ĐỀ CƯƠNG BÀI GIẢNG HỌC PHẦN QUẢN TRỊ MARKETING
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ MARKETING
(Số tiết: 5 (Lý thuyết: 4 tiết, bài tập, thảo luận: 01 tiết)
A) MỤC TIÊU:
- Kiến thức:
+ Hiểu rõ các khái niệm cơ bản của marketing
+ Nắm được khái niệm quản trị marketing và các quan điểm quản trị marketing
+ Biết qui trình quản trị marketing
- Kỹ năng:
+ Phân tích và giải quyết các tình huống quản trị marketing;
+ Làm việc nhóm, thuyết trình các vấn đề liên quan đến học phần.
- Mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm:
+ Nhận thức được tầm quan trọng của quản trị marketing trong doanh nghiệp;
+ Tích cực, chủ động phát huy vai trò của mình khi tham gia hoạt động nhóm;
+ Say mê tìm hiểu, khám phá kiến thức, kĩ năng mới.
B) TÀI LIỆU HỌC TẬP
Tài liệu học tập: PGS.TS. Trương Đình Chiến - Quản trị marketing - NXB Đại
học Kinh tế quốc dân, năm 2017 {tr5-tr50}
C) NỘI DUNG:
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA MARKETING
1.1.1. Nhu cầu, mong muốn và yêu cầu
Nhu cầu của con người là một trạng thái cảm giác thiếu hụt một sự thoả mãn
cơ bản nào đó.
Mong muốn là sự ao ước có được những thứ cụ thể để thoả mãn những nhu
1
cầu sâu xa hơn đó.
Yêu cầu là mong muốn có được những sản phẩm cụ thể được hậu thuẫn của
khả năng và thái độ sẵn sàng mua chúng. Mong muốn trở thành yêu cầu khi có sức
mua hỗ trợ.
1.1.2. Sản phẩm
Sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể đem chào bán để thoả mãn một nhu cầu hay
mong muốn.
1.1.3. Trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ
Trao đổi là một trong bốn cách để người ta có được các sản phẩm.
Cách thứ nhất là tự sản xuất. Người ta có thể tự giải quyết cơn đói bằng cách
săn bắn, đánh cá hay hái lượm trái cây. Họ không cần phải quan hệ với bất kỳ ai khác.
Trong trường hợp này, không có thị trường và cũng không có marketing.
Cách thứ hai là cưỡng đoạt. Những người đói có thể cướp giật hay đánh cắp
thức ăn của những người khác. Những người khác đó không được lợi gì ngoại trừ
một điều là không bị thương.
Cách thứ ba là đi xin. Những người đói có thể đến xin người khác thức ăn. Họ
không có thứ gì hữu hình để trao đổi, ngoại trừ lời cảm ơn.
Cách thứ tư là trao đổi. Những người đói có thể đem đến người khác tiền, loại
hàng hoá khác hay dịch vụ để đổi lấy thức ăn.
Trao đổi là hành động tiếp nhận một sản phẩm mong muốn từ một người nào
đó bằng cách đưa cho người đó những thứ gì đó.
Trao đổi chỉ xảy ra khi thoả mãn đủ điều kiện sau:
1. Ít nhất phải có hai bên.
2. Mỗi bên phải có một thứ gì đó có thể có giá trị đối với bên kia.
3. Mỗi bên phải có khả năng tự giao dịch và chuyển giao hàng hoá của mình.
4. Mỗi bên đều có quyền tự do chấp nhận hay khước từ lời đề nghị của bên kia.
5. Mỗi bên đều tin chắc là mình nên hay muốn giao dịch với bên kia.
Hai bên được xem như là đã tham gia trao đổi nếu họ đang thương lượng để đi
đến một thoả thuận. Khi đạt được một thoả thuận thì ta nói giao dịch đã diễn ra. Giao
dịch là đơn vị cơ bản của trao đổi.
2
Giao dịch là một vụ mua bán những giá trị giữa hai bên.
1.1.4. Thị trường
Thị trường bao gồm tất cả các khách hàng hiện tại và tiềm ẩn cùng có một nhu cầu hay mong muốn cụ thể, sẵn sàng và có khả năng tham gia trao đổi để thỏa mãn nhu cầu hay mong muốn đó. Những người kinh doanh sử dụng thuật ngữ thị trường để chỉ nhóm khách hàng
khác nhau. Họ nói về thị trường nhu cầu (chẳng hạn như thị trường thực phẩm thường
ngày), thị trường sản phẩm (thị trường giày dép), thị trường nhân khẩu (như thị trường
thanh niên) và thị trường địa lý (như thị trường Việt Nam). Hay họ còn mở rộng khái
niệm để chỉ cả những nhóm không phải khách hàng, như thị trường cử tri, thị trường
sức lao động và thị trường nhà hảo tâm.
1.1.5. Giá trị khách hàng (customer value)
Giá trị khách hàng (customer value) là toàn bộ lợi ích mà khách hàng nhận
được nhờ sở hữu sản phẩm/dịch vụ, nó bao gồm những lợi ích do sản phẩm/dịch vụ
mang lại, lợi ích do dịch vụ cộng thêm, lợi ích do hình ảnh của thương hiệu người
bán, lợi ích nhờ mối quan hệ cá nhân hình thành
Giá trị dành cho khách hàng là chênh lệch giữa tổng giá trị của khách hàng
và tổng chi phí của khách hàng. Tổng giá trị của khách hàng là toàn bộ những lợi ích
mà khách hàng trông đợi ở một sản phẩm hay dịch vụ nhất định
Tổng giá trị của KH Tổng chi phí của KH
- =
Giá trị dành cho khách hàng (lợi ích)
- Giá trị sản phẩm - Giá trị dịch vụ - Giá trị về nhân sự - Giá trị về hình ảnh - Giá tiền - Phí tổn thời gian - Phí tổn công sức - Phí tổn tinh thần
1.2. QUẢN TRỊ MARKETING
1.2.1. Khái niệm
Quản trị marketing là quá trình lập kế hoạch, và thực hiện kế hoạch đó, định giá, khuyến mãi và phân phối hàng hóa, dịch vụ và ý tưởng để tạo ra sự trao đổi với các nhóm mục tiêu, thỏa mãn những mục tiêu khách hàng và tổ chức.
Hội marketing Mỹ năm 1985.
Định nghĩa này thừa nhận quản trị marketing là một quá trình bao gồm việc
3
phân tích, lập kế hoạch, thực hiện và kiểm soát. Nó liên quan đến hàng hóa, dịch vụ
và ý tưởng, và dựa trên ý niệm về trao đổi, mục đích của nó là tạo ra sự thỏa mãn cho
các bên
1.2.2. Những định hướng phát triển của marketing
1.2.2.1. Quan điểm sản xuất
Quan điểm sản xuất là một trong những quan điểm chỉ đạo người bán lâu đời nhất.
Quan điểm sản xuất khẳng định rằng người tiêu dùng sẽ ưa thích những sản
phẩm được bán rộng rãi và giá hạ.
Những người lãnh đạo các tổ chức theo quan điểm sản xuất phải tập trung vào
việc nâng cao hiệu quả sản xuất và mở rộng phạm vi phân phối.
Đúng trong hai tình huống:
Thứ nhất là khi nhu cầu có khả năng thanh toán về sản phẩm vượt quá lượng
cung ứng, như thường thấy ở nhiều nước thuộc thế giới thứ ba. Ở đó người tiêu dùng
quan tâm nhiều hơn đến việc kiếm được sản phẩm, chứ ít chú ý đến chi tiết của nó.
Những người cung ứng sẽ tập trung vào việc tìm cách tăng sản lượng.
Thứ hai là giá thành sản phẩm cao cần phải giảm xuống bằng cách nâng cao
năng suất để mở rộng thị trường
1.2.2.2. Quan điểm sản phẩm
Quan điểm sản phẩm khẳng định rằng người tiêu dùng sẽ ưa thích những sản
phẩm có chất lượng cao nhất, công dụng nhiều hay có những tính năng mới.
Những người lãnh đạo các tổ chức theo quan điểm sản phẩm thường tập trung sức
lực vào việc làm ra những sản phẩm thượng hạng và thường xuyên cải tiến chúng.
Quan điểm sản phẩm dẫn đến căn bệnh “thiển cận trong marketing” chỉ chú
trọng đến sản phẩm mà không tính đến nhu cầu của khách hàng.
Ban lãnh đạo đường sắt nghĩ rằng những người sử dụng cần tàu hoả chứ không
phải là cần vận chuyển và đã xem thường những thách thức ngày càng tăng của máy
bay, xe buýt, xe tải và xe con. Nhà thờ, cửa hàng bách hoá tổng hợp và bưu điện đều
cho rằng mình đảm bảo cho công chúng đủ sản phẩm mà họ cần và băn khoăn không
hiểu tại sao mức tiêu thụ của chúng lại kém.
4
1.2.2.3. Quan điểm bán hàng
Quan điểm bán hàng (hay quan điểm tiêu thụ) là một quan điểm chung khác
được nhiều công ty vận dụng vào thị trường.
Quan điểm bán hàng khẳng định rằng nếu cứ để yên, thì người tiêu dùng
thường sẽ không mua các sản phẩm của công ty với số lượng khá lớn. Vì vậy tổ chức
cần phải có nhiều nỗ lực tiêu thụ và khuyến mãi .
Quan điểm này cho rằng người tiêu dùng thường tỏ ra có sức ỳ hay thái độ
ngần ngại trong việc mua hàng và cần được thuyết phục nhẹ nhàng thì mới mua hàng,
nên công ty cần có đầy đủ các công cụ bán hàng và khuyến mãi để kích thích mua
hàng nhiều hơn.
Quan điểm bán hàng được vận dụng đặc biệt thích hợp với những thứ hàng có
nhu cầu thụ động tức là những thứ hàng mà người mua thường không nghĩ đến chuyện
mua sắm nó, như bảo hiểm, từ điển bách khoa toàn thư.... Những ngành này thường
hay áp dụng những biện pháp bán hàng khác nhau để phát hiện những khách hàng
tiềm ẩn rồi bắt đầu nài ép để bán hàng cho họ bằng cách thuyết phục về những lợi ích
của sản phẩm.
Phương pháp bán hàng nài ép cũng được áp dụng đối với những thứ hàng có
nhu cầu chủ động, như ô tô chẳng hạn:
Ngay từ khi khách hàng vừa bước chân vào phòng trưng bày, nhân viên ô tô
lập tức bắt đầu “tác động tâm lý”. Nếu khách hàng thích kiểu xe đang trưng bày,
người ta có thể nói với họ rằng có một khách hàng khác đang định mua nó, nên cần
phải quyết định ngay, không chậm trễ. Nếu khách hàng đó còn đắn đo về giá cả, thì
người bán đề nghị xin ý kiến của cửa hàng trưởng cho bớt một khoản đặc biệt. Khách
hàng chờ khoảng mười phút thì nhân viên bán hàng quay trở lại và thông báo rằng
“tuy ông chủ không thích việc này, thế nhưng tôi đã năn nỉ ông ta đồng ý”. Mục đích
là “lên dây cót khách hàng” và buộc họ phải “mua liền”.
Quan điểm bán hàng cũng được vận dụng cả trong lĩnh vực phi lợi nhuận, như
quyên góp quỹ, chiêu sinh vào các trường đại học
Hầu hết các công ty đều áp dụng quan điểm bán hàng khi họ có dư công suất.
Mục đích của họ là bán được những gì mà họ làm ra chứ không phải là làm ra những
5
gì mà thị trường mong muốn.
Trong nền kinh tế công nghiệp hiện đại, năng lực sản xuất đã được phát triển
tới mức độ là hầu hết các thị trường đều là thị trường người mua (tức là người mua
giữ vai trò khống chế) và người bán thì ra sức giành nhau khách hàng. Khách hàng
tiềm ẩn bị tấn công dồn dập bằng những chương trình quảng cáo thương mại trên
truyền hình, trên báo chí, thư gửi trực tiếp và các cuộc viếng thăm để chào hàng. Mọi
nơi mọi lúc đều có một người nào đó đang cố gắng để bán được một thứ gì đó. Kết
quả là công chúng đã đồng nhất marketing không phải là việc bán hàng. Bán hàng chỉ
là phần nổi của tảng băng marketing mà thôi. Peter Drucker, một nhà lý luận hàng
đầu về quản trị, đã nói về vấn đề này như sau:
"Người ta có thể cho rằng bao giờ cũng có nhu cầu bán một thứ gì đó. Nhưng
mục đích của marketing là làm cho việc bán hàng trở nên không cần thiết. Mục đích
của marketing là biết được, hiểu được khách hàng một cách thấu đáo đến mức độ là
sản phẩm hay dịch vụ đều vừa ý họ và tự nó tiêu thụ. Điều lý tưởng là marketing phải
đưa đến kết quả là có một khách hàng sẵn sàng mua hàng. Khi đó tất cả những việc
cần làm là đảm bảo cho sản phẩm hay dịch vụ luôn sẵn có…"
Như vậy, để bán được hàng thì trước đó phải tiến hành một số hoạt động
marketing như đánh giá nhu cầu, nghiên cứu marketing, phát triển sản phẩm, đánh
giá và phân phối. Nếu người làm marketing thực hiện tốt việc xác định những nhu
cầu của người tiêu dùng, phát triển sản phẩm thích hợp, rồi định giá, phân phối rồi
khuyến mại chúng một cách có hiệu quả, thì những sản phẩm đó sẽ được tiêu thụ dễ dàng.
1.2.2.4. Quan điểm định hướng marketing
Quan điểm marketing là một triết lý kinh doanh đang thách thức những quan
điểm trước đây. Những nguyên lý trung tâm của nó được hình thành vào giữa những
năm 1950.
Quan điểm marketing khẳng định rằng, chìa khoá để đạt được những mục tiêu
của tổ chức là xác định được những nhu cầu cùng mong muốn của các thị trường
mục tiêu và đảm bảo mức độ thoả mãn mong muốn bằng những phương thức hữu
hiệu và hiệu quả so với các đối thủ cạnh tranh.
Theo doe Levitt đã nêu ra sự tương phản sâu sắc giữa quan điểm bán hàng và
6
quan điểm marketing như sau:
Quan điểm bán hàng tập trung vào những nhu cầu của người bán; Quan điểm
marketing thì chú trọng đến những nhu cầu của người mua. Quan điểm bán hàng để
tâm đến nhu cầu của người bán là làm thế nào để biến sản phẩm của mình thành tiền
mặt, còn quan điểm marketing thì quan tâm đến ý tưởng thoả mãn nhu cầu của khách
hàng bằng chính sản phẩm và tất cả những gì liên quan đến việc tạo ra, cúng ứng và
cuối cùng là tiêu dùng sản phẩm đó.
Quan điểm marketing dựa trên bốn trụ cột chính là thị trường mục tiêu, nhu
cầu của khách hàng, marketing phối hợp và khả năng sinh lời.
1.2.2.5. Quan điểm marketing đạo đức-xã hội
Quan điểm này khẳng định rằng, doanh nghiệp không những phải thoả mãn nhu
cầu và đòi hỏi của khách hàng mà còn phải giữ nguyên hay củng cố mức sung túc
cho người tiêu dùng và cho toàn xã hội.
Quan điểm này đòi hỏi một sản phẩm phải thoả mãn cả 3 yếu tố:
1. Lợi ích của Cty.
2. Lợi ích của khách hàng.
3. Lợi ích của xã hội.
So sánh quan điểm bán hàng và quan điểm marketing
Khởi điểm Tập trung Chiến lược Mục tiêu
Nhà SX Hàng hoá Bán hàng Thu LN qua việc tăng Khuyến mãi khối lượng bán ra
Quan điểm bán hàng
hợp marketing thỏamãn nhu cầu KH Thị trường NC KH Nỗ lực tổng Thu LN qua việc
Quan điểm marketing
1.2.3.Các mục tiêu của hệ thống Marketing
7
- Tối đa hoá mức độ tiêu dùng
- Tối đa hoá sự thoả mãn của người tiêu dùng
- Tối đa hoá sự lựa chọn
- Tối đa hoá chất lượng cuộc sống
1.2.4. Tiến trình quản trị Marketing
Theo quan điểm của Philip Kotler: Tiến trình marketing gồm các công việc: Phân tích cơ hội thị trường, lựa chọn thị trường mục tiêu, hoạch định chiến lược marketing, triển khai marketing - mix, tổ chức thực hiện và kiểm tra hoạt động marketing.
Phân tích cơ hội thị trường
Nghiên cứu và lựa chọn TT mụctiêu
Hoạch định chiến lược marketing
Triển khai chiến lược marketing -mix
Thực hiện các chương trình marketing
Kiểm tra hoạt động marketing
Quá trình quản trị marketing - Philip Kotler
1.2.4.1. Phân tích cơ hội thị trường
Các doanh nghiệp cần tìm ra những cơ hội thị trường mới
+ Phân tích thị trường: bao gồm quy mô, cơ cấu, sự vận động và hành vi của thị
trường (khách hàng người tiêu dùng cá nhân và khách hàng tổ chức, thị phần tương đối.
+ Phân tích các yếu tố thuộc môi trường ngành và cạnh tranh: Nhà cung cấp,
các đối thủ cạnh tranh, các trung gian marketing, các phương tiện thông tin đại chúng,
các tổ chức xã hội.
Doanh nghiệp phân tích tiềm lực, khả năng, sức mạnh, điểm yếu, mục tiêu,
chiến lược của các nhà cung cấp để lựa chọn được nhà cung cấp tối ưu cho mình.
Các trung gian marketing bao gồm các nhà bán buôn, bán lẻ, các tổ chức dịch
8
vụ tư vấn, nghiên cứu marketing, ngân hàng, công ty tài chính bảo hiểm..tham gia
vào quá trình marketing của doanh nghiệp giúp doanh nghiệp tìm kiếm khách hàng
và tiêu thụ sản phẩm.
Công chúng của thị trường bao gồm các phương tiện thông tin đại chúng, các
tổ chức xã hội, các cơ quan chính quyền, lực lượng đông đảo quần chúng.
Phân tích đối thủ cạnh tranh: có 4 cấp độ, cạnh tranh giữa các thương hiệu/nhãn
hiệu; cạnh tranh về hình thức sản phẩm (sản phẩm cùng loại), cạnh tranh giữa các sản
phẩm thay thế (sản phẩm khác loại), cạnh tranh giữa các nhu cầu
+ Phân tích các yếu tố trong môi trường marketing vĩ mô, sự thay đổi các yếu
tố của môi trường có thể tạo ra những thuận lợi cho doanh nghiệp hoặc cũng có thể
gây ra những nguy cơ đối với hoạt động marketing của doanh nghiệp. Điều căn bản
là phải phân tích và nhận biết được những biến đổi nào của môi trường có thể trở
thành những nguy cơ và mức độ tác động của các nguy cơ này đối với doanh nghiệp
như thế nào? Bao gồm môi trường kinh tế, chính trị, luật pháp, văn hoá xã hội, môi
trường công nghệ.
Doanh nghiệp cần phải tổ chức tốt công tác nghiên cứu marketing và hệ thống
tình báo marketing để thường xuyên phân tích và đánh giá những thây đổi của môi
trường, các xu hướng trong tiêu dùng, thái độ của khách hàng đối với hoạt động
marketing của doanh nghiệp...
Có rất nhiều phương pháp để xác định cơ hội thị trường, tuỳ theo đặc điểm
hoạt động của mình mà các doanh nghiệp có thể xem xét để phân tích thị trường
chẳng hạn:
- Phương pháp kẻ hở thị trường
- Phương pháp phân tích khả năng sinh lời của sản phẩn theo khách hàng
- Phương pháp phân tích bằng mạng mở rộng sản phẩm/thị trường.
- Đánh giá mức độ hấp dẫn của ngành theo phương pháp phân tích danh mục
đầu tư (Ma trân BCG)
1.2.4.2. Phân đoạn và lựa chọn thị trường mục tiêu
Các doanh nghiệp cần xác định rõ khách hàng của mình là ai? Họ có những
9
nhu cầu mong muốn gì cần được thoả mãn? Chiến lược marketing khác biệt cho từng
nhóm khách hàng của doanh nghiệp. Điều này chỉ có thể trả lời được trên cơ sở phân
đoạn và lựa chọn thị trường mục tiêu.
