Ai là người cuối cùng gánh nợ xấu?

Nợ xấu đang gây ách tắc dòng vốn, làm cho các giải pháp về lãi suất mất tác

dụng và đặc biệt có thể tác động làm phá sản những doanh nghiệp lớn.

Đáng lo ngại là cho đến nay không có cơ quan quản lý nào công bố chính xác số

liệu nợ xấu của doanh nghiệp. Và để giải quyết nợ xấu, dù bằng cách nào, rốt cuộc

ngân sách cũng phải bỏ tiền ra. Vấn đề là ai được hưởng lợi nhiều nhất và liệu có

ai phải chịu trách nhiệm về gánh nặng tăng thêm của ngân sách?

Gần đây, những khoản nợ mười mấy ngàn tỉ đồng của một ngân hàng nọ đang

được không ít tổ chức tín dụng để ý và đánh tiếng. Họ muốn mua lại vì chúng

được đảm bảo bằng tài sản thế chấp là một số khu đất “vàng”, trung tâm thương

mại, tòa nhà văn phòng, căn hộ ở trung tâm một thành phố lớn. Quá trình thảo luận

tập trung vào giá khi ngân hàng chủ nợ không muốn bán rẻ, còn bên mua thì yêu

cầu chiết khấu càng nhiều càng tốt.

Mờ ảo khối nợ

Không phải ngẫu nhiên mà trong cuộc họp với nhóm 14 ngân hàng thương mại lớn

(G-14) vào tuần trước, Ngân hàng Nhà nước (NHNN) đặt lên bàn chủ trương

thành lập công ty mua bán nợ quốc doanh với số nợ có thể giao dịch lên tới

100.000 tỷ đồng. Chưa rõ thời điểm hoạt động, ai góp vốn và cơ chế giao dịch như

thế nào, nhưng chủ trương khai sinh một pháp nhân như vậy cho thấy sự bức thiết

phải tháo gỡ ngay khối nợ xấu trong nền kinh tế. Nợ xấu đang gây ách tắc dòng

vốn, làm cho các giải pháp về lãi suất mất tác dụng và đặc biệt có thể tác động làm

phá sản những doanh nghiệp lớn.

Đáng lo ngại là cho đến nay không có cơ quan quản lý nào công bố chính xác số

liệu nợ xấu của doanh nghiệp. Đề án tái cơ cấu doanh nghiệp nhà nước của Bộ Tài

chính chỉ ra các tập đoàn, tổng công ty đang nợ ngân hàng khoảng 415.000 tỉ

đồng. Tuy nhiên nợ và nợ quá hạn khác nhau. Tỷ lệ vay nợ cao, gấp nhiều lần vốn

chủ sở hữu là thực trạng chung của khối quốc doanh khi mà ngân sách không cấp

đủ vốn cho doanh nghiệp, trong khi các tập đoàn “bành trướng” quá nhanh vào

nhiều lĩnh vực.

Cơ quan có thể đánh giá tương đối chính xác về nợ và nợ xấu là NHNN. Tiếc rằng

tỷ lệ nợ xấu mà NHNN công bố luôn khiến người ta phải hoài nghi. Tỷ lệ nợ xấu

gần nhất được NHNN đưa ra là khoảng 3,2-3,6% tổng dư nợ, chênh lệch khá xa

mức 13% mà Tổ chức định mức tín nhiệm Fitch công bố năm ngoái. Còn so với

mức chừng 10% mà các chuyên gia tài chính khẳng định, nó thấp hơn ba lần.

Hiện tại dư nợ cho vay của hệ thống ngân hàng ước 2,5 triệu tỉ đồng. Giả sử tỷ lệ

nợ xấu 10%, nó tương đương 250.000 tỷ đồng hay 12 tỉ đô la Mỹ. Số nợ xấu này

hầu như đang nằm im, chỉ nhúc nhích trong một số trường hợp mua bán nợ thành

công. Muốn giải quyết nó, trước hết phải làm nó chuyển động. Mặc dù NHNN vừa

ban hành Văn bản 2871 ngày 16/5/2012 cho phép các tổ chức tín dụng mua bán

nợ, nhưng sự khởi động tỏ ra chậm chạp vì thiếu người khởi xướng.

