“CHƠI CÙNG NGÔN TỪ” TRONG TIỂU THUYẾT CỦA THUẬN<br />
Vũ Thị Hạnh*1<br />
Trường Đại học Khoa học – Đại học Thái Nguyên<br />
TÓM TẮT<br />
Văn học là nghệ thuật của ngôn từ. Trong quá trình sáng tạo, mỗi nhà văn có những cách<br />
xử lý ngôn từ riêng. Vì thế, ngôn từ trong tác phẩm văn học trở thành sản phẩm sáng tạo độc đáo<br />
của mỗi nhà văn. Nó được coi là một trong những yếu tố quan trọng góp phần thể hiện cá tính<br />
sáng tạo, phong cách, tài năng của nhà văn…Với quan niệm “Tiếng Việt thừa hiện đại và tinh tế<br />
để sáng tạo”, nhà văn Thuận hiện diện trước hết như một nhà ngôn ngữ học. Bằng sự am hiểu<br />
tường tận về ngôn ngữ, Thuận đã biến ngôn ngữ trở thành một phương diện quan trọng nhằm<br />
thực hiện những tham vọng cách tân nghệ thuật. Khảo sát ngôn ngữ trong tiểu thuyết của Thuận,<br />
người viết đã chỉ ra được những yếu tố độc đáo trong cách sử dụng ngôn ngữ của nhà văn: sự<br />
tăng cường những yếu tố tỉnh lược ngữ dụng; hiện tượng lai tạp ngôn ngữ, tính đa thanh trong<br />
ngôn ngữ trần thuật… Đặc biệt, với Thuận, ngôn ngữ còn trở thành một phương tiện để kiến tạo<br />
nhịp điệu cho tiểu thuyết thông qua việc mở rộng và thu hẹp không giới hạn những biên độ đoạn<br />
văn và câu văn.<br />
Từ khóa: Nhà văn Thuận, tiểu thuyết, ngôn ngữ, tỉnh lược ngữ dụng, lai tạp ngôn ngữ, ngôn ngữ<br />
trần thuật<br />
thực hiện vai trò đồng sáng tạo. Thuận khẳng<br />
MỞ ĐẦU<br />
Văn học Việt Nam đầu thế kỷ XXI đã<br />
định: “tác giả rất cần đến sự tham gia của độc<br />
và đang ghi nhận nhưng đôi thay chưa tưng<br />
̃<br />
̉<br />
̀<br />
giả” [3]. “Nếu trong hàng triệu người đọc<br />
có. Vơi cach tân ơ nhiêu mưc đô khac nhau ,<br />
́ ́<br />
̉<br />
̀<br />
́<br />
̣<br />
́<br />
thông tiếng Việt mà có được một ít độc giả<br />
các nhà văn như Pham Thị Hoai, Tạ Duy Anh,<br />
̣<br />
̀<br />
cho mình thì cũng là điều may” [10]. “Độc giả<br />
Nguyên Bì nh Phương , Nguyễn Ngọc Tư ,<br />
̃<br />
cho mình” theo cách nói của Thuận – thực<br />
Nguyễn Huy Thiệp , Nguyễn Xuân Khánh ...đã<br />
chất bao hàm cả sự thách thức, kén chọn và<br />
có nhưng thanh tưu đang kê trong nô lưc thay<br />
̃<br />
̀<br />
̣<br />
́<br />
̉<br />
̃ ̣<br />
yêu cầu. “Độc giả ngày nay đã thay đổi nhiều.<br />
đôi đê hoa nhị p cung dong chay văn hoc thê<br />
̉ ̉ ̀<br />
̀<br />
̀<br />
̉<br />
̣<br />
́<br />
Tôi nghĩ họ “lớn lên” nhiều …Rất nhiều nhà<br />
giơi. Hòa cùng xu hướng đó , bạn đọc và giới<br />
́<br />
văn coi viết là để triển lãm tài năng uyên thâm<br />
phê bì nh con đươc biêt đên tên tuôi của Thuận<br />
̀<br />
̣<br />
́ ́<br />
̉<br />
nên họ nghĩ hộ độc giả từ A đến Z... Tôi thì<br />
– một người tuy mới “vào nghề” nhưng đã<br />
không dọn một bữa cỗ ăn sẵn như thế.” [4].<br />
nhanh chóng tạo được “thương hiệu” thông<br />
Với quan niệm văn chương như vậy, ngôn<br />
qua năm tiểu thuyết “trình làng” liên tục trong<br />
ngữ trong tiểu thuyết theo quan niệm của<br />
năm năm qua: Made in Vietnam [12],<br />
Thuận thực chất là một sự thách thức đối với<br />