Việc lựa chọn thị trường mục tiêu được thực hiện qua 4 bước:
Bước 1. Đo lường và dự báo nhu cầu
- Đo lường thị trường: Có 90 kiểu đo lường
+ Theo cấp độ thời gian: ngắn - trung - dài hạn
+ Cấp độ không gian: Thế giới, quốc gia, miền, khu vực, tỉnh/TP)
+ Cấp độ sản phẩm: Món hàng, mặt hàng, loại hàng, đơn vị kinh doanh, công
ty, ngành kinh doanh)
- Khái niệm
Thị trường là một tập hợp những khách hàng hiện tại và tiềm năng có nhu cầu
100%
100%
Tổng dân số
Thị trường tiềm năng
40%
Thị trường có thể có
20%
Thị trường có thể có và đủ điều kiện
10%
Thị trường phục vụ
và mong muốn về một sản phẩm dịch vụ nào đó.
10%
Thị trường tiềm năng
5%
Thị trường đã thâm nhập
Thị trường tiềm năng
Các loại thị trường của DN
Qui mô thị trường là số lượng người mua có thể có đối với một sản phẩm hoặc
dịch vụ nhất định
Thị trường tiềm năng là tập hợp các người tiêu dùng có nhu cầu về một loại
sản phẩm nào đó
Thị trường có thể có là tập hợp khách hàng có nhu cầu, có thu nhập và có thể
10
tiếp cận được với một sản phẩm nào đó
Thị trường có thể có và đủ điều kiện là tập hợp tất cả các KH có nhu cầu, thu
nhập, có khả năng tiếp cận và đủ điều kiện để mua sản phẩm đó
- Ước lượng tổng cầu thị trường
Công thức: Q = n x q x p
Q- Tổng cầu thị trường
n- Số lượng người mua
q- Số lượng bình quân trong năm của một khách hàng
p- Giá bán của một sản phẩm
Bước 2. Phân đoạn thị trường
- Tiêu chí sử dụng trong phân đoạn
- Nhu cầu của từng đoạn thị trường
Bước 3. Lựa chọn thị trường mục tiêu
- Đoạn thị trường lựa chọn để phục vụ
- Chiến lược marketing đáp ứng thị trường mục tiêu
Bước 4. Định vị thị trường
- Tiêu chí định vị thị trường
1.2.4.3. Hoạch định chiến lược Marketing
Doanh nghiệp cần xây dựng và lựa chọn chiến lược marketing thích hợp nhất
để định hướng cho toàn bộ hoạt động marketing của mình
Chiến lược marketing được xây dựng phải bao hàm các nội dung:
- Mục tiêu chiến lược marketing.
- Định dạng marketing – mix (marketing hỗn hợp)
- Các chiến lược marketing cạnh tranh của doanh nghiệp.
Ngân sách marketing và phân bổ ngân sách cho hoạt động marketing.
11
1.2.4.4. Triển khai Marketing - Mix
Khuyến mãi
Quảng cáo
LLBH
Khách hàng mục tiêu
Kênh phân phối
Xúc tiến
Doanh nghiệp
PR
Marketing TT
Sản phẩm Giá
4C 4P
Marketing - mix là tập hợp các phương tiện (công cụ) marketing có thể kiểm
soát được mà doanh nghiệp phối hợp sử dụng để tạo nên sự đáp ứng cần thiết trong
thị trường mục tiêu nhằm đạt được những mục tiêu marketing của mình.
Có nhiều công cụ khác nhau được sử dụng trong marketing - mix nhưng có
thể gộp thành 4 yếu tố gọi là 4P: Sản phẩm (Product), giá cả (Price), phân phối (Place)
và cổ động (Promotion).
Sản phẩm: Là sự kết hợp “vật phẩm và dịch vụ” mà doanh nghiệp cống hiến
cho thị trường mục tiêu gồm có: phẩm chất, đặc điểm phong cách nhãn hiệu, bao bì,
quy cách (kích cỡ), dịch vụ bảo hành.
Giá cả: Là số tiền mà khách hàng bỏ ra để có được sản phẩm. Giá cả phải tương
xứng với giá trị cảm nhận được ở vật phẩm cống hiến, bằng không những người mua sẽ
tìm mua ở những nhà sản xuất khác. Giá cả bao gồm: giá qui định, giá chiết khấu, giá bù
lỗ, giá theo thời hạn thanh toán, giá kèm theo điều kiện tín dụng,…
Phân phối: Bao gồm những hoạt động khác nhau của doanh nghiệp nhằm đưa
sản phẩm đến tay người tiêu dùng mà doanh nghiệp muốn hướng đến, như xác định
kênh phân phối, lựa chọn các trung gian, mức độ bao phủ thị trường, bố trí lực lượng
12
bán hàng theo các khu vực thị trường, kiểm kê vận chuyển, dự trữ.
Truyền thông: Là những hoạt động thông đạt những giá trị sản phẩm và thuyết
phục được khách hàng mục tiêu của sản phẩm ấy. Truyền thông bao gồm các hoạt động
quảng cáo, bán trực tiếp, khuyến mãi, quan hệ công chúng, marketing trực tiếp.
Các doanh nghiệp thực hiện marketing - mix bằng cách phối hợp các yếu tố
đó để tác động làm thay đổi sức cầu thị trường về sản phẩm của mình theo hướng có
lợi cho kinh doanh.
1.2.4.5. Tổ chức thực hiện và kiểm tra hoạt động Marketing
Chiến lược xây dựng mới chỉ dừng lại ở dạng khởi thảo, thể hiện các dự định cần
tiến hành trong tương lai, vì vậy doanh nghiệp cần phải biến các dự định đó thành
hiện thực bằng cách thực hiện chiến lược marketing hữu hiệu.
Nội dung của tổ chức thực hiện marketing bao gồm:
Xây dựng các chương trình hành động cụ thể.
Tổ chức bộ phận marketing thích hợp với quy mô hoạt động marketing của
doanh nghiệp.
Phát triển hệ thống khen thưởng và quyết định.
Xây dựng bầu không khí tổ chức tích cực có khả năng động viên toàn bộ nỗ
lực của nhân viên trong việc hoàn thành mục tiêu.
Phát triển nguồn nhân lực đủ khả năng thực hiện các chương trình marketing
đã thiết kế.
Doanh nghiệp cũng cần phải thực hiện kiểm tra các hoạt động marketing để
bảo đảm rằng việc thực hiện được tiến triển theo đúng chiến lược đã được vạch ra,
13
cũng có thế tiến hành theo sự điều chỉnh cần thiết để đạt được mục tiêu.
1.2.5. Nhà quản trị marketing
CMO (Chief Marketing Officer - Giám đốc marketing) là một chức vụ quản
lý cao cấp, chịu trách nhiệm về marketing trong một công ty. Thông thường, vị trí
này sẽ báo cáo trực tiếp kết quả công việc cho tổng giám đốc (CEO).
Vai trò và trách nhiệm của CMO liên quan đến việc phát triển sản phẩm, truyền
thông tiếp thị, nghiên cứu thị trường, chăm sóc khách hàng, phát triển kênh phân phối,
quan hệ công chúng, quản trị bán hàng…
CMO (Chief Marketing Officer - Giám đốc marketing) là một chức vụ quản
lý cao cấp, chịu trách nhiệm về marketing trong một công ty. Thông thường, vị trí
này sẽ báo cáo trực tiếp kết quả công việc cho tổng giám đốc (CEO).
Vai trò và trách nhiệm của CMO liên quan đến việc phát triển sản phẩm, truyền
thông tiếp thị, nghiên cứu thị trường, chăm sóc khách hàng, phát triển kênh phân phối,
quan hệ công chúng, quản trị bán hàng…
D) CÂU HỎI, BÀI TẬP, NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CỦA
CHƯƠNG 1
- Câu hỏi ôn tập:
1. Tại sao marketing lại tập trung vào thoả mãn nhu cầu và mong muốn của khách
hàng
2. Hãy nêu các bộ phận của marketing - mix. Hãy mô tả hỗn hợp marketing của
một số sản phẩm/thương hiệu của một doanh nghiệp cụ thể.
3. Nội dung chủ yếu của các giai đoạn trong quá trình quản trị marketing
- Chuyên đề thảo luận: Sự phát triển của Marketing trong thời đại số hiện nay?
CHƯƠNG 2. HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC MARKETING
(Số tiết: 7 (Lý thuyết: 5 tiết, thực hành: 02 tiết)
A) MỤC TIÊU:
- Kiến thức:
+ Hiểu rõ khái niệm về chiến lược marketing.
+ Nắm được qui trình hoạch định chiến lược marketing.
14
- Kỹ năng:
+ Phân tích và giải quyết các tình huống quản trị marketing;
+ Xây dựng được kế hoạch, chiến lược marketing cho một doanh nghiệp cụ
thể trong thực tế.
- Mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm:
+ Nhận thức được tầm quan trọng của chiến lược marketing;
+ Tích cực, chủ động phát huy vai trò của mình khi tham gia hoạt động nhóm;
+ Say mê tìm hiểu, khám phá kiến thức, kĩ năng mới.
B) TÀI LIỆU HỌC TẬP
- Quản trị marketing, PGS.TS. Trương Đình Chiến, NXB Đại học Kinh tế quốc
dân, năm 2017 {tr46-tr81}
- Philip Kotler, Quản trị marketing , Nhà xuất thống kê 2016.
- Mẫu chiến lược marketing tham khảo (Giảng viên cung cấp)
C) NỘI DUNG
2.1. KHÁI NIỆM VỀ CHIẾN LƯỢC MARKETING
2.1.1. Khái niệm chiến lược và hoạch định chiến lược
a. Chiến lược là gì
Chiến lược kinh doanh của một doanh nghiệp là một chương trình hành động
tổng quát hướng đến việc thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp. Chiến lược không
nhằm vạch ra một cách chính xác làm thế nào để có thể đạt được những mục tiêu vì
đó là nhiệm vụ vô số các chương trình hỗ trợ, các chiến lược chức năng khác. Chiến
lược chỉ tạo ra cái khung để hướng dẫn tư duy hành động.
Chiến lược là những mục tiêu chính sách cũng như các kế hoạch chủ yếu để
đạt được các mục tiêu đó, nó cho thấy rõ doanh nghiệp đang và sẽ thuộc vào lĩnh vực
kinh doanh nào.
b. Hoạch định chiến lược
Hoạch định chiến lược là phân tích quá khứ để xác định trong hiện tại những
điều cần phải làm trong tương lai. Hoạch định chiến lược trình bày những mục tiêu
mà doanh nghiệp muốn đạt được, những cách thức và nguồn lực cần phải có để đạt
15
được những mục tiêu, nhân sự thực hiện và thời gian cần thiết để tiến hành. Nói cách
khác hoạch định chiến lược phải trả lời các câu hỏi: doanh nghiệp muốn cái gì? cần
cái gì? Làm như thế nào? Ai làm và khi nào?
c. Bản chất của chiến lược Marketing.
Hoạch định chiến lược marketing là một tiến trình quản trị, nhằm phát triển
và duy trì sự thích nghi chiến lược giữa một bên là các mục tiêu và khả năng của
doanh nghiệp, và bên kia là các cơ hội marketing đầy biến động. Nó dựa vào sự triển
khai ý định kinh doanh vững chắc, những mục tiêu marketing phù hợp, trên cơ sở
phân tích môi trường marketing (sản phẩm, thị trường và cạnh tranh) thiết lập những
chiến lược hoạt động có tính liên kết.
Chiến lược marketing là sự lí luận (logic) m nhờ đó một đơn vị kinh doanh hy
vọng đạt được các mục tiêu marketing của mình. Chiến lược marketing bao gồm các
chiến lược chuyên biệt liên quan đến những thị trường mục tiêu, marketing-mix và
ngân sách marketing
Do chịu tác động của nhiều yếu tố, nên khi xây dựng chiến lược marketing
phải xuất phát từ nhiều căn cứ khác nhau. Có 3 căn cứ chủ yếu người ta gọi là tam
giác chiến lược là:
- Căn cứ vào khách hàng;
- Căn cứ vào khả năng của doanh nghiệp;
- Căn cứ vào đổi thủ cạnh tranh.
2.1.2. Vai trò của chiến lược Marketing
Chiến lược marketing vạch ra những nét lớn trong hoạt động marketing của
một doanh nghiệp, từ việc lựa chọn chiến lược phát triển, chiến lược cạnh tranh cho
đến việc xây dựng các chương trình hoạt động cụ thể thích hợp, nhờ đó một đơn vị
kinh doanh hy vọng đạt được các mục tiêu marketing của mình.
Chiến lược marketing là một chiến lược chức năng, nó được xem là một nền
tảng có tính định hướng cho việc xây dựng các chiến lược chức năng khác trong
16
doanh nghiệp như chiến lược sản xuất, chiến lược tài chính...
2.2. TIẾN TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC MARKETING
2.2.1. Xác định nhiệm vụ của doanh nghiệp
Nhiệm vụ kinh doanh tổng quát của doanh nghiệp thường được nêu lên ngay
từ lúc khởi đầu. Một doanh nghiệp ra đời là để thực hiện một sứ mệnh nào đó. Nhưng
cùng với sự biến của môi trường kinh doanh và sự phát triển của doanh nghiệp về qui
mô về thị trường thì nhiệm vụ đặt ra cho nó cũng thay đổi.
Theo Dore Levitt cho rằng, công việc kinh doanh phải được xem như một tiến
trình thoả mãn khách hàng, chứ không phải một tiến trình làm ra sản phẩm. Cùng với
thời gian, sản phẩm và kỷ thuật chế tạo nó sẽ trở nên lỗi thời, nhưng những nhu cầu
cơ bản của con người có thể vẫn tồn tại mãi mãi.
Cần tránh việc xác định nhiệm vụ kinh doanh quá rộng hay quá hẹp. Mỗi bước
mở rộng có thể mang lại những cơ may mới nhưng đồng thời nó cũng đưa doanh nghiệp
đi đến những cuộc phiêu lưu thiếu thực tế, vượt quá khả năng của mình.
2.2.2. Xác định mục tiêu của doanh nghiệp
Nhiệm vụ kinh doanh của doanh nghiệp cần phải được chuyển thành một loạt
các các mục tiêu cho các cấp quản trị. Mỗi nhà quản trị có những mục tiêu và có trách
nhiệm thực hiện chúng ở cấp của mình.
Hệ thống mục tiêu này được gọi là quản trị theo mục tiêu
Bảng 2.1. Ví dụ về các mục tiêu của tổ chức (công ty sản xuất)
Lĩnh vực hoạt động
Vị trí thị trường
Các đổi mới
Năng suất
Các nguồn tài chính và vật chất
Khả năng lợi nhuận Hoạt động và trách nhiệm của người quản lý
17
Hoạt động và quan điểm cảu người lao động Trách nhiệm xã hội Các mục tiêu cụ thể Làm cho thương hiệu trở thành vị trí số một về thị phần trong lĩnh vực kinh doanh Trở thành doanh nghiệp dẫn đầu trong giới thiệu sản phẩm mới Đảm bảo hiệu quả sản xuất, tăng năng xuất của lực lượng lao động Quản lý tốt các nguồn lực, nhà xưởng, hàng tồn kho, quỹ tiền mặt Đạt tỷ lệ lợi nhuận trên vốn đầu tư là 15% Đảm bảo chiều sâu và tính liên tục trong quản lý tất cả các khu vực quan trọng của doanh nghiệp Đảm bảo mức độ hài lòng của người lao động với doanh nghiệp Đáp ứng kỳ vọng của xã hội về vấn đề môi trường, công ăn việc làm
2.2.3. Định dạng chiến lược kinh doanh
2.2.3.1. Phân tích tình hình kinh doanh hiện tại
Mục đích của việc phân tích danh mục kinh doanh là nhằm xác định xem các
ngành và các sản phẩm nào hiện đang tăng trưởng mạnh và có khả năng sinh lời cao
để tập trung nguồn lực phát triển chúng, đồng thời phát hiện ra những ngành và những
sản phẩm đang suy giảm và mức sinh lời thấp cần rút dần ra hay phải loại bỏ chúng
ra khỏi doanh mục kinh doanh của doanh nghiệp.
- Bước đầu tiên là doanh nghiệp cần nhận dạng những đơn vị kinh doanh chiến
lược (SBU) tức là các ngành hay các sản phẩm chủ yếu đang tạo nên sự thành công
- Tiếp theo, doanh nghiệp cần xác định được tính hấp dẫn của các SBU khác
nhau, trên cơ sở đó quyết định sẽ đầu tư cho SBU bao nhiêu là thích đáng.
- Cuối cùng là chỉ ra cho doanh nghiệp khả năng sử dụng tốt nhất sức mạnh
của mình, để khai thác có hiệu quả nhất các cơ hội thị trường
Có nhiểu phương pháp để đánh giá tính hấp dẫn của SBU và phải quyết định
xem phải hỗ trợ cho các SBU ấy bao nhiêu là thích đáng.
* Phương pháp phân tích ma trận SWOT
Thực chất của phương pháp này là phân tích điểm mạnh điểm yếu, cơ hội và
đe doạ đối với hoạt động marketing của doanh nghiệp.
SWOT được ghép từ các chữ Strenght (điểm mạnh), Weaknesses (điểm yếu),
Opportunities (cơ hội), Threats (đe doạ).
Mục đích của phân tích SWOT là so sánh từ những cặp phối hợp từ các điểm
mạnh, điểm yếu với cơ hội và đe doạ thích ứng tác động đến doanh nghiệp.
Ma trận SWOT được xây dựng bằng cách liệt kê, đánh giá và tổng hợp các
yếu tố nội tại của hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp (điểm mạnh, điểm yếu) và
các yếu tố bên ngoài của môi trường kinh doanh (những cơ hội, đe doạ). Sau đó sẽ so
sánh những cặp kết hợp có liên quan đến tìm ra những cặp phối hợp logic. Các cặp
phối hợp logic sẽ cho phép xem xét những phương án khác nhau của chiến lược doanh
nghiệp. Doanh nghiệp do đó, SWOT là sự tóm lược các yếu ảnh hưởng để phân tích
chiến lược doanh nghiệp.
18
* Phương pháp tăng trưởng- thị phần của nhóm tư vấn Boston (Ma trận BCG)
- Trục tung chỉ tỉ lệ tăng trưởng của thị trường đối với ngành hoặc sản phẩm
kinh doanh (SBU). Các SBU nào có tỉnh tỉ lệ tăng trưởng thị trường trên 10% được
xem là tỉ lệ tăng trưởng cao, dưới 10% là thấp.
- Trục hoành chỉ thị phần tương đối của SBU so với đối thủ cạnh tranh mạnh
nhất. Các vi trí 0,1 X, 1X, 10X thị phần của SBU bằng 10%, bằng đối thủ và gấp 10
lần đối thủ mạnh nhất. Cách biểu hiện như thế cho chúng ta thấy ngay được vị thế
cạnh tranh của các SBU của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất.
20%
Cao
10%
Thấp
10X
Rộng
1X
0,1X
0%
Hẹp
Hình 2.2 Ma trận BCG
Ma trận này chia thành 4 ô chữ nhật, mỗi ô thể hiện một vị thế khác nhau của SBU
+ Dấu hỏi
Ô này chỉ các SBU của công ty hoạt động trong một thị trường có mức tăng
trưởng cao nhưng thị phần tương đối thấp. Các hoạt động kinh doanh ở ô này đòi hỏi
rất nhiều tiền vì công ty đầu tư thêm trang thiết bị, nhân sự để đáp ứng với sự tăng
trưởng cao của thị trường. Một câu hỏi đặt ra là có nên tiếp tục đổ tiền vào hoạt động
kinh doanh này hay không?
19
+ Những ngôi sao (stars)
Nếu hoạt động kinh doanh của những SBU ở ô “question Marks” thành công
nó có thể trở thành những ngôi sao. Ngôi sao 3 là SBU dẫn đầu trong thị trường có
độ tăng trưởng cao. Công ty phải dùng một nguồn vốn đáng kể để hoạt động này đứng
vững và chống lại sự cạnh tranh của các đối thủ. Khi nhu cầu thị trường không tăng
nhanh (tỷ lệ tăng trưởng thấp) các ngôi sao có thể trở thành những con bò sữa.
