1
BỘ TƯ PHÁP BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI CHU MẠNH HÙNG VẤN ĐỀ AN NINH CON NGƯỜI
TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
HÀ NỘI – 2012
2
BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO BỘ TƯ PHÁP
TRƯỜNG ĐẠI HỌC LUẬT HÀ NỘI CHU MẠNH HÙNG
VẤN ĐỀ AN NINH CON NGƯỜI
TRONG PHÁP LUẬT QUỐC TẾ HIỆN ĐẠI
Chuyên ngành: Luật Quốc tế
Mã số
: 62 38 01 08
LUẬN ÁN TIẾN SĨ LUẬT HỌC
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Nguyễn Bá Diến
PGS.TS. Đoàn Năng
Hà Nội - 2012
3
LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu nêu trong luận án là trung thực. Những kết luận khoa học của luận án chưa từng được ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác..
TÁC GIẢ LUẬN ÁN
Chu Mạnh Hùng
4
MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
1
Chương 1: CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN NINH CON NGƯỜI
8
1.1. Khái niệm an ninh con người
8
1.2. Mối quan hệ giữa quyền con người và an ninh con người
28
1.3. Mối quan hệ giữa an ninh con người và an ninh quốc gia
32
1.4. Vai trò của an ninh con người
40
1.5. Các nguy cơ đe dọa an ninh con người
43
Chương 2: PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT QUỐC
58
TẾ VỀ AN NINH CON NGƯỜI
2.1. Sự hình thành và phát triển của chế định an ninh con người
58
trong luật quốc tế
2.2. Quy định của pháp luật quốc tế về an ninh con người
66
2.3. Các thiết chế quốc tế bảo đảm an ninh con người
88
2.4. Các giải pháp tăng cường an ninh con người
108
Chương 3: CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
113
BẢO ĐẢM AN NINH CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
3.1. Chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam về an ninh con người 113
3.2. Pháp luật Việt Nam về an ninh con người
132
3.3. Các giải pháp góp phần tăng cường an ninh bảo đảm an ninh con
156
người ở Việt Nam
KẾT LUẬN
178
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ
181
TÀI LUẬN ÁN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
182
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
ASEAN (The Association of Southeast
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Asian Nations)
AU (Africa Union)
Liên minh châu Phi
ECOSOC (Economic and Social Council) Hội đồng kinh tế - xã hội Liên hợp quốc
EU (European Union)
Liên minh châu Âu
HRC (Human Rights Council)
Hội đồng Nhân quyền
ICCPR (International Covenant on Civil
Công ước quốc tế về các quyền dân
and Political Rights)
sự, chính trị
(International Covenant on
ICESCR
Công ước Quốc tế về các quyền kinh
Economic, Social and Cultural Rights)
tế, xã hội và văn hoá
ICJ (International Court of Justice)
Toà án công lý quốc tế
ILO (International Labour Organization)
Tổ chức Lao động Quốc tế
NGOs (Non - Governmental Organization) Tổ chức phi chính phủ
UDHR (Universal Declaration of Human
Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền
Rights)
con người
UNDP (United Nations Development Programme) Chương trình Phát triển Liên hợp quốc
UNESCO (The United Nations Educational,
Tổ chức Giáo dục, Khoa học và Văn
Scientific and Cultural Organization)
hoá Liên hợp quốc
UNICEF (United Nations Children’s Fund) Quỹ Nhi đồng Liên hợp quốc
UPR (Universal Periodic Review)
Cơ chế Đánh giá định kỳ toàn thể
WHO (World Health Organization)
Tổ chức Y tế Thế giới
6
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử phát triển của nhân loại cũng như của mỗi quốc gia, con
người luôn là trung tâm và là mục tiêu phấn đấu của cộng đồng quốc tế. Có thể nói,
những thành tựu pháp luật quốc tế và pháp luật của các quốc gia đều hướng tới bảo
vệ, phục vụ con người trên nền tảng an ninh con người phải được bảo đảm nhằm
mục đích xây dựng cuộc sống tự do, bình đẳng và hạnh phúc cho mỗi con người
trong tiến trình phát triển.
Đối với Việt Nam, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã mở ra một thời kỳ
mới, có tính bước ngoặt cả về lý luận và thực tiễn đối với sự nghiệp xây dựng đất
nước. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung và phát triển năm 2011); Chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội đến
năm 2020; Báo cáo chính trị tại Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI là những dấu
mốc lớn mang tính bước ngoặt trong nhận thức lý luận của Đảng ta về con người,
quyền con người cũng như an ninh con người. Mặt khác, Hiến pháp 1992 sửa đổi
năm 2001 cũng khẳng định chúng ta xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân và vì dân với mục tiêu vì con người. Như vậy, quan điểm
nhất quán của Đảng Cộng sản Việt Nam và Nhà nước Việt Nam coi con người là
mục tiêu cũng như động lực của quá trình phát triển xã hội. Với nhận thức như vậy
nên an ninh con người phải là vấn đề cốt lõi trong nhận thức và hành động thực tiễn.
Bởi vậy, Đảng và Nhà nước Việt Nam xác định con người ở vị trí trung tâm của các
chính sách kinh tế - xã hội, là nhân tố quan trọng để phát triển bền vững, thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Quan điểm lấy con người làm trung tâm trong chủ trương, đường lối cũng
như pháp luật được coi là nền tảng tư tưởng để Việt Nam tiếp tục con đường xây
dựng chủ nghĩa xã hội đồng thời hội nhập sâu rộng cùng cộng đồng quốc tế. Quá
trình toàn cầu hóa và sự tham gia hội nhập của Việt Nam đã tạo nhiều cơ hội để
phát triển nhưng bên cạnh đó chúng ta cũng đứng trước không ít những nguy cơ,
7
thách thức đòi hỏi Việt Nam phải kiên trì quan điểm, nhận thức và có được những
giải pháp mang tính chủ động, tích cực. Những vấn đề như việc làm của người dân,
sự lan tràn của dịch bệnh, ô nhiễm môi trường, sự gia tăng của tội phạm, hậu quả
của thiên tai... đang từng ngày, từng giờ trực tiếp tác động tới cuộc sống và sự an
lành của người dân. Những vấn đề đó có thể là mặt trái của quá trình toàn cầu hóa,
có thể là những mâu thuẫn bên trong mỗi quốc gia hoặc do thảm họa tự nhiên gây
ra. Đó là những nguy cơ không chỉ đe dọa tới sự tồn vong, tiến trình phát triển của
quốc gia mà hiện hữu hơn còn đe dọa đến cuộc sống thường ngày của người dân.
Nhận thức rõ về nó và chủ động ứng phó là trách nhiệm mỗi quốc gia phải làm. Việt
Nam phát triển đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa và xây dựng Nhà nước
pháp quyền của dân, do dân và vì dân và như vậy mục đích cuối cùng cũng là chăm
lo cho cuộc sống tốt lành của người dân.
Hơn nữa, hiện nay Việt Nam là thành viên tích cực của Hiệp hội các quốc
gia Đông Nam Á (ASEAN) và đang nỗ lực cùng tất cả các thành viên khác để hình
thành Cộng đồng ASEAN dựa trên ba trụ cột trong đó có Cộng đồng Văn hóa - Xã
hội ASEAN mà mục tiêu chính của cộng đồng này là lấy con người làm trung tâm,
có trách nhiệm xã hội nhằm xây dựng tình đoàn kết, thống nhất bền lâu giữa các
quốc gia và dân tộc ASEAN.
Những vấn đề trong nước và quốc tế, những yếu tố chủ quan và khách
quan liên quan đến mỗi quốc gia và mỗi người dân đặt ra yêu cầu phải nghiên cứu
một cách toàn diện, sâu rộng vấn đề an ninh con người. Tuy nhiên, qua khảo sát các
công trình nghiên cứu khoa học ở Việt Nam, đặc biệt dưới góc độ luật pháp quốc tế
vấn đề này chưa được chú ý đúng mức, còn nhiều ý kiến khác nhau. Xuất phát từ
những đòi hỏi cả ở phương diện lý luận và thực tiễn, tôi lựa chọn đề tài: "Vấn đề an
ninh con người trong pháp luật quốc tế hiện đại" làm luận án tiến sĩ luật học.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong quá trình triển khai đề tài, tôi đã có dịp tham khảo nhiều công trình,
bài viết khoa học về an ninh con người do các nhà khoa học ở Việt Nam và trên thế
giới nghiên cứu.
8
Tại Việt Nam, các công trình khoa học tiếp cận vấn đề này theo những
phương diện khác nhau, có thể nêu ra một số công trình như:
Năm 2004, Học viện Quan hệ Quốc tế có đề tài nghiên cứu khoa học "Các
vấn đề an ninh phi truyền thống ở Đông Nam Á: Tác động đối với ASEAN và Việt
Nam" do PGS.TS Nguyễn Phương Bình làm chủ nhiệm đề tài. Đề tài đề cập đến
những cách tiếp cận khác nhau về an ninh phi truyền thống; những thách thức của
an ninh phi truyền thống ở khu vực Đông Nam Á cũng như quan điểm và sự hợp tác
của ASEAN và Việt Nam về an ninh phi truyền thống. Nội dung nổi bật được thể
hiện trong đề tài là vấn đề an ninh con người với ý nghĩa là một biểu hiện của an
ninh phi truyền thống. Tuy nhiên, vấn đề an ninh con người mà đề tài xem xét cũng
mới chỉ dừng lại ở việc thể hiện các quan điểm khác nhau về an ninh con người.
Năm 2006, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã phát hành cuốn sách: "Chênh
lệch phát triển và an ninh kinh tế ở ASEAN" do PGS.TS Nguyễn Xuân Thắng chủ
biên. Nội dung cuốn sách đề cập đến cách tiếp cận về an ninh trong xu thế toàn cầu
hóa, từ an ninh truyền thống sang an ninh phi truyền thống mà trọng tâm là an ninh
con người dựa trên nền tảng của an ninh kinh tế.
Năm 2007, Học viện Quan hệ Quốc tế cũng thông qua đề tài nghiên cứu
khoa học cấp Bộ: " Các thách thức an ninh phi truyền thống ở Đông Nam Á và tác
động đến Việt Nam" với chuyên đề nghiên cứu là "An ninh con người" do TS. Tạ
Minh Tuấn thực hiện. Chuyên đề đã giới thiệu được tổng quan về an ninh con người
như khái niệm, đặc điểm, các yếu tố cấu thành của an ninh con người cũng như hệ
thống cơ quan bảo vệ an ninh con người. Tuy nhiên, chuyên đề này xem xét vấn đề
an ninh con người dưới góc độ quan hệ quốc tế.
Tháng 07 năm 2008, Bộ môn Quan hệ Quốc tế thuộc Đại học Khoa học xã
hội và nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh cũng đã tổ chức hội thảo "An ninh con
người ở Đông Nam Á". Hội thảo đã tập trung rất nhiều bài viết của các nhà khoa
học thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau nhưng đều có mối quan tâm chung là an ninh
con người xét ở cả bình diện rộng cũng như hẹp, thế giới cũng như Việt Nam nhưng
khía cạnh luật pháp quốc tế chưa được quan tâm nhiều trong nội dung Hội thảo và
các bài viết.
9
Năm 2009, Nhà xuất bản Khoa học xã hội đã xuất bản cuốn sách "Quyền
con người - Tiếp cận đa ngành và liên ngành khoa học xã hội" do TS. Võ Khánh
Vinh làm chủ biên. Cuốn sách cũng bao gồm tập hợp các chuyên đề của các nhà
khoa học xã hội trong đó có TS. Tường Duy Kiên với chuyên đề: "Quyền con người
và an ninh con người". Tác giả chủ yếu xem xét vấn đề quyền con người trong mối
quan hệ với an ninh con người cũng như những điểm giao thoa và những nội dung
khác biệt của hai khái niệm trong cùng một đối tượng tham chiếu là con người.
Với tạp chí chuyên ngành luật học, tác giả Chu Mạnh Hùng và tác giả Trịnh
Xuân An có bài viết: "An ninh con người trong tiến trình hình thành cộng đồng
ASEAN" đăng trên Tạp chí Luật học số 9 năm 2007. Bài viết này, các tác giả chủ
yếu phân tích các đặc điểm của an ninh con người và xem xét an ninh con người là
một mục tiêu của tiến trình hình thành và phát triển của Cộng đồng ASEAN trong
tương lai.
Trên phạm vi quốc tế, vấn đề an ninh con người cũng được nhiều tác giả và
các quốc gia, tổ chức quốc tế quan tâm điển hình như: Báo cáo phát triển con người
năm 1994 của Cơ quan phát triển Liên hợp quốc (UNDP); Tác giả Davidn Bladwin
với bài viết "Khái niệm an ninh" đăng trên tạp chí Nghiên cứu quốc tế năm 1997
(Vol 23); Tác giả Capie và Evans với cuốn sách An ninh Châu Á - Thái bình dương
được xuất bản tại Singapore năm 2002; Ủy ban An ninh con người với nghiên cứu
"An ninh con người ngày nay" xuất bản tại New York năm 2003; Bộ Ngoại giao
Nhật Bản có Sách xanh về ngoại giao, xuất bản năm 1999; Bộ Ngoại giao và
Thương mại Canada với Chính sách đối ngoại của Canada về an ninh con người; ở
Trung Quốc có tác giả Vương Dật Châu với cuốn sách "An ninh quốc tế trong thời
đại toàn cầu hóa" và được Nhà xuất bản Chính trị quốc gia xuất bản năm 2004.
Nghiên cứu của các tác giả quốc tế chủ yếu quan tâm đến an ninh con người trên
phương diện đối ngoại hoặc với ý nghĩa là một công cụ của quan hệ quốc tế và gắn
an ninh con người với các yếu tố chính trị.
Luật pháp quốc tế tạo cơ sở và khuôn khổ pháp lý cho quan hệ quốc tế giữa
các chủ thể trong đó có vấn đề an ninh con người. Tuy nhiên, nhìn nhận an ninh con
10
người dưới góc độ luật pháp quốc tế thì chưa có một công trình toàn diện mà chỉ ở
những khía cạnh đơn lẻ. Vì vậy, luận án nghiên cứu một cách toàn diện vấn đề an
ninh con người dưới góc độ luật pháp quốc tế hiện đại.
3. Mục đích, nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu của luận án
Mục đích của luận án là làm sáng tỏ bản chất của an ninh con người thông
qua việc luận giải cơ sở lý luận và thực tiễn của vấn đề an ninh con người thông qua
luật pháp quốc tế; cơ sở việc nghiên cứu các quan điểm về an ninh con người, rút ra
các đặc điểm cũng như mối quan hệ với các khái niệm có liên quan để làm sáng tỏ
bản chất của an ninh con người.
Để đạt được mục đích đó, luận án có các nhiệm vụ cơ bản sau:
- Làm rõ một số vấn đề lý luận cơ bản, ý nghĩa phương pháp luận của vấn
đề an ninh con người dưới góc độ luật pháp quốc tế.
- Nghiên cứu những qui định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam
liên quan đến an ninh con người để làm rõ và có nhận thức đúng đắn về vấn đề an
ninh con người trong tiến trình toàn cầu hóa.
- Phân tích thực trạng và những thách thức đối với an ninh con người trên
thế giới nói chung và ở Việt Nam nói riêng. Xác định rõ quan điểm, nhận thức và đề
xuất các giải pháp tăng cường bảo đảm an ninh con người đặc biệt là ở Việt Nam.
Đối tượng nghiên cứu:
Luận án nghiên cứu về an ninh con người dưới góc độ luật pháp quốc tế
hiện đại.
Phạm vi nghiên cứu:
- Luận án nghiên cứu vấn đề an ninh con người với các cách tiếp cận khác
nhau, đặc biệt là pháp luật quốc tế liên quan đến an ninh con người và những thách
thức đối với an ninh con người.
- Luận án cũng đề cập đến an ninh con người ở khu vực Đông Nam Á đặc
biệt là vấn đề an ninh con người ở Việt Nam nói chung, pháp luật và cơ chế bảo
đảm an ninh con người ở Việt Nam nói riêng.
11
4. Phương pháp nghiên cứu
- Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác -
Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề con người và an ninh con người.
- Luận án được thực hiện trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu như: Phân tích, tổng hợp, logic, lịch sử, qui nạp, đối chiếu… để làm
sáng tỏ vấn đề an ninh con người trong pháp luật quốc tế đặc biệt là những quan
điểm, giải pháp để bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam. Các phương pháp được
sử dụng để nghiên cứu mối quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong một tổng thể và
được đặt trong điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể nhằm đánh giá một cách toàn diện,
khách quan về lý luận cũng như thực tiễn bảo đảm an ninh con người trên thế giới
cũng như Việt Nam.
5. Điểm mới của luận án
- Luận án là công trình nghiên cứu đầu tiên, toàn diện về vấn đề an ninh con
người dưới góc độ luật pháp quốc tế ở Việt Nam.
- Làm rõ được cơ sở khoa học, các vấn đề lý luận về an ninh con người.
Đưa ra và làm rõ được nội hàm của khái niệm an ninh con người trong pháp luật
quốc tế.
- Luận án khái quát được nội dung, bản chất của vấn đề an ninh con người
đặc biệt là dưới góc độ pháp lý nhằm tạo ra khuôn khổ cho sự hợp tác quốc tế giữa
các chủ thể đặc biệt là chủ thể luật quốc tế.
- Phân tích đánh giá một cách chính xác, toàn diện và đầy đủ về thực trạng
cũng như những nguy cơ và thách thức đối với an ninh con người trên cả phương
diện pháp luật và thực tiễn, đề xuất phương hướng và giải pháp cụ thể nhằm thể
hiện rõ quan điểm, đường lối của Việt Nam về vấn đề an ninh con người, góp phần
hoàn thiện pháp luật liên quan đến an ninh con người ở Việt Nam.
Những kết quả nghiên cứu của luận án có giá trị tham khảo cho việc nghiên
cứu, xây dựng và hoàn thiện pháp luật Việt Nam về an ninh con người. Luận án
12
cũng có thể làm tài liệu tham khảo trong quá trình giảng dạy và học tập ở các
trường đại học, các học viện có chuyên ngành về luật học, chính trị học và quan hệ
quốc tế. Luận án cũng là một nguồn tư liệu để cán bộ làm công tác thực tiễn hiểu
đầy đủ và sâu sắc nhằm vận dụng đúng đắn các quan điểm cũng như qui định của
pháp luật liên quan đến an ninh con người đặc biệt trong bối cảnh chúng ta đang hội
nhập cùng cộng đồng quốc tế và đang nỗ lực cùng các nước trong khu vực Đông
Nam Á xây dựng thành công Cộng đồng ASEAN vào năm 2015.
6. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận án gồm 3 chương:
Chương 1: Các vấn đề lý luận về an ninh con người.
Chương 2: Pháp luật quốc tế và thực thi pháp luật quốc tế về an ninh con người.
Chương 3: Chính sách, pháp luật và các giải pháp tăng cường bảo đảm an
ninh con người ở Việt Nam.
13
Chương 1
CÁC VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ AN NINH CON NGƯỜI
1.1. KHÁI NIỆM AN NINH CON NGƯỜI
1.1.1. Định nghĩa an ninh con người
Khi gặp phải nguy hiểm hoặc cảm thấy có sự đe dọa thì mới nghĩ đến an
ninh, cho nên khi nói tới an ninh thì đặc trưng cơ bản nhất được nhắc tới là mối
quan hệ giữa uy hiếp và nguy hiểm. Trong tiếng Trung, "an ninh" được hiểu là trạng
thái với các nội dung: chưa có nguy hiểm, không bị đe dọa, không xảy ra sự cố.
Trong tiếng Anh "Security" (an ninh) không chỉ bao hàm trạng thái của an ninh như
tránh được nguy hiểm, khỏi bị lo sợ mà còn bao gồm việc bảo vệ an ninh, biện pháp
an ninh và cơ cấu của an ninh [19, tr. 99]. Với nghĩa tiếng Việt, an ninh là trật tự xã
hội, tình hình chính trị yên ổn, không lộn xộn, không nguy hiểm [107, tr. 33]. So
sánh những định nghĩa trên chúng ta thấy nội dung cơ bản là giống nhau: an ninh là
không tồn tại sự đe dọa và nguy hiểm.
An ninh không chỉ phản ánh hiện thực khách quan mà còn đề cập đến một
trạng thái tâm lý - cảm giác an toàn và đối lập với nó là cảm giác bất an. Bất an là
năng lực cảm biến của con người về những rủi ro có thể đến với mình hoặc liên
quan đến mình và vì vậy nó phần nào giống như bản năng sinh tồn hay một loại
phản ứng của con người trước những tín hiệu về sự xuất hiện của rủi ro. Bất an là
một trạng thái tâm lý bình thường và phổ biến của con người không những vậy nó
còn phản ánh sự lành mạnh của con người xét ở phương diện sinh học, thể hiện sự
nhạy cảm của con người trước những rủi ro. Tuy nhiên, khi bất an trở thành trạng
thái tâm lý phổ biến thì đó là vấn đề đáng lo ngại bởi nó nói lên tính đe dọa đối với
cộng đồng xã hội. Nếu bất an trở thành hiện tượng xã hội phổ biến, con người sẽ
phải đối mặt với những rủi ro, đó là sự khủng hoảng tâm lý có tính chất toàn diện và
sâu sắc. Con người cảm nhận về sự bất an rất khác nhau vì cảm giác không chỉ đơn
thuần là một kích thích mà nó còn là hệ quả của quá trình nhận thức [2, tr. 2].
14
An ninh là một nội dung cơ bản trong quan hệ quốc tế được điều chỉnh
bằng luật pháp quốc tế. Xét ở phương diện lý luận quan hệ quốc tế [81, tr. 31] có
những quan niệm cơ bản khác nhau về vấn đề an ninh: Chủ nghĩa hiện thực
(Realism) nhìn nhận an ninh từ khía cạnh sức mạnh quân sự và các mối đe dọa từ
bên ngoài (khách quan) thì Chủ nghĩa tự do (Liberalism) lại tiếp cận an ninh theo
nghĩa rộng bao gồm cả sức mạnh quân sự và phi quân sự, các mối đe dọa từ bên
trong lẫn bên ngoài (chủ quan, khách quan). Như vậy, dù ở khía cạnh nào thì những
quan niệm trên cũng chỉ coi quốc gia là đối tượng của an ninh.
Những thay đổi cơ bản của quan hệ quốc tế thời kỳ hậu chiến tranh lạnh
dưới tác động mạnh mẽ của làn sóng khoa học và công nghệ mới đặc biệt là công nghệ
thông tin cũng như quá trình toàn cầu hóa làm cho khái niệm an ninh được mở rộng từ
an ninh truyền thống đến an ninh phi truyền thống. An ninh truyền thống coi quốc gia
là đối tượng của an ninh: ở cấp độ thấp là việc quốc gia mất quyền kiểm soát đối với
một phần lãnh thổ hoặc dân cư; ở cấp độ cao hơn là quốc gia bị xâm chiếm làm mất
đi yếu tố chủ quyền và ở cả hai cấp độ tất cả các hành động xâm chiếm đều được
thực hiện bằng chiến tranh [93, tr. 25]. Như vậy, với an ninh truyền thống thì giá trị
của an ninh được biểu hiện bằng sự toàn vẹn của lãnh thổ và nền độc lập của quốc
gia. Những nguy cơ, những mối đe dọa lại xuất phát từ những quốc gia khác bởi
vậy vũ lực là phương thức hàng đầu được sử dụng để bảo vệ sự an toàn của chính
quốc gia đó và cân bằng quyền lực là phương cách quan trọng và nó tương đương
với năng lực quân sự của quốc gia. Như vậy, an ninh truyền thống lấy quốc gia làm
đối tượng và chủ yếu đề cập đến những quan hệ chính trị, quân sự giữa các quốc gia
nhưng an ninh phi truyền thống không chỉ quan tâm đến sức mạnh quân sự, đến
quốc gia mà còn là cá nhân con người. Theo đó, an ninh của một dân tộc không chỉ
còn bị đe dọa bởi các yếu tố chính trị, quân sự truyền thống mà còn chịu sức ép của
các yếu tố kinh tế, xã hội, tôn giáo... Hơn thế nữa, an ninh quốc gia không chỉ còn
gói gọn trong khái niệm toàn vẹn lãnh thổ, bảo đảm chủ quyền hay độc lập chính trị
mà còn bao hàm cả vấn đề ổn định hệ thống kinh tế và giữ gìn các giá trị căn bản
của dân tộc [81, tr. 32]. Do đó, với an ninh truyền thống, quốc gia là đối tượng cũng
như chủ thể của an ninh thì với an ninh phi truyền thống, con người và an ninh con
15
người là đối tượng trong đó an toàn của con người và tự do cá nhân được coi là giá
trị của an ninh. Vì vậy, các mối đe dọa đối với an ninh con người có thể xuất phát từ
quốc gia khác, có thể trực tiếp từ các quốc gia, các chủ thể phi nhà nước và các nguy cơ
có tính chất toàn cầu. Để bảo đảm an ninh con người vũ lực chỉ là giải pháp thứ yếu mà
quan trọng hơn là phát triển con người, quản lý con người. Có thể nói, an ninh con
người là điểm nối giữa an ninh truyền thống và an ninh phi truyền thống [93, tr. 46]
bởi con người là trung tâm trên các cấp độ quốc gia, khu vực và quốc tế.
Những tư tưởng về an ninh con người cũng đã xuất hiện từ lâu, ngay khi
trên cương vị người đứng đầu Hợp chủng quốc Hoa kỳ, Tổng thống Franklin
Roosevelt khi nói về bốn quyền tự do cơ bản của con người, trong đó có quyền "
không phải sống trong sợ hãi" [96, tr. 5]. Những năm 1960 khi các nhà kinh tế học
bắt đầu bàn về an ninh và các mô hình phát triển kinh tế trong đó có an ninh con
người. Đến thập kỷ 70 các nhà nghiên cứu quan hệ quốc tế đã phác thảo và tranh
luận về một mô hình trật tự thế giới mới ổn định hơn và bắt đầu quan tâm đến sự an
toàn của cá nhân con người. Giai đoạn thập kỷ 70, nhóm "câu lạc bộ Rome" đã đưa
ra hàng loạt các báo cáo về "những vấn đề của thế giới" dựa trên ý tưởng cho rằng
đang tồn tại rất nhiều vấn đề phức tạp đe dọa tất cả mọi người ở tất cả các quốc gia,
đó là: nghèo đói, vấn đề môi trường, đô thị hóa không kiểm soát được, lạm phát,
khủng hoảng kinh tế và tiền tệ...
Mỗi người trên thế giới này phải đối mặt và chịu nhiều sức ép, nhiều vấn đề
ở nhiều mức độ tác động khác nhau và đòi hỏi phải mất nhiều thời gian đấu tranh,
thậm chí vì miếng ăn cho hôm sau... người ta phải lo lắng về sức mạnh của bản thân
mình và cả sức mạnh của quốc gia mình nữa... rồi cũng có thế phải lo lắng về sức
mạnh của bản thân mình và cả sức mạnh của quốc gia mình nữa... rồi cũng có thể
phải lo lắng về một cuộc thế chiến có thể xảy ra hay một cuộc chiến tranh trong nay
mai với phe đối lập trong vùng lân cận [124, tr. 7].
Những vấn đề đặt ra và những mối quan tâm được đặt trong bối cảnh rộng
lớn đang vận động theo xu thế toàn cầu tác động đến mỗi cá nhân con người đặc
biệt là tiến trình công nghiệp hóa, tăng trưởng dân số, sự xuống cấp của môi
16
trường... Những tác động qua lại ở cấp độ vĩ mô cho chúng ta thấy rõ ràng rằng sự
tăng trưởng kinh tế toàn cầu có những giới hạn nhất định theo qui luật và vì vậy mà
rất có thể xã hội loài người phải đối mặt với một trận "Đại hồng thủy" trong tương
lai. Tuy nhiên, người ta vẫn tin rằng "một trạng thái cân bằng toàn cầu" chắc sẽ
được tạo ra để đảm bảo đáp ứng những nhu cầu cơ bản cho mỗi người và mỗi cá
nhân đều có thể có những cơ hội bình đẳng để phát huy khả năng của mình. Như
vậy, những ý tưởng ban đầu về an ninh con người và cơ hội của mỗi người trong
cuộc sống và sẽ có những cách thức chuyển đổi nhất định tạo ra sự phát triển toàn
cầu, qua đó đảm bảo được an ninh toàn cầu và tạo ra nhiều cơ hội cho mỗi cá nhân
trong cuộc sống. Năm 1980, Ủy ban độc lập về Các vấn đề phát triển quốc tế do ông
Willy Brandt làm Chủ tịch xuất bản "Báo cáo Bắc - Nam" (North - South Report).
Trong Báo cáo này ông viết:
…Báo cáo của chúng tôi dựa trên những lợi ích chung và cơ bản
nhất. Đó là những gì để nhân loại cần để tồn tại và không đặt ra những
câu hỏi về chiến tranh và hòa bình mà là về vấn đề cả thế giới sẽ làm gì
để vượt qua đói nghèo và những khoảng cách trong điều kiện sống giữa
người giàu và người nghèo… [125, tr. 13].
Tranh luận về tính cần thiết của việc thống nhất Bắc - Nam để phát triển,
Báo cáo này cho rằng tâm điểm của vấn đề chính là ý chí, nguyện vọng vượt qua
những căng thẳng, mang lại những kết quả hữu ích và có ý nghĩa cho nhân loại trên
toàn thế giới.
Ủy ban thứ hai về giải trừ quân bị và các vấn đề an ninh do Olof Palme làm
Chủ tịch và cũng là tác giả của Báo cáo nổi tiếng về "an ninh chung" (common
security) cũng quan tâm những ý tưởng khác nhau về hòa bình và an ninh. Báo cáo
này mặc dù đề cập đến những vấn đề quân sự và an ninh quốc gia nhưng cũng thừa
nhận rằng vấn đề an ninh của thế giới thứ 3 đang bị đe dọa bởi "nghèo đói và sự bất
bình đẳng về kinh tế" [126, tr. 15].
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, thế giới phải đối diện với nhiều nguy cơ
mất an ninh mới, đòi hỏi và yêu cầu phải có được những ý tưởng và sáng kiến để
17
giải quyết những vấn đề an ninh ngày càng tăng. Năm 1991, Sáng kiến Stockhom
về một nền quản trị và an ninh toàn cầu đã đưa ra lời kêu gọi vì "một trách nhiệm
chung trong những năm 1990". Kêu gọi này trùng với quan điểm của Albert Einstein
năm 1945 khi ông cho rằng "Chúng ta ở một mức độ nào đấy, có thể nói con người
là văn minh khi và chỉ khi việc tạo ra và duy trì một điều kiện sống tươm tất cho con
người được mọi người và tất cả mọi quốc gia trên thế giới thừa nhận như một nghĩa
vụ chung". Lời kêu gọi này đề cập đến những thách thức an ninh hơn là sự thù địch
và những vấn đề quân sự, chiến tranh. Năm 1995, Báo cáo của Ủy ban về quản trị
toàn cầu "Láng giềng của chúng ta" đã nhắc lại Sáng kiến Stockhom về an ninh:
"Khái niệm an ninh toàn cầu phải được mở rộng từ trọng tâm là an ninh quốc gia để
bao hàm cả an ninh cho con người và an ninh của cả trái đất" [123, tr. 338].
Đó là những ý tưởng ban đầu về an ninh con người. Khái niệm an ninh con
người xuất hiện vào đầu những năm 90 với đóng góp của Mahbub ul Haq và
Chương trình phát triển Liên hợp quốc (UNDP). Mahbub ul Haq là một nhà kinh tế
học, cố vấn lâu năm cho UNDP và là nhân vật chính trong việc đưa ra chỉ số so
sánh về phát triển con người của Liên hợp quốc (The Human Development Index -
HDI). Nỗ lực phát triển con người đặt trọng tâm của tư tưởng về phát triển và
những chính sách liên quan là sự bảo vệ cho cá nhân con người chứ không chỉ đơn
thuần là phát triển kinh tế vĩ mô. "Báo cáo phát triển con người năm 1994" của
UNDP xác định an ninh con người là sự an toàn của con người trước những đe dọa
triền miên và sự bảo vệ con người trước những biến động bất thường tổn hại đến
cuộc sống. Nội hàm của khái niệm này rộng hay hẹp tùy thuộc vào việc xác định
những gì cấu thành nên quyền và sự an toàn của con người.
Mặc dù đã có nhiều nghiên cứu nhằm lý giải câu hỏi thế nào là an ninh con
người, nhưng các cách thức tiếp cận đều thừa nhận con người có quyền được bảo vệ
an toàn và an ninh đối với bản thân họ. Nói cách khác, con người phải được bảo vệ
khỏi các mối đe dọa từ bên ngoài đối với bản thân mình và tạo lập cảm giác an toàn
trong cuộc sống gia đình, nơi làm việc cũng như trong xã hội. Vì vậy, xuất hiện các
xu hướng khác nhau khi định nghĩa an ninh con người.
18
Thứ nhất, an ninh con người được hiểu theo "nghĩa hẹp". Những người ủng
hộ trường phái này cho rằng an ninh con người tập trung chủ yếu vào các mối đe
dọa bằng bạo lực đối với các cá nhân, Tổng Thư ký Liên hợp quốc, ông Kofi Annan
cho rằng: "An ninh là việc bảo vệ các cộng đồng và các cá nhân khỏi bạo lực từ bên
trong" [96, tr. 2]. Vì thế, quan niệm này thường tập trung phân tích và nghiên cứu
chiến tranh, xung đột, bạo lực... và các tác động của chúng tới con người. Logic của
cách nhìn này là phát triển kinh tế, trật tự và hòa bình khó có thể bám rễ ở các nước
đang phát triển nếu không có một môi trường mà ở đó việc giải trừ các tay súng bất
hợp pháp được thực hiện. Nghĩa là một môi trường có thể nuôi dưỡng một trật tự
chính trị hoặc chí ít là khôi phục lại một trật tự như vậy để làm điều kiện tiên quyết
cho phát triển. Như vậy, Nhà nước vẫn đóng vai trò quan trọng trong việc bảo đảm
an ninh con người. Canada là một trong số các quốc gia theo đuổi cách tiếp cận này.
Năm 1997, trong một bài viết của mình, Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Canada ông
Lloyd Axworthy đã chỉ ra rằng an ninh con người bao gồm an ninh chống lại tình
trạng thiếu thốn về kinh tế, một chất lượng cuộc sống chấp nhận được và đảm bảo
các quyền cơ bản của con người. Ông còn tiến xa hơn khi nhận xét an ninh con
người đã trở thành một biện pháp mới của an ninh toàn cầu. Bộ Ngoại giao Canada
định nghĩa "an ninh con người là không bị các mối đe dọa rõ ràng đối với các quyền
của con người, an toàn và sinh mạng của họ". Hiểu một cách rộng hơn, an ninh con
người bổ sung cho cách hiểu truyền thống về an ninh của các quốc gia. Theo nghĩa
này, an ninh con người gồm nhiều cách tiếp cận nhằm ngăn chặn và giải quyết các
xung đột bạo lực, bảo vệ thường dân ở những nơi xung đột diễn ra và tăng cường
năng lực của Nhà nước để bảo đảm an ninh cho người dân. Đặt con người vào trung
tâm chính sách an ninh sẽ tăng cường an ninh quốc gia và quốc tế, thúc đẩy sự phát
triển ấm no của con người. An ninh của từng quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế
suy cho cùng sẽ đòi hỏi phải ngăn chặn và giải quyết các cuộc xung đột trong biên
giới quốc gia. Tuy vậy, không phải lúc nào Nhà nước cũng đảm bảo được an ninh
cho con người. Quan niệm của Canada cũng được nhiều quốc gia chia sẻ như Na
Uy, Thụy Sĩ, Nam Phi... Tuy nhiên, cũng có ý kiến cho rằng cách tiếp cận này là
nhằm nâng cao ảnh hưởng chính trị với tư cách là "cường quốc hạng trung". Sở dĩ
19
như vậy là vì bản chất an ninh con người mà chính phủ các nước này quan niệm thể
hiện những nguyên tắc trong chính sách đối ngoại của họ trong những năm 1990, đó
là: nhân quyền, luật nhân đạo quốc tế và phát triển kinh tế - xã hội dựa trên sự bình
đẳng. An ninh con người được sử dụng như một khái niệm để thực hiện chương
trình nghị sự về nhân đạo của họ như: Tòa án hình sự quốc tế, cấm mìn sát thương,
buôn bán vũ khí, bắt lính trẻ em... Chương trình nhân đạo và an ninh con người do
các quốc gia này triển khai có hiệu quả trên thực tế.
Thứ hai, an ninh con người được hiểu theo "nghĩa rộng". Các nhà nghiên
cứu đều cho rằng "Báo cáo phát triển con người " năm 1994 của UNDP đã đề cập
toàn diện về khái niệm an ninh con người. Ngày nay, thế giới đang bước sang kỷ
nguyên an ninh con người mà ở đó toàn bộ quan niệm về an ninh sẽ thay đổi một
cách căn bản. An ninh đồng nghĩa với an ninh của cá nhân con người chứ không chỉ
an ninh cho các quốc gia, an ninh của người dân chứ không chỉ là an ninh lãnh thổ.
Tương tự như vậy, chủ quyền giờ đây không chỉ được xem xét dưới góc độ bảo vệ
biên giới mà còn được đặt trên nền tảng bảo vệ người dân và trong một số trường
hợp có thể bao gồm cả việc bảo vệ họ trước chính phủ và các cơ quan nhà nước tại
chính đất nước của họ. Đây được coi là nền tảng cho một trong những nội dung
quan trọng nhất của an ninh con người, đó là an ninh lấy con người làm trung tâm.
Như vậy, theo quan điểm chính thức được ghi nhận trong "Báo cáo phát
triển con người" năm 1994, an ninh con người có hai khía cạnh: (1) An toàn trước
các mối đe dọa triền miên như đói khát, bệnh tật, áp bức; (2) Con người cần được
bảo vệ trước những biến động bất thường và có hại đối với cuộc sống hàng ngày dù
ở trong gia đình, nơi công sở hay ở cộng đồng. Ủy ban an ninh con người của Liên
hợp quốc định nghĩa an ninh con người là phải bảo vệ các giá trị cơ bản quan trọng
nhất trong cuộc sống của tất cả mọi người theo hướng tăng cường khả năng tự do
lựa chọn và hưởng thụ của con người, nghĩa là bảo vệ con người khỏi những mối đe
dọa và tình huống nguy hiểm và hiện hữu ở khắp mọi nơi. Nói cách khác, cần phải
tạo dựng cùng lúc các hệ thống chính trị, pháp luật, môi trường, kinh tế, quân sự và
văn hóa để giúp con người đặt nền móng cho sự tồn tại, cho cuộc sống của bản thân
và nhân phẩm của chính mình.
20
Nhiều nước trên thế giới ủng hộ cách tiếp cận này của Liên hợp quốc, nhất
là châu Á mà đại diện là Nhật Bản. Nhật Bản cho rằng an ninh con người bao quát
một cách tổng hợp tất cả các mối đe dọa đối với sự tồn tại, cuộc sống hàng ngày và
nhân phẩm con người [93, tr. 78]. Khi nào mục tiêu chính là đảm bảo sự tồn vong
và nhân phẩm của mỗi cá nhân thì cần phải có tư duy rộng hơn về an ninh con
người chứ không có nghĩa là bảo vệ tính mạng trong tình huống xung đột. Vì vậy,
nghèo đói, dịch bệnh, dân chủ, nhân quyền... đều trở thành mối đe dọa đối với an
ninh con người.
Như vậy, giai đoạn những năm 1990 của thế kỷ trước an ninh con người đã
trở thành đối tượng tranh luận của nhiều nhà nghiên cứu từ các lĩnh vực và trường
phái khác nhau tập trung ở hai góc độ phân tích: Thứ nhất, an ninh con người nhằm
tạo ra một không gian an toàn ở cấp độ toàn cầu theo đó các nguyên tắc cơ bản của
luật quốc tế và Hiến chương Liên hợp quốc đã coi con người ở trung tâm mọi mối
quan hệ. Vì vậy, câu đầu tiên của Hiến chương Liên hợp quốc đã viết rằng: "Chúng
tôi, nhân dân các nước (We the peoples...)" nhằm khẳng định việc bảo đảm an ninh
con người thông qua khuôn khổ luật pháp. Thứ hai, an ninh con người bao hàm
cách tiếp cận đa ngành bởi khi nói về an ninh con người là nói đến tổng thể các mối
đe dọa nhằm vào con người.
Cho dù còn nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau nhưng tôi cho rằng
trên phương diện quốc tế thì cách tiếp cận của Liên hợp quốc về an ninh con người
là đầy đủ và cần thiết. Bởi lẽ từ cách tiếp cận đó mỗi quốc gia tùy thuộc đặc thù
điều kiện riêng của mình để xử lý vấn đề an ninh con người sao cho hiệu quả nhất.
Tất nhiên, kết quả có thể khác nhau nhưng đều thể hiện nỗ lực chung của các quốc
gia, đó là hợp tác và phát triển vì con người.
Từ các quan điểm trên đây, có thể khẳng định: An ninh con người là những
bảo đảm bằng pháp luật quốc tế và pháp luật quốc gia để con người không bị đe
dọa trước các mối nguy hiểm và tạo lập một cuộc sống an toàn, phát triển.
Tiến trình toàn cầu hóa làm cho các quốc gia tăng cường sự giao lưu, hợp
tác nhưng quá trình đó cũng tạo tiền đề cho việc nhân rộng các mối đe dọa và một
21
xu hướng an ninh có vẻ như đang đảo ngược: trước đây các nước lớn luôn là mối đe
dọa đối với các nước khác thì ngày nay các nước đang phát triển cũng trở thành mối
đe dọa đối với cộng đồng quốc tế nói chung liên quan đến các vấn đề như di dân, tội
phạm, buôn lậu hoặc dịch bệnh... Ở mỗi quốc gia, các mối đe dọa cũng trở nên đa
dạng và ở nhiều tầng nấc khác nhau. Nó có thể đến từ một nhóm chính trị, sắc tộc,
tôn giáo, từ một vùng lãnh thổ hoặc từ các tầng lớp xã hội khác nhau. Chính vì vậy,
mối đe dọa đối với an ninh con người không chỉ đến từ bên ngoài mà còn đến từ
bên trong, không chỉ bởi các tác nhân nhà nước mà còn có tác nhân phi nhà nước,
nó có thể có biểu hiện bạo lực nhưng cũng có thể là các mối đe dọa phi bạo lực.
1.1.2. Đặc điểm của an ninh con người
An ninh con người phản ánh bước phát triển mới trong môi trường an ninh
truyền thống [80, tr. 34]. Xét trên phương diện lý luận cũng như thực tiễn, còn có
nhiều cách hiểu khác nhau về an ninh con người nhưng nhìn chung an ninh con
người có những đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, quan niệm về an ninh con người xác định rõ ràng chủ thể tham
gia đó chính là con người. Điều này có nghĩa rằng chính cá nhân con người cần có
an ninh, vì vậy con người là trung tâm của khái niệm. Theo cách hiểu truyền thống
khi nói tới an ninh, người ta hiểu một cách vĩ mô đó phải là an ninh của một cộng
đồng lớn (quốc gia) mà ở đó gắn liền với vận mệnh của mỗi dân tộc trước những
thời khắc của lịch sử nhưng con người với tư cách là chủ thể của an ninh sẽ đưa đến
cách nhìn trực diện hơn, trực tiếp và cụ thể hơn đối với chủ thể là cá nhân con người
xung quanh những gì đang diễn ra thường ngày. Mặc dù cách tiếp cận là như vậy
nhưng không thể phủ nhận vai trò của Nhà nước cũng như các quan niệm truyền
thống về an ninh quốc gia mà còn coi an ninh con người là một nội dung bổ sung
cho những quan niệm trước đó. Như vậy, những nỗ lực đảm bảo an ninh con người
không thể thay thế dàn xếp an ninh quốc gia, bảo vệ lãnh thổ, biên giới, bảo vệ cuộc
sống và tài sản của người dân vẫn là trách nhiệm của nhà nước mà không chủ thể
nào có khả năng, điều kiện để gánh vác nghĩa vụ này. Do vậy, an ninh quốc gia
chính là điều kiện tiên quyết để đảm bảo an ninh nói chung đặc biệt là sự sinh tồn
22
và nhân phẩm của con người. Nhà nước có vai trò tạo dựng nền tảng vững chắc về
an ninh và môi trường sống hợp lý để tạo điều kiện cho mỗi người có thể tự chăm
sóc bản thân và phát huy tối đa năng lực của mình đồng thời hạn chế và loại bỏ
những nguy cơ có thể đe dọa tới an ninh con người. An ninh quốc gia và Nhà nước
không tách rời, biệt lập mà trái lại phải bổ sung cho nhau để thực hiện những yêu
cầu cụ thể của an ninh con người. Vì vậy, giải quyết tốt mối quan hệ này thì sự bền
vững của quốc gia, an ninh con người và sự phát triển của mỗi cá nhân sẽ được bảo
đảm. Đây sẽ là nội dung cốt lõi nhất trong nội hàm khái niệm an ninh con người.
Như vậy, an ninh con người coi trật tự của quốc gia và sự an toàn của con người
làm trung tâm. Nó quan tâm tới việc làm thế nào con người sống trong một xã hội
họ có được tự do thực hiện sự lựa chọn của mình hay không, mức độ họ có thể tiếp
cận thị trường và các cơ hội xã hội và liệu họ sống trong hòa bình hay xung đột. Nói
một cách đơn giản đó là mọi mối quan tâm đều tập trung vào con người và phục vụ
con người. Cũng cần chú ý có những luồng ý kiến thậm chí muốn nâng an ninh con
người lên mức "chủ quyền con người" và hạ thấp vai trò của chủ quyền quốc gia, do
vậy gặp phải những phản ứng mạnh từ nhiều quốc gia, nhất là các nước Châu Á.
Đây là một thực tế đang diễn ra trong quan hệ quốc tế khi các vấn đề nhân đạo hoặc
nội bộ của các nước bị quốc tế hóa tạo cớ cho sự can thiệp của nước ngoài. Can
thiệp nhân đạo ở Kosovo, áp dụng cấm vận và trừng phạt vì lý do bảo vệ nhân
quyền ở Myanmar hay chống khủng bố và chống phổ biến vũ khí hủy diệt hàng loạt
ở Apganixtan và Irac là những ví dụ điển hình [96, tr. 16].
Hai là, khái niệm an ninh được xem xét trên bình diện rộng nên an ninh con
người hàm chứa một loạt những nguy cơ tiềm tàng. Theo Liên hợp quốc những
nguy cơ trên gồm: thất nghiệp, ma túy, tội phạm, ô nhiễm môi trường, vi phạm nhân
quyền và những lo ngại truyền thống là chiến tranh và bạo lực có tổ chức. Cách tiếp
cận lấy an ninh con người làm trung tâm có thể cho phép xây dựng những ưu tiên
trong chính sách mang tính đồng bộ và tổng thể. Xét ở góc độ cấu trúc an ninh toàn
cầu, sự ổn định và trật tự của hệ thống quan hệ quốc tế lấy quốc gia làm trung tâm
ngày càng bị đe dọa và chịu tác động tiêu cực từ tình trạng nghèo khổ và suy thoái
môi trường, khan hiếm nguồn lực và hạn chế trong quản lý, điều hành quốc gia. Xét
23
ở góc độ cá nhân, bên cạnh các nguy cơ nghèo đói, bệnh tật thì an sinh và cuộc sống
của mỗi người dân ngày càng bị đe dọa bởi tình trạng xung đột và bất ổn định bên
trong mỗi quốc gia do chênh lệch về trình độ và nguồn lực phát triển. Do vậy, an
ninh con người chỉ có thể được đảm bảo trên nền tảng của phát triển kinh tế một
cách bền vững, đây là điều kiện tiên quyết đảm bảo cho sự ổn định của mỗi quốc
gia cũng như trật tự pháp lý quốc tế mà ở đó quốc gia là chủ thể cơ bản [58, tr. 12].
Thứ ba, an ninh con người ghi nhận sự tùy thuộc lẫn nhau. Nếu như có một
mối đe dọa đối với an ninh con người ở một nơi nào đó trên thế giới thì cũng sẽ có
tác động liên quan đến con người ở khắp mọi nơi. Những nguy cơ lớn đối với an
ninh hiện nay như: bệnh tật, ô nhiễm môi trường… không còn là những vấn đề
riêng biệt của quốc gia mà đã trở thành vấn đề toàn cầu bởi khi an ninh của một
cộng đồng dân cư bị đe dọa ở một nơi nào đó trên thế giới thì nhiều quốc gia đều có
thể bị ảnh hưởng. Nói cách khác, hàng ngày trên thế giới có rất nhiều sự kiện xảy
ra, mỗi sự kiện thường có ảnh hưởng trực tiếp tới một nhóm người nhất định.
Nhưng các nhân tố tạo thành mối đe dọa đối với an ninh con người không chỉ là
từng sự kiện cụ thể, chúng xảy ra đồng thời hoặc liên tục tiếp nối nhau và hậu quả
của một sự kiện này có thể trở thành nguyên nhân cho một sự kiện khác. Hơn nữa,
các mối đe dọa đối với an ninh con người không có sự khác biệt về bản chất có khác
chăng chỉ là mức độ nghiêm trọng của các mối đe dọa. Người dân sống ở nước giàu
thì khả năng bị đe dọa bởi bệnh tật sẽ ít hơn người dân ở các nước nghèo do họ có
điều kiện sinh hoạt, môi trường sống và hệ thống chăm sóc sức khỏe tốt hơn. Nhưng
điều này không có nghĩa là họ không mắc các loại bệnh giống như những người
sống ở nước kém phát triển như bệnh HIV/AIDS.
Trong thời đại ngày nay, không chỉ các quốc gia phụ thuộc lẫn nhau mà con
người cũng gia tăng sự phụ thuộc do họ tương tác với nhau thường xuyên hơn. Điều
này có được là nhờ tiến bộ của khoa học công nghệ về tăng trưởng kinh tế tạo điều
kiện cho con người di chuyển xa hơn và nhanh hơn trong một khoảng thời gian
ngắn hơn rất nhiều. Khi dịch SARS bắt đầu xuất hiện ở Hong Kong thì ngay sau đó
một loạt quốc gia cũng bị ảnh hưởng. Vì thế, không thể nói việc chống dịch SARS
là công việc riêng của Hong Kong hay một quốc gia nào và dịch SARS là mối quan
24
tâm của người dân ở mọi quốc gia. Sự phối hợp của các quốc gia còn được thể hiện
trong cách đối phó của các quốc gia Đông Nam Á trước những thảm họa của tự
nhiên như trận sóng thần năm 2006. Một câu hỏi đặt ra là ngay khi tất cả các nước
trong khu vực và trên thế giới cùng phối hợp với nhau thì làm thế nào để chống lại
một cơn sóng thần khổng lồ như vậy? Sóng thần có thể dự báo trước và ngay sau
khi thảm họa xảy ra vấn đề cứu trợ cần được triển khai ngay lập tức. Tương tự như
vậy, cơn bão đổ vào Myanmar tháng 5/2008 làm chết và mất tích hơn 100.000 ngàn
người và gây thiệt hại cho quốc gia này hơn 10 tỷ USD nhưng vấn đề cứu trợ sau
cơn bão mới là điều cần nói tới khi đề cập khái niệm an ninh con người. Chính phủ
Myanmar đồng ý nhận sự cứu trợ của Liên hợp quốc thông qua vai trò điều phối của
ASEAN chứ không thả nổi vấn đề cũng là một phương cách giải quyết. Một mối đe
dọa đối với an ninh con người ở một nơi trên thế giới có liên quan đến con người ở
khắp mọi nơi và nó không còn là những vấn đề riêng biệt của mỗi quốc gia. Vì vậy,
cần phải có sự hợp tác để đối phó với các nguy cơ nói trên. Tính phức tạp của môi
trường sống của con người và các nhân tố tác động đến an ninh con người có mối
quan hệ qua lại và bổ sung cho nhau. An ninh con người đòi hỏi những nhu cầu
thiết yếu của con người phải được đáp ứng nhưng đồng thời an ninh con người cũng
khẳng định vai trò của nền hòa bình thế giới mà ở đó có sự phát triển kinh tế bền
vững, các quyền và tự do cơ bản của con người được tôn trọng, công bằng xã hội
được bảo đảm. Nghịch lý ở chỗ khi con người ngày càng có khả năng làm chủ vận
mệnh của mình thì lại phải đối mặt với ngày càng nhiều các mối đe dọa từ thiên
nhiên và từ những hậu quả do quá trình phát triển tạo ra và các nguy cơ đó thì một
quốc gia đơn lẻ không thể giải quyết được do vậy cần phải có sự hợp tác quốc tế.
Thực tế đó cho thấy, nguyên tắc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác với nhau được ghi
nhận trong Hiến chương Liên hợp quốc năm 1945 và Tuyên bố của Liên hợp quốc
về các nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế năm 1970 càng trở nên có ý nghĩa
Thứ tư, khái niệm an ninh con người về cơ bản mang tính chủ động, tích
cực. Điều này có nghĩa rằng nếu các quốc gia chú trọng tới vấn đề an ninh con
người, coi đó như một chiến lược cụ thể, dài hạn, có tác động tích cực trong việc
đảm bảo an ninh chung thì khi có khủng hoảng xảy ra, chi phí để phòng ngừa và
25
khắc phục sẽ ít hơn và có hiệu quả hơn. Ví dụ, chi phí để kiểm soát, khống chế sự
lây lan của đại dịch HIV/AIDS thông qua việc đầu tư vào chăm sóc sức khỏe ban
đầu và tăng cường giáo dục y tế cộng đồng cũng như các nguy cơ lây nhiễm… sẽ
chỉ chiếm một phần rất nhỏ trong tổng chi phí để giải quyết căn bệnh một khi nó đã
trở thành đại dịch. Với ý nghĩa như vậy, khái niệm an ninh con người cũng có thể
coi là nhân tố phát triển con người. Vấn đề an ninh con người sẽ khó được đảm bảo
khi con người không thể phát triển do không có một mức sống tối thiểu, công ăn
việc làm, có thu nhập và khi xã hội không ổn định. Hơn nữa, theo nhà tâm lý học
Abrham Maslon, nhu cầu của mỗi cá nhân sẽ tăng dần từ thấp đến cao theo năm thứ
bậc chính như: nhu cầu sinh tồn tối thiểu (ăn uống, sinh hoạt, quần áo...); nhu cầu
an ninh (an toàn về mặt sức khỏe, nhà cửa, việc làm...); nhu cầu xã hội (kết giao bạn
bè, giao tiếp, đồng nghiệp...); nhu cầu được công nhận (được tin tưởng, trân trọng,
được đánh giá đúng về những thành tích đóng góp cho cộng đồng...); nhu cầu lý
tưởng (thể hiện mục tiêu sống, khát vọng theo đuổi của bản thân) [81, tr. 50]. Từ đó
theo qui luật chung, con người sẽ có xu hướng bước lên bậc thang cao hơn khi đã
thỏa mãn những nhu cầu ở bậc thang phía dưới. Điều đó cũng có nghĩa là an ninh
của mỗi người cũng sẽ song hành cùng với nhu cầu mà con người đánh giá là cần
thiết. Vì vậy, đảm bảo được sự phát triển con người bền vững thì sẽ đảm bảo được
an ninh con người.
Từ những phân tích nêu trên, có thể khẳng định sự hình thành và phát triển
của khái niệm an ninh con người gắn liền với sự vận động của quan hệ quốc tế cũng
như luật pháp quốc tế; đồng thời giúp chúng ta phân biệt an ninh con người với một
số khái niệm có liên quan như quyền con người, an ninh quốc gia.
1.1.3. Các yếu tố cấu thành an ninh con người
Báo cáo phát triển con người của UNDP năm 1994 đã miêu tả chi tiết an
ninh con người: "Nó có nghĩa là an toàn từ các mối đe dọa đói nghèo, bệnh tật, tội
phạm, sự đàn áp. Nó cũng có nghĩa bảo vệ khỏi sự đổ vỡ có hại và bất ngờ trong
mẫu hình của đời sống hàng ngày tại gia đình, công việc, trong cộng đồng hay trong
môi trường của chúng ta" [127, tr. 23]. Cụ thể hơn, an ninh con người nghĩa là trẻ
26
em không bị chết, các bệnh tật sẽ không lan truyền, các công việc sẽ không bị mất,
các căng thẳng cộng đồng sẽ không chuyển thành xung đột bạo lực và những người
không theo đạo, không bị cưỡng bức phải im lặng. Báo cáo cũng khẳng định an
ninh con người được cấu thành từ bảy yếu tố, đó là: An ninh kinh tế (bảo đảm việc
làm và thu nhập); an ninh lương thực (không bị thiếu ăn); an ninh sức khỏe (không
bị dịch bệnh); an ninh môi trường (không bị ô nhiễm về không khí, nguồn nước…);
an ninh cá nhân (không bị đe dọa, bắt bớ giam cầm); an ninh cộng đồng (duy trì bản
sắc văn hóa, đặc trưng dân tộc) và an ninh chính trị (bảo đảm quyền tự do cơ bản
của con người về dân sự, chính trị). Thực chất, an ninh con người được xác lập trên
nền tảng của bảy yếu tố và để đảm bảo cho an ninh con người thì các yếu tố đó phải
được đảm bảo và duy trì ở mỗi quốc gia cũng như trên phạm vi thế giới. Điều này
phản ánh mối quan hệ biện chứng theo đó việc bảo đảm lĩnh vực này là tiền đề cho
an ninh của lĩnh vực hoặc chủ thể khác. Mặc dù các quốc gia chưa hoàn toàn thống
nhất quan điểm về an ninh con người nhưng những nội dung của an ninh con người
hầu như không bị tranh cãi nhiều, ngoại trừ cách thức làm sao để thực hiện việc
đảm bảo an ninh con người dựa trên các yếu tố đó.
* Về kinh tế
Ngày nay, trong xu thế toàn cầu hóa, việc ổn định nền kinh tế là yếu tố cốt
lõi để đảm bảo an ninh quốc gia với nội dung chủ yếu là bảo đảm các điều kiện để
nền kinh tế quốc gia phát triển một cách bền vững, đáp ứng ngày càng cao nhu cầu
việc làm và điều kiện sống của người dân; có khả năng thích ứng được với những
biến động của tình hình quốc tế cũng như trong nước. Xét ở góc độ rộng, an ninh
kinh tế thể hiện khả năng đối phó của nền kinh tế trước các biến cố, cú sốc từ bên
ngoài. Cuộc khủng hoảng năng lượng trong thập kỷ 70 của thế kỷ XX và gần đây
giá dầu mỏ quốc tế liên tục tăng cao đã ảnh hưởng rất lớn đến các nền kinh tế phụ
thuộc vào nhập khẩu dầu mỏ. Cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ 1997 - 1998 tại
Đông Á và hậu quả của nó cho thấy tính chất dễ bị tổn thương của các nền kinh tế
Đông Á hướng vào xuất khẩu trước những biến đổi thất thường của kinh tế quốc tế.
Từ bất ổn kinh tế, một số nước Đông Á đã rơi vào tình trạng xáo trộn về chính trị xã
27
hội và nghiêm trọng hơn là làm giảm sút lòng tin của các nhà đầu tư bên ngoài. Vì
vậy, nhiều nước Đông Á phải chấp nhận sức ép và điều kiện từ bên ngoài để đổi lấy
sự giúp đỡ về tài chính, tín dụng. Qua đó tạo cơ hội cho các thế lực bên ngoài can
thiệp sâu hơn vào nội bộ các nước, khiến tình hình càng thêm phức tạp. Không
những vậy, an ninh kinh tế còn thể hiện ở việc bảo đảm mức thu nhập cơ bản của
con người. Vì vậy, vấn đề việc làm đóng vai trò quan trọng vì không có việc làm
đồng nghĩa với việc không có thu nhập hoặc phải sống nhờ vào trợ cấp xã hội. Sự
bùng nổ dân số càng đặt ra thách thức đối với nguồn cung việc làm. Mặt khác, do sự
phát triển nhanh chóng của khoa học, công nghệ, nhiều ngành sản xuất mới ra đời
đòi hỏi trình độ tay nghề nhân công cao hơn rất nhiều trong khi đó chỉ có một bộ
phận lực lượng lao động có thể đáp ứng các yêu cầu công việc mới. Các ngành sản
xuất sử dụng nhiều lao động ngày càng thu hẹp khiến cho sức ép cạnh tranh việc
làm ngày càng lớn, đe dọa trực tiếp tới thu nhập và các chi phí đảm bảo duy trì cuộc
sống của mỗi cá nhân, quan trọng hơn là nền tảng cho an ninh con người sẽ không
được bảo đảm.
* Về lương thực
Con người chỉ có thể duy trì sự sống khi được cung cấp nguồn lương thực -
thực phẩm. Đảm bảo nguồn cung cấp lương thực - thực phẩm hay nói cách khác đó
chính là đảm bảo về an ninh lương thực. An ninh lương thực là một trạng thái mà
không lúc nào con người bị đói - nghĩa là họ có đủ các chất dinh dưỡng cho một
cuộc sống hiệu quả, hoạt bát và khỏe mạnh [32, tr. 7]. Nói như vậy có nghĩa là con
người phải có điều kiện cả về kinh tế và thể chất để tiếp cận với nguồn lương thực
cơ bản, nhưng không chỉ có vậy mà họ phải "có quyền" có lương thực, hoặc bằng
cách họ tự trồng trọt, mua hay sử dụng hệ thống phân phối lương thực chung. Như
vậy, sẵn có nguồn lương thực là một điều kiện để đảm bảo an ninh. Tuy nhiên, điều
này chưa đủ vì con người vẫn có thể bị chết đói khi lương thực dồi dào ví dụ như
hơn 2 triệu người chết đói ở Bang Bengan của Ấn độ năm 1943 trong khi bang này
không hề bị khủng hoảng lương thực. Vấn đề chủ yếu ở chỗ việc phân phối lương
thực kém hiệu quả và con người thiếu khả năng mua hàng. Trong một thế giới tiến
28
bộ như ngày nay vẫn còn hơn 800 triệu người bị đói. Số nước và khu vực luôn phải
đối mặt với tình hình thiếu lương thực không giảm, rõ nhất là châu Phi, Bắc Triều
Tiên... Qua đó có thể thấy ngoài nhân tố ảnh hưởng của thiên tai đối với khả năng
sản xuất lương thực, các chính sách và trình độ quản lý kinh tế của các chính phủ
cũng đóng góp một phần không nhỏ vào việc đảm bảo nguồn cung cấp lương thực
cũng như thu nhập cho người dân.
* Về sức khỏe
Ở các nước đang phát triển, nguyên nhân chính gây tử vong là các bệnh
truyền nhiễm và ký sinh trùng. Mỗi năm có hàng triệu người chết do các căn bệnh
này. Ở các nước phát triển, các nhân tố gây chết người thường liên quan đến hệ tuần
hoàn máu và ung thư. Ở cả hai nhóm nước này, mối đe dọa tới sức khỏe con người
sẽ thường nhiều hơn trong cộng đồng dân cư nghèo khổ nhất, những người sinh
sống ở nông thôn và nhất là trẻ em và phụ nữ. Sức khỏe có thể là một trong những
nhân tố quan trọng và trực tiếp nhất của an ninh con người. Không phải ngẫu nhiên
mà chúng ta đều coi "sức khỏe là vốn quí của con người". Sự xuất hiện của bệnh
AIDS và một số loại bệnh mới như bệnh cúm gia cầm... nếu trở thành đại dịch sẽ là
nguy cơ đe dọa tính mạng của hàng chục triệu người trên thế giới. Tuy nhiên trên
thực tế hiện nay, việc đảm bảo an ninh sức khỏe cũng có sự khác biệt rõ nét giữa
các nước công nghiệp phát triển với các nước đang phát triển bởi lẽ nó gắn với
điều kiện kinh tế, khả năng đáp ứng nhu cầu lương thực và tình trạng môi trường
thiên nhiên.
* Về môi trường
Con người sống chủ yếu dựa vào môi trường, các mối đe dọa từ môi trường
đối với con người có thể chia làm hai loại: do con người tạo ra và do thiên nhiên tạo
ra. Những mối đe dọa do con người tạo ra bao gồm thiếu nước sạch trong sinh hoạt
hàng ngày, ô nhiễm nguồn nước, ô nhiễm đất đai, sa mạc hóa, nạn chặt phá rừng, ô
nhiễm không khí. Báo cáo phát triển con người năm 2007 của UNDP cho thấy ngày
nay có trên 1 tỷ người ở các nước đang phát triển không được tiếp cận nguồn nước
một cách đầy đủ và khoảng 2,6 tỷ người thiếu các điều kiện vệ sinh cơ bản [32, tr. 8].
29
Mối đe dọa do thiên nhiên tạo ra bao gồm: bão lụt, hạn hán, động đất, sóng thần...và
sự tàn phá của thiên nhiên để lại những hậu quả to lớn như thảm họa sóng thần xảy
ra ở châu Á hồi tháng 12/2004 làm chết và mất tích khoảng hơn 200.000 người.