Chinatown [13], Paris 11 tháng 8 [14], T mất<br />
độc giả.<br />
tích [15] và Vân Vy [16]. Mỗi tiểu thuyết là<br />
Để thách thức độc giả, Thuận đã pha<br />
một hành trình thử nghiệm của nhiều lối viết<br />
trộn, lai tạp nhiều ngôn ngữ khác nhau nhằm<br />
mới mà tất cả đều khởi nguồn từ cuộc phiêu<br />
phá vỡ tính thuần khiết của ngôn ngữ văn<br />
lưu của ngôn từ. Trong bài viết này, người<br />
chương truyền thống, mở đường cho sự “ùa<br />
viết xuất phát từ quan niệm về sự sáng tạo<br />
vào” của các yếu tố văn hóa ngoại lai. Sự lai<br />
nghệ thuật của nhà văn để chỉ ra những đặc<br />
tạp được xây dựng trên cơ sở kết hợp tiếng<br />
điểm cơ bản về ngôn từ trong tiểu thuyết của<br />
Việt với những yếu tố ngôn ngữ khác ở nhiều<br />
Thuận cũng như những cách thức sử dụng<br />
cấp độ: khi thì sử dụng từ gốc Anh/ Pháp, khi<br />
ngôn ngữ nhằm thực hiện những ý đồ nghệ<br />
thì sử dụng theo cách phiên âm sang tiếng<br />
thuật của nhà văn.<br />
Việt… Cách đặt tên, dùng từ, đặt câu trong<br />
tiểu thuyết của Thuận…đều xuất hiện hiện<br />
1. Từ quan niệm về sáng tạo nghệ thuật đến<br />
tượng này.<br />
ngôn từ trong tiểu thuyết của Thuận<br />
Tiểu thuyết của Thuận gắn liền với<br />
Sự lai tạp ngôn ngữ trong tiểu thuyết<br />
quan niệm “văn chương là một trò chơi” và<br />
được thể hiện ngay từ nhan đề tác phẩm<br />
theo đó, tiểu thuyết là một trò chơi văn bản<br />
(Chinatown, Made in Vietnam, I’m yellow,<br />
(chơi nhân vật, chơi kết cấu, chơi cấu trúc,<br />
Paris 11 tháng 8), tên các chương đoạn<br />
chơi ngôn ngữ…). Nhà văn sáng tạo ra tiểu<br />
(Chương 7. Gaza [16,75]; Chương 9. Mistral<br />
thuyết nhưng thông qua ngôn từ, người đọc sẽ<br />
[16,94]; Chương 12. Ice cream Tuổi Hoa Niên<br />
<br />
[16,134]; Chương 20. Đại hỷ [16, 250]…), tên<br />
các nhân vật (Paul, Anna, Brunel, Hellen,<br />
Mic, Hanal, Hằng, Vĩnh, Thụy, Vân,<br />
Vượng…)<br />
Không dừng lại ở cấu trúc, hiện tượng<br />
lai tạp ngôn ngữ còn thể hiện ở nhiều cấp độ<br />
nhỏ hơn: câu và các thành phần của câu. Khảo<br />
sát trong trong tiểu thuyết của Thuận ta thấy<br />
những câu được cấu tạo hoàn toàn bằng tiếng<br />
Anh và tiếng Pháp xuất hiện với tần suất lớn:<br />
“The West is too old” [15, 239]; “Its nothing,<br />
don‟t be worried‟ [15, 238]; “Socialism is up,<br />
bureaucracy is up. … What‟s important is<br />
money. Fifty fifty, are you ok? Perestroika is<br />
very important” [15, 236]; “French<br />
comptability is too old” [15, 235], “France is<br />
too old; but you are ok? ...the West is old, old<br />
ideology, old technology, old mentality” [15,<br />
232]; “We have no more time” [15, 234];<br />
“Shopping is nice in Paris… Oh, it‟s very<br />
nice; My girl will be happy; it‟s my girl” [15,<br />
229]; “Un milliard de chinois. Et moi. Et moi.<br />
Et moi”. [15, 13]; “Spécialités chinoiese et<br />
vietnamiennes” [15, 26]…<br />
Nhỏ hơn cấp độ câu, hiện tượng lai<br />
tạp còn xuất hiện ở những từ/ cụm từ giữ vị trí<br />