+ Những con bò sữa
Khi tỉ lệ thị trường giảm xuống dưới 10% thị một SBU từ vị trí ngôi sao rớt
xuống thành một con bò sữa nếu nó vẫn giữ được thị phần tương đối lớn nhất. Một
con bò sữa có khả năng tạo ra nhiều lợi nhuận cho công ty. Nó không cần tiền để phát
triển vì tỉ lệ tăng trưởng thị trường thấp. Các bò sữa này sẽ cung cấp tiền cho các ngôi
sao, dấu chấm hỏi hay các con cho đói về vốn..
+ Những con chó (Dogs)
Đó những SBU có thị phần thấp so với đối thủ cạnh tranh mạnh nhất và có tỉ
lệ tăng trưởng thị trường không cao. Các đơn vị này hoạt động kinh doanh thường
kém hiệu quả. Công ty cần xem xét có nên duy trì hay loại bỏ chúng.
Tương ứng với các vị thế của các SBU trong các ô của ma trận BCG, công ty
có thể thực hiện bốn loại chiến lược sau đây:
- Chiến lược xây dựng
Mục tiêu của chiến lược là nhằm tăng thị phần tương đối của SBU. Chiến lược
này thích hợp với các SBU ở ô “câu hỏi”. Thị phần của chúng phải tăng lên nếu chứng
muốn trở thành các ngôi sao
- Chiến lược duy trì
Mục tiêu nhằm duy trì, gìn giữ thị phần của các SBU. Chiến lược này thích
hợp với các SBU bò sữa hoặc các ngôi sao nếu các công ty muốn tiếp tục có tiền để
đầu tư vào các SBU khác phát triển và muốn tiếp tục dẫn đầu thị trường.
- Chiến lược thu hoạch
Mục tiêu là tăng thu nhập trước mắt của các SBU mà không tính đến hậu quả
lâu dài của nó. Các SBU này được áp dụng cho các SBU bò sữa đang yếu dần và ít
có cơ hội phát triển lên nữa. Ngoài ra nó có thể áp dụng cho các SBU dấu hỏi hoặc
20
chú chó.
- Chiến lược loại bỏ
Mục tiêu nhằm giải thể hoặc bán đi các SBU hoạt động kinh doanh không
hiệu quả trong lúc có thể sử dụng các nguồn lực hiệu quả hơn ở các SBU khác. Mục
tiêu này phù hợp với các SBU con chó và dấu hỏi.
* Phương pháp mạng hoạch định kinh doanh chiến lược của công ty Genenal
Eleetric (Ma trận GE)
Mỗi SBU đều đánh giá theo hai tiêu chỉ tiêu tổng hợp để xếp hạng và sắp xếp
vị trí của nó trên ma trận GE là sức hấp dẫn thị trường (trục tung) và sức mạnh cạnh
tranh (trục hoành). Mỗi chỉ tiêu này được tổng hợp từ các yếu tố theo tầm quan trọng
và điểm đánh giá của từng yếu tố đó.
Tính hấp dẫn của ngành (trục tung) là một chỉ tiêu được đánh giá từ các yếu tố như:
(1) Qui mô ngành kinh doanh hay kích thước của thị trường
(2) Tốc độ tăng trưởng thị trường
(3) Lợi nhuận biên
(4) Cường độ cạnh tranh
(5) Chu kỳ kinh doanh
(6) Tính thời vụ
(7) Sự tiết kiệm theo qui mô
(8) Đường cong kinh nghiệm
Sức hấp dẫn của ngành được chia thành ba mức độ: Cao, trung bình, thấp.
Trục hoành biểu thị sức mạnh cạnh tranh được biểu thị qua các yếu tố sau:
(1) Thị phần tương đối
(2) Sức cạnh tranh của giá bán
(3) Chất lượng sản phẩm
(4) Sự hiểu biết về khách hàng
(5) Hiệu quả của việc bán hàng
21
(6) Địa lí
SỨC MẠNH CẠNH TRANH
Mạnh Trung bình Yếu
Cao
1 2 3
Trung bình
SỨC HẤP DẪN CỦA THỊ TRƯỜNG 4 5 6
Thấp
7 8 9
Hình 2.3 Ma trận GE
Kích thước của mỗi vòng tròn trên ma trận thể hiện tính qui mô của thị trường
tương ứng chứ không phải qui mô của SBU. Phần rẻ quạt của vòng tròn biểu diễn thị
phần của các SBU đó. Tầm quan trọng của mỗi yếu tố được biểu thị bằng tỷ lệ chiếm
trong tổng số 1 đơn vị của từng chỉ tiêu tổng hợp. Điểm đánh giá của mỗi yếu tố được
xác định theo thang điểm xếp hạng căn cứ mức độ đáp ứng thực tế của yếu tố đó.
Trên hình 2.3, các SBU nằm ở các ô có số thứ tự 1,2 và 4 là các SBU mạnh
cần đấu tư phát triển; các SBU nằm ở các ô 6, 8, 9 là các SBU yếu, cần gặt hái ngay
hoặc thu hẹp hoạt động, loại bỏ. Các SBU còn lại nằm trên đường chéo ở các ô 3 (dấu
hỏi), 5 (trung bình sinh lợi) là các SBU duy trì với mức đầu tư vừa phải.
2.2.3.2. Triển khai các chiến lược phát triển
Ngoài việc đánh giá các ngành và sản phẩm kinh doanh hiện tại, việc phát
thảo hồ sơ kinh doanh còn liên quan đến việc xác định các ngành và sản phẩm kinh
doanh tương lai và những định hướng tương lai mà công ty quan tâm đến.
Một công ty có thể triển khai một chiến lược phát triển. Chiến lược này bao gồm
22
- Phát triển tập trung
- Phát triển hội nhập
- Phát triển đa dạng hoá
Bảng 2.2. CÁC LOẠI CƠ MAY THỊ TRƯỜNG
* Các chiến lược phát triển (các cơ may phát triển)
Phát triển tích nhập
Phát triển đa dạng hoá
Phát triển cường độ (chiều sâu)
- Đa dạng hoá đồng tâm - Đa dạng hoá hoành tuyến - Đa dạng hoá kết khối -Tích nhâp phía sau (cung cấp) - Tích nhập phía trước (PP) - Tích nhập hàng ngang (ĐTCT) - Thâm nhập thị trường - Phát triển thị trường - Phát triển sản phẩm
- Chiến lược phát triển tập trung bao gồm chiến lược thâm nhập thị trường, phát
triển thị trường, phát triển sản phẩm. Chiến lược này có ý nghĩa nếu như doanh nghiệp
đã không khai thác hết những cơ hội có trong sản phẩm và thị trường hiện tại của mình.
Ansoff đề xướng một phương tiện hữu hiệu để tìm ra các cơ hội phát triển cường độ,
được gọi là mạng mở rộng sản phẩm/thị trường gồm ba chiến lược trên. Bằng cách
phân tích các cơ hội để triển khai chiến lược phát triển theo chiều sâu này. Ban lãnh
đạo doanh nghiệp sẽ tìm thấy con đường phát triển cho doanh nghiệp mình trong tương
lai. Nếu thực thi các chiến lược phát triển theo chiều sâu mà đáp ứng được yêu cầu tăng
trưởng của doanh nghiệp thì cần xem xét các cơ hội phát triển hội nhập.
- Chiến lược phát triển hội nhập: Chiến lược này có ý nghĩa nếu công việc
kinh doanh đang mạnh; hoặc doanh nghiệp có thể vươn tới kiểm soát các doanh
nghiệp phía sau, đằng trước hay hàng ngang trong ngành.
+ Hội nhập sau: Công ty tìm cách sở hữu hoặc gia tăng sự kiểm soát cá hệ
thống cung cấp của mình
+ Hội nhập trước: Công ty tìm cách sở hữu hoặc gia tăng sự kiểm soát lên hệ
thống phân phối của mình.
+ Hội nhập ngang: Công ty tìm cách sở hữu hoặc gia tăng sự kiểm soát lên
23
một số đối thủ cạnh tranh của mình.
- Chiến lược phát triển đa dạng hoá: Phát triển thông qua đa dạng hoá có ý
nghĩa nếu ngành kinh doanh cho thấy không có nhiều cơ hội để doanh nghiệp phát
triển xa hơn nữa, hoặc xuất hiện nhiều cơ hội tốt đẹp hơn ở ngoài ngành kinh doanh
hiện tại của doanh nghiệp.
+ Đa dạng hoá đồng tâm: Công ty làm thêm những sản phẩm mới có cùng
chung nguồn gốc với mặt hàng hiện tại.
+ Đa dạng hoá hàng ngang: Công ty có thể đưa ra những sản phẩm mới có khả
năng lôi cuốn được các khách hàng hiện thời của mình dù nó chẳng liên quan gì đến
mặt hàng hiện tại.
+ Đa dạng hoá kết khối: Công ty có thể đưa ra thêm những sản phẩm không
liên quan gì đến kỹ thuật, sản phẩm, thị trường hiện tại của mình, những sản phẩm
này sẽ thu hút được các tầng lớp khách hàng mới.
Như vậy, một doanh nghiệp có thể thường xuyên xác định những cơ hội kinh
doanh mới bằng cách sử dụng khung mô hình của hệ thống marketing, đầu tiên tìm
cách xác định vị trí của mình trên thị trường sản phẩm hiện có, sau đó tính đến hội
nhập trước, sau hay ngang và cuối cùng tìm kiếm các cơ hội phát triển ở bên ngoài
các ngành kinh doanh hiện tại của doanh nghiệp.
Chiến lược của một doanh nghiệp chỉ ra loại hình kinh doanh mà doanh nghiệp
sẽ tham gia và các mục tiêu cho từng đơn vị kinh doanh chiến lược (SBU). Doanh
nghiệp phải lập ra các kế hoạch kinh doanh chi tiết hơn cho các SBU. Và ở mỗi SBU,
doanh nghiệp cần phải chỉ ra nhiệm vụ cho từng bộ phận (marketing, kế toán, tài
chính mua bán, nhân sự...) nhằm hoàn thành những mục tiêu đã đề ra trong kế hoạch
chiến lược của doanh nghiệp.
2.2.4. Hoạch định Marketing
Các thành phần của một kế hoạch tiếp thị bao gồm các phần sau:
2.2.4.1. Tóm lược cho lãnh đạo
Tóm lược ngắn gọn những mục tiêu chủ yếu và những khuyến cáo cần được
thể hiện trong kế hoạch gởi cho nhà lãnh đạo công ty. Bản tóm lược cho phép nhà
quản trị cao nhất nắm bắt nhanh chóng các trọng tâm của kế hoạch
24
2.2.4.2. Phân tích tình hình marketing hiện tại
Công việc chính của hoạch định tiếp thị là mô tả thị trường mục tiêu và sự
định vị các loại sản phẩm của công ty trong đó. Nhà hoạch định tiếp thị cung cấp
thông tin theo các chủ đề sau:
+ Mô tả thị trường
+ Duyệt lại sản phẩm
+ Cạnh tranh
+ Phân phối
2.2.4.3. Phân tích cơ may và rủi ro
Nhà tiếp thị phải dự đoán được các cơ may và đe doạ cính đối với sản phẩm.
Cần đánh giá cụ thể hơn đối với chúng
2.2.4.4. Đưa ra các mục tiêu và giải pháp
Nhà tiếp thị cần phải thiết lập các mục tiêu và đưa ra các giải pháp thực hiện
các mục tiêu. Các mục tiêu nên được phát biểu như những chỉ tiêu cụ thể trong thời
gian kế hoạch
2.2.4.5. Xây dựng chiến lược tiếp thị
Đó là những chính sách tiếp thị đi kèm với những biện pháp cụ thể nhằm đạt
các mục tiêu của doanh nghiệp. Chiến lược tiếp thị bao gồm chiến lược thị trường
mục tiêu, sự phối hợp các hoạt động tiếp thị và chi phí tiếp thị
2.2.4.6. Đề ra chương trình hành động
Chiến lược tiếp thị phải chuyển thành những chương trình hành động cụ thể
với các câu hỏi:
+ Cái gì sẽ được thực hiện
+ Khi nào thực hiện?
+ Ai có trách nhiệm thực hiện?
+ Tốn chi phí cho nó bao nhiêu?
2.2.4.7. Xây dựng ngân sách
Chương trình hành động cho phép xây dựng các ngân sách tương ứng. Đó là
một kế hoạch được thể hiện bằng tiền. Nó trình bày khối lượng bán, giá bán bình quân
và doanh thu. Về chi phí nó trình bày chi phí sản xuất, phân phối và tiếp thị.
Số sai biệt giữa doanh thu và phí tổn kế hoạch sẽ là lợi nhuận kế hoạch. Các
25
nhà lãnh đạo sẽ xem xét, sữa đổi và duyệt ngân sách. Sau khi được duyệt, ngân sách
là cơ sở để thu mua nguyên vật liệu, lập thời gian biểu, hoạch định nhân lực và tiến
hành các hoạt động tiếp thị
2.2.4.8. Kiểm tra thực hiện kế hoạch
Kiểm tra nhằm đánh giá sự thực hiện chiến lược tiếp thị so với kế hoạch. Thông
thường các mục tiêu được đề ra từng tháng, từng quý. Kiểm tra giúp công ty tìm ra
những sai biệt và đưa ra các biện pháp điều chỉnh.
D) CÂU HỎI, BÀI TẬP, NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CỦA
CHƯƠNG 2 - Câu hỏi ôn tập:
1. Trình bày quá trình xây dựng kế hoạch marketing và nội dung cơ bản của
từng bước
2. Bản chất, chức năng, nội dung và chiến lược định vị sản phẩm/nhãn hiệu
của doanh nghiệp trên thị trường. Lấy một sản phẩm/nhãn hiệu cụ thể để phân tích
chiến lược định vị của nó.
2. Phân tích nội dung của một số kiểu chiến lược marketing điển hình
3. Hãy chọn một SBU để xây dựng kế hoạch marketing cho nó
- Câu hỏi thảo luận: Chiến lược marketing của các doanh nghiệp ngành du
lịch/ bán lẻ/ dịch vụ nhà hàng sau đại dịch Covid-19
- Bài tập thực hành:
26
Lập kế hoạch marketing cho một doanh nghiệp mà anh/ chị biết.
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH CƠ HỘI THỊ TRƯỜNG VÀ CÁC
CHIẾN LƯỢC CẠNH TRANH
(Số tiết: 7 (Lý thuyết: 6 tiết, bài tập, thảo luận: 01 tiết)
A) MỤC TIÊU:
- Kiến thức:
+ Phân tích được hệ thống thông tin marketing đối với việc ra quyết định của
nhà quản trị.
+ Phân tích được các yếu tố ảnh hưởng của môi trường đối với hoạt động
marketing của doanh nghiệp
+ Phân tích và lựa chọn thị trường mục tiêu, định vị thị trường
+ Hiểu rõ sự cần thiết phải nghiên cứu đối thủ cạnh tranh, các khía cạnh cần
nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
+ Hoạch định các vị thế cạnh tranh
+ Xây dựng các chiến lược marketing cạnh tranh
- Kỹ năng:
+ Phân tích và giải quyết các tình huống quản trị marketing;
+ Làm việc nhóm, thuyết trình các vấn đề liên quan đến học phần.
- Mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm:
+ Nhận thức được tầm quan trọng của phân tích cơ hội thị trường;
+ Tích cực, chủ động phát huy vai trò của mình khi tham gia hoạt động nhóm;
+ Say mê tìm hiểu, khám phá kiến thức, kĩ năng mới.
B) TÀI LIỆU HỌC TẬP
PGS.TS. Trương Đình Chiến, Quản trị marketing, NXB Đại học Kinh tế
quốc dân, năm 2017 {tr193-tr218}
C) NỘI DUNG:
3.1. HỆ THỐNG THÔNG TIN VÀ NGHIÊN CỨU MARKETING
3.3.1 Hệ thống thông tin marketing hay hệ thống hỗ trợ ra quyết định (MDSS)
a. Khái niệm
27
Nguyên nhân dẫn đến sự hình thành hệ thông thông tin marketing
Trong thế kỷ XIX các doanh nghiệp còn nhỏ, do đó biết rất rõ các khách hàng
cá biệt của mình. Các nhà quản lý tự thu thập thông tin marketing, khi hướng đến mọi
người, theo dõi họ, trao đổi với họ, đưa ra các câu hỏi cần thiết.
Vào thế kỷ thứ XX, có ba lý do buộc các doanh nghiệp phải hình thành hệ thống
và thu thập các thông tin marketing trên một phạm vi rộng lớn hơn và đòi hỏi chất
lượng cao hơn.
(1) Chuyển từ marketing trên phạm vi địa phương đến marketing toàn quốc.
Vì công ty mở rộng danh giới thị trường lãnh thổ, nên những người quản lý công ty
không có điều kiện biết trực tiếp khách hàng. Điều đó đòi hỏi phải bằng những biện
pháp khác nhau để thu thập thông tin marketing.
(2) Chuyển từ không đủ mua đến đòi hỏi mua. Do sự tăng lên của thu nhập,
những người mua trở nên ngày càng khó tính khi lựa chọn hàng hóa. Những người
bán càng khó tiên lượng, phán đoán được phản ứng của người mua với những đặc
trưng khác nhau, hình thức và các đặc tính khác của hàng hóa. Điều đó đòi hỏi các
doanh nghiệp phải hướng đến việc nghiên cứu marketing để hình thành hệ thống
thông tin marketing.
(3) Chuyển từ cạnh tranh giá cả đến cạnh tranh phi giá cả. Những người bán
ngày càng sử dụng phổ biến các công cụ marketing phi giá cả, chẳng hạn như, đưa ra
một cái tên nhãn hiệu hàng hóa, cá biệt hóa hàng hóa, quảng cáo và kích thích tiêu
thụ...và do đó họ cần phải có thông tin xem thị trường phản ứng như thế nào đến việc
sử dụng những công cụ đó.
Người bán đòi hỏi những thông tin marketing ngày càng nhiều để phục vụ cho
kế hoạch hóa và ra các quyết định marketing. Những thông tin này bao gồm cả thông
tin lịch sử, hiện tại và tương lai, thông tin bên trong và bên ngoài. Tình hình đó buộc
các doang nghiệp phải có hệ thống thông tin và tổ chức nghiên cứu marketing.
Hệ thống thông tin marketing là hệ thống hoạt động thường xuyên có sự tương
tác giữa con người, thiết bị và các phương pháp dùng để thu thập, phân loại, phân
tích, đánh giá và truyền đi những thông tin cần thiết, chính xác, kịp thời cho người
phụ trách lĩnh vực marketing sử dụng chúng với mục đích thiết lập, tổ chức thực hiện,
28
điều chỉnh và hiểm tra các kế hoạch marketing.
Có thể quan sát hệ thống thông tin marketing qua Hình dưới đây.
Thông tin marketing
Hệ thống thông tin
Thông tin marketing
Những người
Môi trường
quản trị
Hệ thống nghiên cứu marketing
Hệ thống báo cáo nội bộ
Marketing:
marketing:
- Phân tích
- Lập kế
hoạch
- Thực hiện
- Kiểm tra quá trình thực hiện
Hệ thống phân tích thông tin marketing
Hệ thống thu thập thông tin marketing thường xuyên bên ngoài
Những quyết định và sự giao tiếp marketing
- Các thông tin về thị trường (khách hàng) mục tiêu - Các nhà cung cấp - Các đối thủ cạnh tranh - Công chúng - Thông tin nội bộ - Các nhân tố vĩ mô của môi trường
Hình 3.1: Hệ thống thông tin marketing trong các doanh nghiệp
b. Các bộ phận cấu thành
*) Trung tâm thông tin marketing (cơ sở dữ liệu marketing)
- Hệ thống báo cáo nội bộ
Ở bất kỳ công ty nào cũng có sự thuyết trình bên trong thông qua chế độ báo
cáo nội bộ, phản ánh các chỉ tiêu về lượng tiêu thụ thường xuyên, tổng số chi phí,
khối lượng tiêu thụ thường xuyên, tổng số chi phí, khối lượng dự trữ vật tư, sự chu
chuyển tiền mặt,..Ngay nay nhờ hệ thống này đã được trang bị máy vi tính người
quản lý có thể nhận biết được nhiều thông tin đã được sắp xếp xử lý theo yêu cầu của
quản trị marketing trong một thời gian ngắn. Và chính điều này là yếu tố cạnh tranh
giữa các công ty. Công ty nào càng xử lý thông tin nội bộ chi tiết theo yêu cầu của
nhà quản trị marketing thì càng giúp họ ứng phó kịp thời với sự biến đổi của môi
29
trường, do đó cơ hội thành công càng lớn.