Khoa học đã chứng minh con người và thiên nhiên có mối quan hệ mật thiết và do
đó hiện tượng biến đổi khí hậu khiến cho thiên nhiên ngày càng khắc nghiệt bắt
nguồn từ những hoạt động của con người. Sự nóng lên của trái đất là do lượng khí
thải gây hiệu ứng nhà kính, lũ lụt và hạn hán bắt nguồn từ việc khai thác quá mức
tài nguyên rừng. Vấn đề an ninh môi trường nghiêm trọng tới mức UNDP đã dành
toàn bộ Báo cáo phát triển con người năm 2007/2008 để bàn về chủ đề này. Báo cáo
khẳng định rằng: có một điều tương đối rõ ràng là con người đang gặp phải nhiều
các trận bão lớn, lụt lội và hạn hán, chúng đang hủy hoại cơ hội của con người và
làm gia tăng bất bình đẳng. Thế giới đang tiến sát tới thời điểm không thể tránh
được thảm họa sinh thái [96, tr. 9].
* An toàn cá nhân
Trong thời đại toàn cầu hóa, an toàn của mỗi cá nhân càng quan trọng vì
tính mạng con người, chất lượng cuộc sống, quyền con người rất dễ bị xâm hại. Sở
dĩ như vậy là vì không chỉ do những nguyên nhân chiến tranh từ bên ngoài, xung
đột và bạo lực từ bên trong mà còn do những mặt trái của toàn cầu hóa mang lại. Sự
đan xen lợi ích và tùy thuộc lẫn nhau tăng lên, do đó ít khả năng xảy ra chiến tranh
lớn nhưng dễ xảy ra xung đột dù ở qui mô nào cũng đều đe dọa đến trật tự chính trị
xã hội và sự an toàn của mỗi cá nhân trong xã hội đó. Hơn nữa, những bất ổn về xã
hội, nghèo đói, thất nghiệp, bạo lực gia đình... đều có thể ảnh hưởng đến tính mạng,
sự an toàn của cá nhân. Các nước đang phát triển cũng là nơi các vấn đề phúc lợi, an
sinh xã hội thường khó được bảo đảm, dẫn đến tình trạng những người nghèo ít có
khả năng tự bảo vệ mình, do đó lại càng khó khăn hơn và rất cần được sự bảo vệ, hỗ
trợ của Nhà nước, cộng đồng.
Nhìn chung, ở tất cả các quốc gia, an toàn cá nhân thể hiện ở khía cạnh
quan trọng nhất là không phải chịu các hành vi bạo lực đối với bản thân. Cuộc sống
con người ngày càng bị đe dọa bởi nạn bạo lực khó lường trước và xuất phát từ
30
nhiều hình thức đe dọa khác nhau: đe dọa từ Nhà nước: tra tấn, lao động khổ sai; đe
dọa từ các quốc gia khác: chiến tranh, xung đột vũ trang; đe dọa từ các nhóm người
khác: xung đột sắc tộc, tôn giáo; đe dọa từ các cá nhân hoặc băng nhóm chống lại
các cá nhân và băng nhóm khác; đe dọa đối với phụ nữ và trẻ em: bạo lực gia đình,
lạm dụng trẻ em; đe dọa đối với bản thân: tệ nạn xã hội, an toàn giao thông.
Tùy điều kiện mỗi quốc gia mà các hình thức đe dọa tới an toàn cá nhân sẽ
khác nhau. Ở Mỹ, bạo lực đường phố nhiều và nguy hiểm; ở Trung Quốc, tội
phạm ma túy nhiều và các mối đe dọa đối với an toàn cá nhân mang tính xã hội
cao; ở Việt Nam số người chết và bị thương do tai nạn giao thông luôn là vấn đề
nhức nhối của xã hội... Tuy nhiên, chiến tranh và xung đột bạo lực vẫn là hình
thức đe dọa nguy hiểm và có tác động sâu rộng tới an toàn và tính mạng mỗi cá
nhân con người.
* Về cộng đồng
Yếu tố cộng đồng và an ninh của cộng đồng theo quan niệm của UNDP
được xác định mang tính định tính, vì vậy cách giải thích ở mỗi quốc gia và mỗi học
giả nghiên cứu cũng khác nhau. Tác giả Chu Công Phùng [93, tr. 21] quan niệm
yếu tố cộng đồng trong việc bảo đảm an ninh con người liên quan tới vấn đề dân số
và hậu quả của bùng nổ dân số. Tác giả Nguyễn Quỳnh Anh [93, tr. 235] cho rằng
an ninh con người chỉ được bảo đảm khi có sự an toàn của cộng đồng dân cư và
ngăn chặn xung đột giữa các cộng đồng. Những quan niệm trên không sai nhưng
chưa hoàn toàn chính xác bởi lẽ yếu tố cộng đồng mà Liên hợp quốc muốn hướng
tới đó chính là việc duy trì đặc trưng và bản sắc văn hóa riêng của từng cộng đồng
dân tộc như tác giả Trần Khánh [93, tr. 171] hoặc tác giả Tường Duy Kiên đã khẳng
định [104, tr. 183]. Sở dĩ như vậy là vì trong quá trình toàn cầu hóa các quốc gia
phụ thuộc vào nhau ngày càng nhiều hơn dẫn tới sự "va chạm" của các nền văn hóa.
Chính trong sự va chạm đó, cái riêng cái bản sắc lại trở thành đòi hỏi và niềm tự
hào của mỗi cộng đồng, dân tộc. Chính vì vậy, trong quan điểm về hội nhập quốc tế
của Việt Nam, chúng ta vẫn luôn đề cao việc giữ gìn bản sắc văn hóa với ý nghĩa là
kết tinh truyền thống mấy ngàn năm của lịch sử dân tộc. Dân tộc Việt Nam là khối
31
đoàn kết của cộng đồng 54 dân tộc anh em và bản sắc văn hóa riêng của từng dân
tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam được khẳng định trong Điều 5 Hiến pháp
1992 sửa đổi: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam các dân tộc thiểu số có
quyền dùng tiếng nói, chữ viết và giữ gìn bản sắc văn hóa của dân tộc mình". Qui
định này của Hiến pháp cũng là tinh thần mà Công ước về các quyền dân sự, chính
trị năm 1966 hướng tới. Rõ ràng rằng xét ở cả nghĩa rộng đó là với mỗi dân tộc -
quốc gia và cả nghĩa hẹp là trong khuôn khổ từng quốc gia việc giữ gìn bản sắc văn
hóa riêng và tôn trọng đặc trưng dân tộc là yếu tố tinh thần tạo nên sự đồng thuận
chung về mặt xã hội. Điều này có ý nghĩa tích cực và đặc biệt quan trọng tạo dựng
một xã hội ổn định về chính trị bởi vì nếu như chúng ta quan niệm an ninh được
nhìn nhận từ cả bên trong và bên ngoài và cả chủ quan và khách quan thì niềm tự
hào, sự đồng thuận trong lòng mỗi quốc gia - dân tộc nói chung và tư tưởng mỗi
người dân nói riêng sẽ tạo nên sức mạnh tinh thần cho chính cộng đồng, dân tộc và
quốc gia. Và như vậy, trật tự cộng đồng để xác lập nên an ninh con người dưới góc
độ luật quốc tế thực chất là quyền tự quyết của mỗi dân tộc.
* Về chính trị
Nếu như trong chiến tranh lạnh, an ninh chính trị thuộc phạm trù an ninh
truyền thống, là hệ quả từ sự đối đầu về ý thức hệ và cuộc chạy đua vũ trang trên
phạm vi toàn cầu, làm cho an ninh chính trị của thế giới và từng quốc gia luôn bị đe
dọa bởi nguy cơ chiến tranh và bất ổn định thì ngày nay khái niệm về an ninh chính
trị đã được mở rộng sang các lĩnh vực an ninh phi truyền thống như khủng bố quốc
tế, xung đột sắc tộc, chủ nghĩa ly khai và sự yếu kém của chính phủ trong điều hành
đất nước.
Sau sự kiện ngày 11/09/2001, chủ nghĩa khủng bố ngày càng phát triển và
trở nên nguy hiểm có khả năng lây lan và tác động rất lớn tới trật tự chính trị xã hội,
an ninh quốc gia và hệ thống quốc tế. Mức độ tàn bạo và qui mô của các hoạt động
khủng bố ngày càng tăng. Khủng bố đã trở thành một mạng lưới liên kết quốc tế đe
dọa ổn định chính trị ở nhiều quốc gia. Cùng với nó, chủ nghĩa ly khai phát triển rộ
lên ở nhiều nước gây phản ứng rất trái ngược trong dư luận quốc tế... đã gây ra căng
32
thẳng chính trị, thậm chí xung đột kéo theo sự can dự của nhiều nước lớn. Điều đó
cho thấy, chủ nghĩa ly khai khi được hậu thuẫn bởi các thế lực bên ngoài là mối đe
dọa lớn đối với an ninh chính trị không chỉ của một quốc gia mà còn rộng hơn thế
nữa. Không những vậy, nguyên nhân trực tiếp đe dọa an ninh chính trị là sự yếu
kém trong việc điều hành đất nước của chính phủ. Không ít quốc gia nhận được
nhiều viện trợ hoặc hỗ trợ tài chính nhưng sử dụng không hợp lý nguồn viện trợ đó
gây lãng phí, thất thoát... Có nhiều quốc gia phải đương đầu với nạn tham nhũng
tràn lan làm phương hại đến nền kinh tế. Không phải ngẫu nhiên mà Tổng Giám
đốc Tổ chức Thương mại Thế giới, ông Michael Moore khi trả lời báo chí đã nói:
"Tham nhũng là kẻ giết người...". Chính phủ điều hành nhưng dân chúng mất lòng
tin có nghĩa là an ninh chính trị đã không được bảo đảm.
Tóm lại, mặc dù còn nhiều cách hiểu và quan điểm khác nhau nhưng thực tế
là tất cả các mối quan hệ quốc tế ngày nay đều xoay quanh lợi ích và sự phát triển
của mỗi quốc gia trong đó có an ninh con người ở quốc gia đó. Hơn nữa, mỗi quốc
gia với đường lối, thể chế chính trị khác nhau nhưng đều hướng tới tạo dựng sự no
ấm trong an toàn của người dân. Vì vậy, an ninh con người với những đặc điểm và
các yếu tố cấu thành sẽ là tiền đề để mỗi quốc gia có thể hoạch định chính sách, xây
dựng khuôn khổ pháp luật phù hợp đáp ứng những nhu cầu chính đáng của người
dân cũng như những chuẩn mực quốc tế. Các yếu tố cấu thành an ninh con người
theo quan điểm của Liên hợp quốc, thực chất là những bảo đảm cho an ninh con
người mà thiếu nó an ninh con người sẽ khó được trở thành hiện thực. Mặt khác,
các yếu tố đó vừa xác định an ninh cho từng cá nhân con người cụ thể nhưng đồng
thời nó cũng nhằm khẳng định an ninh cho cả cộng đồng và dân tộc, quốc gia. Điều
này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Việt Nam khi bàn về vấn đề dân chủ,
nhân quyền và an ninh, theo đó mỗi cá nhân con người luôn sống trong một cộng
đồng nhất định và lợi ích của cá nhân luôn phải đặt trong lợi ích của cộng đồng và
lợi ích cộng đồng đã hàm chứa lợi ích của cá nhân. Đồng thời, nó cũng phản bác lại
quan điểm của các nước phương Tây khi nhìn nhận vấn đề an ninh con người và
quyền con người, họ đã tuyệt đối hóa cá nhân mà xem nhẹ yếu tố cộng đồng, đề cao
quyền của cá nhân mà xem nhẹ quyền của tập thể của dân tộc.
33
An ninh con người được xác lập và bảo đảm dựa trên 7 yếu tố cấu thành
như đã phân tích, theo tác giả Ngô Tất Tố [93, tr. 283] các yếu tố đó tạo thành hai
phạm trù vật chất và tinh thần để tạo lập cuộc sống của cá nhân con người và cộng
đồng người. Thiếu đi yếu tố vật chất, con người sẽ nghèo đói cả về nghĩa đen cũng
như nghĩa bóng và thiếu đi yếu tố tinh thần con người vẫn cảm giác không an toàn
dù rằng của cải không thiếu thốn. Vì vậy, có nhiều ý kiến và quan niệm cho rằng an
ninh con người dựa trên bảy yếu tố cấu thành theo quan niệm của Liên hợp quốc là
quá rộng nhưng theo tôi thì trên qui mô toàn cầu cần phải bao quát được tất cả
những nguy cơ đe dọa tới an ninh con người. Trên cơ sở đó, mỗi quốc gia tùy thuộc
đặc điểm và điều kiện riêng sẽ xác định ưu tiên cho chính sách an ninh con người ở
quốc gia mình bởi lẽ không một quốc gia nào có thể cùng lúc giải quyết được tất cả
những vấn đề đặt ra. Cũng như vậy, một vấn đề toàn cầu ngày nay cũng không thể
một quốc gia có thể đơn phương giải quyết được, nên luôn phải có chính sách ưu
tiên trên tinh thần hợp tác trong khuôn khổ của luật pháp quốc tế.
1.2. MỐI QUAN HỆ GIỮA QUYỀN CON NGƯỜI VÀ AN NINH CON NGƯỜI
Quyền con người là phẩm giá, năng lực, nhu cầu và lợi ích hợp pháp của
con người được thể chế, bảo vệ bởi luật quốc gia và luật quốc tế [94, tr. 135]. Theo
đó, quyền con người được xác định trên hai bình diện giá trị: đạo đức và pháp lý.
Với tư cách là giá trị đạo đức, quyền con người là giá trị xã hội cơ bản, vốn
có của con người mà nội hàm của nó dựa trên quan niệm về nhân phẩm. Nhân phẩm
con người là giá trị để phân định giữa con người với phần còn lại của thế giới. Đó là
sự bảo đảm những điều kiện tối thiểu về vật chất và tinh thần để mỗi người được
sống như một con người. Hơn nữa, mỗi người sinh ra cho dù họ có thể khác nhau về
năng lực, giới tính, chủng tộc, màu da hoặc địa vị xã hội… nhưng đều là con người,
đều thuộc về loài người do đó họ đều bình đẳng với nhau. Tuy nhiên, khác với sinh
vật, nhu cầu tự nhiên quan trọng bậc nhất đối với sự phát triển của mỗi cá nhân
cũng như sự phát triển của xã hội đó là mỗi người đều có thể làm tất cả những gì
miễn là không phương hại đến người khác nhằm theo đuổi những lợi ích của mình.
Không những vậy, nhân phẩm còn thể hiện tinh thần nhân đạo, khoan dung trong
34
ứng xử giữa con người với con người. Đặc biệt là sự quan tâm tới những người
thuộc nhóm xã hội thiệt thòi, dễ bị tổn thương…
Nếu như khái niệm quyền con người là chỉ các quyền tự do cá nhân mà mỗi
con người đều có vì lý do đơn giản họ là một con người chứ không phải là công dân
của một nhà nước; và các quyền con người cho phép cá nhân tồn tại và phát triển
trong nhân phẩm. Nhân phẩm là nguồn gốc của quyền con người vì theo cách diễn
đạt phổ biến trong các văn kiện quốc tế về quyền con người thì quyền con người bắt
nguồn từ nhân phẩm và giá trị vốn có của con người. Như vậy, xét về bản chất tự
nhiên, quyền con người không phải là thứ ban phát của Nhà nước. Khái niệm quyền
con người phản ánh mối quan hệ hai chiều giữa Nhà nước và cá nhân, công dân
trong đó luật quốc tế về quyền con người đã ràng buộc nghĩa vụ, trách nhiệm của
Nhà nước là phải tôn trọng, bảo vệ và thực hiện các quyền và tự do của cá nhân.
Các chuẩn mực quốc tế về quyền con người được hình thành và phát triển
kể từ sau thảm họa của chiến tranh thế giới lần II chính là do sự coi thường và chà
đạp thô bạo, xúc phạm nhân phẩm và lương tri nhân loại, cần thiết phải thiết lập
một tổ chức quốc tế (Liên hợp quốc), lấy tôn trọng nhân phẩm và các quyền tự do
cơ bản của con người làm tôn chỉ, mục đích cho các hoạt động của mình. Cùng với
việc duy trì hòa bình, giải quyết các tranh chấp quốc tế, hợp tác giải quyết các vấn
đề quốc tế có liên quan đến kinh tế, xã hội, văn hóa và phúc lợi xã hội, cũng đều
nhằm khuyến khích, thúc đẩy tôn trọng nhân quyền và các tự do cơ bản của con người.
Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người (UDHR)
năm 1948 được xem là những văn kiện quốc tế xác lập các khuôn khổ pháp lý trong
đó các quyền con người đã được xác định. Chính những quyền này là nội dung cơ
bản cấu thành nội hàm của khái niệm "an ninh con người" như hiện nay.
Với tư cách là giá trị pháp lý, quyền con người là một chế định pháp luật
dựa trên hai đặc trưng của con người, đó là những đặc trưng tự nhiên vốn có của
con người, của loài người và những đặc trưng xã hội của con người [13, tr. 27]. Đặc
trưng xã hội giữ vị trí quan trọng, bởi vì như C.Mác đã nói "con người là tổng hòa
các mối quan hệ xã hội". Những đặc trưng này là những giá trị đã được hình thành
35
và phát triển trong lịch sử nhân loại nhưng chỉ từ khi chủ nghĩa tư bản ra đời thì
những giá trị này mới chính thức được ghi nhận dưới hình thức pháp luật. Nội hàm
của quyền con người là những giá trị tự nhiên, vốn có của con người và đã được
luật hóa để tạo cơ sở pháp lý và những bảo đảm cho quyền con người. An ninh con
người như đã khẳng định đó là những giá trị được thừa nhận và bảo đảm để con
người được sống, phát triển một cách an toàn.
Về mặt pháp lý, quyền con người chủ yếu thể hiện mối quan hệ giữa công
dân với Nhà nước. Vì vậy, nó phản ánh mức độ hoàn thiện của Nhà nước đồng thời
là thước đo trình độ văn minh của xã hội ở mỗi quốc gia. An ninh con người không
chỉ thể hiện mối quan hệ giữa công dân với Nhà nước mà còn bị chi phối bởi các
yếu tố khách quan như sự ấm lên của trái đất do hiệu ứng nhà kính, sự biến đổi của
môi trường, khí hậu, sự gia tăng của các hoạt động khủng bố quốc tế…
Hậu quả của chiến tranh thế giới thứ hai là lý do dẫn đến sự ra đời của
UDHR năm 1948 với việc coi cá nhân con người là trung tâm. Lời mở đầu của
UDHR đề cập tới "tự do khỏi sự sợ hãi và tự do làm điều mong muốn" và an ninh
con người cũng được tiếp cận như vậy. An ninh con người hướng tới bảo vệ quyền
con người như ngăn ngừa các xung đột bằng cách đề cập tới những nguyên nhân
sâu xa của tình trạng mất an ninh và dễ bị tổn thương. An ninh con người thiết lập
giá trị toàn cầu dựa trên quyền con người. Vì vậy, an ninh con người đặt ra trách
nhiệm cho mọi người tìm kiếm các giải pháp cho việc đảm bảo quyền con người
trên cơ sở pháp luật. An ninh con người được tăng cường trong xã hội bắt đầu từ
các nhu cầu cơ bản của con người, của phụ nữ cũng như nam giới, từ an ninh cá
nhân, nghèo đói, phân biệt đối xử, công bằng xã hội và dân chủ. Tự do không bị bóc
lột hay tham nhũng bắt đầu khi mọi người không còn chấp nhận việc vi phạm các
quyền của họ.
Các vi phạm về quyền con người cho thấy sự đe dọa tới an ninh con người
và do đó chúng được sử dụng như những chỉ số trong các cơ chế cảnh báo sớm để
ngăn ngừa xung đột. Đồng thời, quyền con người còn là cơ sở chủ đạo trong quản lý
nhà nước và xã hội dân chủ. Chúng tạo ra một nền tảng để giải quyết các vấn đề xã
36
hội và toàn cầu thông qua việc tham gia tích cực của người dân, tăng cường tính
minh bạch và trách nhiệm giải trình.
Điều 3 của UDHR, Điều 9 của Công ước quốc tế về các quyền dân sự,
chính trị (ICCPR) năm 1966 cũng bảo vệ quyền tự do và an ninh của con người, đặc
biệt là quyền tự do khỏi sự sợ hãi. Ngoài ra, Điều 22 của UDHR và Điều 9 của
Công ước về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (ICESCR) năm 1966 thừa nhận
quyền được hưởng an sinh xã hội, cùng các quyền kinh tế và xã hội, tương tự như
quyền được làm điều mong muốn. Cuộc đấu tranh chống lại nghèo đói và đấu tranh
cho các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa cũng có liên quan tới an ninh, giống như
cuộc đấu tranh vì tự do chính trị và các tự do cơ bản. Quyền này không thể tách
khỏi quyền kia, chúng phụ thuộc lẫn nhau, liên quan lẫn nhau và không thể chia cắt.
Do đó, an ninh con người, quyền con người và phát triển con người là trùng khớp,
củng cố và phụ thuộc lẫn nhau đúng như cựu Tổng Thư ký Liên hợp quốc, Kofi
Annan đã nhận định: "chúng ta sẽ không có sự phát triển nếu không có an ninh,
chúng ta sẽ không có an ninh nếu không có sự phát triển, và chúng ta sẽ không có
cả hai nếu không tôn trọng quyền con người" [109, tr. 13].
Như vậy, nội hàm của quyền con người thực chất là những giá trị tự nhiên
vốn có của con người được pháp luật thừa nhận và để có được điều đó nhân loại
phải trải qua những bước thăng trầm của lịch sử. An ninh con người chú trọng tới
những bảo đảm để những giá trị của con người được hiện thực hóa. Mặc dù khái
niệm quyền con người và an ninh con người có sự khác biệt về lịch sử [104, tr. 190]
nhưng nội hàm của chúng vừa có những điểm tương đồng nhưng đồng thời lại có
những điểm khác biệt. Sự tương đồng là ở chỗ đều hướng tới con người và những
giá trị của con người phải được bảo đảm; sự khác biệt thể hiện quyền con người bao
gồm các nhóm quyền được khẳng định trong UDHR năm 1948, ICCPR và ICESCR
năm 1966… và đã được lượng hóa [93, tr. 9], an ninh con người gồm 7 yếu tố cấu
thành được đề cập trong Báo cáo Phát triển con người năm 1994 của UNDP. Đồng
thời, sự khác biệt còn thể hiện ở chỗ quyền con người khẳng định sự thừa nhận của
pháp luật đối với những giá trị tự nhiên của con người và an ninh con người hướng
37
tới việc bảo đảm cho những giá trị đó một cách hiện thực. Rõ ràng sự khác biệt này
không những không làm cho quyền con người và an ninh con người biệt lập với
nhau mà càng làm cho hai khái niệm có quan hệ khăng khít với nhau đó là đều
hướng tới hiện thực hóa giá trị con người trong thực tiễn. Đây là điểm mấu chốt để
xây dựng chính sách, pháp luật của mỗi quốc gia bởi vì mục tiêu của an ninh con
người là hướng tới cho sự bảo đảm của quyền con người. Quyền con người được
thể hiện trong tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội thì an ninh con
người cũng bao quát các lĩnh vực đó nhưng an ninh con người đặc biệt chú trọng tới
các lĩnh vực kinh tế, xã hội bởi đây là nền tảng cho an ninh con người cũng như
quyền con người bởi đó là những yếu tố hiện thực hóa những gì pháp luật đã thừa
nhận. Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin thì cơ sở hạ tầng quyết định kiến
trúc thượng tầng, kinh tế quyết định chính trị và đó là cơ sở cho an ninh con người
và quyền con người. Nếu như các quyền các quyền dân sự, chính trị các quốc gia
đều có thể bảo đảm ngay thì các quyền kinh tế, xã hội việc bảo đảm nó đến đâu còn
phụ thuộc vào đặc thù điều kiện ở mỗi quốc gia. Do đó, bảo đảm quyền con người
là mục tiêu mà nhân loại luôn phải hướng tới nhưng cái nền cho mục tiêu đó lại dựa
trên an ninh con người đặc biệt khi kinh tế có sự phát triển, các vấn đề xã hội được
giải quyết. Nhận thức đúng đắn mối quan hệ giữa quyền con người và an ninh con
người sẽ là cơ sở bảo đảm an ninh quốc gia, có được chính sách phù hợp và quan
trọng là tạo ra sự phát triển kinh tế, tiến bộ xã hội trong sự bền vững.
1.3. MỐI QUAN HỆ GIỮA AN NINH CON NGƯỜI VÀ AN NINH QUỐC GIA
An ninh quốc gia là "sự yên ổn, bền vững về chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội và biên giới, lãnh thổ của một quốc gia" [107, tr. 42]. Định nghĩa trên đã bao
quát được các lĩnh vực cấu thành của an ninh quốc gia cả ở bên trong và bên ngoài,
cả chủ quan và khách quan, trên cả phương diện đối nội và đối ngoại. Điều đó cho
thấy quốc gia chỉ có thể tồn tại và phát triển khi mà an ninh quốc gia được bảo đảm.
Tuy nhiên, trong bối cảnh quan hệ quốc tế thời kỳ chiến tranh lạnh với sự chi phối
của yếu tố ý thức hệ và được bao trùm bởi nguy cơ chiến tranh nên các chủ thể tập
trung xem xét các yếu tố bên ngoài, khách quan và trên phương diện đối ngoại để
38
ngăn chặn nguy cơ bị tấn công và bị xâm lược. Đó chính là quan niệm về an ninh
truyền thống. An ninh truyền thống lấy Nhà nước làm đơn vị (an ninh quốc gia) và
chủ yếu đề cập những quan hệ chính trị, tương quan sức mạnh quân sự giữa các
quốc gia. Các lợi ích đều phải đặt dưới lợi ích quốc gia. An ninh truyền thống là để
bảo vệ toàn vẹn lãnh thổ, chủ quyền, thể chế và giá trị của đất nước trong đó cốt lõi
là bảo vệ đất nước trước các mối đe dọa từ bên ngoài bằng tấn công quân sự. Do đó
quốc gia là chủ thể duy nhất đảm bảo sự sống còn của mình thông qua việc tăng
cường quyền lực quốc gia bằng sức mạnh quân sự và khả năng phòng thủ trong đó
con người với tư cách là nguồn nhân lực làm nên sức mạnh của quốc gia trong đấu
tranh và bảo vệ đất nước.
An ninh phi truyền thống xem xét các vấn đề vượt ra ngoài các quan hệ
chính trị và quân sự thông thường giữa các quốc gia. Đối với an ninh phi truyền
thống mối quan tâm không chỉ là quốc gia chung chung mà nó hướng tới cái cụ thể
là cá nhân và cộng đồng trong quốc gia đó. Theo quan niệm này, nền an ninh của
một dân tộc không chỉ bị đe dọa bởi các yếu tố chính trị hay quân sự truyền thống
mà còn chịu sức ép của các yếu tố kinh tế, xã hội, sắc tộc, tôn giáo hay thiên tai,
dịch bệnh. Hơn nữa, nền an ninh quốc gia không chỉ gói gọn trong khái niệm toàn
vẹn lãnh thổ, bảo đảm chủ quyền hay độc lập chính trị mà đã bao hàm cả vấn đề
đảm bảo ổn định hệ thống kinh tế và giữ gìn các giá trị căn bản của dân tộc.
An ninh con người phản ánh bước phát triển mới trong môi trường an ninh
truyền thống [80, tr. 34]. An ninh truyền thống quan tâm đến việc bảo vệ lãnh thổ,
lợi ích quốc gia hay những giá trị cốt lõi của Nhà nước. Ngày nay, an ninh đồng
nghĩa với việc bảo vệ cho người dân tránh được những mối đe dọa của bệnh tật, thất
nghiệp, xung đột xã hội cũng như những nguy cơ do biến động của môi trường. Vì
vậy, an ninh cần phải thay đổi theo hai hướng cơ bản: từ đảm bảo an ninh lãnh thổ
sang chú trọng hơn đến an ninh con người; từ an ninh bằng vũ trang sang an ninh
thông qua phát triển bền vững. Trên phương diện đối nội, con người là mục tiêu và
động lực của quá trình phát triển [32, tr. 87]. Trong chính sách đối ngoại con người
phải là đối tượng tham chiếu thay vì chỉ tập trung vào các vấn đề chủ quyền lãnh
thổ. Như vậy, dù trong chính sách đối nội hay đối ngoại và với bản thân mỗi quốc
39
gia hoặc cộng đồng quốc tế thì vấn đề con người hay an ninh con người luôn
đóng vai trò quan trọng như sự tồn tại hòa bình của mỗi quốc gia trong cộng đồng
quốc tế.
An ninh quốc gia là yếu tố cốt lõi bảo đảm cho sự tồn tại và phát triển của
quốc gia từ trong lịch sử, hiện tại và tương lai. Tuy nhiên, sự xuất hiện của khái
niệm an ninh con người cũng đưa tới nhiều quan điểm khác nhau. Z.Z.Biktimirova
cho rằng, "an ninh con người được xác định rộng hơn an ninh quốc gia. An ninh
quốc gia là một trong những hình thức đảm bảo an ninh xã hội (cộng đồng) - một
trong những phương diện chủ yếu của an ninh con người". Ngược lại, khi nghiên
cứu vấn đề an ninh trong bối cảnh phát triển bền vững, A.I.Romanovich lại cho
rằng: để đảm bảo cho an ninh cá nhân, xã hội và Nhà nước trong mô hình phát triển
bền vững, quan trọng là đảm bảo an ninh cho cả hệ thống rộng lớn hơn, tức là cho
toàn bộ cộng đồng thế giới, toàn bộ hệ thống "tự nhiên - xã hội" [73, tr. 12]. Việc
đảm bảo an ninh trong mô hình phát triển bền vững phải tuân thủ nguyên tắc hệ
thống. Theo nguyên tắc này, việc đảm bảo an ninh cho một hệ thống lớn phải được
ưu tiên hơn việc đảm bảo an ninh của các hệ thống nhỏ trực thuộc. Theo đó, cần
phải xếp mức độ quan trọng và cần được ưu tiên việc đảm bảo an ninh cho cả hệ
thống theo thứ tự toàn cầu, khu vực, quốc gia, cộng đồng, cá nhân. Như vậy, theo
quan điểm đảm bảo an ninh trong mô hình phát triển bền vững thì phải coi trọng an
ninh quốc gia hơn an ninh con người.
Các học giả ở các nước tư bản phát triển như Mỹ, Canada, Anh, Thụy
Điển… khi nói đến an ninh con người luôn nhấn mạnh an ninh của con người cá thể
và quan tâm đến quyền lợi của cá nhân. Học giả người Mỹ, Robert Johanssen cho
rằng: trong khi nhấn mạnh an ninh quốc gia nhưng lại không thể bảo đảm điều kiện
sinh tồn của nhân dân trong nước thì khái niệm an ninh quốc gia không có ý nghĩa
gì [98, tr. 27]. Ngược lại, phần lớn các học giả ở các nước đang phát triển lại cho
rằng khi đề cập đến an ninh con người cần đưa nó vào phạm trù an ninh quốc gia và
chỉ khi an ninh quốc gia được bảo đảm thì an ninh con người mới được bảo đảm,
chỉ khi quốc gia ổn định, phát triển nhanh và bền vững thì mới có điều kiện đảm
40
bảo cho mọi cá nhân trong xã hội có được đời sống vật chất, văn hóa tốt [23, tr. 8].
Tôi cho rằng, sự xuất hiện và tồn tại của khái niệm an ninh con người không phủ
nhận đi vai trò của an ninh quốc gia mà ngược lại đó là sự bổ sung cho an ninh quốc
gia, bởi vì an ninh con người là điểm nối giữa an ninh truyền thống và an ninh phi
truyền thống thể hiện thông qua mối quan hệ giữa an ninh con người và an ninh
quốc gia:
Thứ nhất, an ninh con người khẳng định trực tiếp chủ thể thụ hưởng là cộng
đồng dân cư ở mỗi quốc gia. Nói như vậy cũng không có nghĩa là tuyệt đối hóa con
người cụ thể (cá nhân) hoặc con người trừu tượng (cộng đồng) mà con người được
đề cập ở đây bao gồm cả cá nhân, cộng đồng, dân tộc cũng như toàn bộ dân cư hiện
diện trên lãnh thổ một quốc gia. Con người là đối tượng tham chiếu, chủ thể của an
ninh con người nhưng không thể phủ nhận vai trò của nhà nước cũng như các quan
niệm truyền thống về an ninh quốc gia. Bảo đảm an ninh con người không thể thay
thế việc bảo vệ biên giới, lãnh thổ quốc gia; bảo vệ cuộc sống và tài sản của nhân
dân vẫn thuộc về trách nhiệm của quốc gia. Vì vậy, có thể nhìn nhận rằng, an ninh
quốc gia chính là điều kiện tiên quyết bảo đảm an ninh nói chung cũng như sự sống
và nhân phẩm của mỗi người. An ninh con người không thể đặt ra ngoài khuôn khổ
của chủ quyền quốc gia với tư cách là một thuộc tính chính trị - pháp lý gắn liền với
sự tồn tại, phát triển của quốc gia cũng như tư cách chủ thể luật quốc tế của quốc
gia. Chủ quyền quốc gia được xác lập là cơ sở để bảo vệ và phát triển nhân quyền
đích thực của nhân dân mỗi nước [104, tr. 181].Với Việt Nam, mối quan hệ này
được thể hiện rất rõ trong quan điểm phát triển mà Đảng Cộng sản Việt Nam đã
khẳng định con người vừa là mục tiêu vừa là chủ thể của quá trình phát triển. Như
vậy, an ninh con người vừa được nhìn nhận ở phương diện đối nội nhưng đồng thời
cũng là một yếu tố trong chính sách đối ngoại của mỗi quốc gia và đó cũng chính là
thuộc tính của chủ quyền quốc gia. Điều này càng làm rõ hơn mối quan hệ giữa an
ninh con người và an ninh quốc gia khi cho rằng an ninh quốc gia là điều kiện tiên
quyết để đảm bảo cho an ninh con người và ngược lại an ninh con người là sự bổ
sung và cách nhìn mới về an ninh quốc gia.
41
Thứ hai, an ninh con người là một giá trị phổ biến và vì vậy tính lan tỏa
cũng như những nguy cơ đe dọa được xem xét trên bình diện rộng. Theo Liên hợp
quốc, các nguy cơ bao gồm: thất nghiệp, ma túy, tội phạm, ô nhiễm môi trường, vi
phạm nhân quyền và những lo ngại truyền thống như chiến tranh. Những nguy cơ
đó, không chỉ đe dọa tới cuộc sống an lành của con người mà nó còn đe dọa tới sự
ổn định, phát triển của mỗi quốc gia. Do đó, khái niệm an ninh con người không
làm mất đi tính chính xác của cách tiếp cận an ninh truyền thống mà còn bảo đảm
được tính bao quát của cách tiếp cận mới đối với những vấn đề an ninh mang tính
phi quân sự. An ninh con người cho phép xây dựng những ưu tiên trong chính sách
mang tính đồng bộ và tổng thể. Xét ở góc độ cấu trúc an ninh toàn cầu, sự ổn định
và trật tự của hệ thống quan hệ quốc tế lấy quốc gia làm trung tâm ngày càng bị đe
dọa và chịu tác động tiêu cực từ tình trạng nghèo khổ và suy thoái môi trường, khan
hiếm nguồn lực và hạn chế trong quản lý, điều hành quốc gia. Xét ở góc độ cá nhân,
bên cạnh các nguy cơ nghèo đói, bệnh tật thì sự an sinh và cuộc sống của mỗi người
dân ngày càng bị đe dọa bởi tình trạng xung đột và bất ổn định bên trong mỗi quốc
gia do chênh lệch về trình độ và nguồn lực phát triển. Do đó an ninh con người đòi
hỏi mỗi quốc gia phải nỗ lực để tăng cường an ninh trước hết là cho chính quốc gia
trên cơ sở phát triển kinh tế, tăng cường đồng thuận xã hội và ổn định chính trị và
có những giải pháp hữu hiệu trong chính sách đối ngoại và hợp tác quốc tế để giảm
thiểu tác động của những nguy cơ cũng như mặt trái của quá trình toàn cầu hóa.
Thứ ba, an ninh con người phản ánh quan hệ hợp tác giữa các quốc gia
trong cộng đồng quốc tế. Một mối đe dọa đối với an ninh con người ở một nơi trên
thế giới có liên quan đến con người ở nhiều nơi. Nguy cơ đối với an ninh hiện nay
như đói khát, bệnh tật, ô nhiễm môi trường, xung đột sắc tộc và phân hóa xã hội
không còn là những vấn đề riêng biệt của mỗi quốc gia. Vì vậy, cần phải có sự hợp
tác để đối phó với các nguy cơ nói trên. Tính phức tạp của môi trường sống của con
người và các nhân tố tác động đến an ninh con người có mối quan hệ qua lại và bổ
sung cho nhau. An ninh con người đòi hỏi những nhu cầu thiết yếu của con người
phải được đáp ứng nhưng đồng thời an ninh con người cũng khẳng định vai trò của
nền hòa bình thế giới mà ở đó có sự phát triển kinh tế bền vững, các quyền và tự do
42
cơ bản của con người được tôn trọng, công bằng xã hội được bảo đảm. Bởi vậy, an
ninh con người phản ánh nhu cầu cũng như vai trò của hợp tác quốc tế giữa các
quốc gia. Hợp tác quốc tế là điều tất yếu gắn liền với sự tồn tại và phát triển của mỗi
quốc gia nhưng những nguy cơ đe dọa tới an ninh con người lại thúc đẩy hơn nữa
cho quá trình hợp tác quốc tế bởi vì những nguy cơ đó đơn phương quốc gia hoặc
một nhóm quốc gia không thể giải quyết. Đó cũng là nguyên tắc cơ bản được khẳng
định trong Hiến chương Liên hợp quốc cũng như tôn chỉ cho hoạt động của Liên
hợp quốc, đó là tăng cường thúc đẩy hợp tác quốc tế giữa các quốc gia nhằm giải
quyết các vấn đề toàn cầu.
Thứ tư, an ninh con người và việc xác định rõ những nguy cơ đe dọa tới an
ninh con người, tạo ra các giải pháp thể hiện tính chủ động. tích cực. An ninh con
người sẽ không được bảo đảm khi con người không thể phát triển do không có mức
sống đàng hoàng và khi xã hội không ổn định; khó có thể có được nguồn lực để
ngăn chặn dịch bệnh hoặc giải quyết hậu quả của thiên tai; xem nhẹ yếu tố môi
trường đồng thời quốc gia phải gánh chịu hậu quả về kinh tế, xã hội cũng như sức
khỏe của người dân không được đảm bảo… Do đó, nỗ lực trên tinh thần chủ động
của mỗi quốc gia chính là điều kiện để mỗi quốc gia đảm bảo an ninh chung của
quốc gia trong đó có an ninh con người.
Từ mối quan hệ an ninh con người và an ninh quốc gia, nhìn rộng hơn nó có
tác động tới an ninh quốc tế. Thế giới ngày nay không còn tồn tại những quốc gia
biệt lập và mỗi quốc gia độc lập có chủ quyền là một thành viên của cộng đồng
quốc tế. Hành vi của mỗi quốc gia với cộng đồng quốc tế có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Bất kể sự việc nào lấy danh nghĩa quốc gia để xử lý đều trở thành mối
quan tâm của cộng đồng quốc tế. Cho nên, quốc gia cần bảo đảm an ninh nhưng
không thể là hành vi của quốc gia đơn lẻ mà không ảnh hưởng tới các mối quan hệ
quốc tế và vì vậy nhu cầu an ninh của một quốc gia trở thành một bộ phận hợp
thành của an ninh quốc tế. An ninh quốc tế của một quốc gia chính là an ninh của
quốc gia đó được thực hiện trong cộng đồng quốc tế [19, tr. 78]. Do đó, an ninh con
người không chỉ là sự bổ sung cho an ninh quốc gia mà còn góp phần bảo đảm an
ninh quốc tế.
43
Ngày nay an ninh con người hiện hữu trong thực tiễn của mỗi quốc gia và
cũng là khái niệm được sử dụng trong quan hệ quốc tế. Sẽ là phiến diện nếu cho
rằng sự xuất hiện của khái niệm an ninh con người sẽ phủ nhận đi vai trò của an
ninh quốc gia bởi sự xem nhẹ yếu tố chủ quyền. Mặc dù quá trình toàn cầu hóa diễn
ra mạnh mẽ, các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau nhiều hơn nhưng mỗi quốc
gia vẫn là những chủ thể độc lập của luật quốc tế với sự hiện diện của chủ quyền
quốc gia. Vì vậy, nhìn nhận đúng về an ninh con người, các nguy cơ đe dọa cũng
như mối quan hệ giữa an ninh con người với an ninh quốc gia sẽ đem tới cái nhìn
toàn diện hơn đối với những thách thức cho sự phát triển của mỗi quốc gia trong
quá trình toàn cầu hóa như phát biểu của Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam Nguyễn Minh Triết tại Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 15 ở Sydney
(Australia): "An ninh con người là vấn đề mang tính sống còn, gắn liền với sự ổn
định và thịnh vượng của mọi quốc gia và nền kinh tế" [57]. An ninh con người sẽ là
sự bổ sung tích cực cho an ninh quốc gia trên nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ
quyền cũng như không can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia khác. Điều này
sẽ luôn đúng như khẳng định của Hiến chương Liên hợp quốc, các nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế cũng như quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam:
Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc
đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống, và nhất là tình trạng biến
đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực có liên
quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động, kiên quyết đấu tranh làm thất bại
mọi âm mưu, hành động can thiệp vào công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ
quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt
Nam [32, tr. 237].
Ở Đông Nam Á, khởi đầu hầu hết các nước tiếp cận khái niệm này với thái
độ khá thận trọng và nghi ngờ vì đa phần các nước đều trải qua một thời gian dài bị
chiếm đóng bởi chủ nghĩa thực dân nên đều coi an ninh quốc gia là trung tâm và
nhấn mạnh đến chủ quyền, phản đối sự can thiệp của các quốc gia khác. Việt Nam
cũng không phải là ngoại lệ, một số quan niệm khác còn cho rằng:
44
An ninh con người đặt vào vị trí cao hơn an ninh quốc gia, coi nhân quyền
cao hơn chủ quyền như vậy sẽ xem nhẹ hay thậm chí bỏ qua tiến trình lịch sử của
dân tộc và nhân loại, xóa bỏ những nguyên tắc cơ bản của hệ thống quan hệ quốc tế,
trong đó quốc gia - dân tộc và Nhà nước là chủ thể chính, đối tượng an ninh hàng
đầu cần được bảo vệ. Vì vậy, tuyệt đối hóa an ninh con người sẽ là nguy hiểm, làm
suy yếu nhà nước, quốc gia - dân tộc, tạo ra sự bất ổn nhất là đối với các nước có
trình độ dân trí thấp, kinh tế kém phát triển [15].
Dù có cách nhìn, cách hiểu cũng như sự tiếp nhận khác nhau giữa các nước,
các nhà khoa học, nghiên cứu về lý luận và thực tiễn về khái niệm an ninh con
người dựa trên những thay đổi hiện thực của đời sống chính trị, xã hội, kinh tế, bối
cảnh địa chính trị, thế cân bằng về lực lượng giữa các châu lục, quốc gia và thế giới,
thì cần phải tiếp tục nghiên cứu và tiếp thu có chọn lọc. Tuy nhiên, mục tiêu mà
nhân loại hướng tới nhất định vẫn phải lấy tiêu chí là bảo vệ quyền và tự do cơ bản
của con người, các giá trị của con người cần phải được ưu tiên, phải được tôn trọng
và bảo vệ. Điều đó cũng được phản ánh khá rõ trong các lý thuyết phát triển, phát
triển vì con người, lấy con người là trung tâm trong hoạch định chính sách phát
triển kinh tế, xã hội của quốc gia.
An ninh con người và an ninh quốc gia có mối quan hệ biện chứng nên
không thể có an ninh con người nếu không gắn liền với Nhà nước, chế độ xã hội với
tính giai cấp của Nhà nước [13, tr. 32]. Trong các cuộc cách mạng dân chủ tư sản,
giai cấp tư sản đã giương cao ngọn cờ tự do, bình đẳng, bác ái nhằm tập hợp lực
lượng lật đổ chế độ chuyên chế phong kiến. Đây là một bước tiến trong lịch sử loài
người nhưng cũng chính các nước tư bản chủ nghĩa đi xâm lược các nước, các dân
tộc chà đạp lên chủ quyền và an ninh con người của các dân tộc đó.
Trong quan hệ quốc tế ngày nay các nước đế quốc cũng lợi dụng vấn đề an
ninh con người trong chính sách đối ngoại để can thiệp vào công việc nội bộ của
các quốc gia khác. Tôi cho rằng nhận thức tính giai cấp của an ninh con người
không phải là né tránh vấn đề này, trái lại cần chủ động, nêu cao tinh thần cảnh
giác, tránh sơ hở để các thế lực thù địch có thể lợi dụng. Mặt khác, cần phải xây
45
dựng chính sách, pháp luật về an ninh con người phù hợp với bản chất và định
hướng xã hội chủ nghĩa.
1.4. VAI TRÒ CỦA AN NINH CON NGƯỜI
An ninh con người phản ánh sự tùy thuộc lẫn nhau giữa các quốc gia và
cộng đồng quốc tế trong bối cảnh toàn cầu hóa. Chiến tranh lạnh kết thúc và đồng
thời một loạt các yếu tố mới xuất hiện trong quan hệ quốc tế đòi hỏi cần có sự điều
chỉnh của luật pháp quốc tế. An ninh con người chính thức được đề cập đến trong
Báo cáo Phát triển con người năm 1994 và đưa tới nhiều quan điểm khác nhau của
các quốc gia. Có quốc gia cho rằng, an ninh con người theo quan niệm của Liên hợp
quốc là quá rộng và cũng có quốc gia coi an ninh con người là cái cớ để các quốc
gia khác can thiệp vào công việc nội bộ của quốc gia. Theo tôi, dù quan niệm thế
nào đi chăng nữa nhưng mỗi quốc gia và cộng đồng quốc tế đều đang đứng trước
một thực tế là những nguy cơ đe dọa trực tiếp tới cuộc sống hàng ngày của con
người ở khắp mọi nơi trên thế giới. Năm 2009 hơn 200 triệu người đã bị ảnh hưởng
bởi thiên tai trong khi bạo lực và xung đột đã đẩy 42 triệu người phải rời bỏ nhà của
ra đi [5]. Thực tế đó đặt các quốc gia dù muốn hay không, ủng hộ hay phản đối đều
phải có hành động để đảm bảo an ninh con người. Vì vậy, an ninh con người có vai
trò tích cực trên cả phương diện lý luận và thực tiễn.
Thứ nhất, ghi nhận sự tồn tại của một quan niệm mới trong quan hệ quốc tế
trên nền tảng của khái niệm đã có và các yếu tố cấu thành. Khái niệm quyền con
người đã xuất hiện trong lịch sử và được thừa nhận trong pháp luật quốc tế nhưng
sự xuất hiện của khái niệm an ninh con người không phủ nhận đi quyền con người
mà an ninh con người chính là những bảo đảm để quyền con người được hiện thực
hóa bởi vì mục tiêu của an ninh con người là hướng tới bảo vệ quyền con người.
Thứ hai, an ninh con người đòi hỏi mỗi cá nhân con người cần phải nhận
thức về chính mình và có những hành động tích cực hơn đối với xã hội. Xã hội tốt
khi xã hội đó được điều hành và quản lý tốt và quan trọng hơn là những cá nhân
trong xã hội đó luôn luôn có những hành động tích cực. Vì vậy, an ninh con người
46
không chỉ là vấn đề của pháp luật quốc tế, pháp luật quốc gia mà nó còn góp phần
tạo dựng các giá trị văn hóa, xã hội thông qua vai trò của cá nhân.
Thứ ba, sự xuất hiện của khái niệm an ninh con người là sự bổ sung và làm
phong phú khái niệm an ninh quốc gia. Bởi lẽ, theo quan niệm truyền thống, an ninh
quốc gia được tiếp cận chủ yếu ở phương diện đối ngoại xung quanh hàng rào biên
giới và toàn vẹn lãnh thổ. Thời kỳ nào cũng vậy và trong bất kỳ quan hệ quốc tế
nào, quốc gia luôn cần và thể hiện sự độc lập của mình bởi đó là minh chứng của
chủ quyền nhưng chủ quyền cũng đồng nghĩa việc thừa nhận giá trị con người thông
qua phát triển con người bằng hệ thống quyền con người và được bảo đảm trên cơ
sở an ninh con người. Do đó, sự toàn vẹn của lãnh thổ cũng đồng thời bảo đảm an
toàn của cộng đồng dân cư trên lãnh thổ quốc gia. Tất nhiên, nếu chỉ là sự toàn vẹn
của lãnh thổ chưa hẳn đã bảo đảm được an toàn và an ninh con người trên lãnh thổ
đó. Quốc gia với tư cách chủ thể luật quốc tế khi có lãnh thổ xác định, dân cư ổn
định, chính phủ điều hành tốt và chủ quyền được bảo đảm thì an ninh quốc gia
chính là bảo đảm cho sự hiện hữu có hiệu quả của quốc gia. Bởi vậy, an ninh con
người khẳng định rõ hơn mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng thông qua quyền
của cá nhân và quyền dân tộc tự quyết nhưng đồng thời nó còn làm sáng tỏ hơn vai
trò của quốc gia với tư cách chủ thể của luật quốc tế, tạo ra nhận thức mới về chủ
quyền quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa.
Thứ tư, an ninh con người góp phần hình thành nên quan điểm tổng thể
trong nhận thức và hành động của các quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế đối với
những vấn đề toàn cầu. Những vấn đề toàn cầu bản thân nó không giới hạn biên
giới, lãnh thổ của các quốc gia và vì vậy nó cũng không loại trừ quốc gia nào. Thực
chất, các vấn đề toàn cầu xét ở một phương diện nào đó nó cũng là cú hích để các
quốc gia tập trung phát triển kinh tế, giải quyết các vấn đề xã hội trên quan điểm
phát triển và việc tập trung xử lý các vấn đề toàn cầu là nhịp cầu để các quốc gia
xích lại gần nhau, giảm bớt những căng thẳng xung đột. An ninh con người trước
thách thức của những vấn đề toàn cầu như một giải pháp để tạo lập nền hòa bình và
đảm bảo an ninh quốc tế.
47
Thứ năm, an ninh con người sẽ thúc đẩy hơn nữa các nỗ lực hợp tác quốc tế
của các quốc gia. Bản thân sự tồn tại của mỗi quốc gia trong cộng đồng quốc tế đã
đòi hỏi có sự hợp tác quốc tế và đó là sự hợp tác trên tinh thần thiện chí và tích cực.
Nó thể hiện sự tuân thủ của các quốc gia đối với nguyên tắc Tận tâm thực hiện các
cam kết quốc tế cũng như tôn chỉ mà Liên hợp quốc hướng tới. Quan trọng hơn là
thách thức toàn cầu tác động tiêu cực tới an ninh con người và an ninh con người
không thể được bảo đảm nếu thiếu đi sự hợp tác của các quốc gia bởi ô nhiễm môi
trường xảy ra ở nước này nhưng hậu quả quốc gia khác phải gánh chịu, hoặc khủng
bố xảy ra ở một quốc gia nhưng kẻ khủng bố lại ẩn náu ở một quốc gia khác.
Thứ sáu, an ninh con người góp phần khẳng định vai trò của các tổ chức
quốc tế đặc biệt là Liên hợp quốc trong việc xử lý các vấn đề toàn cầu và khu vực.
Mỗi tổ chức quốc tế đều có chức năng, nhiệm vụ riêng nhưng đó đều là các trung
tâm phối hợp hợp tác và hành động của các quốc gia và ngược lại những quyết định
của các tổ chức quốc tế ở một chừng mực nào đó cũng tạo ra sự ràng buộc cho các
quốc gia và thúc đẩy các quốc gia trong việc nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế
liên quan đến vấn đề an ninh con người. Bảo đảm những thành quả đạt được hôm
nay không bị mất đi trong các cuộc khủng hoảng tương lai [5]. Do đó, các quốc gia
phải tập trung xây dựng và thực hiện chiến lược phòng ngừa toàn diện và cụ thể, lấy
con người làm trung tâm, coi đó là cách tiếp cận mới vì an ninh con người.
Thứ bảy, an ninh con người đòi hỏi phải nâng cao nhận thức về luật pháp
quốc tế. Luật pháp quốc tế với hệ thống các nguyên tắc và qui phạm pháp luật xác
lập quyền, nghĩa vụ và ràng buộc trách nhiệm đối với các chủ thể. Do đó, an ninh
con người cần trực tiếp được ghi nhận và điều chỉnh bằng luật pháp quốc tế sẽ ràng
buộc trách nhiệm cho các quốc gia. Hiệu quả của luật pháp thể hiện ở ý thức thực
thi, tuân thủ của các chủ thể nhưng để có được ý thức và sự tự nguyện nó phải xuất
phát từ lợi ích của chính chủ thể, sự tự giác và quan trọng hơn đó là ý thức về trách
nhiệm mà chủ thể phải gánh chịu nếu không tuân thủ.
Với vai trò như vậy nên cần thiết phải tăng cường nhận thức và bảo đảm an
ninh con người đặc biệt là trên phương diện pháp lý. Mặc dù còn tồn tại cách hiểu,
48
cách tiếp cận khác nhau giữa các nước, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu nhưng sự
thay đổi của điều kiện kinh tế, bối cảnh chính trị xã hội giữa các châu lục, quốc gia
và thế giới; song mục tiêu nhân loại cần hướng tới, nhất định vẫn phải lấy tiêu chí là
bảo vệ quyền và các tự do của con người, các giá trị của con người phải được ưu
tiên, tôn trọng và bảo vệ. Nguyên lý này được phản ánh khá rõ trong các lý thuyết
phát triển, là phát triển vì con người, lấy con người làm trung tâm trong hoạch định
chính sách phát triển kinh tế, xã hội của quốc gia.
An ninh con người luôn bị đe dọa bởi các nguy cơ toàn cầu cho nên sự điều
chỉnh của luật pháp quốc tế chính là tạo ra cơ sở pháp lý cho sự hợp tác quốc tế và
góp phần đẩy lùi các nguy cơ. Đó chính là phương thức hữu hiệu, công cụ hiệu quả
nhằm bảo đảm cho an ninh con người.
1.5. CÁC NGUY CƠ ĐE DỌA AN NINH CON NGƯỜI
Trong lịch sử phát triển của mình, con người đã tác động, biến đổi môi trường
xung quanh để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng lên của bản thân [65, tr. 13]. Để
tác động vào thế giới tự nhiên có hiệu quả hơn, loài người đã biến đổi nó một cách
có tổ chức, có tính tập thể và làm xuất hiện cấu trúc xã hội. Cấu trúc đó đạt tới qui
mô quốc gia và hiện nay trong quá trình toàn cầu hóa, nó đã vượt ra khỏi phạm vi
quốc gia và mang tính chất toàn cầu. Quá trình phát triển của văn minh loài người
một mặt đưa lại sự phồn thịnh và mức sống ngày càng cao cho con người nhưng
cũng làm xuất hiện những yếu tố tiêu cực đối với cuộc sống của con người và sự ổn
định của các quốc gia. Ngoài ra, trong quá trình phát triển của mình, con người
không chỉ tăng cường liên hệ với môi trường tự nhiên mà còn tăng cường các mối
liên hệ lẫn nhau giữa con người với con người. Mối liên hệ đó cũng có mặt tích cực
và tiêu cực. Các cuộc chiến tranh trong tương lai có thể hủy diệt những khu vực
rộng lớn trên trái đất bằng vũ khí hạt nhân, vũ khí sinh hóa học.
Ngày nay, các quốc gia và cộng đồng quốc tế đều nhận thức được rằng rất
có khả năng xảy ra những biến cố do ý đồ của các thế lực phản động cực đoan, bệnh
AIDS đã xuất hiện và hoành hành thế giới hoặc bệnh khác tương tự cũng có thể
xuất hiện, ô nhiễm thực phẩm bởi một hóa chất nào đó làm khả năng sinh sản của
49
con người giảm đi hoặc biến mất… Do đó, nhận thức và ngăn ngừa các nguy cơ đe
dọa an ninh con người cũng như sự ổn định, phát triển của các quốc gia là vấn đề quan
trọng, đặc biệt nó đòi hỏi nỗ lực cao trong hợp tác quốc tế của cộng đồng quốc tế.
1.5.1. Chiến tranh và xung đột
Chiến tranh lạnh chấm dứt, cục diện thế giới với trật tự hai cực mà đứng
đầu là Mỹ và Liên Xô đã tan rã nhưng điều đó không có nghĩa là sự chấm dứt của
tất cả các loại chiến tranh và xung đột vũ trang. Sự bùng nổ xung đột khu vực
không liên quan nhiều đến hệ tư tưởng như thời kỳ chiến tranh lạnh mà phần lớn bắt
nguồn từ những mâu thuẫn tôn giáo, sắc tộc.
Châu Âu, vũ đài chính của các cuộc chiến tranh lớn nhất trong lịch sử, hầu
như bình yên trong thời kỳ chiến tranh lạnh thì sau đó cũng rơi vào tình trạng bất
ổn: hàng loạt các cuộc xung đột giữa các nước tách ra từ Liên Xô cũ cũng như ở
chính nước Nga mà điển hình là Chechnya mà nguyên nhân là do tâm lý kỳ thị dân
tộc giữa người Nga và người các dân tộc khác cùng với sự kích động của trào lưu
dân tộc chủ nghĩa cực đoan, ly khai. Việc Chechnya đòi ly khai đã lan ra cả khu vực
Kavkas và gây phản ứng dây chuyền tại các nước cộng hòa khác. Theo ước tính,
liên quan đến xung đột này số người thiệt mạng khoảng 80.000 người [65, tr. 44].
Cuộc nội chiến ở Nam Tư cũ trở thành cuộc "chiến tranh nóng" qui mô lớn nhất trên
lục địa này sau thế chiến II. Bosnia Heczegovina là một trong sáu nước cộng hòa
của Liên bang Nam Tư có ba dân tộc chính là người Xecbi, Hồi giáo và Croat.
Những chủ trương khác nhau của ba dân tộc đã chuyển thành thù địch và nội chiến
xảy ra. Cuộc chiến này giới hạn trong phạm vi Nam Tư cũ nhưng tác động và hậu
quả của nó đối với châu Âu hết sức nặng nề. Đây là nhân tố gây mất ổn định cho
bán đảo Balcan và đụng chạm tới lợi ích chiến lược của nhiều nước lớn và cuối
cùng là hàng chục vạn người thuộc các sắc tộc khác nhau thiệt mạng, hàng triệu
người phải tị nạn sang các nước khác [61, tr. 45]. Trung Đông, giếng dầu lớn nhất
thế giới, khu vực xảy ra chiến tranh xung đột phức tạp và kéo dài. Điều đặc biệt
trong xung đột ở khu vực này là luôn có sự can thiệp, tham gia trực tiếp của các
nước phương Tây. Chiến tranh giữa Ixraen và Palextin; cuộc chiến vùng Vịnh;
50
chiến tranh Irac và gần đây nhất là những xung đột nội bộ ở Lybi, Xyri, Ai Cập…
Tại châu Á các cuộc xung đột vẫn diễn ra nhưng gây đổ máu nhiều nhất vẫn là châu
Phi. Các cuộc chiến tranh sắc tộc "huynh đệ tương tàn" đẫm máu đã đẩy nhiều quốc
gia vào tình trạng khủng hoảng sâu sắc, toàn diện về chính trị, kinh tế - xã hội, đặc
biệt là sự hành hoành của nạn đói. Xung đột sắc tộc, mất ổn định chính trị là đặc
điểm của nhiều quốc gia châu Phi có nguyên nhân từ tâm lý kỳ thị bộ tộc, bộ lạc và
hậu quả của chủ nghĩa thực dân song mức độ tàn phá, hủy diệt lại rất lớn. Ở
Angieri, các cuộc khủng bố của các lực lượng Hồi giáo cực đoan đã làm chết hơn 5
vạn người. Cuộc chiến tranh phe phái dẫn đến nội chiến kéo dài 6 năm ở Somali và
nạn đói do chiến tranh gây ra đã làm thiệt mạng trên 35 vạn người, hàng vạn người
phải rời bỏ đất nước đi lánh nạn. Đặc biệt, số nạn nhân của cuộc nội chiến ở Ruanda
- chiến tranh giành quyền lực giữa hai tộc người (Hutu và Tuxi) là hàng triệu người:
"Chúng ta đang sống trong một thời kỳ bạo lực, những rào chắn về đạo đức đã bị bẻ
gãy, các giá trị tinh thần cơ bản bị đặt thành vấn đề và con người bị nhận chìm bởi
vô vàn lớp sóng sợ hãi và bất an…".
1.5.2. An ninh lương thực - an toàn thực phẩm
Theo Tổ chức Nông lương Thế giới (FAO), dự trữ lương thực của thế giới
đang ở mức tối thiểu vì vậy nếu không có những thay đổi lớn về chính sách lương
thực, an ninh lương thực trong tương lai sẽ lâm vào tình trạng nguy hiểm hơn so với
hiện nay, với tình trạng dư thừa lương thực ở phương Tây và thiếu lương thực ở các
nước nghèo, đang phát triển. Tình trạng căng thẳng về lương thực nổi lên khi việc
tăng sản lượng lương thực ngày càng trở nên khó khăn do đất nông nghiệp liên tục
bị thu hẹp, hậu quả của quá trình công nghiệp hóa và đô thị hóa, cũng như giảm đầu
tư vào lĩnh vực nông nghiệp, nhu cầu về nước phục vụ canh tác không bảo đảm.
Trong vòng ba thập niên đã qua, các cuộc cách mạng xanh với trọng tâm là
sử dụng phân bón, tưới tiêu và các loại giống mới đa dạng diễn ra ở khắp các quốc
gia khiến cho sản xuất lương thực và sản lượng lương thực tăng mạnh, đáp ứng nhu
cầu của sự tăng trưởng dân số thế giới. Lượng calo được cung cấp bình quân đầu
người tăng 30%, giá lương thực giảm. Cung cấp lương thực bình quân đầu người
51
tăng, mặc dù dân số thế giới không ngừng tăng lên. Hơn 80% dân số của các nước
đang phát triển ngày nay có bữa ăn đủ so với 64% của thập kỷ 70. Nhưng từ những
năm đầu thế kỷ XXI đến nay, việc tăng sản lượng các vụ thu hoạch đã chậm lại và
sử dụng lương thực trên thế giới từ trạng thái đủ sang khan hiếm. Giá lương thực
tăng có nghĩa là người nghèo và trẻ em phải ăn ít hơn, trong khi hiện nay thế giới
vẫn còn hơn 800 triệu người đói ăn và 200 triệu trẻ em dưới năm tuổi bị suy dinh
dưỡng vì thiếu ăn.
Sản xuất lương thực vẫn diễn ra với tốc độ chậm hơn và năm 2010 nhiều
nước tự túc được lương thực đã phải nhập khẩu lương thực [17]. Nhóm các nước có
thu nhập thấp (88 quốc gia) phải nhập khẩu lương thực trong khi dân số tăng và
viện trợ từ nước ngoài xu hướng lại giảm dần. Hiện nay, khoảng 20 quốc gia châu
Phi đứng trước nguy cơ thiếu lương thực do điều kiện thời tiết hoặc do các cuộc
xung đột nội bộ điển hình như Xiera Leon, Đông Phi và vùng Hồ lớn Châu Phi;
Tadania có khoảng 3 triệu người đang bị nạn đói đe dọa, Etiopi có khoảng 4,6 triệu
người đang cần viện trợ lương thực. Mặt khác, những ảnh hưởng của biến đổi khí
hậu cũng gây ra thiệt hại nghiêm trọng cho mùa màng ở nhiều quốc gia sản xuất
lương thực của châu Á như Indonexia, Philippin, Thái Lan hoặc Việt Nam.
Những bất ổn như tình trạng biến đổi khí hậu, sự suy giảm của diện tích đất
sản xuất nông nghiệp và sự xuống cấp của môi trường đã đe dọa trực tiếp tới an
ninh lương thực. Hơn nữa, khi nói tới hiện đại hóa, người ta nói tới công nghiệp
hóa, đô thị hóa, điều đó đã dẫn tới làn sóng những người có năng lực chuyển từ
nông thôn tới thành thị và ảnh hưởng không tốt tới sản xuất nông nghiệp. Do đó,
thiếu đất thiếu nước nhưng thiếu lao động có kiến thức sẽ là những nhân tố đe dọa
tới an ninh lương thực.
1.5.3. Việc làm và dân số
* Về việc làm
Công ăn việc làm là một vấn đề xã hội cấp bách không những ở những
nước đang phát triển mà cả ở những nước công nghiệp phát triển. Hiện nay, nền
kinh tế của các nước phát triển tăng trưởng một cách chậm chạp, thu nhập quốc gia
52
chững lại, các chính phủ đang phải đối phó với sự thâm hụt ngân sách thường xuyên
đặc biệt là cuộc khủng hoảng nợ công ở châu Âu. Ở Mỹ, nơi mà mạng lưới bảo
hiểm xã hội đối với những người thất nghiệp dài hạn bị xóa bỏ nhanh hơn nhiều so
với châu Âu, tình trạng thất nghiệp tăng giảm theo chu kỳ kinh tế. Ở Nhật Bản, một
nước được coi là có tỷ lệ thất nghiệp thấp một cách lý tưởng trong nhiều thập kỷ
qua thì tỷ lệ thất nghiệp cũng ở mức 2% đủ để đặt dấu hỏi về tương lai của "hệ
thống việc làm suốt đời". Ở Anh, đa số người dân cho rằng thất nghiệp là vấn đề
nghiêm trọng nhất mà hiện nay nước Anh phải giải quyết và cuộc bạo động xảy ra ở
London tháng 6/2011 là biểu hiện của thất nghiệp và sự sụt giảm thu nhập do không
có việc làm. Liên minh châu Âu (EU) đã phát động một chiến dịch việc làm nhằm
tấn công vào tình trạng thất nghiệp "không thể chấp nhận được". Tình trạng thất
nghiệp cao đè nặng lên các chương trình xã hội của các chính phủ, làm thất thu
thuế, lãng phí vốn con người, làm tăng sự bất bình đẳng trong thu nhập và cướp đi
cái cảm giác về giá trị bản thân của con người.