quan trọng: “Stress lắm‟ [13, 12], “rượt<br />
Internet” [14, 246], “Nó bảo: Stop” [15,<br />
245]; „Ai mà biết được hai mươi năm về trước<br />
cặp đùi chằng chịt gân xanh của bà ta cũng<br />
nuột nà thon thả như my girl…Vova nhìn mặt<br />
mũi tôi bần thần thì nháy mắt…very ok in<br />
bed. Tôi tin là hắn nói đúng…Vova nốc rượu<br />
như điên, càng nốc càng hăng, hắn kể không<br />
ngớt về những thay đổi very important của<br />
Mạc – tư – khoa” [15, 230] ; “Vừa bắt tay<br />
chúng tôi, vừa bảo: “Shopping is nice in<br />
Paris”. Phó giám đốc vội vàng đáp lại: “Oh,<br />
It’s very nice”…Công nhận my girl đẹp thật,<br />
và cực kỳ khêu gợi” [15, 229].<br />
Ngoài sự lai tạp những từ gốc tiếng<br />
Anh và tiếng Pháp, trong tiểu thuyết của<br />
Thuận còn xuất hiện rất nhiều những từ ghi<br />
âm cách đọc tiếng nước ngoài như: xi –líp, đét<br />
– xe, đi – văng, dis-co, năm - bơ oăn, phécmơ-tuya, a-xit, ca – ta- lô, măng-tô, toa-lét…<br />
Bên cạnh sự lai tạp ngôn ngữ, Thuận<br />
còn tăng cường sử dụng các thuật ngữ chuyên<br />
môn khoa học nhưng không chú thích nhằm<br />
mục đích thách thức độc giả. Đó là những từ<br />
ngữ biểu đạt các khái niệm chuyên môn và để<br />
hiểu được những thuật ngữ này, đòi hỏi người<br />
<br />
đọc phải có một trình độ nhận thức nhất định.<br />
Khảo sát năm tiểu thuyết, ta thấy xuất hiện<br />
những thuật ngữ chuyên môn và khoa học của<br />
nhiều lĩnh vực khác nhau như: thị trường tiêu<br />
thụ, thị trường chứng khoán, biểu giá, lợi<br />
nhuận, tài chính, marketing, xuất nhập khẩu<br />
(kinh tế - tài chính); bẩm sinh, sida, chất béo,<br />
axit, màng nhĩ, truyền nhiễm, di truyền, phụ<br />
khoa, nhiễm trùng, bì phu, vi khuẩn, virut, vắc<br />
– xin, phoóc – môn, X quang, nan y, động<br />
mạch, nhồi máu, triệu chứng, tử thi, pháp y,<br />
nội tiết (Y học)…Sử dụng nhiều những thuật<br />
ngữ chuyên môn giúp Thuận có thể rút ngắn<br />
độ dài văn bản nhưng vẫn đảm bảo hàm lượng<br />
thông tin cần thiết. Đó cũng là con đường để<br />
nhà văn hướng đến mô hình tiểu thuyết ngắn.<br />
Việc pha trộn những yếu tố ngoại ngữ<br />
khác nhau và sử dụng nhiều thuật ngữ chuyên<br />
môn, khoa học là chủ đích lựa chọn và thách<br />
thức độc giả của nhà văn. Tiểu thuyết đòi hỏi<br />
ở người tiếp nhận phải có trình độ ngoại ngữ<br />
và sự am hiểu về nhiều lĩnh vực đa dạng của<br />
đời sống. Thay vì “dọn một bữa cỗ ăn sẵn”<br />
[4], Thuận bắt người đọc phải tư duy, suy<br />
ngẫm thì mới có thể “thưởng thức” được nó.<br />
Đây chính là lí do giải thích vì sao không ít<br />
độc giả nhận xét rằng tiểu thuyết của Thuận<br />
thuộc tạng “khó đọc” và nó “rất gần với mức<br />
độ mà một người đọc khó tính đòi hỏi” [15].<br />
Cùng với tiểu thuyết của Thuận,<br />
những sáng tác của Phạm Thị Hoài cũng nổi<br />
bật lên ở hiện tượng lai tạp và pha trộn ngôn<br />
ngữ. Điểm tương đồng ở hai nhà văn nữ này<br />
là ở chỗ: thông qua ngôn ngữ để gây ấn tượng<br />
về một thời đại không yên ổn với những luồng<br />
tư tưởng văn hoá khác biệt. Đặc biệt, nó còn<br />