- Hệ thống thu thập thông tin marketing thương xuyên bên ngoài
Hệ thống này cung cấp cho người lãnh đạo thông tin về các sự kiện mới nhất
diễn ra thương trường. Thông tin loại này có thể thu thập từ sách, báo, các ấn phẩm
chuyên ngành, nói chuyện với khách hàng, với các nhà cung cấp, các tổ chức tài
chính, các cộng sự của công ty, các trung gian marketing, theo dõi các thông tin quảng
cáo, thậm trí nói chuyện với các đối thủ cạnh tranh, thăm quan gian hàng của họ, tham
dự các cuộc khai trương, mở cửa.
Ngoài ra, để có thông tin bên ngoài thường xuyên và kip thời các doanh nghiệp
còn huấn luyện và khuyến khích những người bán hàng ghi chép và cung cấp các sự
kiện các sự kiện đang xảy ra, khuyến khích các nhà phân phối bán lẻ thông báo những
tin tức quan trọng khác. Nhiều doanh nghiệp tự tổ chức bộ phận thu phát thông tin
hàng ngày. Thậm trí công ty có thể mua thông tin của các bộ phận, tổ chức, cá nhân
chuyên cung cấp dịch vụ thông tin marketing.
- Hệ thống nghiên cứu marketing
Trong nhiều trường hợp người quản lý marketing cẩn phải tiên hành những
nghiên cứu tỉ mỉ. Ví dụ: nghiên cứu thu thập, trình độ học vấn, lối sống, tiềm năng
thị trường ở một vài thành phố để xác định hệ thống phân phối và bán hàng... Các
thức thu thập thông tin như vậy là một dạng nghiên cứu marketing.
Nghiên cứu marketing là việc xác định một cách có hệ thống những tài liệu cần
thiết về hoàn cảnh marketing đứng trước công ty, là thu thập, phân tích và báo cáo
kết quả về các thông tin đó.
Công ty nhỏ có thể dựa vào lực lượng sinh viên và giáo viên các trường học ở
địa phương, các công ty lớn có thể có phòng nghiên cứu marketing riêng với khoảng
10 - 15 người, bao gồm các nhân viên về kế hoạch nghiên cứu, thống kê, xã hội học,
tâm lý học, các chuyên gia về tạo mẫu. Những nghiên cứu có thể là toàn bộ hoặc một
khía cạnh của:
- Môi trường marketing vĩ mô;
- Môi trường marketing vi mô;
- Thị trường- khách hàng;
30
- Các yếu tố marketing hỗn hợp của công ty hoặc của đối thủ cạnh tranh
Nhiều người nhầm lẫn nghiên cứu marketing với nghiên cứu thị trường, thực ra
nghiên cứu thị trường chỉ là một nội dung của nghiên cứu marketing. Theo quan niệm
marketing, nghiên cứu thị trường chỉ là nghiên cứu khách hàng.
*) Hệ thống phân tích dữ liệu và hỗ trợ ra quyết định marketing
- Hệ thống phân tích thông tin marketing
Hệ thống phân tích thông tin marketing là tập hợp các phương pháp phân tích,
hoàn thiện tào liệu và các vấn đề marketing được thực hiện. Nó bao gồm ngân hàng
thống kê và ngân hàng mô hình.
Ngân hàng thống kê – là tổng hợp những phương pháp hiện đại của việc xử lý
thống kê các thông tin, cho phép khám phá một cách đầy đủ nhất sự phụ thuộc lẫn
nhau trong phạm vi tài liệu lựa chọn và xác lập mức độ tin cậy thống kê của chúng.
Nhờ những phương pháp đó người lãnh đạo nhận được lời giiar đáp về những vấn đề,
chẳng hạn như:
- Đâu là biến số cơ bản nhất ảnh hưởng đến việc tiêu thụ, mỗi biến số đó có ý
nghĩa như thế nào?
- Đặc trưng nào là tiêu chuẩn quan trọng nhất để khách hàng lựa chọn mua hàng
hóa của doanh nghiệp?
- Điều gì sẽ xảy ra với việc tiêu thụ của doanh nghiệp nếu nâng giá hàng hóa
lên 10%, còn chi phí quảng cáo lên 2%?
- Việc phân đoạn thị trường theo tham số nào là tốt nhất, thị trường của doanh
nghiệp sẽ có bao nhiêu đoạn?
* Ngân hàng mô hình: là tập hợp những mô hình toán học cho nhà quản trị thông
qua các quyết định marketing tối ưu hơn. Ví dụ:
- Mô hình tính toán giá.
- Mô hình xác định tổ hợp các biến liên hệ qua lại với nhau, biểu diễn một hệ
thống tồn tại thực sự nào đó, một quá trình có thực hay một kết quả nào đó.
3.1.2. Nghiên cứu marketing
31
3.1.2.1. Khái niệm nghiên cứu marketing
Nghiên cứu marketing là quá trình thu thập và phân tích một cách có mục đích,
có hệ thống những thông tin liên quan đến việc xác định hoặc đưa các giải pháp cho
bất luận các vấn đề liên quan đến lĩnh vực nghiên cứu marketing.
3.1.2.2. Vai trò của nghiên cứu marketing
a. Bản chất của nghiên cứu marketing
Bản chất hoạt động marketing trong doanh nghiệp là nhấn mạnh sự nhận dạng
và thỏa mãn nhu cầu khách hàng thông qua quá trình trao đổi. Để xác định nhu cầu
khách hàng, qua đó xây dựng và thực hiện chiến lược các chương trình marketing
nhằm thỏa mãn những nhu cầu đó, các giám đốc marketing cần nhiều thông tin về
khách hàng, đối thủ cạnh tranh và các thông tin khác trên thị trường.
Trong những năm gần đây, nhiều nhân tố tác động đã làm tăng nhu cầu thông
tin của doanh nghiệp cả về số lượng và chất lượng khi đưa ra các quyết định liên
quan. Khi hoạt động của công ty mở rộng trên toàn quốc và trên thị trường quốc tế,
thì nhu cầu thông tin cần lớn hơn vì phạm vi của thị trường đã mở rộng. Khách hàng
ngày càng trở nên khó tính và phức tạp hơn thì để đưa ra các quyết định marketing,
nhà quản trị phải có thông tin đa dạng hơn và tốt hơn về khách hàng. Khi đối thủ cạnh
tranh trở nên mạnh hơn thì các giám đốc marketing cần có thông tin về hiệu quả của
các công cụ cạnh tranh của đối thủ, hoặc khi môi trường thay đổi nhanh chóng thì họ
cần những thông tin chính xác và cập nhập hơn. Công việc của nghiên cứu marketing
là đánh giá nhu cầu thông tin và cung cấp những phương án quản lý đối với thông tin
hiện tại. Thông tin cần được thu thập một cách chính xác, hợp lý và có giá, nhất là
trong môi trường cạnh tranh như ngày nay. Tính khoa học của các quyết định ngày
càng cao của các công ty đòi hỏi nghiên cứu marketing phải cung cấp nguồn thông
tin lành mạnh và ít sai sót.
Tuy nhiên, có một nghịch lý trong thực tế là, những nhà nghiên cứu marketing
thì có trách nhiệm đánh giá nhu cầu thông tin nhưng quyết định marketing của các
công ty thì được định ra bởi giám đốc marketing. Xu hướng này hiện nay đang thay
đổi, có nghĩa là những nhà nghiên cứu marketing ngày càng trở nên quan trọng hơn
trong việc ra quyết định và các giám đốc cũng quan tâm hơn đến việc nghiên cứu để
32
làm sao một người giám đốc marketing khi đưa ra quyết định cần phải hiểu rõ những thông
tin mình đang có. Điều này có thể phục vụ cho việc huấn luyện các giám đốc marketing
tốt hơn, nắm bắt được những tiến bộ khoa học kỹ thuật đáp ứng với sự chuyển đổi mô hình
nghiên cứu marketing linh hoạt hơn, phù hợp với yêu cầu nghiên cứu.
3.1.2.3. Quá trình nghiên cứu marketing
B1: Xác định vấn đề và mục tiêu nghiên cứu
Xác định vấn đề
Trong giai đoạn đầu tiên, người quản lý marketing và người nghiên cứu cần
phải xác định vấn đề và đề xuất mục tiêu nghiên cứu. Do thị trường có thể được
nghiên cứu theo hàng trăm tham số khác nhau, vì vậy cần phải tiếp cận trực tiếp vấn
đề đứng trước công ty và đòi hỏi phải được giải quyết. Nếu vấn đề không rõ ràng, thì
chi phí nghiên cứu vẫn tốn kém, mà kết quả lại không dùng được. “Vấn đề được xác
định tốt – coi như nó đã giải quyết được một nửa”. Ví dụ: doanh nghiệp phát hiện
rằng hàng hóa của nó bán được ít, hay khách hàng của doanh nghiệp giảm sút. Từ đó
có thể xuất hiện hai vấn đề cần nghiên cứu:
- Khách hàng hiểu gì khi mua hàng của doanh nghiệp?
- Liệu có thể lôi kéo được số lượng khách hàng lớn hơn đến với hàng hóa của
doanh nghiệp không?
Sau đó nhà quản lý cần phải hình thành mục tiêu nghiên cứu. Những mục tiêu đó
có thể là mục tiêu tìm kiếm hay thăm dò, có ý nghĩa là tiến hành thu thập những tài liệu
sơ bộ nào đó mà nó sẽ làm sáng lên vấn đề, và có thể giúp cho việc đề ra các giả thuyết.
Các mục tiêu đó cũng có thể là mục tiêu dạng mô tả, có nghĩa là dự tính sự mô tả những
hiện tượng nhất định. Ví dụ, giải thích số lượng hành khách sử dụng phương diện vận
tải hàng không hoặc là số người biết về một công ty hàng không. Ví dụ như việc giảm
thấp giá hàng 15.000đ sẽ kéo theo sự tăng lên lượng khách hàng là 10%.
Tùy theo mục đích của nghiên cứu và khả năng của doanh nghiệp mà xác định
vấn đề nghiên cứu được xác định bằng cách (1) thảo luận với những người ra quyết
định, (2) tham khảo ý kiến của các chuyên gia trong nghành, (3) trao đổi với khách
hang của doanh nghiệp, (4) tiến hành phân tích số liệu thứ cấp đã có sẵn hay (5) thực
hiện những nghiên cứu định tính để xác định vấn đề. Một dự án nghiên cứu có tính
33
khả thi chỉ khi vấn đề nghiên cứu được xác định một cách chính xác, phù hợp với
những vấn đề nghiên cứu marketing hiện tại của doanh nghiệp. Việc xác định vấn đề
nghiên cứu còn đòi hỏi phải xem xét những quyết định đang được thực thi (đã được
đưa ra), môi trường nghiên cứu, ai là người sử dụng thông tin nghiên cứu và nhu cầu
của họ, có như vậy mới có thể đề ra được một mục tiêu nghiên cứu phù hợp.
Xác định mục tiêu nghiên cứu
Sau khi xác định vấn đề nghiên cứu, dự án cần phải xác định đâu là mục tiêu
nghiên cứu phải hướng đến. Để xác định được mục tiêu, dự án cần phải đưa ra các
câu hỏi liên quan đến vấn đề, đặt các giả thuyết và chỉ rõ giới hạn nghiên cứu của
nghiên cứu. Các câu hỏi và các giả thuyết cần phải có mối quan hệ chặt chẽ với nhau
tạo lập căn cứ rõ ràng cho việc xác lập mục tiêu nghiên cứu cũng như định hướng cho
toàn bộ quá trình thực hiện ở bước tiếp theo.
B2: Thiết kế kế hoạch nghiên cứu marketing
Bảng 3.1.Các yếu tố cần lựa chọn khi lập kế hoạch nghiên cứu
Nguồn tài liệu Tài liệu thứ cấp; tài liệu sơ cấp
Phương pháp nghiên cứu Quan sát; Thực nghiệm; Điều tra
Công cụ nghiên cứu Phiếu câu hỏi; Thiết bị, máy móc
Kế hoạch chọn mẫu Đơn vị mẫu; Quy mô mẫu; Trình tự chọn mẫu
Phương thức tiếp xúc Điện thoại; Thư tín; Phỏng vấn cá nhân hoặc
nhóm
Bước này cần phải xác định loại thông tin làm cho người nghiên cứu (người ký
hợp đồng nghiên cứu) phải quan tâm và những biện pháp thu thập một cách có hiệu
quả nhất. Người nghiên cứu có thể thu thập các tài liệu sơ cấp hoặc thứ cấp.
a. Nguồn tài liệu:
- Các tài liệu thứ cấp (cấp hai) – đó là thông tin mà đã có ở đâu đó, tức là thông
tin được thu thập trước đây vì mục tiêu khác.
- Các tài liệu sơ cấp (cấp một) – đó là thông tin được thu thập lần đầu tiên vì
một mục tiêu cụ thể nào đó.
Thu thập tài liệu thứ cấp: việc nghiên cứu thường bắt đầu từ việc thu thập thông
34
tin thứ cấp. Nguồn tài liệu này bao gồm:
- Nguồn tài liệu bên trong: báo cáo về lỗ, lãi , báo cáo của những người chào
hàng, báo cáo của các cuộc nghiên cứu trước,…
- Nguồn tài liệu bên ngoài: các ấn phẩm của các cơ quan Nhà nước, sách báo
thường kỳ, sách chuyên ngành, dịch vụ của các tổ chức thương mại…
Tài liệu thứ cấp là xuất phát điểm của việc nghiên cứu. Chúng là nguồn rẻ tiền
và dễ chấp nhận được. Nhưng phải đề phòng là những tài liệu đó cị cũ, không chính
xác, không đầy đủ và độ tin cậy thấp. Trong trường hợp đó phải tốn phí tiền bạc và
thời gian cho việc tiến hành thu thập tào liệu sơ cấp.
Thu thập tài liệu sơ cấp: đa số các cuộc nghiên cứu marketing cần tiến hành thu
thập các tài liệu sơ cấp. Song nhiều nhà quản lý thường quy việc thu thập tài liệu sơ
cấp về một vài dạng như là phỏng vấn. Trong thực tế có nhiều cách thức khác nhau,
thể hiện trên bảng 2.1
b. Các phương pháp nghiên cứu: có 3 phương pháp thu thập tài liệu sơ cấp: quan
sát, thực nghiệm và điều tra.
Quan sát là phương pháp mà người nghiên cứu thực hiện theo dõi, quan sát mọi
người và hoàn cảnh. Trong trường hợp này người nghiên cứu có thể ở đâu đó nghe
xem mọi người nói gì về hãng mình, quan sát xem người ta nói gì về hàng hóa của
mình, hàng hóa cạnh tranh,…
Thực nghiệm là phương pháp đòi hỏi chọn lọc các nhóm chủ thể có thể so sánh
được với nhau, tạo ra đối với nhóm đó hoàn cảnh khác nhau, kiểm tra các biến số đã
xác lập và xác định trình độ ý nghĩa của những điểm khác nhau được theo dõi. Mục
tiêu của sự nghiên cứu như thể là khám phá mối quan hệ nhân quả bằng cách tuyển
chọn những giải thích đối lập nhau của kết quả theo dõi.
Ví dụ: Những người nghiên cứu của một hãng có thể dùng thực nghiệm để giải
đáp những vấn đề như:
- Có tạo ra hay không một hình ảnh mới về công ty trong tiềm thức khách hàng?
Có thể cung cấp một dịch vụ mới cho việc lặp lại hay không?
- Có thể giảm giá theo khối lượng mua được không, điều đó liệu có kích thích
tăng lượng bán được không? khi đó có thể tổ chức nhiều điểm bán theo mức giá khác
35
nhau để theo dõi thực nghiệm
Điều tra: Quan sát tốt nhất cho việc nghiên cứu có tính chất tìm kiếm, thực
nghiệm, phát hiện ra mối liên hệ nhân quả, còn điều tra rất tiện lợi cho việc nghiên
cứu mô tả. Điều tra cho phép có những thông tin về sự am hiểu, lòng tin và sự ưa
thích, về mức độ thỏa mãn cũng như đo lường sự bền vững vị trí của công ty trong
con mắt công chúng. Ví dụ: Bao nhiêu người biết về công ty, sử dụng hàng hóa của
công ty? Bao nhiêu người ưa thích công ty khác?
c. Các công cụ nghiên cứu: Khi thu thập các tài liệu sơ cấp những người nghiên
cứu marketing có thể sử dụng hai loại công cụ cơ bản là phiếu điều tra – bnar cau hỏi
và thiết bị máy móc.
* Phiếu điều tra hay bảng câu hỏi: là công cụ nghiên cứu phổ biến nhất khi thu
thập tài liệu sơ cấp. Theo nghĩa rộng phiếu điều tra hay bảng hỏi là hàng loạt câu hỏi
mà người được hỏi cần phải trả lời. Bảng câu hỏi là một công cụ rất linh hoạt theo
nghĩa là những câu hỏi có thể đặt ra nhiều phương pháp khác nhau. Bảng câu hỏi
phải được soạn thảo cẩn thận, phải lấy mẫu thử nghiệm để loại bỏ những thiếu sót
phát hiện ra trước khi bắt đầu sử dụng rộng rãi chúng.
* Về nội dung: Trong quá trình soạn thảo câu hỏi người nghiên cứu marketing
lựa chọn một cách cẩn thận các câu hỏi cần phải đặt ra, lực chọn hình thức những câu
hỏi đó, cách diễn đạt và tính logic của chúng. Câu hỏi đặt ra có liên quan trực tiếp
nhu cầu thông tin để thực hiện mục tiêu của cuộc nghiên cứu. Câu hỏi gì sẽ do nhu
36
cầu thông tin gì quyết định.
Bảng 3.2. Các ví dụ về dạng câu hỏi đóng
Tên gọi Mô tả bản chất Ví dụ
cách thức của cách thức
Lựa chọn một - Câu hỏi đề nghị - Khi cần uống bia anh chọn Halida chứ?
trong nhiều lựa phải lựa chọn một Vâng
chọn từ hai câu trả lời Không
Câu hỏi với - Câu hỏi yêu cầu - Anh thường đi cùng ai trong chuyến bay?
cách trả lời lựa chọn 1 từ 3 hoặc Không với ai
chọn nhiều hơn cách trả Chỉ với trẻ con
lời Với vợ/ chồng
Với đồng nghiệp
Với những người đống sở thích
Với bạn hàng, bạn bè, cha, mẹ.
Câu hỏi với - Câu hỏi đề nghị - Các công ty nhỏ thường phục vụ khách hàng
mức độ khác chỉ ra trình độ tốt hơn các hãng lớn
nhau đồng ý hoặc không 1. Rất không đồng ý
đồng ý 2. Không đồng ý
3. Không có ý kiến
4. Đồng ý
5. Hoàn toàn đồng ý
Phân giải theo - Phân lớp hai khái Công ty sản xuất bánh kẹo Hải Hà là một công ty:
nghĩa từ niệm đối nghịch, Lớn x Nhỏ
trong đó người Có kinh x Không có được hỏi sẽ lựa nghiệm kinh chọn vị trí thích nghiệm hợp với phương Hiện đại x Lạc hậu hướng và cường
lực cảm nhận của
37
anh ta
- Chia theo tầm - Chia một tính - Việc ăn uống trong chuyến bay đối với tôi:
quan trọng chất bất kỳ theo 1. Cực kỳ quan trọng
tầm quan trọng từ 2. Rất quan trọng
“hoàn cảnh” không 3. Tương đối quan trọng
quan trọng đến 4. Không quan trọng
“cực kỳ” quan 5. Hoàn toàn không quan trọng
trọng
- Phân chia theo - Chia một dấu - Uống bia trong bữa ăn
giá trị hiệu bất kỳ từ 1. Tuyệt hảo
không thỏa mãn ( 2. Rất tốt
không được) đến 3. Tốt
tuyệt hảo 4. Hay hay
5. Không được
Những sai lầm thường thấy nhất là đặt ra những câu hỏi mà người được hỏi
không có khả năng trả lời hoặc không muốn trả lời, không đòi hỏi trả lời, và thiếu
những câu hỏi cần thiết buộc có sự trả lời chúng. Mỗi câu hỏi cần phải kiểm tra với
quan điểm sự đóng góp của nó trong kết quả nghiên cứu chung. Những câu hỏi quá
xa chủ đề nên loại bỏ.