Một thực tế là, nhiều việc làm đã mất đi trong những thập kỷ qua và nhiều
công việc ngày nay đang bị bỏ rơi và không bao giờ trở lại. Ở khắp các nước đang
phát triển, các doanh nghiệp phải thu gọn để hoạt động có hiệu quả hơn. Trong xu
thế toàn cầu hóa và cạnh tranh, mục đích của các doanh nghiệp là tìm kiếm được
nhiều lợi nhuận hơn với ít nhân công hơn. Các ngành công nghiệp chế tạo từ lâu đã
giảm việc làm chứ không giảm sản lượng trong khi vẫn tiếp tục không ngừng nâng
cao về năng suất lao động. Cuối cùng, những người làm dịch vụ cũng nhận thức
được rằng, sự dư thừa người làm ở cả các cơ quan cũng như ở các nhà máy vì
những nguyên nhân giống nhau. Đó là dấu hiệu của sự chuyển đổi cấu trúc ở các
nền kinh tế công nghiệp hóa và tiếp tục gây ra sự thải hồi hàng loạt nhân công và
đòi hỏi cần phải được đào tạo lại. Trong một số trường hợp khác, sự chuyển đổi đó
sẽ tạo ra những cơ hội mới và trách nhiệm mới. Hàng triệu người thất nghiệp hôm
nay chỉ vì những công việc họ đã làm không còn thích hợp và cần thiết nữa và nhiều
việc làm đã được máy móc thay thế.
Tuy nhiên, ngay cả trường hợp các công nghệ mới làm mất đi việc làm, nó
cũng tạo ra việc làm mới bằng hai cách. Thứ nhất, con người cần phải tạo ra công
53
nghệ mới và làm cho nó hoạt động. Thứ hai, công nghệ mới làm tăng năng suất, tạo
ra sản lượng nhiều hơn từ việc làm ít hơn. Năng suất tăng sẽ làm tăng lợi nhuận. Sự
giàu có mới sẽ không mất đi mà được phân phối lại dưới hình thức lãi cổ phần, đầu
tư và trả lương để tạo ra những nhu cầu ở mọi nơi trong nền kinh tế và do đó tạo ra
những việc làm mới. Nhiều việc làm trong công nghiệp ở các nước phát triển bị mất
đi nhưng lại chuyển sang các nước đang phát triển. Việc bỏ dần các hàng rào
thương mại, tự do đầu tư tăng lên và các điều kiện thông tin liên lạc được cải thiện
đã tạo ra sự chuyển đổi mạnh mẽ sản xuất công nghiệp dùng nhiều lao động ở các
quốc gia châu Á và Mỹ La tinh. Điều đó không có nghĩa là sản xuất công nghiệp
đang biến đi ở các nước phát triển mà các công việc đòi hỏi kỹ thuật cao vẫn tồn tại,
thậm chí tăng gấp bội, nhưng rõ ràng ngày càng ít đi việc làm cho những ai không
có khả năng thực hiện các công việc phức tạp.
Pháp luật quốc tế với ý nghĩa tạo ra khung pháp lý cho việc bảo đảm việc
làm cho con người. Tuy nhiên trên thực tế, việc làm có được bảo đảm hay không?
hoặc đến mức độ nào còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố trong đó có thực trạng của nền
kinh tế thế giới. Bởi vậy, vấn đề thất nghiệp hiện nay được Tổng Giám đốc Tổ chức
Lao động Quốc tế (ILO) ông Somavina gọi là cuộc "khủng hoảng" [85]. Theo đó, số
người thất nghiệp trên thế giới có thể lên đến mức kỷ lục, tăng từ 190 triệu năm
2007 lên 210 triệu năm 2010 do khủng hoảng tài chính. Tác động của khủng hoảng
lan rộng và ảnh hưởng đến hầu hết các nền kinh tế trên thế giới. Trong bối cảnh đó,
nạn nhân chính là người nghèo. Theo thẩm định của ILO, thế giới sẽ có 40 triệu
người sống với mức dưới 1USD/ngày. Số người làm việc có thu nhập thấp lên
đến 100 triệu. Không những vậy, khủng hoảng tài chính hiện nay còn tác động tới
tầng lớp trung lưu trên thế giới, các ngành sử dụng nhiều lao động như kinh doanh
bất động sản, tài chính, dịch vụ, du lịch… đã bắt đầu đình đốn và phải cắt giảm
nhân viên. Thời gian vừa qua, các tập đoàn sản xuất xe hơi ở phương Tây cũng
phải sa thải hàng loạt nhân viên: hãng Renault sa thải 6000 người; hãng Daimler
(Đức) sa thải 3500 người; hãng Nissan (Nhật Bản) sa thải 1680…và đó cũng chỉ là
"khúc dạo đầu".
54
Tại Mỹ và châu Âu, hàng ngàn người đã bị sa thải sau khi nhiều ngân hàng,
công ty bảo hiểm bị phá sản. Tháng 9/2008, ở Mỹ có 159.000 người mất việc làm.
Tại Anh, tỷ lệ thất nghiệp tăng mạnh trong tháng 8/2008 lên tới 5,7%; quí III năm
2008, 11,3% số người trong độ tuổi lao động không có việc làm. Đây là một trong
những nguyên nhân dẫn tới tình trạng bất ổn ở nước Anh cũng như các cuộc bạo
động xảy ra ở thủ đô London hồi tháng 6/2011. Tại Pháp, "đội quân thất nghiệp"
được bổ sung thêm 40.000 người năm 2008; năm 2009 tỷ lệ thất nghiệp ở Pháp là
8,5% và 9% năm 2010.
Tại châu Á, ở Trung Quốc từ đầu năm 2009 đến nay có ít nhất 2,7 triệu lao
động bị sa thải hoặc ở Thái Lan năm 2008 có khoảng 1 triệu người thất nghiệp [40].
Điều đặc biệt để cộng đồng quốc tế và các quốc gia thực sự phải lo lắng ở
chỗ, lực lượng thanh niên (những người lao động trẻ) đóng vai trò quan trọng cho
nền kinh tế toàn cầu thì tỷ lệ thất nghiệp cũng ở mức báo động. Tỷ lệ thất nghiệp
của thanh niên trên thế giới là 13%, tương đương với 81 triệu người, trong đó có
36,4 triệu người thuộc khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Nguyên nhân dẫn tới tỷ
lệ thanh niên thất nghiệp tăng cao trong những năm qua là do hậu quả của cuộc
khủng hoảng tài chính những năm 2008-2009. Điều này đã khiến cho việc làm cho
thanh niên bị suy giảm hoặc thiếu bền vững, nhiều lao động trẻ làm việc nhưng mức
lương không quá 1,25USD/ngày. Với mức lương như vậy, cuộc sống của nhiều
thanh niên rơi vào vòng luẩn quẩn đói nghèo và nhiều người đã bỏ việc. Thanh niên
là lực lượng chèo lái sự phát triển kinh tế của đất nước. Nếu họ không nhận thấy
tiềm năng của mình thì đó là sự thiệt thòi của toàn xã hội. Vì thế, sẽ khá là tốn kém
khi hỗ trợ thanh niên không còn hy vọng tìm kiếm việc làm để có mức lương đủ
sống, nhưng sẽ tốn kém hơn nếu không hành động vì đầu tư vào giáo dục bị lãng
phí, tương lai sẽ tạo ra áp lực đối với an sinh xã hội và các dịch vụ hỗ trợ. Vì vậy,
tập trung vào các biện pháp hỗ trợ việc làm cho thanh niên là cần thiết.
Không những vậy, đa số phụ nữ trên thế giới (trong đó có Việt Nam) khó
xin việc hơn so với nam giới. Năm 2009, tỷ lệ thất nghiệp của nữ tại Đông Nam Á
và Thái Bình Dương ở mức 15,7% so với 14% của nam giới; tại Nam Á, tỷ lệ thất
55
nghiệp của nữ là 10,9% và 10,1% đối với nam giới. Trên thế giới, tỷ lệ này là
13,2% đối với nữ và 12,9% đối với nam. Chỉ có hai khu vực tỷ lệ nữ thất nghiệp ít
hơn nam là Đông Á và EU (7,4% đối với nữ và 10,3% đối với nam) [85].
* Về dân số
Sau hàng chục ngàn năm tồn tại dân số thế giới mới đạt 1 tỷ người vào năm
1825, sau 100 năm (1925) dân số thế giới là 2 tỷ người và 50 năm tiếp theo, dân số
thế giới tăng gấp đôi (năm 1975 là 4 tỷ). Ngày 11/07/1987, dân số thế giới tròn 5 tỷ
người, tức là chỉ cần 12 năm để tăng thêm 1 tỷ người. Năm 1998, dân số thế giới
xấp xỉ 6 tỷ người với nhịp độ tăng là 1,7% mỗi năm. Như vậy, sau 35 năm dân số
lại tăng gấp đôi. Những năm 1990 chứng kiến sự tăng trưởng dân số nhiều nhất so
với bất kỳ thập kỷ nào trước đó. Cứ mỗi giây trôi qua, dân số thế giới lại tăng thêm
3 người, mỗi năm tăng thêm khoảng 100 triệu người, tương đương với dân số của
Đông Âu hoặc Trung Mỹ. Trong 10 năm của thập kỷ 90, dân số thế giới tăng thêm
1 tỷ người, tháng 11/2011 là 7 tỷ người [25].
Trong lịch sử, dân số loài người tăng với tốc độ rất thấp. Cho tới thế kỷ
XVII, tốc độ tăng dân số hàng năm chỉ khoảng 0,1%. Sự tăng tốc trong quá trình
phát triển dân số thế giới thể hiện rõ rệt ở châu Âu và những thuộc địa của châu Âu
là kết quả của sự giảm tỷ lệ chết kéo dài trên 3 thế kỷ nhất là từ khoảng 1800 trở đi.
Trước kia, tỷ lệ sinh đẻ cao của loài người được bù trừ vào tỷ lệ chết cao. Ngày nay,
ở hầu khắp mọi nơi, tỷ lệ chết đã giảm và tỷ lệ sinh cũng giảm xuống ở nhiều quốc
gia nhưng xu hướng này diễn ra muộn hơn và chậm chạp hơn. Dân số thế giới tăng
nhanh ở thập kỷ 70, 80 của thế kỷ XX với tốc độ cao hơn 2% mỗi năm. Dân số thế
giới tăng đặc biệt nhanh ở nửa sau của thế kỷ XX. Vào giữa thế kỷ XX, tỷ lệ tăng
dân số ở các nước đang phát triển đã tăng tới mức chưa từng có vì tỷ lệ sinh không
giảm trong khi tỷ lệ chết giảm và tuổi thọ trung bình tăng. Đó là nhờ kết quả của sự
tiến bộ về mức sống, điều kiện vệ sinh và công tác y tế, đặc biệt là việc phát minh
và sử dụng rộng rãi thuốc kháng sinh, tăng cường sử dụng vắc xin, phun thuốc
chống sốt rét và kiểm soát được một số dịch bệnh khác. Dân số thế giới đạt đỉnh cao
là 2,1% mỗi năm giai đoạn 1965 -1970. Sau đó, tỷ lệ tăng dân số thế giới có xu
hướng giảm xuống mặc dù giảm rất chậm.
56
Ngày nay, dân số thế giới tăng nhanh nằm ở khu vực những nước đang phát
triển, nơi chiếm 4/5 dân số nhân loại. Số lượng dân số tăng lớn nhất là ở khu vực
Nam Á. Khu vực Đông Á trong đó có Trung Quốc, Nhật Bản có tỷ lệ phát triển dân
số ở mức thấp hơn nhiều. Hai nước này đã đạt "mức sinh thay thế" với qui mô gia
đình trung bình là hai con [65, tr. 74]. Mức tăng trưởng dân số của khu vực châu Phi
với tỷ lệ là 3%/năm và đây là khu vực có tỷ lệ tăng dân số cao nhất thế giới.
Nigieria, quốc gia đông dân nhất châu Phi, dân số tăng gấp đôi trong vòng 20 năm.
Dân số khu vực Mỹ Latinh và vùng Caribe hiện nay khoảng gần 600 triệu
người với tỷ lệ tăng là 2% hàng năm. Trong khi đó ở Bắc Mỹ và châu Âu, ngoại trừ
Anbani (1,8%) và Thổ Nhĩ Kỳ (2,1%), các nước thuộc khu vực này có tỷ lệ phát
triển dân số ở mức dưới 1% và nhiều nước ở mức 0,5%.
Cuối cùng, dân số tăng nhiều nhất thuộc về những quốc gia nghèo nhất,
những nước mà cơ sở vật chất còn quá nghèo nàn để chăm lo thỏa mãn nhu cầu của
công dân và để đầu tư cho tương lai. Năm 1950, châu Âu và Bắc Mỹ chiếm 22%
dân số thế giới, năm 2025 số dân của hai khu vực này sẽ không quá 9% dân số thế
giới. Ngược lại, năm 1950 số dân châu Phi chỉ bằng 9% dân số thế giới, đến năm
2025 tỷ lệ đó lên đến 19% [65, tr. 75]. Nhiều nước đang phát triển trong đó có Việt
Nam, mật độ trung bình hơn 1000 người/ha đất trồng trọt trong khi nước Pháp mặc
dù đất đai màu mỡ lại chỉ có 3 người/ha. Hơn nữa, những diện tích đất đai có thể
mất đi vì nước biển dâng và biến đổi khí hậu sẽ là những thách thức đối với cả loài
người, tác động trực tiếp tới an ninh con người.
Thứ nhất, dân số tăng nhanh là nguyên nhân sâu xa và chủ yếu của việc làm
suy giảm môi trường sinh thái. Nhịp độ khai thác tài nguyên thiên nhiên tăng lên
nhanh hơn nhịp độ tăng dân số. Năng lượng phải tăng 10% để tương xứng với 2%
tăng lên của dân số. Nhiều người hơn cũng sản sinh ra nhiều chất thải hơn và gây
thêm căng thẳng cho khả năng đồng hóa của trái đất. Các nước có tỷ lệ phát triển
dân số cao đã biến đổi đất đai thành đất nông nghiệp nhanh, gây thêm sức ép đối
với đất đai và môi trường sống tự nhiên. Tại một số nước, đặc biệt là ở nông thôn
châu Phi, dân số tăng nhanh đến mức là việc quản lý đất đai theo lối cổ truyền
57
không thể nào ngăn cản được sự thoái hóa của đất đai, cạn kiệt tài nguyên nước và
mất mát về nơi cư trú tự nhiên.
Xu hướng phân bố dân cư giữa thành thị và nông thôn cũng không có lợi
cho môi trường, đặc biệt là ở các nước đang phát triển. Quá trình đô thị hóa làm cho
dân số thành phố tăng nhanh trong đó phần lớn là dân di cư từ nông thôn tới. Tốc độ
phát triển dân số thành phố vượt xa khả năng cung cấp những dịch vụ cần thiết.
Thứ hai, tăng dân số sẽ hạn chế nhịp độ phát triển kinh tế và kìm hãm sự
tiến bộ xã hội. Tại các nước đang phát triển, sau một thời kỳ phát triển dân số nhanh
chóng xuất hiện những khó khăn lớn tăng thêm trong việc giải quyết các vấn đề cung
cấp lương thực, thất nghiệp, nghèo đói và việc không đáp ứng đầy đủ của các dịch
vụ xã hội cho nhu cầu của người dân. Sự phát triển dân số nhanh là một trở ngại
nghiêm trọng cho sự phát triển kinh tế xã hội và nếu giảm được tỷ lệ sinh đẻ thì sẽ
có thêm nhiều khả năng đẩy mạnh tiến bộ kinh tế - xã hội. Quan điểm cũ cho rằng
tăng dân số sẽ mở rộng thị trường, tăng số lượng lao động và kích thích lao động sẽ
thúc đẩy phát triển kinh tế đã không còn chỗ đứng trong lý luận và thực tiễn.
Với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, nền kinh tế đòi hỏi tăng
cường lao động về mặt chất lượng chứ không thuần túy là số lượng. Vì vậy giảm tỷ
lệ tăng dân số là một yếu tố làm cho tăng trưởng kinh tế nhanh. Tăng dân số được
coi là một trong những nguyên nhân chủ yếu làm tăng số lượng người nghèo khổ
hoặc gây thêm khó khăn cho việc giải quyết tình trạng nghèo khổ ở các nước.
Tăng dân số ảnh hưởng tới thu nhập của dân cư theo hướng tỷ lệ nghịch với
nhau. Nạn nghèo đói đang có xu hướng tăng lên và tăng nhanh nhất ở những nước
có nhịp độ tăng dân số cao và là nguyên nhân kìm hãm sự tiến bộ của xã hội. Ở tầm
vĩ mô, điều đó đòi hỏi phải có thêm chi phí cho số người tăng lên, làm cho nguồn
của cải tự nhiên và tài chính vốn đã hạn hẹp lại phải dàn mỏng ra. Điều này có
nghĩa là chỉ một phần nhỏ nguồn tài lực và vật lực của đất nước có thể để dành đầu
tư chiều sâu cho việc nâng cao chất lượng cuộc sống. Hơn thế nữa dân số tăng có
nghĩa là nhu cầu về bác sĩ, bệnh viện, trường học, giáo viên, lương thực, thực
phẩm… cũng tăng lên. Tăng dân số nhanh còn ảnh hưởng tới chất lượng dân số, tới
58
sự hoàn thiện của các thế hệ tương lai của một bộ phận dân số mà bộ phận này
chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong dân số thế giới. Trẻ em do bố mẹ đang bị đói,
đang trong hoàn cảnh nghèo khổ sinh ra sẽ lớn lên bằng khẩu phần đói, trở thành
những người không đầy đủ cả về thể lực lẫn trí tuệ. Đó cũng là một khía cạnh của
tác động kìm hãm tiến bộ xã hội.
1.5.4. Ô nhiễm môi trường và biến đổi khí hậu
Trái đất và toàn thể nhân loại trên trái đất đang đứng trước những hiểm họa
do ô nhiễm môi trường gây ra. Sự phát triển của khoa học công nghệ cũng như quá
trình toàn cầu hóa một mặt đã nâng cao mức sống của người dân cũng như sự phát
triển kinh tế của các quốc gia nhưng mặt khác đã để lại những hậu quả to lớn của sự về
sự ô nhiễm tác động tới mọi mặt của đời sống xã hội cũng như an ninh con người.
Đối với an ninh con người, suy thoái môi trường làm tổn hại tới sức khỏe,
ảnh hưởng xấu tới năng suất lao động và làm mất đi những "tiện nghi" của cuộc
sống bình thường của con người.
Về sức khỏe, hạnh phúc của con người giảm xuống do ốm đau và chết yểu
vì suy thoái của chất lượng không khí và nước và những nguy hiểm khác về môi
trường. Các chất gây ô nhiễm có thể làm nảy sinh các vấn đề về y tế, trực tiếp hoặc
gián tiếp do sự thay đổi môi trường vật lý, tác động của nó trải rộng từ bức xạ mặt
trời tăng lên tới việc giảm dinh dưỡng. Mối liên hệ giữa các chất gây ô nhiễm và
sức khỏe bắt đầu được phát hiện thông qua những nghiên cứu và bệnh dịch xảy ra
chủ yếu ở những nước có thu nhập cao, hậu quả của nó càng sâu rộng hơn ở những
nước có thu nhập thấp, nơi dân chúng sống thiếu vệ sinh hơn và ăn uống kém hơn.
Sức khỏe con người bị suy yếu có thể làm giảm năng suất lao động và sự
suy thoái môi trường làm giảm hiệu năng của nhiều nguồn tài nguyên mà con người
sử dụng trực tiếp. Tình trạng úng ngập và đất bị nhiễm mặn làm giảm năng suất
thu hoạch hoặc giảm hiệu quả kinh tế do tài sản môi trường mà người dân gián
tiếp sử dụng bị hư hại, sự chặt phá rừng đầu nguồn là nguyên nhân tác động tới
sản xuất và đời sống của người dân ở khu vực hạ lưu. Hơn nữa, không gian môi
trường trong sạch sẽ bổ sung cho chất lượng cuộc sống của con người. Sự suy
59
giảm môi trường làm thiệt hại tới tiện nghi cho con người. Tài sản môi trường có ý
nghĩa ngay cả với những người chẳng bao giờ được hưởng thụ một cách trực tiếp
nhưng lại là người ấp ủ ý nghĩ là chúng sẽ tồn tại và triển vọng thế hệ tương lai
cũng sẽ được hưởng thụ.
1.5.5. Chủ nghĩa khủng bố quốc tế
Sau khi chiến tranh lạnh kết thúc, xu thế của thế giới từ đối đầu chuyển
sang đối thoại, hòa bình và phát triển là mục tiêu chung mà các quốc gia cùng
hướng tới. Tuy nhiên, các nhân tố bất ổn ảnh hưởng đến an ninh thế giới vẫn tồn tại,
đặc biệt những năm gần đây chủ nghĩa khủng bố như bóng đen lởn vởn trên địa cầu,
thương vong và hậu quả mà nó gây ra có thể so sánh với chiến tranh cục bộ và xung
đột vũ trang. Chiến tranh lạnh kết thúc mà cảm giác an toàn của mọi người lại
xuống thấp, đó là vì "thời kỳ chiến tranh lạnh ít nhất chúng ta có thể dự tính được
nguy hiểm sẽ đến từ hướng nào, còn bây giờ thì lại không biết khi nào gặp tai họa
và tai họa từ đâu đến" [19, tr. 458].
Chủ nghĩa khủng bố là tên gọi chung của những hành vi phạm tội nhằm đạt
các mục đích nhất định trong các lĩnh vực chính trị, kinh tế, tôn giáo, ý thức hệ…
ảnh hưởng mà nó gây ra cho tâm lý của xã hội và dân chúng vượt xa tổn thất mà
bản thân sự kiện gây ra. Trong lịch sử, hoạt động của chủ nghĩa khủng bố đã có từ
lâu đời: Trung Quốc cổ đại có Kinh Kha mưu sát vua Tần; La Mã cổ đại có Seeda
bị đâm chết, đều có nghĩa là khủng bố. Thuật ngữ "chủ nghĩa khủng bố" xuất hiện
thời kỳ cách mạng Pháp cuối thế kỷ XVIII, giai cấp bị áp bức chịu sự bóc lột lâu dài
đã áp dụng hành động cực đoan để lật đổ giai cấp thống trị và dẫn tới một vòng tuần
hoàn ác tính, máu trả máu, lấy khủng bố để trả thù khủng bố [19, tr. 459]. Cuối thế
kỷ XIX, các nước tư bản thực hiện chính sách thực dân trên toàn cầu và gieo mầm
cho hận thù dân tộc và đối kháng khu vực. Nó làm cho chủ nghĩa khủng bố tiếp tục
phát triển. Mục tiêu của kẻ khủng bố là những nhân vật hoặc sự kiện có thể tạo ra
ảnh hưởng nhưng trên thực tế chịu thiệt hại lớn nhất là dân thường. Chủ nghĩa
khủng bố phát triển và lan tràn nhanh chóng sau chiến tranh lạnh xuất phát từ những
nguyên nhân phức tạp và đa dạng, cụ thể là:
60
Thứ nhất, sự suy giảm của năng lực kiềm chế và kiểm soát quốc tế. Trong
chiến tranh lạnh, sự đối đầu của hai hệ thống làm cho thế giới luôn ở trạng thái căng
thẳng nhưng đồng thời nó cũng kìm nén các mâu thuẫn xã hội. Liên Xô cũ và các
nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, sự đối kháng mất đi, mâu thuẫn dân tộc,
mâu thuẫn tôn giáo và mâu thuẫn giữa các tổ chức phe phái đã nhanh chóng tăng
lên, tạo điều kiện cho sự phát triển và lan tràn chủ nghĩa khủng bố.
Thứ hai, mâu thuẫn dân tộc ngày càng nổi lên. Nó không chỉ ảnh hưởng sâu
sắc tới kinh tế, chính trị thế giới mà còn làm thay đổi cấu trúc của an ninh quốc tế.
Xung đột dân tộc giữa A rập - Ixraen ở Trung Đông, vấn đề dân tộc Cuốc ở vùng
Vịnh, xung đột vũ trang ở Ban Căng, vũ trang chống chính quyền Tamin ở Sri
Lanca đều là những vấn đề lịch sử nhiều năm để lại, hậu quả dẫn đến mâu thuẫn dân
tộc, tôn giáo càng tích tụ càng sâu sắc và trở thành ngòi cháy chậm dẫn đến sự bùng
nổ của đa số sự kiện khủng bố.
Thứ ba, sự phát triển của chủ nghĩa Hồi giáo chính thống và các thế lực tôn
giáo truyền thống khác. Sự khác nhau của các tôn giáo lớn phổ biến trên thế giới đã
nới rộng sự khác biệt bối cảnh văn hóa ở các khu vực khác nhau trên thế giới. Sau
chiến tranh lạnh, một số thế lực tôn giáo do chia rẽ phe phái, đã không chỉ đẩy mâu
thuẫn văn hóa và ý thức hệ của nội bộ giáo phái của họ đến chỗ cực đoan mà còn
dần trở thành một nhân tố quan trọng ấp ủ mầm mống sinh ra chủ nghĩa khủng bố.
Chủ nghĩa hồi giáo chính thống phát nguồn từ Ai Cập và sau chiến tranh lạnh phát
triển mạnh Trung Đông, Bắc Mỹ, Nam Mỹ, Tây Á, Nam Á. Tôn chỉ là nhấn mạnh
việc bảo vệ tính thuần khiết của chủ nghĩa Hồi giáo, phản đối sự ô nhiễm trần tục
đối với đạo Ixlam, lấy đạo Ixlam làm trong sạch xã hội thế tục, xây dựng quốc gia
hoàn toàn Ixlam hóa. Đại diện là Bin Ladden với sự kiện khủng bố ở Kênia và
Tandania tháng 8 năm 1998 với lý tưởng mà ông ta theo đuổi là "trách nhiệm đầu
tiên của chúng ta là chiến đấu vì Ixlam".
Thứ tư, sự phát triển nhanh chóng của các giáo phái kiểu mới. Chiến tranh
lạnh kết thúc làm cho các tổ chức tôn giáo bị đè nén trước kia có cơ hội bùng phát:
trên thế giới có khoảng 26 loại tà giáo; ở Anh có tới 500 tổ chức giáo phái; ở Pháp
61
có 170 tổ chức giáo phái [19, tr. 465]. Những tổ chức khủng bố kiểu mới (tà giáo)
sau chiến tranh lạnh với phương thức giết người tập thể hoặc tự sát tập thể đã tạo ra
môi trường trú ẩn và phát triển của chủ nghĩa khủng bố. Sau khi có vụ tự sát tập thể
năm 1978 của hơn 900 người theo đạo "Điện thờ thần" ở Guyana thì các nơi khác
như ở Mỹ, Nhật Bản, Canada, Mêhicô, Hàn Quốc, Philippin, Pháp, Thụy Sĩ đều liên
tục xảy ra sự kiện giết người hoặc tự sát tập thể của các tín đồ tà giáo.
Thứ năm, sự phổ cập không ngừng của công nghệ cao đã tạo ra động lực
lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội, nhưng đồng thời cũng tạo điều kiện thuận lợi
cho chủ nghĩa khủng bố phát triển với vũ khí ngày càng tiên tiến và thủ đoạn ngày càng
tinh xảo. Điều đó không những khiến cho chủ nghĩa khủng bố càng có thể ẩn mình
kín hơn mà còn làm cho hiệu quả của tính tàn sát và phá hoại do những hành động
đó gây ra tăng lên mạnh mẽ, gây áp lực tới các mục đích kinh tế, chính trị khác.
Thứ sáu, sự mở rộng của vũ khí giết người hàng loạt như vũ khí hạt nhân,
vũ khí hóa học, đặc biệt là vũ khí sinh học đều thuộc loại vũ khí giết người hàng
loạt. Nhất là khi Liên Xô cũ sụp đổ, cơ chế kiểm soát với vũ khí giết người hàng
loạt trở nên lỏng lẻo nên vũ khí và các nhà khoa học về vũ khí trở thành con mồi
của các băng nhóm buôn lậu cũng như các phần tử khủng bố. Hậu quả là chủ nghĩa
khủng bố có đầy đủ khả năng chế tạo vũ khí giết người hàng loạt, tính khủng bố
cũng tăng lên mạnh mẽ.
Thứ bảy, sự ủng hộ của một số nước phương Tây đối với hoạt động chống
chính phủ trong nội bộ nước khác. Thời kỳ chiến tranh lạnh, các nước phương Tây
như Mỹ vì để tranh giành lợi ích ở các nước đang phát triển châu Á, châu Phi, họ đã
bồi dưỡng lực lượng chống lại các nước như Liên Xô, họ cũng từng ra sức ủng hộ
hoạt động của các tổ chức, nhân viên chống chính phủ ở các nước thế giới thứ ba,
gieo rắc mầm mống cho sự phát triển của chủ nghĩa khủng bố, thuê và huấn luyện
hàng loạt phần tử cực đoan Ixlam và các tổ chức nhân viên vũ trang chống chính
phủ. Thập kỷ 70 thế kỷ XX, sau khi Liên Xô cũ đưa quân vào Apganixtan, để ngăn
chặn và tiến công Liên Xô, Mỹ đã chiêu mộ hơn 3000 phần tử cực đoan theo chủ
nghĩa Ixlam chính thống thuộc tổ chức "Hiến thân cho Thánh chiến" từ các nơi như
62
Palextin, Pakixtan, Iran, Angiêri để CIA huấn luyện. Trước khi Liên Xô rút khỏi
Apganixtan và đặc biệt là sau khi Liên Xô tan rã, những phần tử cực đoan đó phân
tán ra các nơi trên thế giới, trở thành lực lượng hạt nhân tiến hành hoạt động khủng
bố. Đồng thời, các phần tử khủng bố và hoạt động khủng bố được dung túng bởi
một số quốc gia làm cho nỗ lực ngăn chặn và đẩy lùi chủ nghĩa khủng bố trở nên
kém hiệu quả.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
Những thập kỷ vừa qua, an ninh con người được đề cập trực tiếp tại các
diễn đàn, hội nghị quốc tế với nhiều cách nhìn và sự tiếp cận khác nhau nhưng đều
xoay quanh những tiêu chí chung mà Liên hợp quốc đã khẳng định và mục đích
cuối cùng là bảo vệ con người một cách trực diện trước những nguy cơ của quá
trình toàn cầu hóa. Thực tiễn là khách quan, an ninh con người cần phải được đề
cao trên cả phương diện quốc tế và quốc gia bởi vì mục tiêu mà an ninh con người
hướng tới chính là bảo đảm và làm phong phú cho giá trị quyền con người. Đề cao
an ninh con người không có nghĩa làm mờ nhạt an ninh quốc gia mà thực chất là sự
bổ sung cho an ninh quốc gia. An ninh con người là phổ biến bởi nó bảo vệ cho tất
cả mọi người, không phân biệt quốc gia, dân tộc, giai cấp nhưng mỗi quốc gia sẽ có
một cách thức riêng để bảo đảm an ninh con người trên cơ sở chủ quyền và quyền
dân tộc tự quyết. Luật quốc tế về an ninh con người tạo ra cơ sở pháp lý tăng cường
hợp tác quốc tế giữa các chủ thể nhằm không ngừng nâng cao và bảo đảm an ninh
con người trên thế giới.
63
Chương 2
PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VÀ THỰC THI PHÁP LUẬT QUỐC TẾ
VỀ AN NINH CON NGƯỜI
2.1. SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA CHẾ ĐỊNH AN NINH CON
NGƯỜI TRONG LUẬT QUỐC TẾ
Luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và qui phạm pháp luật, được các
quốc gia và các chủ thể khác của luật quốc tế thỏa thuận tạo dựng nên trên cơ sở tự
nguyện và bình đẳng nhằm điều chỉnh quan hệ phát sinh giữa các quốc gia và các
chủ thể đó trong mọi lĩnh vực của đời sống quốc tế [94, tr. 7]. An ninh con người là
một lĩnh vực được điều chỉnh bằng luật pháp quốc tế, vì vậy, chế định an ninh con
người trong luật pháp quốc tế cũng có quá trình hình thành và phát triển gắn liền với
lịch sử của luật quốc tế.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, những nguyên nhân làm xuất
hiện Nhà nước cũng chính là những nguyên nhân ra đời của pháp luật. Trong xã hội
cộng sản nguyên thủy, những tập quán và tín điều tôn giáo đã là những qui phạm
phù hợp để điều chỉnh mối quan hệ xã hội lúc đó bởi vì chúng phản ánh đúng trình
độ phát triển kinh tế - xã hội của chế độ cộng sản nguyên thủy. Khi chế độ tư hữu
xuất hiện và xã hội phân chia thành giai cấp thì những tập quán trước đây không
còn phù hợp nữa. Do đó, trong điều kiện lịch sử mới, khi mà xung đột về lợi ích giai
cấp và đấu tranh giai cấp là không thể điều hòa được thì cần thiết phải có một loại qui
phạm mới, thể hiện ý chí của giai cấp thống trị và pháp luật ra đời. Xã hội phân chia
thành giai cấp, xuất hiện nhà nước với hai chức năng cơ bản: đối nội và đối ngoại. Việc
thực hiện chức năng đối ngoại phản ánh nhu cầu của các quốc gia trong quan hệ quốc
tế. Luật quốc tế ra đời đáp ứng nhu cầu này trong đó có vấn đề an ninh con người.
Tất nhiên, khi nghiên cứu về nguồn gốc của luật quốc tế có nhiều quan
điểm và cách tiếp cận khác nhau. Trường phái Luật tự nhiên quan niệm rằng mọi
luật lệ đều có sẵn và nó đang tồn tại như sự tồn tại của trời đất. Quan niệm này cho
64
rằng nguồn gốc của luật quốc tế là tự nhiên. Tự nhiên sinh ra con người và tự nhiên
cũng đặt ra pháp luật để điều chỉnh hành vi của con người. Trường phái Chiết trung
thì cho rằng nguồn gốc của luật quốc tế là mang tính chất hỗn hợp vừa tự nhiên vừa
là sản phẩm của xã hội, trong đó nguồn gốc tự nhiên mang tính chất quyết định.
Trường phái Nhất nguyên luận quan niệm luật quốc tế bắt nguồn và là sản phẩm của
ý thức con người… Như vậy, tất cả các quan điểm nêu trên đều đi tìm nguồn gốc
của pháp luật quốc tế trong tự nhiên hoặc trong chính bản thân con người. Không
giống như vậy, chủ nghĩa Mác - Lênin với quan điểm biện chứng đã xem xét nguồn
gốc của luật quốc tế trong đó có pháp luật quốc tế về an ninh con người trên cơ sở
khách quan và bản chất. Đó là sự xuất hiện giai cấp, quốc gia và các mối quan hệ
cần có sự điều chỉnh. Đây là nhu cầu tất yếu đòi hỏi sự xuất hiện của pháp luật quốc
tế. Xin được khái quát bằng câu ngạn ngữ La tinh "UBI SOCIETAS UBI JUS" (ở
đâu có xã hội ở đó có luật pháp). Bản tính tự nhiên của con người là sống trong
cộng đồng, cộng đồng là một xã hội và mọi xã hội dù nhỏ hay lớn đều phải có luật
pháp. Từ một bộ lạc đến một quốc gia có tổ chức và cao hơn là cộng đồng quốc tế,
đều cần có luật pháp để qui định quyền hạn, nghĩa vụ của các thành viên trong xã
hội nhằm mục đích bảo vệ an ninh cho xã hội cùng sự phát triển chung.
An ninh con người cần được bảo vệ và bảo đảm bằng luật pháp quốc tế và
sự xuất hiện của luật quốc tế mà mục đích hướng tới cũng là nhằm bảo đảm an ninh
con người. Khi xem xét lịch sử phát triển của luật quốc tế, các học giả phương Tây
căn cứ vào nấc thang trong sự phát triển của văn minh nhân loại để phân chia các
giai đoạn phát triển của luật quốc tế. Với chủ nghĩa Mác - Lênin, sự phát triển của
Nhà nước và pháp luật nói chung, luật quốc tế nói riêng được xác định dựa trên hình
thái kinh tế - xã hội. Chế định an ninh con người trong luật quốc tế gắn liền với lịch
sử phát triển của luật quốc tế nói chung nhưng chủ yếu tập trung ở các giai đoạn:
Giai đoạn trước 1945; giai đoạn 1945 - 1991 và giai đoạn 1991 đến nay.
2.1.1. Giai đoạn trước năm 1945
Đây là giai đoạn mà an ninh con người trong luật quốc tế gắn với sự phát
triển của luật quốc tế ở các thời kỳ: cổ đại, trung đại và cận đại [94, tr. 21]. Thời kỳ
65
cổ đại, luật quốc tế đã hình thành ở Ai Cập, Hy Lạp, La Mã… với nội dung chủ yếu
là luật lệ và tập quán về chiến tranh. Thời kỳ trung đại, kinh tế bắt đầu phát triển
nên quan hệ giữa các quốc gia đã vượt ra khỏi phạm vi khu vực tạo nền tảng cho sự
phát triển của luật quốc tế. Tuy nhiên, thời kỳ này với tên gọi là "Đêm trường Trung
cổ" cũng chứng kiến một thực tiễn hết sức đau thương trong lịch sử nhân loại với sự
khốc liệt của chiến tranh. Vì vậy, luật quốc tế tiếp tục được phát triển nhưng chiến
tranh vẫn là nội dung cốt lõi của luật pháp quốc tế trên cả phương diện luật thực
định và khoa học pháp lý quốc tế như tác phẩm "Luật chiến tranh và hòa bình" của
tác giả Hugo G.Rotius (Hà Lan) năm 1625.
Thời kỳ cận đại, với sự bùng nổ của cách mạng tư sản và xuất hiện hàng
loạt các quốc gia tư bản chủ nghĩa ở châu Âu. Đây là thời kỳ nền sản xuất hàng hóa
phát triển mạnh mẽ thúc đẩy tăng cường quan hệ quốc tế và giao lưu kinh tế thương
mại. Đây cũng là thời kỳ mà chính các nước tư bản với khẩu hiệu tự do, dân chủ,
bác ái để lôi kéo quần chúng nhân dân lao động đứng về phía mình tiến hành cuộc
cách mạng tư sản nhưng sau đó giai cấp tư sản và các nhà nước tư bản chủ nghĩa lại
đi xâm chiếm các vùng lãnh thổ làm thuộc địa, áp đặt sự cai trị đối với các dân tộc
khác. Thời kỳ này, luật quốc tế tiếp tục phát triển về nội dung cùng với sự hình
thành của những nguyên tắc mới như bình đẳng về chủ quyền quốc gia, không can
thiệp vào công việc nội bộ của các quốc gia khác.
Như vậy, xuyên suốt lịch sử phát triển của nhân loại đến trước khi Liên
hợp quốc ra đời, luật quốc tế đã hình thành và phát triển mà một trong những lĩnh
vực được luật quốc tế điều chỉnh là an ninh con người. Sở dĩ như vậy là vì đến thời
điểm trước khi Liên hợp quốc ra đời thì chiến tranh là đặc điểm nổi bật của quan hệ
quốc tế và rõ ràng rằng an ninh con người đòi hỏi phải loại bỏ chiến tranh và chiến
tranh là nguy cơ trực tiếp và khốc liệt nhất đe dọa an ninh con người, an toàn và
mạng sống của mỗi cá nhân. Vì vậy, bảo vệ con người khi có chiến tranh chính là một
phương thức của an ninh con người. Lịch sử nhân loại đã chứng minh rằng, ngay từ
những năm 3000 trước Công nguyên, loài người đã đề ra một số qui tắc nhất định
dưới hình thức tập quán để bảo vệ những nạn nhân chiến tranh hoặc để hạn chế hay
cấm việc sử dụng một số phương pháp và phương tiện chiến tranh [92, tr. 36]. Cùng
66
với sự phát triển của nền văn minh nhân loại, các tập quán chiến tranh cũng dần dần
được thể hiện dưới hình thức các luật lệ thành văn, điển hình như Bộ luật
Hammurabi (do vua Hammurabi ở xứ Babilon ban hành vào thời kỳ 1728-1686
trước Công nguyên) trong đó tuyên bố mục đích của bộ luật là nhằm: "…ngăn ngừa
kẻ mạnh áp bức kẻ yếu" hoặc Luật Manu (năm 400 trước Công nguyên) bao gồm
những điều khoản cấm giết hại những chiến binh của đối phương đã hạ vũ khí đầu
hàng hoặc không còn khả năng kháng cự.
Năm 1859, chiến tranh khốc liệt diễn ra giữa Áo, Pháp và Ý và chứng kiến
cảnh hàng vạn người lính của cả hai bên bị chết, bị thương nằm la liệt trên chiến
trường mà không được ai chăm sóc, Hanri Duynang (thương gia Thụy Sĩ) đi qua
khu vực này đã cùng người dân nơi đó tình nguyện làm tất cả những gì có thể để
giảm bớt nỗi đau khổ cho họ và sau đó ông đã viết cuốn sách: "Kỷ niệm về
Solferino" (Un Souvernir de Solfe’rino) xuất bản năm 1862 [92, tr. 39]. Cuốn sách
đã gây xúc động mạnh mẽ cho các độc giả thuộc nhiều tầng lớp khác nhau ở châu
Âu và trên cơ sở đó một Ủy ban quốc tế giúp đỡ thương binh (tiền thân của Ủy ban
Chữ thập đỏ quốc tế hiện nay) đã được thành lập. Năm 1864, Hội nghị Giơnevơ
được tổ chức và thông qua Công ước Giơnevơ về cải thiện tình trạng của thương
binh trên chiến trường (Công ước Giơnevơ lần thứ nhất). Công ước Giơnevơ lần thứ
nhất là điều ước quốc tế đa phương pháp điển hóa những tập quán về bảo vệ những
nạn nhân chiến tranh, xác lập nghĩa vụ cho các bên tham chiến và tôn trọng những
người, phương tiện mang biểu tượng chữ thập đỏ. Có thể nói, đây là văn bản pháp
lý quốc tế chứa đựng các nguyên tắc về tính thống nhất và lòng khoan dung trong
các vấn đề chủng tộc, dân tộc, tôn giáo và là cơ sở của các Công ước sau này về
chiến tranh. Trong các năm 1899 và 1907, các Hội nghị hòa bình ở Lahaye đã thông
qua và sửa đổi một loạt công ước nhằm qui định những luật lệ và tập quán tiến hành
chiến tranh, trong đó cấm các bên tham chiến không được sử dụng hơi độc, hơi cay
và ném bom các thành phố không còn khả năng đề kháng… Những công ước trên
đã góp phần quan trọng trong việc bảo hộ nạn nhân và hạn chế những tổn thất
không cần thiết trong chiến tranh thế giới lần thứ nhất (1914 - 1918).
67
Như vậy, có thể thấy rằng trước khi Liên hợp quốc ra đời, an ninh con
người đã là một nội dung quan trọng trong luật pháp quốc tế liên quan đến việc bảo
vệ con người trước, trong và cả sau chiến tranh với ý nghĩa đó là nạn nhân cần phải
được bảo vệ bằng khuôn khổ luật pháp. Nếu như trong thời kỳ cổ đại và trung đại,
bảo vệ nạn nhân chiến tranh và giảm bớt sự khốc liệt của chiến tranh được qui định
trong luật quốc gia (Hammurabi, Manu…) thì đến giai đoạn cận đại được qui định
trong luật quốc tế thông qua hệ thống các công ước. Với ý nghĩa đó, an ninh con
người trong luật pháp quốc tế chính là Luật Nhân đạo quốc tế. Nhưng ở một phương
diện khác, an ninh con người trong luật pháp quốc tế thời kỳ cận đại còn phản ánh
nỗi thống khổ, sự bất công do bị chà đạp của các dân tộc bị xâm chiếm bởi các nước
tư bản khi họ bành trướng chủ nghĩa thực dân tới các châu lục (Á, Phi và Mỹ
Latinh). Đây chính là tiền đề cho nguyên tắc dân tộc tự quyết trong luật pháp quốc
tế sau này bởi vì an ninh con người chỉ được bảo đảm khi không có chiến tranh, khi
không còn sự xâm lược và cai trị của dân tộc này đối với dân tộc khác và ngược lại
quyền tự quyết của mỗi dân tộc chính là bảo đảm cho an ninh con người, an toàn
của mỗi cá nhân và sự phát triển của dân tộc.
2.1.2. Giai đoạn 1945 - 1991
Cách mạng tháng 10 Nga với những nguyên tắc dân chủ, tiến bộ đã có tác
động và ảnh hưởng mạnh mẽ tới quan hệ quốc tế. Đặc biệt, sau chiến tranh thế giới
lần II, luật quốc tế đã có những bước phát triển vượt bậc. Hiến chương Liên hợp
quốc với ý nghĩa là cơ sở pháp lý cho sự ra đời, tổ chức và hoạt động của Liên hợp
quốc, chứa đựng những nguyên tắc cơ bản của quan hệ quốc tế hiện đại. Cùng với
đó, hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa hình thành làm thay đổi cán cân và so sánh
lực lượng trên trường quốc tế. Phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc nhằm thực
hiện quyền dân tộc tự quyết bùng nổ khắp các châu lục…Thực tiễn đó đã làm cho
luật quốc tế mở rộng phạm vi tác động trên qui mô toàn cầu với việc ghi nhận
những nguyên tắc mới như cấm sử dụng vũ lực, nguyên tắc dân tộc tự quyết và tiếp
tục phát triển những nguyên tắc tiến bộ trong lịch sử như bình đẳng về chủ quyền,
tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế và loại bỏ những nguyên tắc không còn phù
68
hợp với quan hệ quốc tế hiện đại như nguyên tắc quyền chiến tranh. Như vậy, luật
quốc tế hiện đại đã thay đổi cơ bản về chất so với luật quốc tế cũ và tạo lập nên địa
vị bình đẳng giữa các quốc gia, chủ thể. Điều này có ý nghĩa hết sức quan trọng để
bảo đảm an ninh con người vì an ninh con người luôn gắn liền với an ninh, chủ
quyền của mỗi quốc gia, dân tộc và nó chỉ có thể được bảo đảm trên cơ sở của sự
tôn trọng, bình đẳng.
Với sự phát triển mạnh mẽ và sự thay đổi về bản chất của luật quốc tế nên
an ninh con người trong pháp luật quốc tế cũng có sự phát triển hơn bao giờ hết.
Hiến chương Liên hợp quốc và sự ra đời của tổ chức Liên hợp quốc đã mở đầu cho
một thời kỳ mới, đánh dấu bước phát triển có ý nghĩa thời đại của loài người, mở ra
cơ chế hợp tác đa phương trong việc giải quyết những vấn đề chung của cộng đồng
quốc tế, trong đó có an ninh con người. Theo đó, an ninh con người không chỉ thuần
túy là an toàn và tính mạng con người khi có chiến tranh mà đã mở rộng sang các
lĩnh vực cho sự phát triển của con người: "một lần nữa thực sự tin tưởng vào những
quyền cơ bản, nhân phẩm và giá trị của con người, ở quyền bình đẳng giữa nam và
nữ; ở quyền bình đẳng giữa các nước lớn và nhỏ"; "Thực hiện sự hợp tác quốc tế
trong việc giải quyết các vấn đề quốc tế về kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo;
khuyến khích phát triển sự tôn trọng các quyền con người và các quyền tự do cơ
bản cho tất cả mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc tôn
giáo" [91, tr. 19]. Như vậy, sau năm 1945 an ninh con người thể hiện gián tiếp
thông qua giá trị quyền con người được thừa nhận trong luật pháp quốc tế. Hiến
chương Liên hợp quốc được coi là văn kiện pháp lý quốc tế khẳng định an ninh con
người trong giai đoạn lịch sử mới. UDHR năm 1948 tái khẳng định, một bước tiến
và là sự bổ sung quan trọng cho Hiến chương Liên hợp quốc về an ninh con người
đó là sự yên ổn của con người được bảo vệ bằng pháp luật. Với sự nỗ lực của cộng
đồng quốc tế, giai đoạn này hàng loạt các công ước quốc tế về an ninh con người đã
được ký kết và có hiệu lực điển hình như: ICCPR và ICESCR năm 1966… Điều
này phản ánh bước phát triển của pháp luật quốc tế về an ninh con người bằng việc
loại bỏ nguyên tắc quyền chiến tranh, khẳng định sự tồn tại của nguyên tắc cấm sử
dụng vũ lực và đe dọa sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế, nguyên tắc hòa bình
69
giải quyết các tranh chấp quốc tế. Để thúc đẩy sự phát triển tiến bộ của luật quốc tế,
cộng đồng quốc tế đã có nhiều nỗ lực trong việc pháp điển hóa các nguyên tắc và
qui phạm luật quốc tế trong nhiều lĩnh vực khác nhau của quan hệ quốc tế. Các
ngành luật độc lập của luật của quốc tế được hình thành và phát triển như Luật quốc
tế về quyền con người, Luật ngoại giao và lãnh sự, Luật lệ và tập quán về chiến
tranh. Các điều ước quốc tế đa phương và song phương được ký kết ngày càng
nhiều, hàng ngàn tổ chức quốc tế được thành lập và có vai trò quan trọng trong việc
giải quyết các vấn đề quốc tế, thúc đẩy quan hệ hữu nghị và hợp tác giữa các quốc
gia, phát triển luật quốc tế. Do đó, an ninh con người được mở rộng tới tất cả các
lĩnh vực của đời sống xã hội trên cơ sở khuôn khổ của luật pháp quốc tế và bảo đảm
bằng hoạt động của hệ thống các thiết chế quốc tế cũng như trách nhiệm thực thi
luật pháp quốc tế của các quốc gia.
2.1.3. Giai đoạn 1991 đến nay
Sự sụp đổ của Liên Xô cũ và hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông
Âu đã làm thay đổi trật tự quan hệ quốc tế, trật tự hai cực đã bị phá vỡ và thay vào
đó là trật tự đa cực được định hình và xác lập. Luật quốc tế về an ninh con người
vẫn tiếp tục phát triển theo dòng chảy của lịch sử. Từ giữa thế kỷ XX đến nay, lịch
sử nhân loại đã có những biến đổi lớn lao, tác động mạnh mẽ đến an ninh con
người. Đồng thời với chiến tranh lạnh, hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân đã
bị sụp đổ, các dân tộc bị áp bức bóc lột đã giành được độc lập và trở thành những
chủ thể bình đẳng trong quan hệ quốc tế. Sau đó, cuộc cách mạng khoa học và công
nghệ đã tạo ra bước nhảy vọt về lực lượng sản xuất và hình thành một nền văn minh
mới, đồng thời đẩy nhanh quá trình quốc tế hóa và toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới.
Tuy nhiên, qui luật phát triển không đồng đều giữa các quốc gia, khu vực vẫn tác
động mạnh mẽ, tạo thành sự bất bình đẳng, thậm chí là sự bất công mới giữa người
với người, quốc gia với quốc gia, khu vực với khu vực. Toàn cầu hóa cũng làm nảy
sinh những thách thức mới đối với an ninh con người. Sự an toàn của con người,
lương thực, thực phẩm để đảm bảo duy trì sự sống của con người… thì ngày nay,
một mặt vẫn đang bị vi phạm một cách phổ biến và có hệ thống ở nhiều nơi bởi
chiến tranh sắc tộc, bởi sự phân cực giàu nghèo, bởi chính sách chính trị cường
70
quyền của các nước lớn; mặt khác, nội dung và tính hữu hiệu của các văn bản pháp
lý quốc tế dường như trở nên bất cập. Nói đến an toàn cá nhân và quyền sống, nếu
chỉ dừng lại ở quan niệm "không ai bị tước đoạt mạng sống một cách vô cớ" thì
điều đó đã trở nên lạc hậu. Ngày nay, an toàn và sự sống gắn với một nền hòa bình
và an ninh bền vững, không bị đe dọa bởi nguy cơ chiến tranh và hưởng một môi
trường tự nhiên, xã hội lành mạnh. Hơn thế, an toàn và quyền sống ngày nay phải
gắn với trách nhiệm đối với các thế hệ mai sau. Do đó, khi nói đến an ninh con
người ngày nay người ta không thể bỏ qua tình trạng ô nhiễm môi trường, bệnh tật
hiểm nghèo, tệ nạn xã hội, khủng bố quốc tế và bạo lực…đang có khuynh hướng
gia tăng. Thực tế này, đòi hỏi luật pháp quốc tế về an ninh con người cần phải tiếp
tục hoàn thiện hơn nữa cả về phương diện lập pháp cũng như thiết chế.
Đề cao an ninh con người trong luật pháp quốc tế đó là đòi hỏi thực tế và
khách quan đúng như kêu gọi của Liên hợp quốc [83] nhưng luôn luôn phải đảm
bảo tôn trọng quyền bình đẳng và quyền tự quyết đối với các quốc gia, dân tộc.
Quan niệm này không phải là mới bởi vì độc lập dân tộc và quyền tự quyết của các
quốc gia đã được khẳng định, trở thành nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế điều
chỉnh các quan hệ quốc tế. Độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia là tiền đề và điều
kiện cơ bản nhất để đảm bảo an ninh con người. Vì vậy mà an ninh con người mới
trở nên đầy đủ bởi con người có được môi trường chính trị để tham gia quản lý xã
hội và nhà nước thông qua cơ chế dân chủ. Mặt khác, với tính hiện thực của nó, độc
lập dân tộc, chủ quyền quốc gia tạo nên tính đặc thù dân tộc và khu vực trong việc
bảo đảm an ninh con người bởi nó thừa nhận sự khác nhau về lịch sử, văn hóa, tôn
giáo giữa các dân tộc và tôn trọng quyền quyền quyết định thể chế chính trị, con
đường phát triển của mỗi quốc gia.
An ninh con người là vấn đề của mọi thời đại, luôn là mối quan tâm của các
quốc gia và là nội dung quan trọng của luật pháp quốc tế. Những qui định về an
ninh con người được thể hiện gián tiếp thông qua các chế định, ngành luật và không
ngừng phát triển cùng với sự phát triển của luật quốc tế. Ban đầu, an ninh con người
quan tâm đến sự khốc liệt của chiến tranh, an toàn và tính mạng của những nạn
nhân chiến tranh. Dần dần, an ninh con người được mở rộng không chỉ đơn thuần là
71
những cá nhân mà đó là sự sinh tồn của cả một cộng đồng, dân tộc. Không chỉ là an
toàn tính mạng với ý nghĩa là một quyền dân sự mà nó còn bao hàm các lĩnh vực
khác của đời sống xã hội. Ngày nay, trước những biến đổi lớn lao của thế giới, an
ninh con người càng cấp thiết hơn bao giờ hết và luật quốc tế hiện đại càng có vai
trò quyết định để bảo đảm an ninh con người bằng việc tạo lập khuôn khổ pháp lý
và hệ thống thiết chế quốc tế trên nguyên tắc tôn trọng chủ quyền quốc gia, quyền
tự quyết của mỗi dân tộc.
2.2. QUI ĐỊNH CỦA PHÁP LUẬT QUỐC TẾ VỀ AN NINH CON NGƯỜI
Pháp luật quốc tế là hệ thống các nguyên tắc và qui phạm do các chủ thể
của luật quốc tế thỏa thuận xây dựng nên trên cơ sở tự nguyện và bình đẳng nhằm
điều chỉnh các lĩnh vực khác nhau của quan hệ quốc tế. An ninh con người với ý
nghĩa là sự an toàn của con người trong cuộc sống và những giá trị của con người
phải được tôn trọng và bảo đảm chỉ có thể trở thành hiện thực khi được ghi nhận
trong pháp luật quốc tế. Mặc dù, luật pháp quốc tế nói chung và các điều ước quốc
tế nói riêng không trực tiếp đề cập khái niệm an ninh con người nhưng những bảo
đảm về phương diện pháp lý quốc tế đối với an ninh con người được xác lập trong
hệ thống các điều ước quốc tế. Điều ước quốc tế qui định và có liên quan đến an
ninh con người rất phong phú, đa dạng ở tất cả các lĩnh vực khác nhau. Các qui định
của luật quốc tế thực chất nhằm xác định trách nhiệm của cộng đồng quốc tế nói
chung và mỗi quốc gia nói riêng. Trách nhiệm của các chủ thể luật quốc tế chính là
quyền mà con người được hưởng và an ninh con người được bảo đảm. Đây là yếu tố
cốt lõi mà an ninh con người hướng tới.
2.2.1. An ninh con người trong lĩnh vực kinh tế
2.2.1.1. Về vấn đề việc làm
Để đảm bảo an ninh con người, vấn đề việc làm có ý nghĩa hết sức quan
trọng vì việc làm gắn liền với thu nhập đảm bảo cuộc sống vật chất, tinh thần của
con người. Đảm bảo việc làm cũng như cơ hội làm việc là trách nhiệm của mỗi
quốc gia và phản ánh quyền về kinh tế của con người. Với ý nghĩa là quyền của con
72
người, quyền làm việc được ghi nhận và điều chỉnh thông qua các văn kiện quốc tế.
UDHR năm 1948 (Điều 23) qui định:
Mọi người có quyền làm việc, quyền tự do lựa chọn nghề
nghiệp, được hưởng những điều kiện làm việc công bằng, thuận lợi và
được bảo vệ chống lại nạn thất nghiệp; Mọi người đều có quyền được trả
công ngang nhau cho những công việc như nhau mà không có bất kỳ sự
phân biệt đối xử nào; Mọi người lao động đều có quyền được hưởng chế
độ thù lao công bằng và hợp lý nhằm bảo đảm sự tồn tại của bản thân và
gia đình xứng đáng với nhân phẩm, và được trợ cấp khi cần thiết bằng
các biện pháp bảo trợ xã hội [91].
ICESCR năm 1966 đã cụ thể hóa quyền làm việc trên tinh thần của UDHR,
theo đó: "các quốc gia thành viên Công ước này thừa nhận quyền làm việc, trong đó
bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công việc do họ tự
do lựa chọn hoặc chấp nhận và các quốc gia phải thi hành các biện pháp thích hợp
để đảm bảo quyền này" [91]. Đồng thời, khoản 2 Điều 6 cũng qui định:
Quốc gia thành viên phải tiến hành các biện pháp để thực hiện
đầy đủ quyền này, bao gồm triển khai các chương trình đào tạo kỹ thuật
và hướng nghiệp, các chính sách và biện pháp kỹ thuật nhằm đạt tới sự
phát triển vững chắc về kinh tế, xã hội và văn hóa, tạo công ăn việc làm
đầy đủ và hữu ích với điều kiện đảm bảo các quyền tự do cơ bản về
chính trị và kinh tế của từng cá nhân [91].
Mặt khác, Điều 7 của ICESCR khẳng định quyền của mọi người được
hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt là được đảm bảo:
"Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo thỏa đáng và công
bằng, đảm bảo cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia đình; những điều kiện làm
việc an toàn và lành mạnh…" [77, tr. 283].
Liên quan tới lao động và việc làm của con người còn có sự điều chỉnh của
nhiều văn bản pháp lý do Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO) thông qua. Chức năng
cơ bản của ILO là thiết lập các chuẩn mực lao động quốc tế bằng việc thông qua các
73
Công ước và khuyến nghị bao trùm các lĩnh vực liên quan đến lao động như sức
khỏe người lao động, lao động ban đêm, phân biệt đối xử, lao động cưỡng bức, lao
động trẻ em… Luật pháp quốc tế gắn kết vấn đề lao động và việc làm với an sinh xã
hội như qui định của Điều 9 ICESCR. Cụ thể, an sinh xã hội bao gồm các chương
trình: chăm sóc y tế; trợ cấp tàn tật; trợ cấp tuổi già; trợ cấp tai nạn lao động; trợ cấp
ốm đau bằng tiền; trợ cấp thất nghiệp; trợ cấp gia đình; trợ cấp làm mẹ; trợ cấp cho
người còn sống. Để thực hiện được các chương trình an sinh, quốc gia phải dành
một tỷ lệ thích đáng ngân sách quốc gia cho việc đảm bảo việc làm, thu nhập và ổn
định kinh tế của người lao động nói riêng và con người nói chung.
2.2.1.2. Vấn đề môi trường
Môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và vật chất nhân tạo bao quanh con
người, có ảnh hưởng đến đời sống, sản xuất, sự tồn tại, phát triển của con người và
sinh vật. Thành phần môi trường là yếu tố vật chất tạo thành môi trường như đất,
nước, không khí, âm thanh, ánh sáng, sinh vật, hệ sinh thái và các hình thái vật chất
khác. Môi trường tự nhiên bao gồm các nhân tố thiên nhiên như vật lý, hóa học,
sinh học, tồn tại ngoài ý muốn của con người, nhưng cũng ít nhiều chịu tác động
của con người, đó là ánh sáng mặt trời, núi, sông, biển cả, không khí, động thực
vật... Môi trường tự nhiên với sự tồn tại của không khí để con người thở, đất đai để
xây dựng nhà cửa, trồng trọt, chăn nuôi, cung cấp cho con người các loại tài nguyên
khoáng sản cần thiết cho sản xuất, tiêu thụ và là nơi chứa đựng, đồng hóa các chất
thải, cung cấp cho con người cảnh quan để giải trí, làm cho cuộc sống con người
thêm phong phú [53, tr. 2].
Từ chỗ sử dụng và khai thác môi trường tự nhiên với tính chất hoàn toàn
tự phát, vì lợi ích kinh tế đơn thuần, tạo ra khủng hoảng cục bộ về môi trường ở
nhiều quốc gia, dẫn đến suy giảm môi trường toàn cầu, con người đã dần nhận
thức được hậu quả của khủng hoảng môi trường đe dọa tới sự phát triển của mỗi
quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế. Do đó, khung pháp luật quốc tế về môi
trường sẽ là cơ sở pháp lý để bảo vệ, phát triển bền vững môi trường cho hôm nay
và tương lai.
74
* Bảo vệ khí quyển và khí hậu
Hoạt động của con người đã làm gia tăng các loại khí gây ô nhiễm cho môi
trường khí quyển, dẫn đến các hiện tượng đe dọa đời sống trên trái đất như những
cơn mưa axit, trái đất nóng lên do hiệu ứng nhà kính làm nước biển dâng cao, xuất
hiện các lỗ thủng của tầng Ozon… đòi hỏi phải có các điều ước quốc tế để ngăn
ngừa và giảm thiểu các thảm họa có thể xảy ra. Việc cộng đồng quốc tế thông qua
Công ước Giơnevơ về ô nhiễm khí quyển xuyên biên giới năm 1979 tạo cơ sở pháp
lý quan trọng cho các quốc gia xây dựng chế độ pháp lý quốc tế về bảo vệ môi
trường khí quyển và khí hậu.
Bộ phận cấu thành quan trọng nhất của khí quyển là tầng Ozon đòi hỏi phải
có sự bảo vệ đặc biệt bởi vì đây là tầng khí bảo vệ sự sống trên trái đất trước các tác
động gây hại nghiêm trọng của các tia cực tím. Vì vậy, cộng đồng quốc tế đã thông
qua Công ước Viên 1985 (có hiệu lực năm 1988) về bảo vệ tầng Ozon. Công ước
qui định các nghĩa vụ cơ bản của các quốc gia liên quan đến việc giám sát, nghiên
cứu và trao đổi thông tin, ban hành các văn bản pháp luật và các biện pháp hành
chính cần thiết, trình tự thủ tục và các tiêu chuẩn cũng như sự hợp tác với các tổ
chức quốc tế nhằm hạn chế và ngăn chặn hoạt động của con người có thể tác động
xấu tới tầng Ozon. Năm 1992, Công ước khung về biến đổi khí hậu đã được thông
qua. Đây là công ước quốc tế toàn diện và quan trọng nhất trong lĩnh vực này. Khác
với Công ước bảo vệ tầng Ozon, công ước này không đưa ra một danh sách cụ thể
các loại chất gây ô nhiễm và thời hạn đình chỉ hoặc giảm bớt việc sản xuất hay thải
các chất này vào khí quyển, Công ước khung về biến đổi khí hậu chủ yếu nhấn
mạnh đến các nguyên tắc và nghĩa vụ chung của các quốc gia thành viên trong việc
ngăn ngừa hiện tượng trái đất nóng lên như: giới hạn các chất khí có thể gây ra hiệu
ứng nhà kính; bảo vệ rừng, biển; đánh giá tác động của sự biến đổi khí hậu đối với
các vùng ven biển, tài nguyên nước và nông nghiệp; thông tin cho công chúng và
tạo điều kiện để người dân tham gia vào quá trình triển khai đối phó với sự tác động
của biến đổi khí hậu.