biểu hiện sự giao tranh quyết liệt để dành chỗ<br />
đứng của các yếu tố ngôn ngữ trong thời đại<br />
bùng nổ thông tin. Tuy nhiên, điểm khác biệt<br />
lớn nhất giữa Thuận và Phạm Thị Hoài là: qua<br />
lai tạp, pha trộn và giao tranh, Phạm Thị Hoài<br />
phơi bày sự hữu hạn của tiếng Việt còn Thuận<br />
lại cho thấy thế mạnh của tiếng mẹ đẻ trong<br />
khát vọng biểu đạt tư duy trừu tượng. Đó<br />
chính là tình yêu và niềm tự hào đối với ngôn<br />
ngữ Việt: “Ngôn ngữ Việt thừa tinh tế để sáng<br />
tạo” [10].<br />
2. Tỉnh lược ngữ dụng - một thủ pháp xây<br />
dựng hình tượng nhân vật<br />
Bằng sự thông minh và sắc sảo,<br />
Thuận đã biến ngôn ngữ thay vì là một chất<br />
liệu sáng tạo trở thành một thủ pháp góp phần<br />
<br />
quan trọng trong việc xây dựng hình tượng<br />
nghệ thuật. Điều này được thể hiện rất rõ<br />
thông qua sự tỉnh lược ngữ dụng trong tiểu<br />
thuyết, cụ thể là thủ pháp giản lược đối thoại,<br />
gia tăng độc thoại.<br />
Đối thoại là hành động nói chuyện<br />
qua lại giữa hai hay nhiều người. Cấu trúc một<br />
cuộc đối thoại gồm: người phát ngôn, người<br />
nhận phát ngôn và sự luân chuyển thành phần<br />
lời giữa hai đối tượng theo cơ chế phản hồi.<br />
Trái với đối thoại, độc thoại là lời nội tâm của<br />
nhân vật. Nó không phải là lời giao tiếp bởi<br />
thực chất nó chưa được phát ngôn ra thành lời<br />
nói – do đó, nó chưa thực hiện quá trình<br />
truyền thông tin và chưa có sự phản hồi. “Lời<br />
độc thoại được chỉ ra bằng các từ “tự nhủ”,<br />
“thầm nghĩ” và không phải bao giờ cũng rành<br />
rọt mà thường rối ren, lộn xộn, chắp nối. Đó<br />
là hình thức tái hiện tính tự phát của dòng ý<br />
thức và cảm xúc” [9]. Với quan niệm về đối<br />
thoại và độc thoại như trên, ta thấy trên từng<br />
trang văn của Thuận, tác giả đã sử dụng tối đa<br />
các hình thức tỉnh lược/ giản lược đối thoại và<br />
bù lấp nó bằng sự gia tăng độc thoại.<br />
Trong tiểu thuyết của Thuận, các cụm<br />
từ “im lặng”, “lắc đầu”, “gật đầu”, “không<br />
hỏi”, “không trả lời” xuất hiện với tần số lớn,<br />
báo hiệu cho thủ pháp tỉnh lược/ giản lược<br />
ngữ dụng. Tần số lặp lại của những cụm từ<br />
trên được tổng hợp qua bảng thống kê dưới<br />
đây:<br />
Tác phẩm<br />
Im<br />
Lắc<br />
Gật đầu<br />
lặng<br />
đầu<br />
Chinatown<br />
25<br />
25<br />
9<br />
Paris 11<br />
116<br />
64<br />
93<br />
tháng 8<br />
T mất tích<br />
37<br />
21<br />
29<br />
Vân Vy<br />
55<br />
35<br />
37<br />
Trước tình huống đối thoại, nhân vật<br />
trong tiểu thuyết của Thuận hầu hết đều chọn<br />
giải pháp giản lược/ khước từ đối thoại. Thay<br />
vì đồng tình, họ chỉ “gật đầu”. Thay vì phản<br />
đối, họ chỉ “lắc đầu”. Đa số họ đều “ngại giải<br />
thích” và chọn giải pháp im lặng. Trong từng<br />
tình huống cụ thể, im lặng có khi biểu đạt cho<br />
sự đồng tình, có khi lại là sự phản đối. Nhưng<br />
điểm chung giữa chúng là sự lẩn tránh giải<br />
thích. Im lặng cũng không phải là không có gì<br />