Về hình thức: Có hai loại câu hỏi là câu hỏi đóng và câu hỏi mở. Câu hỏi đóng
chứa đựng toàn bộ các phương án có khả năng trả lời mà người được hỏi chỉ lựa chọn
một trong số đó. Điều đó được ví dụ trong bảng 2.2.
Câu hỏi mở đưa lại khả năng cho người được hỏi trả lời bằng lời lẽ và ý kiến
riêng của mình. Hình thức chủ yếu của câu hỏi mở được mô tả trong bảng 2.3.
Bảng 3.3.Các ví dụ về dạng câu hỏi mở
Tên gọi cách
Mô tả bản chất của hình thức
Ví dụ
thức
- Câu hỏi thiếu
- Câu hỏi mà trong đó người được
- Bạn có ý kiến gì về công ty hàng
cấu trúc đặt ra
hỏi có thể trả lời bằng số lượng
không Việt Nam?
trước
không cần tính toán thực tế
…………………………………
38
- Lựa chọn tập
Người ta nêu cho người được hỏi
- Từ đầu tiên nào hình thành ở trong
hợp từ
một từ và yêu cầu trả lời bằng từ
óc anh khi nghe các từ sau:
đầu tiên đã có ở trong đầu
- Tuyến đường hàng không Hành
trình Vietnam Airlines
- Hoàn thành câu
- Đặt ra cho người đọc hỏi một
- Khi tôi lựa chọn hãng hàng không
câu không hoàn chỉnh và yêu cầu
đối với
tôi quan
trọng nhất
họ hoàn thành chúng.
là:…………………….
- Hoàn thành câu
- Giới thiệu cho người đọc được
Trong những ngày sử dụng dịch vụ
chuyện
hỏi một câu chuyện không hoàn
Vietnam Airlines, người ta phục vụ
thành, đề nghị hoàn thành nó.
bạn những bữa ăn bằng bánh mì cặp
pate nguội. Bạn có cảm giác gì về điều
này?
- Hoàn thành bức
- Trong bức tranh có hai người.
vẽ
Một trong họ bày tỏ suy nghĩ.
Này, đồ ăn đó
Yêu cầu người còn lại viết trả lời
vào hình còn trống.
Viết trả lời của bạn vào đây Nói chung người ta hay dùng câu hỏi mở nhiều hơn, bởi vì người được hỏi
không bị gò bó về sự trả lời. Các bản câu hỏi mở đặc biệt có ích trong giai đoạn
nghiên cứu có tính chất tìm kiếm, khi cần phải xác định xem mọi người suy nghĩ gì?
Về từ ngữ: việc hình thành bản câu hỏi đòi hỏi phải hết sức cẩn thận. Người
nghiên cứu phải sử dụng các từ đơn giản không bao hàm hai nghĩa. Trước khi bắt đầu sử
dụng rộng rãi bảng câu hỏi nên có thử nghiệm sơ bộ sau đó điều chỉnh lần cuối.
Về thứ tự câu hỏi: ngoài ra cũng cần phải đặc biệt chú ý đến trình tự câu hỏi.
Câu hỏi đầu tiên phải là câu hỏi có khả năng gây kích thích đối với người được hỏi.
Những câu hỏi khó hoặc mang tính chất cá nhân, những câu hỏi phân nhóm người
được hỏi nên để sau cùng, cho đến khi người được hỏi cởi mở.
Phương tiện máy móc: để đo lường cường độ quan tâm hoặc tình cảm của
người được hỏi khi tiếp xúc với thông điệp hoặc hình ảnh quảng cáo cụ thể người ta
sử dụng điện kế. Điện kế sẽ đo được mức độ toát mồ hôi cực nhỏ, bị gây ra bởi sự
kích thích cảm xúc. Hoặc thiết bị để đo lường mức độ nhìn được và nhớ được sau khi
chỉ cho người được hỏi xem một thông điệp quảng cáo trong vòng hàng trăm giây
39
hay một vài giây. Thậm chí có cả thiết bị chuyên dùng để ghi chép chuyển động của
mắt, mà nhờ nó xác định xem, vùng nào của sản phẩm sẽ rơi vào tầm nhìn đầu tiên
và vùng nào sẽ được nhìn lâu. Hoặc thiết bị điện mắc vào vô tuyến trong nhà người
được hỏi kể cả đo lường, ghi chép những thông tin về tất cả những kênh được mở bởi
anh ta.
d. Kế hoạch chọn mẫu: Mẫu – là đoạn (bộ phận) dân cư tiêu biểu cho toàn
bộ dân cư nói chung. Người nghiên cứu marketing phải lựa chọn mẫu nào mà
thông tin thu thập từ đó có thể đáp ứng nhiệm vụ đặt ra. Để làm điều đó phải thông
qua 3 quyết định:
- Hỏi ai?
- Số lượng cần phải hỏi?
- Nên lựa chọn các thành viên của mẫu bằng cách nào? Ngẫu nhiên hay theo
tiêu thức nào?
e. Các phương thức tiếp xúc: Tiếp xúc với các thành viên của mẫu bằng cách
nào: điện thoại, bưu điện hay phỏng vấn cá nhân.
- Qua điện thoại: đó là phương pháp tốt nhất để thu thập nhanh thông tin và
người phỏng vấn có thể giải thích những câu hỏi chưa rõ ràng cho người được hỏi.
Nhưng chỉ tiến hành được với người có điện thoại và trong thời gian ngắn.
- Qua bưu điện bảng câu hỏi gửi theo bưu điện: Có thể là phương pháp tốt
nhất để tiếp xúc với các đối tượng không muốn phỏng vấn trực tiếp hoặc người ta có
thể e ngại, ngượng ngùng khi phải đối mặt và trả lời trực tiếp với người nghiên cứu,
do những vấn đề nghiên cứu có thể quá riêng tư. Loại nghiên cứu này cũng có thể áp
dụng đối với những đối tượng mà họ có ít hoặc khó bố trí thời gian dành cho người
nghiên cứu. Chuẩn bị câu hỏi cho phương thức điều tra này cần đơn giản, rõ ràng vì
không có cơ hội giải thích. Phương thức này thường có tỉ lệ trả lời thấp, thời gian lâu.
- Tiếp xúc trực tiếp: bao gồm 2 hình thức phỏng vấn từng cá nhân và nhóm
tập trung. Phỏng vấn từng cá nhân đòi hỏi phải đến nhà hay nơi làm việc của từng cá
nhân. Thậm chí có thể mời từng người đến địa điểm đã chuẩn bị sẵn. Trong trường
hợp này, người nghiên cứu có thể đưa bản câu hỏi và giải thích yêu cầu để họ tự điền
rồi thu lại hoặc hỏi từng vấn đề để họ trả lời rồi nhân viên điều tra ghi vào bản hỏi.
40
Vì vậy, bản hỏi cũng có thể được chuẩn bị chi tiết để đối tượng tự điền vào hoặc câu
hỏi có tính chất đề cương rồi người nghiên cứu hỏi và ghi trả lời của đối tượng được
nghiên cứu. Câu hỏi đóng thường làm theo cách thứ nhất, câu hỏi mở thường làm
theo cách thứ 2. Thời gian điều tra mẫu đối tượng nên chỉ vài phút. Trả thù lao hoặc
tặng phẩm cho người được phỏng vấn.
Phỏng vấn nhóm tập trung là hình thức mời từ 6 – 10 người đã được chuẩn bị
tới trao đổi trong một vài giờ. Người phỏng vấn phải nắm chắc chủ đề và có kinh
nghiệm vừa biết đi đúng trọng tâm lại phải vừa biết tạo ra bầu không khí trao đổi
thoải mái. Tư liệu được ghi chép bằng tay hoặc máy ghi âm. Phải chuẩn bị trước hoa
quả, nước uống và thù lao cho người được điều tra.
B3 Thu thập thông tin
Thu thập thông tin là giai đoạn quan trọng nhất nhưng cũng dễ sai lầm nhất của quá
trình nghiên cứu. Khi bắt tay vào thu thập thông tin thường gặp 4 trở ngai:
- Một số người được hỏi có thể vắng nhà mà cũng không ở nơi làm việc;
- Một số người thoái thác, từ chối tham gia;
- Một số có thể trả lời thiên lệch, không thành thật, cảm thấy vô bổ mất thời gian;
- Bản thân người chủ trì có thể thiên vị, không thành thật vì lý do chủ quan.
Nếu thu thập thông tin bằng thực nghiệm thì người nghiên cứu phải chuẩn bị chu đáo
để nhóm thí nghiệm và nhóm đối chứng phù hợp nhau. Cân nhắc kỹ xem có nên xuất
hiện công khai hay bí mật. Nếu người nghiên cứu xuất hiện công khai, thì chỉ nên áp
dụng với những thực nghiệm mà sự có mặt của họ không ảnh hưởng tới hành vi của
người tham dự. Điều kiện môi trường thực nghiệm phải giống thực tế.
B4. Phân tích thông tin
Giai đoạn này nhằm rút ra từ tài liệu thu thập được những thông tin và kết quả
quan trọng nhất. Kết quả nghiên cứu thường được tập hợp vào bảng. Trên cơ sở bảng
đó xem xét sự phân bố của các thông tin: mật độ cao, trung bình, tản mạn.
Nếu là nghiên cứu định tính thì phải căn cứ vào mật độ trả lời hoặc tần suất
xuất hiện thông qua các con số giả thiết. Nếu là nghiên cứu định lượng cần dựa vào
41
con số thực hoặc những chỉ tiêu tính toán.
Công việc của phân tích thông tin gồm 4 bước: (1) chuẩn bị dữ liệu, (2) mà
hóa dữ liệu, (3) kiểm tra và hiệu chính dữ liệu (nếu cấn thiết), (4) nhập dữ liệu vào
máy tính, (5) xử lý và phân tích dữ liệu để đáp ứng mục tiêu nghiên cứu.
B5. Viết và trình bày báo cáo
Tùy vào quy mô điều tra nghiên cứu mà có cách thức báo cáo kết quả khác
nhau. Nếu cuộc nghiên cứu chỉ là những điều tra thăm do chớp nhoáng và người ra
quyết định marketing cần thông tin nhanh thì báo cáo có thể trình bày bằng miệng
trước khi viết thành văn. Còn nếu cuộc nghiên cứu có quy mô lớn thì kết quả nhất
thiết phải được trình bày trong các báo cáo được viết chu đáo. Khi viết báo cáo phải
tập trung vào vấn đúng vấn đề mà người đặt hàng quan tâm và thể hiện rõ trong vấn
đề và mục tiêu của dự án nghiên cứu. Những kết luận được trình bày một cách cô
đọng và logic trong báo cáo sẽ là cơ sở để xem xét và sử dụng trong quá trình ra
quyết định.
Một báo cáo bao gồm các phần chính sau:
+ Tóm tắt cho nhà quản trị
+ Giới thiệu cơ sở mục tiêu nghiên cứu
+ Phương pháp nghiên cứu
+ Kết quả nghiên cứu
+ Các hạn chế và ý nghĩa của chúng
+ Kết luận và kiến nghị
+ Phụ lục và tài liệu tham khảo (nếu có)
3.2. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG MARKETING
3.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc phân tích môi trường marketing
Môi trường marketing là tổng hợp các yếu tố các lực lượngbên trong và bên
ngoài marketing có ảnh hưởng tích cực hoặc tiêu cực đến hoạt động marketing của
doanh nghiệp.
Môi trường marketing về thực chất, theo ngôn ngữ phổ cập, cũng là môi trường
kinh doanh của doanh nghiệp. Nhưng khi gọi chúng là môi trường marketing, thì điều
đó có nghĩa là môi trường kinh doanh được xem xét theo góc độ marketing, xem xét
42
sự ảnh hưởng của những yếu tố thuộc môi trường kinh doanh tới các quyết định liên
quan đến việc thiết lập, duy trì, củng cố, mở rộng, phát triển…quan hệ giữa doanh
nghiệp với những khách hàng mục tiêu. Như vậy, có thể nói khi phân tích môi trường
marketing, về thực chất là ta phân tích sự ảnh hưởng của các yếu tố môi trường kinh
doanh tới sự biến đổi của tính chất, quy mô, trình độ…của như cầu thị trường, tới
tương quan cung cầu và đặc biệt là tới các biến số marketing – mix của công ty.
Nếu như công ty có một phòng hay một bộ phận chuyên lo việc soạn thảo và
ra các quyết định marketing, thì các yếu tố thuộc môi trường marketing, thì các yếu
tố thuộc môi trường marketing là bao gồm tất cả các tác nhân nằm ngoài khả năng
kiểm soát của phòng hoặc bộ phận marketing. Do đó, thuộc về môi trường marketing
cũng có thể là yếu tố nằm bên trong doanh nghiệp, nhưng bên ngoài phòng marketing.
Khi nói môi trường marketing là các yếu tố, lực lượng mà bộ phận marketing
không thể kiểm soát được, không khống chế được, thì điều đó có nghĩa là sự thay đổi,
những diễn biến của các lực lượng và các yếu tố đó không phải do bộ phận marketing
gây ra, hay bộ phận marketing có quyền làm thay đổi. Đối với bộ phận marketing,
những biến đổi đó là khách quan. Đến lượt mình, bộ phận marketing chỉ có thể theo
dõi, phát hiện để tự thay đổi các quyết định marketing của mình nhằm giảm thiểu
những tác động xấu, khai thác tối đa những tác động tốt hoặc để thích ứng một cách
có lợi ích nhất.
Môi trường marketing vi mô bao gồm các yếu tố liên quan chặt chẽ đến doanh
nghiệp và nó ảnh hưởng đến khả năng của doanh nghiệp khi phục vụ khách hàng, đó
là nhân tố nội tại và doanh nghiệp có thể tác động kiểm soát được: các kênh
marketing, thị trường khách hàng, cạnh tranh, người cung cấp, các tổ chức trung
gian…
Môi trường marketing nội bộ: Là những yếu tố nội tại của doanh nghiệp có
ảnh hưởng nguồn lực marketing, đến chất lượng các quyết định marketing của doanh
nghiệp.
Môi trường Marketing vĩ mô bao gồm các yếu tố lực lượng mang tính chất xã
hội rộng lớn, chúng có tác động ảnh hưởng đến toàn bộ môi trường marketing vi mô
và tới các quyết định marketing của doanh nghiệp. Đó là những nhân tố doanh nghiệp
không thể kiểm soát được: Nhân khẩu học, kinh tế, tự nhiên, kỹ thuật công nghệ,
43
chính trị pháp luật, văn hoá (ảnh hưởng đến thói quen mua hàng)…
3.2.2. Phân tích môi trường marketing vĩ mô
3.2.2.1. Môi trường tự nhiên
Những biến đổi của môi trường tự nhiên đang ngày càng được cả nhân
loại quan tâm và lực lượng đáng kể ảnh hưởng tới các quyết định marketing của
doanh nghiệp.
Tự nhiên là nguồn tài nguyên thiên nhiên cho kinh doanh. Tuy mức độ cần
thiết khác nhau nhưng không một nghành kinh doanh nào không bị tác động bởi môi
trường tự nhiên. Mặc dù ngày nay nhân loại đang bước sang xã hội hậu công nghiệp,
nhưng nó không thoát ly tuyệt đối khỏi môi trường tự nhiên. Tài nguyên thiên nhiên
có loại tái sinh, có loại không thể tái sinh. Có những thứ ta tưởng là vô tận, nhưng
không phải vậy. Mọi thứ đều trở nên khan hiếm. Tính khan hiếm của tài nguyên là
cản trở - nguy cơ đầu tiên mà các nhà kinh doanh – các nhà quản trị marketing phải
quan tâm. Loại tài nguyên nào khan hiến càng nhiều thì nguy cơ đối với các nhà kinh
doanh càng lớn. Nguy cơ đó sớm muộn cũng truyền tải tới mức giá nguyên liệu, năng
lượng… của kinh doanh. Đối với nhiều ngành kinh doanh của Việt Nam giá năng lượng
trong những năm qua luôn luôn đe dọa tới giá đầu ra các sản phẩm và dịch vụ của họ.
Giá xăng dầu trong những tháng qua tăng tới mức kỷ lục (trên 70 USD/thùng) đã buộc
ngành vận tải xe hơi, giá cước taxi đã tăng tới 15%.
Hiện tượng môi trường bị xâm hại gây ô nhiễm đang là chủ đề được nhiều giới
quan tâm. Các nhà lập pháp thì đang cố gắng đưa nhiều Bộ luật liên quan đến bảo vệ
môi trường, người tiêu dùng thì càng quan tâm tới những thiết bị - sản phẩm có khả
năng chống lại sự phá hoại của môi trường. Hiện tượng trái đất nóng lên đang có sức
hấp dẫn lớn đối với ngành kinh doanh điện lạnh. Trên thị trường Việt Nam trong hè
2005 đã xuất hiện những máy điều hòa không khí và quạt điện có khả năng điều hòa
lượng oxi trong phòng. Như vậy, hiện tượng xấu đi của môi trường tự nhiên đã gây
ra tác động hai mặt, nguy cơ đối với những ngành góp phần làm xấu đi môi trường
và cơ hội đối với ngành có khả năng cải thiện môi trường. Áp lực của Nghị định thư
Kyoto đang đòi hỏi nhiều ngành sản xuất phải thay đổi công nghệ để không làm gia
44
tăng sự phá hoại tầng ozon.
Đối với Việt Nam, tính chất phức tạp của khí hậu nhiệt đới cũng có thể tạo ra
những thách thức đối với nhiều ngành kinh doanh. Tính chất mau hỏng, dễ bị biến
chất… do khí hậu nóng và ẩm, nắng lắm, mưa nhiều buộc các nhà kinh doanh phải
quan tâm tới khi thiết kế kho tàng, thiết kế sản phẩm, vật liệu bao gói bảo quản.
Nhưng đôi khi tính đa dạng của thời tiết lại là cơ hội cho nhiều ngành kinh doanh.
Nhiều nguồn tài nguyên thiên nhiên du lịch đã tạo cho các loại hình du lịch đa dạng.
Mùa hè ta vẫn có thẻ thưởng thức khí hậu mùa đông tại một số điểm du lịch và ngược
lại. Tính chất đa dạng của thổ nhưỡng Việt Nam đã tạo ra nhiều hoa quả và trái cây rất
quý hiếm.
3.2.2.2. Môi trường văn hóa – xã hội
Con người sống trong bất kì xã hội nào cũng mang một bản sắc văn hóa tương
ứng với xã hội đó. Bản sắc văn hóa khác nhau sẽ hình thành nên các quan điểm khác
nhau về các giá trị và chuẩn mực. Thông qua các quan niệm về giá trị và chuẩn mực
đó, văn hóa ảnh hưởng tới các quyết định marketing. Các nhà quản trị marketing nếu
hiểu được, nhận thức đúng về các quan niệm giá trị và chuẩn mực họ sẽ các các quyết
định marketing đúng, ngược lại họ sẽ có thể phạm phải những sai lầm khôn lường.
Văn hóa ảnh hưởng tới các quyết định marketing rất đa dạng, rất nhiều chiều.
Văn hóa có thể tạo nên cơ hội hấp dẫn cho cả một nền kinh doanh. Chẳng hạn những
quan niệm về các sản phẩm tiêu dùng trong các dịp lễ tết đã tạo thành chỗ dựa vững
chắc cho nhiều sản phẩm truyền thống. Văn hóa có thể đòi hỏi những điều mang tính
chất cấm kị mà nhà kinh doanh nên tránh, nếu không họ sẽ bị phạm húy, mà kết cục
là sản phẩm không thể tiêu thụ được. Văn hóa có thể đưa ra những quy ước bất thành
văn mà ngay khi đặt tên cho một sản phẩm các nhà quản trị marketing cần phải tránh.
Văn hóa cũng có thể gợi ca ý tưởng về thiết kế, về lựa chọn màu sắc cho sản phẩm,
về tạo dựng một hình ảnh cho logo. Văn hóa cũng có thể đòi hỏi tính chất (trừu tượng
hay cụ thể), dùng ngôn ngữ hay dùng hình ảnh khi truyền đạt ý tưởng về một thông
điệp quảng cáo. Văn hóa có thể tạo ra một xu hướng hay trào lưu tiêu dùng một sản
phẩm… Trong những năm qua ở Việt Nam ta thấy xuất hiện những trào lưu và xu
hướng tiêu dùng mà trước đây chưa hề có: hình thành các nhà nghỉ cuối tuần hay
45
những trang trại, mua sắm xe hơi, chơi tennis, chơi golf, đi câu cá… Biểu hiện trực
tiếp của những xu hướng đó là sự giàu sang hơn, nhưng sâu xa thầm kín của những
trào lưu đó có yếu tố văn hóa. Khó có thể kể ra hết và liệt kê đầy đủ những tác động
cụ thể của văn hóa tới hoạt động marketing. Căn cứ vào mức độ ổn định hoặc thay
đổi của các chuẩn mực giá trị có liên quan đến văn hóa, người ta chia văn hóa theo 3
mức độ.