75
* Bảo vệ rừng
Hiện nay nạn phá rừng đang là vấn đề nghiêm trọng ở nhiều quốc gia, mỗi
năm có khoảng 17 triệu ha rừng biến mất trên bề mặt trái đất. Tại Đông Nam Á,
diện tích che phủ rừng năm 1982 chỉ còn dưới 20% và con số này đang giảm theo tỷ
lệ ước tính là 0,6% mỗi năm. Phá rừng không chỉ làm cạn kiệt tài nguyên mà còn
gây ra các hậu quả khác như sa mạc hóa, xói lở đất, lũ lụt… Vì vậy, nội dung các
công ước quốc tế về bảo vệ môi trường đã xác định: Tất cả các quốc gia phải có
trách nhiệm và tham gia vào việc trồng rừng và bảo vệ rừng; rừng phải được quản
lý để đáp ứng các nhu cầu về xã hội, kinh tế, sinh thái, văn hóa của các thế hệ hiện
tại và tương lai; các quốc gia phải có qui hoạch và chính sách quốc gia về sử dụng
rừng một cách phù hợp. Đặc biệt, các chính sách phải nhằm trợ giúp cho tính đồng
nhất, nền văn hóa và những quyền của nhân dân địa phương và những người sinh
sống trong rừng; các quốc gia phải hợp tác trong việc bảo vệ rừng. Việc buôn bán
các sản phẩm rừng phải dựa trên các nguyên tắc không phân biệt được các quốc gia
thỏa thuận; trợ giúp tài chính quốc tế, kể cả trợ giúp từ khu vực tư nhân cho các
quốc gia đang phát triển giúp họ bảo vệ rừng của mình.
* Bảo vệ đa dạng sinh học
Đa dạng sinh học được hiểu là tất cả các loài sinh vật, động vật, thực vật, vi
sinh vật và các loại gen mà mỗi cá thể chứa đựng cũng như những hệ sinh thái do
các loài đó tạo nên. Bảo vệ và sử dụng bền vững đa dạng sinh học là yêu cầu hết
sức quan trọng nhằm đáp ứng các nhu cầu về lương thực, thực phẩm, sức khỏe và
các nhu cầu khác của con người. Tuyên bố Stockhom 1972 đã đặt vấn đề cần thiết
bảo vệ các loài và các khu vực sống hoang dã của chúng. Năm 1982, Đại hội đồng
Liên hợp quốc đã thông qua Hiến chương thế giới về tự nhiên do Hiệp hội quốc tế
về bảo tồn tự nhiên soạn thảo. Chương trình hành động 21 đã thiết lập một khung
hợp tác về bảo tồn sự đa dạng sinh học. Trong nỗ lực của các quốc gia và cộng đồng
quốc tế về bảo vệ đa dạng sinh học phải kể đến Công ước RAMSAR 1971, Công
ước CITES 1973 và Công ước đa dạng sinh học 1992.
76
Đa dạng sinh học không phải là sự tổng hợp đơn giản, không phải phép
cộng hữu cơ của các hệ sinh thái, các loài và các kiểu gen mà chính là sự phong phú
của các loại gen trong các loài, giữa các loài và các hệ sinh thái. Do đó, đa dạng
sinh học được xem xét từ ba góc độ: đa dạng gen (đa dạng di truyền); đa dạng phân
loài và đa dạng hệ sinh thái. Vì vậy, việc bảo tồn đa dạng sinh học phải được tiến
hành trên cơ sở của các nguyên tắc bảo tồn và sử dụng bền vững các bộ phận hợp
thành của đa dạng sinh học, phân phối công bằng hợp lý lợi ích có được nhờ việc
khai thác và sử dụng nguồn gen, bao gồm cả việc tiếp cận hợp lý nguồn gen và
chuyển giao thích hợp công nghệ cần thiết có tính đến các quyền sở hữu tài nguyên,
công nghệ. Các quốc gia có các quyền và nghĩa vụ trong lĩnh vực bảo vệ sự đa dạng
sinh học:
- Triển khai các chiến lược, kế hoạch hoặc chương trình bảo tồn và sử dụng
bền vững đa dạng sinh học của quốc gia.
- Thực hiện các biện pháp bảo tồn nội vi và bảo tồn ngoại vi. Bảo tồn nội vi
gồm lập và quản lý hệ thống các khu bảo tồn; phát triển bền vững các vùng phụ cận,
các khu vực được bảo vệ; tái định cư và khôi phục các hệ sinh thái xuống cấp; bảo
vệ vốn hiểu biết và thực tế của nhân dân địa phương; bảo vệ các loài động vật và
nhóm cư dân bị đe dọa. Bảo tồn ngoại vi là bảo vệ các vùng cư trú thiên nhiên bên
ngoài như các vườn thú, vườn thực vật và các ngân hàng giống cây trồng.
- Quyền tiếp cận các nguồn gen.
- Trao đổi thông tin, chuyển giao công nghệ để đạt được mục đích bảo tồn
đa dạng sinh học đặc biệt ở những nước đang phát triển.
- Bảo tồn các vùng đất ngập nước, các loài động thực vật hoang dã quí
hiếm, đặc biệt là các loài di cư và các loài có nguy cơ tuyệt chủng.
* Bảo vệ tài nguyên nước
Tài nguyên nước gắn liền với sự sống của con người và sự phát triển của
các quốc gia nhưng theo thống kê thì 97% nước trên Trái Đất là nước biển và trong
số 3% còn lại thì 77% trong số đó bị đóng băng tại các cực và các dòng sông băng,
77
22% là nước ngầm và 1% chuyển động tự do trong chu trình thủy văn trên bề mặt
trái đất. Với sự phát triển của công nghiệp, nông nghiệp và dân số, tình trạng thiếu
nước sạch đang diễn ra gay gắt: khoảng 75% dân số của các nước đang phát triển
không có đủ nước sạch để dùng và 87% không có công trình vệ sinh, đổ rác thải
trực tiếp xuống các dòng nước chảy. Năm 1981, Liên hợp quốc đã phát động thập
kỷ quốc tế về cung cấp nước sạch và vệ sinh môi trường, nhằm mục đích cung cấp
nước sạch và công trình vệ sinh cho tất cả mọi người vào năm 1990 nhưng kế hoạch
này đã không đạt được mục đích như mong muốn. Cho đến nay, trên thế giới vẫn
chưa có một điều ước quốc tế phổ cập nào về vấn đề bảo vệ các nguồn nước quốc
tế. Điều ước quốc tế về sử dụng các nguồn nước quốc tế vào mục đích phi giao
thông được thông qua năm 1997 là một trong những cố gắng đầu tiên về hợp tác
quản lý các nguồn nước quốc tế. Đây là Công ước quốc tế toàn cầu quan trọng nhất
trong lĩnh vực sử dụng các nguồn nước quốc tế tạo cơ sở pháp lý để xác lập quyền,
nghĩa vụ và trách nhiệm cho các quốc gia.
* Bảo vệ môi trường biển
Đại dương và biển có những nguồn tài nguyên sinh vật, năng lượng và
khoáng sản đa dạng. Biển là cái nôi của đa dạng sinh học, nơi tiếp liệu nguồn ô xy
cho bầu khí quyển, hấp thụ khí thải carbonic, cung cấp nguồn nước ngọt cũng như
chuyển hóa các loại chất thải sản sinh trong quá trình hoạt động của con người.
Vùng ven biển đã trở thành trung tâm phát triển công nghiệp và xã hội trong thế kỷ
XX và tương lai. Khoảng 60% dân số thế giới sống tại các vùng ven biển và đồng
thời sự ô nhiễm nghiêm trọng do dầu, các chất thải công nghiệp và hóa chất độc hại
gây nên. Bảo vệ môi trường biển đang là yêu cầu bức thiết và là nghĩa vụ chung của
tất cả các quốc gia được xác lập thông qua hệ thống các điều ước quốc tế mà điển
hình là Công ước của Liên hợp quốc về Luật biển năm 1982. Bên cạnh đó còn có
các điều ước quốc tế như: Hiệp ước Nam Cực năm 1959 cấm các vụ nổ hạt nhân và
chất thải hạt nhân tại Nam Cực; Công ước Bruxelles năm 1962 về trách nhiệm dân
sự trong lĩnh vực vận chuyển đường biển các chất phóng xạ, hạt nhân; Hiệp ước
Matxcova năm 1963 về cấm thử vũ khí hạt nhân trong khí quyển, vũ trụ và dưới
78
nước; Công ước Paris năm 1960 và Công ước Viên 1963 về trách nhiệm dân sự
trong lĩnh vực hạt nhân và các công ước đảm bảo an toàn trong lĩnh vực hàng hải.
Tóm lại, thông qua luật pháp quốc tế những khuôn khổ pháp lý quốc tế để
bảo vệ môi trường đã được xác lập và xác định trách nhiệm của mỗi quốc gia nói
riêng và cộng đồng quốc tế nói chung. Bảo vệ môi trường là vấn đề toàn cầu bởi
cộng đồng quốc tế bao gồm nhiều quốc gia nhưng môi trường chỉ có một và không
biên giới. Ngày nay, môi trường và bảo vệ môi trường là trách nhiệm chung của tất
cả các chủ thể bởi cuộc sống bình thường của mỗi cá nhân và an ninh con người
chịu tác động trực tiếp của môi trường bởi trước tiên sự sống của con người phải
được duy trì bằng việc được cung cấp lương thực, thực phẩm và bảo đảm về sức
khỏe. Do đó, có hay không và được đảm bảo hay không nguồn đầu vào của sự sống
con người do môi trường quyết định và đây là nền tảng cho an ninh con người.
2.2.2. An ninh con người trong lĩnh vực xã hội
2.2.2.1. Vấn đề y tế, sức khỏe
Mọi người cần được hưởng một tiêu chuẩn sức khỏe về thể chất và tinh
thần theo đó các quốc gia cần có những biện pháp cần thiết nhằm giảm bớt tỷ lệ tử
vong của trẻ sơ sinh và trẻ em; cải thiện mọi mặt về vệ sinh môi trường và vệ sinh
công nghiệp; ngăn ngừa, xử lý và hạn chế các dịch bệnh, bệnh ngoài da, bệnh nghề
nghiệp và các loại bệnh khác; tạo các điều kiện để bảo đảm mọi dịch vụ và sự chăm
sóc y tế khi đau yếu.
Sức khỏe là trạng thái thoải mái về điều kiện thể chất, tinh thần và xã hội,
không chỉ thuần túy là không có bệnh tật hay không ổn định [51, tr. 139]. Chăm sóc
sức khỏe là tiêu chuẩn để con người sống một cuộc sống có nhân phẩm. Vì vậy,
chăm sóc sức khỏe được thực hiện thông qua nhiều cách tiếp cận bổ trợ nhau như
xây dựng chính sách y tế, thực hiện các chương trình y tế do Tổ chức Y tế Thế giới
(WHO) triển khai.
Chăm sóc sức khỏe không chỉ bảo đảm để con người được khỏe mạnh mà
nó còn gắn liền với việc làm chủ về sức khỏe và thân thể, kể cả về tình dục và sinh
79
sản, bình đẳng về cơ hội trong việc chăm sóc sức khỏe. Các quốc gia khó có thể
đảm bảo sức khỏe tốt cho mọi người dân cũng như không thể loại trừ mọi nguy cơ
với sức khỏe của con người vì nó phụ thuộc vào tiền đề sinh học và điều kiện kinh
tế - xã hội. Những yếu tố như gen di truyền, tính nhạy cảm với tình hình sức khỏe
của bản thân, lối sống và điều kiện sống đóng vai trò quan trọng đối với sức khỏe
của mỗi cá nhân con người.
Đảm bảo sức khỏe cho mọi người với ý nghĩa là đảm bảo an ninh con người
phụ thuộc vào các yếu tố: khả năng về cơ sở chăm sóc sức khỏe và y tế công, các
loại hàng hóa và dịch vụ cũng như các chương trình chăm sóc sức khỏe của các
quốc gia; khả năng mọi người có thể tiếp cận với các cơ sở chăm sóc sức khỏe,
hàng hóa và dịch vụ y tế.
Để bảo đảm các quốc gia không được thực hiện những phân biệt mang tính
phân biệt đối xử trong chính sách quốc gia; sử dụng các phương pháp chăm sóc dự
phòng, tập quán và thuốc chữa trị truyền thống, không cho phép bán ra thị trường
những loại thuốc không an toàn và áp dụng những biện pháp điều trị y tế cưỡng bức
trừ khi đó là cần thiết để phòng chống và kiểm soát các loại bệnh có thể truyền
nhiễm. Các quốc gia không được làm ô nhiễm không khí, nước và đất một cách bất
hợp pháp; sử dụng hoặc thử nghiệm các loại vũ khí hạt nhân, sinh học hoặc hóa học
nếu việc thử nghiệm đó dẫn đến việc thải ra các chất có hại cho sức khỏe con người.
Vì lẽ đó, các quốc gia phải ban hành luật hoặc các biện pháp khác để đảm
bảo sự tiếp cận bình đẳng các dịch vụ chăm sóc sức khỏe và liên quan đến sức khỏe;
kiểm soát hoạt động tiếp thị thiết bị y tế và thuốc; xây dựng tiêu chuẩn những người
hành nghề y và các nhà chuyên môn khác; không được hạn chế người dân tiếp cận
thông tin và dịch vụ liên quan đến sức khỏe; thực hiện các biện pháp để bảo vệ các
nhóm có nguy cơ dễ gặp rủi ro hoặc bị gạt ra ngoài lề xã hội, đặc biệt là phụ nữ, trẻ
em, vị thành niên và người cao tuổi trước những biểu hiện của bạo lực dựa trên giới.
Nhằm mục đích tôn trọng sức khỏe và bảo đảm chăm sóc y tế, các quốc gia
cần phải xây dựng hệ thống pháp luật về chăm sóc sức khỏe cũng như hệ thống
chính sách y tế quốc gia. Theo đó, các quốc gia phải đảm bảo cung cấp dịch vụ
80
chăm sóc y tế, chương trình tiêm chủng chống các bệnh truyền nhiễm cơ bản; đồng
thời tạo điều kiện để mọi người tiếp cận các yếu tố quyết định tới sức khỏe như
lương thực an toàn đủ dinh dưỡng và nước uống sạch, điều kiện vệ sinh cơ bản. Cơ
sở hạ tầng y tế công có khả năng cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe đặc biệt
là ở các vùng nông thôn; thúc đẩy và hỗ trợ thiết lập các viện nghiên cứu, dịch vụ y
tế trên toàn lãnh thổ. Kết hợp nghiên cứu và giáo dục y tế cũng như tuyên truyền
thông tin, đặc biệt về HIV/AIDS, sức khỏe sinh sản và giới tính, bạo lực gia đình,
lạm dụng rượu và thuốc lá, thuốc gây nghiện và các chất có hại khác.
Vấn đề sức khỏe và chăm sóc y tế để đảm bảo an ninh con người được ghi
nhận trong các văn kiện pháp lý quốc tế như UDHR năm 1948 (Điều 25); ICESCR
năm 1966 (Điều 7, 11, 12); Công ước về chống các hình thức phân biệt đối xử với
phụ nữ năm 1979 (Điều 10, 12, 14); Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (Điều
24); Hiến chương xã hội châu Âu năm 1961 sửa đổi (Điều 11); Hiến chương châu
Phi về quyền con người và quyền của các dân tộc năm 1981 (Điều 16); Nghị định
thư bổ sung Công ước châu Mỹ về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa năm 1988
(Điều 10); Công ước quốc tế về dịch vụ y tế lao động năm 1985; Tuyên bố Ottawa
của Hiệp hội Y tế Thế giới về quyền được chăm sóc y tế của trẻ em năm 1998;
Công ước khung của Liên hợp quốc về kiểm soát thuốc lá năm 2003; các công ước
quốc tế khác về sức khỏe người lao động do ILO thông qua… Các văn kiện pháp lý
quốc tế về vấn đề sức khỏe của con người một mặt thừa nhận sức khỏe là vốn quí để
con người tồn tại và phát triển trong nhân phẩm; mặt khác, tạo nên một khung pháp
lý quốc tế mang tính ràng buộc hoặc khuyến nghị để các quốc gia nỗ lực bảo vệ sức
khỏe con người thông qua hệ thống y tế quốc gia kết hợp với sự hợp tác của cộng
đồng quốc tế.
2.2.2.2. Về lương thực, thực phẩm
Việc đảm bảo có lương thực, thực phẩm thích đáng cho con người được ghi
nhận trong các điều ước quốc tế nhưng điển hình hơn cả là ICESCR năm 1966.
Lương thực, thực phẩm có tầm quan trọng cốt yếu cho việc đảm bảo cuộc sống và
an ninh con người. Đảm bảo lương thực, thực phẩm áp dụng cho tất cả mọi người
81
và không có sự hạn chế nào bởi nó gắn liền với việc đảm bảo nhân phẩm vốn có của
con người và nó không tách rời khỏi việc thực hiện công bằng xã hội thông qua các
chính sách kinh tế, môi trường và xã hội phù hợp ở cả hai cấp độ quốc gia và quốc
tế nhằm xóa bỏ đói nghèo bảo đảm an ninh cho tất cả mọi người.
Đảm bảo có lương thực, thực phẩm bất kể nam hay nữ, người lớn hay trẻ
em trong bất kỳ lúc nào cũng được tiếp cận với lương thực, thực phẩm hoặc với các
nguồn lực để mua lương thực, thực phẩm một cách thích đáng. Như vậy, đảm bảo
có lương thực, thực phẩm cho cuộc sống của con người không chỉ dừng lại ở việc
có một lượng tối thiểu về năng lượng, chất đạm và các chất dinh dưỡng đặc thù
khác. Để có được điều đó cần đến cả một quá trình và các quốc gia có trách nhiệm
giảm bớt và hạn chế nạn đói kể cả khi xảy ra thảm họa tự nhiên hoặc do những
nguyên nhân khác.
Theo luật pháp quốc tế, đảm bảo lương thực, thực phẩm còn đòi hỏi ở một
mức độ cao hơn đó là những sản phẩm sạch không có chất độc hại và phù hợp về
phương diện văn hóa, đủ để thỏa mãn nhu cầu ăn của con người. Việc tiếp cận
lương thực bằng các biện pháp bền vững đảm bảo giúp con người duy trì, phát triển
cả về thể chất, tinh thần. Đảm bảo lương thực, thực phẩm sạch gắn liền với việc
phòng tránh lương thực, thực phẩm độc hại và đặt ra yêu cầu về an toàn thực phẩm
và hàng loạt các biện pháp phòng ngừa nhằm ngăn chặn khả năng gây bệnh từ
lương thực, thực phẩm do nạn làm giả, vệ sinh môi trường kém, thực hiện không
đúng qui trình sản xuất. Không những vậy, để đảm bảo lương thực, thực phẩm còn
bao hàm khả năng sản xuất, phân phối và tiếp thị mà có thể chuyển lương thực, thực
phẩm từ nơi sản xuất tới nơi tiêu dùng theo yêu cầu để con người có khả năng tiếp
cận trên cả phương diện về lượng và chất. Về lượng, đó là khả năng tài chính của cá
nhân hay gia đình để có được lương thực, thực phẩm.Về chất, mỗi người phải được
đủ ăn kể cả những người dễ bị tổn thương như trẻ sơ sinh, người già, người tàn tật.
Nạn nhân của các thảm họa tự nhiên, những người sống trong các vùng có nguy cơ
bị thiên tai, những người khuyết tật, những nhóm dân tộc bản địa cần được sự quan
tâm đặc biệt và được ưu tiên cung cấp lương thực, thực phẩm.
82
Các quốc gia có trách nhiệm bảo đảm để mọi người dưới quyền tài phán
của quốc gia có được lượng lương thực, thực phẩm cơ bản tối thiểu đủ về số lượng,
thích đáng và an toàn về dinh dưỡng để bảo đảm người dân không bị đói. Việc
không bảo đảm lương thực, thực phẩm có thể do hành động trực tiếp của Nhà nước
hoặc hành động của các chủ thể khác xuất phát từ sự quản lý kém hiệu quả của Nhà
nước như hủy bỏ hoặc đình chỉ những qui định pháp luật cần thiết; không cho phép
cá nhân hoặc nhóm nhất định tiếp cận với lương thực, thực phẩm; ngăn cản cá nhân
hoặc nhóm tiếp cận với lương thực viện trợ nhân đạo được cung cấp trong bối cảnh
xung đột vũ trang hoặc các trường hợp khẩn cấp khác. Bên cạnh trách nhiệm cơ bản
của Nhà nước còn có trách nhiệm của các chủ thể trong xã hội như cá nhân, gia
đình, cộng đồng, các tổ chức phi chính phủ trong việc đảm bảo nhu cầu thiết yếu
cho việc duy trì cuộc sống của con người - cơ sở bảo đảm cho an ninh con người.
Với trách nhiệm của mình mỗi quốc gia có những cách thức để bảo đảm
lương thực, thực phẩm cho người dân như phải xây dựng chiến lược quốc gia nhằm
đảm bảo an ninh lương thực và dinh dưỡng cho tất cả mọi người. Chiến lược này
phải xây dựng được các biện pháp từ sản xuất, chế biến, phân phối, tiếp thị và tiêu
thụ lương thực an toàn, cũng như các biện pháp song hành trên các lĩnh vực y tế,
giáo dục, việc làm và an sinh xã hội.
Có thể nói, để con người tồn tại, phát triển và an ninh con người được bảo
đảm thì nhu cầu trước tiên phải được đáp ứng ít nhất ở mức tối thiểu. Nhu cầu đó là
quyền của con người và trách nhiệm của quốc gia được xác lập bằng luật pháp quốc
tế thông qua qui định của các điều ước quốc tế như ICESCR; Công ước Rotterdam
về quản lý hóa chất và thuốc bảo vệ thực vật; Công ước bảo vệ thực vật quốc tế;
Hiệp định về việc áp dụng các biện pháp vệ sinh dịch tễ và kiểm dịch động thực vật;
Hiệp ước quốc tế về tài nguyên di truyền thực vật cho lương thực và nông
nghiệp…các điều ước quốc tế trên là cơ sở pháp lý để từ đó các quốc gia áp dụng
hoặc nội luật hóa bằng pháp luật quốc gia. Đây là lĩnh vực đặc biệt quan trọng và
diễn ra ở hầu hết các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
83
2.2.3. An ninh con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị
2.2.3.1. An toàn cá nhân
Quyền sống, tự do và an toàn cá nhân được đề cập tại Điều 3 của UDHR
năm 1948 với ý nghĩa an toàn cá nhân là nền tảng cho sự sống, tự do và nhân phẩm
của con người. An toàn cá nhân được biểu hiện bằng quyền sống của con người và
chống lại các hình thức đe dọa thông qua sự bảo vệ của pháp luật: "Mọi người đều
có quyền cố hữu là được sống. Quyền này phải được pháp luật bảo vệ. Không ai
có thể bị tước mạng sống một cách tùy tiện" (Điều 6, ICCPR năm 1966). Như vậy,
có thể thấy rằng quyền sống là một quyền cơ bản của con người mà trong bất cứ
hoàn cảnh nào, kể cả trong tình trạng khẩn cấp của quốc gia cũng không thể bị vi
phạm. Quyền sống không nên hiểu theo nghĩa hẹp chỉ là sự toàn vẹn về tính
mạng. Hơn thế, quyền này bao gồm cả những khía cạnh nhằm bảo đảm sự tồn tại
của con người. Do đó, việc đảm bảo quyền sống còn đòi hỏi các quốc gia phải
thực thi những biện pháp để làm giảm tỷ lệ chết ở trẻ em và tăng tuổi thọ bình
quân của người dân như các biện pháp nhằm xóa bỏ tình trạng suy dinh dưỡng và
các dịch bệnh.
Nguy cơ truyền thống đe dọa tới an toàn cá nhân là chiến tranh và các tội
phạm nghiêm trọng như diệt chủng hay tội phạm chống nhân loại. Vì vậy, đầy lùi
nguy cơ chiến tranh và sự gia tăng của các loại tội phạm là phương thức hữu hiệu
trong quan hệ quốc tế và cũng là trách nhiệm của quốc gia nhằm bảo đảm an toàn cá
nhân. Hơn thế nữa, trách nhiệm của quốc gia còn gắn liền với việc xử lý các lực
lượng sức mạnh có hành vi vi phạm đe dọa tới an toàn, tính mạng của người dân.
Đe dọa an toàn cá nhân không chỉ do quốc gia khác gây ra thông qua các
cuộc chiến tranh hoặc xuất phát từ chính hành vi của quốc gia như tra tấn, lao động
khổ sai mà nó còn bắt nguồn từ trong lòng xã hội của mỗi quốc gia như xung đột
sắc tộc và tôn giáo; bạo lực trong gia đình đe dọa phụ nữ, trẻ em hoặc nguy cơ xuất
phát từ chính bản thân cá nhân con người như việc sử dụng ma túy. An toàn cá nhân
không chỉ là hậu quả của các nguy cơ truyền thống mà đồng thời nó còn mang tính
xã hội gắn liền với từng xã hội, quốc gia.
84
2.2.3.2. Trật tự cộng đồng
"Cộng đồng" là tập hợp của những người có những điểm giống nhau làm
thành một khối như một xã hội [107, tr. 461]. Có nhiều cách hiểu khác nhau về
cộng đồng: theo nghĩa hẹp, ở mỗi quốc gia có nhiều cộng đồng khác nhau. Căn cứ
vào tôn giáo có cộng đồng người Cuốc ở Thổ Nhĩ Kỳ; Cộng đồng người Sunni và
Cộng đồng người Zaier ở I Rắc. Căn cứ vào dân tộc có Cộng đồng người Việt ở
Liên bang Nga…Theo nghĩa rộng, cộng đồng gắn liền với dân tộc và quốc gia với
tư cách là những chủ thể của luật quốc tế và như vậy chúng ta có cộng đồng của
nhóm quốc gia như Cộng đồng châu Âu, Cộng đồng ASEAN hoặc cộng đồng quốc
tế. Ở đây, tôi đề cập và xem xét đến khái niệm cộng đồng theo nghĩa rộng với ý
nghĩa đó là các dân tộc - quốc gia những chủ thể độc lập của cộng đồng quốc tế bởi
vì những cộng đồng trong khuôn khổ của một quốc gia liên quan đến vấn đề công
việc nội bộ của các quốc gia.
Với cách tiếp cận như vậy, trật tự cộng đồng để bảo đảm an ninh con người
bao gồm quyền tự quyết của mỗi dân tộc và sự ổn định, phát triển của cộng đồng
dân tộc.
Trước hết, về quyền tự quyết của dân tộc. Thực tiễn khẳng định quyền tự
quyết dân tộc được thể hiện thông qua phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc của
các dân tộc bị áp bức bởi chủ nghĩa thực dân nhưng thừa nhận quyền này trên
phương diện pháp lý bằng luật pháp quốc tế là kết quả đấu tranh giữa các lực lượng
dân chủ tiến bộ trên thế giới với các nước tư bản đế quốc. Điều 1 ICCPR năm 1966
khẳng định tất cả các dân tộc đều có quyền tự quyết. Theo đó, các dân tộc tự do
quyết định thể chế chính trị, kinh tế, xã hội và văn hóa… Trong mọi trường hợp,
không ai được phép tước đi của một dân tộc những phương tiện sinh tồn của chính
họ. Quyền tự quyết của các dân tộc phải được tôn trọng như khẳng định của Hiến
chương Liên hợp quốc.
Quyền dân tộc tự quyết được thể hiện ở các khía cạnh: Thứ nhất, các dân
tộc trên thế giới được tự do phát triển và tự do quyết định thể chế chính trị của
mình. Thứ hai, mỗi dân tộc được tự do định đoạt tài nguyên quốc gia và các nguồn
85
sức mạnh vật chất để tồn tại và phát triển, trên cơ sở tôn trọng lợi ích cộng đồng
quốc tế. Thứ ba, xác định quyền bình đẳng giữa các dân tộc, không phân biệt chế độ
chính trị, trình độ phát triển, vị trí địa lý…
Quyền dân tộc tự quyết cũng được qui định tại Điều 1 ICESCR năm 1966;
Công ước châu Âu về bảo vệ các quyền và tự do cơ bản; Công ước châu Mỹ về các
quyền con người. Quyền tự quyết xác định ý nghĩa pháp lý là tất cả các dân tộc đều
có quyền tự quyết. Theo đó, các dân tộc tự do quyết định thể chế chính trị và
phương hướng phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Quyền tự quyết phải được thực
hiện trên nền tảng dân chủ, nghĩa là phải được thừa nhận nguyên tắc "ý chí của nhân
dân là cơ sở thẩm quyền của chính phủ". Quyền tự quyết của dân tộc là quyền của
nhóm, có tính tập thể, bởi vì, nó không được thực hiện thường xuyên bởi các cá
nhân hành động đơn lẻ. Quyền tự quyết của các dân tộc được khẳng định trong Điều
1 ICCPR năm 1966. Điều đó có nghĩa nó là điều kiện tiên quyết, một dân tộc chỉ
khi được độc lập về chính trị và kinh tế, thì các cá nhân trong dân tộc đó mới có
điều kiện để thực hiện các quyền và tự do của chính mình. Nói cách khác, an ninh
của cộng đồng dân tộc được bảo đảm thì an ninh con người mới tồn tại bởi vì yếu tố
cốt lõi của an ninh con người đó là an toàn cá nhân khi cá nhân đó không bị đe dọa
bởi chiến tranh, áp bức.
Trên một phương diện khác, quyền tự quyết của mỗi dân tộc còn thể hiện ở
sự ổn định, phát triển về chính trị, xã hội và văn hóa. Nếu như trong chiến tranh
lạnh, trật tự và ổn định của cộng đồng, dân tộc hoặc quốc gia được nhìn nhận từ góc
độ quan hệ quốc tế hay nói cách khác, lăng kính của chính sách đối ngoại và việc
không đe dọa bằng vũ lực từ quốc gia khác là đối tượng tham chiếu. Chiến tranh
lạnh chấm dứt, sự đối đầu được thay thế bằng xu thế đối thoại giữa các quốc gia
nhưng cùng với nó những vấn đề trong lòng mỗi cộng đồng, dân tộc và quốc gia lại
nổi lên thành những nguy cơ phá vỡ sự ổn định và trật tự của mỗi cộng đồng. Thêm
nữa, quá trình toàn cầu hóa diễn ra mạnh mẽ làm cho các cộng đồng, các dân tộc
phụ thuộc vào nhau ngày càng nhiều hơn. Điều đó càng làm gia tăng những bất ổn
đối với cộng đồng và đe dọa tới an ninh con người. Đó là sự gia tăng về dân số tạo
86
áp lực cho quá trình phát triển và hệ quả là nghèo đói ngày càng nhiều, khoảng cách
bất bình đẳng xã hội không được thu hẹp. Hơn nữa, chính sách của các quốc gia đối
với các vùng miền, dân tộc, tôn giáo cũng là nguyên nhân của sự bất ổn cộng đồng.
Việc thụ hưởng quyền lợi chính trị, kinh tế và tài nguyên cũng dẫn tới sự chia rẽ xã
hội và các cuộc xung đột giữa các cộng đồng trong lòng một dân tộc - quốc gia
ngày càng tăng lên. Vì thế, trật tự cộng đồng như một hàng rào bảo đảm cho an ninh
con người hay nói cách khác an ninh quốc gia là điều kiện tiên quyết bảo đảm cho
an ninh con người và ở một góc độ khác an ninh con người là sự bổ sung và làm
sáng tỏ hơn nội hàm của an ninh quốc gia.
Trong bối cảnh toàn cầu hóa, trật tự cộng đồng còn gắn liền với việc bảo
tồn những giá trị văn hóa của mỗi cộng đồng mỗi dân tộc bởi vì đó là bản sắc riêng
của mỗi cộng đồng. Giá trị mang tính nhân bản được thể hiện thông qua văn hóa
nhưng toàn cầu hóa làm cho các nền văn hóa, các giá trị văn hóa có sự tương tác và
như vậy, cái tôi, cái bản ngã của mỗi con người mỗi cộng đồng càng đòi hỏi được
khẳng định hơn bao giờ hết. Sẽ là biện chứng khi nhìn nhận rằng trật tự và ổn định
của cộng đồng bên cạnh các yếu tố chính trị, quyền lợi kinh tế thì còn cần đến sự
tôn trọng đối với các giá trị văn hóa.
2.2.3.3. Môi trường chính trị
Môi trường chính trị trong khái niệm an ninh con người được Liên hợp
quốc gắn với việc "xã hội tôn trọng các quyền cơ bản của con người" [125, tr. 32].
Quan niệm như vậy cũng giống như ý kiến của tác giả Nguyễn Quỳnh Anh (Học
viện An ninh Nhân dân) cho rằng: "an ninh chính trị là việc bảo đảm sự tôn trọng
đối với các quyền cơ bản của con người" [93, tr. 236]. Tác giả Tường Duy Kiên thì
cho rằng vấn đề chính trị trong cấu thành an ninh con người chính là bảo đảm các
quyền về dân sự và chính trị của con người [104, tr. 189]. Như vậy, hai tác giả có
cách nhìn nhận vấn đề chính trị để đảm bảo an ninh con người ở hai phạm vi khác
nhau: tác giả Nguyễn Quỳnh Anh xem xét ở phạm vi rất rộng liên quan tới toàn bộ
quyền con người và như vậy sẽ khó để xác định tiêu chí trong việc đảm bảo an ninh
con người; tác giả Tường Duy Kiên nhìn nhận ở góc độ hẹp hơn và tập trung vào
87
nhóm quyền dân sự, chính trị để xem xét an ninh con người và tôi cũng đồng quan
điểm với tác giả này, đó là chủ yếu quan tâm về các quyền dân sự và chính trị chứ
không phải toàn bộ quyền con người nói chung. Sở dĩ như vậy là vì các khía cạnh
cốt lõi của quyền kinh tế, xã hội và văn hóa đã được phản ánh bằng các yếu tố đầu
tiên cấu thành an ninh con người như lương thực, thực phẩm, y tế. Đây là những
yếu tố đầu tiên để con người có thể tồn tại và sống trước khi đề cập tới sự phát triển
của con người. Hơn nữa, bản thân các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội phụ thuộc rất
lớn vào điều kiện kinh tế, xã hội ở từng quốc gia nên việc đòi hỏi một mặt bằng
chung cho tất cả mọi người ở mọi quốc gia sẽ là phi thực tế. Nói như vậy không có
nghĩa là phủ nhận nỗ lực của các quốc gia đang phát triển trong việc chăm lo cho
con người nhưng một điều tất yếu là đảm bảo an ninh con người sẽ phụ thuộc vào
trước hết là nguồn lực của quốc gia.
Bên cạnh đó, mục đích cuối cùng của an ninh con người là hướng tới bảo
đảm quyền con người cũng như những giá trị của con người. Vì vậy, quyền dân sự
chính trị nói riêng ít phụ thuộc vào điều kiện đặc thù của từng quốc gia và như vậy
mọi quốc gia đều có khả năng bảo đảm nhất là trong bối cảnh các nguy cơ toàn cầu
có tác động rất lớn tới mục tiêu bảo đảm quyền con người mà Hiến chương Liên
hợp quốc và các văn bản pháp lý quốc tế đã khẳng định.
Trong quá trình phát triển, xét về mặt lịch sử các quyền dân sự, chính trị
được thừa nhận sớm hơn so với các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa. Điều đó được
thể hiện trong các Tuyên ngôn, Hiến pháp của các quốc gia như Tuyên ngôn độc lập
của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ năm 1776, Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của
Pháp năm 1789, Hiến pháp Hoa Kỳ, Pháp, Anh đều đề cập những nội dung về
quyền dân sự và chính trị. Hiến pháp đầu tiên của Việt Nam - Hiến pháp năm 1946
cũng thể hiện điều đó. Các quyền của con người với tính cách là những nhân tố
chính trị pháp lý có ảnh hưởng rất lớn thúc đẩy sự phát triển của đời sống kinh tế -
xã hội. Các quyền về dân sự, chính trị do vậy được quan niệm là hạt nhân quan
trọng nhất để xây dựng xã hội công dân. Đó là những quyền bảo đảm cho sự phát
triển tự do của con người, bảo đảm quyền làm chủ của công dân đối với chính
88
quyền nhà nước. Đó cũng là cách tốt nhất để tăng cường những giá trị và truyền
thống dân chủ trước khi các tiền đề kinh tế chín muồi. Trong mối quan hệ lẫn nhau
giữa các loại quyền, việc ưu tiên các quyền về chính trị, dân sự là nhân tố làm cho các
quyền về kinh tế, xã hội, văn hóa được thể hiện và thực hiện. Đó chính là sự hợp lý
trong nhận thức và tư duy chính trị - pháp lý về quyền con người. Điều đó không có
nghĩa là xem nhẹ quyền kinh tế, xã hội và văn hóa, vì vậy UDHR năm 1948 đã đề
cập đầy đủ hai nội dung: quyền dân sự, chính trị và quyền kinh tế, xã hội và văn hóa.
Việc khẳng định vị trí của quyền dân sự chính trị so với quyền kinh tế, xã
hội và văn hóa cũng như coi quyền dân sự chính trị là một trong những yếu tố hình
thành nên an ninh con người không có nghĩa tách các quyền đó khỏi quyền kinh tế,
xã hội và văn hóa vì giữa các quyền có tính thống nhất không thể chia cắt. Bởi vì,
việc đồng thời đề cập tới cả hai lĩnh vực quyền: dân sự, chính trị và kinh tế, xã hội
và văn hóa là hợp lý phản ánh đúng hiện thực của nhu cầu con người, bởi nếu chúng
ta hiểu "con người là động vật xã hội" thì trong mỗi thời đoạn của mỗi con người,
mỗi thế hệ đều phát sinh những nhu cầu như thế, đều đòi hỏi Nhà nước phải đáp
ứng và chịu trách nhiệm pháp lý đối với quyền dân sự, chính trị cũng như quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa. Tuyệt đối hóa quyền này hoặc quyền kia của con người
có nghĩa là đã không phản ánh đầy đủ nhu cầu khách quan của con người, không
tiếp cận được chân lý khách quan. Trên thực tế, quyền con người là một thể thống
nhất xét từ nhu cầu trọn vẹn của con người, cũng như sự tác động của Nhà nước đối
với quyền con người cả về vật chất lẫn tinh thần. Chỉ có sự tác động tổng thể như
vậy mới có thể khơi dậy động lực ở con người. Không thể tách riêng, càng không
thể đối lập giữa các quyền bởi mỗi quyền tuy có ý nghĩa riêng nhưng đều nằm trong
tổng thể nhu cầu của con người. Mặc dù, quyền dân sự chính trị có ý nghĩa rất quan
trọng trong sự phát triển kinh tế, xã hội và văn hóa nhưng nếu tách riêng khỏi quyền
kinh tế, xã hội và văn hóa thì sẽ không thể có dân chủ thực sự. Với vị trí như vậy,
quyền dân sự chính trị có những đặc điểm:
Trước hết, về nguồn gốc, quyền dân sự chính trị ra đời sớm hơn quyền kinh
tế, xã hội và văn hóa nhất là quyền được sống như một con người, quyền được làm
người đã được đặt ra rất sớm trong lịch sử
89
Ngoài ra, quyền dân sự chính trị, nhất là quyền dân sự là những quyền gắn
chặt với cá nhân, là những giá trị vốn có của cá nhân, không thể tước đoạt, không
thể chuyển nhượng, cá nhân có thể sử dụng độc lập. Đây là những quyền phổ biến
phải thực hiện ngay không điều kiện, không có hạn chế vì đó là giới hạn của việc có
hay không quyền con người như quyền sống, quyền không bị tra tấn đối xử độc ác.
Nếu quyền dân sự là những quyền gắn chặt với cá nhân và cá nhân có thể sử dụng
độc lập như quyền tự do đi lại, cư trú thì quyền chính trị lại là những quyền chỉ có
thể tham gia cùng với người khác như quyền hội họp hòa bình, quyền bầu cử…
C.Mác đã từng khẳng định: "Một phần thì những nhân quyền này là những nhân
quyền chính trị, những quyền được thực hiện cùng với những kẻ khác mà thôi".
Bên cạnh đó, quyền dân sự, chính trị là những quyền dễ thực hiện hơn các
quyền kinh tế, xã hội và văn hóa vì chúng ít phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh
tế của mỗi quốc gia. Chẳng hạn, quyền không bị tra tấn, nhục hình sẽ không đòi hỏi
sự tốn kém như quyền có nhà ở, quyền học tập. Do điều kiện kinh tế mỗi quốc gia
khác nhau, nên mức độ hưởng thụ các quyền này ở các nước cũng rất khác nhau.
Hơn nữa, Nhà nước có vai trò quan trọng trong việc bảo đảm các quyền dân
sự và chính trị. Cá nhân là chủ thể của các quyền dân sự và chính trị, vì vậy cá nhân
công dân trong xã hội đóng vai trò là đối tượng trong mối quan hệ với Nhà nước.
Thực chất của việc thực hiện và bảo đảm quyền dân sự chính trị liên quan và chịu
sự tác động quyết định bởi mối quan hệ giữa Nhà nước và công dân.
Trong xã hội công dân, hình thức nhà nước phù hợp là Nhà nước pháp
quyền, đóng vai trò hạt nhân trong kết cấu hệ thống chính trị xã hội. Con người với
tư cách là công dân được thể hiện tập trung quyền và nghĩa vụ công dân của mình
bằng các quyền dân sự và chính trị, thông qua quá trình bảo đảm của nhà nước.
Trong hệ thống chính trị xã hội hiện đại, Nhà nước pháp quyền là lực lượng tổ
chức, quản lý mọi mặt đời sống xã hội. Nhà nước trở thành hình thái biểu hiện chủ
yếu của quyền lực chính trị dân chủ. Vì vậy, tính chất dân chủ của nhà nước có mối
quan hệ tương tác đến quyền dân sự và chính trị. Nói cách khác, nhà nước pháp
quyền và hệ thống chính trị dân chủ là môi trường bảo đảm thực hiện rộng rãi quyền
90
và tự do dân sự chính trị, mối quan hệ nhà nước và công dân sẽ qui định nên nội
dung, hình thức của hệ thống các quyền dân sự và chính trị.
Cuối cùng, thực hiện quyền dân sự và chính trị phải căn cứ vào điều kiện
chính trị, kinh tế, xã hội cụ thể. Quyền con người, đặc biệt là quyền dân sự và chính
trị phải gắn với chủ quyền dân tộc, quốc gia, do đó bảo đảm quyền dân sự chính trị
trước hết phải bảo đảm quyền dân tộc tự quyết. Bởi vì, trong khi đấu tranh thực hiện
các quyền cơ bản của mình, con người hoàn toàn không đứng ngoài mối quan hệ
hiện thực ở mỗi giai cấp, quốc gia, dân tộc nhất định. Đây là cơ sở thực tế để bảo
đảm chủ quyền quốc gia dân tộc, là biểu hiện trước tiên và là tiền đề của quyền con
người trên lĩnh vực dân sự và chính trị.
Cơ sở vật chất và các điều kiện kinh tế, chính trị, xã hội đóng vai trò quan
trọng trong việc thực hiện quyền dân sự và chính trị. Mức độ và phạm vi đảm bảo
của quyền dân sự và chính trị phụ thuộc vào sự ổn định, tiến bộ của nền kinh tế, văn
hóa, xã hội. Trong một đất nước kinh tế nghèo nàn, chính trị khủng hoảng, dân trí
thấp thì khó có thể đảm bảo thực hiện ở mức độ rộng các quyền dân sự và chính trị.
Theo luật pháp quốc tế, Hiến chương Liên hợp quốc, ICCPR năm 1966 thì
quyền dân sự chính trị bao gồm: (1) về quyền tập thể có quyền dân tộc tự quyết; (2)
các quyền dành cho cá nhân: Quyền sống; quyền bình đẳng trước pháp luật và tòa
án; quyền tự do tín ngưỡng và tôn giáo; quyền tự do tư tưởng và tự do ngôn luận;
quyền tự do lập hội và hội họp hòa bình; quyền tham gia xây dựng nhà nước và
quản lý nhà nước.
ICCPR năm 1966 nêu rõ các quyền dân sự, chính trị được thực hiện không
phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, chính kiến, nguồn gốc
dân tộc và xã hội… Bằng các nỗ lực lập pháp và hành pháp, các quốc gia thành viên
thực hiện các bước công việc cần thiết để xây dựng và bổ sung trong các qui định
của hiến pháp, pháp luật và các biện pháp nhằm mục đích thực hiện có hiệu quả các
quyền dân sự và chính trị đã được ghi nhận trong công ước.
Công ước nhấn mạnh, mỗi quốc gia thành viên cần tăng cường những khả
năng bảo hộ pháp lý đối với bất cứ người nào bị xâm phạm các quyền dân sự và
91
chính trị được ghi nhận trong Công ước kể cả lập pháp, hành pháp và tư pháp. Pháp
luật các quốc gia thành viên không được trái với các qui định của Công ước. Trong
trường hợp các quốc gia áp dụng tình trạng khẩn cấp, vì sự sống còn của quốc gia
mà sử dụng các biện pháp trái với nghĩa vụ đã cam kết trong Công ước thì phải đảm
bảo rằng các biện pháp đó không trái với luật quốc tế; không trái với các Điều 6, 7, 8
của Công ước; không chứa đựng nội dung phân biệt chủng tộc, màu da, giới tính,
ngôn ngữ, tôn giáo hoặc nguồn gốc xã hội. Đồng thời phải thông báo ngay cho các
quốc gia thành viên thông qua Tổng Thư ký Liên hợp quốc về lý do, nội dung, thời
hạn hủy bỏ cam kết đã ký. Công ước cũng lưu ý rằng, không thể có bất cứ sự biện
hộ nào để không công nhận các quyền dân sự và chính trị trong Công ước hoặc hạ
thấp giá trị của các quyền đó.
ICCPR năm 1966 không những xác định nội dung các quyền dân sự, chính
trị cũng như nghĩa vụ của các quốc gia thành viên mà còn tạo ra cơ chế nhằm bảo
đảm thực hiện Công ước một cách có hiệu quả theo qui định của từ các Điều 18 đến
Điều 32. Để đảm bảo quyền con người về dân sự và chính trị, Ủy ban Nhân quyền
được thành lập. Mỗi quốc gia thành viên, trên cơ sở công nhận thẩm quyền của Ủy
ban Nhân quyền, có quyền đệ trình lên Ủy ban mọi nhận xét, thông báo, khiếu nại
về bất cứ vấn đề nào. Ủy ban Nhân quyền sẵn sàng đứng ra làm môi giới cho các
nước thành viên hữu quan để đạt tới một giải pháp hữu nghị dựa trên cơ sở tôn
trọng các quyền và tự do cơ bản của con người. Ủy ban Nhân quyền có thể chỉ định
một tiểu ban hòa giải tạm thời gồm 5 thành viên, sẵn sàng đứng ra giúp đỡ cho các
quốc gia thành viên nhằm đạt tới một giải pháp hữu nghị cho vấn đề nêu ra. Các ủy
viên của tiểu ban làm việc cá nhân độc lập, không được là công dân của các nước
hữu quan hoặc của các quốc gia tham gia Công ước. Thông qua Hội đồng Kinh tế -
Xã hội Liên hợp quốc (ECOSOC), Ủy ban Nhân quyền sẽ đệ trình Đại hội đồng bản
báo cáo hàng năm về hoạt động của mình.
Điều 46 ICCPR năm 1966 xác định không một qui định nào của Công ước
được giải thích làm phương hại đến những qui định của Hiến chương Liên hợp
quốc, đến quyền đương nhiên của mọi dân tộc được hưởng và sử dụng một cách đầy
đủ tự do mọi của cải và tài nguyên thiên nhiên của họ.
92
Như vậy, an ninh con người có được bảo đảm hay không luôn cần đến một
môi trường chính trị nhưng hiểu và giải thích về nó mỗi quốc gia hoặc tác giả có
cách tiếp cận riêng. Tôi cho rằng yếu tố chính trị để đảm bảo an ninh con người chủ
yếu xoay quanh việc bảo đảm cho quyền con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị.
Bởi vì, đây là những tiêu chí định tính để xác định sự an toàn và phát triển của cá
nhân mỗi con người trong xã hội và nó thuộc phạm trù tinh thần. Con người được
bảo đảm về việc làm, thu nhập… nhưng không cảm thấy an toàn và không được thể
hiện "cái tôi" thì như vậy mới chỉ là an ninh một nửa. Do đó, thông qua quyền dân
sự chính trị, con người được thể hiện chính mình ở mức độ cao hơn và như vậy
cũng tăng cường khả năng tự bảo vệ mình bởi vì như tôi đã khẳng định an ninh con
người không chỉ đòi hỏi con người phải được bảo vệ bằng Nhà nước mà quan trọng
hơn là nâng cao tính tự bảo vệ của chính cá nhân con người. Mặt khác, yếu tố chính
trị thông qua quyền dân sự chính trị đòi hỏi Nhà nước phải không ngừng hoàn thiện
về tổ chức, bộ máy và hoạt động bởi vì chỉ có như vậy thì tương ứng với nó đó là
đáp ứng được nhu cầu thể hiện của người dân. Điều đó chỉ có thể trở thành hiện
thực khi đặt trong bối cảnh của xã hội dân chủ bởi nếu chỉ nhấn mạnh nhà nước sẽ
dẫn tới sự chuyên quyền độc đoán và nếu chỉ coi trọng nhu cầu thể hiện của người
dân sẽ dẫn tới một xã hội vô chính phủ và loạn lạc. Vì vậy, tôi cho rằng yếu tố chính
trị tạo lập nên an ninh con người theo quan điểm của Liên hợp quốc chính là đòi hỏi
của việc xây dựng xã hội dân chủ. Đây là cơ sở nội tại bên trong cho việc bảo đảm
an ninh con người.
Hơn thế nữa, xã hội dân chủ với sự lãnh đạo của Nhà nước và nhu cầu thể
hiện của người dân trên cơ sở luật pháp cũng chính là sự kết nối của an toàn cá nhân
và trật tự cộng đồng bởi vì cá nhân chỉ cảm nhận được sự an toàn cho mình trong
một cộng đồng có trật tự và ngược lại một cộng đồng có trật tự sẽ là bảo đảm tốt cho an
toàn của các cá nhân. Do đó, theo quan điểm của Liên hợp quốc thì an ninh con
người cấu thành từ 7 yếu tố và nếu xếp 7 yếu tố đó vào hai phạm trù vật chất và tinh
thần thì an toàn cá nhân, trật tự cộng đồng và môi trường chính trị sẽ thuộc phạm trù
tinh thần xác lập nên an ninh con người. Tất nhiên, những yếu tố cấu thành an ninh
con người đặt trong hai phạm trù vật chất và tinh thần theo quan điểm của Liên hợp
93
quốc là cần nhưng chưa đủ bởi lẽ an ninh con người với sự điều chỉnh của luật quốc
tế có giá trị trên toàn thế giới nhưng mức độ và giới hạn để đảm bảo an ninh con
người còn phụ thuộc vào đặc thù quốc gia và bản chất giai cấp của Nhà nước.
An ninh con người có nội hàm rộng, đa ngành, đa lĩnh vực được khẳng định
và điều chỉnh bằng nguồn truyền thống của pháp luật quốc tế. Về mặt pháp lý, điều
ước quốc tế và tập quán quốc tế ràng buộc các chủ thể tuy nhiên hỗ trợ cho quá
trình xây dựng và thực thi pháp luật quốc tế, tăng cường bảo đảm an ninh con người
còn bao gồm các nguồn bổ trợ như các nghị quyết, tuyên bố, các báo cáo, bình luận
có tính chất khuyến nghị. An ninh con người xuất hiện trong quan hệ quốc tế với ý
nghĩa là yếu tố phi truyền thống và đồng thời nguồn phi truyền thống của pháp luật
quốc tế cũng ngày càng đóng vai trò quan trọng cho việc tăng cường bảo đảm an
ninh con người.
2.3. CÁC THIẾT CHẾ QUỐC TẾ BẢO ĐẢM AN NINH CON NGƯỜI
An ninh con người là một giá trị phổ biến dành cho tất cả mọi người không
phân biệt khu vực địa lý, thể chế chính trị, tôn giáo, màu da, sắc tộc… Vì vậy, để
đảm bảo an ninh con người cùng với các qui định của luật quốc tế, hệ thống thiết
chế quốc tế được xác lập. Mỗi thiết chế, với chức năng và nhiệm vụ cụ thể nhưng
đều có sự phối kết hợp chặt chẽ trong việc đảm bảo an ninh con người.
2.3.1. Các cơ quan của Liên hợp quốc
Mục tiêu cơ bản của Liên hợp quốc được qui định tại Điều 1 Hiến chương
Liên hợp quốc là duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, tôn trọng quyền con người,
thúc đẩy hợp tác để giải quyết các vấn đề kinh tế, xã hội, văn hóa và nhân đạo, phát
triển các mối quan hệ hữu nghị giữa các dân tộc và tiến hành hợp tác quốc tế giữa
các nước trên cơ sở tôn trọng nguyên tắc bình đẳng và quyền tự quyết của các dân
tộc. Như vậy, từ khi tổ chức quốc tế lớn nhất thế giới được thành lập, vấn đề an
ninh con người đã thực sự được ghi nhận bằng Hiến chương Liên hợp quốc và hình
thành các thiết chế bảo đảm an ninh con người thông qua tổ chức và hoạt động của
Liên hợp quốc.
94
2.3.1.1. Đại hội đồng Liên hợp quốc
Đại hội đồng là cơ quan đại diện cao nhất bao gồm tất cả các nước thành viên
Liên hợp quốc (hiện nay là 193 thành viên) và có quyền xem xét mọi vấn đề thuộc
phạm vi của Hiến chương (Điều 10), từ các vấn đề hòa bình, an ninh, giải trừ quân bị,
đến các vấn đề kinh tế, xã hội, nhân quyền, nhân đạo. Đại hội đồng cũng là cơ quan
duy nhất quyết định ngân sách và phân bổ chi tiêu của Liên hợp quốc (Điều 17.1)
trong đó có ngân sách cho các hoạt động của Liên hợp quốc trong lĩnh vực an ninh
con người.
Về an ninh con người, Hiến chương qui định: "Đại hội đồng xúc tiến việc
nghiên cứu và đưa ra các khuyến nghị nhằm thúc đẩy hợp tác quốc tế trong các lĩnh
vực kinh tế, xã hội, văn hóa, giáo dục và sức khỏe, và nhằm hỗ trợ việc thực hiện
các quyền con người và các quyền tự do cơ bản cho tất cả mọi người không phân
biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hay tôn giáo" (Điều 13.1.b). Đồng thời, Đại hội
đồng cũng có chức năng thúc đẩy "sự phát triển và pháp điển hóa luật pháp quốc
tế", trong đó có pháp điển hóa lĩnh vực an ninh con người (Điều 13.1.a).
Ngoài ra, hàng năm các cơ quan khác của Liên hợp quốc, trong đó có
ECOSOC là cơ quan theo qui định của Hiến chương, giúp Liên hợp quốc xem xét
các vấn đề an ninh con người, đều có báo cáo về các hoạt động của mình gửi Đại hội
đồng. Đại hội đồng cũng xem xét các báo cáo hàng năm của Tổng Thư ký Liên hợp
quốc về công việc của Liên hợp quốc và từ Tiểu ban Nhân quyền, Ủy ban Công ước
về quyền kinh tế, văn hóa, xã hội; Ủy ban Công ước chống phân biệt chủng tộc; Ủy
ban Công ước chống phân biệt đối xử với phụ nữ; Ủy ban Công ước chống tra tấn…
Quá trình hoạt động của Đại hội đồng trong lĩnh vực an ninh con người, tuy
có những đặc thù, nhưng gắn liền với quá trình phát triển của Liên hợp quốc và phụ
thuộc vào tập hợp lực lượng trong quan hệ quốc tế và tại Liên hợp quốc. Đáng chú
ý nhất là sự thay đổi so sánh lực lượng tại Liên hợp quốc gần 70 qua: Số thành viên
Liên hợp quốc từ 51 quốc gia ban đầu nay tăng lên 193 quốc gia. So sánh lực lượng
ban đầu rất bất lợi cho các lực lượng tiến bộ bởi lúc đó chủ yếu là các nước phương
Tây và Mỹ La tinh thân Mỹ. Từ cuối những năm 1950, sự phát triển mạnh mẽ của
95
phong trào giải phóng dân tộc đã đưa đến việc ra đời của hàng loạt quốc gia độc lập
và tham gia vào Liên hợp quốc. Năm 1955, Liên hợp quốc lần đầu tiên đạt được
thỏa thuận cả gói về việc kết nạp thành viên mới gồm một số nước Tây Âu tư bản
chủ nghĩa và Đông Âu xã hội chủ nghĩa. Năm 1960, Liên hợp quốc đã kết nạp thêm
16 nước mới giành được độc lập, đặc biệt là các nước châu Phi. Năm 1961, Phong
trào Không liên kết ra đời và là nhóm nước ngày càng có vai trò quan trọng và đóng
góp tích cực cho sự phát triển và nội dung tiến bộ tại Liên hợp quốc và Đại hội đồng.
Đầu những năm 1970, một loạt các nước là thuộc địa thuộc địa của Bồ Đào Nha
giành được độc lập và tham gia vào Liên hợp quốc, trong đó có nhiều nước theo
định hướng xã hội chủ nghĩa. Tình hình này đã làm thay đổi cơ bản so sánh lực lượng
tại Liên hợp quốc, góp phần quyết định vào sự phát triển tích cực của Liên hợp quốc
nói chung và tại Đại hội đồng nói riêng, trong đó có lĩnh vực an ninh con người.
Ngay từ đầu, an ninh con người đã là một lĩnh vực được các nước rất quan
tâm. Tại khóa họp đầu tiên, Đại hội đồng đã đưa vấn đề chính sách Apactheid của
Nam Phi vào chương trình nghị sự và đề ra nhiệm vụ soạn thảo một bản tuyên bố về
nhân quyền. Trong trường hợp này, an ninh con người liên quan đến an toàn cá
nhân, trật tự cộng đồng và ổn định chính trị bởi lẽ chính sách Apactheid tạo nên sự
phân biệt đối xử giữa người da trắng và người da đen ở Nam Phi. Các nước phương
Tây nhấn mạnh các quyền, tự do cá nhân, muốn áp đặt chuẩn mực phương Tây lên
các nước khác. Trong khi đó, các nước Xã hội chủ nghĩa và đa số các nước đang
phát triển, không liên kết nhấn mạnh tới tầm quan trọng của các loại quyền cá nhân,
tập thể, dân tộc tự quyết, bác bỏ việc áp đặt chuẩn mực về nhân quyền và dùng vấn
đề nhân quyền để can thiệp vào công việc nội bộ của các nước.
Được coi là thành công của Liên hợp quốc cũng như của Đại hội đồng đó
là thông qua các văn kiện pháp lý tạo cơ sở cho việc đảm bảo an ninh con người:
UDHR năm 1948; ICCPR và ICESCR năm 1966; Công ước về ngăn ngừa và trừng
trị tội diệt chủng năm 1948; Công ước về xóa bỏ mọi hình thức phân biệt chủng tộc
năm 1965; Công ước chống chủ nghĩa Apactheid năm 1973; Công ước về xóa bỏ
các hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ năm 1979; Công ước chống tra tấn năm
96
1984; Công ước quyền trẻ em năm 1989… Đồng thời, Đại hội đồng cũng thông qua
nhiều nghị quyết, tuyên bố quan trọng: Tuyên bố về trao trả độc lập cho các dân tộc
thuộc địa năm 1960; Nghị quyết về chủ quyền vĩnh viễn đối với các tài nguyên
thiên nhiên năm 1962; Tuyên bố về thiết lập trật tự kinh tế quốc tế mới năm 1974;
Tuyên bố về quyền phát triển năm 1986…Năm 1977, Đại hội đồng lần đầu tiên
khẳng định cần tính đến các yếu tố về lịch sử và xã hội khi xem xét các tình hình về
an ninh con người và coi tình trạng bất bình đẳng giữa các quốc gia, đói nghèo là
một trong những nguyên nhân để an ninh con người không được bảo đảm. Nếu như
đầu thập kỷ 90, an ninh con người mới thực sự là mối quan tâm của các quốc gia và
là chủ đề bàn luận trong chương trình nghị sự của các hội nghị, diễn đàn quốc tế thì
những yếu tố nền tảng cho an ninh con người đã được xem xét trước đó bởi Liên
hợp quốc và các cơ quan của Liên hợp quốc.
Đại hội đồng cũng đã triệu tập hai Hội nghị thế giới về nhân quyền, tại
Teheran năm 1968 và tại Viên năm 1973. Tại các Hội nghị này, cuộc đấu tranh về
quan điểm trong lĩnh vực an ninh con người diễn ra căng thẳng. Tuyên bố của Hội
nghị Viên nhìn chung đã khẳng định lại những quan điểm tích cực đã đạt được về
an ninh con người liên quan đến quyền dân tộc tự quyết và quyền phát triển.
Để thực hiện chức năng liên quan đến an ninh con người, Đại hội đồng đã
thành lập một số ủy ban trực thuộc theo qui định của Điều 22 Hiến chương Liên
hợp quốc, trong đó có Ủy ban đặc biệt về thực hiện Tuyên bố trao trả độc lập cho
các dân tộc thuộc địa năm 1961; Ủy ban đặc biệt chống Apactheid năm 1962; Ủy
ban đặc biệt điều tra các hành vi vi phạm nhân quyền của Israel tại các vùng lãnh
thổ bị chiếm đóng năm 1969; Ủy ban về việc thực hiện các quyền bất khả xâm
phạm của nhân dân Palestine năm 1975…
Nhìn chung, Đại hội đồng Liên hợp quốc đã có những đóng góp tích cực
trong việc thông qua một loạt các văn kiện, tuyên bố có tính chất tiến bộ trong lĩnh
vực an ninh con người. Các văn kiện này đã xác định các chuẩn mực quốc tế và đã
thể hiện những bước nhảy vọt trong việc bảo đảm an ninh con người thông qua giá trị
quyền con người. Đó không chỉ là quyền cá nhân mà còn nhấn mạnh quyền phát triển,
97
quyền được hưởng thụ hòa bình, quyền được sống trong một thế giới công bằng và
bình đẳng. Đây là kết quả đấu tranh của các nước xã hội chủ nghĩa, Phong trào
Không liên kết và các lực lượng tiến bộ. Những văn kiện pháp lý được thông qua tại
Đại hội đồng là cơ sở đảm bảo cho an ninh con người trên phạm vi toàn thế giới.
2.3.1.2. Hội đồng Bảo an
Theo qui định của Hiến chương Liên hợp quốc, Hội đồng Bảo an là cơ quan
đảm nhận trách nhiệm hàng đầu trong việc duy trì hòa bình và an ninh quốc tế thông
qua các biện pháp an ninh tập thể, từ khuyến nghị giải quyết hòa bình các tranh
chấp quốc tế đến áp dụng các biện pháp cấm vận và cưỡng chế quân sự.
Trong quá trình hoạt động của mình, Hội đồng Bảo an tập trung về các lĩnh
vực hòa bình, an ninh và giải quyết xung đột và những nhân tố liên quan đến an
ninh con người. Một trong những hoạt động quan trọng của Hội đồng Bảo an là tiến
hành các hoạt động gìn giữ hòa bình. Thực chất, Hiến chương Liên hợp quốc không
có qui định cụ thể về vấn đề này. Hoạt động gìn giữ hòa bình được coi là một biện
pháp về gìn giữ hòa bình và giải quyết xung đột liên quan tới chương VI và chương VII
của Hiến chương. Kể từ sau chiến tranh lạnh, hoạt động gìn giữ hòa bình được mở
rộng hơn nhiều bao gồm cả giám sát tuyển cử, duy trì trật tự và bảo đảm thực thi
quyền con người. Những hoạt động của Hội đồng Bảo an không chỉ góp phần thiết
lập nên một môi trường chính trị hòa bình, ổn định mà còn có vai trò tích cực trong
việc bảo đảm an toàn cá nhân cũng như an ninh của con người bởi vì khi đưa ra các
biện pháp giải quyết các xung đột, Hội đồng Bảo an cũng đề cập đến các khía cạnh
về an ninh con người như là một bộ phận của các giải pháp này.
2.3.1.3. Hội đồng Kinh tế - Xã hội
ECOSOC là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, gồm 54 thành
viên với nhiệm kỳ 3 năm do Đại hội đồng bầu ra, có nhiệm vụ xem xét và khuyến
nghị về các vấn đề trong các lĩnh vực kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh con người.
Về an ninh con người, ECOSOC có thể đưa ra các khuyến nghị nhằm "thúc đẩy
nhân quyền và các tự do cơ bản cho mọi người" và soạn thảo các công ước có liên
quan để đệ trình Đại hội đồng theo Điều 62 của Hiến chương. ECOSOC có thể
98
thành lập các cơ quan, ủy ban trực thuộc để thực hiện chức năng của mình trong các
lĩnh vực kinh tế, xã hội và đảm bảo an ninh con người. Trong số các cơ quan trực
thuộc này, liên quan đến an ninh con người đáng chú ý nhất là Ủy ban Nhân quyền.
Ủy ban Nhân quyền là một cơ quan chức năng của ECOSOC, thành lập theo Nghị
quyết 5 (I) ngày 16/02/1946. Ủy ban Nhân quyền có chức năng chính là soạn thảo
các văn bản pháp lý, các tuyên bố, công ước về nhân quyền, xem xét các báo cáo
của cơ quan trực thuộc, đệ trình báo cáo và các khuyến nghị lên ECOSOC. Để thực
hiện chức năng, Ủy ban Nhân quyền đã thành lập các cơ quan trực thuộc như Tiểu
ban Nhân quyền, các nhóm làm việc (Nhóm làm việc về giam giữ độc đoán, Nhóm
làm việc về mất tích, Nhóm làm việc về tình hình).