để nói. Im lặng còn là hiện thực hóa sự cô<br />
đơn, trống trải, không thể đồng cảm, không<br />
thể thấu hiểu, không thể chia sẻ. Nó là minh<br />
<br />
chứng cho sự cắt đứt và hủy hoại dần đường<br />
dây liên kết giữa người với người. Trong T<br />
mất tích, nhân vật “Tôi” sợ nhất “căn bệnh”<br />
tâm sự. Sự im lặng của T khiến “Tôi” dễ chịu<br />
và đó là lí do giải thích vì sao “Tôi” và T có<br />
thể sống với nhau trong sáu năm trời. “Tôi”<br />
biết gì về T – người vợ sáu năm cùng chung<br />
sống? Không gì cả! Tên của T “Tôi” chưa bao<br />
giờ gọi. “Tôi” cũng không thể viết được tên<br />
của T. T cũng chưa bao giờ gọi tên của “Tôi”.<br />
Độc giả ngỡ ngàng trước sự “vụn rời” của các<br />
mối quan hệ và càng “vụn rời” hơn khi “trong<br />
thâm tâm, tôi nghĩ có lẽ vì thế mà chúng tôi<br />
mới tồn tại cạnh nhau hơn sáu năm. Sáu năm<br />
là một kỉ lục. Trước đó, tôi chẳng qua nổi với<br />
ai quá sáu tuần” [15].<br />
Để bù lấp khoảng trống của đối thoại,<br />
Thuận để các nhân vật của mình độc thoại<br />
triền miên. Sự tăng cường độc thoại được thể<br />
hiện thông qua tần số xuất hiện của các cụm<br />
từ: “tự nhủ”, “thầm nghĩ”, “tự hỏi/ tự trả lời”.<br />
Khảo sát qua những tiểu thuyết của Thuận,<br />
chúng ta sẽ thấy rõ điều này:<br />
Tác phẩm<br />
Paris 11<br />
tháng 8<br />
T mất tích<br />
Vân Vy<br />
<br />
Tự<br />
nhủ<br />
2<br />
<br />
Thầm<br />
nghĩ<br />
7<br />
<br />
Tự hỏi/Tự<br />
trả lời<br />
3<br />
<br />
9<br />
18<br />
<br />
5<br />
31<br />
<br />
2<br />
12<br />
<br />
Với độc thoại nội tâm, Thuận đã diễn<br />
tả trạng thái cũng như tính quá trình của dòng<br />
ý thức nhân vật. Thuận đã để các nhân vật tự<br />
lý giải, tự phân tích, tự giãi bày, tâm sự với<br />
chính mình. Hơn nữa, bằng việc giản lược tối<br />
đa đối thoại và để cho dòng độc thoại nội tâm<br />
triền miên chiếm lĩnh, Thuận lại khắc sâu vào<br />
trạng thái cô đơn hoang vắng cũng như sự day<br />
dứt, ám ảnh khốn cùng của nhân vật.<br />
Thứ ba: Ngôn ngữ - một phương<br />
tiện kiến tạo nhịp điệu<br />
Nhịp điệu là đặc điểm nổi bật của<br />
ngôn ngữ trữ tình, dùng để phân biệt với ngôn<br />
ngữ tự sự. Tuy nhiên, đến với ngôn ngữ trong<br />
tiểu thuyết của Thuận, chúng ta lại thấy một<br />
hiện tượng đặc biệt: đó là thứ ngôn ngữ tự sự<br />
giàu nhịp điệu.<br />
Toàn bộ Chinatown được bao trùm<br />
bởi một nhịp điệu bất thường và dồn dập<br />
xuyên suốt tiểu thuyết. “Nhịp điệu đó dựa vào<br />
phép lặp: lặp lại một từ, một câu hay cả một<br />
đoạn văn, lặp lại một động tác, một lời nói,<br />
<br />
một cái tên riêng hay cả một nhân vật. Nhịp<br />
điệu đó cũng dựa vào những đặc tính của<br />
tiếng Việt: đa nghĩa, giàu âm, cấu trúc tự do,<br />
thời gian lỏng lẻo. Các ngoại ngữ khác, như<br />
tiếng Pháp chẳng hạn, không chấp nhận<br />
những câu cụt, những động từ không chia, và<br />
vì thế sẽ làm mất đi tính mập mờ giữa quá<br />
khứ và hiện tại, giữa thực và mộng, giữa tỉnh<br />
táo và mộng mị của Chinatown” [4]. Nhịp<br />