- Nền văn hóa: Đây là những chuẩn mực giá trị phản ánh bản sắc văn hóa của
một đất nước, của một vùng, miền hoặc của một dân tộc. Những chuẩn mực giá trị
này được lưu giữ một cách rất trung thành theo thời gian và hoàn cảnh. Ví dụ, tất cả
người Việt đều luôn có xu hướng hướng về cội nguồn, đề cao truyền thống tổ tiên,
đất nước, dân tộc Việt Nam, dù ở đâu, trong hoàn cảnh nào họ cũng tổ chức tết cổ
truyền, thờ cúng tổ tiên, kính trên nhường dưới…Đây thực sự là giá trị văn hóa cốt
lõi bền vững đã ăn sâu vào tâm trí mỗi người. Các giá trị văn hóa cơ bản của xã hội
được thể hiện qua thái độ của con người đối với bản thân mình, đối với người khác,
đối với các thể chế tồn tại trong xã hội, đối với toàn xã hội, với tự nhiên và vũ trụ.
- Nhánh văn hóa: Đây là những chuẩn mực giá trị mà được một nhóm, một bộ
phận người, do có điều kiện và hoàn cảnh sống giống nhau, họ có quan niệm giống
nhau trong khi vẫn bảo tồn bản sắc văn hóa cốt lõi – truyền thống. Ví dụ, giới ca sĩ
có đặc điểm tự do phóng khoáng chung trong việc lựa chọn trang phục khi đó họ có
thể trở thành thị trường mục tiêu của một số nhà tạo mốt. So với những chuẩn mực
giá trị gắn với nền văn hóa, chuẩn mực giá trị do nhánh văn hóa tạo ra có thể biến đổi
theo thời gian và hoàn cảnh.
- Sự biến đổi văn hóa: Một số chuẩn mực giá trị văn hóa có thể thay đổi nhanh
theo từng tình huống. Những biến đổi này đôi khi tạo ra cơ hội marketing rất lớn. Ví
dụ, người ta có thể thay đổi trang phục gắn với một sự kiện thể thao, người ta có thể
lựa chọn một loài hoa mới cho thú chơi hoa của một dịp lễ, tết nào đó…
Trên đây là 6 yếu tố điển hình thuộc môi trường marketing vĩ mô. Những yếu tô này
tác động tới hoạt động marketing của các doanh nghiệp rất phức tạp, đa dạng, nhiều
mức độ. Những biến đổi của nó đôi khi rất mau lẹ, nhưng cũng có thể diễn biến từ từ.
Đối với từng lĩnh vực kinh doanh, từng sản phẩm mỗi yếu tố có tác động khác nhau.
46
Vì vậy các nhà quản trị marketing cũng phải rất linh hoạt khi theo dõi, phân tích và
phán đoán những gì đang xảy ra, sẽ xảy ra trong môi trường vĩ mô. Nhưng không có
một doanh nghiệp ngoại lệ nào, có thể được phép thờ ơ với những biến đổi của môi
trường marketing vĩ mô.
3.2.2.3. Môi trường dân số hay nhân khẩu
Nhân khẩu là yếu tố đầu tiên quan trọng mà bất kỳ nhà quản trị marketing nào
cũng phải quan tâm. Vì nhân khẩu tạo ra khách hàng cho doanh nghiệp. Tiếp cận
nhân khẩu – dân số theo những góc độ khác nhau đều có thể trở thành những tham số
ảnh hưởng tới quyết định marketing của doanh nghiệp. Bởi vì, các tham số khác nhau
của nhân khẩu đều có thể tạo ra sự khác biệt không chỉ quy mô mà cả đặc tính nhu
cầu. Nhân khẩu hay dân số tác động tới hoạt động marketing của các doanh nghiệp
chủ yếu trên các phương diện sau:
- Quy mô và tốc độ tăng dân số là khía cạnh quan trọng tác động tới quy mô
nhu cầu. Thông thường quy mô dân số của một quốc gia của một vùng, một khu vực,
một địa phương càng lớn thì báo hiệu một quy mô thị trường lớn. Bất kỳ công ty nào,
kể cả công ty sản xuất hàng tư liệu sản xuất hay tiêu dùng, đều bị hấp dẫn bởi những
thị trường có quy mô dân số lớn. Tốc độ tăng dân số là quy mô dân số được xem xét
ở trạng thái động. Dân số tăng nhanh, chậm hay giảm sút là chỉ số báo hiệu triển vọng
tương ứng của quy mô thị trường. Tất nhiên, đối với những mặt hàng cụ thể, tương
quan đó không phải bao giờ cũng ăn khớp tuyệt đối, do đó, đôi khi nó có thể là cơ hội
cho doanh nghiệp này nhưng lại là nguy cơ (bất lợi) cho doanh nghiệp khác. Tỷ lệ
sinh giảm sút trở thành nguy cơ cho các doanh nghiệp sản xuất đồ chơi, tã lót, sữa
bột…cho trẻ em nhưng có thể lại là cơ hội cho các công ty có liên quan đến chăm sóc
sức khỏe người cao tuổi.
- Cơ cấu dân số có tác động rất lớn đến cơ cấu nhu cầu của các hàng hóa dịch
vụ cụ thể và đến đặc tính nhu cầu. Cơ cấu dân số cũng được xem xét theo nhiều tham
số khác nhau. Mỗi một tham số sẽ tác động khác nhau tới các quyết định marketing.
Những tham số điển hình của cơ cấu dân số thường được các nhà quản trị marketing,
đặc biệt là trong lĩnh vực hàng tiêu dùng, quan tâm là: giới tính, tuổi tác. Có thể nói
đây là hai tham số quan trọng nhất có ảnh hưởng đến cơ cấu hàng hóa và dịch vụ tiêu
dùng. Nên sự biến đổi về cơ cấu giới tính và tuổi tạo cơ hội cho nhóm hàng này, gây
ra khó khăn cho hàng khác là khó tránh khỏi. Tuy nhiên, sự biến đổi của những tham
47
số này diễn ra từ từ, có tính chất tịnh tiến chứ không phải “mau lẹ, ngay tức thì”.
Ngoài ra, nếu cơ cấu dân số được xem xét theo góc độ cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu
theo thành thị và nông thôn, theo trình độ học vấn cũng là những tham số đáng quan
tâm của các nhà quản trị marketing.
- Tình trạng hôn nhân và gia đình cũng là vấn đề đáng chú ý của nhiều quyết
định marketing. Các khía cạnh liên quan đến gia đình như: tuổi kết hôn, tuổi sinh con
đầu lòng, quy mô gia đình, số lượng gia đình, số con được sinh của một gia đình…đều
tác động lớn đến các trạng thái và tính chất của cầu thị trường. Trong đó những năm
qua Viêt Nam nới lỏng về quan niệm số con, từ “được sinh” thành “nên sinh” của
một cặp vợ chồng, theo pháp lệnh dân số đã có nguy cơ làm bùng phát tỷ lệ tăng dân
số và số con được sinh của một cặp vợ chồng (đã nhanh chóng sinh con thứ 3). Đây
lại là cơ hội cho các công ty sản xuất hàng tiêu dùng trẻ em, dịch vụ liên quan đến
sinh sản của những bà mẹ có độ tuổi cao hơn cũng gia tăng. Xu hướng những người
sống độc thân ngày càng tăng lên gắn liền với xã hội hiện đại, cũng là xu hướng đáng
quan tâm của nhiều công ty. Ví dụ, nhu cầu của những gia đình độc thân thường khác
xa cả về quy mô, kiểu dáng, trình độ phân cấp hàng hóa…so với các gia đình đầy đủ.
- Tốc độ đô thị hóa: tốc độ và trào lưu muốn trở thành dân cư đô thị và “miễn
cưỡng” trở thành dân cư đô thị của xã hội Việt Nam trong những năm đổi mới vừa
qua đang trở thành cơ hội kinh doanh phát đạt cho nhiều ngành.
3.2.2.4. Môi trường kinh tế
Nhu cầu của thị trường – khách hàng phụ thuộc rất lớn vào khả năng mua sắm
của họ. Trên thị trường hàng tiêu dùng, khả năng mua sắm phụ thuộc rất lớn vào thu
nhập của dân cư, mức giá…Trên thị trường hàng tư liệ sản xuất, khả năng mua sắm
phụ thuộc vào quy mô vốn đầu tư và khả năng vay nợ. Đến lượt mình, khả năng vay
vốn lại phụ thuộc rất lớn vào lãi suất tín dụng…
Thu nhập của người tiêu dùng Việt Nam hiện nay do các nguồn sau đen lại:
tiền lương, thu nhập ngoài lương, thu nhập từ lãi suất tiền tiết kiệm, thu nhập từ bán
sản phẩm…Trong tất cả các nguồn trên, nguồn từ lương tăng lên rất chậm, thậm chí
là chậm hơn chỉ số tăng giá. Vì vậy, sức mua từ lương cũng tăng lên rất chậm. Do đó,
nếu xét riêng về chỉ tiêu này thì sự tác động của chúng tới quy mô nhu cầu và cơ cấu
hàng hóa mua sắm là rất yếu ớt. Trái với nguồn thu nhập từ tiền lương, nguồn thu
48
nhập từ ngoài lương đối với một số bộ phận dân cư nào đó là rất lớn và Chính phủ
không kiểm soát được. Nguồn này đối với một bộ phận có điều kiện làm thêm giờ để
kiếm thêm thu nhập ngoài lương chiếm một tỷ lệ nhất định, nhưng nguồn thu phi
pháp không chính đáng hoặc nguồn từ việc “đánh quả” rong buôn bán, kinh doanh
do có lợi thế về địa vị công việc và thông tin trong thời gian qua tăng lên rất nhanh.
Nguồn này đã tạo nên sức mua rất lớn về quy mô và gây nên sự phân tầng dữ dội
trong thu nhập cũng như cơ cấu tiêu dùng và mua sắm. Do đó, tại thị trường Việt
Nam mức bình dân về mua sắm cũng có, nhưng mức tiêu dùng theo xu hướng “
thượng lưu hóa” cũng rất lớn. Sự phân tầng lớn trong thu nhập và mua sắm còn là
điều đáng chú ý hơn so với mức tăng thuần túy về quy mô thu nhập – quy mô nhu
cầu đối với các nhà quản trị marketing. Trong thời gian gần đây, nhu cầu đi du lịch
nước ngoài, nhu cầu mua sắm xe hơi, nhu cầu chơi golf…đang hình thành và lan tỏa
trong một bộ phận không nhỏ dân cư.
Bên cạnh sự chênh lệch về sức mua giữa các tầng lớp dân cư, sự chênh lệch
này còn diễn ra giữa thành thị và nông thôn, đồng bằng và miền núi, vùng sâu vùng
xa. Mức thu nhập của thành phố hiện nay chênh lệch so với nông thôn khoảng từ 5 –
7 lần, trong khi 80% dân số Việt Nam là dân cư nông thôn. Trình độ tiêu dùng của bộ
phận dân cư này vẫn chủ yếu là những hàng hóa đơn giản, phổ thông và rẻ tiền. Đó
cũng là những khía cạnh mà các nhà quản trị marketing phải quan tâm khi muốn tham
gia vào đoạn thị trường này.
3.2.2.4. Môi trường khoa học – công nghệ
Khoa học kỹ thuật và khoa học ứng dụng mang đến cho đời sống con người những
tác động đầy kịch tính. Tiến bộ khoa học kỹ thuật đã tạo ra điều kỳ diệu cho cuộc sống
con người. Ngày nay, người ta có thể bỏ ra hàng trăm ngàn đô la để thực hiện một cuộc
thám hiểm sao hỏa trên con tàu vũ trụ. Nhưng khoa học kỹ thuật cũng là hiểm họa lớn
nhất cho cuộc sống con người. Bom kinh khí, các dạng khác nhau của kích thích (thuốc
lắc, thuốc chứa heroin…) đang đe dọa cuộc sống bình an của nhân loại.
Sự tác động mang tính hai mặt của tiến bộ khoa học kỹ thuật diễn ra không
những do con người khác nhau khai thác nó vào những mục đích khác nhau mà ngay
trong từng sản phẩm hàng hóa đôi khi cũng hàm chứa tác động cả hai mặt trong khi
49
con người muốn khai thác mặt tích cực của nó. Các tiến bộ trong công nghệ sinh học
đang được sử dụng tích cực để chế tạo ra các dược phẩm chữa trị bệnh tật cho con
người, nhưng xem ra phần lớn các loại thuốc đều có tác động hai mặt mà đôi khi con
người chưa phát hiện đầy đủ. Ở Việt Nam, ô tô, xe máy đang góp phần làm cho cuộc
sống của người dân sung túc hơn, nhưng xem ra sự gia tăng về lượng xe máy ở Việt
Nam đang hàng ngày cướp đi hàng chục sinh mạng khiến cho mỗi người khi tham
gia gia thông đều nơm nớp lo bị tai nạn. Tình trạng trên khiến cho các nhà quản trị
marketing khi đề xuất các giải pháp phát triển sản phẩm mới đi kèm với nhưng ứng
dụng khoa học kỹ thuật mới đều phải quan tâm tới tính hai mặt của nó. Có rất nhiều
vấn đề của khoa học kỹ thuật mà các nhà quản trị marketing của doanh nghiệp phải
quan tâm. Dưới đây là một số khía cạnh đáng chú ý nhất hiện nay là:
- Tốc độ tiến bộ khoa học kỹ thuật quá nhanh, thời gian kể từ khi có phát hiện
khoa học để đến khi có sản phẩm ngày càng rút ngắn (bảng 3.1).
- Những phát minh khoa học đã làm cho sản phẩm mới hoàn thiện hơn xuất
hiện liên tục. Với phát minh số hóa ta thấy các sản phẩm kỹ thuật số rất hoàn chỉnh
đã xuất hiện ở nhiều lĩnh vực.
- Thời đại kinh tế tri thức đang xuất hiện làm hé mở khả năng vô tận cho các phát
minh khoa học và công nghệ. Nhiều công nghệ mới làm biến đổi tận gốc rễ những
công nghệ truyền thông tạo ra khả năng thay thế triệt để hàng hóa truyền thống.
Những công trình nghiên cứu trong các lĩnh vực: công nghệ thông tin, công nghệ sinh
học, công nghệ năng lượng mới và công nghệ tái sinh, công nghệ vật liệu mới, khoa
học hải dương, kỹ thuật rô-bốt đang góp phần tạo ra nhiều sản phẩm mới (sản phẩm
sử dụng năng lượng mặt trời, thuốc chữa ung thư, thuốc chữa các bệnh thần kinh,
thiết bị sản xuất nước ngọt từ nước biển, rô-bốt gia dụng biết làm một số công việc
nội trợ…)
3.2.2.5. Môi trường chính trị - luật pháp
Môi trường chính trị bao gồm: vấn đề điều hành của Chính phủ, hệ thông
luật pháp và các thông tư, chỉ thị, vai trò của các nhóm xã hội. Những diễn biến của
các yếu tố này ảnh hưởng rất mạnh và cũng rất trực tiếp đến các quyết định
50
marketing của doanh nghiệp.
Việt Nam đang xây dựng thể chế kinh tế thị trường. Hàng năm Quốc hội
thường xuyên có nhiệm vụ xây dựng các bộ luật mới, các pháp lệnh, đồng thời xem
xét điều chỉnh sửa đổi lại các văn bản pháp luật cũ. Mặc dù vậy, nền kinh tế của Việt
Nam vẫn vận hành trong điều kiện “thiếu luật”. Trong điều kiện đó, để điều hành nền
kinh tế chỉnh phủ thường ban hành hàng loạt các văn bản pháp quy như: các quyết
định, các quy định, quy chế, thông tư, nhằm thể chế hóa pháp luật và thay thế cho
những bộ luật của những lĩnh vực hoạt động kinh doanh mà chưa có bộ luật nào điều
chỉnh. Ngoài ra, ngay các Bộ, các Tỉnh và địa phương cũng có hàng loạt các văn bản
dưới luật. Mặc dù trong mấy năm qua chính phủ đã hình thành Tổ công tác để xem
xét lại toàn bộ những văn bản pháp luật trên, xóa bỏ sự mâu thuẫn, sự chồng chéo giữa
chúng, nhưng đánh giá chung về môi trường luật pháp của Việt Nam nhiều chuyên gia,
nhiều nhà kinh doanh vẫn cho rằng vừa thiếu, vừa yếu, vừa rối… rất khó lường. Tình
hình trên gây không ít trở ngại cho các nhà kinh doanh. Ngoài ra, để thu hút đầu tư, các
địa phương đều cố gắng tạo ra “tính hấp dẫn riêng” của địa phương mình. Vì vậy, làm
cho môi trường luật pháp của Việt Nam vốn đã rối càng trở lên phức tạp và rối hơn.
Bên cạnh đó, các doanh nghiệp Việt Nam khi tham gia vào thị trường quốc tế
thường mắc vào chứng bệnh kém hiểu biết luật pháp và thông lệ quốc tế. Đây cũng
là những cản trở rất lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam.
Về điều hành của Chính phủ, nhìn chung, từ khi chuyển sang cơ chế thị trường
Chính phủ đã có nhiều cố gắng trong việc thay đổi nguyên tắc điều hành nền kinh tế
- chuyển từ cơ chế can thiệp trực tiếp – sang cơ chế điều hành gián tiếp bằng luật
pháp, thông qua tác động tới môi trường kinh doanh. Tình hình trên, một mặt, làm
cho môi trường kinh tế vĩ mô ổn định và thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp, đồng
thời tránh phiền hà cho các doanh nghiệp. Nhưng do chưa từ bỏ triệt để tư duy và
phương thức quản lý từ thời bao cấp, nên cơ chế “xin – cho” vẫn còn tồn tại, đặc biệt
là trong khu vực kinh tế Nhà nước. Bên cạnh đó, mặc dù chủ trương chung của Đảng
là khá nhất quán trong việc duy trì nền kinh tế nhiều thành phần, nhưng hiện tượng
phân biệt đối xử vẫn còn tồn tại. Đối với hệ thống doanh nghiệp thuộc khu vực tư
vẫn rất khó khăn trong việc đảm bảo mặt bằng kinh doanh, trong việc tiếp cận với
51
các nguồn vốn tín dụng của hệ thống ngân hàng thương mại quốc doanh…
Trong quan hệ với các cơ quan chức năng của Nhà nước, các doanh nghiệp
hoặc là rất dễ dàng, nếu “hẩu cánh, hợp cạ”, hoặc là rất khó khăn. Về phần mình,
cũng không hiếm các doanh nghiệp kinh doanh còn chưa có quan điểm dài hạn, kinh
doanh theo kiểu “chộp giật”, thậm chí lừa đảo (kinh doanh đa cấp), quảng cáo thiếu
trung thực, làm hàng nhái, hàng giả, lừa dối khách hàng, cạnh tranh không lành
mạnh… Như vậy, tự các doanh nghiệp cũng góp phần làm cho môi trường kinh doanh
của mình xấu đi, làm cho Chính phủ mất lòng tin….Để ngăn chặn tình trạng này,
trong những năm qua Quốc hội đã thông qua Luật Cạnh tranh, Chính phủ đã cho
thành lập Cục Cạnh tranh, Cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng, Cục Vệ sinh và an
toàn thực phẩm…thích ứng với quản lý nền kinh tế thị trường, các cơ quan kiểu như
vậy của Chính phủ đang được hình thành nhanh chóng và ngày càng nhiều. Sự hoạt
động của các cơ quan này, chắc chắn sẽ tác động lớn đến các quyết định marketing của
doanh nghiệp.
Bên cạnh đó, cũng trong điều kiện của việc hình thành cơ chế kinh tế thị trường,
để bảo vệ người tiêu dùng và lợi ích của xã hội, nhóm các tổ chức xã hội sẽ ngày càng
gia tăng, buộc các nhà quản trị marketing không thể không xem xét đến ảnh hưởng của
các tổ chức nay trước khi quyết định thực thi các giải pháp marketing.