Một điểm đáng lưu ý là, khác với dự kiến ban đầu, ECOSOC đã quyết định
Ủy ban Nhân quyền gồm các thành viên là đại diện quốc gia chứ không phải với tư
cách cá nhân (ngoài các nước xã hội chủ nghĩa không muốn, chính Mỹ và các nước
phương Tây cũng e ngại việc Liên hợp quốc có thể dùng vấn đề nhân quyền, dân
tộc tự quyết để phê phán tình hình ở các lãnh thổ thuộc địa, quản thác).
Một trong những nhiệm vụ đầu tiên của ECOSOC ở giai đoạn cuối những
năm 1940 là tham gia soạn thảo UDHR và Công ước quốc tế về quyền con người
(dân sự, chính trị và kinh tế, văn hóa, xã hội). Theo đó, ECOSOC đã yêu cầu Ủy
ban Nhân quyền đệ trình các kiến nghị về phương thức bảo đảm thực hiện hiệu quả
các quyền và tự do cơ bản của con người (Nghị quyết 9 (II) ngày 21/6/1946) và
khuyến nghị trình Đại hội đồng dự thảo UDHR và đề xuất về dự thảo Công ước quốc
tế về quyền con người (Nghị quyết 151 (VII) ngày 26/08/1948) và ngày 10/12/1948,
Đại hội đồng thông qua UDHR. Đồng thời, cũng trong những năm đầu tiên, ECOSOC
đã trải qua một quá trình, theo đó dần dần xác định và mở rộng thẩm quyền, trình tự
thủ tục xử lý các vấn đề nhân quyền, đặc biệt là của Ủy ban Nhân quyền.
Trong khoảng thời gian hai thập kỷ (1946 - 1966), ECOSOC giữ quan điểm
cho rằng Ủy ban Nhân quyền "không có quyền có bất kỳ hành động nào về các
khiếu nại về nhân quyền" (Nghị quyết 75 (V) năm 1947, Nghị quyết 728F (XXVIII)
năm 1959…). Do đó, khi nhận được các kháng thư của các cá nhân, tổ chức tố cáo
99
chính phủ các nước vi phạm nhân quyền, Ủy ban Nhân quyền chỉ yêu cầu Tổng Thư
ký Liên hợp quốc tập hợp thành một danh sách kín mà không xử lý gì. Trong giai
đoạn này, bản thân ECOSOC cũng không có vai trò gì lớn. Năm 1949, ECOSOC
xem xét các khiếu nại về vi phạm các quyền công đoàn ở một số nước, nhưng bác
bỏ việc đưa ra các khuyến nghị cụ thể đối với các nước này.
Bước ngoặt thay đổi quyền hạn của Ủy ban Nhân quyền là khi ECOSOC
thông qua Nghị quyết 1235 (XLII) năm 1967 và Nghị quyết 1503 (XLVIII) năm
1970, cho phép Ủy ban Nhân quyền được xem xét tình hình vi phạm nhân quyền ở
các nước và các khiếu nại về nhân quyền. Đây là những thủ tục vẫn được tiếp tục áp
dụng đến ngày nay. Thực tế, đến nay hầu hết các vấn đề nhân quyền là do Ủy ban
Nhân quyền đảm nhận và ECOSOC chủ yếu thực hiện thủ tục thông qua các báo
cáo và khuyến nghị của Ủy ban, nếu cần, trình chuyển Đại hội đồng bảo an Liên
hợp quốc, ít có thảo luận và xem xét gì thực chất.
Trên cơ sở qui định của Hiến chương, ECOSOC cũng có thể tham gia các
thỏa thuận hợp tác và tham vấn với các tổ chức chuyên môn liên quan đến lĩnh vực
kinh tế, xã hội như thỏa thuận và tham vấn với ILO, FAO, WHO… Về các dàn xếp
đối với các tổ chức phi chính phủ, tại Nghị quyết 1296 (XLIV) năm 1968 đã đề ra
các nguyên tắc và tiêu chuẩn áp dụng cho việc hình thành các qui chế tư vấn của
các tổ chức phi chính phủ. Khi một tổ chức phi chính phủ muốn xin qui chế tư vấn,
sẽ có đơn gửi Ủy ban các tổ chức phi chính phủ thuộc ECOSOC để Ủy ban thẩm
tra, xem xét và trình ECOSOC quyết định.
Như vậy, thực tế chuyển hóa so sánh lực lượng tại Liên hợp quốc trong
những năm 1960 - 1970, nhất là việc nhiều nước thuộc địa giành được độc lập và
tham gia Liên hợp quốc, đã tạo cho các nước tiến bộ có được đa số tại Liên hợp
quốc, từ đó thúc đẩy việc thông qua nhiều tuyên bố và nghị quyết chứa đựng những
nội dung và nguyên tắc tiến bộ trong đó có nguyên tắc dân tộc tự quyết. Dân tộc tự
quyết được coi là quyền con người và chiếm vị trí quan trọng trong hai Công ước
năm 1966, tạo cơ sở pháp lý cho cuộc đấu tranh của các dân tộc bị áp bức, bóc lột
cũng như gìn giữ nền độc lập của các dân tộc, an ninh con người ở chính các dân
tộc đó và trên toàn thế giới.
100
Như vậy, ECOSOC với chức năng chính là khuyến khích phát triển kinh tế,
hợp tác để giải quyết các vấn đề xã hội và đặc biệt là thúc đẩy việc bảo vệ quyền
con người đã đóng vai trò chủ đạo trong việc tạo nên cơ chế đảm bảo an ninh con
người trên phạm vi thế giới.
2.3.1.4. Tòa án Công lý Quốc tế
Tòa án công lý quốc tế (ICJ) là cơ quan xét xử chính của Liên hợp quốc và
có thẩm quyền xét xử các tranh chấp pháp lý mà các bên nêu ra liên quan đến Hiến
chương Liên hợp quốc và các điều ước quốc tế do Liên hợp quốc ban hành (Điều 1
và Điều 36 Qui chế của ICJ). Như vậy, ICJ có chức năng xem xét, xử lý các tranh
chấp về quyền con người. Tuy nhiên, chủ thể đưa các tranh chấp về quyền con
người ra ICJ phải là các quốc gia thành viên Liên hợp quốc và dựa trên cơ sở tranh
tụng giữa các bên có liên quan trước phiên tòa [26, tr. 441].
Hiện nay có 16 điều ước quốc tế về quyền con người do Liên hợp quốc
thông qua có qui định việc một nước thành viên có thể đệ trình lên ICJ yêu cầu giải
quyết các tranh chấp của nước mình với các quốc gia thành viên khác liên quan đến
việc giải thích, áp dụng hoặc tuân thủ điều ước. Ngoài chức năng xét xử, ICJ còn có
chức năng tư vấn theo qui định của Điều 96 Hiến chương Liên hợp quốc. Theo đó,
các cơ quan của Liên hợp quốc có thể yêu cầu ICJ đưa ra các kết luận tư vấn về các
vấn đề pháp lý trong đó có quyền con người. Chức năng và hoạt động thực tiễn của
ICJ góp phần thực thi có hiệu quả các điều ước quốc tế về quyền con người và nâng
cao việc bảo đảm an ninh con người ở các quốc gia.
2.3.1.5. Ban Thư ký
Ban Thư ký là một trong sáu cơ quan chính của Liên hợp quốc, đứng đầu Ban
Thư ký là Tổng Thư ký Liên hợp quốc. Tổng Thư ký do Đại hội đồng bổ nhiệm theo
sự khuyến nghị của Hội đồng Bảo an. Tổng Thư ký và nhân viên Ban Thư ký là các
viên chức quốc tế, giúp việc và thừa hành các nhiệm vụ do các cơ quan của Liên hợp
quốc giao cho. Tổng Thư ký có thể đưa ra các báo cáo, khuyến nghị đối với các cơ
quan của Liên hợp quốc trong đó có Đại hội đồng, Hội đồng Bảo an và ECOSOC về
tất cả các lĩnh vực hoạt động của Liên hợp quốc trong đó có lĩnh vực an ninh con người.
101
Liên quan tới tổ chức và hoạt động của Ban Thư ký trong lĩnh vực an ninh
con người là Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc và Văn phòng Cao ủy Nhân quyền
Liên hợp quốc. Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc thực hiện nhiệm vụ theo Nghị
quyết 48/141 năm 1993 của Đại hội đồng và quản lý mọi hoạt động của Văn phòng
Cao ủy Nhân quyền Liên hợp quốc. Cao ủy Nhân quyền được Tổng Thư ký bổ
nhiệm trên cơ sở đề cử của các khu vực và Cao ủy Nhân quyền chịu trách nhiệm
trước Tổng Thư ký Liên hợp quốc. Hỗ trợ Cao ủy Nhân quyền thực thi các nhiệm
vụ của mình là một phó Cao ủy Nhân quyền với hàm Trợ lý Tổng Thư ký Liên hợp
quốc. Văn phòng Cao ủy Nhân quyền là cơ quan trực thuộc Ban Thư ký, có trách
nhiệm hỗ trợ Đại hội đồng, ECOSOC, Ủy ban Nhân quyền và các cơ quan khác của
Liên hợp quốc thực hiện các nhiệm vụ có liên quan do các cơ quan này giao cho
trong lĩnh vực an ninh con người. Theo đó, Văn phòng Cao ủy Nhân quyền có trách
nhiệm đóng góp vào việc thúc đẩy tôn trọng nhân quyền, xây dựng các chuẩn mực
quốc tế và việc thực hiện các công ước quốc tế về nhân quyền, có các biện pháp
ngăn ngừa vi phạm nhân quyền nghiêm trọng trên thế giới. Cụ thể là:
- Thúc đẩy và bảo vệ một cách có hiệu quả mọi quyền con người kể cả các
quyền dân sự, chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quyền phát triển, tăng cường sự
ủng hộ của các cơ quan trong hệ thống Liên hợp quốc.
- Tăng cường hợp tác quốc tế và điều phối các hoạt động của các cơ quan
trong hệ thống Liên hợp quốc nhằm thúc đẩy thực hiện các quyền con người, đối
thoại với các chính phủ có liên quan.
- Có phản ứng kịp thời đối với các tình hình vi phạm nhân quyền nghiêm
trọng ở các nơi.
- Hỗ trợ các Ủy ban Công ước nhân quyền và thúc đẩy việc xây dựng các
chuẩn mực quốc tế về nhân quyền.
2.3.1.6. Hội đồng Nhân quyền Liên hợp quốc
Hội đồng Nhân quyền (HRC) của Liên hợp quốc là cơ quan mới được thành
lập theo Nghị quyết số 60/251 năm 2006 của Đại hội đồng để thay thế Ủy ban Nhân
102
quyền. Việc thành lập HRC xuất phát từ những hạn chế trong hoạt động của Ủy ban
Nhân quyền cũng như bộ máy liên quan đến an ninh con người của Liên hợp quốc,
đó là những thất bại trong việc cải thiện tình hình và xử lý những vi phạm về an
ninh con người ở nhiều khu vực và quốc gia trên thế giới. Với việc chỉ ra những hạn
chế của Ủy ban Nhân quyền và trong báo cáo công bố tháng 3/2005, Tổng Thư ký
Liên hợp quốc đã chính thức đề xuất Đại hội đồng bỏ phiếu thay thế Ủy ban Nhân
quyền bằng một cơ quan mới là HRC [26, tr. 450]. HRC có các chức năng: thúc đẩy
những hoạt động giáo dục, nghiên cứu, dịch vụ tư vấn, trợ giúp kỹ thuật và xây
dựng năng lực về quyền con người ở các quốc gia; thúc đẩy việc thực thi đầy đủ
những nghĩa vụ về quyền con người ở các quốc gia; đóng vai trò là một diễn đàn để
đối thoại về những chủ đề cụ thể về nhân quyền; đưa ra những khuyến nghị với Đại
hội đồng về sự phát triển của luật nhân quyền quốc tế; thực hiện đánh giá định kỳ
toàn thể việc tuân thủ các nghĩa vụ và cam kết về nhân quyền của các quốc gia;
thông qua đối thoại và hợp tác để góp phần phòng ngừa những vi phạm nhân quyền
và phản ứng kịp thời với những tình huống khẩn cấp về nhân quyền; hợp tác chặt
chẽ với các chính phủ, các tổ chức khu vực, các cơ quan nhân quyền quốc gia, các
tổ chức xã hội dân sự trong những hoạt động về nhân quyền; báo cáo công tác hàng
năm với Đại hội đồng.
Thay thế cho phương thức hoạt động của Ủy ban Nhân quyền trước đây là
hàng năm chọn ra các vụ việc nghiêm trọng về nhân quyền xảy ra ở các quốc gia
trên thế giới để đưa ra xem xét, HRC tiến hành một thủ tục mới là Cơ chế Đánh giá
Định kỳ Toàn thể (UPR). UPR sẽ đánh giá định kỳ việc tuân thủ các nghĩa vụ và
cam kết về nhân quyền của tất cả các quốc gia thành viên Liên hợp quốc dựa trên các
báo cáo từ các nguồn khác nhau. Để thực hiện UPR, một Nhóm công tác (Working
Group) về UPR do HRC thành lập sẽ tiến hành 3 kỳ họp mỗi năm, mỗi kỳ họp kéo
dài hai tuần để đánh giá 16 quốc gia và như vậy phải mất 4 năm để hoàn tất thủ tục
này với toàn bộ các thành viên Liên hợp quốc. Tiến trình UPR về cơ bản bao gồm:
- Chuẩn bị thông tin làm cơ sở cho việc xem xét: Trong bước này, các tài liệu
cần chuẩn bị bao gồm: (i) Báo cáo của quốc gia được xem xét (không quá 20 trang);
103
(ii) Tổng hợp của Văn phòng Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền về tình hình ở
quốc gia được xem xét từ báo cáo của các cơ quan giám sát điều ước, các thủ tục
đặc biệt và các tài liệu khác…(không quá 10 trang); (iii) Bản tóm tắt do Văn phòng
Cao ủy Liên hợp quốc về nhân quyền thực hiện từ những báo cáo của các chủ thể
liên quan khác (các tổ chức phi chính phủ, cơ quan nghiên cứu, cơ quan nhân quyền
quốc gia) (không quá 10 trang).
- Xem xét đánh giá: Được thực hiện tại Gienevo dưới dạng đối thoại trong
ba giờ giữa quốc gia được xem xét với các thành viên Nhóm công tác về UPR, các
quốc gia thành viên và quan sát viên của Hội đồng Nhân quyền.
- Kết luận, đánh giá: Nhóm công tác về UPR sẽ thông qua văn bản kết luận sau
khi kết thúc việc xem xét, đánh giá, các cam kết đưa ra bởi quốc gia liên quan và
các kết luận, khuyến nghị với quốc gia đó. HRC sẽ cân nhắc và thông qua báo cáo.
- Thực hiện các khuyến nghị: Quốc gia được xem xét sẽ áp dụng những
khuyến nghị nêu trong báo cáo và thông báo về kết quả của việc áp dụng những
khuyến nghị đó trong lần báo cáo định kỳ tiếp theo của nước mình.
Tương tự như mô hình Tiểu ban thúc đẩy và bảo vệ nhân quyền của Ủy ban
Nhân quyền trước đây, HRC thành lập một Ủy ban tư vấn để hỗ trợ Hội đồng trong
các hoạt động chuyên môn. Ủy ban này gồm 18 chuyên gia được Hội đồng bầu ra
bằng cách bỏ phiếu kín từ danh sách những ứng cử viên mà các quốc gia thành viên
đề cử. Mặc dù vậy, các chuyên gia thành viên của Ủy ban hoạt động với tư cách cá
nhân. Nhiệm kỳ của mỗi chuyên gia là 3 năm, chỉ được bầu lại một lần.
2.3.2. Các chương trình, tổ chức quốc tế trực thuộc Liên hợp quốc
Trên qui mô toàn cầu, việc bảo đảm an ninh con người chủ yếu thuộc về
các cơ quan chính của Liên hợp quốc. Để hỗ trợ cho hoạt động của Liên hợp quốc
trong lĩnh vực đảm bảo an ninh con người còn có các chương trình, quỹ và các tổ
chức quốc tế trực thuộc (cơ quan chuyên môn) của Liên hợp quốc theo qui định
của Điều 60 Hiến chương Liên hợp quốc như: UNDP, Quỹ Nhi đồng Liên hợp
quốc (UNICEF), ILO, FAO, Tổ chức Văn hóa, Khoa học và Giáo dục Liên hợp
104
quốc (UNESCO), WHO…Các cơ quan này cùng với Liên hợp quốc hình thành
nên cơ chế hợp tác quốc tế trong lĩnh vực kinh tế xã hội mà một trong những mục
tiêu là bảo đảm an ninh con người trên cơ sở tôn trọng và tuân thủ các quyền và tự
do cơ bản của mọi người, không phân biệt chủng tộc, giới tính, ngôn ngữ hoặc
tôn giáo.
* Chương trình phát triển Liên hợp quốc
UNDP là tổ chức trực thuộc Liên hợp quốc được thành lập năm 1965 trên
cơ sở hợp nhất hai cơ quan của Liên hợp quốc là Chương trình hỗ trợ kỹ thuật mở
rộng (EPTA) và Quỹ Đặc biệt của Liên hợp quốc. Tôn chỉ mục đích và hoạt động
của UNDP là giúp đỡ nỗ lực của các quốc gia nhằm đạt được mục tiêu phát triển
con người bền vững, bằng cách hỗ trợ các quốc gia xây dựng năng lực trong việc
thiết kế và thực hiện các chương trình phát triển nhằm xóa bỏ đói nghèo, tạo công
ăn việc làm và tìm phương cách mưu cầu sự sống bền vững, nâng cao địa vị của phụ
nữ, bảo vệ và tái tạo môi trường, ưu tiên hàng đầu cho xóa đói giảm nghèo. Các
nguồn lực của UNDP cần phải được sử dụng một cách hợp lý và hiệu quả nhất để
đem lại tác động tối đa tới sự phát triển kinh tế, xã hội của các nước.
Khuyến khích nâng cao sự tự chủ của các nước đang phát triển đối với năng
lực quản lý, kỹ thuật, hành chính và những nghiên cứu cần thiết để xây dựng và
thực hiện các chính sách, kế hoạch phát triển của các nước. Hoạt động của UNDP
tập trung tăng cường hợp tác quốc tế vì sự nghiệp phát triển; trợ giúp việc tăng
cường khả năng quản lý quốc gia, sự tham gia rộng rãi hơn của nhân dân, phát triển
khu vực nhà nước và tư nhân, sự tăng trưởng công bằng. Các chương trình và dự án
của UNDP được xây dựng trên cơ sở các kế hoạch và ưu tiên quốc gia. Trợ giúp của
UNDP xuất phát từ yêu cầu của các chính phủ và các lĩnh vực ưu tiên của UNDP.
Các lĩnh vực hỗ trợ của UNDP là: thực hiện các nghiên cứu về chiến lược, chính
sách và đưa ra các khuyến nghị; cung cấp các dịch vụ về tư vấn kỹ thuật; thực hiện
các nghiên cứu khả thi và tiền khả thi; tiến hành các phân tích và đánh giá thực
trạng, nghiên cứu tổng quan và xây dựng qui hoạch tổng thể; thực hiện các nghiên
cứu đánh giá thực trạng và đưa ra các khuyến nghị về phát triển tổ chức và thể chế,
105
nghiên cứu đánh giá các chính sách, luật lệ; đào tạo về khoa học kỹ thuật, kỹ năng
chuyên môn; trao đổi thông tin và tổ chức tham quan, khảo sát, hội thảo, tập huấn;
hỗ trợ nghiên cứu về phát triển và thực hiện các sắp xếp về tổ chức để đáp ứng chức
năng, nhiệm vụ được giao; hỗ trợ chuyển giao công nghệ phù hợp, khuyến khích và
giúp đỡ năng lực công nghệ quốc gia. Trợ giúp việc thiết lập và nâng cấp các
phương tiện vật chất và trang thiết bị, từ năm 2000, UNDP chuyển mạnh theo
hướng tư vấn vi mô về các vấn đề thể chế, chính sách cũng như tăng cường năng
lực tập trung cho các hoạt động hỗ trợ các nước đang phát triển thực hiện tám Mục
tiêu Phát triển Thiên niên kỷ và xóa đói giảm nghèo [20].
* Tổ chức Lao động Quốc tế
ILO được thành lập năm 1919 với tư cách là một tổ chức độc lập bên cạnh
Hội quốc liên và năm 1946 ILO trở thành cơ quan chuyên môn của Liên hợp quốc
theo Nghị quyết 50 (I) ngày 14/12/1946.
ILO có mối quan tâm chính là xác lập các chuẩn mực quốc tế về lao động
và thực hiện có hiệu quả các chuẩn mực đó. Trong quá trình phát triển của mình,
ILO đã thông qua nhiều văn kiện có liên quan đến an ninh con người như cấm lao
động cưỡng bức, bảo vệ quyền tự do hội họp, quyền thành lập các công đoàn, chống
phân biệt đối xử trong công việc và nghề nghiệp, thực hiện nguyên tắc bình đẳng về
tiền lương, tăng các điều kiện về làm việc, đảm bảo sự công bằng và an toàn…
Trong các hoạt động của Liên hợp quốc, khi đề cập đến các vấn đề liên quan đến
lao động, các công ước và chuẩn mực của ILO đều được sử dụng làm cơ sở viện
dẫn và xử lý.
* Tổ chức Y tế Thế giới
WHO thành lập năm 1946 và trở thành tổ chức chuyên môn của Liên hợp
quốc năm 1948. Hiến chương của WHO đề ra mục tiêu là nỗ lực đảm bảo cho mọi
người có được sức khỏe tốt nhất.
WHO đóng vai trò điều phối các hoạt động y tế quốc tế, duy trì các dịch vụ
y tế quốc tế cần thiết, phát động các chiến dịch phòng chống dịch bệnh. Thực tế,
106
WHO đã đề ra mục tiêu đảm bảo sức khỏe cho mọi người trước khi UDHR năm 1948
và ICESCR năm 1946 ghi nhận quyền bảo đảm sức khỏe của con người. WHO đã
tham gia tích cực vào quá trình đàm phán và thông qua các Nghị quyết của Đại hội
đồng Liên hợp quốc liên quan đến sức khỏe về thể chất của con người, đảm bảo
điều kiện và sức khỏe cho tù nhân, những người bị giam giữ, chống lại sự tra tấn,
ngược đãi và đối xử vô nhân đạo.
* Tổ chức Nông lương Thế giới
FAO ra đời năm 1945 và theo Nghị quyết 50 (I) ngày 14/12/1946 trở thành
tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc. Quan tâm hàng đầu của FAO là nâng cao
các tiêu chuẩn về dinh dưỡng và mức sống, tăng cường hiệu quả sản xuất và phân
phối các sản phẩm nông nghiệp và lương thực, cải thiện các điều kiện sống của cư
dân nông thôn, thúc đẩy sự phát triển của kinh tế thế giới, đảm bảo an ninh lương
thực và sự gia tăng của nạn đói. Năm 1960, FAO phát động chiến dịch chống đói,
tuyên truyền những kiến thức chung về các vấn đề phát triển, kết quả là hàng triệu
tấn lương thực đã được chuyển đến những vùng đang có nạn đói hoành hành. Từ đó
đến nay, FAO là tổ chức quốc tế thực hiện tốt quyền được có lương thực, thực phẩm
của con người góp phần đảm bảo an ninh con người.
2.3.3. Các tổ chức phi chính phủ
2.3.3.1. Khái quát về các tổ chức phi chính phủ
Tổ chức phi chính phủ (NGOs) đã tồn tại hàng trăm năm trên thế giới dưới
nhiều dạng khác nhau. Nguồn gốc xa xưa của NGOs vốn là những nhóm nhỏ làm từ
thiện. Tiêu chí hoạt động của họ là cứu trợ nhân đạo đối với nạn nhân chiến tranh,
thiên tai và người nghèo, không phân biệt chính kiến và địa dư. Hiện nay trên thế
giới, các nước có quan điểm khác nhau về phân loại và định nghĩa NGOs. Một số
nước coi tất cả các tổ chức không phải của chính phủ là các NGOs; Theo luật pháp
một số nước, các NGOs nước ngoài bao gồm các chủ thể có tư cách pháp nhân, là
các Viện, các tổ chức tư nhân hay công cộng hoặc các Quỹ, là những tổ chức không
thuộc chính phủ. NGOs là những tổ chức phi lợi nhuận, được lập ra hợp pháp có tư
cách pháp nhân theo luật và qui định của nước đó không theo đuổi mục tiêu chính
107
trị. Theo định nghĩa của Liên hợp quốc, NGOs là bất kỳ tổ chức quốc tế nào được
thành lập không phải do một thỏa thuận liên chính phủ nhưng NGOs đó có thể bao
gồm các tổ chức có thành viên do chính phủ cử ra với điều kiện tư cách thành viên
không cho phép thành viên đó can thiệp vào quyền tự do bày tỏ ý kiến của tổ chức
đó [10, tr. 152]. Do đó, có thể khái quát rằng NGOs là các tổ chức được thành lập
một cách tự nguyện và hợp pháp, không thuộc bộ máy hành chính nhà nước và
không nhằm mục đích lợi nhuận.
Sau chiến tranh thế giới thứ hai, hàng loạt các NGOs ra đời và hoạt động
trong nhiều lĩnh vực. Nguồn tài trợ chủ yếu cho các NGOs là từ các nước công
nghiệp phát triển. Ngoài ra NGOs còn nhận sự hỗ trợ tài chính từ các tổ chức tôn
giáo, các quĩ từ thiện tư nhân và sự quyên góp với nhiều hình thức khác nhau. Sự hỗ
trợ của NGOs cho các nước đang phát triển ngày càng tăng và lĩnh vực hoạt động
của NGOs đã chuyển theo hướng giảm viện trợ nhân đạo và tăng viện trợ phát triển.
NGOs ngày càng đóng vai trò quan trọng trong đời sống kinh tế - xã hội, nhân đạo,
giáo dục, môi trường…ở nhiều nước trên thế giới. Các NGOs đang tham gia mạnh
vào nhiều lĩnh vực như xóa đói giảm nghèo, giúp đỡ phụ nữ, cứu trợ trẻ em, chữ
thập đỏ, bảo vệ môi trường. Hiện nay, nhiều nước phát triển đã dành một phần viện
trợ ODA cho các nước đang phát triển thông qua NGOs hỗ trợ tích cực cho các
chương trình kinh tế - xã hội của các nước đang phát triển.
2.3.3.2. Phối hợp hoạt động giữa Liên hợp quốc và các tổ chức phi chính phủ
NGOs ngày càng quan tâm và có vị thế trong các vấn đề chung của cộng
đồng quốc tế thông qua mối quan hệ với các tổ chức quốc tế liên chính phủ đặc biệt
là Liên hợp quốc. Cơ sở pháp lý cho việc thiết lập mối quan hệ giữa Liên hợp quốc
và NGOs là Điều 71 của Hiến chương trong đó qui định: "Hội đồng Kinh tế và Xã
hội có thẩm quyền thi hành những biện pháp thích hợp để tham khảo ý kiến của các
tổ chức phi chính phủ có liên quan đến những vấn đề thuộc thẩm quyền của Hội
đồng". Trên cơ sở qui định đó, Nghị quyết 1296 (XLIV) ngày 23/05/1968,
ECOSOC đã thông qua những nguyên tắc cụ thể trong việc thiết lập quan hệ tư vấn
với NGOs, theo đó:
108
- NGOs được thiết lập quan hệ tư vấn với ECOSOC phải có chức năng liên
quan đến các vấn đề thuộc thẩm quyền của ECOSOC, cụ thể là về các quan hệ kinh
tế, xã hội, văn hóa, giáo dục, y tế, khoa học, công nghệ và các vấn đề về nhân quyền.
- Mục đích và phương hướng hoạt động của NGOs phải phù hợp với tư
tưởng, mục đích và các nguyên tắc của Hiến chương Liên hợp quốc.
- NGOs phải cam kết ủng hộ các hoạt động của Liên hợp quốc và thúc đẩy
sự hiểu biết về Liên hợp quốc.
- NGOs phải có tư cách đại diện và được thừa nhận trên trường quốc tế.
Xét ở mức độ và phương thức hợp tác của NGOs có qui chế tư vấn với Liên
hợp quốc trong lĩnh vực an ninh con người, gồm: bao gồm các NGOs có qui chế tư
vấn chung, có liên quan đến hầu hết các hoạt động của ECOSOC; bao gồm các
NGOs có qui chế tư vấn đặc biệt, những NGOs có thẩm quyền đặc biệt trong hoạt
động tư vấn, liên quan đến một vài phương diện hoạt động của ECOSOC; bao gồm
NGOs được mời tư vấn cho ECOSOC một cách không thường xuyên trong một số
vấn đề nhất định.
Mặc dù, chỉ có vị thế tư vấn, nhưng trên thực tế, NGOs có ảnh hưởng đáng
kể trong lĩnh vực an ninh con người. NGOs đóng vai trò tích cực trong việc cung
cấp các thông tin liên quan đến an ninh con người cho Liên hợp quốc. Các văn kiện,
chương trình của Liên hợp quốc về an ninh con người được xây dựng và thực hiện
một phần dựa vào những thông tin và tư vấn của NGOs, đặc biệt là trong cơ chế giám
sát và bảo đảm thực hiện các văn kiện quốc tế về nhân quyền và an ninh con người.
Ngày nay xu hướng quốc tế hóa trong mọi lĩnh vực của đời sống nhân loại
càng làm gia tăng vai trò của Liên hợp quốc trên mọi bình diện. Đó là hy vọng mà
các dân tộc đặt vào Liên hợp quốc [42, tr. 42]. Ngay từ những năm đầu tiên, Đại hội
đồng Liên hợp quốc đã thông qua Nghị quyết về giao nộp và trừng trị những tội
phạm chiến tranh; Nghị quyết lên án tuyên truyền chiến tranh ở bất cứ nước nào,
dưới bất kỳ hình thức nào (1947). Năm 1948, Đại hội đồng cũng thông qua UDHR
và đặt nền tảng cho các quyền và tự do của con người cũng như an ninh con người.
109
Lĩnh vực hàng đầu mà Liên hợp quốc quan tâm và dành những cố gắng to
lớn của mình là vấn đề giải trừ quân bị, chống chiến tranh, bảo vệ hòa bình và an
ninh quốc tế. Chiến tranh và hòa bình là vấn đề to lớn nhất, bức xúc nhất đối với cả
hành tinh, toàn thể nhân loại và trực tiếp quyết định tới việc đảm bảo an ninh con
người. Vì lẽ đó, Lời nói đầu của Hiến chương Liên hợp quốc đã khẳng định quyết
tâm để thế hệ mai sau thoát khỏi những thảm họa của chiến tranh. Cùng với những
cố gắng bảo vệ hòa bình và an ninh thế giới. Liên hợp quốc còn là diễn đàn lớn của
cuộc đấu tranh nhằm thủ tiêu hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa thực dân với Tuyên
ngôn về thủ tiêu hoàn toàn chủ nghĩa thực dân, trao trả độc lập cho các quốc gia và
dân tộc thuộc địa và Tuyên ngôn về thủ tiêu hoàn toàn các hình thức của chế độ
phân biệt chủng tộc. Chiến tranh lạnh kết thúc và hệ thống thuộc địa của chủ nghĩa
thực dân sụp đổ trên phạm vi toàn thế giới nhưng để mỗi quốc gia, dân tộc có được
độc lập và an ninh thực sự khi mà nghèo nàn, lạc hậu, bất công và bất bình đẳng xã
hội vẫn hiện diện ở nhiều khu vực trên thế giới cùng với một loạt các nguy cơ toàn
cầu đang đặt Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế những thách thức mang tính
thời đại.
Như một nghịch lý, khi chủ nghĩa thực dân suy yếu, chiến tranh lạnh dần
dần đi đến hồi kết thì những vấn đề "phi truyền thống" xuất hiện đe dọa đến hòa
bình, ổn định của mỗi quốc gia và an ninh của con người. Đó là vấn đề dân số, dịch
bệnh AIDS, bảo vệ môi trường, chống khủng bố…và để giải quyết nó đơn phương
quốc gia hoặc nhóm quốc gia chưa thể mang lại kết quả trên bình diện quốc tế.
Chiến tranh, xung đột thì đơn phương quốc gia cũng có thể tạo lập nên hòa bình
nhưng các vấn đề "phi truyền thống" lại đòi hỏi nỗ lực chung của mọi quốc gia
xung quanh ngôi nhà chung - Liên hợp quốc. Bởi vậy, năm 1972 Hội nghị Thế giới
đầu tiên về môi trường được tổ chức tại Stockholm (Thụy Điển) và năm 1992 Hội
nghị Cấp cao thế giới về môi trường và phát triển được tổ chức tại Rio de Janeiro
(Braxin) với sự tham gia của đại diện 178 quốc gia, 645 tổ chức phi chính phủ (Hội
nghị Thượng đỉnh Trái đất) [42, tr. 49]. Hội nghị đã thông qua những văn kiện quan
trọng như Hiến chương Trái đất, Chương trình Hành động XXI nhằm cứu vãn thiên
nhiên, bảo đảm môi trường trong lành để phát triển ổn định và bền vững vì hạnh
110
phúc của thế hệ ngày nay và nhiều thế hệ mai sau. Liên hợp quốc còn đặc biệt quan
tâm tới vấn đề dân số bởi đây là vấn đề to lớn và quan trọng trên các bình diện
chính trị, xã hội, kinh tế, nhất là đảm bảo chất lượng cuộc sống, an ninh con người ở
mỗi quốc gia và trên thế giới.
2.3.4. Các thiết chế khu vực đảm bảo an ninh con người
Cùng với sự hợp tác quốc tế trên qui mô toàn cầu thông qua khuôn khổ
Liên hợp quốc, an ninh con người là nội dung hợp tác của nhiều tổ chức quốc tế khu
vực khác nhau.
* Liên minh châu Âu
Liên minh châu Âu (EU) được thành lập ngày 07/02/1992 trên cơ sở Hiệp
ước thành lập EU (Hiệp ước Mastricht). Về phương diện luật pháp quốc tế, EU là
một tổ chức quốc tế khu vực liên kết các quốc gia ở khu vực châu Âu nhưng nhìn ở
mức độ liên kết thì EU được coi như biểu tượng của mô hình siêu quốc gia bởi lẽ ở
đó tất cả các thiết chế quyền lực thực thi quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đều
được tổ chức và hoạt động. EU là sự nhất thể hóa mức độ liên kết trong hợp tác
quốc tế của các quốc gia thành viên trong hầu hết các lĩnh vực như chính trị, kinh tế,
thương mại, luật pháp và tạo ra một không gian khu vực cho các chủ thể. Vấn đề an
ninh con người trong khuôn khổ EU tập trung chủ yếu ở vấn đề dân chủ, nhân
quyền, phát triển và môi trường.
* Liên minh châu Phi
Liên minh châu Phi (AU) được thành lập ngày 09/07/2002 trên cơ sở kế
thừa và phát triển của Tổ chức Thống nhất châu Phi (OAU). Ý tưởng thành lập AU
do Tổng thống Libi, ông Kadafi (M.A Qaddafi) đề xướng nhằm giúp các nước trong
khu vực phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo, chống bệnh tật, giải quyết xung
đột. AU đã thông qua Kế hoạch Đối tác mới vì sự phát triển của châu Phi đồng thời
cũng thông qua Hiến chương châu Phi với mục đích là thúc đẩy hợp tác chính trị và
kinh tế đa phương của các thành viên, củng cố đoàn kết các nước châu Phi trên các
diễn đàn quốc tế, thống nhất đấu tranh chống chủ nghĩa thực dân mới dưới mọi hình
111
thức, bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của các quốc gia châu Phi, thúc
đẩy phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện nâng cao đời sống của các dân tộc châu
Phi. AU được thành lập và hoạt động phù hợp với chính sách không liên kết, tinh
thần của Hiến chương cũng như UDHR năm 1948 của Liên hợp quốc [52].
* Tổ chức các quốc gia châu Mỹ
Tổ chức các quốc gia châu Mỹ được thành lập năm 1948 thay cho Liên hiệp
Quốc tế các cộng hòa châu Mỹ được thành lập từ thế kỷ trước. Hiện nay, Tổ chức
các quốc gia châu Mỹ bao gồm 34 thành viên. Mục đích của Tổ chức các quốc gia
châu Mỹ là củng cố hòa bình và an ninh, ngăn ngừa những bất đồng và giải quyết
các tranh chấp bằng con đường hòa bình, hành động chung trong trường hợp bị xâm
lược, thúc đẩy việc giải quyết các vấn đề về kinh tế, chính trị, pháp lý của các nước
châu Mỹ; thống nhất sự cố gắng vì tiến bộ kinh tế, xã hội, khoa học kỹ thuật và văn
hóa. Về an ninh con người, Tổ chức các quốc gia châu Mỹ tăng cường hợp tác
chống buôn lậu ma túy và băng nhóm tội phạm thông qua các biện pháp giảm nhu
cầu tiêu thụ ma túy, ngăn chặn buôn bán vũ khí bất hợp pháp.
* Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á
Qua hơn bốn thập kỷ hình thành và phát triển, Hiệp hội các quốc gia Đông
Nam Á (ASEAN) ngày nay đã trở thành một tổ chức hợp tác khu vực năng động
với mức độ liên kết ngày càng chặt chẽ hơn trên hầu hết các lĩnh vực của đời sống
chính trị, kinh tế và văn hóa - xã hội. Chính sự liên kết ấy đã tạo cho ASEAN có
tiếng nói và vị thế trên trường quốc tế. Hội nghị Cấp cao ASEAN không chính thức
lần thứ hai diễn ra tại Kuala Lumpur ngày 14 -16/12/1997 đã thông qua "Tầm nhìn
ASEAN 2020". Văn kiện này định hướng cho sự phát triển lâu dài của ASEAN
trong thế kỷ XXI trên cơ sở những thành tựu đạt được, những cơ hội và thách thức.
Lời nói đầu của Văn kiện này đã khẳng định: "ASEAN sẽ là một nhóm hài hòa các
dân tộc Đông Nam Á hướng ngoại, sống trong hòa bình, ổn định và thịnh vượng,
gắn với nhau bằng quan hệ đối tác trong phát triển năng động và trong một cộng
đồng các xã hội đùm bọc lẫn nhau". Để thực hiện tầm nhìn có tính dài hạn này,
Chương trình hành động Hà Nội (HPA, 1998) là chương trình đầu tiên đưa ra các
112
mục tiêu thực hiện tầm nhìn. Tại Hội nghị Cấp cao ASEAN lần thứ IX (7-
8/10/2003, Inđônêxia) các thành viên ASEAN đã ký Tuyên bố hòa hợp ASEAN II
(Tuyên bố Bali II) với những định hướng chiến lược lớn của ASEAN mà mục tiêu
là thành lập Cộng đồng ASEAN liên kết mạnh, tự cường vào năm 2020 với ba trụ
cột chính là: hợp tác chính trị - an ninh (Cộng đồng An ninh ASEAN - ASC); hợp
tác kinh tế (Cộng đồng Kinh tế ASEAN - AEC) và hợp tác văn hóa xã hội (Cộng
đồng Văn hóa - Xã hội ASEAN - ASCC).
Đối với Cộng đồng An ninh - Chính trị ASEAN, an ninh con người được
xác định trong Kế hoạch Tổng thể với nội dung là xây dựng một cộng đồng có
chung các giá trị và chuẩn mực, hoạt động trên cơ sở các luật lệ bằng một loạt các
giải pháp như thúc đẩy quyền con người, thúc đẩy dân chủ, tăng cường xây dựng
các thể chế. Đặc biệt, an ninh con người là nội dung hợp tác của Cộng đồng Văn
hóa - Xã hội ASEAN như: phát triển con người; phúc lợi và bảo hiểm xã hội; quyền
và bình đẳng xã hội; đảm bảo môi trường; tạo dựng bản sắc ASEAN và thu hẹp
khoảng cách phát triển. Tất cả các nội dung hợp tác đều trực tiếp đề cập tới các khía
cạnh của an ninh con người đặc biệt như vấn đề việc làm, đảm bảo an ninh lương
thực an toàn thực phẩm, chăm sóc y tế, gìn giữ và bảo vệ môi trường, thu hẹp
khoảng cách phát triển.
Như vậy, các thiết chế khu vực với ý nghĩa liên kết các quốc gia thành viên
còn có vai trò trong việc tạo dựng một khuôn khổ pháp lý, môi trường hòa bình cho
hợp tác và phát triển trong đó có việc bảo đảm an ninh con người. Tất nhiên, mỗi
thiết chế có mức độ liên kết và đặc thù riêng nhưng đều đề cập tới an ninh con
người ở những góc độ khác nhau: với EU, an ninh con người chủ yếu ở khía cạnh
dân chủ, nhân quyền; với AU lại quan tâm nhiều tới vấn đề nghèo đói, xung đột vũ
trang và an toàn cá nhân; với ASEAN và Cộng đồng ASEAN trong tương lai có rất
nhiều vấn đề mà Cộng đồng phải giải quyết cũng trực tiếp liên quan tới an ninh con
người đặc biệt là thu hẹp khoảng cách phát triển. Điều này phản ánh đúng xu thế
khách quan của thực tiễn quan hệ quốc tế, phù hợp với quan điểm của Liên hợp
quốc cũng như điều kiện đặc thù của Đông Nam Á.
113
An ninh con người là vấn đề rộng lớn và phức tạp, vì vậy đảm bảo an ninh
con người dựa trên cơ sở pháp lý là các qui định của luật pháp quốc tế. Hơn thế nữa,
tổ chức và hoạt động của các thiết chế quốc tế dù là liên chính phủ hay phi chính
phủ, toàn cầu hay khu vực đều nhằm hướng tới một mục đích chung là bảo đảm an
ninh con người và vì con người. Tuy vậy, để tăng cường hơn nữa đòi hỏi không chỉ
là sự hoàn thiện của luật pháp, sự thay đổi của cấu trúc thiết chế mà quan trọng là sự
liên kết, cơ chế phối kết hợp giữa các thiết chế quốc tế và các quốc gia. Có như vậy,
các vấn đề chung của cộng đồng quốc tế trong đó có an ninh con người mới được
duy trì, bảo vệ và phát triển.
2.4. CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG AN NINH CON NGƯỜI
An ninh con người là vấn đề của mọi thời đại cần có sự điều chỉnh của pháp
luật quốc tế và để tăng cường hơn nữa an ninh con người trước các nguy cơ toàn
cầu cần phải có các giải pháp trên phương diện quốc tế.
Thứ nhất, cần có nghị quyết của Liên hợp quốc về tăng cường an ninh con
người. Mặc dù, về phương diện pháp lý các nghị quyết không có tính chất ràng
buộc nghĩa vụ cho các chủ thể nhưng nó phản ánh những vấn đề nóng bỏng của
thực tiễn đời sống quốc tế nên có ý nghĩa chính trị và đạo lý đối với các quốc gia,
cộng đồng quốc tế.
Thứ hai, thúc đẩy việc đàm phán, ký kết hoặc gia nhập các điều ước quốc tế
về các lĩnh vực bảo đảm an ninh con người như môi trường và chống biến đổi khí
hậu đặc biệt là việc cắt giảm các khí thải gây hiệu ứng nhà kính: Nghị định thư
Kyoto đã có hiệu lực nhưng trên thực tế tính hiệu quả chưa cao vì hai quốc gia (Mỹ
và Trung Quốc) có lượng khí thải lớn nhất thế giới vẫn chưa tham gia, hơn nữa
Canada cũng đã tuyên bố rút khỏi Nghị định thư này [6]; hoặc điều ước đa phương
về hợp tác chống khủng bố quốc tế…tạo cơ sở pháp lý ràng buộc hơn nữa trách
nhiệm của các quốc gia trong việc giải quyết các vấn đề toàn cầu.
Thứ ba, xúc tiến và thúc đẩy đàm phán ký kết các nghị định thư bổ sung cho
các điều ước quốc tế đã được ký kết. Ví dụ, UDHR năm 1948 và ICESCR năm 1966
114
khẳng định việc đảm bảo an ninh con người bằng việc duy trì sự sống khi được
cung cấp nguồn thức ăn (lương thực, thực phẩm). Qui định này ngày nay là cần
nhưng chưa đủ bởi lẽ lương thực, thực phẩm được cung cấp không chỉ đủ về số
lượng mà đòi hỏi đủ chất dinh dưỡng và an toàn. Hoặc đảm bảo y tế và sức khỏe
theo ICESCR năm 1966 được thể hiện bằng các chương trình phòng bệnh và chữa
trị cho người bệnh. Nhưng ngày nay, để phòng bệnh có hiệu quả thì tất cả mọi
người phải được sử dụng nước sạch theo Mục tiêu Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc
và phòng bệnh không chỉ đơn thuần là công việc chuyên môn của cơ quan y tế mà
chỉ thực hiện được bằng giải pháp y tế cộng đồng… Những thực tiễn đó đòi hỏi các
điều ước quốc tế về an ninh con người cần phải được hoàn thiện hơn nữa.
Thứ tư, tiếp tục khẳng định vai trò của Liên hợp quốc tương xứng với vị thế
là tổ chức quốc tế đa phương toàn cầu lớn nhất trong việc giải quyết những vấn đề
của nhân loại trong đó có an ninh con người. Sau những biến động ở Đông Âu và
Liên Xô cũ, thế giới đã diễn ra những biến đổi và đảo lộn mang tính bước ngoặt.
Trong bối cảnh đó, Liên hợp quốc thực sự đang đứng trước những thách thức to lớn
là thay đổi theo hướng nào trong tổng thể những điều chỉnh chiến lược và sách lược
của tất cả các nước và nhóm nước. Thực tế đó đòi hỏi Liên hợp quốc phải được cải
tổ vì thế giới đã có nhiều biến chuyển và thay đổi căn bản nhưng cơ cấu quyền lực,
cơ chế hoạt động và bộ máy điều hành của Liên hợp quốc lại hầu như không thay
đổi. Đặc biệt sau sự kiện ngày 11/09/2001, vai trò của Liên hợp quốc bị thách thức
ghê gớm khi Mỹ và Anh ngang nhiên qua mặt Liên hợp quốc đơn phương tấn công
Irac - một quốc gia độc lập có chủ quyền.
Cải tổ Liên hợp quốc đặc biệt là cải tổ Hội đồng Bảo an tiếp tục là một tiến
trình khó khăn và phức tạp. Trong khi đó, Liên hợp quốc vẫn tiếp tục phải thực hiện
các cam kết của mình đó là việc giải quyết các cuộc khủng hoảng khu vực và biến
đổi khí hậu, thực hiện "Mục tiêu phát triển Thiên niên kỷ" với trọng tâm ưu tiên
hàng đầu là việc cắt giảm một nửa thực trạng đói nghèo hiện nay, đảm bảo phổ cập
giáo dục tiểu học, cung cấp nước sạch cho tất cả các hộ gia đình và thanh toán đại
dịch AIDS vào năm 2015. Đây là những cam kết trực tiếp liên quan đến an ninh con
115
người mà chỉ có thể thực hiện được thông qua vai trò của Liên hợp quốc mặc dù hệ
thống Liên hợp quốc chưa thật hoàn hảo nhưng thế giới sẽ trở nên nghèo đói và mất
trật tự hơn nếu như không có Liên hợp quốc.
Thứ năm, thành lập Ủy ban An ninh con người thuộc ECOSOC của Liên
hợp quốc với vai trò là đầu mối hợp tác về an ninh con người giữa Liên hợp quốc
với các quốc gia, các tổ chức quốc tế liên chính phủ và các tổ chức quốc tế phi
chính phủ. Mặc dù các tổ chức quốc tế phi chính phủ chỉ có vị thế tư vấn nhưng có
ảnh hưởng đáng kể đối với lĩnh vực an ninh con người bởi lẽ số lượng các tổ chức
phi chính phủ rất lớn. Mặt khác, Liên hợp quốc thường xuyên kêu gọi những tổ
chức này cung cấp thông tin về các lĩnh vực liên quan đến an ninh con người. Hầu
hết các văn kiện, chương trình của Liên hợp quốc về an ninh con người được xây
dựng và thực hiện có dựa trên những thông tin và tư vấn của các tổ chức phi chính
phủ [26, tr. 471], đặc biệt các tổ chức phi chính phủ có vai trò to lớn trong cơ chế
giám sát và thực hiện các điều ước quốc tế về an ninh con người được Liên hợp
quốc thông qua.
Thứ sáu, tăng cường vị thế và vai trò của Phong trào không liên kết. Nhìn
lại lịch sử, chúng ta thấy đóng góp của phong trào vào việc giải quyết các vấn đề
trọng đại của thế giới là to lớn và tích cực. Hoạt động của Phong trào luôn thể hiện
cuộc đấu tranh gay go, phức tạp giữa hai khuynh hướng: một bên là tăng cường đoàn
kết nội bộ, mở rộng hợp tác với các lực lượng hòa bình và dân chủ, một bên là các
thế lực đồng minh công khai hoặc giấu mặt muốn lái Phong trào đi chệch mục tiêu.
Phong trào không liên kết đã đóng góp quan trọng vào cuộc đấu tranh bảo
vệ hòa bình và an ninh quốc tế, ngăn ngừa nguy cơ chiến tranh hạt nhân, đòi giải trừ
quân bị và thành lập khu vực hòa bình và phi hạt nhân. Phong trào đã cổ vũ và ủng
hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh giải phóng và bảo vệ độc lập dân tộc, là lực lượng quan
trọng trong cuộc đấu tranh đòi thiết lập trật tự kinh tế quốc tế mới và đóng góp đáng
kể vào việc giải quyết tranh chấp xung đột bằng biện pháp hòa bình.
Trong bối cảnh mới, Phong trào không liên kết có khả năng và tiếp tục phát
huy tiếng nói và vai trò của mình vì hòa bình, phát triển, tự quyết dân tộc, độc lập
116
và chủ quyền quốc gia. Thực tiễn hiện nay, đặt các nước không liên kết và đang
phát triển những thách thức to lớn về phát triển kinh tế, đương đầu với những tác động
tiêu cực của quá trình toàn cầu hóa và khu vực hóa. Trong khi tiếp tục phấn đấu cho
một trật tự thế giới mới, công bằng, dân chủ hơn, đảm bảo lợi ích của các nước
đang phát triển, các nước không liên kết vẫn phải tiếp tục đấu tranh giải quyết các
vấn đề nghèo đói, tình trạng bất ổn định về xã hội, xung đột sắc tộc, tôn giáo, đối
phó với chính sách cường quyền, xu hướng áp đặt và can thiệp của một số nước lớn.
Vai trò và vị thế của phong trào phụ thuộc vào nỗ lực của chính các nước
thành viên và điều đặc biệt quan trọng là các nước này cần tăng cường sự đoàn kết,
phối hợp trong các diễn đàn đa phương, đồng thời thúc đẩy hợp tác quốc tế trên cơ
sở bình đẳng và cùng có lợi. Trong khi giữ vững các mục tiêu, nguyên tắc hoạt động
của Phong trào là vì hòa bình, độc lập dân tộc và phát triển, Phong trào cần có
những điều chỉnh cần thiết nhằm thích ứng với tình hình quốc tế đang biến chuyển
để khẳng định vị trí và vai trò của Phong trào đối với cộng đồng quốc tế cũng như
vấn đề an ninh con người.
Thứ bảy, tăng cường hợp tác khu vực, bởi lẽ an ninh con người là sự bảo
đảm chung trên phương diện quốc tế nhưng bảo đảm đến đâu và ở mức độ nào thì
mỗi khu vực sẽ có những đặc thù và ưu tiên riêng. Với khu vực châu Âu nói chung
và EU nói riêng thì vấn đề khủng hoảng tài chính, thất nghiệp và việc làm là nội
dung cốt lõi của an ninh con người; với châu Phi vấn đề chiến tranh, xung đột sắc
tộc và nghèo đói vẫn bao trùm lục địa này và cần nỗ lực hợp tác để hóa giải; với
châu Á và Đông Nam Á thì xung đột, khủng bố, tiến trình dân chủ hóa đời sống
chính trị, xã hội (như Myanma) và đặc biệt là thu hẹp khoảng cách phát triển giữa
các nhóm nước; với châu Mỹ đặc biệt là khu vực Mỹ Latinh đó là vấn đề tội phạm
và nghèo đói… Mỗi khu vực đều có những đặc điểm riêng và việc nhìn nhận an
ninh con người là cơ sở của hợp tác sẽ giúp các tổ chức quốc tế khu vực và các quốc
gia có được các chính sách và giải pháp phù hợp.
Cuối cùng, an ninh con người có được bảo đảm hay không hoặc được đảm
bảo đến mức độ nào thì chủ yếu vẫn phụ thuộc vào vai trò của các quốc gia vì
117
không người nào có thể tồn tại ngoài khuôn khổ quốc gia. Mỗi quốc gia trên cơ sở
chủ quyền đang từng bước nỗ lực để đảm bảo an ninh con người trong khuôn khổ
quốc gia đồng thời tăng cường các hoạt động hợp tác quốc tế.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 2
Luật quốc tế là cơ sở để duy trì hòa bình và an ninh quốc tế, phương tiện để
thúc đẩy quan hệ hợp tác hữu nghị giữa các chủ thể. An ninh con người là một nội
dung của luật quốc tế và gắn liền với quá trình hình thành, phát triển của hệ thống
pháp luật này. Những qui định của pháp luật quốc tế đã xác lập cơ sở pháp lý cho
việc bảo đảm an ninh con người trên tất cả các phương diện kinh tế, xã hội, chính
trị; đồng thời hệ thống các thiết chế quốc tế mà điển hình là Liên hợp quốc và các tổ
chức khu vực như EU, AU, ASEAN đã và đang góp phần tích cực bảo đảm an ninh
con người trên thế giới theo tinh thần của Hiến chương Liên hợp quốc. Tuy nhiên,
có cơ sở pháp lý và các thiết chế không có nghĩa là an ninh con người đã được bảo
đảm bởi luật quốc tế cũng chưa thể bao quát được tất cả các khía cạnh của an ninh
con người, hoặc hệ thống thiết chế quốc tế chưa được tăng cường trước những nguy
cơ hiện hữu. Vì vậy, đòi hỏi mỗi quốc gia cần nhận thức đúng tầm quan trọng của
an ninh con người đối với sự phát triển của quốc gia được thể hiện thông qua chính
sách, pháp luật và thực tiễn. Đồng thời nỗ lực hợp tác quốc tế của các quốc gia, việc
không ngừng hoàn thiện luật quốc tế và tăng cường hiệu quả của các thiết chế quốc
tế sẽ là những cơ sở vững chắc bảo đảm an ninh con người.
118
Chương 3
CHÍNH SÁCH, PHÁP LUẬT VÀ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG
BẢO ĐẢM AN NINH CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
3.1. CHÍNH SÁCH CỦA ĐẢNG VÀ NHÀ NƯỚC VIỆT NAM VỀ AN NINH
CON NGƯỜI
3.1.1. Chính sách về an ninh con người trong lĩnh vực kinh tế
Mục tiêu và động lực chính của sự phát triển ở nước ta là vì con người và
do con người. Do đó, chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đặt con người vào vị trí
trung tâm, giải phóng sức sản xuất, khơi dậy mọi tiềm năng của mỗi cá nhân, mỗi
tập thể lao động và của cả cộng đồng dân tộc, động viên và tạo điều kiện cho người
Việt Nam phát huy ý chí tự lực, tự cường, cần kiệm xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, ra
sức làm giàu cho mình và cho đất nước. Lợi ích của mỗi người, của từng tập thể và
của toàn xã hội gắn bó hữu cơ với nhau, trong đó lợi ích cá nhân là động lực trực
tiếp [104, tr. 47]. Đảng xác định, đẩy nhanh sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa, từng bước cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, thực hiện tiến
bộ và công bằng xã hội, bảo vệ và cải thiện môi trường…coi đó là tiền đề vật chất
để đảm bảo an ninh con người.
Chính sách kinh tế quan trọng của Đảng là tạo cơ hội việc làm cho người
dân bảo đảm quyền có việc làm. Nhà nước nỗ lực bảo đảm việc làm, đồng thời
khuyến khích, giúp đỡ, tạo điều kiện cho mọi tổ chức, mọi người dân tạo việc làm
cho mình và cho người khác; tập trung khắc phục tình trạng thiếu việc làm, thất
nghiệp. Đối với nước ta, sức ép về việc làm không chỉ trước mắt mà còn nhiều năm
tới và sẽ còn đặt ra nhiều vấn đề không chỉ cho Nhà nước, xã hội mà cả chính người
lao động về phương diện thực hiện quyền tự do lao động, tự do nghề nghiệp và tự
do việc làm của công dân. Đảng, Nhà nước nhận thức rõ trách nhiệm trong việc:
"Bảo đảm công ăn việc làm…khuyến khích các tổ chức, cá nhân cùng Nhà nước tổ
chức tốt dịch vụ giới thiệu việc làm, đào tạo nghề nghiệp".
119
Chính sách của Đảng là thực hiện đa dạng hóa các hình thức phân phối
thành quả lao động nhưng hình thức phân phối theo kết quả lao động và hiệu quả
kinh tế là chủ yếu, đồng thời khắc phục tình trạng thất thoát thành quả lao động xã
hội và phân phối không công bằng. Đảng nhấn mạnh nguyên tắc trong phân phối là
vừa khuyến khích được lao động, vừa bảo đảm phúc lợi cơ bản:
Quan hệ phân phối bảo đảm công bằng và tạo động lực cho phát
triển; Các nguồn lực được phân bổ theo chiến lược qui hoạch, kế hoạch
phát triển kinh tế-xã hội; thực hiện chế độ phân phối chủ yếu theo kết
quả lao động, hiệu quả kinh tế, đồng thời theo mức đóng góp vốn cùng
các nguồn lực khác và phân phối thông qua hệ thống an sinh xã hội, phúc
lợi xã hội [32, tr. 74].
Chính sách của Đảng là xác định rõ quyền sở hữu, quyền sử dụng và quyền
quản lý tư liệu sản xuất, bảo đảm cho người lao động thực sự làm chủ tư liệu sản
xuất. Thực hiện dân chủ trong lĩnh vực kinh tế, phát huy tính tích cực, tự giác, sáng
tạo của người lao động, giải quyết tốt mối quan hệ giữa tập thể lao động và trách
nhiệm cá nhân người lao động:
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với
nhiều hình thức sở hữu, nhiều thành phần kinh tế, hình thức tổ chức kinh
doanh và hình thức phân phối. Các thành phần kinh tế hoạt động theo pháp
luật đều là bộ phận hợp thành quan trọng của nền kinh tế, bình đẳng trước
pháp luật, cùng phát triển lâu dài, hợp tác và cạnh tranh lành mạnh [32, tr. 73].
Chính sách của Đảng xác định con người ở vị trí trung tâm của sự nghiệp
kinh tế, phát huy tính tích cực sáng tạo của người lao động. Tiến hành đào tạo, đào
tạo lại, bồi dưỡng và nâng cao trình độ mọi mặt cho người lao động phù hợp yêu
cầu thời kỳ đẩy nhanh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Tạo cơ hội cho
người lao động thể hiện năng lực và phát huy tài năng, đồng thời khai thác tốt năng
lực và tài năng đó phục vụ nhiệm vụ phát triển kinh tế, xây dựng đất nước: "…sự
nghiệp kinh tế đặt con người vào vị trí trung tâm, thống nhất tăng trưởng kinh tế với
công bằng và tiến bộ xã hội".
120
Liên quan đến lĩnh vực kinh tế, quyền tự do kinh doanh của người dân đóng
vai trò đặc biệt quan trọng. Chính sách của Đảng bảo đảm quyền tự do này cũng
không ngoài mục đích khơi dậy tiềm năng, năng lực và sự cống hiến của mỗi người:
"Tập trung tháo gỡ mọi vướng mắc, xóa bỏ mọi trở lực để khơi dậy nguồn lực to
lớn trong dân, cổ vũ các nhà kinh doanh và mọi người dân ra sức làm giàu cho mình
và cho đất nước". Đồng thời, Đảng chủ trương bảo hộ cho mọi công dân được làm
kinh tế hợp pháp trong tồn tại, phát triển cũng như khi phá sản; bảo hộ và khuyến
khích, giúp đỡ cho mọi người dân vươn lên làm giàu chính đáng; thực hiện xóa đói,
giảm nghèo đối với các hộ gia đình có mức sống thấp so với bình quân chung của
toàn xã hội, đồng thời trợ cấp xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt
không thể tự lao động được và không có người bảo trợ, nuôi dưỡng; bảo đảm và tạo
điều kiện thực hiện quyền phát triển kinh tế của các dân tộc thiểu số, vùng sâu, vùng
xa: "Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững; giảm dần tình
trạng chênh lệch giàu - nghèo giữa các vùng, miền, các tầng lớp dân cư. Hoàn thiện
hệ thống an sinh xã hội" [32, tr. 79].
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa
xã hội trên cơ sở thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức và bảo vệ tài nguyên môi trường. Bảo vệ môi trường là trách
nhiệm của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội và nghĩa vụ của mọi công dân. Kết
hợp chặt chẽ giữa kiểm soát, ngăn ngừa, khắc phục ô nhiễm với khôi phục và bảo
vệ môi trường sinh thái. Phát triển năng lượng sạch, sản xuất sạch và tiêu dùng
sạch. Coi trọng nghiên cứu, dự báo và thực hiện các giải pháp ứng phó với quá trình
biến đổi khí hậu và thảm họa thiên nhiên. Quản lý, bảo vệ, tái tạo và sử dụng hợp
lý, có hiệu quả tài nguyên quốc gia.
Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường, chủ động ứng phó có hiệu quả
với biến đổi khí hậu, phòng, chống thiên tai. Nâng cao ý thức bảo vệ môi trường,
gắn nhiệm vụ, mục tiêu bảo vệ môi trường với phát triển kinh tế - xã hội. Đổi mới
cơ chế quản lý tài nguyên và bảo vệ môi trường. Đưa nội dung bảo vệ môi trường
vào chiến lược, qui hoạch, kế hoạch phát triển ngành, lĩnh vực, vùng và các chương
121
trình, dự án. Các dự án đầu tư xây dựng mới phải bảo đảm yêu cầu về môi trường.
Thực hiện nghiêm ngặt lộ trình xử lý các cơ sở gây ô nhiễm môi trường. Hoàn thiện
hệ thống luật pháp về bảo vệ môi trường; xây dựng chế tài đủ mạnh để ngăn ngừa,
xử lý các hành vi vi phạm. Khắc phục suy thoái, bảo vệ môi trường và cân bằng
sinh thái, nâng cao chất lượng môi trường. Thực hiện tốt chương trình trồng rừng,
ngăn chặn có hiệu quả nạn phá rừng, cháy rừng; tăng diện tích các khu bảo tồn thiên
nhiên. Quản lý, khai thác và sử dụng có hiệu quả tài nguyên đất, nước, khoáng sản
và các nguồn tài nguyên khác. Hạn chế và tiến tới không xuất khẩu tài nguyên chưa
qua chế biến. Chú trọng phát triển kinh tế xanh, thân thiện với môi trường. Thực
hiện sản xuất và tiêu dùng bền vững; từng bước phát triển năng lượng sạch, sản xuất
sạch, tiêu dùng sạch. Đẩy mạnh xã hội hóa công tác bảo vệ môi trường, phát triển
các dịch vụ môi trường, xử lý chất thải.
Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, dự báo khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu
và đánh giá tác động để chủ động triển khai có hiệu quả các giải pháp phòng chống
thiên tai và Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu, nhất là nước
biển dâng. Tăng cường hợp tác quốc tế để phối hợp hành động và tranh thủ sự giúp
đỡ của cộng đồng quốc tế.
3.1.2. Chính sách về an ninh con người trong lĩnh vực xã hội
Xã hội ta là xã hội vì con người, đặt con người vào vị trí trung tâm của phát
triển kinh tế, văn hóa, xã hội và lấy việc nâng cao chất lượng cuộc sống làm mục tiêu
phục vụ: "Chính sách xã hội đúng đắn, công bằng vì con người là động lực mạnh mẽ
phát huy mọi năng lực sáng tạo của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc" [31, tr. 22]. Chính sách xã hội của Đảng thể hiện quan điểm phát huy nhân
tố con người bởi vì kết quả của phát triển kinh tế đồng nghĩa với phát triển xã hội.
Hơn nữa, Cương lĩnh xây dựng chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ đã được sửa
đổi, bổ sung mà điểm mới là quan điểm phát triển với trọng tâm là coi con người là
mục tiêu và chủ thể của quá trình phát triển. Vì vậy, chính sách xã hội mà Đảng ta
hướng tới là bảo đảm công bằng, bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ công dân; kết
hợp tốt giữa tăng trưởng kinh tế và tiến bộ xã hội; giữa đời sống vật chất và đời
122
sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa
cá nhân với tập thể cộng đồng xã hội. Đó là căn cứ để hoạch định hệ thống chính sách
xã hội cũng như đánh giá tính phù hợp và hiệu quả trong bối cảnh xã hội Việt Nam.
Chính sách xã hội của Đảng theo phương châm xã hội hóa. Nhà nước giữ
vai trò nòng cốt, đồng thời động viên mỗi người dân, các doanh nghiệp, các tổ chức
xã hội, các cá nhân và các tổ chức nước ngoài cùng tham gia giải quyết những vấn
đề xã hội mà trọng tâm là thực hiện chính sách bảo hiểm và an sinh xã hội. Quyền
được hưởng bảo hiểm và an sinh xã hội được thực hiện cho mọi người dân, đặc biệt
chú ý những đối tượng chính sách và những người gặp khó khăn:
Hoàn thiện hệ thống an sinh xã hội. Thực hiện tốt chính sách đối với người
và gia đình có công với nước. Chú trọng cải thiện điều kiện sống, lao động và học
tập của thanh niên, thiếu niên, giáo dục và bảo vệ trẻ em. Chăm lo đời sống những
người cao tuổi, neo đơn, khuyết tật, mất sức lao động và trẻ mồ côi [32, tr. 80].