Cũ và mới

Trong lịch sử non trẻ của ngành ngân hàng, hẳn nhiều người chưa quên giai đoạn

sóng gió các vụ án Tamexco, Minh Phụng - Epco. Ngày đó, số nợ xấu của ngân

hàng cũng lớn so với tổng dư nợ, nhưng quy mô không thể so với bây giờ. Và cái

khác căn bản là giá trị của tài sản thế chấp bất động sản chưa ở mức “bong bóng”

như hiện tại.

Tài sản đảm bảo, chủ yếu là đất và quyền sử dụng đất, của Minh Phụng - Epco ở

thời điểm thế chấp, đã thay đổi theo chiều hướng có lợi cho ngân hàng 5-6 năm

sau đó. “Cơn sốt” bất động sản khi ấy còn sơ khai. Nay thì khác. Giá đất đã tăng

chóng mặt trong vòng năm năm qua và dường như thời kỳ đỉnh cao của nó đã qua.

Những khu đất được định giá thấp hơn giá thị trường và chỉ được cho vay bằng

50-70% giá trị ở thời điểm vay 3-4 năm trước, hiện khó mà chuyển nhượng bằng

với mức định giá của ngân hàng. Sự ì ạch của việc phát mãi tài sản nhằm thu hồi

vốn của ngân hàng xuất phát từ đây. Đúng là thủ tục phát mãi phức tạp. Tuy vậy

sự phức tạp đó không mang tính quyết định. Người ta e ngại chủ yếu giá chuyển

nhượng các tài sản thấp hơn giá trị khoản vay.

Nói ngắn gọn, để thanh lý nợ xấu, phải có ai đó gánh phần lỗ lã, hoặc ngân hàng,

hoặc người vay. Tốc độ xử lý nợ phụ thuộc vào mức độ chiết khấu so với giá thị

trường. Có những tổ chức “kền kền” sẵn sàng vào cuộc, bởi nghề của họ là đánh

hơi các dấu hiệu của “xác chết”.

Có hai cách để thanh lý nợ xấu: thứ nhất là mua đứt bán đoạn trên cơ sở thương

lượng giữa các tổ chức “kền kền” và các ngân hàng chủ nợ. Cách này cho kết quả

nhanh và dứt điểm. Nó sẽ buộc những ngân hàng bán nợ hạch toán ngay một/nhiều

khoản lỗ và dĩ nhiên ảnh hưởng đến uy tín ngân hàng. Để “cứu” những ngân hàng

lỗ, Nhà nước và các doanh nghiệp, tổ chức tài chính khác phải vào cuộc. Sẽ lại

xuất hiện những biện pháp cũ: tái cấp vốn, góp vốn của những ngân hàng khỏe để

hỗ trợ, ưu đãi thuế...

Cách thứ hai là Nhà nước bỏ vốn thông qua NHNN vào công ty mua bán nợ và

công ty này thông qua mua nợ, trở thành cổ đông của các ngân hàng bán nợ. Khi

ngân hàng bán nợ lấy lại phong độ, Nhà nước có thể bán cổ phần của mình, thu

hồi vốn. Đây là cách mà nhiều quốc gia đã thực hiện.

Rốt cuộc áp dụng cách nào, Nhà nước, mà ở đây là ngân sách, cũng phải bỏ tiền

ra. Từ trường hợp xử lý nợ Vinashin ở Habubank dễ dàng nhận ra ngân sách đã

phải bỏ tiền ra thông qua ưu đãi thuế thu nhập doanh nghiệp ba năm cho SHB; cho

trích lập dự phòng nợ Vinashin dần từng năm thay vì tiến hành ngay một lúc theo

thông lệ quốc tế