3.2.3. Phân tích môi trường marketing vi mô hay môi trường cạnh tranh ngành
3.2.3.1. Cơ cấu ngành cạnh tranh
Cơ cấu ngành cạnh tranh bao gồm các yếu tố chính quyết định cấu trúc ngành
kinh doanh là (1) Số lượng người cung ứng cùng loại sản phẩm và mức độ khác biệt
của các sản phẩm trong cùng loại; (2) Rào cản nhập ngành; (3) Rào cản rút lui khỏi
ngành; (4) Cơ cấu chi phí; và (5) Khả năng vươn ra thị trường toàn cầu.
*) Số lượng người cung ứng và mức độ khác biệt của sản phẩm
Yếu tố này hình thành nên những kiểu cơ cấu ngành đối với các hình thái thị
trường.
Có 5 kiểu cấu trúc cạnh tranh của ngành khác nhau ra trên số lượng người cung
ứng và mức độ khác biệt của sản phẩm.
- Độc quyền tự nhiên: Đây là kiểu cơ cấu ngành chỉ có một công ty kinh doanh
52
duy nhất trên thị trường. Sản phẩm mà họ cung ứng hoặc là không có khả năng thay
thế, hoặc chỉ có khả năng thay thế ở mức độ nhất định. Doanh nghiệp phải chịu sự
quản lý và kiểm soát của nhà nước để bảo đảm lợi ích chung cho xã hội.
- Độc quyền định giá cao: Đây là kiểu cơ cấu ngành mà các doanh nghiệp trong
ngành có quyền định giá cao. Họ có sở hữu những điều kiện tài nguyên đặc thù mà
các doanh nghiệp không thể có được.
- Độc quyền nhóm: Đây là cơ cấu ngành mà trong đó chỉ có vài công ty cung
ứng một loại sản phẩm hay một chủng loại sản phẩm.
Nhóm độc quyền có khác biệt: Bao gồm những doanh nghiệp cung ứng những
sản phẩm có sự khác nhau từng phần (chất lượng, kiểu dẳng). Mỗi doanh nghiệp cá
biệt đều có khả năng chiếm giữ vị trí dẫn đầu về một hoặc vài tính chất chủ yếu mà
họ cung cấp.
- Cạnh tranh có độc quyền: Đây là cơ cấu ngành mà doanh nghiệp phải đối mặt
với nhiều đối thủ cạnh tranh. Mỗi đối thủ đều có khả năng tạo khác biệt cho sản phẩm.
- Cạnh tranh hoàn hảo: Đây là cơ cấu ngành trong đó có số lượng các doanh
nghiệp cung ứng rất lớn, sản phẩm có tính đồng nhất cao.
Các cơ cấu ngành nói trên có thể biến đổi theo thời gian do chính sự vận động
của sản phẩm trên thị trường, chu kỳ sống của sản phẩm, hay do tác động của môi
trường (lối sống, sở thích), do sự vận động của mỗi công ty.
*) Rào cản nhập ngành
Rào cản nhập ngành là sự cản trợ sự gia nhập của các công ty ngoài ngành tham
gia vào ngành sản xuất kinh doanh này.
Các ngành khác nhau thì mức độ khó khăn hay dễ dàng gia nhập cũng khác nhau
chủ yếu gồm: Vốn đầu tư, hiệu quả theo qui mô, qui định về bằng phát minh sáng
chế, giấy phép kinh doanh, nguyên nhiên vật liệu, địa điểm sản xuất; danh tiếng của
công ty, sự liên kết dọc, tính cơ động trong sản xuất, phân phối.
*) Rào cản rút lui khỏi ngành và khả năng thu hẹp qui mô sản xuất
Những rào cản tiêu biểu làm cho việc rút lui khỏi ngành của các doanh nghiệp
đầu tư kinh doanh ở một ngành nào đó thường là nghĩa vụ pháp lí, đạo đức với khách
hàng, cổ đông, khả năng thu hồi tài sản, sự lạc hậu, mức độ nhất thể hóa dọc và các
53
rào cản tinh thần khác.
Khi rào cản rút lui khỏi ngành ở mức cao, các doanh nghiệp thường phải ở lại
để tồn tại, để thu hồn vốn mà họ đã đầu tư, để tìm kiếm cơ hội sau.
*) Cơ cấu chi phí
Trong các ngành khác nhau, cơ cấu chi phí sản xuất và tiêu thụ sản phẩm khác
nhau. Cơ cấu chi phí dẫn tới khuynh hướng cạnh tranh trong ngành cụ thể.
*) Khả năng vươn ra toàn cầu
Khả năng đưa sản phẩm tiêu thị toàn cầu của các ngành không giống nhau. Khả
năng vươn ra toàn cầu có quan hệ chặt chẽ với phạm vi, mức độ, tính chất của hoạt
động cạnh tranh.
3.2.4. Phân tích môi trường nội bộ
Phân tích môi trường nội bộ của doanh nghiệp - Phân tích đánh giá các nguồn
lực: Nguồn lực của một doanh nghiệp bao gồm: nguồn nhân lực, tài sản vật chất, các
nguồn lực vô hình. Đây là nhóm yếu tố quyết định khả năng hoạt động của doanh
nghiệp, quyết định sự thành bại trên thị trường; trong đó nguồn lực quan trọng nhất
là con người. Trong từng thời kỳ, mỗi nguồn lực đều có điểm mạnh, điểm yếu riêng
so với các đối thủ cạnh tranh trong ngành do đó nhà quản trị các cấp nhất là nhà quản
trị cấp cao luôn luôn phải có thông tin về các nguồn lực hiện tại và tiềm năng phân
tích và đánh giá chặt chẽ tận dụng đúng mức các nguồn lực sẵn có của mình nhằm
tạo lợi thế trong cạnh tranh lâu dài.
3.2.4.1. Nguồn nhân lực
Con người là yếu tố cốt lõi trong mọi hoạt động của các loại hình doanh nghiệp,
quyết định sự thành công hay không của các doanh nghiệp, các tổ chức ở mỗi quốc
gia. Trong các doanh nghiệp yếu tố này cực kỳ quan trọng vì mọi quyết định liên
quan đến quá trình quản trị chiến lược đều do con người quyết định, khả năng cạnh
tranh trên thị trường mạnh hay yếu, văn hóa tổ chức tốt hay chưa tốt v.v... đều xuất
phát từ con người. Vì vậy nhân lực là yếu tố đầu tiên trong các nguồn lực mà các nhà
quản trị của các doanh nghiệp có định hướng kinh doanh lâu dài cần xem xét, phân
tích để quyết định nhiệm vụ, mục tiêu và những giải pháp cần thực hiện.
VD: muốn phát triển thêm dịch vụ mới, mở bưu cục mới, v.v... hoặc xác định
54
các mục tiêu tăng trưởng nhanh nhà quản trị doanh nghiệp cần phải biết chắc chắn
những khả năng về nhân lực hiện tại và mới tuyển dụng có thể đáp ứng các yêu cầu
hav không.
Những đối tượng và những vấn đề chủ yếu cần phân tích về nguồn nhân lực bao gồm:
*) Nhà quản trị các cấp.
Đây là nguồn nhân lực quan trong có vai trò như những nhạc trưởng trong dàn
nhạc của các doanh nghiệp trong đó nhà quản trị cấp cao giữ vai trò quan trọng nhất
vì mọi quyết định mọi hành vi kể cả phong cách và thái độ trong các mối quan hệ đối
nội, đối ngoại của họ đều ảnh hưởng đến toàn bộ doanh nghiệp.
Mục đích của việc phân tích nhà quản trị các cấp là xác định khả nàng hiện tại
và tiềm năng của từng nhà quản trị, so sánh nguồn lực này với các doanh nghiệp khác
trong ngành nhằm biết được vị thế cạnh tranh hiện tại và triển vọng của mình trong
mối quan hệ với các đối thủ trên thị trường. Đây là cơ sở để chuẩn bị các chiến lược
nhân sự thích nghi với nhu cầu của các bộ phận, các cấp trong doanh nghiệp, cũng
như thích nghi với các xu hướng phát triển khoa học kỹ thuật trong môi trường kinh
doanh. VD: chẳng hạn, điều chỉnh cơ cấu nhân sự, điều chỉnh các chính sách sử dụng
và đãi ngộ lao động quản lý, tái đào tạo, tuyển dụng để bổ sung các vị trí quản lý thiếu
hoặc yếu, v.v...
* Người thừa hành.
Tương tự như phân tích nhà quản trị các cấp, việc phân tích người thừa hành
cũng căn cứ vào các kỹ nâng chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp và kết quả đạt được
trong từng kỳ liên quan đến nghề nghiệp và các nhiệm vụ, mục tiêu cụ thể trong các
kế hoạch tác nghiệp. Phân tích người thừa hành do người quản lý trực tiếp thực hiện.
Mục tiêu của việc phân tích nhằm đánh giá tay nghề, trình độ chuyên môn để có cơ
sở chuẩn bị các lược về nhân sự chuyên môn trong các bộ phận hoặc/và triển khai các
chương trình hành động thích nghi với khả năng của người thừa hành, v.v... trong đó
có cả kế hoạch đào tạo và tái đào tạo để người thừa hành luôn thích nghi với công
việc được phân công (công việc hiện tại hoặc công việc mới, yêu cầu về kỹ năng
chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cao hơn, v.v ...)
55
3.2.4.2. Nguồn lực vật chất
Nguồn lực vật chất bao gồm những yếu tố như: vốn sản xuất, nhà xưởng máy
móc thiết bị, nguyên vật liệu dự trữ, thông tin môi trường kinh doanh v.v... Mỗi doanh
nghiệp có các đặc trưng về các nguồn lực vật chất riêng, trong đó có cả điểm mạnh
lẫn điểm yếu so với các đối thủ cạnh tranh trong ngành.
Do đó, việc phân tích và đánh giá đúng mức các nguồn lực vật chất là cơ sở
quan trọng giúp nhà quản trị các doanh nghiệp hiểu được các nguồn lực vật chất tiềm
tàng, những hạn chế v.v... để có các quyết định quản trị thích nghi với thực tế như:
khai thác tối đa các nguồn vốn bằng tiền và nguồn vốn cơ sở vật chất hiện có, lựa
chọn và huy động các nguồn vốn bên ngoài khi thật sự có nhu cầu, chọn đối tượng
cần hợp tác nhằm tăng qui mô nguồn lực vật chất, thực hiện dự trữ một tỉ lệ cần thiết
để đảm bảo khả năng đương đầu (phòng thủ hoặc tấn công) với các đối thủ cạnh tranh
trên thị trường trong và ngoài nước.v.v...
Trong thực tế nhà quản trị thực hiện việc phân tích các nguồn lực thông qua
những hoạt động chủ yếu như:
Thứ nhất: Phân loại nguồn lực vật chất hiện có của doanh nghiệp: các nguồn
vốn bằng tiền, máy móc thiết bị, nhà xưởng, kho tàng, đất đai, vật tư dự trữ...
Thứ hai: Xác định qui mô cơ cấu, chất lượng và các đặc trưng của từng nguồn
lực vật chất.
Thứ ba: Đánh giá khả năng đáp ứng nhu cầu thực tế của từng nguồn lực trong
các chương trình hành động của các bộ phận trong nội bộ doanh nghiệp từng kỳ.
Thứ tư: Đánh giá và xác định các điểm mạnh, điểm yếu về từng nguồn lực vật
chất so với những đối thủ cạnh tranh chủ yếu trong ngành và trên thị trường theo khu
vực địa lý
Tuỳ theo loại nguồn lực, việc phân tích này cần tiến hành thường xuyên định kỳ
hoặc đột xuất để phục vụ nhu cầu ra quyết định của các nhà quản trị có tiên quan.
Chẳng hạn nhà quản trị marketing cần hình thành hoặc điều chỉnh các chiến lược cạnh
tranh luôn phải có nguồn lực thông tin về khách hàng, đối thủ cạnh tranh trên thị
trường; nhà quan trị tài chính cần có thường xuyên những thông tin về qui mô nhu
cầu từng kỳ đối với các loại vốn cố định, vốn lưu động ở các bộ phận trong nội bộ
56
doanh nghiệp và các nguồn vốn bằng tiền hoặc bằng hiện vật, các nguồn vốn tín dụng,
v.v... có khả năng huy động để đáp ứng nhu cầu trong các quá trình hoạt động, các
dự án, v.v...; Hoặc hàng năm, nhà quản trị các doanh nghiệp cần đánh giá các nguồn
lực để chuẩn bị các chương trình hành động trong năm sau. v.v...
3.2.4.3. Các nguồn lực vô hình
Ngoài các nguồn lực trên, mỗi doanh nghiệp hoặc tổ chức còn có các nguồn lực
khác mà con người chỉ nhận diện được qua tri giác, đó là các nguồn lực vô hình.
Nguồn lực này có thể là thành quả chung của các thành viên trong tổ chức hoặc một
cá nhân cụ thể và ảnh hưởng đến các quá trình hoạt động. Nguồn lực vô hình thể hiện
qua nhiều yếu tố và nhà quản trị các cấp cần có đầy đủ những kiến thức cơ bản mới
có thể nhận thức rõ sự hiện diện và biết được tầm quan trọng của nguồn lực này.
Chúng bao gồm nhiều yếu tố tiêu biểu như:
1- Tư tưởng chủ đạo trong triết lý kinh doanh.
2- Chiến lược và chính sách kinh doanh thích nghi với môi trường 3-Cơ cấu tổ
chức hữu hiệu.
4-Uy tín trong lãnh đạo của nhà quản trị các cấp.
5- Uy tín doanh nghiệp trong quá trình phát triển.
6-Uy tín và thị phần nhãn hiệu sản phẩm trên thị trường.
7- Sự tín nhiệm và trung thành của khách hàng.
8- Uy tín của người chào hàng.
9- Ý tưởng sáng tạo của nhân viên.
10- Văn hóa tổ chức bền vững.
11- Vị trí giao dịch của doanh nghiệp theo khu vực địa lý. ...
Tuỳ theo tiềm lực sẵn có, quy mô và giá trị những nguồn lực này của mỗi doanh
nghiệp có sự khác nhau và thay đổi theo thời gian. Nếu không nhận diện và đánh giá
đúng mức các nguồn lực vô hình, nhà quản trị các doanh nghiệp dễ đánh mất các lợi
thế sẵn có của mình trong quá trình sản xuất kinh doanh.
Trong thực tế có nhiều doanh nghiệp chưa nhận rõ tầm quan trọng của các nguồn
lực vô hình sẵn có, vừa chưa biết tận dụng, vừa xem thường hoặc lãng phí, đồng thời
còn tiếp thêm sức mạnh của đối thủ cạnh tranh bằng việc bán đi nguồn lực vô hình
57
của mình cho đối thủ với giá rẻ
Để có thể thành công lâu dài trên thị trường trong và ngoài nước, nhà quản trị
các doanh nghiệp cần thấy rõ tầm quan trọng của nguồn lực vô hình trong quá trình
quản trị chiến lược nhận diện và đánh giá đúng mức các nguồn lực vô hình nhận viện
và đánh giá đúng mức các nguồn lực vô hình sẵn có, biết được những nguồn lực vô
hình chưa có để nỗ lực xây dựng và phát triền chúng trong tương.lai.
3.3. PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG VÀ LỰA CHỌN THỊ TRƯỜNG MỤC TIÊU
3.3.1. Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu
3.3.1.1. Khái niệm
Phân đoạn thị trường là quá trình phân chia thị trường tổng thể thành các nhóm
trên cơ sở những điểm khác biệt về nhu cầu, ước muốn và các đặc tính hay hành vi.
Đoạn thị trường là một nhóm người tiêu dùng có đòi hỏi (phản ứng) như nhau
đối với cùng một tập hợp kích thích Marketing
Thị trường mục tiêu là thị trường bao gồm các khách hàng có cùng nhu cầu
hoặc mong muốn mà doanh nghiệp có khả năng đáp ứng, đồng thời các hoạt động
Marketing của doanh nghiệp có thể tạo ra ưu thế so với đối thủ cạnh tranh và đạt được
các mục tiêu kinh doanh đã định.
3.3.1.2. Các tiêu thức và phương pháp phân đoạn thị trường.
Không có một cách duy nhất nào cho việc phân đoạn thị trường. Người làm
marketing phải thử nhiều phương pháp phân đoạn khác nhau, áp dụng riêng lẻ hoặc phối
hợp, để mong tìm ra một cách nhìn chính xác về cơ cấu thị trường. Ở đây, chúng ta sẽ
khảo sát những biên số chính thức thường được dùng trong việc phân đoạn thị trường.
- Phân đoạn theo địa lý: Phương pháp này đòi hỏi chia thị trường thành những
đơn vị địa lý khác nhau như: quốc gia, khu vực, thành phố, hay các vùng lân cận.
Doanh nghiệp sẽ quyết định hoạt động trong một vài đơn vị địa lý đó, hoặc hoạt động
trong mọi đơn vị nhưng có quan tâm đến những khác biệt trong sở thích và nhu cầu
địa phương.
- Phân đoạn theo đặc điểm dân số học: Phương pháp này chia thị trường thành
những nhóm dựa trên các tiêu thức về dân số học, độ tuổi, giới tính, nhân khẩu gia đình,
chu kỳ sống gua đình, lợi tức, ngành nghề, học vấn, tôn giáo, chủng tộc và quốc tịch.
58
Những tiêu thức về dân số này là cơ sở thông dụng nhất để phân biệt những nhóm khách
hàng. Lí do là ước muốn, sở thích, mức sử dụng thường đồng bộ với tiêu thức này. Một
lý do khác là những tiêu thức về dân số này vốn dễ đo lường nhất. Thậm chí khi thị
trường mục tiêu không được phân chia theo tiêu thức dân số học (như dựa vào cá tính
chẳng hạn) thì việc đối chiếu với đặc điểm dân số cũng rất cần thiết để hiểu quy mô của
thị trường đó để tìm cách thâm nhập nó một cách hiệu quả nhất…
Các đặc điểm nhân khẩu có thể sử dụng để phân đoạn là rất phong phú, bao
gồm; tuổi tác, giới tính, thu thập, học vấn, nghề nghiệp,…Tùy thuộc vào đặc điểm
sản phẩm mà doanh nghiệp nên cân nhắc lựa chịn tiêu thức phân đoạn thích hợp avf
có thể sử dụng một hay nhiều tiêu thức để phân chia khách hàng.
- Phân đoạn theo tâm lý: Trong cách này, khách mua được chia thành những
nhóm khác nhau dựa trên tầng lớp xã hội, lối sồng hoặc cá tính.
- Phân loại theo cách ứng xử: trong trường hợp này, khách mua dược chia
thành những nhóm dựa trên kiến thức, thái độ, tình trạng sử dụng (không sử dụng, đã
từng sử dụng, sử dụng lần đầu, sử dụng thường xuyên), mức độ sử dụng, hoặc phản
ứng trước sản phẩm. Nhiều người làm marketing tin rằng các yếu tố dễ thay đổi về
hành vi ứng xử là khởi điểm tốt nhất để hình thành các phân đoạn thị trường.
*) Phân đoạn thị trường theo tư liệu sản xuất.
Các thị trường tư liệu sản xuất có thể được phân chia bằng nhiều yếu tố tương
tự như khi phân chia thị trường tiêu dùng. Khách mua tư liệu sản xuất có thể phân
chia theo địa lý và một số biến số về ứng xử, thái độ, sự tìm kiếm các lợi ích, loại
khách, mức độ sử dụng, mức độ trung thành, mức độ sẵn sàng của người mua.
Một cách thông thường dễ phân đoạn các thị trường tư liệu sản xuất là dựa vào
người tiêu dùng cuối cùng. Những người tiêu dùng cuối cùng khác nhau sẽ tìm kiếm
những lợi ích khác nhau, và có thể tiếp cận được với họ bằng những phối thức
marketing khác nhau.
3.3.1.3. Những yêu cầu đối với phân đoạn thị trường hiệu quả.
Mặc dù có nhiều cách khác nhau để phân đoạn thị trường. Tuy nhiên, không
phải mọi cách phân đoạn thị trường đều hiệu quả.
59
Để có tính hữu dụng, các phân đoạn thị trường phải có những đặc điểm sau:
+ Tính đo lường: Quy mô và khả năng tiêu thụ của các phân đoạn đó có thể đo
lường được.
