệ thuận. đây thể hiểu mặt
trái những biểu hiện kém văn hóa trong
kinh doanh. Thực tế cho thấy rằng, các doanh
nghiệp Việt Nam chưa thực sự đầu tư quan
tâm đúng mức tới văn hóa kinh doanh trong
hoạt động của mình. Những áp lực về kinh tế,
lợi nhuận đã khiến các doanh nghiệp coi văn
hóa kinh doanh chỉ yếu tố phụ. thể kể
đến nhiều vấn đề trong văn hóa kinh doanh
của các doanh nghiệp Việt Nam như nạn hàng
giả, hàng nhái, kém chất lượng; làm ăn nhỏ
lẻ, manh mún, tùy tiện; tầm nhìn hạn hẹp,
duy ngắn; thiếu tính cộng đồng; hay như nặng
về “quan hệ”, “chạy chọt;… Tất cả những vấn
đề trên đã khiến cho các doanh nghiệp Việt
Nam mất uy tín, không chuyên nghiệp và khó
trở thành một doanh nghiệp lớn. Theo thống
kê của UNDP về 200 doanh nghiệp hàng đầu
Việt Nam thì vẫn chưa doanh nghiệp nào
được xếp vào tầm cỡ thế giới [7]. Điều này
cho thấy các doanh nghiệp Việt Nam còn rất
nhiều bất cập cần phải thay đổi.
Để cái nhìn ràng hơn về nhận thức
văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp Việt
Nam, nhóm tác giả đã xây dựng một số câu
hỏi trắc nghiệm trực tuyến gửi tới các doanh
nghiệp và thu về được 92 phiếu trả lời, trong
đó 89 phiếu hợp lệ 03 phiếu trả lời
không đầy đủ (không hợp lệ). Kết quả khảo
sát nhóm tác giả tóm lược như sau:
Nguồn: Điều tra của tác giả
Hình 1.2: Đánh giá của doanh nghiệp về
văn hóa kinh doanh
Theo hình 1.2 trên, có một tín hiệu vui là
các doanh nghiệp Việt Nam đã nhận thức
về việc xây dựng văn hóa kinh doanh của
mình: với 74/89 phiếu (83%) cho rằng văn
hóa kinh doanh ở mức cần thiết trở lên, chỉ có
17% doanh nghiệp cho rằng không cần thiết
phải xây dựng văn hóa kinh doanh. Điều này
thể giải thích do đặc thù nền kinh tế thị
trường định hướng hội chủ nghĩa mới được
hình thành Việt Nam chưa lâu, nên thực tế
nước ta môi trường kinh doanh có văn hóa là
điều khá mới mẻ trong nhận thức của doanh
nghiệp. Doanh nghiệp đến với thương trường
kinh doanh với sự mẫm, người thành
công, người thì thất bại. Việc kinh doanh
là phải có lãi theo đuổi lợi nhuận bằng bất cứ
giá nào. Quan niệm này được thể hiện khá rõ
ràng khi doanh nghiệp trả lời câu hỏi: mục
tiêu quan trọng nhất của doanh nghiệp anh/
chị là gì?
Nguồn: Điều tra của tác giả
Hình 1.3: Mục tiêu quan trọng nhất của DN