điệu còn được xây dựng dựa trên cách thức tổ<br />
chức ngôn từ độc đáo: đó là sự mở rộng<br />
không giới hạn biên độ đoạn văn và thu hẹp<br />
biên độ câu văn, tạo nên những câu ngắn,<br />
chồng xếp lên nhau. Ta có thể thấy rõ nhịp<br />
điệu của ngôn ngữ trong trích đoạn dưới đây:<br />
“Sau đó, Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì.<br />
Tôi không biết…Thụy đứng cạnh ngôi nhà hai<br />
tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn lồng. Tôi<br />
không biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì những<br />
ngày ấy... Phố nào cũng nhà hai tầng. Nhà hai<br />
tầng, bảng hiệu chữ Hoa, hai cái đèn lồng. Tôi<br />
không biết Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Đến<br />
bây giờ tôi cũng không biết Thụy ở đâu, gặp<br />
ai, làm gì. Mười hai năm rồi tôi muốn gặp<br />
Thụy để hỏi... Nhưng tôi muốn biết những<br />
ngày ấy Thụy ở đâu, gặp ai, làm gì. Trong<br />
những ngôi nhà hai tầng, bảng hiệu chữ Hoa,<br />
hai cái đèn lồng. Những ngày ấy. Những ngày<br />
ấy thằng Vĩnh mới một tháng. Nó biết lẫy.<br />
Biết bò. Biết đi. Không thấy Thụy đâu. Nó<br />
đau răng. Cai sữa. Lên sởi. Không thấy Thụy<br />
đâu. Nó bị kiến lửa đốt vào tai 39 độ một tuần<br />
liền. Không thấy Thụy đâu. Nó nuốt phải hột<br />
chôm chôm cấp cứu bệnh viện nhi Thụy Điển.<br />
Không thấy Thụy đâu. Nó bị thằng bạn cùng<br />
nhà trẻ cắn rách mũi, bị cô giáo phạt quay mặt<br />
vào tường, tay sai Bắc Kinh dám bắt nạt<br />
thường dân Việt Nam. Không thấy Thụy đâu.<br />
Không thấy Thụy đâu. Mười hai năm rồi tôi<br />
muốn gặp Thụy để hỏi” [13, 29].<br />
Qua trích đoạn trên, chúng ta dễ dàng<br />
nhận thấy sự “đậm đặc” của phép lặp: lặp câu,<br />
lặp từ, lặp cấu trúc. “Thụy ở đâu, gặp ai, làm<br />
gì” lặp lại 5 lần; “Không thấy Thụy đâu” lặp<br />
lại đến 6 lần; “những ngày ấy” lặp lại 4 lần.<br />
“Nhà hai tầng, bảng hiệu chữ hoa và hai cái<br />
đèn lồng” lặp lại 3 lần. “Mười hai năm rồi tôi<br />
muốn gặp Thụy để hỏi” lặp lại 2 lần.<br />
Lặp cấu trúc được thể hiện thông qua<br />
những cấu trúc câu tương đương. Chinatown<br />
được cấu tạo bởi những câu ngắn không<br />
xuống hàng. Những câu ngắn lặp lại nhau,<br />
<br />
như gối lên nhau liên tục tạo thành một nhịp<br />
điệu xuyên suốt tác phẩm: “Nó biết lẫy. Biết<br />
bò. Biết đi. Không thấy Thụy đâu. Nó đau<br />
răng. Cai sữa. Lên sởi. Không thấy Thụy đâu.<br />
Nó bị kiến lửa đốt vào tai 39 độ một tuần liền.<br />
Không thấy Thụy đâu. Nó nuốt phải hột chôm<br />
chôm cấp cứu bệnh viện nhi Thụy Điển.<br />
Không thấy Thụy đâu. Nó bị thằng bạn cùng<br />
nhà trẻ cắn rách mũi, cô giáo phạt quay mặt<br />
vào tường, tay sai Bắc Kinh dám bắt nạt<br />
thường dân Việt Nam. Không thấy Thụy đâu”<br />
[19, 29].<br />
Lựa chọn được ngôn ngữ biểu đạt<br />
đúng ý trọng tâm đã khó, khiến cho chúng trở<br />
nên uyển chuyển lại càng khó hơn. Nhưng<br />
trong tiểu thuyết của mình, Thuận đã làm<br />
được điều đó: “Chinatown! Chinatown!<br />
Chinatown! Tôi muốn hỏi tại sao”. Câu văn<br />