Nước ta quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội mà xuất phát điểm là nước nông
nghiệp, nông dân là chủ yếu, xu hướng dân số ngày càng già đi, có nhiều vùng khó
khăn; đặc biệt là trải qua hai cuộc chiến tranh nên hậu quả của chiến tranh về mặt xã
hội là rất lớn. Do đó, chính sách xã hội luôn đặc biệt chú ý tới các đối tượng trên
vừa thể hiện truyền thống nhân đạo của dân tộc, quan điểm của Đảng và cũng phù
hợp với xu thế chung của thời đại được thể hiện trong các văn kiện pháp lý quốc tế.
Chính sách xã hội của Đảng còn được thể hiện ở việc hưởng thụ các phúc
lợi xã hội, chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân. Đảng xác định con người là nguồn
lực quí báu nhất của xã hội, quyết định sự phát triển của đất nước, trong đó sức
khỏe là vốn quí nhất của mỗi người và là một trong những điều kiện cơ bản để con
người sống hạnh phúc, là mục tiêu quan trọng trong phát triển kinh tế, văn hóa, xã
hội và bảo vệ Tổ quốc. Chính sách chăm sóc, bảo vệ sức khỏe nhân dân của Đảng là
vừa phải làm cho ngành y tế phát triển kịp với trình độ tiên tiến của các nước trong
khu vực, vừa phải đảm bảo tính công bằng trong chăm sóc sức khỏe nhân dân, nhất
là quan tâm đến việc chăm sóc sức khỏe cho người nghèo, đồng bào sống ở vùng
núi, vùng sâu, vùng xa, vùng kháng chiến cũ…
123
Vấn đề xóa đói, giảm nghèo là nội dung quan trọng trong hệ thống chính
sách xã hội của Đảng, liên quan đến bản chất và mục tiêu của chế độ xã hội chủ
nghĩa. Truyền thống đạo lý "lá lành đùm lá rách"; "thương người như thể thương
thân" từ xưa của người Việt Nam được phát huy cao độ. Ngay từ những ngày đầu
khi cách mạng thành công, Đảng ta đã kêu gọi lòng yêu nước thương nòi của
đồng bào, lập quĩ cứu tế, lập kho thóc cứu tế, tổ chức "bữa cháo cầm hơi"…
động viên nam nữ thành các đoàn cứu đói để trồng trọt, khai khẩn, lấy lương cho
dân nghèo…
Từ một nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân chiếm tỷ lệ rất cao, bước vào
kinh tế thị trường, mức độ chênh lệch về thu nhập giữa nông thôn và thành thị ngày
càng lớn, vấn đề phân hóa giàu nghèo trong xã hội diễn ra nhanh chóng và gay gắt.
Nhằm khắc phục những hạn chế đó, Đảng đã đề ra các chính sách phát triển kinh tế
xã hội phù hợp với từng đối tượng, từng vùng từng miền như vùng căn cứ cách
mạng, vùng đồng bào dân tộc thiểu số với các chính sách ưu đãi và những giải pháp
như: Xây dựng và phát triển quĩ xóa đói giảm nghèo bằng nhiều nguồn vốn trong và
ngoài nước; quản lý chặt chẽ, đầu tư đúng đối tượng và có hiệu quả. Tổ chức tốt đời
sống xã hội trên từng địa bàn để trong điều kiện thu nhập bình quân đầu người còn
thấp vẫn tạo được một cuộc sống khá hơn cho người dân.
Chính sách của Đảng tạo điều kiện, tạo sự công bằng để nhân dân tự vươn
lên thoát khỏi đói nghèo, tự làm giàu chính đáng bằng sức lao động của mình có sự
trợ giúp đắc lực của nhà nước về vốn, kỹ thuật và cơ chế chính sách bằng các biện
pháp cụ thể, sát với tình hình địa phương với mục tiêu không còn hộ đói và giảm hộ
nghèo. Tiếp tục tăng nguồn vốn xóa đói, giảm nghèo, mở rộng các hình thức tín
dụng trợ giúp người nghèo sản xuất, kinh doanh. Có chính sách trợ giá nông sản,
phát triển việc làm và nghề phụ nhằm tăng thu nhập của các hộ nông dân.
Đảng chủ trương phát triển nhanh và bền vững đi liền với chính sách xóa
đói giảm nghèo: "Khuyến khích làm giàu hợp pháp đi đôi với xóa nghèo bền vững,
giảm dần tình trạng chênh lệch giàu nghèo giữa các vùng miền, các tầng lớp dân
cư" [32, tr. 79].
124
3.1.3. Chính sách về an ninh con người trong lĩnh vực chính trị
3.1.3.1. Xây dựng xã hội dân chủ với việc bảo đảm an ninh con người
Dân chủ là một hiện tượng lịch sử-xã hội gắn liền với sự tồn tại và phát
triển của đời sống con người. Từ khi xã hội loài người phân chia thành giai cấp và
tổ chức nên Nhà nước và dân chủ biểu hiện thông qua chế độ Nhà nước [62, tr. 13].
Chế độ dân chủ xã hội chủ nghĩa bắt đầu xuất hiện trong lịch sử khi giai cấp
công nhân tiến hành Cách mạng, chống chủ nghĩa tư bản, xóa bỏ quyền thống trị
của giai cấp tư sản và tự mình trở thành giai cấp thống trị, trước hết trong từng quốc
gia dân tộc. Đó là cuộc cách mạng vô sản và giai cấp công nhân trở thành chủ thể
của quyền lực, thiết lập nên nhà nước và chế độ dân chủ của mình. Dân chủ mang
bản chất giai cấp công nhân, dân chủ cho quảng đại quần chúng.
Dân chủ có nội dung toàn diện, bao quát các lĩnh vực của đời sống xã hội,
từ kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa, từ các mối quan hệ giữa con người với con
người đến quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng, giữa công dân với nhà nước, với tổ
chức và thể chế hiện hành. Hai lĩnh vực quan trọng hàng đầu và nổi bật nhất là dân
chủ kinh tế và dân chủ chính trị. Nó qui định dân chủ trong lĩnh vực xã hội, tư
tưởng và văn hóa. Nó cũng biểu hiện trực tiếp vấn đề quyền con người và quyền
công dân. Điểm cốt lõi của dân chủ kinh tế là lợi ích; mấu chốt của dân chủ chính trị
là quyền lực và chế độ ủy quyền thông qua bầu cử với phương thức dân chủ đại
diện. Dân chủ trong xã hội đòi hỏi sự đảm bảo công bằng trong phân phối lợi ích và
công bằng trong cơ hội phát triển, bình đẳng của mọi công dân trước pháp luật. Dân
chủ còn biểu hiện quan hệ giữa cá nhân với cộng đồng và xã hội với sự thống nhất
hữu cơ giữa quyền lợi và nghĩa vụ, lợi ích và trách nhiệm.
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Trong bầu trời không có gì quí bằng nhân dân,
dân chủ là của quí báu nhất trong đời. Bao nhiêu lợi ích đều là của dân. Bao nhiêu
quyền hành cũng là của dân. Lợi, quyền và lực lượng đều ở nơi dân. Do đó, dân chủ
chính là dân làm chủ, dân là chủ. Tính pháp lý của dân chủ đòi hỏi phải coi pháp luật là
thuộc tính bên trong của dân chủ. Pháp luật là giá trị của dân chủ, là công cụ quản lý
của nhà nước dân chủ, pháp quyền. Càng mở rộng dân chủ càng phải tăng cường
125
pháp luật, kỷ luật, kỷ cương xã hội. Khi Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền,
lãnh đạo xã hội và Nhà nước để đi tới mục tiêu và thực hiện lý tưởng của chủ nghĩa
xã hội thì vấn đề xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, đảm bảo quyền dân chủ
và làm chủ của nhân dân lao động trở thành một trong những vấn đề cơ bản, cốt yếu
của chế độ. Sự kết hợp đúng đắn giữa tập trung với dân chủ như một nguyên tắc
lãnh đạo và quản lý chỉ thực sự xuất hiện trong chủ nghĩa xã hội, chỉ đạt được ở Đảng
và Nhà nước mang bản chất của giai cấp công nhân - nguyên tắc tập trung dân chủ.
Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về Nhà nước xã hội chủ
nghĩa, Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định việc xây dựng nền dân chủ xã hội chủ
nghĩa là yếu tố cốt lõi của hệ thống chính trị với vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam. Nếu như dân chủ xã hội chủ nghĩa coi quyền lực Nhà nước thuộc về
nhân dân và do nhân dân làm chủ thì an ninh con người lấy con người làm trung
tâm dựa trên quyền con người và mục đích phát triển con người. Xét trên phương
diện logic, việc đảm bảo an ninh con người cùng với quá trình xây dựng xã hội dân
chủ xã hội chủ nghĩa không hề mâu thuẫn mà ngược lại nó là sự đảm bảo để hướng
tới mục tiêu chung là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Chính vì vậy, trong
Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội giai đoạn 2010-2020 mới khẳng định con người
là trung tâm và chủ thể của phát triển gắn liền với việc thực hiện quyền làm chủ của
nhân dân. An ninh con người chỉ trở thành hiện thực trong xã hội dân chủ và xã hội
dân chủ là tiền đề đảm bảo an ninh cho con người trên phương diện cá nhân, cộng
đồng và đặc biệt là tạo dựng một môi trường chính trị pháp lý hòa bình, ổn định.
An ninh con người và bảo đảm an ninh con người gắn liền với bản chất của
một chế độ Nhà nước và xã hội nhất định. Ở Việt Nam, bản chất của Nhà nước là
Nhà nước vì con người và bảo vệ quyền con người, quan điểm đó đã được thể hiện
trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
(bổ sung, phát triển năm 2011): "Nhà nước ta là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân" [32, tr. 85].
An ninh con người được bảo đảm gắn liền với quá trình thực hiện dân chủ
hóa xã hội. Dân chủ và công bằng xã hội được thực hiện trong thực tế cuộc sống
trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội:
126
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta, vừa là mục
tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước. Xây dựng và từng bước
hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, bảo đảm dân chủ được thực
hiện trong thực tế cuộc sống ở mỗi cấp, trên tất cả các lĩnh vực. Dân chủ
gắn liền với kỷ luật, kỷ cương và phải được thể chế hóa bằng pháp luật,
được pháp luật bảo đảm [28, tr. 84].
Dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta. Xây dựng nền dân chủ
xã hội chủ nghĩa, bảo đảm quyền lực thuộc về nhân dân là một nhiệm vụ trọng yếu,
lâu dài của cách mạng Việt Nam. Trong những năm đổi mới, chúng ta ngày càng
nhận thức rõ dân chủ vừa là mục tiêu, vừa là động lực của công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội, thể hiện mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân. Khẳng định
phải xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa thực sự của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân, trên cơ sở liên minh giữa công nhân, nông dân và trí thức
do Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Nhà nước đại diện cho quyền làm chủ của
nhân dân, đồng thời là người tổ chức thực hiện đường lối của Đảng. Mọi đường lối
của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân. Thực
hiện quyền làm chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với
mọi hoạt động xâm phạm lợi ích của tổ quốc và nhân dân. Có cơ chế để nhân dân
thực hiện quyền làm chủ trên các lĩnh vực của đời sống xã hội, tham gia quản lý xã
hội. Nhà nước chăm lo cho con người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con
người, tôn trọng và thực hiện các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt
Nam đã ký kết [89, tr. 46].
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội
năm 1991 khẳng định việc xây dựng đất nước theo hướng "dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh" và trong Cương lĩnh sửa đổi bổ sung năm 2011
đã nhấn mạnh đến việc xây dựng xã hội dân chủ: "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân
chủ, công bằng, văn minh". Đây là điểm mới về nhận thức của Đảng Cộng sản Việt
Nam. Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khác về bản chất với Nhà nước pháp
quyền tư sản ở chỗ: pháp quyền dưới chủ nghĩa tư bản thực chất là công cụ bảo vệ
127
và phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản, còn pháp quyền dưới chủ nghĩa xã hội là
công cụ thể hiện và thực hiện quyền làm chủ của nhân dân, bảo vệ lợi ích của đại đa
số nhân dân. Nhà nước pháp quyền quản lý xã hội bằng pháp luật và các công cụ
khác theo qui định của pháp luật. Thông qua thực thi pháp luật, Nhà nước thể hiện
nhân dân là chủ thể của quyền lực chính trị, thực hiện chuyên chính với mọi hành
động xâm phạm lợi ích của Tổ quốc và nhân dân.
Trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam, quyền lực Nhà
nước là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà
nước trong việc thực hiện ba quyền: lập pháp, hành pháp và tư pháp, hoạt động có
hiệu lực, hiệu quả và thống nhất. Đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy Nhà
nước, làm cho Nhà nước thực sự là thiết chế phục vụ nhân dân.
Ở Việt Nam, bảo đảm an ninh con người đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị
thông qua việc thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Để đảm bảo quyền đó, hệ
thống chính trị luôn đổi mới và hoàn thiện, đáp ứng những nội dung ngày càng mở
rộng của quá trình dân chủ… Cùng với việc tạo điều kiện tối đa để nhân dân thực
hiện quyền làm chủ, Đảng chủ trương phát huy dân chủ đi đôi với giữ vững kỷ luật,
kỷ cương, tăng cường pháp chế, quản lý xã hội bằng pháp luật, tuyên truyền, giáo
dục toàn dân, nâng cao ý thức chấp hành pháp luật.
3.1.3.2. An ninh con người hướng tới bảo đảm quyền con người
An ninh con người dựa trên nền tảng và với mục đích là hướng tới bảo vệ
quyền con người [109, tr. 13]. Quyền con người là một vấn đề lý luận và thực tiễn,
phản ánh trình độ phát triển của một xã hội, được Đảng và Nhà nước ta đặc biệt coi
trọng [89, tr. 216]. Vì vậy, con người luôn được đặt vào vị trí trung tâm của mọi
chính sách, coi con người vừa là động lực, vừa là mục tiêu của công cuộc xây dựng
và phát triển đất nước.
Trong suốt chiều dài lịch sử, các dân tộc luôn đấu tranh nhằm giải phóng
con người, xây dựng một xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong một thời gian
dài bị nước ngoài đô hộ, phải gánh chịu những hy sinh to lớn để giành độc lập dân
128
tộc và tự do của Tổ quốc. Bằng cuộc đấu tranh bất khuất, kiên cường qua nhiều thế
kỷ, dân tộc Việt Nam hiểu giá trị cơ bản của con người là được sống trong độc lập,
tự do và quyền tự quyết định vận mệnh của dân tộc mình. Đó cũng là nguyên tắc cơ
bản của luật pháp quốc tế được khẳng định trong Hiến chương Liên hợp quốc và
Điều 1 của hai công ước năm 1966: ICCPR và ICESCR.
Chủ tịch Hồ Chí Minh khi sinh thời luôn có một ước vọng: "Tôi chỉ có một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn độc lập,
dân ta hoàn toàn được tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành". Ý nguyện đó của Người phản ánh khát vọng của nhân dân Việt Nam, thể
hiện những giá trị thiết yếu về quyền con người, là mục đích, tôn chỉ hoạt động
xuyên suốt của Nhà nước Việt Nam [12, tr. 8].
Nhà nước Việt Nam luôn xác định con người vừa là mục tiêu vừa là động
lực của sự nghiệp xây dựng đất nước. Theo đó, con người là trung tâm của các
chính sách kinh tế - xã hội, thúc đẩy và bảo vệ quyền con người là nhân tố quan
trọng cho sự phát triển bền vững. Mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Việt
Nam cho mục tiêu: "dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh" vì
con người và cho con người.
Quyền con người mang tính phổ biến thể hiện khát vọng chung của nhân
loại nhưng cũng có nét đặc thù nên tiếp cận và xử lý vấn đề quyền con người phải
tuân thủ những nguyên tắc chung của luật pháp quốc tế với những điều kiện đặc thù
của quốc gia. Vì vậy, không được tuyệt đối hóa bất cứ quyền nào và cũng không
được xem nhẹ quyền nào, quyền luôn đi liền nghĩa vụ và cá nhân luôn gắn với cộng
đồng và dân tộc. Việt Nam cho rằng, bảo đảm và thúc đẩy quyền con người trước
hết là trách nhiệm và quyền hạn của mỗi quốc gia. Các quốc gia có trách nhiệm xây
dựng hệ thống pháp luật trong nước phù hợp với các nguyên tắc cơ bản của luật
quốc tế cũng như Hiến chương Liên hợp quốc và điều kiện mỗi nước sao cho việc
thụ hưởng quyền con người là tốt nhất. Mỗi quốc gia có cách tiếp cận riêng về
quyền con người. Việc hợp tác giữa các quốc gia để thúc đẩy và bảo vệ quyền con
người là một yêu cầu cần thiết khách quan. Việt Nam ủng hộ việc tăng cường hợp
129
tác quốc tế trong lĩnh vực quyền con người và cũng khẳng định không nước nào có
quyền sử dụng quyền con người làm công cụ can thiệp vào công việc nội bộ của
quốc gia khác:
Tích cực hợp tác cùng các nước, các tổ chức khu vực và quốc tế
trong việc đối phó với những thách thức an ninh phi truyền thống và nhất
là tình trạng biến đổi khí hậu; sẵn sàng đối thoại với các nước, các tổ chức
quốc tế và khu vực có liên quan về vấn đề dân chủ, nhân quyền; chủ động,
kiên quyết đấu tranh, làm thất bại mọi âm mưu, hành động can thiệp vào
công việc nội bộ, xâm phạm độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn
lãnh thổ, an ninh quốc gia và ổn định chính trị của Việt Nam [32, tr. 237].
Trong một thế giới tùy thuộc lẫn nhau, các quyền con người chỉ có thể được
tôn trọng và bảo vệ trong một môi trường hòa bình, an ninh, bình đẳng và phát triển
bền vững, trong đó các giá trị nhân bản được tôn trọng và bảo vệ. Cuộc đấu tranh vì
các quyền con người cần tiến hành đồng thời với các biện pháp ngăn chặn các cuộc
chiến tranh, xung đột, khủng bố, nghèo đói, dịch bệnh, tội phạm xuyên quốc
gia…đang hàng ngày, hàng giờ đe dọa hòa bình, an ninh độc lập và phồn vinh của
mọi quốc gia, ngăn cản việc thúc đẩy và bảo vệ quyền con người trên toàn thế giới.
Với cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ, Đảng luôn
luôn đề ra những quyết sách lớn định hướng cho các hoạt động của Nhà nước và
toàn xã hội. Trên cơ sở đó quyền con người được tôn trọng và thể hiện trong các
chính sách của Nhà nước, được Nhà nước thể chế hóa và bảo đảm bằng Hiến pháp
và pháp luật. Hơn nữa, bản chất của Nhà nước ta là Nhà nước của dân, do dân và vì
dân. Nhà nước hoạt động là vì con người, bảo đảm và thực hiện quyền con người,
ngay từ ngày đầu thành lập (năm 1945), Nhà nước Việt Nam đã khẳng định những
nội dung cơ bản về quyền con người. Những nội dung đó được thể hiện nhất quán
và ngày càng đầy đủ trong các bản Hiến pháp của Nhà nước ta, từ Hiến pháp đầu
tiên năm 1946 đến Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp 1980 và đặc biệt là Hiến pháp
năm 1992. Hiến pháp năm 1992 khẳng định: "Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được
130
tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được qui định trong Hiến pháp và luật";
"Nhà nước bảo đảm các quyền của công dân; công dân phải làm tròn nghĩa vụ của
mình đối với Nhà nước và xã hội"; "Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật".
3.1.4. Tăng cường hợp tác quốc tế và thực hiện các cam kết quốc tế liên
quan đến an ninh con người
Với nhận thức con người là trung tâm cũng như chủ thể của quá trình phát
triển Việt Nam tích cực hợp tác cùng cộng đồng quốc tế nhằm không ngừng bảo
đảm an ninh con người trên cả hai phương diện là quyền và lợi ích chính đáng của
người dân Việt Nam và góp phần giải quyết những vấn đề chung của toàn cầu. Trên
thực tế, Việt Nam đã tiến hành hợp tác sâu rộng trên nhiều lĩnh vực với cộng đồng
quốc tế thông qua hai phương thức chính: tham gia ký kết, gia nhập các điều ước
quốc tế về các vấn đề của an ninh con người; và hợp tác với các tổ chức quốc tế
cũng như khu vực.
3.1.4.1. Tham gia ký kết, gia nhập nhiều điều ước quốc tế về an ninh
con người
Sau khi thống nhất đất nước năm 1975 và đặc biệt là khi bước sang thập kỷ
80 của thế kỷ XX, Việt Nam bắt đầu tham gia ngày càng nhiều hơn vào việc phê
chuẩn, gia nhập các điều ước quốc tế về an ninh con người, có thể kể đến hai công
ước năm 1966 (ICCPR, gia nhập ngày 24/9/1982; ICESCR, gia nhập ngày
24/9/1982); Công ước xóa bỏ mọi hình thức phân biệt đối xử với phụ nữ 1979 (Việt
Nam phê chuẩn tháng 2/1981); Công ước Quốc tế về xóa bỏ mọi hình thức phân
biệt chủng tộc 1966 (gia nhập ngày 9/6/1981); Công ước quốc tế về ngăn ngừa và
trừng trị tội ác diệt chủng 1948 (gia nhập ngày 9/6/1981); Công ước quốc tế về xóa
bỏ và trừng phạt tội Apartheid (gia nhập ngày 9/6/1981); Công ước quốc tế về
không áp dụng thời hiệu tố tụng đối với tội ác chiến tranh và tội phạm chống lại
nhân loại 1986 (gia nhập ngày 4/6/1983). Từ năm 1990 trở lại đây, Việt Nam tham
gia ký và phê chuẩn Công ước quốc tế về quyền trẻ em 1989 (ký tháng 1/1990 và
phê chuẩn ngày 20/2/1991); Công ước số 182 của ILO về nghiên cứu và hành động
ngay lập tức để xóa bỏ các hình thức lao động trẻ em tồi tệ nhất; Công ước số 29
131
của ILO về lao động cưỡng bức hoặc bắt buộc 2007; Công ước quốc tế về quyền
của người khuyết tật v.v…
Việt Nam cũng thúc đẩy việc giải quyết vấn đề người tị nạn, đảm bảo các
quyền của người tị nạn bằng việc tham gia Công ước quốc tế của Liên hiệp quốc
liên quan đến tình trạng của người tị nạn năm 1951 và Nghị định thư năm 1967 bổ
sung Công ước năm 1951. Cùng với đó là việc đảm bảo an ninh cộng đồng, xã hội,
đảm bảo nhu cầu về việc làm cho người dân như việc tham gia các Công ước quốc
tế của ILO về an sinh xã hội, quyền lợi cho người lao động, bảo vệ tiền lương, tăng
cường an toàn vệ sinh lao động, xúc tiến việc làm và chống thất nghiệp. Việt Nam
cũng đã là thành viên của 8 Công ước quốc tế về chống khủng bố, nhằm lên án các
hành động khủng bố gây ảnh hưởng tới hòa bình và sự an toàn của con người.
Đặc biệt là trong vấn đề bảo vệ môi trường và biến đổi khí hậu, Việt Nam
đã tham gia nhiều văn kiện pháp lý quốc tế quan trọng như: Công ước về bảo vệ di
sản văn hóa và di sản tự nhiên của thế giới 1972 (Việt Nam ký ngày 19/10/1987);
Công ước về các vùng đất ngập nước có tầm quan trọng quốc tế đặc biệt như là nơi
cư trú của loài chim nước 1971 (ký ngày 20/9/1989); Công ước buôn bán các loài động,
thực vật hoang dã nguy cấp 20/1/1994; Công ước về bảo vệ tầng Ozone 1985 và Nghị
định thư Montreal về các chất làm suy giảm tầng Ozone (ký ngày ngày 26/4/1994);
Tuyên bố Liên hợp quốc về môi trường và phát triển 1992; Công ước khung về biến
đổi khí hậu của Liên hợp quốc 1992 (ký ngày 16/11/1994); Công ước về đa dạng
sinh học 1992 và Nghị định thư Cartagena về an toàn sinh học (ký ngày 16/11/1994)…
Trong lĩnh vực y tế, ngoài việc tham gia các Công ước liên quan tới quyền
được chăm sóc sức khỏe của con người, quyền được hưởng các dịch vụ y tế của
người lao động, năm 2005 Việt Nam đã tham gia Công ước khung về kiểm soát
thuốc lá 2005 nhằm đảm bảo sức khỏe cho con người trước những tác hại của thuốc
lá và khói thuốc.
Như vậy, với việc tham gia xây dựng, phê chuẩn và gia nhập những điều
ước quốc tế về những vấn đề của an ninh con người, Việt Nam đã góp phần vào sự
hợp tác sâu rộng với cộng đồng quốc tế để giải quyết những nguy cơ đe dọa đến an
132
ninh con người. Đồng thời, việc tham gia các điều ước quốc tế cũng là cơ sở pháp lý
quan trọng cho việc thực hiện những quy định của pháp luật quốc tế và góp phần
hoàn thiện hơn hệ thống pháp luật đảm bảo an ninh con người ở Việt Nam.
3.1.4.2. Tham gia hợp tác với các tổ chức quốc tế và khu vực trong việc
đảm bảo an ninh con người
Việt Nam từ khi là thành viên của Liên hợp quốc đã tích cực hợp tác sâu
rộng với các tổ chức quốc tế, đặc biệt là các tổ chức thuộc Liên hợp quốc. Việt Nam
cũng đã chủ động và tích cực phối hợp với các nước Không liên kết và đang phát
triển để đấu tranh và bảo vệ các nguyên tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc
như nguyên tắc về bình đẳng chủ quyền, không can thiệp công việc nội bộ các
nước, nguyên tắc dân tộc tự quyết để bảo vệ lợi ích của các nước đang phát triển
trong đó có Việt Nam. Từ năm 1991 đến nay, Việt Nam tham gia tích cực trên
nhiều lĩnh vực liên quan đến hòa bình an ninh, giải trừ quân bị cũng như phát triển
kinh tế xã hội, dân số và bảo vệ môi trường là những chủ đề chính trong chương
trình nghị sự của Liên hợp quốc. Việt Nam cũng tham gia vào một số chức vụ và
ứng cử vào một số cơ quan của Liên hợp quốc như là Phó Chủ tịch Đại hội đồng
Liên hợp quốc năm 1997, 2000 và 2003, là thành viên ECOSOC (1997-2000), Chủ
tịch Đại hội đồng FAO khóa 33, thành viên Ủy ban Nhân quyền (2001-2003), Hội
đồng Chấp hành Chương trình Phát triển và Quỹ Dân số Liên hợp quốc (2000-
2002), Hội đồng Thống đốc Cơ quan Năng lượng Nguyên tử Quốc tế (1991-1993,
1997-1999 và 2003-2005), thành viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên hợp
quốc nhiệm kỳ 2008 - 2009. Hiện nay, Việt Nam tiến hành thực hiện các Chương
trình quốc gia nhằm phát triển kinh tế xã hội, thực hiện các mục tiêu phát triển con
người, nâng cao hơn nữa các kết quả đã đạt được của Mục tiêu phát triển Thiên niên
kỷ của Liên hợp quốc, Việt Nam cũng là một trong 8 nước triển khai thí điểm sáng
kiến "Một Liên hợp quốc" ở cấp độ quốc gia.
Bên cạnh đó, hầu hết các cơ quan, các quỹ và chương trình quan trọng của
Liên hợp quốc đảm bảo an ninh con người trên phạm vi toàn cầu đều đã có mặt tại
Việt Nam như UNDP, UNESCO, FAO, ILO, WHO, UNICEF… Các tổ chức này đã
133
góp phần giúp Việt Nam thực hiện các cam kết của mình trong việc đảm bảo phát
triển kinh tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, phát triển con người, xóa đói giảm
nghèo, cứu trợ trẻ em, bảo vệ môi trường và thực hiện các Mục tiêu phát triển Thiên
niên kỷ. Thực hiện chủ trương và chính sách của Nhà nước ta về mở rộng quan hệ
đối ngoại theo hướng đa dạng hóa và đa phương hóa, để tạo điều kiện cho các hoạt
động của các tổ chức phi chính phủ nước ngoài tại Việt Nam được tiến hành có hiệu
quả, mang lại lợi ích thiết thực và phù hợp với luật pháp và tập quán Việt Nam, kể
từ năm 1996, Nhà nước ta đã ban hành những văn bản quy phạm pháp luật điều
chỉnh hoạt động tiếp nhận viện trợ, quản lý viện trợ, sử dụng viện trợ của các tổ
chức trên tại Việt Nam sao cho có hiệu quả và góp phần phát triển kinh tế - xã hội,
đảm bảo an ninh con người tại Việt Nam.
Ở cấp độ khu vực, do tác động lan tỏa, lâu dài và xuyên quốc gia của những
nguy cơ đe dọa an ninh con người, nên Việt Nam đã có nhiều hoạt động tham gia
hợp tác khu vực trong các vấn đề an ninh con người tại Đông Nam Á. Là một quốc
gia thuộc Đông Nam Á và là thành viên ASEAN từ năm 1995, Việt Nam đã tham
gia vào hoạt động của ASEAN một cách tích cực.
Việt Nam đã đẩy mạnh hợp tác trong lĩnh vực quản lý và giám sát về tài
chính, kinh tế nhằm giảm thiểu nguy cơ khủng hoảng tài chính toàn cầu và khu vực.
Ngay từ khi tham gia ASEAN, Việt Nam cũng đã tham gia các lĩnh vực hợp tác về
khoa học và công nghệ, môi trường, phát triển xã hội… phù hợp với chiến lược phát
triển con người và nguồn nhân lực của Việt Nam. Các chương trình hợp tác trong
khuôn khổ ASEAN và giữa ASEAN với các bên đối tác nhằm giúp các nước thành
viên mới, trong đó có Việt Nam, thu hẹp khoảng cách phát triển, chống nghèo đói,
phát triển nguồn nhân lực, bảo vệ môi trường xã hội và tự nhiên trong khu vực. Việt
Nam đã tham gia Ủy ban Lâm thời sông Mê Kông thành lập năm 1978; Ủy ban
sông Mê Kông năm 1995; Chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mê Kông
của ASEAN năm 1995; thành viên của Hợp tác Tiểu vùng sông Mê Kông mở rộng
do Ngân hàng Châu Á khởi xướng năm 1992… Cùng với việc thành lập Ủy ban
ASEAN về môi trường của Việt Nam năm 1996 và tham gia Chương trình hợp tác
134
ASEAN chống ô nhiễm xuyên biên giới, Chương trình Bảo tồn thiên nhiên và đa
dạng sinh học của ASEAN, Chương trình Bảo vệ môi trường biển và ven biển của
ASEAN… đã thúc đẩy việc hợp tác của Việt Nam về lĩnh vực bảo vệ môi trường
với các nước trong khu vực.
Việt Nam cũng đã bày tỏ sự quan ngại sâu sắc về tình hình khủng bố diễn ra
ở một số nước ASEAN và đẩy mạnh các hoạt động hợp tác chống khủng bố giữa
các nước trong khu vực bằng việc trao đổi, chia sẻ thông tin nhằm cảnh báo sớm,
ngăn chặn các hoạt động khủng bố. Việt Nam đã tham gia nhiều hội nghị quốc tế và
khu vực về phòng chống khủng bố như Công ước quốc tế về chống khủng bố,
Tuyên bố ASEAN về chống khủng bố, Hợp tác ASEAN về chống khủng bố… Đặc
biệt, với việc Việt Nam đưa ra sáng kiến thành lập Cộng đồng Văn hóa - Xã hội
ASEAN mà nội dung cốt lõi là phát triển con người đã thể hiện vai trò tích cực của
Việt Nam trong hợp tác cùng cộng đồng quốc tế.
Có thể nói, tham gia ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế và việc hợp tác
cùng các tổ chức quốc tế, khu vực đã khẳng định nhất quán đường lối đối ngoại
rộng mở của Việt Nam vừa nhằm bảo đảm lợi ích quốc gia, phát triển kinh tế xã
hội, đảm bảo an ninh con người nhưng mặt khác cũng thể hiện vai trò của Việt Nam
đối với những vấn đề mà cộng đồng quốc tế quan tâm. Chính điều này, đồng thời
cũng xác lập nên những nghĩa vụ quốc tế mà để thực hiện cần có sự nỗ lực của quốc
gia, bằng sự nhất quán về chính sách và thể hiện bằng pháp luật.
3.1.4.3. Tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế về an ninh con người
Tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế (Pacta Suntservanda) là nguyên tắc
cơ bản của luật quốc tế và đòi hỏi các quốc gia thiện chí thực hiện một cách tự
nguyện các nghĩa vụ đã được xác lập trong các cam kết quốc tế nói chung và điều
ước quốc tế nói riêng. Tất nhiên, với điều ước quốc tế, tồn tại ngoại lệ đó là sự thay
đổi cơ bản của hoàn cảnh theo qui định của Điều 62 Công ước Viên năm 1969 về
Luật Điều ước Quốc tế.
Tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế, bản thân nó tạo ra áp lực tác động
một cách có hiệu quả ý thức thực hiện nghĩa vụ của các quốc gia thành viên. Do đó,
135
nguyên tắc này vừa đảm bảo thực hiện nghĩa vụ của quốc gia nhưng vừa tạo nên
một cơ chế giám sát quốc tế (nếu có) đối với các quốc gia thành viên.
Tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế nó còn thể hiện sự gắn kết và cộng
đồng trách nhiệm của quốc gia thành viên với tổ chức quốc tế. Nó vừa là mục tiêu
hành động, vừa là nghĩa vụ của quốc gia. Tất nhiên, sự gắn kết đó luôn phải bảo
đảm tôn trọng chủ quyền của quốc gia nhưng đồng thời cũng phải tôn trọng những
nguyên tắc cơ bản của luật quốc tế. Điều này có ý nghĩa cực kỳ quan trọng vì ranh
giới giữa công việc nội bộ của quốc gia với những vấn đề nhạy cảm của quốc tế hết
sức mong manh. Vì vậy, yêu cầu đặt ra là phải xác định rõ nghĩa vụ theo luật quốc
tế và quyền của chính quốc gia với tư cách là một chủ thể của luật quốc tế.
Với nhận thức như vậy, vấn đề an ninh con người ở Việt Nam phải được
gắn kết với việc thực hiện các cam kết quốc tế về an ninh con người mới có thể
được xử lý đúng đắn. Điểm mới trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội được thể hiện thông qua quan điểm phát triển, theo đó
yếu tố con người là nội dung cốt lõi của quan điểm phát triển: "con người vừa là
mục tiêu vừa là chủ thể của quá trình phát triển". An ninh con người được xác định
và bảo đảm thông qua nền tảng là quyền con người: "Tôn trọng và bảo vệ quyền
con người, gắn quyền con người với quyền và lợi ích của dân tộc, đất nước và
quyền làm chủ của nhân dân" [31, tr. 20]. Do đó, tận tâm thực hiện các cam kết
quốc tế về an ninh con người chủ yếu liên quan đến các điều ước quốc tế về quyền
con người nhưng cũng theo Điều 62 của Công ước Viên năm 1969 về Luật Điều
ước quốc tế thì những điều ước đó không bị chi phối bởi yếu tố thay đổi cơ bản của
hoàn cảnh. Điều đó cho thấy càng đòi hỏi hơn nữa trách nhiệm của quốc gia đối với
việc thực hiện điều ước quốc tế về an ninh con người. Mặt khác, chính những nguy
cơ đe dọa tới an ninh con người như xung đột, dịch bệnh, thiên tai và biến đổi khí
hậu…đòi hỏi sự ứng phó kịp thời của quốc gia. Vì vậy, trách nhiệm với việc thực
hiện điều ước quốc tế bằng cơ chế quốc gia, hệ thống chính sách, pháp luật trong
việc bảo đảm an ninh con người thể hiện sự sẵn sàng của quốc gia trên tinh thần
chủ động.
136
Mỗi quốc gia với tư cách là chủ thể của luật quốc tế tồn tại độc lập trong
cộng đồng quốc tế nhưng gắn kết với cộng đồng quốc tế thông qua trách nhiệm,
nghĩa vụ và quyền lợi. Do đó, tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế về phương diện
quốc tế thể hiện sự tích cực của quốc gia trong việc giải quyết những vấn đề chung
của cộng đồng và với bản thân mỗi quốc gia đó chính là điểm tựa trên cơ sở an ninh và
chủ quyền của quốc gia cho việc bảo đảm an ninh con người ngay chính tại quốc gia.
Ngày nay, có nhiều vấn đề toàn cầu đe dọa tới an ninh hòa bình quốc tế và
là nguy cơ đối với an ninh con người. Với những vấn đề đó đơn phương một hoặc
một vài quốc gia không thể giải quyết được. Vì vậy, hợp tác quốc tế được coi là
nguyên tắc cơ bản đặc biệt là trong việc giải quyết những vấn đề toàn cầu: ô nhiễm
môi trường, ma túy, tội phạm xuyên quốc gia, khủng bố, sự lan tràn của dịch
bệnh…Do đó, có trách nhiệm trong việc thực hiện các cam kết quốc tế không chỉ
thể hiện tinh thần của Pacta Suntservanda mà đó còn là nghĩa vụ hợp tác theo pháp
luật quốc tế. An ninh con người là phổ biến và tác động tới an ninh con người lại là
các yếu tố, các nguy cơ có tính chất toàn cầu. Như vậy, hơn bao giờ hết sự hợp tác
quốc tế, tận tâm thiện chí mà Việt Nam khẳng định về mặt quan điểm là thể hiện sự
chủ động, tích cực trong hội nhập quốc tế trước những vấn đề mới của thời đại cũng
như xây dựng thành công xã hội dân chủ hướng tới con người mà ở đó con người
được coi trọng như khẳng định của quan điểm phát triển mà Cương lĩnh xây dựng
chủ nghĩa xã hội trong thời kỳ quá độ đã vạch ra.
Dưới góc độ luật pháp quốc tế, mỗi quốc gia khi là thành viên của các điều
ước quốc tế đều phải thực hiện tận tâm và thiện chí các nghĩa vụ đã cam kết nhất là
những điều ước quốc tế trực tiếp liên quan đến quyền và an ninh con người. Vì vậy,
Việt Nam luôn khẳng định quan điểm và trách nhiệm của mình khi giải quyết các
vấn đề liên quan đến con người mang tính chất toàn cầu: "Tích cực hợp tác cùng các
nước, các tổ chức khu vực và quốc tế trong việc đối phó với những thách thức an
ninh phi truyền thống và nhất là tình trạng biến đổi khí hậu" [32, tr. 237].
Việt Nam chủ trương bảo đảm an ninh con người bằng hệ thống luật pháp
trên cơ sở những giá trị của quyền con người đã được thừa nhận. Giá trị nhân văn
137
cao quí của con người là sản phẩm của tiến trình phát triển của lịch sử nhân loại và
bảo đảm những giá trị cốt lõi của con người như quyền của con người, tự do, nhân
phẩm và sự an toàn của con người luôn luôn là trách nhiệm của mọi quốc gia trên
thế giới. Nói cách khác, an ninh con người là giá trị chung của nhân loại đồng nghĩa
với việc các quốc gia có nghĩa vụ hợp tác trên cơ sở nguyên tắc cơ bản của luật
pháp quốc tế nhằm bảo đảm cho an ninh con người. Sở dĩ như vậy là vì ngày nay
các yếu tố tác động tiêu cực tới an ninh con người và bảo đảm an ninh con người
không chỉ diễn ra trong khuôn khổ của một quốc gia mà nó có tính toàn cầu. Do đó,
nhận thức về giá trị chung, phổ biến của an ninh con người, Việt Nam cũng đồng
thời xác định trách nhiệm của mình với tư cách là một thành viên của cộng đồng
quốc tế. Trách nhiệm đó không chỉ thể hiện bằng việc bảo đảm an ninh con người ở
Việt Nam mà còn góp phần vào sự nghiệp chung của cộng đồng quốc tế.
3.2. PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ AN NINH CON NGƯỜI
Với chính sách mở rộng và tăng cường hội nhập quốc tế, tận tâm thực hiện
các cam kết quốc tế, Việt Nam đã từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật về an
ninh con người. Về phương diện lý luận, cam kết quốc tế đặt ra cho quốc gia nghĩa
vụ phải thực hiện nhưng thực hiện nghĩa vụ đó bằng cách nào và theo phương thức
nào lại thuộc về chủ quyền của quốc gia (trừ trường hợp được qui định rõ trong điều
ước quốc tế). Tuy nhiên, vấn đề mấu chốt mà luật pháp quốc tế quan tâm là nghĩa
vụ đã xác lập quốc gia có thực hiện hay không hoặc thực hiện đến mức độ nào? Vì
vậy, trên thực tế có nhiều cách thức khác nhau về việc thực hiện điều ước quốc tế:
thứ nhất, áp dụng trực tiếp điều ước quốc tế. Theo cách này thì điều ước quốc tế có
hiệu lực sẽ ràng buộc quốc gia, các pháp nhân và cá nhân ở quốc gia do đó không
cần phải tiến hành các thủ tục khác; thứ hai, thực hiện điều ước quốc tế một cách
gián tiếp thông qua chuyển hóa. Sở dĩ như vậy là vì điều ước quốc tế có hiệu lực
ràng buộc đối với quốc gia nhưng chưa ràng buộc đối với pháp nhân, cá nhân ở
quốc gia. Vì vậy, để ràng buộc điều ước quốc tế đối với quốc gia, pháp nhân, cá
nhân thì phải chuyển hóa (nội luật hóa) những qui định của điều ước quốc tế thành
qui định của pháp luật quốc gia.
138
Đối với Việt Nam, Hiến pháp và pháp luật đã qui định về vị trí và hiệu lực
của điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên. Việc thực hiện điều ước quốc tế
được tiến hành thông qua cả hai phương thức: trực tiếp khi rõ ràng, cụ thể (như
trường hợp theo qui định của Nghị quyết số 71/2006/QH11 ngày 29/11/2006 của
Quốc hội) và gián tiếp thông qua nội luật hóa. Tất nhiên, có thể thấy chủ yếu chúng
ta thực hiện theo phương thức thứ hai là nội luật hóa thông qua hoạt động chức
năng của Quốc hội bằng việc ban hành các đạo luật mới hoặc sửa đổi, bổ sung pháp
luật. Do đó, pháp luật Việt Nam về an ninh con người chính là sự chuyển hóa những
qui định của pháp luật quốc tế làm cơ sở để Việt Nam thực hiện các cam kết quốc tế
phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước Việt Nam cũng như đặc thù của Việt
Nam trong việc bảo đảm an ninh con người.
3.2.1. Pháp luật về an ninh con người trong lĩnh vực kinh tế
Lĩnh vực kinh tế được coi là nền tảng cho việc bảo đảm an ninh con người
bởi vì an ninh con người chỉ được hiện thực hóa trong điều kiện kinh tế, bối cảnh
chính trị xã hội nhất định. Vì vậy, kinh tế là lĩnh vực đầu tiên được đề cập khi xem
xét vấn đề an ninh con người ở Việt Nam.
3.2.1.1 Về vấn đề việc làm
Mỗi quốc gia phải luôn bảo đảm các điều kiện để nền kinh tế phát triển một
cách bền vững, có khả năng thích ứng được với những biến động của tình hình quốc
tế cũng như trong nước trong đó có việc bảo đảm mức thu nhập cơ bản của con
người. Vì vậy, vấn đề việc làm đóng vai trò quan trọng vì không có việc làm đồng
nghĩa với việc không có thu nhập hoặc phải sống nhờ vào trợ cấp xã hội.
Với sự đổi mới cơ bản trong tư duy và nhận thức, đứng trước những yêu
cầu của kinh tế thị trường, Hiến pháp 1992 ghi nhận: Lao động là quyền và nghĩa vụ
cơ bản của công dân. Nhà nước và xã hội có kế hoạch tạo ra ngày càng nhiều việc
làm cho người lao động (Điều 55) và được cụ thể hóa trong Bộ luật Lao động 1994
(sửa đổi năm 2002).
Vấn đề trách nhiệm giải quyết việc làm cũng được nhìn nhận trong mối
quan hệ giữa trách nhiệm của Nhà nước, của doanh nghiệp, các tổ chức xã hội và
139
bản thân người lao động. Trong đó, đáng chú ý nhất là trách nhiệm của Nhà nước và
người lao động. Trách nhiệm chủ yếu của Nhà nước bao gồm: xác định chỉ tiêu việc
làm mới trong các kế hoạch kinh tế - xã hội hàng năm và 5 năm; xây dựng chương
trình giải quyết việc làm, quỹ giải quyết việc làm hàng năm; có chính sách khuyến
khích, ưu đãi cho việc tạo ra việc làm thu hút nhiều lao động; phát triển hệ thống tổ
chức dịch vụ việc làm…
Trong nền kinh tế thị trường với sự thừa nhận sức lao động là hàng hóa và
sự tồn tại khách quan của phạm trù thị trường sức lao động thì tiền lương là hình
thái chuẩn hóa của giá trị và giá cả sức lao động. Tiền lương chịu sự tác động của
qui luật giá trị và qui luật cung cầu về sức lao động, hình thành trên cơ sở thương
lượng, thỏa thuận giữa người lao động với người sử dụng lao động, là một thành
phần của chi phí sản xuất. Tiền lương do người sử dụng lao động chịu và trực tiếp
trả cho người lao động. Tuy vậy, tiền lương vẫn phải bảo đảm để bù đắp sức lao
động, tích lũy sản xuất sức lao động mở rộng. Đây là yêu cầu hết sức cơ bản phải
được pháp luật bảo đảm thực hiện trên cơ sở công bằng trong việc thụ hưởng kết
quả lao động. Đồng thời với qui định về việc làm, vấn đề an toàn lao động, vệ sinh
lao động, thời gian làm việc, nghỉ ngơi cũng như việc sử dụng lao động là thanh
thiếu niên cũng đề cập trong Bộ luật Lao động.
Ngoài ra, Bộ luật Lao động còn có những qui định về chính sách việc làm
đối với một số đối tượng đặc thù như lao động nữ, lao động là người tàn tật, lao
động nước ngoài làm việc tại Việt Nam, lao động Việt Nam đi làm việc ở nước
ngoài. Đây là cơ sở pháp lý quan trọng nhất điều chỉnh các quan hệ việc làm. Cùng
với sự phát triển của các quan hệ xã hội về việc làm, Quốc hội ban hành nhiều đạo
luật như Luật Người lao động Việt Nam đi làm việc ở nước ngoài năm 2006, Luật
Bảo hiểm xã hội năm 2006 (Chưưong V - Bảo hiểm thất nghiệp), Luật Người
khuyết tật năm 2010 (Chương V - Dạy nghề và Việc làm)…nhằm điều chỉnh đầy đủ
và toàn diện hơn quan hệ việc làm của một số đối tượng đặc thù và các quan hệ xã
hội trực tiếp liên quan đến quan hệ việc làm. Trên cơ sở qui định của các đạo luật,
Chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền ban hành các văn bản qui phạm pháp luật
như nghị định, quyết định, thông tư qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành.
140
Đảm bảo vấn đề việc làm và các quyền ở nơi làm việc của người lao động
ngoài qui định của pháp luật Việt Nam còn có sự điều chỉnh của hai công ước của ILO
(Công ước số 100 về trả công bình đẳng giữa lao động nam và nữ cho một công
việc ngang nhau năm 1959, Công ước số 111 về Phân biệt đối xử trong việc làm và
nghề nghiệp năm 1958).
Như vậy, trên phương diện pháp lý hoặc thực tiễn thì điều kiện kinh tế và
xã hội là những khía cạnh quan trọng của an ninh con người. Do đó việc làm và các
quyền ở nơi làm việc đóng vai trò quyết định trong việc đạt được an ninh con
người. Những người không được làm việc thì hoặc phụ thuộc vào trợ cấp xã hội
hoặc sẽ không có tương lai. Quyền được làm việc với tư cách là một chuẩn mực của
quyền con người không chỉ đơn thuần là đảm bảo sự tồn tại bởi lẽ thỏa mãn các nhu
cầu cơ bản sẽ không thể đủ để đáp ứng việc tăng cường an ninh con người.
Hệ thống các văn bản qui phạm pháp luật về việc làm đã cơ bản hình thành,
tạo hành lang pháp lý cho các quan hệ xã hội về việc làm, thị trường lao động phát
triển theo các qui luật của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, góp
phần thúc đẩy và bảo đảm việc làm cho người lao động. Mặt khác, việc xây dựng
hoàn thiện hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về việc làm đã xuất phát từ thực
tiễn của các quan hệ xã hội, chuyển hóa các qui định của các điều ước quốc tế mà
Việt Nam là thành viên, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm xây dựng pháp luật lao
động của các quốc gia trên thế giới, bước đầu đáp ứng được yêu cầu quản lý nhà
nước về việc làm [10, tr. 3]. Khẳng định quyền làm việc và tự do lựa chọn việc làm
của người lao động, quyền tuyển chọn và sử dụng lao động của người sử dụng lao
động. Bộ luật Lao động (Điều 13) đã đưa ra một quan niệm mới về việc làm: "Mọi
hoạt động lao động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa
nhận là việc làm". Quan niệm này đã làm thay đổi tư duy chỉ làm việc trong khu
vực Nhà nước mới được coi là có việc làm, người lao động đã đứng vào vị trí trung
tâm, năng động và chủ động tự tạo việc làm cho mình và cho người khác ở tất cả
các thành phần kinh tế, không thụ động trông chờ, ỷ lại vào sự bố trí việc làm của
Nhà nước. Mặt khác, các qui định của pháp luật về việc làm đã xác định rõ trách
141
nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước trong việc xây dựng và thực hiện chỉ tiêu việc
làm. Những năm qua chỉ tiêu việc làm đã đóng vai trò to lớn trong quá trình phát
triển kinh tế xã hội của đất nước.
Bên cạnh mặt tích cực, pháp luật về việc làm cũng có những hạn chế, bất
cập và việc thực thi chưa nghiêm túc, hiệu quả không cao. Bộ luật Lao động và các
văn bản có liên quan chưa làm rõ khái niệm thị trường lao động, việc làm bền vững;
chưa có qui định về các chỉ tiêu của thị trường lao động để có thể đánh giá được sự
phát triển của thị trường lao động. Chưa có qui định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của
người lao động, người sử dụng lao động trong thị trường lao động như việc bảo đảm
an toàn lao động.
Theo qui định của pháp luật quốc tế và pháp luật Việt Nam, bảo đảm an
toàn lao động là trách nhiệm của người sử dụng lao động nhưng trong thực tiễn
trách nhiệm đó chưa được thực hiện nghiêm chỉnh, điển hình như trong lĩnh vực
khai thác khoáng sản và xây dựng.
Trong những năm gần đây, cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ
và sự quan tâm đầu tư cải thiện điều kiện lao động trong các doanh nghiệp khai thác
khoáng sản, nên tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp đối với người lao động ở
nước ta có chiều hướng giảm. Tuy nhiên, trong lĩnh vực khai thác mỏ vẫn tiềm ẩn
nhiều yếu tố nguy hiểm: sạt lò, sạt lở đất đá, bục nước, cháy nổ khí mỏ…Năm 2011,
tại các doanh nghiệp lớn xảy ra 5.896 vụ tai nạn lao động, làm 6.154 người bị nạn
trong đó có 574 người chết. Trong khai thác than than, giai đoạn 2000-2008 có 276
trường hợp bị chết, riêng chết trong hầm lò 219 người. Vụ tai nạn ngày 1/4/2011
trong khai thác đá tại mỏ Lèn Cờ (Yên Thành - Nghệ An) làm 18 người chết, 6
người bị thương [35, tr. 2]. Tại các mỏ khai thác đá, tình trạng phổ biến là không
tiến hành thăm dò khoáng sản, không có thiết kế mỏ và có thì cũng không được cơ
quan có thẩm quyền thẩm định theo qui định. Biện pháp khai thác không đáp ứng
các qui định về an toàn, không có giám đốc điều hành bảo đảm đủ điều kiện năng
lực chuyên môn, quản lý theo qui định. Một số loại khoáng sản khai thác bằng
phương pháp hầm lò như sa khoáng, quặng chì, măng gan, thiếc…chủ yếu thủ công.
142
Các đơn vị khai thác tư nhân và nạn khai thác trái phép không có kỹ thuật do đó tai
nạn lao động nghiêm trọng thường xuyên xảy ra mà quản lý thì lỏng lẻo nên khi xảy
ra những vụ tai nạn lao động chết người với số lượng lớn thì cơ quan nhà nước và
chính quyền địa phương mới có thông tin.
Sự phát triển kinh tế - xã hội kéo theo nhu cầu về xây dựng tăng nhanh. Tuy
nhiên, thực trạng xảy ra nhiều tai nạn lao động trong lĩnh vực xây dựng vẫn khiến
dư luận lo ngại. Tại nhiều công trình xây dựng cầu, đường, nhà cao tầng…vẫn liên
tục xảy ra những vụ tai nạn nghiêm trọng làm nhiều người chết và bị thương. Việc
để xảy ra nhiều tai nạn là do các chủ công trình và đơn vị thi công chưa thực hiện
nghiêm các qui định về an toàn lao động. Nhiều trường hợp, chủ công trình không
trang bị các phương tiện bảo hộ cho người lao động, không áp dụng biện pháp
phòng tránh tai nạn. Ngoài ra, việc tuyển dụng lao động tùy tiện tại các công trình
xây dựng cũng là nguyên nhân gây ra nhiều vụ tai nạn [106].
Không những vậy, trong các lĩnh vực này tình hình vi phạm những qui định
pháp luật về lao động, bảo hiểm xã hội vẫn đang diễn ra phổ biến. Các doanh
nghiệp trong lĩnh vực khai thác khoáng sản và xây dựng chủ yếu sử dụng lao động
theo hợp đồng thời vụ nên chỉ có bảo hiểm thân thể mà không được tham gia bảo
hiểm xã hội, bảo hiểm y tế. Khi xảy ra tai nạn lao động, chi phí y tế được chi trả
theo sự hảo tâm của chủ sử dụng lao động hoặc phụ thuộc vào sự hiểu biết về pháp
luật của chính họ. Nếu tai nạn gây chết người, việc bồi thường được thực hiện chủ
yếu theo sự thỏa thuận, song không có chế độ trợ cấp cho các đối tượng thân nhân
như con chưa đến tuổi trưởng thành, bố mẹ, vợ hay chồng không còn trong độ tuổi
lao động [35].
Chính vì vậy, việc bảo đảm các quyền lợi chính đáng của người lao động về
tiền lương, bảo hiểm xã hội, điều kiện lao động, an toàn, vệ sinh lao động cho người
lao động trong lĩnh vực khai thác khoáng sản, xây dựng nói riêng và các lĩnh vực
của nền kinh tế nói chung rất cần sự tuân thủ nghiêm chỉnh qui định của pháp luật
cũng như ý thức trách nhiệm của cơ quan nhà nước, người sử dụng lao động và
chính bản thân người lao động.
143
Trong hiện tại và tương lai, giải quyết việc làm phải hướng tới vấn đề chất
lượng, đảm bảo "việc làm bền vững", "việc làm xanh"… Do đó, chỉ tiêu "Tạo việc
làm mới" bộc lộ nhiều hạn chế, khó khăn về phương thức tính toán, không phân biệt
theo ngành nghề, giới tính, khu vực nông thôn/thành thị, không đảm bảo tính so
sánh quốc tế, độ tin cậy thấp và không sát với thực tế.
Lao động sẽ không chỉ bảo đảm sự tồn tại, phát triển và sức khỏe của người
lao động nói riêng, con người nói chung mà còn liên quan đến mối quan hệ và sự
tham gia của một cá nhân trong xã hội. Điều đó quan hệ mật thiết với sự tự quyết, tự
trọng và do đó liên quan đến nhân phẩm. Ngoài việc dẫn đến mất an ninh con
người, các điều kiện lao động nguy hiểm, không lành mạnh hoặc không công bằng,
thất nghiệp hay bị từ chối không được tham gia các công đoàn dễ gây ra bất ổn định
của xã hội. Với những lý do đó, việc thúc đẩy các tiêu chuẩn lao động tốt không có
sự bóc lột là tiền đề có lợi cho sự tăng cường an ninh con người đó là việc làm bền
vững. Rõ ràng xét trên phương diện lập pháp có thể thấy qui định của pháp luật Việt
Nam về việc làm cũng như những điều kiện nơi làm việc của người lao động về cơ
bản phù hợp với các chuẩn mực chung của luật pháp quốc tế. Nhưng, điều quan
trọng và hiệu quả hơn là bảo đảm những qui định của pháp luật được thực hiện trên
thực tiễn. Điều đó, đòi hỏi phải tăng cường trách nhiệm, chế tài và có cơ chế phù
hợp đáp ứng đòi hỏi của thị trường lao động trong nền kinh tế thị trường. Có như
vậy, vấn đề việc làm và quyền của người lao động nơi làm việc mới đáp ứng được
các chuẩn mực theo qui định của pháp luật.
3.2.1.2 Về bảo vệ môi trường
Hiến pháp 1992 (Điều 29) qui định nghĩa vụ bảo vệ môi trường của mọi tổ
chức, cá nhân trong xã hội. Luật Bảo vệ môi trường 2005 là đạo luật có vị trí trung
tâm trong hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về bảo vệ môi trường. Luật xác lập
những nguyên tắc, chính sách của Nhà nước về bảo vệ môi trường, những hoạt
động bảo vệ môi trường được khuyến khích và những hành vi bị nghiêm cấm.
Bên cạnh Luật Bảo vệ môi trường, hệ thống văn bản qui phạm pháp luật về
bảo vệ môi trường còn có các đạo luật bảo vệ các thành tố môi trường cũng như qui
144
định nghĩa vụ bảo vệ môi trường của các tổ chức, cá nhân. Cụ thể là: Luật Bảo vệ
và phát triển rừng năm 2004, Luật Đất đai năm 2003, Luật Thủy sản năm 2003,
Luật Dầu khí năm 1993 (sửa đổi, bổ sung năm 2000), Luật Tài nguyên nước năm
1998, Luật Khoáng sản năm 1996 (sửa đổi, bổ sung năm 2005), Luật Doanh nghiệp
năm 2005, Luật Đầu tư năm 2005, Luật Đấu thầu năm 2005, Luật Nhà ở năm 2005,
Luật Điện lực năm 2005, Luật hợp tác xã năm 2003, Luật Xây dựng năm 2003;
Luật Phòng cháy chữa cháy năm 2001, Luật Giao thông đường bộ năm 2001…
Pháp luật về môi trường và bảo vệ môi trường đánh dấu bước tiến lớn trong
quá trình hoàn thiện pháp luật ở Việt Nam, tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ và gìn
giữ môi trường góp phần phát triển kinh tế xã hội và bảo đảm an ninh con người.
Tuy nhiên, trên thực tế vi phạm pháp luật về môi trường của các doanh nghiệp và
công dân diễn ra tương đối phổ biến trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã
hội và ở hầu khắp các địa phương. Tại Hải Phòng năm 2010 các cơ quan chức năng
phát hiện, điều tra xác minh 363 vụ và xử lý 311 vụ; tại Thành phố Hồ Chí Minh, 6
tháng đầu năm 2010 đã kiểm tra 100 đơn vị và xử lý 100 đơn vị vi phạm; tại Cần
Thơ, năm 2010 tiến hành thanh tra đột xuất 32 doanh nghiệp và xử lý với 6 doanh
nghiệp; tại Đà Nẵng, 6 tháng đầu năm 2010 thanh tra 33 cơ sở đã phát hiện và xử lý
12 cơ sở vi phạm…Các vi phạm về môi trường phổ biến gồm: vi phạm các qui định
về báo cáo đánh giá tác động môi trường (năm 2010 có 24/117 khu công nghiệp vi
phạm); vi phạm các qui định về xử lý chất thải, nước thải chủ yếu diễn ra ở các khu
công nghiệp (năm 2010 cả nước có 223 khu công nghiệp thì phần lớn đều chưa bảo
đảm qui định này) và làng nghề. Tính đến tháng 7/2011 cả nước có 3.355 làng nghề
thì hầu hết ở các làng nghề vấn đề môi trường chưa được đầu tư, quan tâm thích
đáng; vi phạm các qui định về quản lý, xử lý chất thải nguy hại, chất thải y tế (có 60
doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này nhưng công nghệ chưa đáp ứng được
yêu cầu), hiện nay chỉ có 20% số bệnh viện, cơ sở y tế có hệ thống xử lý chất thải
đạt tiêu chuẩn; vi phạm các qui định về bảo vệ môi trường trong hoạt động nhập
khẩu máy móc, thiết bị, phương tiện giao thông vận tải, nguyên liệu, nhiên liệu, phế
liệu (năm 2009 nhập 2 triệu tấn thép phế liệu, năm 2010 nhập gần 4 triệu tấn, năm
2010 nhập 340 container chứa "rác" nhập khẩu dưới dạng phế liệu) [88]. Ngoài ra,
145
các hành vi vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường còn bao gồm: đổ rác thải bừa
bãi tại các khu dân cư, đặc biệt là khu dân cư ở hai bên bờ sông và và ở các khu đô
thị; vận chuyển vật liệu xây dựng, chất phế thải xây dựng trong thành phố; sử dụng
các phương tiện máy móc trong sản xuất, phương tiện giao thông không đảm bảo
tiêu chuẩn về bảo vệ môi trường…Những vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường
diễn ra trên cả nước trong hầu khắp các lĩnh vực của đời sống xuất phát từ nhiều
nguyên nhân khác nhau.
Các qui định của Luật Bảo vệ môi trường và các văn bản qui phạm pháp
luật khác còn những điểm trùng lặp, mâu thuẫn khiến cho quá trình áp dụng pháp
luật gặp rất nhiều khó khăn. Bên cạnh đó, các qui phạm về bảo vệ môi trường trong
các văn bản qui phạm pháp luật còn khá chung chung, thiếu thiết chế thực thi pháp
luật về bảo vệ môi trường, cơ chế bảo đảm thực thi pháp luật quốc gia cũng như
thực hiện các cam kết quốc tế, điều ước quốc tế về môi trường chưa cao. Các chế
tài, biện pháp còn chưa thích hợp và chưa đủ mạnh để trừng trị những chủ thể có
hành vi vi phạm. Mặc dù Nghị định 117/2009/NĐ-CP ngày 31/12/2009 của Chính
phủ về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường đã qui định khá
chi tiết các hành vi vi phạm và mức phạt tăng lên rất nhiều nhưng vẫn quá nhẹ
không đủ sức răn đe. Vì vậy, trên thực tế có nhiều doanh nghiệp thay vì đầu tư trang
thiết bị xử lý chất thải bằng việc chấp nhận các hình thức xử lý vi phạm theo qui
định của pháp luật. Còn thiếu các chế định về các biện pháp bồi thường thiệt hại dân
sự, xác định trách nhiệm dân sự đối với người vi phạm; cơ sở truy cứu trách nhiệm
đối với vi phạm môi trường còn yếu. Các văn bản qui phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường liên quan đến từng thành phần môi trường hay điều chỉnh những hoạt động
của con người lên môi trường được ban hành chưa đồng bộ. Những qui định pháp
luật về bảo vệ môi trường không có biện pháp xử lý thích hợp đối với người vi
phạm nên không được thực hiện, còn thiếu các văn bản qui phạm pháp luật để huy
động sự tham gia, đóng góp của mọi tổ chức, cá nhân tham gia bảo vệ môi trường.
Thêm nữa, ở nhiều địa phương do chính sách ưu tiên phát triển kinh tế nên đã kêu
gọi đầu tư ồ ạt, chưa quan tâm đến việc thẩm định, đánh giá ảnh hưởng của dự án
đối với môi trường.
146
Tất cả những nguyên nhân trên làm cho pháp luật về bảo vệ môi trường ở
Việt Nam thiếu đi tính hiệu quả đe dọa trực tiếp tới sức khỏe, cuộc sống và an ninh
con người. Sự lan tràn của dịch bệnh do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó có ô
nhiễm môi trường. Không những vậy, vi phạm pháp luật về bảo vệ môi trường tác
động tiêu cực tới sự phát triển kinh tế của đất nước cũng như trật tự, an toàn của xã
hội và đòi hỏi phải có các giải pháp hữu hiệu.
3.2.2. Pháp luật về an ninh con người trong lĩnh vực xã hội
Lĩnh vực xã hội là cơ sở để xem xét sự tiến bộ của xã hội nhất là đối với
những quốc gia đang phát triển như Việt Nam khi mà tỷ lệ người nghèo còn cao,
điều kiện chăm sóc y tế còn nhiều hạn chế và những yếu tố ảnh hưởng tới sức khỏe
của người dân chưa được bảo đảm ở mức độ cao. Do đó, để tăng cường an ninh con
người thì nhất thiết các vấn đề xã hội phải không ngừng được cải thiện.
3.2.2.1. Về xóa đói giảm nghèo
Điều 3 Hiến pháp 1992 khẳng định Nhà nước đảm bảo để mọi người có
cuộc sống ấm no, tự do và hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện. Vì vậy, chủ
trương quan trọng của Đảng và Nhà nước Việt Nam là gắn kết việc phát triển kinh
tế với việc thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội, xóa đói, giảm nghèo.