không chỉ uyển chuyển mà còn truyền tải<br />
được ý trọng tâm của toàn tác phẩm. Nói về<br />
cách sử dụng ngôn ngữ trong tiểu thuyết của<br />
Thuận, nhà văn Nguyên Ngọc đã nhận xét về<br />
Chinatown: “Có thể thích hay không thích,<br />
nhưng những cuốn sách như thế này làm<br />
chuyển động thẩm mỹ của xã hội và tác động<br />
đến những người sáng tác khác”.<br />
. 4. Tính đa thanh trong ngôn ngữ<br />
trần thuật<br />
Tính đa thanh trong ngôn ngữ trần<br />
thuật thể hiện ở sự hiện diện đồng thời nhiều<br />
tiếng nói khác nhau: lời của người trần thuật,<br />
lời của nhân vật, lời gián tiếp tự do. Điều này<br />
làm nên sự khác biệt giữa tiểu thuyết của<br />
Thuận với tiểu thuyết truyền thống (một giọng<br />
của tác giả - là loại tiểu thuyết đơn âm).<br />
Trong tiểu thuyết của Thuận, tác giả<br />
dường như giấu mình, cố giữ thái độ khách<br />
quan trước các nhân vật, để cho chúng tự do<br />
bộc lộ tư tưởng, tình cảm riêng, Các tư tưởng,<br />
tình cảm rất khác nhau, thậm chí đối lập đều<br />
có giá trị độc lập và cùng được tôn trọng như<br />
nhau. Chính điều này khiến cho tiểu thuyết<br />
của Thuận có tính phức điệu. Nhờ đó, mỗi<br />
nhân vật trong tiểu thuyết của Thuận đều có<br />
một giọng điệu riêng, độc lập, tự nó. Mỗi<br />
nhân vật là một cái tôi riêng biệt. Đó có lẽ<br />
cũng chính là “sự bình đẳng” mà Thuận đã<br />
lên tiếng khẳng định.<br />
Ở Chinatown, tính đa âm, nhiều giọng<br />
trở thành mục đích của tác giả, tạo thành chủ<br />
âm của văn bản tự sự: “Cô giáo chủ nhiệm gọi<br />
tôi ra gặp riêng. Cô giáo dạy toán gọi tôi ra<br />
<br />
gặp riêng. Thày giáo dạy văn gọi tôi ra gặp<br />
riêng. Thày giáo tiếng Anh gọi tôi ra gặp<br />
riêng. Bí thư liên đoàn trường gọi tôi ra gặp<br />
riêng. Em nên tập trung để dẫn đầu cả lớp kỳ<br />
thi cuối năm. Em nên tập trung để đạt kết quả<br />
cao nhất kì thi hết cấp. Em nên tập trung để<br />
mang lại danh dự cho toàn trường kỳ thi đại<br />
học. Người ta đem trách nhiệm trao cho tôi.<br />
Người ta mang thi cử ra làm tôi sợ. Không ai<br />
đả động gì đến Thụy.” [13, 7].<br />
Trích đoạn trên cho ta thấy sự vang<br />
lên đồng thời giọng của “tôi” kể chuyện và<br />
các nhân vật (cô giáo dạy toán, cô giáo chủ<br />
nhiệm, thày giáo dạy văn, thày giáo tiếng<br />
Anh, bí thư đoàn trường). Mỗi nhân vật đều<br />
có giọng điệu riêng. Giọng của các nhân vật<br />
(cô giáo, thày giáo, bí thư đoàn, cha mẹ tôi)<br />
vang lên thành một bè cao – đa âm, đa giọng –<br />
thể hiện cho những bổn phận, trách nhiệm,<br />
nghĩa vụ bao hàm trong đó cả sự dọa nạt, lấn<br />
át. Đan xen vào giữa cái bè cao đó là giọng<br />
của “tôi” kể chuyện – đơn lẻ, yếu đuối, lúng<br />
túng, hoang mang. Hai giọng điệu này khi đặt<br />
cạnh nhau, chúng luôn tìm cách ngốn nuốt lẫn<br />
nhau. Nó như ngầm báo trước một cuộc đấu<br />
tranh âm thầm, không cân sức mà phần yếu<br />
thế thường nghiêng về cái bè thấp hơn.<br />
Sự phối hợp, hòa trộn, nối ghép<br />
không báo trước của nhiều thành phần lời trần<br />
thuật ít nhiều gây hẫng cho độc giả, làm đứt<br />
gãy mạch tự sự và tạo ra hiệu quả đặc biệt<br />
trong việc khám phá thế giới sâu kín của nhân<br />
vật. Nó không chỉ thể hiện sự đứt đoạn, rối<br />
bời trong dòng ý thức của nhân vật chính mà<br />
còn thể hiện trạng thái day dứt, hoang mang,<br />
bất an của nhân vật trong đời sống hiện đại.<br />
KẾT LUẬN<br />
Tóm lại, bằng sự dụng công trong<br />
cách lựa chọn và sử dụng ngôn từ, Thuận hiện<br />
diện không chỉ với tư cách là một nhà tiểu<br />
thuyết mà còn là một nhà ngôn ngữ học. Dưới<br />
ngòi bút của Thuận, những thế mạnh của ngôn<br />
từ được khai thác triệt để, tối đa. Nó không<br />
chỉ là một chất liệu nghệ thuật đơn thuần mà<br />
nó còn là những phương tiện nghệ thuật có giá<br />
trị biểu đạt lớn: tham gia xây dựng hình tượng<br />
nghệ thuật, kiến tạo nhịp điệu, tạo tính đa âm,<br />
nhiều giọng cho tiểu thuyết. Với những thành<br />
công đó, Thuận đã phần nào khẳng định được<br />
cá tính sáng tạo, phong cách cũng như tài<br />
năng nghệ thuật của mình. Đó cũng chính là<br />
<br />
những đóng góp không nhỏ của Thuận cho<br />
nền văn học đương đại nước nhà.<br />
TÀI LIỆU THAM KHẢO<br />
1. Nguyễn Thị Bình (2007), Tiểu thuyết Việt<br />
Nam sau 1975: một cái nhìn khái quát, Tạp chí<br />
Nghiên cứu văn học (số 2).<br />
2. Nguyễn Thị Bình (2005), Về một hướng thử<br />
nghiệm của tiểu thuyết Việt Nam những năm<br />
gần đây, Tạp chí Nghiên cứu văn học (số 11).<br />
3. Phong Điệp, Thuận: Nghệ thuật viết mới là<br />
điều tôi quan tâm, http://phongdiep.net.<br />
4. Phong Điệp, Thuận: Viết để phá vỡ sự cân<br />
bằng, http://phongdiep.net.<br />
5. Phong Điệp, Tiểu thuyết Việt Nam: những<br />
chuyển<br />
động<br />
không<br />
nhỏ,<br />
http://www.tienphong.vn.<br />
6. Khánh Lam, Thuận: Nhà văn Việt ghi dấu<br />
ấn văn chương ở Pháp, http://lethieunhon.com.<br />
7. Thủy Lê, Thuận: Với tôi, mỗi tác phẩm như<br />
một chuyến đi xa, http://evan.vnexpress.net.<br />
8. Thủy Lê, Thuận: Tôi viết văn hoàn toàn độc<br />
lập, http://tuoitre.vn.<br />
9. Phương Lựu (2002), Lý luận văn học, NXB<br />
Giáo dục, Hà Nội.<br />
10. Lan Ngọc, Thuận: Ngôn ngữ Việt thừa hiện<br />
đại<br />
và<br />
tinh<br />
tế<br />
để<br />
sáng<br />
tạo,<br />
http://evan.vnexpress.net.<br />
11. Phùng Gia Thế, Lý giải về sự khó đọc của<br />
tiểu thuyết hiện nay, http://phongdiep.net.<br />
12. Thuận (2003), Made in Vietnam,<br />
http:/www.tienve.org.<br />
13. Thuận (2004), Chinatown, NXB Đà Nẵng.<br />
14. Thuận (2005), Paris 11 tháng 8, NXB Đà<br />
Nẵng.<br />
15. Thuận (2006), T mất tích, NXB Hội Nhà<br />
văn và Công ty Văn hóa và Truyền thông<br />
Nhã Nam.<br />
16. Thuận (2008), Vân Vy, NXB Hội Nhà Văn<br />
và Công ty Văn hóa và Truyền thông Nhã<br />
Nam.<br />
17. Phạm Văn Tình, Im lặng – một nguyên lí<br />
hồi chỉ của tỉnh lược ngữ dụng,<br />
http://ngonngu.net<br />
18. Hải Trung (2009), Một số hiện tượng lai tạp<br />
trong ngôn ngữ văn chương Việt Nam, Tạp<br />
chí Sông Hương, số 178<br />
<br />