Riêng đối với người nghèo và những nhóm người bị thiệt thòi, Chính phủ
Việt Nam đã ban hành một hệ thống văn bản qui phạm pháp luật nhằm hỗ trợ, giúp
đỡ người nghèo trong hàng loạt các lĩnh vực như: tài chính, tín dụng, trợ giúp pháp
lý, lao động; xóa đói, giảm nghèo; chính sách đối với vùng đặc biệt khó khăn, vùng
sâu vùng xa; chính sách đối với người tàn tật; hỗ trợ việc làm; trợ cấp mất sức lao
động và cứu trợ xã hội.
Ngân hàng phục vụ người nghèo và các chi nhánh ngân hàng này đã được
thành lập theo Quyết định số 525/TTg ngày 31/08/1995 của Thủ tướng Chính phủ,
Quyết định số 230/QĐ-NH5 ngày 01/09/1995 và Quyết định số 353/QĐ-NH3 ngày
12/12/1995 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để giúp người nghèo
vay vốn phát triển sản xuất, giải quyết đời sống, góp phần thực hiện mục tiêu xóa
147
đói, giảm nghèo. Theo các văn bản này thì người nghèo được vay tiền với lãi suất
ưu đãi mà không phải thế chấp tài sản.
Ngày 9/4/1998, Thủ tướng Chính phủ đã ra Quyết định số 80/1998/QĐ-TTg
về việc thành lập Ban Chủ nhiệm chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm
nghèo. Trên cơ sở đó, các cơ quan hữu quan đã tiến hành phối hợp để triển khai
hàng loạt các dự án, chương trình. Cụ thể như: Dự án trồng 5 triệu ha rừng; Chương
trình 773 (khai hoang tạo đất cho người nghèo, xây dựng cơ sở phúc lợi ở các xã
nghèo); Chương trình giáo dục - đào tạo (Xóa mù chữ, phổ cập giáo dục tiểu học,
hỗ trợ giáo dục miền núi, nâng cấp cơ sở vật chất các trường phổ thông); Chương
trình y tế (phòng chống cho người nghèo, nâng cấp trang thiết bị y tế, xóa các xã
trắng về y tế); Chương trình dân số - kế hoạch hóa gia đình (cung cấp các phương
tiện, dịch vụ tránh thai cho người nghèo, xây dựng các trạm y tế xã); Chương trình
nước sạch và vệ sinh môi trường ở nông thôn; Chương trình quốc gia về việc làm
(có các mục tiêu tác động trực tiếp đến xóa đói, giảm nghèo như: giải quyết việc
làm cho những hộ nghèo không có việc làm, đào tạo nghề miễn phí cho con em các
hộ nghèo tại các trung tâm dịch vụ việc làm thuộc khu vực Nhà nước quản lý);
Chương trình bảo vệ và chăm sóc trẻ em (chăm sóc trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt
khó khăn, phòng chống suy dinh dưỡng cho trẻ em); Chương trình phòng chống
HIV/AIDS (hỗ trợ trẻ em nghèo cô đơn do bố mẹ bị chết vì AIDS, các đối tượng
nghèo bị HIV/AIDS); Chương trình phòng chống ma túy (chuyển dịch cơ cấu cây
trồng ở các xã nghèo, xóa bỏ cây thuốc phiện, cai nghiện cho người nghèo); nhiệm
vụ phát triển hệ thống điện nông thôn (xây dựng trạm điện ở các xã nghèo); nhiệm
vụ phát triển giao thông nông thôn (xây dựng đường giao thông nông thôn đến các
xã nghèo); Chính sách cho dân vay tiền làm nhà trên cọc để chống lũ ở đồng bằng
sông Cửu Long; chính sách trợ giá, trợ cước cho miền núi, vùng cao cho đồng bào
dân tộc nói chung, trong đó có người nghèo; Chính sách cứu tế, cứu đói; Quĩ xóa
đói, giảm nghèo của các địa phương; Chương trình mục tiêu quốc gia xây dựng
nông thôn mới.
Trong các nghị quyết của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội
hàng năm và 5 năm đã nêu rõ các mục tiêu phấn đấu và kế hoạch chi ngân sách nhà
148
nước, chỉ tiêu giảm nghèo, tạo việc làm… Các nghị quyết của Quốc hội đã phát huy
hiệu lực, hiệu quả, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói, giảm
nghèo, từng bước nâng cao đời sống của nhân dân.
Nghèo dẫn đến mất an ninh lương thực và xã hội nghiêm trọng, là sự xâm
phạm trực tiếp đến an ninh con người [109, tr. 13]. Nó không chỉ đe dọa sự tồn tại
của nhiều người, mà còn làm tăng thêm nguy cơ bị bạo hành, ngược đãi và không
có tiếng nói về xã hội, chính trị cũng như kinh tế. Chính vì vậy, nghèo vừa là trạng
thái bị tước đoạt và vừa là trạng thái dễ bị tổn thương. Sự bất bình và phân biệt đối
xử ngày càng gia tăng giữa và ngay trong các quốc gia là vi phạm quyền của người
nghèo được sống trong an ninh và có nhân phẩm.
Là một quốc gia có xuất phát điểm là kinh tế nông nghiệp với cơ cấu chủ
yếu là nông dân và nông thôn trong đó hộ nghèo và người nghèo chiếm tỷ lệ cao
cho nên chính sách và pháp luật hướng tới từng bước cho người nghèo có đủ ăn vừa
là giải pháp để tiến tới bảo đảm an ninh lương thực vừa nhằm giải quyết vấn đề xã
hội ở Việt Nam, ổn định kinh tế và phát triển đất nước. Rõ ràng, pháp luật về an
ninh con người trong lĩnh vực kinh tế không những hướng tới ổn định nền kinh tế vĩ
mô mà còn đảm bảo việc làm, thu nhập cho người dân đặc biệt là người nghèo.
3.2.2.2. Về chăm sóc y tế và sức khỏe
Sức khỏe là vốn quí nhất của con người, là một trong những điều kiện cơ
bản để con người sống hạnh phúc, là mục tiêu trong việc phát triển kinh tế - xã hội
của đất nước. Đảng và Nhà nước Việt Nam rất quan tâm đến bảo vệ, tăng cường sức
khỏe của nhân dân, cả sức khỏe thể chất và tinh thần. Năm 1989, Quốc hội Việt
Nam đã ban hành Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân nhằm thể chế hóa công tác bảo
vệ, chăm sóc sức khỏe của nhân dân. Điều 1 Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân khẳng
định công dân có quyền được bảo vệ sức khỏe, nghỉ ngơi, giải trí, rèn luyện thân
thể; được bảo đảm vệ sinh trong lao động, vệ sinh dinh dưỡng, vệ sinh môi trường
sống và được phục vụ về chuyên môn y tế. Điều 23 qui định mọi người khi ốm đau,
bệnh tật, bị tai nạn được khám bệnh, chữa bệnh tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh
ở nơi mình cư trú, lao động, học tập. Trong trường hợp bị cấp cứu, người bệnh được
149
cấp cứu tại bất kỳ cơ sở khám bệnh, chữa bệnh nào. Các cơ sở khám chữa bệnh phải
tiếp nhận và xử trí mọi trường hợp cấp cứu.
Bảo vệ bà mẹ, trẻ sơ sinh là một chính sách lớn của Nhà nước Việt Nam.
Pháp luật Việt Nam có nhiều qui định trực tiếp và gián tiếp liên quan đến vấn đề
này. Theo đó, phụ nữ có quyền được theo dõi sức khỏe trong thời kỳ thai nghén,
được phục vụ y tế khi sinh con tại các cơ sở y tế. Bộ Y tế có trách nhiệm củng cố,
phát triển mạng lưới chuyên khoa phụ sản và sơ sinh đến tận cơ sở để đảm bảo y tế
cho phụ nữ. Đồng thời, các tổ chức, cá nhân sử dụng lao động nữ phải thực hiện các
qui định về bảo vệ sức khỏe cho phụ nữ, bảo đảm chế độ đối với phụ nữ có thai,
sinh con, nuôi con và áp dụng các biện pháp sinh đẻ có kế hoạch; không được sử
dụng lao động nữ vào những công việc nặng nhọc, độc hại. Hơn nữa, ngành y tế có
trách nhiệm phát triển, củng cố mạng lưới chăm sóc bảo vệ sức khỏe trẻ em. Trẻ em
được y tế cơ sở quản lý sức khỏe, được tiêm chủng phòng bệnh, phòng dịch, được
khám bệnh, chữa bệnh.
Cải thiện vệ sinh môi trường, vệ sinh công nghiệp là những biện pháp
phòng ngừa bệnh dịch rất hữu hiệu. Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân và Bộ luật Lao
động đã có những qui định cụ thể về vấn đề này. Phòng ngừa nhằm tránh xảy ra
dịch bệnh và không cho dịch bệnh lan tràn trên diện rộng. Luật Bảo vệ sức khỏe
nhân dân đã qui định hàng loạt biện pháp nhằm ngăn ngừa xảy ra dịch bệnh như: vệ
sinh trong sinh hoạt, vệ sinh lương thực, thực phẩm, đồ uống; vệ sinh nguồn nước;
vệ sinh trong sản xuất, bảo quản, vận chuyển và sử dụng hóa chất; vệ sinh chất thải
công nghiệp và sinh hoạt; vệ sinh chăn nuôi; vệ sinh xây dựng; vệ sinh trong trường
học, nhà trẻ; vệ sinh lao động; vệ sinh nơi công cộng và vệ sinh trong quàn, ướp,
chôn, hỏa táng, di chuyển thi hài, hài cốt.
Kiểm dịch cũng là một biện pháp ngăn ngừa dịch bệnh có hiệu quả, do đó
động vật, thực vật, phương tiện vận chuyển hàng hóa ra, vào biên giới và quá cảnh
Việt Nam đều phải được kiểm dịch. Động vật, thực vật, phương tiện vận chuyển,
hàng hóa và bưu phẩm từ vùng có dịch chuyển ra vùng không có dịch đều phải
được kiểm dịch tại các đầu mối giao thông và bưu điện. Hệ thống y tế cơ sở có trách
nhiệm tổ chức tiêm chủng các loại vắc xin phòng bệnh cho nhân dân.
150
Sức khỏe và được chăm sóc y tế là một trong những yếu tố đảm bảo cho an
ninh con người thông qua khuôn khổ pháp luật nên bên cạnh Luật Bảo vệ sức khỏe
nhân dân năm 1989 còn có các đạo luật như: Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ
em năm 2005, Luật Phòng chống HIV/AIDS 2006, Luật Bảo hiểm Y tế năm 2008,
Luật Phòng chống bệnh truyền nhiễm 2007, Luật Hoạt động chữ thập đỏ 2008, Luật
Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009, Luật An toàn thực phẩm 2010…Trên cơ sở qui
định của pháp luật, công tác bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khỏe nhân dân đặc
biệt là khám bệnh, chữa bệnh đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Hoạt động y
tế dự phòng được đẩy mạnh; một số dịch bệnh mới như viêm phổi cấp (dịch SARS),
dịch cúm A/H5N1 ở người đã được ngăn chặn, khắc phục nhanh; mạng lưới y tế
đặc biệt là y tế cơ sở đã được củng cố và phát triển: đã có 97,9% xã trong cả nước
có trạm y tế, 66,5% số trạm y tế có bác sĩ; nhiều cơ sở khám bệnh, chữa bệnh được
đầu tư nâng cấp; nhiều kỹ thuật y học cao được áp dụng và mở rộng đến tuyến tỉnh
như hỗ trợ sinh sản, ghép thận gan, phẫu thuật tim, hở nong mạch vành, phẫu thuật
nội soi, chẩn đoán hình ảnh…đáp ứng nhu cầu khám bệnh, chữa bệnh ngày càng
cao của nhân dân; chế độ khám bệnh, chữa bệnh cho người nghèo, khám bệnh, chữa
bệnh miễn phí cho trẻ em dưới 6 tuổi đang được triển khai thực hiện; tỷ lệ trẻ em
dưới 5 tuổi bị suy dinh dưỡng giảm từ 33,4% năm 2000 xuống 21,2% năm 2007;
tuổi thọ trung bình của người Việt Nam từ 67,8 tuổi đã nâng lên 72,84 tuổi vào năm
2007 [129]…Những kết quả đạt được trong việc khám chữa bệnh và chăm sóc sức
khỏe nhân dân là nỗ lực của cả xã hội thông qua qui định và thực hiện pháp luật.
Tuy nhiên, để tăng cường hơn nữa việc đảm bảo sức khỏe cho nhân dân, giảm gánh
nặng cho xã hội và tăng cường năng lực y tế thì đòi hỏi có sự đồng bộ của pháp luật
và cơ chế thực hiện pháp luật đặc biệt trong việc xóa đói giảm nghèo, môi trường và
an toàn thực phẩm.
3.2.2.3. Về an toàn thực phẩm
Ngày nay, với sự phát triển của kinh tế xã hội và mức sống của người dân
không ngừng được nâng cao nên an ninh con người cũng thay đổi chính từ những
nhu cầu đời thường trong đó có việc bảo đảm an toàn thực phẩm. Đây là yêu cầu
phổ biến ở các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam.
151
Hệ thống các qui định pháp luật Việt Nam liên quan đến lĩnh vực an toàn
thực phẩm bao gồm Luật An toàn Thực phẩm, các luật, Pháp lệnh và các văn bản
qui định chi tiết và hướng dẫn thực hiện của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, các
Bộ, ngành và Ủy ban nhân dân các cấp. Để hướng dẫn 17 luật, Pháp lệnh liên quan
đến an toàn thực phẩm (Luật Bảo vệ và chăm sóc sức khỏe nhân dân, Luật Thanh
tra, Luật Cạnh tranh, Luật Thương mại, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật
Khiếu nại, tố cáo, Luật Bảo vệ môi trường, Luật Doanh nghiệp, Luật tiêu chuẩn và
qui chuẩn kỹ thuật, Luật chất lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Thủy sản, Pháp lệnh
bảo vệ người tiêu dùng, Pháp lệnh về bảo vệ và kiểm dịch thực vật, Pháp lệnh về
quảng cáo, Pháp lệnh về giống cây trồng, Pháp lệnh giống vật nuôi, Pháp lệnh thú y),
các cơ quan ở Trung ương đã ban hành 280 văn bản trong đó có 69 Nghị định của
Chính phủ và Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và 211 Thông tư và Thông tư
liên tịch của các Bộ, ngành, riêng Bộ Y tế và Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn ban hành 79 Thông tư để hướng dẫn thực hiện các nội dung liên quan đến lĩnh
vực an toàn thực phẩm [14, tr. 69].
Có thể nói, hệ thống qui định pháp luật về an toàn thực phẩm tạo cơ sở pháp
lý cho việc quản lý nhà nước về an toàn thực phẩm, thay đổi nhận thức về trách
nhiệm của người sản xuất, kinh doanh và người tiêu dùng, nâng cao chất lượng sản
phẩm thực phẩm và xử lý các hành vi vi phạm an toàn thực phẩm. Tuy nhiên, đây
vẫn là lĩnh vực điển hình trong đời sống xã hội mà sự vi phạm ở mức báo động, các
vi phạm phổ biến trong lĩnh vực an toàn thực phẩm, bao gồm:
- Không đảm bảo tiêu chuẩn về kinh doanh thức ăn đường phố theo qui
định của Bộ Y tế;
- Sản xuất, kinh doanh thực phẩm khi chưa có giấy chứng nhận đủ điều kiện
vệ sinh an toàn thực phẩm;
- Vi phạm qui định ghi nhãn hàng hóa hoặc quảng cáo dưới mọi hình thức
về thực phẩm có công hiệu thay thế thuốc chữa bệnh;
- Thay đổi, làm lại nhãn hoặc thay đổi ngày sản xuất, hạn sử dụng trên nhãn
thực phẩm đã được xuất xưởng, lưu thông;
152
- Không mặc trang phục chuyên dụng khi trực tiếp sản xuất, chế biến hoặc
kinh doanh thực phẩm hoặc không có giấy chứng nhận đã qua tập huấn về vệ sinh
an toàn thực phẩm;
- Sản xuất, kinh doanh thực phẩm, nguyên liệu, phụ gia thực phẩm ở môi
trường không đảm bảo vệ sinh;
- Không thực hiện việc khám sức khỏe cho người lao động trước khi tuyển
dụng hoặc có nhưng không có hồ sơ khám sức khỏe; không lập hồ sơ khám sức
khỏe định kỳ;
- Không công bố tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với
thực phẩm trước khi lưu hành hoặc sản phẩm thực phẩm được lưu hành trên thị
trường nhưng không đảm bảo tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm như đã công bố;
không thực hiện việc công bố tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối
với các thực phẩm phải công bố tiêu chuẩn chất lượng vệ sinh an toàn theo qui định
của pháp luật hoặc đã công bố nhưng bản công bố đã hết hạn;
- Sản xuất, kinh doanh thực phẩm có ký sinh trùng gây bệnh, vi sinh vật gây
bệnh không được phép có trong thực phẩm hoặc vượt quá giới hạn cho phép;
- Sản xuất, kinh doanh thực phẩm có chất phụ gia thực phẩm, các vi chất
dinh dưỡng, các chất hỗ trợ chế biến không được phép sử dụng hoặc sử dụng không
đúng liều lượng, giới hạn qui định hoặc không rõ nguồn gốc xuất xứ;
- Sản xuất, kinh doanh thực phẩm không bảo đảm tiêu chuẩn vệ sinh; nơi
bày bán thực phẩm chế biến sẵn để ăn ngay mà không có tủ kính che đậy, bao gói
hợp vệ sinh;
- Không tổ chức lưu mẫu thực phẩm theo qui định hoặc có lưu mẫu nhưng
không đúng theo qui định;
- Sử dụng thiết bị, dụng cụ chứa đựng, bao gói, phương tiện vận chuyển,
bảo quản có bề mặt tiếp xúc trực tiếp với thực phẩm được làm bằng vật liệu không
bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm;
153
- Sản xuất, kinh doanh thực phẩm đã bị biến chất, nhiễm bẩn có tạp chất lạ
hoặc nhiễm các chất độc hại có nguy cơ gây ảnh hưởng đến sức khỏe con người;
- Không thực hiện chế độ giám sát việc chấp hành các qui định về vệ sinh
an toàn thực phẩm đối với các bếp ăn tập thể được tổ chức nấu tại cơ sở;
- Nguyên liệu, nước dùng để sản xuất, chế biến thực phẩm không bảo đảm
các tiêu chuẩn vệ sinh an toàn thực phẩm theo qui định của Bộ Y tế;
- Sản xuất, kinh doanh thực phẩm từ nguồn gốc động vật chưa qua kiểm
dịch động vật hoặc kiểm tra không đạt yêu cầu.
An toàn thực phẩm là một lĩnh vực phức tạp nhưng là khía cạnh rất quan
trọng của an ninh con người vì trực tiếp tác động tới sức khỏe của người dân và ảnh
hưởng tới sự phát triển kinh tế - xã hội. Sự tuân thủ pháp luật chưa cao trong lĩnh
vực an toàn thực phẩm do nhiều nguyên nhân khác nhau:
Trước hết, công tác phổ biến pháp luật về an toàn thực phẩm được thực
hiện trên phạm vi rộng và có chất lượng nâng cao nhận thức của người tiêu dùng
trong việc lựa chọn thực phẩm an toàn và ý thức trách nhiệm của người sản xuất -
kinh doanh thực phẩm trong việc đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm như Thành
phố Hồ Chí Minh năm 2010 đã giảm 30% vụ ngộ độc thực phẩm so với năm 2009.
Tuy nhiên, việc tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về an toàn thực phẩm
chưa được thực hiện thường xuyên mà mới chỉ tập trung vào các tháng cao điểm,
các dịp lễ, tết. Nội dung tuyên truyền chưa sâu rộng nên chưa tác động mạnh tới nhận
thức của người dân cũng như người sản xuất, kinh doanh thực phẩm. Hiện nay mới
có 25/63 tỉnh, thành phố có báo cáo tuyên truyền về Luật An toàn thực phẩm [41].
Ngoài ra, qui định pháp luật về an toàn thực phẩm chưa bảo đảm tính hợp lý
và khả thi, các qui định còn chồng chéo, mâu thuẫn hoặc thiếu. Ví dụ, theo Luật An
toàn thực phẩm thì kinh doanh thực phẩm là loại hình kinh doanh có điều kiện
nhưng theo Nghị định 59/2006/NĐ-CP hướng dẫn thi hành Luật Thương mại về
dịch vụ kinh doanh thì không qui định loại hình kinh doanh thực phẩm thuộc nhóm
các đối tượng kinh doanh có điều kiện; hoặc hiện nay chưa có qui định về ban hành
154
qui trình ghi nhãn thực phẩm chức năng nên qui cách ghi nhãn thực phẩm chức
năng chưa bảo đảm tính rõ ràng, dễ gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng. Theo Quyết
định số 3199/2000/QĐ-BYT ngày 11/09/2000 của Bộ trưởng Bộ Y tế qui định 10
tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thức ăn đường phố thì 4 tiêu chuẩn không thể hoặc không
đạt, gồm: bảo đảm đủ nước sạch, nơi bán cách xa nguồn ô nhiễm, nhân viên phải
được tập huấn, nhân viên phải có trang phục riêng mũ, khẩu trang khi bán hàng…
những qui định đó của pháp luật về an toàn thực phẩm đã gây khó khăn cho hoạt
động quản lý nhà nước và triển khai thực hiện trên thực tế.
Bên cạnh đó, công tác phối hợp giữa các cơ quan chức năng còn kém hiệu
quả, sự phân công trách nhiệm quản lý nhà nước về vệ sinh an toàn thực phẩm còn
chưa rõ ràng. Nghị định 79/2008/NĐ-CP qui định hệ thống tổ chức quản lý, thanh
tra và kiểm nghiệm vệ sinh an toàn thực phẩm, trong đó có qui định về chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn của Thanh tra Chi cục, Chánh thanh tra Chi cục và thanh tra
viên Chi cục. Tuy nhiên, Luật Thanh tra, Pháp lệnh xử lý vi phạm hành chính lại
không có qui định chức năng, quyền hạn và thẩm quyền của các chức danh này nên
thực tế triển khai có nhiều vướng mắc.
Mặt khác, hệ thống tổ chức đảm bảo việc thanh tra, giám sát an toàn thực
phẩm còn thiếu và yếu. Hệ thống Chi cục an toàn vệ sinh thực phẩm trực thuộc Sở
Y tế được thành lập ở các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương theo qui định của
Thông tư liên tịch 12/2008/TTLT/BYT-BNV ngày 13/12/2008 nhưng thực tế hiện
nay mới 60 chi cục/ 63 tỉnh, thành phố được thành lập. Hơn nữa, đội ngũ cán bộ,
công chức của cơ quan này vẫn còn mỏng so với yêu cầu, nhiều cán bộ chưa được
đào tạo chuyên khoa về vệ sinh an toàn thực phẩm nên chưa đáp ứng được yêu cầu
của công việc.
Hơn nữa, việc thanh tra, kiểm tra, điều tra xác định nguyên nhân gây ô
nhiễm thực phẩm còn chưa thường xuyên. Quản lý nhà nước về chất lượng vệ sinh
an toàn thực phẩm vẫn nặng về xử lý vụ việc, chưa chủ động quản lý được nguy cơ
ô nhiễm theo chuỗi cung cấp thực phẩm; việc xử phạt chưa kiên quyết nên chưa đủ
sức răn đe, phòng ngừa. Theo Nghị định 45/2005/NĐ-CP về xử phạt hành chính
155
trong lĩnh vực y tế áp dụng mức xử phạt đồng đều cho tất cả các cơ sở. Qui định
như vậy là quá nhẹ đối với các cơ sở sản xuất lớn và thiếu tính khả thi đối với các
cơ sở sản xuất, kinh doanh nhỏ lẻ. Thậm chí đối với những vi phạm của các cơ sở
sản xuất, kinh doanh ở cấp xã, phường chỉ có nhắc nhở mà không xử phạt [41].
Cuối cùng, an toàn thực phẩm là lĩnh vực đặc thù liên quan đến sức khỏe
của mọi người dân đòi hỏi để thực thi có hiệu quả cần được trang bị máy móc, thiết
bị đạt tiêu chuẩn nhưng tại nhiều địa phương trang thiết bị và cơ sở vật chất đảm
bảo thực hiện công tác này còn thiếu như: thiết bị kiểm tra nhanh, kho bảo quản
thực phẩm phục vụ công tác thanh kiểm tra…trong khi đó kinh phí cho công tác này
đòi hỏi ngày càng cao như Hà Nội năm 2010 là 16.363.000.000 đồng mà không
nhận được sự hỗ trợ của các doanh nghiệp, tổ chức phi chính phủ [14, tr. 89]. Vì
vậy, hiệu quả thực hiện pháp luật trong lĩnh vực này trên thực tế chưa cao.
Tóm lại, an toàn thực phẩm là một khía cạnh đảm bảo an ninh con người vì
vậy đòi hỏi việc quản lý, giám sát nghiêm ngặt tiêu chuẩn an toàn thực phẩm là rất
cần thiết. Đó chính là việc kiện toàn cơ chế đảm bảo an ninh con người vì sự phát
triển bền vững của con người. Tuy nhiên, điều này không chỉ đòi hỏi một chiều từ
Nhà nước mà còn cần sự tự giác tuân thủ pháp luật từ nhà sản xuất. Họ cần nhận
thức rằng vi phạm an toàn thực phẩm không chỉ là vi phạm pháp luật mà còn là sự
vi phạm đạo đức con người, vi phạm quyền con người, vi phạm quyền được sống
trong "an ninh" thực phẩm và môi trường của người tiêu dùng trong đó có bản thân
họ [8, tr. 6]. Điều này cần có pháp luật nhưng sẽ là chưa đủ nếu thiếu đi các chế tài
mạnh mẽ và đặc biệt là dư luận xã hội. Sự nhất trí, quyết tâm của toàn xã hội chung
tay ngăn chặn một hiện tượng gây ảnh hưởng nghiêm trọng đến sức khỏe của giống
nòi cũng như sức cạnh tranh của Việt Nam trên trường quốc tế.
3.2.3. Pháp luật về an ninh con người trong lĩnh vực dân sự, chính trị
Pháp luật về bảo đảm an toàn cá nhân, trật tự cộng đồng và ổn định chính
trị liên quan đến các quyền cơ bản của con người trong lĩnh vực chính trị, dân sự
được qui định trong Hiến pháp đã không ngừng được cụ thể hóa trong hệ thống văn
bản qui phạm pháp luật của Việt Nam. Quốc hội đã thể chế hóa nội dung về quyền
156
con người, xác lập các cơ chế bảo đảm thực hiện quyền con người, ban hành nhiều
văn bản luật, pháp lệnh, nghị quyết, tạo cơ sở pháp lý để thực thi các quyền con
người. Từ khi Hiến pháp 1992 có hiệu lực đến hết năm 2008, Quốc hội và Ủy ban
Thường vụ Quốc hội đã ban hành 547 văn bản luật, pháp lệnh và nghị quyết qui
phạm pháp luật [89, tr. 218]. Các văn bản này đã qui định một cách khá đầy đủ và
toàn diện về quyền con người đặc biệt là trong lĩnh vực chính trị, dân sự cũng như
cơ chế bảo đảm thực hiện các quyền đó.
Các quyền và nghĩa thể hiện tập trung ở việc công dân được tham gia thực
hiện quyền lực nhà nước, bao gồm: quyền bầu cử và ứng cử vào Quốc hội và Hội
đồng nhân dân các cấp; quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Điều 54 Hiến
pháp năm 1992 qui định: "Công dân, không phân biệt dân tộc, nam nữ, thành phần
xã hội, tín ngưỡng, tôn giáo, trình độ văn hóa, nghề nghiệp, thời hạn cư trú, đủ mười
tám tuổi trở lên đều có quyền bầu cử và đủ hai mươi mốt tuổi trở lên đều có quyền
ứng cử vào Quốc hội, Hội đồng nhân dân theo qui định của pháp luật" [68].
Cụ thể hóa nội dung này của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Luật Bầu
cử đại biểu Quốc hội năm 1997, được sửa đổi, bổ sung một số điều vào năm 2002;
Luật Bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân năm 1994, được sửa đổi năm 2003. Thực
tế, các cuộc bầu cử đại biểu Quốc hội, bầu cử đại biểu Hội đồng nhân dân đã diễn
ra một cách dân chủ theo đúng qui định của pháp luật. Trong nhiều văn bản luật,
pháp lệnh, nghị quyết của Quốc hội và Ủy ban Thường vụ Quốc hội qui định cụ
thể các quyền của công dân tham gia trực tiếp và gián tiếp vào công việc quản lý
nhà nước, như quyền được biết, được bàn, được làm và được kiểm tra, giám sát.
Riêng quyền thực hiện dân chủ trực tiếp ở cơ sở, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã
ban hành các nghị quyết về qui chế dân chủ ở xã, phường, thị trấn (năm 1998);
Qui chế dân chủ trong hoạt động của doanh nghiệp nhà nước (năm 1998); Qui chế
dân chủ trong hoạt động của các cơ quan (năm 1998); Pháp lệnh về việc thực hiện
dân chủ ở xã, phường (năm 2007). Đây là một nét khá đặc sắc của Việt Nam trong
việc phát huy và thực hiện quyền dân chủ trực tiếp ở cơ sở, được cộng đồng quốc
tế ghi nhận.
157
Quốc hội đã qui định khá cụ thể trong nhiều văn bản pháp luật về quyền tự
do đi lại, tự do cư trú tại Bộ luật Dân sự; Pháp lệnh xuất nhập cảnh, cư trú của
người nước ngoài ở Việt Nam; Luật cư trú. Quyền tự do ngôn luận cụ thể hóa trong
Luật Báo chí năm 1990 (sửa đổi năm 1999), Luật Xuất bản năm 2004 (sửa đổi năm
2008). Quyền tự do tín ngưỡng thể hiện qua Pháp lệnh Tín ngưỡng, tôn giáo, Luật
Đất đai, Bộ luật Hình sự. Quyền được bảo đảm bí mật về thư tín, điện thoại, điện tín
ghi nhận trong Bộ luật Hình sự, Luật Bưu chính viễn thông.
Trong nhóm các quyền này, quyền bất khả xâm phạm về thân thể là quyền
tự do cá nhân đặc biệt quan trọng, được qui định tại Điều 71 Hiến pháp năm 1992:
Công dân có quyền bất khả xâm phạm về thân thể, được pháp luật bảo hộ về tính
mạng, sức khỏe, danh dự và nhân phẩm. Không ai bị bắt, nếu không có quyết định
của Tòa án nhân dân, quyết định hoặc phê chuẩn của Viện Kiểm sát nhân dân, trừ
những trường hợp phạm tội quả tang. Việc bắt hoặc giam giữ người phải đúng pháp
luật. Nghiêm cấm mọi hình thức truy bức, nhục hình, xúc phạm danh dự, nhân
phẩm của công dân.
Để đảm bảo thực thi những qui định đó, Quốc hội đã ban hành nhiều văn
bản pháp luật, gồm: Bộ luật Hình sự (1999), Bộ luật Tố tụng hình sự (2003), Luật
Thi hành án, Luật Đặc xá (2007). Trong các văn bản pháp luật này, ngoài việc qui
định cụ thể về quyền bất khả xâm phạm của công dân, còn có những qui định thể
hiện tính chất nhân đạo của Đảng và Nhà nước ta đối với người phạm tội, như về
việc đặc xá, về việc đảm bảo quyền bào chữa, quyền khiếu nại, tố cáo của bị can, bị
cáo; về chế độ thăm nuôi, nhận quà và đặc biệt là chế độ ăn, mặc, ở, học tập, khám
chữa bệnh cho phạm nhân.
Nghị quyết số 388/NQ-UBTVQH 11 ngày 17/03/2003 của Ủy ban Thường
vụ Quốc hội về bồi thường thiệt hại cho người bị oan do người có thẩm quyền trong
hoạt động tố tụng hình sự gây ra đã qui định, công dân bị thiệt hại do bị oan có
quyền được bồi thường về vật chất và phục hồi danh dự. Tuy trong quá trình thực
hiện còn một số vướng mắc cần phải sửa đổi, nhưng Nghị quyết này đã thể hiện
quan điểm nhất quán của Đảng và Nhà nước ta trong việc bảo vệ quyền và lợi ích
158
hợp pháp của công dân, bảo đảm tính đúng đắn trong hoạt động của cơ quan tiến
hành tố tụng. Đồng thời, Quốc hội đã ban hành Luật Lý lịch tư pháp, Luật Bồi
thường Nhà nước là các luật liên quan đến quyền tự do dân chủ, tự do cá nhân của
công dân.
Quyền khiếu nại, tố cáo cũng là một trong những quyền quan trọng của
công dân, được pháp luật bảo vệ. Điều 74 của Hiến pháp 1992 qui định: Công dân
có quyền khiếu nại, quyền tố cáo với cơ quan nhà nước có thẩm quyền về những
việc làm trái pháp luật của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị
vũ trang nhân dân hoặc bất cứ cá nhân nào. Việc khiếu nại, tố cáo phải được cơ
quan nhà nước xem xét và giải quyết trong thời hạn pháp luật qui định. Mọi hành vi
xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công
dân phải được kịp thời xử lý nghiêm minh. Người bị thiệt hại có quyền được bồi
thường về vật chất và phục hồi danh dự. Nghiêm cấm việc trả thù người khiếu nại,
tố cáo hoặc lợi dụng quyền khiếu nại, tố cáo để vu khống làm hại người khác.
Để cụ thể hóa các nội dung trên của Hiến pháp, Quốc hội đã ban hành Luật
Khiếu nại, tố cáo năm 1998 (sửa đổi bổ sung năm 2004, 2005); đồng thời qui định
trong nhiều văn bản pháp luật khác: Luật Đất đai, Bộ luật Tố tụng hình sự, Luật
Dân sự, Luật Thuế tiêu thụ đặc biệt… Điểm đáng chú ý là Luật Khiếu nại, tố cáo
qui định, công dân, tổ chức khi thực hiện quyền khiếu nại, có quyền lựa chọn việc
khiếu nại đến các cơ quan hành chính nhà nước có thẩm quyền hoặc khởi kiện ra
Tòa án bằng con đường tố tụng tư pháp; trong quá trình khiếu nại, tố cáo, công dân
có quyền nhờ luật sư để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Về quyền tự do tín ngưỡng, Điều 70 Hiến pháp 1992 qui định: Công dân có
quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào. Các tôn
giáo đều bình đẳng trước pháp luật. Những nơi thờ tự của các tín ngưỡng, tôn giáo
được pháp luật bảo hộ. Không ai được xâm phạm tự do tín ngưỡng, tôn giáo hoặc
lợi dụng tín ngưỡng, tôn giáo để làm trái pháp luật và chính sách của Nhà nước.
Qui định trên của Hiến pháp được cụ thể hóa trong Pháp lệnh tín ngưỡng,
tôn giáo.
159
An ninh con người trong lĩnh vực chính trị được ghi nhận và bảo đảm trong
hệ thống pháp luật Việt Nam. Đây là kết quả đáng tự hào theo sự đánh giá của đông
đảo dư luận quốc tế. Thế nhưng, một số thế lực thù địch, với mục tiêu và ý đồ chính trị
riêng đã và đang tìm mọi cách xuyên tạc và vu cáo Việt Nam về các vấn đề liên quan
đến an ninh con người trong lĩnh vực chính trị như dân chủ, tôn giáo, dân tộc. Họ
thường vu cáo Việt Nam vi phạm các quyền dân sự, chính trị và các quyền tự do cá
nhân, trong đó có việc hạn chế và đàn áp quyền tự do ngôn luận, tự do chính kiến; chỉ
trích Việt Nam bắt giam và xét xử không theo các chuẩn mực quốc tế những người
mà họ gọi là "đấu tranh cho dân chủ và nhân quyền"; xuyên tạc chính sách đoàn kết
và bình đẳng giữa các tôn giáo, dân tộc của Nhà nước Việt Nam; ra sức chỉ trích vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đòi xóa bỏ Điều 4 Hiến pháp năm 1992
qui định về vị trí và vai trò của Đảng Cộng sản Việt Nam trong hệ thống chính trị.
Các tổ chức cực đoan, hoạt động khủng bố như kiểu Nguyễn Hữu Chánh
"Quỹ người Thượng" do Ksor Kok cầm đầu dưới sự bảo trợ của cái gọi là Tổ chức
Đảng Cấp tiến Xuyên Quốc gia. Tổ chức "Quỹ người Thượng" thực chất tập hợp
một số tàn quân của FULRO (Front unifíe pour la Liberation des Races Oppemrees
hay United Front for the Liberation of Oppressed Races) chạy sang Mỹ, sau khi các
hoạt động thổ phỉ của chúng bị đập tan vào đầu những năm 1990. Ksor Kok tự nhận
là "Tổng thống" của cái gọi là "Nhà nước Đê Ga độc lập" ra sức hoạt động ly khai
và vì mục đích đó vu cáo Việt Nam "đàn áp, bắt giam và cưỡng bức người dân tộc ít
bỏ đạo" Tin Lành ở Tây Nguyên, tìm mọi cách chia rẽ, phá hoại đoàn kết dân tộc,
kích động bạo loạn như các vụ biểu tình, bạo loạn ở Tây Nguyên năm 2001 và
2004. Tổ chức "Bảo vệ quyền làm người Việt Nam" do Võ Văn Ái làm Chủ tịch,
tập hợp một số phần tử cay cú trước thất bại của chúng tại Miền Nam Việt Nam đã
ra sức chống phá, bôi nhọ hình ảnh của chính nước mình. Lợi dụng danh nghĩa là
Phó Chủ tịch Liên đoàn Nhân quyền (FIDH), một tổ chức phi chính phủ quốc tế có
qui chế tư vấn của ECOSOC Liên hợp quốc, Võ Văn Ái liên tục chống Việt Nam tại
các khóa họp của Ủy ban Nhân quyền (nay là HRC) của Liên hợp quốc. Các tổ chức
trên núp dưới chiêu bài "dân chủ, nhân quyền" được sự ủng hộ của một số lực lượng
nước ngoài. Họ tìm mọi cách che chở cho một nhóm người núp dưới khẩu hiệu
160
"tranh đấu cho tự do, nhân quyền" để phục vụ cho tham vọng cá nhân và lợi ích của
nước ngoài, trong khi không quan tâm gì tới tiếng nói của số đông. Trong nhiều
trường hợp họ đã lẫn lộn những kẻ vi phạm pháp luật, biến chúng thành các "chiến
sĩ bảo vệ tự do". Những luận điệu, mô hình của những người mệnh danh là "chiến sĩ
đấu tranh cho tự do, dân chủ" muốn áp đặt ở Việt Nam chẳng qua cũng chỉ là những
bản sao mô hình xa lạ của những nước có hoàn cảnh lịch sử, văn hóa, kinh tế hoàn
toàn khác. Nếu họ thực sự yêu nước thì đã chẳng núp bóng ngoại bang để gây mất
ổn định chính trị cho đất nước. Tương tự như vậy, họ chỉ chăm lo tới quyền "tự do
tôn giáo" của vài người đội lốt tôn giáo đi làm chính trị phục vụ cho bên ngoài chứ
đâu có chăm lo tới đời sống của giáo dân, tín đồ.
Cũng như vậy, lợi dụng đời sống khó khăn về vật chất, tinh thần và sự kém
hiểu biết của đồng bào dân tộc ít người ở các vùng khó khăn mà các thế lực phản
động tìm mọi cách lôi kéo, tập hợp người H’mông ở Tây Bắc để gây ra sự kiện
"Mường Nhé" năm 2010 như là minh chứng với thế giới về người dân tộc thiểu số ở
Việt Nam. Âm mưu đó cũng bị lật tẩy khi đồng bào đã hiểu được sự thật.
Việt Nam là quốc gia thống nhất, có chủ quyền, một chủ thể bình đẳng
trong cộng đồng quốc tế, muốn là bạn và đối tác tin cậy của tất cả các nước. Cơ sở
cho mối quan hệ ổn định giữa các quốc gia chỉ có thể là nguyên tắc tôn trọng độc
lập, chủ quyền của nhau, không can thiệp công việc nội bộ của nhau, hợp tác bình
đẳng cùng có lợi, thông qua đối thoại để giải quyết mọi bất đồng, khác biệt.
Sự ghi nhận của pháp luật Việt Nam và những thành tựu trên thực tế về bảo
đảm an ninh con người trong lĩnh vực chính trị là kết quả của sự kết hợp nhuần
nhuyễn giữa bản chất ưu việt, tiến bộ của chế độ xã hội chủ nghĩa với truyền thống
nhân đạo, nhân văn của dân tộc Việt Nam, giữa chính sách nhất quán của Đảng và
Nhà nước Việt Nam với việc thực hiện nghiêm túc các chuẩn mực và nghĩa vụ theo
luật pháp quốc tế.
Tóm lại, tuy còn những qui định chưa đủ cụ thể, chưa thật đồng bộ, tính khả
thi chưa cao, nhưng rõ ràng hệ thống pháp luật của Việt Nam đã qui định khá đầy
đủ và toàn diện về an ninh con người và cơ chế bảo đảm an ninh con người. Trong
161
đó có nhiều qui định tương thích với các chuẩn mực và điều ước quốc tế mà Việt
Nam là thành viên, thậm chí có một số qui định còn ưu việt hơn. Hầu hết các đạo
luật khi qui định các chính sách của Nhà nước đều bảo đảm quyền và lợi ích hợp
pháp, chính đáng của người dân, bảo đảm sự hài hòa giữa lợi ích của cá nhân với lợi
ích tập thể, lợi ích của Nhà nước và toàn xã hội. Nếu như trong lĩnh vực dân sự
chính trị liên quan đến khía cạnh tinh thần của an ninh con người, giữa qui định của
pháp luật và thực hiện triển khai thực hiện những qui định là tương đối tốt, bảo đảm
được quyền và lợi ích hợp pháp của cá nhân, công dân. Nhưng, trong lĩnh vực kinh
tế xã hội liên quan đến khía cạnh vật chất của an ninh con người, giữa qui định của
pháp luật với việc bảo đảm trên thực tiễn còn có khoảng cách. Sở dĩ như vậy là do
nhiều nguyên nhân khác nhau, như: ý thức pháp luật của các chủ thể còn có những
hạn chế; chưa ban hành kịp thời các văn bản qui phạm pháp luật có giá trị pháp lý
cao để điều chỉnh các quan hệ xã hội mới xuất hiện hoặc đã thay đổi; qui định giữa
các luật, giữa luật với các văn bản hướng dẫn thi hành luật còn mâu thuẫn, chồng
chéo; các cơ quan tổ chức thực hiện pháp luật chưa đủ mạnh về vật chất và thẩm
quyền; các chế tài của pháp luật còn yếu chưa đủ sức răn đe... đã làm giảm đi tính
hiệu quả của pháp luật Việt Nam và hạn chế đi việc bảo đảm an ninh con người.
Điều đó cho thấy, không phải cứ có pháp luật là giải quyết được mọi vấn đề
nhưng pháp luật là điều kiện mang tính quyền lực nhà nước, là cơ sở pháp lý quan
trọng [89, tr. 225] để bảo đảm an ninh con người ở Việt Nam.
3.3. CÁC GIẢI PHÁP GÓP PHẦN TĂNG CƯỜNG BẢO ĐẢM AN NINH
CON NGƯỜI Ở VIỆT NAM
3.3.1. Đưa an ninh con người vào chính sách quốc gia
Xuất hiện khái niệm an ninh con người đã tạo ra sự thay đổi quan trọng
trong nhận thức của nhiều quốc gia. Trong đó quan trọng nhất chính là nhận thức về
hai khía cạnh: an ninh cho ai và an ninh trước các mối đe dọa nào?
Theo cách hiểu truyền thống, an ninh đồng nghĩa với an ninh quốc gia,
trong đó quốc gia là chủ thể cần được bảo vệ về mặt an ninh, thì theo cách hiểu mới,
162
con người nổi lên trở thành chủ thể chính của an ninh và cần được ưu tiên bảo vệ.
Bên cạnh đó, nếu an ninh truyền thống đề cao mối đe dọa đến từ ngoại xâm đối với
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của quốc gia thì an ninh con người tập trung vào các
mối đe dọa thuộc "chính trị cấp thấp" như nghèo đói, kém phát triển, ô nhiễm môi
trường, dịch bệnh [36]… Mặc dù, an ninh quốc gia và an ninh con người có cách
tiếp cận khác nhau, nhưng chúng không hoàn toàn đối nghịch, mà ngược lại có mối
liên hệ nhất định, không có an ninh con người thì an ninh quốc gia sẽ không được
bảo đảm và ngược lại [119]. Theo đó, nếu người dân của một nước phải chịu đựng
các vấn đề như nghèo đói, kém phát triển, ô nhiễm môi trường, dịch bệnh…thì sức
mạnh của quốc gia sẽ suy giảm, làm ảnh hưởng tới khả năng tự vệ của quốc gia đó
trước các nguy cơ xâm lược. Ngược lại, nếu một quốc gia bị xâm lược thì quốc gia
cũng không thể có điều kiện đảm bảo an ninh của từng cá nhân người dân trong các
vấn đề liên quan đến cuộc sống thường nhật của họ. Chính vì vậy, có thể nói nâng
cao an ninh con người chính là góp phần đảm bảo an ninh quốc gia và ngược lại.
Mặc dù còn một số tranh cãi đối với việc đưa an ninh con người vào chương trình
nghị sự về an ninh của từng quốc gia cũng như cộng đồng quốc tế, nhưng trên thực
tế khái niệm "an ninh con người" đã được nhiều quốc gia tiếp nhận và áp dụng vào
chính sách đối nội cũng như đối ngoại. Ví dụ Nhật Bản, bên cạnh các chương trình
nhằm nâng cao an ninh con người của người dân trong nước như các chính sách về
phúc lợi xã hội, chăm sóc sức khỏe, bảo vệ môi trường…, Nhật Bản cũng đã đưa an
ninh con người trở thành một trọng tâm trong chính sách đối ngoại của mình [121].
Điều này giải thích tại sao nhiều dự án Viện trợ Phát triển chính thức của Nhật Bản
ở nước ta cũng như nhiều nước khác tập trung vào các lĩnh vực như xóa đói giảm
nghèo, bảo vệ môi trường, hay chăm sóc y tế, phòng chống dịch bệnh… Ở Việt
Nam, các thành tố của an ninh con người đã được đề cập trong đường lối, chính
sách và pháp luật với việc hướng tới bảo vệ người dân trước các mối đe dọa về an
ninh con người nhưng chúng ta vẫn chưa chính thức có chính sách "an ninh con
người" do việc áp dụng khái niệm "an ninh con người" vào khuôn khổ hoạch định
chính sách quốc gia vẫn chưa diễn ra ở nước ta.
163
Có thể thấy việc áp dụng cách tiếp cận an ninh con người trong hoạch định
chính sách quốc gia sẽ mang lại cho Việt Nam nhiều lợi ích.
Về thực tiễn, việc đưa an ninh con người vào khuôn khổ chính sách quốc
gia sẽ giúp Chính phủ, các cơ quan chức năng, các nhà hoạch định chính sách tiếp
cận và có nhận thức cao hơn đối với vấn đề an ninh con người, qua đó có những
biện pháp và chính sách phù hợp nhằm nâng cao việc bảo đảm an ninh con người,
góp phần gián tiếp củng cố và bảo vệ an ninh quốc gia.
Về biểu tượng, việc lấy an ninh của mỗi người dân làm trọng tâm trong
khuôn khổ chính sách quốc gia sẽ làm nổi bật khía cạnh "vì dân" trong phương
châm "Nhà nước của dân, do dân, vì dân" của chúng ta. Hơn nữa, việc đưa an ninh
con người vào khuôn khổ chính sách quốc gia sẽ gửi tới cộng đồng quốc tế một thông
điệp tích cực về Việt Nam, không những góp phần nâng cao hình ảnh của Việt Nam
trên trường quốc tế mà còn giúp chúng ta dễ dàng hơn trong việc kêu gọi Viện trợ
Phát triển chính thức, đặc biệt là các dự án liên quan đến an ninh con người.
Như vậy, có thể thấy rằng đã đến lúc cần chính thức đưa khái niệm an ninh
con người vào khuôn khổ chính sách quốc gia được thể hiện trong văn kiện của
Đảng, xây dựng chiến lược quốc gia về bảo vệ và nâng cao an ninh con người, thiết
lập các thiết chế, xây dựng và ban hành các đạo luật về các lĩnh vực của an ninh con
người đặc biệt là tăng cường hiệu quả thi hành pháp luật.
3.3.2. Xây dựng Chiến lược quốc gia về an ninh con người
Xuất phát từ quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam khẳng định nhất
quán khi coi con người là trung tâm của các chính sách kinh tế - xã hội, là chủ thể
của quá trình phát triển. Do đó, đường lối, chính sách và pháp luật luôn hướng tới
mục tiêu là vì con người trên nền tảng an ninh con người được bảo đảm. Công cuộc
đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và lãnh đạo đã giúp cho nền kinh
tế nước ta tăng trưởng khá và tương đối ổn định, đã đạt được những thành tựu to lớn
và rất quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đạt được mức khá cao so với những
năm trước đây, tăng trưởng GDP bình quân hàng năm trên 7% trong giai đoạn
2001-2010. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
164
GDP bình quân đầu người năm 2010 khoảng xấp xỉ 1300 đô la Mỹ, tăng gấp 3 lần
so với năm 2000. Với mức này, Việt Nam chuyển vị trí từ nhóm nước nghèo nhất
sang nhóm có mức thu nhập trung bình thấp. Cùng với tốc độ tăng trưởng kinh tế
nhanh và ổn định, Việt Nam đã có sự chuyển biến đáng kể về cơ cấu kinh tế. Tỷ
trọng GDP của khu vực nông, lâm nghiệp và thủy sản giảm từ 23,2% năm 2000
xuống còn 17% vào năm 2009; Tỷ trọng của khu vực công nghiệp và xây dựng tăng
từ 35,4% lên 41,6% trong khi đó tỷ trọng GDP của khu vực dịch vụ duy trì ở mức
gần 41,3%. Thay đổi cơ cấu kinh tế mang lại thay đổi quan trọng trong cơ cấu lao
động đồng thời cũng tác động tích cực đến các lĩnh vực của an ninh con người, tỷ lệ
dân số tiếp cận với giáo dục, y tế, nước sạch và các phúc lợi xã hội khác cũng
không ngừng được nâng cao và chất lượng ngày càng tốt hơn. Tuy nhiên, kinh tế
càng phát triển thì việc phân hóa giàu nghèo cũng có xu hướng gia tăng, điều này
tạo nên sự bất bình đẳng về cơ hội giữa các thành phần dân cư cũng như làm bất ổn
xã hội. Các yếu tố bảo đảm cho an ninh con người ở Việt Nam thể hiện sự bất cập
trên thực tiễn như an ninh lương thực cần phải được coi trọng khi cơ cấu nền kinh tế
có sự thay đổi và những biến đổi của khí hậu; an toàn thực phẩm được kiểm tra,
giám sát chặt chẽ; trật tự an toàn xã hội cũng như an toàn của cá nhân công dân…
đòi hỏi cần phải có các giải pháp phù hợp và có hiệu quả.
Hơn nữa, Việt Nam là quốc gia phê chuẩn, gia nhập hầu hết các điều ước
quốc tế liên quan đến an ninh con người. Với tư cách là thành viên của các điều ước
quốc tế đặt ra trách nhiệm pháp lý của chúng ta trước cộng đồng quốc tế về việc bảo
đảm an ninh con người nói chung và các khía cạnh của an ninh con người nói riêng.
Do đó, việc xây dựng Chiến lược quốc gia về an ninh con người sẽ là biểu hiện cho
việc nỗ lực thực hiện các cam kết quốc tế của Việt Nam.
Cơ sở thực tiễn và pháp lý nêu trên đặt ra yêu cầu phải tăng cường hơn nữa
chiến lược con người nhằm hiện thực hóa việc bảo đảm an ninh con người nói chung
và các lĩnh vực cụ thể của an ninh con người nói riêng. Đặc biệt, theo Nghị quyết số
48-NQ/TW về Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam đến
năm 2010, định hướng đến năm 2020 hệ thống pháp luật nước ta đang không ngừng
được hoàn thiện và đó là cơ sở tăng cường hơn nữa an ninh con người ở Việt Nam.
165
Về tổng thể, Chiến lược quốc gia về an ninh con người khái quát được thực
trạng an ninh con người trong các lĩnh vực kinh tế, môi trường, sức khỏe, an toàn
lương thực - thực phẩm, an toàn cá nhân, trật tự cộng đồng và bảo đảm quyền dân
chủ. Quan trọng hơn, trong Chiến lược cần làm rõ được thực trạng pháp luật về an
ninh con người. Trên cơ sở thực trạng đó Chiến lược nêu được các quan điểm và
định hướng cho việc bảo đảm an ninh con người được thể hiện thông qua các mục
tiêu vừa mang tính tổng quát vừa thể hiện sự cụ thể trong các lĩnh vực của an ninh
con người. Đồng thời, Chiến lược quốc gia về an ninh con người xây dựng hệ thống
các giải pháp đặc biệt là việc hoàn thiện hệ thống pháp luật về an ninh con người;
tăng cường hiệu quả thực thi pháp luật và giám sát quá trình thi hành pháp luật.
3.3.3. Thành lập cơ quan chuyên trách về an ninh con người
Quyền con người và an ninh con người có mối quan hệ biện chứng theo đó
an ninh con người là nền tảng cho việc bảo đảm quyền con người và ngược lại
quyền con người là mục tiêu để an ninh con người hướng tới. Do đó, tăng cường
bảo đảm an ninh con người thông qua việc thành lập cơ quan quốc gia về quyền con
người là thực sự cần thiết.
Nghĩa vụ của quốc gia là tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế trong đó có
các điều ước quốc tế về quyền con người. Vì vậy, thành lập cơ quan quốc gia về
quyền con người nhằm thực hiện có hiệu quả nghĩa vụ của quốc gia cũng như
khuyến nghị của Liên hợp quốc và cộng đồng quốc tế. Hiện nay, nhiều quốc gia trên
thế giới đã thiết lập các cơ quan độc lập hoặc bán độc lập với bộ máy nhà nước để
tăng cường hiệu quả của việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người [26, tr. 495]. Các
nước Bắc Âu và Mỹ La tinh thiết lập cơ quan Thanh tra Quốc hội (Ombudsman);
một số nước Đông Nam Á (Malaysia, Indonexia, Philippin, Thái Lan…) cũng thành
lập các Ủy ban hoặc Trung tâm về quyền con người trên cơ sở của Hiến pháp hoặc
các đạo luật với tư cách là các cơ quan độc lập. Nhìn chung, các cơ quan quyền con
người ở các quốc gia thực hiện chức năng giám sát hoạt động của các cơ quan nhà
nước trong việc tuân thủ pháp luật quốc tế và quốc gia về quyền con người; tiếp
nhận và giải quyết những khiếu nại liên quan đến quyền con người; nghiên cứu
166
chính sách liên quan đến quyền con người của chính phủ và đề xuất các biện pháp
khắc phục thúc đẩy sự tiến bộ; tăng cường hợp tác quốc tế cũng như kiến nghị việc
gia nhập các điều ước quốc tế về quyền con người; giáo dục, tuyên truyền nâng cao
nhận thức của người dân về quyền con người.
Ở Việt Nam hiện nay, cùng với quá trình đổi mới và xây dựng xã hội dân
chủ đặc biệt chúng ta đang tiến hành nghiên cứu sửa đổi Hiến pháp năm 1992 trong
đó đáng chú ý là nội dung về quyền con người, quyền công dân. Thiết nghĩ, cùng
với những quan niệm mới về quyền con người cần bổ sung qui định trong Hiến
pháp về việc thành lập cơ quan quyền con người quốc gia với tư cách là một Ủy ban
(Ủy ban quyền con người) thuộc Quốc hội với những lý do:
Thứ nhất, về phương diện pháp lý quốc tế, Việt Nam đã phê chuẩn, gia nhập
một số lượng lớn các điều ước quốc tế về quyền con người trong đó có những công
ước đòi hỏi thủ tục báo cáo quốc gia. Thực tế hiện nay, chúng ta chưa có cơ quan
chuyên trách về quyền con người và báo cáo quốc gia, chẳng hạn, Báo cáo việc thực
hiện Công ước quốc tế về quyền trẻ em và Công ước chống các hình thức phân biệt
đối xử với phụ nữ do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội thực hiện; Báo cáo việc
thực hiện Công ước về quyền dân sự chính trị do Bộ Ngoại giao thực hiện…Báo
cáo quốc gia việc thực hiện các công ước không phải là công việc chuyên môn của
các Bộ, ngành mà phải có sự phối kết hợp với các cơ quan nhà nước hữu quan. Vì
vậy, việc triển khai thực hiện báo cáo quốc gia trên thực tiễn thường chậm trễ và
chưa đem lại hiệu quả [53, tr. 291].
Thứ hai, trên cơ sở Hiến chương ASEAN, cơ quan nhân quyền ASEAN đã
được thành lập và cũng đặt ra yêu cầu việc hình thành cơ quan quyền con người ở
các quốc gia thành viên. Hơn nữa, khi tham gia các công ước quốc tế về quyền con
người đòi hỏi các cơ quan nhà nước có thẩm quyền phải tổ chức thực hiện thông
qua nhiều hình thức, biện pháp khác nhau, trong đó có cả việc tổ chức tuyên truyền,
giáo dục về nội dung của công ước đến mọi đối tượng có liên quan nhằm thúc đẩy
sự hiểu biết về quyền con người. Vì vậy, phải có cơ quan chuyên trách thực hiện
nhiệm vụ này.
167
Thứ ba, theo qui định của Hiến pháp, việc bảo vệ các quyền của cá nhân,
công dân trở thành một nhiệm vụ rất quan trọng không chỉ trong hoạt động lập pháp
mà còn trong hoạt động giám sát của Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội. Trong tổ
chức và hoạt động của Quốc hội hiện nay, hầu hết các cơ quan của Quốc hội đều có
thẩm quyền bảo vệ, thúc đẩy và phát triển quyền con người thông qua việc thẩm tra
các dự án luật, pháp lệnh và thực hiện quyền giám sát trong đó có giám sát việc bảo
vệ quyền và lợi ích của công dân. Nhưng quyền con người, quyền công dân có nội
dung rộng lớn, bao quát hầu hết mọi lĩnh vực của đời sống xã hội. Vì vậy, thẩm tra
một dự án luật, pháp lệnh trình cơ quan có thẩm quyền không thể giao cho tất cả các
ủy ban chuyên môn để xem xét các khía cạnh khác nhau của quyền con người. Mặc
dù, Ủy ban pháp luật có nhiệm vụ xem xét tính hợp hiến, hợp pháp của các dự án
luật, pháp lệnh nhưng bên cạnh đó nó còn đòi hỏi sự phù hợp với các điều ước quốc
tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia. Nhiệm vụ này vẫn chưa có cơ
quan chuyên trách để đảm nhiệm.
Thứ tư, Ban dân nguyện nằm trong cơ cấu của Ủy ban Thường vụ Quốc hội
chứ không phải là cơ quan thuộc Quốc hội. Ban dân nguyện là cơ quan tổng hợp, xử
lý, theo dõi và đôn đốc việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân. Liên quan
đến lĩnh vực nào thì đơn thư khiếu nại, tố cáo của công dân sẽ được chuyển cho ủy
ban chuyên môn. Điều này là hợp lý nhưng việc hậu xử lý cũng như tổng hợp việc
giải quyết liên quan đến quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, bảo đảm quyền
con người để báo cáo Quốc hội thì cần phải có cơ quan chuyên trách.
Khi Ủy ban quyền con người thuộc Quốc hội được thành lập, chức năng,
nhiệm vụ sự phối hợp hoạt động với các cơ quan khác của Quốc hội được thể hiện:
- Ủy ban quyền con người tiếp nhận, xử lý, đôn đốc, theo dõi và giám sát
việc giải quyết khiếu nại, tố cáo của công dân gửi tới Quốc hội, các cơ quan của
Quốc hội hoặc do đại biểu Quốc hội, Đoàn đại biểu Quốc hội gửi đến; phát hiện có
dấu hiệu vi phạm quyền con người, xét thấy cần thiết có thể tự mình hoặc phối hợp
với cơ quan hữu quan của Quốc hội, xác minh điều tra làm rõ vụ việc để kiến nghị
với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
168
- Ủy ban quyền con người tiến hành thẩm tra báo cáo của Chính phủ về giải
quyết khiếu nại, tố cáo của công dân liên quan đến quyền con người.
- Ủy ban quyền con người phối hợp với Hội đồng dân tộc, các Ủy ban của
Quốc hội thẩm tra các dự án luật, dự án pháp lệnh, bảo đảm tính phù hợp với các
qui định về quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân trong Hiến
pháp; bảo đảm tính hệ thống và đồng bộ trong các văn bản pháp luật và phù hợp với
các điều ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã tham gia trước khi trình
Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội.
- Ủy ban quyền con người đề xuất, kiến nghị cơ quan có thẩm quyền phê
chuẩn, gia nhập các điều ước quốc tế về quyền con người; phối hợp với cơ quan nhà
nước hữu quan tổ chức giáo dục, tuyên truyền nội dung các công ước quốc tế về
quyền con người trong nhân dân và thường xuyên cung cấp thông tin về quyền con
người trên thế giới cho đại biểu Quốc hội.
- Ủy ban quyền con người sẽ thực hiện các chương trình nghiên cứu, tham
gia đối thoại và hợp tác với cơ quan quyền con người Liên hợp quốc và tổ chức
quyền con người của nghị viện các nước; phối hợp cùng các cơ quan nhà nước chủ
trì xây dựng báo cáo quốc gia về thực hiện các công ước quốc tế về quyền con
người; xây dựng báo cáo về thành tựu quyền con người ở Việt Nam; phê phán các
quan điểm sai trái, lợi dụng dân chủ để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
3.3.4. Ký kết và gia nhập các điều ước quốc tế
Quá trình đổi mới đất nước trong mọi lĩnh vực, xây dựng Nhà nước pháp
quyền đòi hỏi chúng ta từng bước hoàn thiện hệ thống pháp luật. Đặc biệt trong xu
thế Việt Nam đang hội nhập sâu rộng cùng cộng đồng quốc tế, việc nghiên cứu xem
xét để ký kết, gia nhập các điều ước quốc tế về an ninh con người là thực sự cần thiết.
Gia nhập Công ước số 122 của ILO năm 1964 về Chính sách việc làm góp
phần hoàn thiện pháp luật về chính sách việc làm. Hiện nay, qui định về chính sách
việc làm mang tính qui phạm chưa cao, chủ yếu hướng vào hỗ trợ, chú trọng tạo nhiều
việc làm chứ chưa coi trọng chất lượng việc làm nên tính ổn định, bền vững còn thấp.
169
Nhất là trong điều kiện chúng ta chưa có qui hoạch việc làm dài hạn theo vùng,
ngành và cơ cấu nền kinh tế. Các qui định về Quỹ giải quyết việc làm trở nên bất cập
như Ngân hàng chính sách xã hội địa phương tổ chức thực hiện tất cả các khâu và
cuối cùng là xem xét xóa nợ mà không có sự giám sát nên dự án cho vay không bảo
đảm hiệu quả. Đòi hỏi phải có khung pháp luật về chính sách việc làm bảo đảm phát
triển kinh tế, nâng cao mức sống của người dân góp phần bảo đảm an ninh con người.
Gia nhập Công ước chống mìn sát thương (Công ước Ottawa) và Công ước
về bom đạn chùm. Nghèo đói, bệnh tật, ô nhiễm môi trường, thiên tai… là điều
thường thấy ở các quốc gia đang phát triển trong đó có Việt Nam nhưng điều đặc
biệt trực tiếp liên quan đến an ninh con người mà người dân Việt Nam phải gánh
chịu là hậu quả của chiến tranh.
Hai cuộc chiến tranh trong lịch sử hiện đại mà dân tộc Việt Nam đã trải qua
và hòa bình thực sự được xác lập đã gần 40 năm nhưng hậu quả để lại hết sức nặng
nề: 21% diện tích lãnh thổ bị ô nhiễm bom mìn (6,6 triệu héc ta đất); số bom mìn
còn sót lại sau chiến tranh là 800.000 tấn (chưa kể số còn sót lại trên biển) và để
làm sạch số bom mìn, đất đai cần khoảng số tiền là trên 10 tỷ đô la Mỹ với thời gian
hơn 100 năm. Giai đoạn 1975 - 2000 số người bị chết do bom mìn là hơn 40.000
người và số người bị thương là hơn 60.000 người [43]. Hiện nay, trung bình mỗi
năm có khoảng 1530 người chết, 2270 người bị thương do bom mìn trong đó chủ
yếu là trẻ em [21].
Nếu coi an ninh con người là nhằm tạo lập một cuộc sống an toàn nơi mà
con người không thường trực nỗi lo và sợ hãi thì rõ ràng ở Việt Nam nói riêng hậu
quả của chiến tranh, chết chóc và thương tích do bom mìn gây ra chính là nhân tố
làm cho an ninh con người chưa được bảo đảm vì nó trực tiếp đe dọa tới an toàn và
tính mạng của người dân. Bom mìn còn sót lại sau chiến tranh nằm rải rác trên khắp
lãnh thổ Việt Nam, tập trung chủ yếu ở các tỉnh miền Trung. Để khắc phục những
hậu quả do bom mìn gây ra, năm 2010 Chính phủ đã thông qua "Chương trình Quốc
gia khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh". Để thực hiện chương trình này
chúng ta phải huy động nhiều nguồn lực và tiến hành bằng nhiều giải pháp khác
170
nhau trong đó có việc gia nhập Công ước Ottawa và Công ước về bom đạn chùm.
Đó sẽ là cơ sở pháp lý góp phần cho nỗ lực của Việt Nam trong việc khắc phục hậu
quả của bom mìn sau chiến tranh thông qua sự hợp tác quốc tế. Thực tế cho thấy,
trong những năm qua để khắc phục hậu quả của bom mìn chúng ta chủ yếu hợp tác
và nhận được sự hỗ trợ của các tổ chức phi chính phủ [21]. Vì vậy, tham gia các
công ước vừa thể hiện cam kết nhưng đồng thời đó cũng là kênh để tăng cường hơn
nữa sự hợp tác giữa Việt Nam với Liên hợp quốc, chính phủ các nước tập trung
được nguồn lực cho việc khắc phục hậu quả bom mìn sau chiến tranh.
3.3.5. Ban hành, sửa đổi và bổ sung các văn bản qui phạm pháp luật
Trên cơ sở chủ quyền quốc gia và căn cứ vào chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn của mình, Quốc hội và các cơ quan có thẩm quyền ban hành, sửa đổi, bổ sung
các văn bản qui phạm pháp luật để tăng cường cho an ninh con người. Về phương
diện lý luận, việc ban hành đạo luật mới hoặc sửa đổi một đạo luật đã có là nhằm
thực hiện nghĩa vụ của quốc gia theo các điều ước quốc tế. Tất nhiên, không phải
chỉ khi tham gia các điều ước quốc tế mới ban hành hoặc sửa đổi luật quốc gia mà
điều này có thể diễn ra trước. Hơn nữa, xây dựng pháp luật đó cũng là trách nhiệm
của các cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Về phương diện thực tiễn, những đòi hỏi
của thực tế cuộc sống, sự vận động và thay đổi của các quan hệ xã hội đặt ra yêu
cầu cần kịp thời có sự điều chỉnh của pháp luật đặc biệt khi vấn đề an ninh con
người tuy phức tạp nhưng lại diễn ra trong chính cuộc sống hàng ngày của mỗi
người dân. Nhất là, trong điều kiện hiện nay khi chúng ta đang tiến hành sửa đổi
Hiến pháp 1992 mà một trong những nội dung được quan tâm là quyền con người,
quyền công dân. Pháp luật về an ninh con người trong các lĩnh vực nhìn một cách
tổng thể đã tiếp cận đến những chuẩn mực của pháp luật quốc tế nhưng ở các khía
cạnh đơn lẻ hoặc chưa có, hoặc còn ở luật khung hoặc có nhưng hiệu quả thực hiện
chưa cao. Vì vậy, đó là lý do đặt ra yêu cầu cần tiếp tục hoàn thiện.
* Về lĩnh vực kinh tế
Lao động vừa là quyền nhưng đồng thời lại là nghĩa vụ của công dân được
qui định trong Hiến pháp và được cụ thể hóa trong Bộ luật Lao động sửa đổi năm
171
2012. Quyền được làm việc mang ý nghĩa kinh tế sâu sắc. Đó là một trong những cơ
sở để cá nhân có thu nhập hợp pháp, bảo đảm duy trì cuộc sống trong danh dự nhân
phẩm. Vì vậy, cần sớm ban hành Luật Việc làm để cụ thể hóa qui định của Hiến
pháp và Bộ luật Lao động bảo đảm an ninh con người nói chung và người lao động
nói riêng.
Trong điều kiện nền kinh tế thị trường cần làm rõ các quyền liên quan đến
việc làm như quyền tự do tìm kiếm việc làm, nghề nghiệp, nơi làm việc phù hợp với
nhu cầu, sở thích và khả năng. Hoàn thiện môi trường pháp lý về việc làm có ý
nghĩa quyết định cho việc bảo đảm an ninh con người, theo đó Luật Việc làm cần
phải xác định "tỷ lệ tăng trưởng việc làm" thay cho "chỉ tiêu tạo việc làm mới như
trước đây"; qui định cụ thể về quyền, nghĩa vụ của người lao động, người sử dụng
lao động về việc làm, thị trường lao động; cần có qui định cụ thể về chính sách việc
làm chung của Nhà nước, trong đó Nhà nước không chỉ có trách nhiệm tạo việc làm
mà phải có trách nhiệm định hướng phát triển việc làm hướng tới thúc đẩy và bảo
đảm việc làm bền vững cho người lao động; rà soát và qui định cụ thể các chính
sách hỗ trợ việc làm của Nhà nước; bổ sung các qui định để các địa phương phải có
trách nhiệm thành lập quĩ việc làm địa phương; bổ sung các qui định còn hạn chế
trong việc quản lý, sử dụng Quỹ quốc gia về việc làm, Quỹ hỗ trợ việc làm ngoài
nước; nghiên cứu, xem xét việc các doanh nghiệp vốn đầu tư nước ngoài, người
nước ngoài hoạt động giới thiệu việc làm; qui định cụ thể về chính sách phát triển
thị trường lao động trong nước cũng như ngoài nước; bổ sung các qui định về lao
động Việt Nam ở nước ngoài sau khi về nước; qui định rõ về chính sách bảo hiểm
việc làm theo hướng không chỉ có chính sách hỗ trợ cho người lao động sau khi họ
bị thất nghiệp mà còn đảm bảo ổn định cho người lao động trong quá trình làm việc;
đặc biệt, cần phải có qui định riêng về chính sách việc làm cho các đối tượng đặc thù.
Đảm bảo việc làm và các quyền ở nơi làm việc đóng vai trò quyết định
trong việc đạt được an ninh con người ở Việt Nam trong bối cảnh là quốc gia đang
phát triển. Người lao động không có việc làm thì hoặc phụ thuộc vào trợ cấp xã
hội hoặc khó có tương lai. Điều này cũng đồng nghĩa với việc góp phần xóa giảm
172
đói nghèo. Đói nghèo là nguy cơ làm cho con người dễ bị loại trừ khỏi tiến trình
phát triển của xã hội, mất đi những cơ hội để duy trì và cải thiện điều kiện sống.
Đảm bảo việc làm với tư cách là một chuẩn mực của quyền con người đã vượt lên
trên ý nghĩa đảm bảo sự tồn tại, bởi lẽ thỏa mãn các nhu cầu cơ bản sẽ không thể
đủ để tăng cường an ninh con người. Do đó, Luật Việc làm và các chính sách gắn
liền với việc bảo đảm việc làm chính là khung pháp lý góp phần tăng cường an
ninh con người.
Đồng thời với việc bảo đảm việc làm, trong bối cảnh nước ta hiện nay việc
qui định mức lương tối thiểu hết sức quan trọng và cần thiết. Tiền công, tiền lương
là sự thỏa thuận giữa người lao động và người sử dụng lao động. Tuy nhiên, với đặc
điểm chung là phần đông lao động phổ thông Việt Nam chưa qua đào tạo, trình độ
tay nghề chưa có hoặc ở mức thấp nên khả năng thương lượng với người sử dụng
lao động về lương theo qui định của Bộ luật Lao động là không thực tế. Hơn nữa,
khi các nhà đầu tư nước ngoài bắt tay nhau để dìm giá lao động bằng cách cùng
nhau trả lương thấp thì lao động Việt Nam sẽ khó có cơ hội lựa chọn việc làm.
Trong bối cảnh đó sự ra đời của Luật Tiền lương tối thiểu là cần thiết.
Nghiên cứu để sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường để từng bước hoàn
thiện pháp luật về môi trường nhằm giải quyết hài hòa, đồng bộ mối quan hệ giữa
phát triển kinh tế, hợp tác quốc tế và các vấn đề xã hội; phát huy sức mạnh của toàn
xã hội trong vấn đề bảo vệ môi trường; giải quyết mối quan hệ giữa Luật Bảo vệ
môi trường và các luật chuyên ngành trong điều chỉnh pháp luật về môi trường; phát
huy đồng bộ tác động của các biện pháp hành chính, hình sự, dân sự, kinh tế trong
việc xử lý các hành vi vi phạm pháp luật về môi trường, đặc biệt là các biện pháp
kinh tế để đảm bảo sự hài hòa giữa phát triển kinh tế và bảo vệ môi trường.
Sửa đổi, bổ sung Luật Bảo vệ môi trường đồng thời với việc hoàn thiện các
văn bản qui phạm pháp luật theo hướng điều chỉnh một cách đồng bộ, thống nhất;
ban hành đầy đủ các qui định về qui chuẩn kỹ thuật môi trường, đánh giá tác động
môi trường, các qui định về quản lý chất thải nhất là chất thải ở các khu đô thị và
khu công nghiệp; tăng cường nguồn lực bảo vệ môi trường bằng thuế hoặc phí bảo
173
vệ môi trường. Qui định cụ thể về trách nhiệm, trong đó trách nhiệm bồi thường thiệt
hại, phục hồi môi trường trong trường hợp gây ô nhiễm, làm thiệt hại tới môi trường.
Hoàn thiện các qui định về xử lý vi phạm pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi
trường như: xử lý dân sự về việc xác định thiệt hại do ô nhiễm, suy thoái môi trường
gây ra; các qui định về xử lý hành chính, đặc biệt là qui định xử lý hình sự đối với hành
vi vi phạm theo hướng tăng mức xử phạt đủ để răn đe, kiên quyết tạm thời đình chỉ
hoạt động, cấm hoạt động đối với các cơ sở gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng
và xử lý hình sự đối với các trường hợp có đủ các yếu tố cấu thành tội phạm.
* Về lĩnh vực xã hội
Các vấn đề xã hội luôn tiềm ẩn ở các quốc gia, nó là hệ quả phát sinh từ quá
trình phát triển và cũng tác động tiêu cực tới sự ổn định, phát triển. Vì vậy, giải
quyết các vấn đề xã hội thông qua pháp luật sẽ góp phần tích cực để tăng cường bảo
đảm an ninh con người.
Dân số là vấn đề nhạy cảm, liên quan đến việc bảo đảm an ninh con người
trong khi đó đối tượng thực hiện công tác dân số rất phức tạp vì mọi tổ chức, gia
đình, cá nhân vừa là đối tượng thi hành, vừa là chủ thể tham gia tổ chức thực hiện
chính sách dân số.
Việt Nam là quốc gia có mật độ dân số đông (đứng thứ 20 trên thế giới),
sức ép của gia tăng dân số quá nhanh làm ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế - xã
hội như tăng chi phí và phúc lợi xã hội, tạo sức ép cạnh tranh về việc làm. Do tập
trung vào mục tiêu giảm nhanh mức sinh nên qui định của pháp luật chủ yếu giới
hạn trong việc điều chỉnh qui mô dân số thông qua kế hoạch hóa gia đình. Trong khi
đó cơ cấu dân số, chất lượng dân số và phân bố dân cư lại chưa được chú ý thích
đáng. Để qui mô, chất lượng và phân bố dân cư thực sự trở thành yếu tố quyết định
sự phát triển bền vững của đất nước đòi hỏi chính sách, pháp luật dân số phải đồng
bộ và có hiệu quả nên cần thiết ban hành Luật Dân số. Trong xu thế hội nhập các
qui định của pháp luật về dân số phải hài hòa với pháp luật trong khu vực và trên
thế giới tạo khuôn khổ pháp lý bình đẳng trong việc tăng cường hợp tác quốc tế về
dân số và phát triển.
174
Hiện nay, Luật An toàn thực phẩm đã có hiệu lực nhưng để tạo sự đồng bộ
cần thiết phải ban hành các đạo luật như Luật Thú y. Sở dĩ như vậy là vì: nước ta
xuất phát điểm là nền kinh tế nông nghiệp và hiện nay nông nghiệp vẫn chiếm tỷ
trọng lớn trong cơ cấu nền kinh tế với sự phát triển của ngành chăn nuôi; hơn nữa
hoạt động thương mại với việc xuất nhập khẩu động vật và sản phẩm động vật ngày
càng tăng đã làm lây lan dịch bệnh, kể cả bệnh chung giữa người và động vật như
cúm A/H5N1, A/H1N1… cùng các yếu tố khách quan chủ quan như biến đổi khí
hậu, ô nhiễm môi trường làm gia tăng dịch bệnh tác động tiêu cực tới sức khỏe
người dân. Các thực phẩm chủ yếu đang mất an toàn, gây tổn hại đến sức khỏe mà
chúng ta đang quan tâm là rau, thịt và thủy sản. Xuất phát điểm của việc kiểm soát
vệ sinh an toàn thực phẩm là sản xuất nông nghiệp, vì vậy cần có biện pháp để phân
công quản lý đảm bảo an toàn thực phẩm một cách hợp lý và có hiệu quả. Thịt và
thủy sản là những loại thực phẩm tiềm ẩn nguy cơ cao nên cần có qui trình giám sát
chặt chẽ từ chăn nuôi, nuôi trồng đến giết mổ, chế biến, bảo quản cũng như lưu
thông phân phối nhất là trong bối cảnh toàn cầu hóa. Hiện nay, các nước đang phụ
thuộc lẫn nhau và chỉ cần một hành động không đúng của một quốc gia có thể gây
nguy hiểm cho các nước khác. Sự tăng trưởng và phát triển của các quốc gia cũng
như việc ngăn ngừa và kiểm soát thảm họa sinh học phụ thuộc nhiều vào pháp luật,
các chính sách nông nghiệp cũng như bảo đảm an toàn thực phẩm với ý nghĩa là
tiêu chí cho việc đảm bảo an ninh con người. Do đó, Luật Thú y sẽ góp phần nâng
cao năng lực quản lý nhà nước về thú y như phòng chống dịch bệnh, hệ thống chẩn
đoán và xét nghiệm, kiểm dịch động vật, tăng cường vai trò của người chăn nuôi
nhỏ, kiểm soát hoạt động giết mổ tập trung, quản lý thuốc, hợp tác quốc tế…góp
phần tạo dựng thị trường lành mạnh về thực phẩm và tăng cường bảo vệ sức khỏe
người dân.
Cùng với Luật Thú y, để đồng bộ với Luật An toàn thực phẩm cần nâng
Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật thành Luật Bảo vệ, kiểm dịch thực vật. Bởi
vì, cần có các qui định chặt chẽ hơn về sản xuất kinh doanh thuốc bảo vệ thực vật vì
đây là những lĩnh vực cần hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện bởi trực
tiếp liên quan tới an toàn thực phẩm cung cấp hàng ngày cho người dân. Mặt khác,
175
các qui định trong Pháp lệnh Bảo vệ và kiểm dịch thực vật năm 2001 chưa phù hợp
cũng như chưa đáp ứng các tiêu chuẩn quốc tế qui định trong các điều ước quốc tế
mà Việt Nam tham gia như Hiệp định Vệ sinh an toàn thực phẩm và kiểm dịch động
thực vật và Công ước quốc tế về bảo vệ thực vật như phân tích nguy cơ dịch hại,
vùng an toàn dịch hại…Các qui định về quản lý thuốc bảo vệ thực vật chưa cụ thể
và tuân thủ các qui định về quản lý thuốc theo chuẩn quốc tế như điều kiện đăng ký
thuốc bảo vệ thực vật; điều kiện đưa các loại thuốc bảo vệ thực vật đã được đăng ký
ra khỏi danh mục thuốc; điều kiện sử dụng thuốc bảo vệ thực vật.
Sức khỏe con người đóng vai trò quan trọng trong quá trình đổi mới và phát
triển đất nước. Hiện nay, hoạt động khám chữa bệnh để tăng cường an ninh con
người còn bộc lộ những hạn chế. Ở nước ta cũng như các nước khác, mô hình bệnh
tật bao gồm nhiều nhóm nhưng cao nhất là nhóm bệnh không nhiễm trùng. Tình
trạng ngộ độc thực phẩm, ô nhiễm môi trường…đòi hỏi được cung cấp các dịch vụ
khám chữa bệnh thuận lợi, đa dạng và hiệu quả hơn. Mặt khác, cơ sở vật chất và
trang thiết bị của các cơ sở khám chữa bệnh nhà nước chưa đáp ứng được tiêu
chuẩn. Vấn đề xử lý chất thải nhưng không có điều kiện cụ thể để cấp giấy phép
hoạt động trong khi các cơ sở tư nhân phải đáp ứng đầy đủ các điều kiện mới được
cấp phép.
Việc cấp chứng chỉ hành nghề áp dụng đối với những người đứng đầu các
cơ sở hành nghề tư nhân thông qua việc xét hồ sơ nên chất lượng đội ngũ này chưa
đồng đều do Việt Nam chưa có hệ thống đăng ký, kiểm tra, cấp chứng chỉ hành
nghề và giám sát hoạt động của những người hành nghề. Do đó, cần phải có cơ chế
pháp lý để tất cả các cơ sở khám chữa bệnh dù là của Nhà nước hay tư nhân đều có
thể cung cấp các dịch vụ y tế một cách hiệu quả, đầy đủ.
Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân do ban hành đã lâu và mang tính nguyên tắc
nên hiệu lực pháp luật không cao. Một số qui định đã được cụ thể ở các luật khác
như Luật Người cao tuổi, Luật Người khuyết tật, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục
trẻ em..trong khi đó các qui định về điều kiện hành nghề khám chữa bệnh, qui định
về chuyên môn kỹ thuật y tế cần tiếp tục phải cụ thể hóa để đáp ứng yêu cầu xã hội
176
hóa lĩnh vực y tế và chăm sóc sức khỏe nhân dân. Hơn nữa, Việt Nam là thành viên
của Tổ chức Thương mại Thế giới nên phải tuân thủ các cam kết trong đó có dịch
vụ y tế. Đồng thời, Việt Nam cũng đã ký Hiệp định khung về điều kiện hành nghề
điều dưỡng giữa các nước ASEAN và Hiệp định khung về hành nghề bác sĩ và nha
sĩ. Vì vậy, cần phải nội luật hóa các qui định này để có cơ sở pháp lý thực hiện tại
Việt Nam. Đó là sự cần thiết để ban hành Luật Khám chữa bệnh.
Theo qui định của Luật An toàn thực phẩm năm 2010, trách nhiệm quản lý
nhà nước là Bộ Y tế, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn và Ủy ban nhân dân
tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong khi đó Luật Bảo vệ sức khỏe nhân dân
lại chỉ qui định trách nhiệm này thuộc Bộ Y tế và Ủy ban nhân dân cấp tỉnh, thành
phố. Rõ ràng, lương thực - thực phẩm là "đầu vào" cho việc duy trì sự sống và sức
khỏe của người dân, vì vậy để đảm bảo an ninh về sức khỏe phải có sự thống nhất
trong quản lý nhà nước. Cũng như vậy, cần bổ sung Luật Thanh tra, Luật Xử lý vi
phạm hành chính về chức năng, quyền hạn, thẩm quyền của Chánh Thanh tra,
Thanh tra viên Chi cục an toàn thực phẩm cho phù hợp với Luật An toàn thực phẩm.
* Về an toàn cá nhân, trật tự cộng đồng và xây dựng xã hội dân chủ
Cùng với quá trình đổi mới đất nước, vấn đề trật tự an toàn xã hội và tình
hình tội phạm có nhiều diễn biến phức tạp, riêng lĩnh vực đảm bảo trật tự an toàn
giao thông đã là vấn đề nhức nhối của xã hội. Theo thống kê của Ủy ban An toàn
giao thông quốc gia, trung bình một năm có khoảng trên 10.000 ngàn vụ tai nạn
giao thông, làm chết khoảng trên 10.000 ngàn người và bị thương khoảng gần
20.000 ngàn người; đồng thời, sự xuất hiện của nhiều phương thức, thủ đoạn phạm
tội tác động không nhỏ đến môi trường phát triển lành mạnh, bền vững của đất
nước. Vì vậy, công tác đảm bảo trật tự, an toàn xã hội đặt ra nhiều vấn đề hết sức
quan trọng, trong khi đó hệ thống văn bản pháp luật qui định về công tác đảm bảo
trật tự an toàn xã hội hiện đang trong quá trình hoàn thiện nên còn nhiều bất cập,
thiếu đồng bộ, các qui phạm pháp luật còn tản mạn trong nhiều văn bản khác nhau
hoặc không theo kịp thực tiễn. Nhiều vấn đề quan trọng mới chỉ được qui định bằng
văn bản dưới luật, làm hạn chế hiệu lực hiệu quả công tác đảm bảo trật tự, an toàn
177
xã hội. Do đó, để nâng cao hiệu quả quản lý nhà nước trong công tác đảm bảo trật
tự an toàn xã hội, tạo hành lang pháp lý đầy đủ, đồng bộ cho các cơ quan thực thi
pháp luật nói chung thực hiện có hiệu quả công tác đấu tranh phòng, chống tội phạm,
giữ gìn trật tự xã hội, đảm bảo quyền tự do, dân chủ, tính mạng, sức khỏe của nhân
dân nên việc xây dựng và ban hành Luật Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội là yêu cầu
khách quan và cần thiết. Luật Bảo đảm trật tự, an toàn xã hội qui định về chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan, tổ chức, công dân trong việc bảo đảm
trật tự an toàn xã hội, góp phần nâng cao hiệu lực quản lý nhà nước về bảo đảm trật
tự an toàn xã hội và đây là tiền đề cho việc bảo đảm, tăng cường an ninh con người.
Hiến pháp năm 1992 ghi nhận quyền được thông tin với tư cách là quyền
mới. Trên khía cạnh chính trị, quyền thông tin đòi hỏi công dân có quyền được biết
về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước một cách trung thực. Nhà nước
phải có trách nhiệm cung cấp thông tin kịp thời thông qua các phương tiện thông tin
đại chúng và qui định cụ thể người có trách nhiệm báo cáo hoạt động của Nhà nước
về kinh tế, chính trị, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại (trừ những vấn đề
thuộc bí mật quốc gia). Quyền thông tin cũng đòi hỏi Nhà nước bằng công cụ pháp
luật bảo đảm nhân dân nhận thông tin trên các phương tiện thông tin đại chúng phải
là những thông tin chân thực, thông tin đa chiều. Vì vậy, người cung cấp thông tin
không đúng phải bị xử lý theo qui định của pháp luật. Trong bối cảnh nước ta đang
hội nhập sâu rộng cùng cộng đồng quốc tế và sự bùng nổ của thông tin nên cần thiết
phải ban hành Luật Tiếp cận thông tin.
Trong xã hội dân chủ và văn minh, hiện tượng đình công, biểu tình là tất
yếu bởi nó phản ánh đúng thực trạng và xu thế phát triển của xã hội. Nhìn ở góc độ
tiêu cực, đó là những dấu hiệu báo hiệu sự bất ổn của xã hội nhưng nhìn ở khía cạnh
khác thì đình công, biểu tình lại là những tín hiệu để Nhà nước xem xét lại nội dung
của pháp luật và quá trình thực thi pháp luật. Vấn đề đặt ra là việc đình công, biểu
tình phải có sự giám sát của Nhà nước, cơ quan có thẩm quyền trên cơ sở pháp luật.
Mặc dù, Bộ luật Lao động và các văn bản pháp luật có liên quan đã phần nào giải
quyết được những bức xúc cho người lao động thông qua các cuộc đình công. Do
178
đó, cần hệ thống hóa các qui định của pháp luật hiện hành để sớm ban hành Luật
Đình công nhằm tạo cơ sở pháp lý cho việc bảo vệ quyền lợi hợp pháp và chính
đáng của người lao động.
Trong xã hội, khi quyền và các lợi ích hợp pháp của công dân bị xâm hại,
công dân có thể sử dụng quyền khiếu nại, tố cáo về quyết định, hành vi của cán bộ,
công chức nhà nước; đồng thời cũng có thể thực hiện bằng hình thức biểu tình
chống lại những quyết sách không phù hợp. Do đó, biểu tình là hiện tượng tất yếu
trong xã hội dân chủ. Ở Việt Nam, theo qui định của pháp luật hiện hành thì chưa
có những qui định và bảo đảm cho quyền tự do biểu tình. Vì vậy, chưa đủ căn cứ để
điều chỉnh các hoạt động biểu tình không theo trật tự, mang tính bột phát, bị kích
động và gây mất ổn định về chính trị. Vấn đề đặt ra là cần xây dựng pháp luật bảo
đảm quyền tự do biểu tình của công dân và hoạt động biểu tình phải tuân thủ các
qui định của pháp luật; theo đó, mọi hành vi lợi dụng biểu tình gây mất ổn định
chính trị phải bị xử lý theo qui định của pháp luật. Đây là đòi hỏi khách quan của
tiến trình xây dựng xã hội dân chủ và cần thiết xây dựng, ban hành Luật Biểu tình.
Việc xây dựng nhà nước pháp quyền được khẳng định trong Hiến pháp đòi
hỏi công dân phải làm chủ, thực sự tham gia quyết định trực tiếp các vấn đề quan
trọng của đất nước. Nhà nước với tư cách là cơ quan công quyền có trách nhiệm
tham khảo ý kiến nhân dân mà tiến tới với trình độ dân trí ngày càng cao, nhân dân
sẽ quyết định vận mệnh đất nước bằng dân chủ trực tiếp. Vì vậy, việc xây dựng và
ban hành Luật Trưng cầu dân ý theo qui định của Hiến pháp để nhân dân thực hiện
được quyền làm chủ của mình trong lĩnh vực này là rất cần thiết. Luật Trưng cầu
dân ý cần xác định những vấn đề để nhân dân quyết định trực tiếp mà không thông
qua cơ quan đại diện, cách thức tổ chức tiến hành việc trưng cầu ý kiến nhân dân.
Đó là những vấn đề quan trọng, quyết định đến vận mệnh quốc gia, dân tộc, ảnh
hưởng và tác động đến môi trường; đến chủ quyền biên giới, lãnh thổ quốc gia.
Ban hành Luật Trưng cầu dân ý đảm bảo cho người dân được trực tiếp quyết
định những vấn đề quan trọng của đất nước sẽ là một bước tiến để xây dựng xã hội
dân chủ. Điều này hoàn toàn phù hợp với quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
179
Cương lĩnh xây dựng và phát triển đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã
hội (bổ sung 2011), đó là: "xây dựng xã hội dân chủ, công bằng và văn minh"; đồng
thời đó cũng là tiêu chí để đánh giá an ninh con người xét trên phương diện chính trị.
3.3.6. Tăng cường thi hành pháp luật và theo dõi thi hành pháp luật
Với trách nhiệm là thành viên của cộng đồng quốc tế, Việt Nam tuân thủ
các nghĩa vụ theo luật quốc tế trong đó có việc thực hiện các cam kết trong phạm vi
lãnh thổ quốc gia. Tuy nhiên, mức độ thực hiện các cam kết quốc tế được thể hiện
rõ qua thực tiễn thi hành pháp luật. Chuyển hóa (nội luật hóa) được coi là cơ sở để
thực hiện các nghĩa vụ quốc tế nhưng thực hiện như thế nào và hiệu quả ra sao lại
phụ thuộc nhiều vào thực tiễn thi hành pháp luật.
Như đã phân tích ở phần pháp luật Việt Nam về an ninh con người, những
chuẩn mực để đảm bảo tăng cường an ninh con người ở Việt Nam hoặc cần phải
được tiếp tục nội luật hóa thông qua việc ban hành, sửa đổi bổ sung các đạo luật,
nhưng quan trọng hơn cần tổ chức tốt hơn quá trình thi hành pháp luật trong đó có
việc theo dõi thi hành pháp luật.
Thực tiễn thi hành pháp luật trong các lĩnh vực của an ninh con người đặc
biệt là lĩnh vực bảo vệ môi trường và đảm bảo vệ sinh an toàn thực phẩm cho thấy
giữa qui định của pháp luật và triển khai thực hiện trên thực tế còn có khoảng cách,
cụ thể là:
Về tổ chức thi hành pháp luật, theo qui định của Luật Ban hành văn bản qui
phạm pháp luật năm 2008 thì văn bản qui định chi tiết thi hành phải được soạn thảo
cùng với dự án luật, pháp lệnh để trình cơ quan nhà nước có thẩm quyền kịp thời
ban hành khi luật, pháp lệnh có hiệu lực. Qui định như vậy để đảm bảo việc thi hành
của văn bản qui phạm pháp luật ngay khi có hiệu lực kể cả văn bản có giá trị cao là
Luật. Tuy nhiên, các qui định chi tiết và hướng dẫn thi hành pháp luật nói chung
còn ban hành chậm do đó không đảm bảo có hiệu lực đồng thời với hiệu lực của các
luật, pháp lệnh trong đó có pháp luật về an ninh con người mà điển hình là lĩnh vực
môi trường hoặc an toàn thực phẩm. Ví dụ: Bộ luật Hình sự 1999 có riêng một
chương với 10 điều, tương ứng với 10 tội danh qui định về các tội phạm môi trường
180
nhưng năm 2009 khi sửa đổi, bổ sung Bộ luật Hình sự thì các văn bản hướng dẫn
việc điều tra, truy tố, xét xử đối với các tội phạm về môi trường cũng vẫn chưa
được ban hành; cũng như vậy, Luật An toàn thực phẩm được thông qua tháng
06/2010 và có hiệu lực ngày 01/01/2011 nhưng đến tháng 04/2012 mới có Nghị
định 38/NĐ - CP hướng dẫn thi hành... Sự chậm trễ trong việc ban hành các văn bản
hướng dẫn thi hành luật làm giảm đi hiệu lực thực tế của pháp luật. Về phổ biến
giáo dục pháp luật, trên cơ sở Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật các cơ quan nhà
nước có thẩm quyền đã đưa việc phổ biến, giáo dục pháp luật vào chương trình
công tác. Bên cạnh những kết quả đạt được, công tác phổ biến, giáo dục pháp luật
còn những hạn chế như: với lĩnh vực bảo vệ môi trường mới tập trung ở các khu
vực nhất định theo trọng điểm, chưa chú trọng phổ biến pháp luật cho các doanh
nghiệp, khu công nghiệp, làng nghề; với an toàn thực phẩm nội dung tuyên truyền
còn chưa sâu rộng, chưa bao quát được hết các qui định của pháp luật an toàn thực
phẩm. Về tình hình chuẩn bị các điều kiện cho việc thi hành pháp luật như tổ chức
bộ máy, kinh phí và cơ chế tài chính, cơ sở vật chất và trang thiết bị còn chậm hoặc
thiếu. Tình hình tuân thủ pháp luật của các cơ quan, tổ chức, cá nhân thông qua
công tác kiểm tra, phát hiện và xử lý các vi phạm do cơ quan nhà nước có thẩm
quyền thực hiện cho thấy tình hình vi phạm pháp luật về môi trường và an toàn thực
phẩm diễn ra tương đối phổ biến, trên nhiều lĩnh vực khác nhau, ảnh hưởng sâu sắc
đến sự phát triển kinh tế - xã hội, sức khỏe, quyền và lợi ích hợp pháp của nhân dân,
đe dọa tới an ninh con người. Xuất phát từ thực trạng thi hành pháp luật hiệu quả
chưa cao đòi hỏi phải tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật góp phần bảo
đảm an ninh con người ở Việt Nam, cụ thể là:
Thứ nhất, nghiên cứu xây dựng và trình Quốc hội thông qua Luật về Kiểm
tra, theo dõi thi hành pháp luật, trong đó qui định cụ thể phạm vi, mục đích, nội
dung kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật; thẩm quyền kiến nghị, xử lý kết quả
kiểm tra, theo dõi thi hành pháp luật.
Thứ hai, sửa đổi bổ sung các qui định pháp luật bảo đảm có hiệu quả chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của các cơ quan nhà nước về thi hành pháp luật. Ví dụ,
Bộ trưởng có quyền kiểm tra việc thi hành pháp luật đối với ngành, lĩnh vực được
181
phân công phụ trách đối với tất cả các ngành, địa phương thay vì chỉ được kiểm tra
các văn bản qui phạm pháp luật do mình ban hành như hiện nay.
Đó là cơ sở pháp lý cũng như tăng cường quản lý nhà nước về công tác theo
dõi thi hành pháp luật ở Việt Nam, sở dĩ như vậy là vì: Trước hết, với tư cách là cơ
quan quyền lực nhà nước cao nhất, Quốc hội căn cứ vào các qui định của Luật Hoạt
động giám sát của Quốc hội để thực hiện các hoạt động cụ thể liên quan đến giám
sát tối cao hoạt động của bộ máy nhà nước. Chính phủ với chức năng bảo đảm thi
hành Hiến pháp và pháp luật, tổ chức việc chỉ đạo thanh tra, kiểm tra việc thi hành
pháp luật, các luật chuyên ngành và các văn bản hướng dẫn các luật này hầu hết đều
có qui định về hoạt động kiểm tra, thanh tra nhưng mới chỉ dừng lại ở các qui định
chung mà chưa có một văn bản qui định và hướng dẫn cụ thể cho việc kiểm tra việc
thi hành pháp luật. Tiếp theo, Chính phủ được giao chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn
trong việc đảm bảo thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan, tổ chức và
công dân, nhưng việc thi hành pháp luật của các tòa án, viện kiểm sát lại chịu sự
giám sát của Quốc hội và Hội đồng nhân dân. Để có thể thực hiện đầy đủ chức
năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình liên quan đến quản lý thi hành pháp luật,
Chính phủ cần phối hợp với các cơ quan khác trong bộ máy nhà nước. Khi Hiến
pháp 1992 được sửa đổi năm 2001, chức năng của Chính phủ trong việc bảo đảm thi
hành Hiến pháp và pháp luật được khẳng định rõ hơn khi chuyển chức năng kiểm
sát việc tuân theo pháp luật của cơ quan Viện kiểm sát theo Điều 137 Hiến pháp
1992 (sửa đổi) sang Chính phủ đảm nhiệm. Do đó, việc quản lý thi hành pháp luật
cần có hướng phù hợp đảm bảo hiệu quả thi hành pháp luật. Hơn nữa, theo sự phân
công của Chính phủ, Bộ trưởng và các thành viên của Chính phủ có thẩm quyền
quản lý theo ngành, lĩnh vực và chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ và
Quốc hội về ngành, lĩnh vực được phân công trong đó có quyền kiểm tra việc thi
hành các văn bản do mình ban hành đối với tất cả các ngành, địa phương. Như vậy,
các bộ, cơ quan ngang bộ kiểm tra việc thi hành pháp luật trong phạm vi ngành, lĩnh
vực nhưng chưa có một cơ quan của Chính phủ thực hiện việc kiểm tra, theo dõi mà
các bộ đã thực hiện đến khi Chính phủ giao cho Bộ Tư pháp chức năng quản lý về
công tác thi hành pháp luật theo Nghị định 93/2008/NĐ-CP ngày 22/08/2008. Thực
182
tế những năm qua, thông qua việc quản lý công tác thi hành pháp luật theo đề án:
"Triển khai thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật" theo Quyết
định số 1987/QĐ-TTg ngày 30/11/2009 của Thủ tướng Chính phủ đã góp phần phát
hiện những vi phạm pháp luật, chỉ ra được những nguyên nhân tồn tại và đề xuất
các giải pháp phù hợp góp phần bảo đảm thực thi pháp luật có hiệu quả hơn. Ngoài
ra, tăng cường công tác theo dõi thi hành pháp luật đóng vai trò tích cực cho việc
bảo đảm thi hành Hiến pháp và pháp luật trong các cơ quan, tổ chức và công dân.
Không những vậy, thông qua việc theo dõi thi hành pháp luật của Chính phủ sẽ là
cơ sở để Quốc hội thực hiện tốt hơn chức năng giám sát tối cao hoạt động của bộ
máy nhà nước.
Thực hiện pháp luật quốc tế, chuyển hóa những quy định của pháp luật
quốc tế thành pháp luật quốc gia chính là trách nhiệm của quốc gia với tư cách chủ
thể luật quốc tế. Tuy nhiên, nếu chỉ dừng lại ở việc ban hành, sửa đổi và bổ sung
pháp luật vẫn chưa đủ mà quan trọng là hiệu quả trên thực tế của pháp luật. Do đó,
mục đích và nội dung mà pháp luật Việt Nam về an ninh con người là tốt nhưng sẽ
tốt và hiệu quả hơn khi nó được đưa vào cuộc sống, phát huy giá trị đích thực để
góp phần tích cực tăng cường bảo đảm an ninh con người.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 3
Việt Nam là một quốc gia độc lập có chủ quyền và là thành viên tích cực
của cộng đồng quốc tế. Trong quá trình hội nhập, Việt Nam có nhiều cơ hội và cũng
đứng trước những thách thức của thời đại mà chúng ta phải chung tay hợp tác. An
ninh con người là phổ biến nhưng bảo đảm an ninh con người lại do đặc thù lịch sử,
kinh tế, xã hội và bản chất giai cấp ở mỗi quốc gia. Độc lập cho dân tộc, no ấm, hạnh
phúc của người dân là thành quả của cả một quá trình lịch sử lâu dài nên chúng ta ý
thức rất rõ giá trị của an ninh con người. An ninh con người là an ninh của mỗi người
trên nền tảng của an ninh cộng đồng, dân tộc. Tận tâm thực hiện các cam kết quốc tế,
chuyển hóa pháp luật quốc tế thành chính sách, pháp luật quốc gia đặc biệt là nâng
cao hiệu quả thi hành pháp luật là cơ sở tăng cường an ninh con người trong một xã
hội an toàn góp phần cùng cộng đồng quốc tế giải quyết những vấn đề toàn cầu.
183
KẾT LUẬN
Từ những nghiên cứu ở giai đoạn thập kỷ 60 và 70 của thế kỷ XX và chính
thức xuất hiện năm 1994, khái niệm an ninh con người ngày càng thu hút sự quan
tâm trên phương diện học thuật cũng như thực tiễn quan hệ quốc tế của các quốc
gia. Về phương diện lý luận, an ninh con người còn có nhiều cách lý giải và tiếp cận
khác nhau về nội hàm cũng như việc sử dụng khái niệm. Về nội hàm có quan điểm
cho rằng an ninh con người có nội hàm quá rộng và như vậy khó có thể tìm được sự
đồng thuận của các quốc gia nhưng cũng có quan điểm coi an ninh con người trên
từng khía cạnh và lĩnh vực cụ thể. Về việc sử dụng khái niệm, có quốc gia sử dụng
trực tiếp và coi an ninh con người như là một công cụ trong chính sách đối ngoại
như các quốc gia phương Tây nhưng cũng có quốc gia dè dặt trong việc chấp nhận
khái niệm an ninh con người điển hình là một số quốc gia châu Á vì họ cho rằng an
ninh con người sẽ làm mờ nhạt đi an ninh quốc gia và thực chất là can thiệp vào
công việc nội bộ của quốc gia. Tôi cho rằng, mỗi học giả và từng quốc gia đều có
cơ sở cho quan điểm của mình nhưng một thực tế không ai có thể phủ nhận là hòa
bình và an ninh quốc tế được duy trì chỉ khi an toàn của mỗi cá nhân con người
trong cộng đồng nhân loại được bảo đảm. Nhà nước thông qua đối thoại và hợp tác
để chiến tranh không xảy ra nhưng ngày nay, những nguy cơ lan tỏa xuyên quốc gia
vẫn luôn hiện hữu đe dọa tới cuộc sống bình thường của mỗi người dân. Vì vậy, an
ninh con người đòi hỏi các nỗ lực hơn nữa của các quốc gia trong việc bảo vệ các
giá trị của con người bằng những nhu cầu thiết yếu cho cuộc sống. Vì lẽ đó, an ninh
con người có vai trò tích cực thể hiện: (1) Đó là sự bổ sung cho nội hàm của an ninh
quốc gia; (2) tạo cơ sở nền tảng cho việc bảo vệ và thúc đẩy quyền con người; (3)
tăng cường các nỗ lực hợp tác quốc tế; (4) đòi hỏi mỗi quốc gia, chính phủ phải
không ngừng hoàn thiện chính mình. Tất nhiên, những điều đó luôn phải được thực
hiện trên cơ sở tôn trọng độc lập, chủ quyền của mỗi quốc gia và tuân theo những
nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc tế. Đó là những nội dung đã được khẳng định
trong chương 1 của luận án.
184
Trên cơ sở các yếu tố cấu thành an ninh con người và nội hàm của khái
niệm này theo hai phương diện vật chất và tinh thần với những đòi hỏi đề cao hơn
nữa trách nhiệm của quốc gia cũng như ý thức của mỗi cá nhân con người về an
ninh cho chính mình và cho cộng đồng, rất cần có những qui định của luật pháp
quốc tế, các thiết chế quốc tế trong việc bảo đảm an ninh con người. Rõ ràng, luật
pháp quốc tế đã trù liệu những khuôn khổ pháp lý cho an ninh con người và nền hòa
bình, phát triển cho mỗi quốc gia nhưng những hiểm họa đe dọa sự ổn định của
quốc gia, cuộc sống bình thường của người dân lại luôn tiềm ẩn. Chương 2 của luận
án đã nhấn mạnh cơ sở pháp lý, thiết chế và cơ chế cho sự vận hành dựa trên những
nguyên tắc chung về an ninh con người. Nhưng sẽ không đạt được hiệu quả nếu như
thiếu đi sự nỗ lực hợp tác của các quốc gia mà mục đích cuối cùng là an ninh quốc
gia được bảo đảm, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ được duy trì và quan trọng là người
dân ở mỗi quốc gia được hưởng một cuộc sống bình thường trong điều kiện của
quốc gia và dân tộc mình. Từ đó, rất cần có kiến nghị những giải pháp để hoàn thiện
luật quốc tế và các thiết chế về an ninh con người trong thời gian tới.
Với đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ và hội nhập cùng cộng đồng quốc
tế, Việt Nam cũng đứng trước những nguy cơ toàn cầu và những vấn đề nội tại đe
dọa sự phát triển của đất nước cũng như an ninh con người và chúng ta cũng nhận
thức hậu quả của việc an ninh con người không được bảo đảm. Vì vậy, với quan
điểm coi con người là trung tâm và chủ thể của phát triển được khẳng định trong
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) đã khẳng định nhận thức mới trong bối cảnh toàn cầu
hóa. Chính sách và pháp luật về bảo đảm an ninh con người của Việt Nam tương
đối hài hòa với các chuẩn mực quốc tế thậm chí có những chuẩn mực chúng ta đã
làm được trên cả những tiêu chí của luật pháp quốc tế mà nhiều quốc gia còn phải cố
gắng hơn nhiều mới đạt được ví dụ như việc tạo lập môi trường chính trị hòa bình
ổn định. Đây là điều không thể phủ nhận mà cộng đồng quốc tế phải thừa nhận.
Rất cần có nhận thức mới về con người khi coi con người là chủ thể của
phát triển. Nhận thức là như vậy nhưng chỉ có thể phát triển trên nền tảng của an
185
ninh, cho nên chúng ta cũng cần đối diện trực tiếp với khái niệm an ninh con người
mà không né tránh bởi cơ sở pháp lý là những nguyên tắc cơ bản của luật pháp quốc
tế trên nền của chủ quyền quốc gia. Với ý nghĩa đó, chương 3 đã tập trung phân tích
những qui định của pháp luật Việt Nam về các khía cạnh của an ninh con người,
thực tiễn thực hiện và những nguyên nhân ảnh hưởng tới hiệu quả của pháp luật đặc
biệt là trong lĩnh vực kinh tế, xã hội. Từ đó, các giải pháp được đề xuất để thúc đẩy
an ninh con người ở Việt Nam bao gồm chính sách, chiến lược quốc gia, hình thành
các thiết chế và tham gia điều ước quốc tế, hoàn thiện hệ thống pháp luật quốc gia.
Đó là những tín hiệu pháp lý tốt đẹp để Việt Nam cùng cộng đồng quốc tế hợp tác,
phát triển vì con người.
186
CÁC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1. Chu Mạnh Hùng - Trịnh Xuân An (2007), "An ninh con người trong tiến trình
hình thành cộng đồng ASEAN", Luật học, (9), tr. 23-27.
2. Chu Mạnh Hùng (2011), "An ninh con người trong pháp luật quốc tế", Luật học,
(9), tr. 27-32.
3. Chu Mạnh Hùng (2011), "Mối quan hệ giữa an ninh con người và an ninh quốc gia
trong bối cảnh toàn cầu hóa", Nhà nước và pháp luật, 10(282), tr. 78-84.
187
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. "Bài phát biểu của Bộ trưởng Bộ Y tế tại lễ phát động tháng vệ sinh an toàn
thực phẩm" (2012), http://vfa.gov.vn/content/article, ngày 06/01.
2. Nguyễn Trần Bạt (2008), "Cảm giác bất an", http://xalo.vn/cacche?q=
68e7777502be5ad0327967efd1b755c8f2a3d7763e811b66d7c3632.
3. Ngô Xuân Bình (Chủ biên) (2000), Chính sách đối ngoại của Nhật Bản thời kỳ
sau chiến tranh lạnh, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
4. Nguyễn Phương Bình (Chủ nhiệm đề tài) (2004), Các vấn đề an ninh phi
truyền thống ở Đông Nam Á: tác động đối với ASEAN và Việt Nam, Đề
tài nghiên cứu khoa học, Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội.
5. Nguyên Bình (2011), "An ninh môi trường đã đến lúc cần quan tâm sâu sắc",
http://www.tainguyenmoitruong.com.vn/moi-truong-và-cuoc-song/moi-
truong-cua-ban, ngày 25/01.
6. An Bình (2011), "Canada rút khỏi Nghị định thư Kyoto", http://dantri.com.vn,
ngày 13/12.
7. Đỗ Hòa Bình (Chủ biên) - Phạm Thị Thu Hương - Lê Đức Hạnh (2010), Thuật ngữ
Pháp luật quốc tế, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
8. Nguyễn Trọng Bình và Vũ Hương Linh, "An toàn thực phẩm một vấn đề của an
ninh con người", http://www.erct.com/2-ThoVan/NTBinh/ Antoanthucpham.htm.
9. Lê Văn Bính (Chủ biên) (2010), Luật Điều ước quốc tế, Nxb Đại học Quốc gia
Hà Nội, Hà Nội.
10. Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2011), "Báo cáo Tổng kết thi hành pháp
luật và thực trạng quan hệ xã hội về việc làm", http://www.vieclamvietnam.gov.vn/
tintuc/T%E1%BB%95ngk%E1%BA%BFtthih%C3%...
11. Bộ Ngoại giao (Vụ các Tổ chức Quốc tế) (1999), Các tổ chức quốc tế và Việt
Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
12. Bộ Ngoại giao (2005), Thành tựu bảo vệ và phát triển quyền con người ở Việt
Nam, Hà Nội.
188
13. Bộ Tư pháp (2003), Cẩm nang các vấn đề đấu tranh về quyền con người, Hà Nội.
14. Bộ Tư Pháp (2011), Tài liệu Hội nghị Tổng kết thực hiện đề án "Triển khai
thực hiện công tác theo dõi tình hình thi hành pháp luật" của Thủ tướng Chính phủ và sơ kết thực hiện thông tư hướng dẫn theo dõi thi hành pháp luật của Bộ trưởng Bộ Tư pháp, Hà Nội.
15. "Các nước ASEAN 5 với vấn đề an ninh con người", http://www.
tapchicongsan.org.vn/print,
16. Nguyễn Mạnh Cầm (2009), Đổi mới về đối ngoại và hội nhập quốc tế, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
17. Lê Chân, "An ninh lương thực: Vấn đề sống còn của châu Phi", http://tamnhin.net/
Print/10352/an-ninh-luong-thuc-van-de-song-con-cua-Chau-Phi-.html.
18. Lê Chân, "Xu thế tan băng đe dọa an ninh lương thực toàn cầu", http://www.monre.gov.vn/v35/default.aspx?tabid=428&CateID=106&ID
=104158&IDCode.
19. Vương Dật Châu (Chủ biên) (2004), An ninh quốc tế trong xu thế toàn cầu
hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
20. "Chương trình Phát triển Liên hợp quốc (UNDP)" (2008), http://www.cpv.org.vn/ cpv/
Modules/News/NewsDetail.aspx?co_id=30690&cn_id=256586, ngày 10/11.
21. "Cộng đồng chung tay khắc phục hậu quả bommìn sau chiến tranh" (2012),
Bản tin Đài Truyền hình Việt Nam (VTV1), ngày 06/4.
22. Lê Văn Cương (2005), Quan điểm và giải pháp bảo vệ an ninh quốc gia trong
quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
23. Lê Văn Cương (2008), Bước đầu nhận diện vấn đề an ninh con người, Hội thảo An ninh con người ở Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh.
24. Nguyễn Văn Dân (Chủ biên) (2003), Khủng bố và chống khủng bố quốc tế, Nxb
Khoa học Xã hội, Hà Nội.
25. "Dân số thế giới và áp lực đối với cộng đồng quốc tế" (2011), Bản tin truyền
hình Thông tấn xã Việt Nam, ngày 6/10.
26. Nguyễn Đăng Dung - Vũ Công Giao - Lã khánh Tùng (đồng Chủ biên) (2009),
Giáo trình lý luận và pháp luật về quyền con người, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
189
27. Đảng Cộng sản Việt Nam (1992), Chỉ thị 12-CT/TW ngày 12/7 của Ban Bí thư
Trưng ương, Hà Nội.
28. Đảng Cộng sản Việt Nam (1998), Các Cương lĩnh Đảng Cộng sản Việt Nam,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
29. Đảng Cộng sản Việt Nam (2001), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
IX, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
30. Đảng Cộng sản Việt Nam (2006), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
31. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011), Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
32. Đảng Cộng sản Việt Nam (2011), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
XI, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội
33. Đinh Quý Độ (2007), Vấn đề cải tổ Liên hợp quốc trong bối cảnh quốc tế mới
hiện nay, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
34. H. Fredman (2004), Chiếc xe Luxus và cành Oliu, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
35. Văn Hào (2012), "Nhiều vi phạm về an toàn lao động trong khai thác khoáng
sản", http://giaothongvantai.com.vn/phap-luat/An-toan-lao-dong/201204/
Nhieu-vi-pham-ve-aTL..., ngày 12/4.
36. Lê Hồng Hiệp (2010), "Từ dịch bệnh đến an ninh con người", http://
10nam.hsph.edu.vn/Th%C3%B4ngb%C3%A1otint%E1%BB%A9c/News
_Detail/ta, ngày 12/8.
37. Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2002), Giáo trình lý luận về quyền
con người, Hà Nội.
38. Học viện Quan hệ Quốc tế (2007), Lý luận quan hệ quốc tế, Nhà in Đại học
Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.
39. Học viện Quan hệ Quốc tế (2007), Luật quốc tế, Hà Nội.
40. Hội bảo vệ quyền trẻ em Việt Nam (2010), "Chương trình quốc gia bảo vệ trẻ em
giai đoạn 2011-2015", http://baovequyentreem.vn/index-php, ngày 11/10.
190
41. "Hội nghị trực tuyến về an toàn thực phẩm" (2012), Bản tin Đài Truyền hình
Việt Nam (VTV1), ngày 26/3.
42. Nguyễn Quốc Hùng - Nguyễn Hồng Quân (2008), Liên hợp quốc và lực lượng
gìn giữ hòa bình Liên hợp quốc, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
43. Nguyễn Hưng (2012), "Hình ảnh nạn nhân bom mìn khiến tôi không thể kìm
lòng", http://vnexpress.net, ngày 04/4.
44. Nguyễn Thái Yên Hương (Chủ biên), Nguyễn Quốc Lộc (2005), Can thiệp nhân
đạo trong chính sách đối ngoại của Mỹ, Nxb Thế giới, Hà Nội.
45. Trần Khánh (Chủ biên) (2006), Những vấn đề chính trị, kinh tế Đông Nam Á
thập niên đầu thế kỷ XXI, Hà Nội.
46. Trần Khánh (Chủ biên) (2002), Liên kết ASEAN trong bối cảnh toàn cầu hóa,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
47. Trần Khánh (2008), "Các nước ASEAN 5 với vấn đề an ninh con người",
http://www.tapchicongsan.org.vn/Home/PrintStory.aspx?distribution=27
83&print=true.
48. Trần Khánh (Chủ nhiệm đề tài) (2008), Cộng đồng An ninh ASEAN (ASC) -
Nội dung, lộ trình, triển vọng và tác động, Đề tài nghiên cứu khoa học
cấp bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu Đông Nam
Á, Hà Nội.
49. Trần Bá Khoa (2000), Tìm hiểu những thay đổi lớn trong chiến lược quân sự
của Mỹ, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
50. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội (2010), Quyền con người - Tập tài liệu
chuyên đề của Liên hợp quốc, Nxb Công an nhân dân, Hà Nội.
51. Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội, Trung tâm nghiên cứu quyền con người
và quyền công dân (2011), Luật nhân quyền quốc tế và những vấn đề cơ
bản, Nxb Lao động Xã hội, Hà Nội.
52. "Khủng hoảng lương thực - Nguy cơ đe dọa an ninh toàn cầu" (2009),
www.cpv.org.vn, ngày 03/11.
53. Tường Duy Kiên (2006), Quốc hội Việt Nam với việc bảo đảm quyền con người,
Nxb Tư pháp, Hà Nội.
191
54. "Liên minh châu Phi" (2010), http://www.cpv.org.vn/cpv/Modules/News/
NewsDetail.aspx?co_id=30690&cn_id=420214, ngày 07/9.
55. Phạm Bình Minh (Chủ biên) (2010), Cục diện thế giới đến năm 2020, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
56. Phạm Bình Minh (Chủ biên) (2011), Định hướng chiến lược đối ngoại Việt
Nam đến 2020, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
57. Nguyễn Thu Mỹ (Chủ biên) (2008), Một số vấn đề cơ bản về hợp tác ASEAN +3,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
58. Nguyễn Thị Mỹ (Chủ nhiệm đề tài) (2008), Phản ứng chính sách của các
nước Đông Nam Á đối với tiến trình hình thành Cộng đồng ASEAN (AC),
Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam -
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.
59. Lê Huy Nam (2007), "Hội nghị Cấp cao APEC lần thứ 15", http://www.quochoi.vn/
htx/Vietnammese/defaul.asp?Newid=10487, ngày 09/9.
60. Nguyễn Thị Kim Ngân - Chu Mạnh Hùng (Đồng Chủ biên) (2010), Giáo trình
Luật quốc tế, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
61. Nhà Pháp luật Việt - Pháp (2002), Những vấn đề cơ bản về Liên minh Châu Âu
và pháp luật cộng đồng Châu Âu, Nxb Văn hóa - Thông tin, Hà Nội.
62. Vũ Dương Ninh (Chủ biên) (2004), Việt Nam - ASEAN quan hệ đa phương và
song phương, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
63. Nguyễn Đức Ninh (Chủ nhiệm đề tài) (2007), Cộng đồng văn hóa - xã hội
ASEAN, Đề tài nghiên cứu khoa học cấp bộ, Viện Khoa học Xã hội Việt
Nam - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Hà Nội.
64. Nguyễn Tiến Phồn (2001), Dân chủ và tập trung dân chủ - Lý luận và thực
tiễn, Nxb Khoa học và xã hội, Hà Nội.
65. Chu Công Phùng (2008), "An ninh con người - Những vấn đề lý luận và thực tiễn",
Hội thảo khoa học: An ninh con người ở Đông Nam Á, Thành phố Hồ Chí Minh.
66. Hồng Phượng, "Pháp luật về môi trường: Bất cập của Việt Nam và kinh
nghiệm từ Nhật Bản", http://www.baomoi.com/Phap-luat-ve-moi-truong-
Bat-cap-cua-Viet-Nam-va-kinh-nghiem.
192
67. Nguyễn Trần Quế (1999), Những vấn đề toàn cầu ngày nay, Nxb Khoa học Xã
hội, Hà Nội.
68. Nguyễn Trần Quế (Chủ biên) (2003), 35 năm ASEAN hợp tác và phát triển,
Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
69. Nguyễn Duy Quý (2004), Tiến tới một ASEAN hòa bình, ổn định và phát triển
bền vững, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
70. Ramesh Thakur, "Đưa con người vào đối thoại an ninh: Từ an ninh quốc gia đến an
ninh con người", Hội nghị quốc tế An ninh con người trong thế giới toàn cầu
hóa, Ulan Bato (Mông Cổ), http://www.undp.org/rbap.
71. Phan Văn Rân - Nguyễn Hoàng Giáp (2010), Chủ quyền quốc gia dân tộc
trong xu thế toàn cầu hóa và vấn đề đặt ra đối với Việt Nam, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội.
72. Richard J.Ellings và Shedon W.Simon (2005), An ninh Đông Nam Á trong
Thiên niên kỷ mới, Viện nghiên cứu châu Mỹ và Viện Chiến lược và
Khoa học Công an, Hà Nội.
73. A.I. Romanovich (2003), "Vấn đề an ninh trong bối cảnh phát triển bền vững",
Tạp chí "Tri thức xã hội - nhân văn", (Nga), (4).
74. Samuel Hungtington (2003), Sự va chạm của các nền văn minh, Nxb Lao
động, Hà Nội.
75. Sở Tư pháp Thành phố Hồ Chí Minh (2011), "Đề cương giới thiệu Luật Khám
bệnh, chữa bệnh", http://www.sotuphap.hochiminhcity.gov.vn/phapluat/
Lists/Post.aspx?List=ab554686%2D92c8%2D4b31%2D9cab%, 19/9.
76. Nguyễn Anh Thái (Chủ biên) (2000), Lịch sử thế giới hiện đại, Nxb Giáo dục,
Hà Nội.
77. Cao Đức Thái (Chủ biên) (2002), Tuyên ngôn thế giới và hai Công ước 1966 về
quyền con người, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội.
78. Nguyễn Hồng Thao (2008), Việt Nam và Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội.
79. Hồ Bá Thâm - Nguyễn Thị Tường Vân (Đồng chủ biên) (2010), Phản biện xã hội
và phát huy dân chủ pháp quyền, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
193
80. Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên) (2006), Chênh lệch phát triển kinh tế và an
ninh kinh tế ở ASEAN, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
81. Nguyễn Xuân Thắng (Chủ biên) (2007), Toàn cầu hóa kinh tế và hội nhập
kinh tế quốc tế, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
82. Trần Văn Thắng - Lê Mai Anh (Đồng chủ biên) (2003), Luật Quốc tế - Lý luận
và thực tiễn, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
83. Thông tấn xã Việt Nam (2003), "ASEAN - Thách thức và cơ hội", Tài liệu
tham khảo đặc biệt, (9).
84. Thông tấn xã Việt Nam (2010), "Liên hợp quốc kêu gọi tăng an ninh con người",
http://www.vietnamplus.vn/Utilities/Printview.aspx?ID=45908, ngày 21/5.
85. Thông tấn xã Việt Nam, "Số người thất nghiệp trên thế giới có nguy cơ tăng lên mức
kỷ lục", http://tuoitre.vn/ PrintView.aspx?ArticleID=285404.
86. Nguyễn Thị Thuận (2010), Luật Quốc tế - Những điều cần biết, Nxb Công an nhân
dân, Hà Nội.
87. "Thực trạng và những thách thức đối với môi trường toàn cầu và Việt Nam",
http://www.wattpad.com/139212?p=1.
88. Tổng cục Môi trường - Bộ Tài nguyên và Môi trường (2012)," Tình hình thi
hành pháp luật trong lĩnh vực bảo vệ môi trường", http://vea.gov.vn/
vn/truyenthong/tapchimt/nctd42009/Pages/T%C3%ACnh-h%C3%ACnh.
89. Nguyễn Phú Trọng (2011), Phát huy dân chủ, tiếp tục xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân vì nhân dân,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
90. Nguyễn Hữu Trung, "Nhiệt độ cao - Mối đe dọa của an ninh lương thực", http://cafef.vn/
2011071110483735CA52/nhiet-do-cao-moi-de-doa-an-ninh-luong-thuc.
91. Trung tâm Nghiên cứu quyền con người - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí
Minh (1998), Các văn kiện quốc tế về quyền con người, Nxb Chính trị
quốc gia, Hà Nội.
92. Trung tâm Nghiên cứu Quyền con người - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ
Chí Minh (2005), Luật Nhân đạo quốc tế - Những nội dung cơ bản, Nxb
Lý luận chính trị, Hà Nội.
194
93. Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Thành phố Hồ Chí Minh
(2008), An ninh con người ở Đông Nam Á, Hội thảo khoa học, Bộ môn
Quan hệ quốc tế, Thành phố Hồ Chí Minh.
94. Trường Đại học Luật Hà Nội (2007), Giáo trình Luật Quốc tế, Nxb Công an
nhân dân, Hà Nội.
95. Võ Anh Tuấn (1999), Phong trào không liên kết, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
96. Tạ Minh Tuấn (Chủ nhiệm đề tài) (2004), Các thách thức an ninh phi truyền
thống ở Đông Nam Á: tác động đối với ASEAN và Việt Nam, Đề tài
nghiên cứu khoa học, Học viện Quan hệ Quốc tế, Hà Nội.
97. Tạ Minh Tuấn (2008), "An ninh con người và những mối đe dọa toàn cầu",
http://www.tapchicongsan.org.vn/print_preview.asp?Object=4&news_I
D=13540442, ngày 13/05.
98. Lục Trung Vĩ (2006), Bàn về an ninh phi truyền thống, Viện Chiến lược và
Khoa học Công an, Hà Nội.
99. Viện Khoa học Xã hội Việt Nam - Viện Nghiên cứu Đông Nam Á, Phạm Thị
Vinh (Chủ biên) (2007), Một số vấn đề về xung đột sắc tộc và tôn giáo ở
Đông Nam Á, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
100. Viện Nghiên cứu phát triển thành phố Hồ Chí Minh (2007), "Việc làm - Thực
trạng và những vấn đề bất cập ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay",
Nghiên cứu kinh tế, (344).
101. Viện Thông tin Khoa học - Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2003), "Một
số vấn đề về an ninh thế giới", Thông tin chuyên đề, (4).
102. Viện Thông tin Khoa học Xã hội (2003), An ninh trong quan niệm phát triển
con người, (Tài liệu dịch của Z.Z.Biktimirova), Hà Nội.
103. Việt Nam+ (2011), "Việt Nam tham dự hội thảo về an ninh con người",
http://www.baomoi.com/122/3897746.epi, ngày 23/02.
104. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), Quyền con người - Tiếp cận đa ngành và liên
ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
105. Võ Khánh Vinh (Chủ biên) (2009), Quyền con người tiếp cận đa ngành và liên
ngành khoa học xã hội, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội.
195
106. Phùng Xuân (2011), "Bảo đảm an toàn lao động trong lĩnh vực xây dựng",
http://xaydungbg.com/index.php?option=com_content&view=article&id
=987:bo-m-an-toa..., ngày 27/4.
107. Nguyễn Như Ý (Chủ biên) (1998), Đại Từ điển Tiếng Việt, Nxb Văn hóa
Thông tin, Hà Nội.
108. William J. Clinton (1997), Chiến lược an ninh quốc gia sự cam kết và mở rộng
1995 - 1996, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
109. Wolfgang Benedek (Chủ biên) (2008), Tìm hiểu về quyền con người - Tài liệu
hướng dẫn về giáo dục quyền con người (Tài liệu dịch), Nxb Tư pháp,
Hà Nội.
TIẾNG ANH
110. Akaha, Tsuneo (2002), "Non- Traditional Security Issues in Northeast Asia and
Prospects for International Cooperation", UNU conference on "Thinking
outside the Security Box: Non- Traditional Security in Asia: Governance, Globalization, and the Environment", UN,NY, March 15th 2002.
111. W.E. Blatz, Human Security (1996), Some reflections, University of Toronto Press.
112. Capie và Evans (2002), The Asia - Pacific Security Lexicon, Singapore: ISEAS.
113. "Commission on Human Security protecting and Empowering people" (2003),
http://www.humansecuritychs.org/finalreport/outlines/ouline.html.
114. David Baldwin (1985), Economic Statecraft, New York: Columbia University Press.
115. David Capie và Paul Evans (2003), Thuật ngữ an ninh Châu Á - Thái Bình
Dương, (Học viện Quan hệ Quốc tế), Hà Nội.
116. David Campell (1992), Writing Security, United States Forein Policy and the
Polities of Identity, Manchester University Press.
117. Donella H. Meadows, Dennis L.Meadows Jorgen Randers and William W
Behrens III, (1972): The Limits to Growth, New York, Uniserse Book
118. Janne Nolan (1994), Global Engagement: Coopperation an Security in the 21
Century, Washington D.C, The Brookings Institution.
119. "Final Report of the Commission on Human Security" (2003), http://www.
humansecurity-chs.org/Finalreport/ English/FinalReport.pdf.
196
120. Kanti Bajpai, Human Security: Concept and Measurement.
121. Ministry of Foreign Affairs of Japan, "Human Security", http://www.
mofa.go.jp/policy/oda/sector/security/action.html.
122. Ralf Emmer, Mely Caballero and Amitave Acharya (2006), Studying Non-traditional
Security in Asia: Trend an Issues, Marshall Cavendish Academic.
123. The Commission on Global Governance, Our Global Neighborhood (1995), New
York: Oxford University Press.
124. The Independent Commission on Disarmament and Security Issues (1982),
Common Security: A Blueprint for Survival (1982), New York: Simon
and Schuster.
125. The Independent Commission on the International Development Issues, (1980),
North - South: A Programme for survival, Cambrige, MA: The MIT Press
126. The Independent Commission on Disarmament and Security Issues, (1982),
Common Security: A Blueprint for Survival, New York: Simon and Schuster.
127. UNDP (1994), Human Development Report 1994, New York: United Nations.
128. William R. Slomanson, Fundamental Perspectives on International Law
(Fourth Edition), Thomson West.