+ Tính tiếp cận được: Tức là các phân đoạn đó phải có thể tiếp cận và phục vụ
có hiệu quả.
+ Tính quan trọng: Nghĩa là các phân đoạn đó đủ lớn và có khả năng sinh lời,
một Phân đoạn phải là một nhóm khách hàng tương đối đồng nhất và đủ lớn, đáng bỏ
công vạch ra một chương trình marketing phù hợp.
+ Tính khả thi: Các chương trình thu hút và phục vụ cho khu vực thị trường
đó phải có khả năng thực thi.
3.3.1.4. Lựa chọn thị trường mục tiêu
Dựa trên kết quả đánh giá các phân đoạn thị trường, tiếp theo doanh nghiệp
phải tiến hành lựa chọn nên phục vụ bao nhiêu và những phân đoạn thị trường cụ thể
M M M
M M M
M M M
M M M
M M M
1
2
3
1
2
3
1
2
3
1
2
3
1
2
3
p1
p1
p1
p1
p1
p2
p2
p2
p2
p2
p3
p3
p3
p3
p3
Tập
trung
Chuyên
Chuyên
Chuyên
Phục
vụ
vào một
môn
hóa
môn
hóa
môn hóa
toàn bộ thị
phân đoạn
có chọn lọc
thị trường
sản phẩm
trường
nào. Có năm cách để xem xét lựa chọn mục tiêu được mô tả trên hình 7.4
Hình 3.4 Năm cách lựa chọn thị trường mục tiêu
a) Tập trung vào một phân đoạn thị trường.
Đây là trường hợp doanh nghiệp chọn phục vụ một phân đoạn thị trường duy
nhất do khả năng hạn chế của mình thay vì thay đổi một phần nhỏ trong một thị trường
lớn, doanh nghiệp tìm cách đạt một phần lớn trong một thị trường nhỏ hơn. Thông
qua marketing tập trung, doanh nghiệp có thể dành được một vị trí vững chắc trong
60
nhũng phân đoạn thị trường đã chọn nhờ sự am hiểu hơn về nhu cầu của phân đoạn
thị trường này, và tiết kiệm được chi phí hoạt động do chuyên môn hóa sản xuất, phân
phối và khuyến mãi.
Tuy nhiên, marketing tập trung có thể gặp những rủi ro lớn hơn bình thường
khi khách hàng đột ngột thay đổi thị hiếu hay xuất hiện những đối thủ cạnh tranh có
tiềm lực mạnh thâm nhập vào phân đoạn thị trường này. Vì thế, nên nhiều doanh
nghiệp có xu hướng đa dạng hóa hoạt động của mình vào vài ba phân đoạn thị trường
hơn là chỉ giới hạn trong một phân đoạn duy nhất.
Doanh nghiệp cần phân tích các yếu tố: nguồn lực của doanh nghiệp, tính đồng
nhất của sản phẩm và thị trường, các chiến lược marketing, cạnh tranh,..để lựa chọn
một cách đáp ứng thị trường thích hợp và hiệu quả.
b) Chuyên môn hóa có chọn lọc
Doanh nghiệp lựa chọn một số phân đoạn thị trường, mỗi phân đoạn thị trường
đều có sức hấp dẫn và phù hợp với nguồn lực của doanh nghiệp. các phân đoạn thị
trường này có thể ít nhiều liên hệ với nhau hoặc không có mối quan hệ gì với nhau,
nhưng chúng đều hứa hẹn khả năng sinh lời. Chiến lược phục vụ nhiều phân đoạn thị
trường có ưu điểm là giảm bớt rủi ro của doanh nghiệp. Nếu một phân đoạn thị trường
nào đó không còn hấp dẫn nữa, thì doanh nghiệp vẫn có thể tiềm kiếm lợi nhuận ở
những phân đoạn thị trường khác.
c) Chuyên môn hóa thị trường
Trong trường hợp này, doanh nghiệp tập trung vào việc phục vụ nhiều nhu cầu
của một nhóm khách hàng nhất định. Nhờ chuyên môn hóa và việc phục vụ một nhóm
khách hàng mà doanh nghiệp có thể đạt được danh tiếng và trở thành kênh phân phối
cho tất cả các sản phẩm mới mà nhóm khách hàng này có thể yêu cầu.
Chuyên môn hóa thị trường cũng có thể rủi ro, nếu vì lý do nào đó mà nhóm
khách hàng giảm sức mua sắm hoặc thu hẹp danh mục sản phẩm, ví dụ như khả năng
tài chính giảm sút, khó khăn trong tiêu thụ sản phẩm,…
d) Chuyên môn hóa sản phẩm
Đây là trường hơp doanh nghiệp sản xuất một loại sản phẩm nhất định để bán cho
61
một phân đoạn thị trường. Thông qua chiến lược này, doanh nghiệp có thể tạo dựng uy
tín sản xuất sản phẩm chuyên dụng. Vẫn có thể có rủi ro, nếu sản phẩm mà doanh nghiệp
sản xuất có nguy cơ thay thể bằng sản phẩm mới hơn về công nghệ.
e) Phục vụ tòa bộ thị trường
Trường hợp này, doanh nghiệp chủ trương phục vụ tất cả các nhóm khách
hàng tất cả những sản phẩm mà họ cần đến. Chỉ có những công ty lớn mới có đủ khả
năng thực hiện chiến lược phục vụ toàn bộ thị trường.
Những công ty lớn có thể phục vụ thị trường theo 2 cách; Marketing không
phân biệt và marketing phân biệt.
* Marketing không phân biệt
Doanh nghiệp có thê quyết định không xem xét những khác biệt giữa các phân
đoạn thị trường, mà theo duổi toàn bộ thị trường bằn một loại sản phẩm. họ tập trung
vào đặc điểm phổ biến trong nhu cầu khách hàng hơn là những đặc điểm khác biệt.
Họ thiết kế một sản phẩm và một chương trình marketing hướng vào đa số khách
hàng, thực hiện kiểu phân phân phối đại trà nhằm tạo cho sản phẩm của mình một
hình ảnh tuyệt hảo trong tâm trí khách hàng.
Phương pháp marketing không phân biệt có ưu điểm là tiết kiệm chi phí, được
tiến hành theo kiểu tiêu chuẩn hóa và sản xuất hàng loạt trong công nghiệp. Mặt hàng
hẹp nên bớt được chi phí vận chuyển, lưu kho và sản xuất. Chương trình quảng cáo
không phân biệt cũng góp phần làm giảm chi phí quảng cáo. Việc không có nghiên
cứu và lập kế hoạch marketing theo phân đoạn thị trường cũng bớt được chi phí
nghiên cứu marketing và quản trị sản phẩm.
Doanh nghiệp thực hiện marketing không phân biệt thường phải tung ra một
mặt hàng nhắm vào những phân đoạn lớn nhất của thị trường. Khi có nhiều doanh
nghiệp cùng làm theo cách này, kết quả sẽ là cạnh tranh ngày càng gay gắt trong
những phân đoạn lớn của thị trường, trong khi những phân đoạn nhỏ khác thì lại
không được phục vụ tốt.
Ngày nay có nhiều người tỏ ra nghi ngờ về chiến lược marketing không phân
biệt. Họ cho rằng với sự đòi hỏi ngày càng cao và đa dạng hơn trong nhu cầu của
người tiêu dùng thì khó có sản phẩm nào có thể thỏa mãn được yêu cầu cho tất cả
62
mọi người.
* Marketing có phân biệt
Ở đây doanh nghiệp quyết định hoạt động trong nhiều phân đoạn thị trường
và đối với mỗi phân đoạn thị trường, cống hiến những sản phẩm khác nhau.
Bằng việc đưa ra những sản phẩm khác nhau cho từng phân đoạn thị trường
khác nhau và thực thi các chương trình marketing phù hợp, doanh nghiệp hy vọng
đạt được mức doanh số cao hơn và chiếm một vị trí vững chắc hơn trong nhiều phân
đoạn thị trường, nhờ đó có được sự thừa nhận hoàn toàn của khách hàng về doanh
nghiệp trong loại sản phẩm này. Hơn nữa, doanh nghiệp hy vọng rằng một khách
hàng có thể mua hàng của mình nhiều lần hơn vì mặt hàng đáp ứng được ước muốn
của khách hơn các hãng khác. Ngày càng có nhiều doanh nghiệp thực hành marketing
phân biệt.
Marketing thường đưa lại doanh số cao hơn marketing không phân biệt, nhưng
cũng làm tăng nhiều loại chi phí như: chi phí cải tiến sản phẩm, chi phí sản xuất, chi
phí dự trữ, chi phí quản lý, chi phí quảng cáo,.. cho nên, không phải bao giờ khả năng
sinh lời của chiến lược này cũng là chắc chắn.
3.3.2. Định vị thị trường
Một khi đã quyết định sẽ xâm nhập vào những đoạn nào của thị trường, doanh
nghiệp phải quyết định xem là phải chiếm được vị trí nào trong các công đoạn đó.Vị
trí của một sản phẩm thể hiện mức độ đánh giá của khách hàng về sản phẩm đó. Tức
là, vị trí sản phẩm chiếm được trong tâm trí khách hàng so với các sản phẩm cạnh
tranh khác trên cơ sở so sánh những đặc iểm khác biệt chiếm ưu thế.
Người làm marketing cần tạo ra những đặc điểm khác biệt, tức là thiết kế
những đặc điểm khác biệt có ý nghĩa để phân biệt sản phẩm của doanh nghiệp với
sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, nhằm làm cho sản phẩm của mình có lợi thế cạnh
tranh tốt nhất trong thị trường mục tiêu đã chọn và thiết kế marketing – Mix phù hợp
để đạt được vị trí mong muốn đó.
Có 4 cách suy nghĩ để tạo ra những đặc điểm khác biệt cho sản phẩm của một
doanh nghiệp. Doanh nghiệp có thể tạo ra giá trị bằng các cống hiến cho khách hàng
63
cái gì đó tốt hơn (sản phẩm hơn hẳn đối thủ cạnh tranh), mới hơn (phát triển giải pháp
mới) nhanh hơn (giảm bớt thời gian thực hiện hay giao hàng), hay rẻ hơn (mua được
sản phẩm tương tự với số tiền ít hơn).
Sẽ sai lầm nếu các doanh nghiệp cố gắng tạo đặc điểm khác biệt bằng cách cắt
giảm chi phí và giá bán, bởi vì một sản phẩm rẻ hơn so với đối thủ có thể gây tâm lý
nghi ngờ là hàng không tốt, ngay cả khi nó thực sự tốt. Hay vì để giảm giá, doanh
nghiệp tìm cách cắt giảm dịch vụ làm người mua có thể từ chối mua sản phẩm. Mặt
khác, đối thủ cạnh tranh có thể tung ra sản phẩm với giá thấp hơn do đạt được chi phí
sản xuất thấp. Trong những trường hợp này, nếu sản phẩm của doanh nghiệp không
có một ưu thế nõi bật nào khác chắc chắn sẽ thất bại.
Theo Treacy và Wiersema, có ba chiến lược tạo đặc điểm khác biệt thành công
và dẫn đầu thị trường thường được áp dụng là:
- Hoạt động tuyệt hảo: Cung cấp cho khách hàng những sản phẩm hay dịch
vụ tin cậy với giá cạnh tranh có sẵn
- Quan hệ thân thiết với khách hàng: Hiểu biết sâu sắc khách hàng và có khả
năng đáp ứng nhanh chóng những nhu cầu đặc thù của họ.
- Dẫn đầu về sản phẩm: doanh nghiệp cung ứng những sản phẩm và dịch vụ
mới và tăng thêm lợi ích cho khách hàng hơn hẳn đối thủ cạnh tranh.
Như vậy, một doanh nghiệp có thể thành công bằng cách kinh doanh tốt hơn, hiểu
biết khách hàng hơn hẳn sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Để tạo đặc điểm khác biệt cho sản phẩm của mình so với sản phẩm của đối thủ cạnh
tranh, các doanh nghiệp có thể tạo ra sự khác biệt dựa trên 4 yếu tố cơ bản sau: sản
phẩm, dịch vụ, nhân sự và hình ảnh.
a) Tạo đặc điểm khác biệt cho sản phẩm
Thực tế có những sản phẩm tiêu chuẩn hóa rất cao chỉ cho phép những cải biến nhỏ
để tạo ra sự khác biệt. Lại có những sản phẩm có khả năng tạo ra đặc điểm khác biệt
lớn, như ô tô, nhà cửa, đồ gỗ. Những yếu tố chủ yếu tạo ra đặc điểm khác biệt là tính
chất, công dụng, mức độ phù hợp, độ bền, độ tin cậy, khả năng sửa chữa, kiểu dáng,
kết cấu.
64
b) Tạo đặc điểm khác biệt cho dịch vụ
Ngoài việc đặc điểm khác biệt cho sản phẩm vật chất, doanh nghiệp cũng cần tạo ra
đặc điểm khác biệt cho các dịch vụ kèm theo. Trong những trường hợp khó tạo ra đặc
điểm khác biệt cho các sản phẩm vật chất, thì chìa khóa để thành công trong cạnh
tranh là tăng thêm dịch vụ và chất lượng. Những yếu tố chính tạo đặc điểm khác biệt
cho dịch vụ là giao hàng tận nơi, lắp đặt, huấn luyện khách hàng sử dụng, dịch vụ tư
vấn, sửa chữa và một số công việc khác nữa
c) Tạo đặc điểm khác biệt về nhân sự
Một trong những ưu thế cạnh tranh của doanh nghiệp có thể là chất lượng phục vụ
của đội ngũ nhân viên. Ví dụ: Hãng hàng không Singapo nổi tiếng vì có đội ngũ nhân
viên xinh đẹp, duyên dáng, và phục vụ hài lòng khách hàng.
d) Tạo đặc điểm khác biệt về hình ảnh
Ngay cả khi các sản phẩm cạnh tranh trông có vẻ giống nhau, người mua vẫn có thể
có những phản ứng khác nhau đối với hình ảnh của doanh nghiệp hay của nhãn hiệu.
Nó có thể là những nét đặc trưng của nhãn hiệu hay biểu tượng của doanh nghiệp hay
các phương tiện quảng cáo, khung cảnh, sự kiện.
*) Xây dựng chiến lược định vị
Định vị trí sản phẩm trên thị trường mục tiêu (Gọi tắt là định vị) là thiết kế sản
phẩm và hình ảnh của doanh nghiệp sao cho nó có thể chiếm được một chỗ đặc biệt
và có giá trị trong tâm trí của khách hàng mục tiêu.
Có nhiều cách để tạo đặc điểm khác biệt cho doanh nghiệp và nhãn hiệu của
nó. Nhưng không phải tất cả các đặc điểm khác biệt của nhãn hiệu đều có ý nghĩa hay
có giá trị. Mỗi đặc điểm khác biệt đều có thể gây ra chi phí cho doanh nghiệp và lợi
ích cho khách hàng. Vì thế, doanh nghiệp cần lựa chọn thận trọng để làm cho mình
khác biệt với đối thủ cạnh tranh khi thỏa mãn các tiêu chuẩn sau:
- Quan trọng: Điểm khác biệt đó phải đem lại lợi ích có giá trị cho số đông
người mua.
- Đặc điểm: Điểm khác biệt đó chưa có ai tạo ra hay được doanh nghiệp tạo ra
một cách khác biệt
- Tốt hơn: Điểm khác biệt đó là cách tốt hơn so với những cách khác để đạt
65
được lợi ích như nhau.
- Dễ truyền đạt: Điểm khác biệt đó dễ truyền đạt và đập vào mắt người mua.
- Đi trước: Điểm khác biệt đó không thể dễ dàng bị các đối thủ cạnh tranh sao
chép.
- Vừa túi tiền: Người mua có thể có đủ tiền để trả cho điểm khác biệt đó
Những người làm marketing đã tổng hợp được 7 chiến lược định vị đó là:
- Định vị theo thuộc tính của sản phẩm (như giá cả hay đặc điểm kỹ thuật)
- Định vị theo lợi ích của sản phẩm (như các tạp chí nghiên cứu hay giải trí)
- Định vị theo công dụng sản phẩm
- Định vị theo loại sản phẩm
- Định vị theo chất lượng/ giá cả
Cuối cùng doanh nghiệp phải lựa chọn nên khếch trương những điểm khác
biệt nào.
*) Tuyên truyền vị trí của doanh nghiệp
Doanh nghiệp không chỉ vừa thiết kế một chiến lược định vị rõ ràng, mà còn
phải tuyên truyền vị trí của nó một cách thành công.
Nhiều doanh nghiệp thành công đều tìm cách tuyên truyền chất lượng cao và cố gắng
đảm bảo cho khách hàng sự thỏa mãn mà họ trông đợi.
3.4. PHÂN TÍCH ĐỐI THỦ CẠNH TRANH
3.4.1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đối thủ cạnh tranh
- Xuất hiện nhiều tổ chức, doanh nghiệp cùng kinh doanh sản phẩm tương tự
nhau, phục vụ cùng nhóm khách hàng
- Các công ty đa quốc gia đang tiến hành vào thị trường mới và thực hiện
marketing toàn cầu
Hiểu ĐTCT, đưa ra chiến lược marketing hiệu quả
- Cạnh tranh là sử dụng các biện pháp và nghệ thuật để tạo ra lợi thế và dành
chiến thắng trên thị trường thông qua thoả mãn khách hàng tốt hơn đối thủ khác
3.4.2. Xác định/nhận dạng đối thủ cạnh tranh
- Trả lời được các câu hỏi: có những doanh nghiệp nào cạnh tranh với mình? họ
là những đối thủ hiện hữu hay là đối thủ tiềm tàng? họ nguy hiểm tới mức độ nào
66
- Các mức độ cạnh tranh:
+ Cạnh tranh nhãn hiệu
+ Cạnh tranh công dụng
+ Cạnh tranh chung
+ Cạnh tranh ngành
- Quan điểm ngành về cạnh tranh:
- Quan điểm thị trường về cạnh tranh:
3.4.3. Xác định chiến lược của đối thủ cạnh tranh
- Chiến lược chi phí thấp
- Chiến lược đa dạng hoá
- Chiến lược dẫn đầu về chất lượng
Ford dẫn đầu vì đảm bảo chi phí thấp
GM vượt lên vì đáp ứng mong muốn của thị trường là đa dạng công ty Nhật
dẫn đầu vì cung ứng xe tiết kiệm nhiên liệu - độ tin cậy cao - chất lượng cảm giác
3.4.4. Xác định mục tiêu của đối thủ
Nhà quản trị phải phát hiện ra mục tiêu của đối thủ, từng đối thủ cạnh tranh
đang tìm kiếm cái gì trên thị trường, nhằm mục tiêu nào? những yếu tố nào ảnh
hưởng/tác động tơi hành vi của đối thủ cạnh tranh?
Phát hiện ra mục tiêu của đối thủ là cơ sở để nhà quản lý ra quyết định chiến
lược nhằm vô hiệu hoá chiến lược mà đối thủ đang áp dụng.
Để xác định mục tiêu của ĐTCT, cần:
- Đưa ra các giả thuyết để dự báo mục tiêu, dự báo chiến lược mà họ áp dụng
với từng mục tiêu
- Xuất phát từ cơ sở hoàn toàn có khả năng quan sát được để dự báo mục tiêu.
Những cơ sở đó có thể là: lịch sử hình thành và phát triển của đối thủ, thực trạng kinh
doanh hiện có, năng lực của ban lãnh đạo và các bộ phận chức năng, cơ cấu tổ chức
và gánh nặng cơ cấu tổ chức, khả năng vươn ra thị trường toàn cầu;
Có thể sử dụng biểu đồ sản phẩm/thị trường của Ansoft để đánh giá chiến lược
67
của đối thủ
Chỉ tiêu so Texas Instruments Hewlett Packard
sánh
Chiến lược Giành ưu thế cạnh tranh trên Giành ưu thế cạnh tranh trên các
kinh doanh các thị trường quy mô lớn thị trường quy mô nhỏ nhưng yêu
trên cơ sở chi phí thấp cầu chất lượng cao trên cơ sở sản
phẩm độc đáo, giá trị cao
Sản xuất Khối lượng lớn, giá thành hạ Khối lượng nhỏ, chất lượng thấp
Marketing Thị trường tăng trưởng cao, Thị trường thu nhập cao, bền
thị phần lớn vững
R &D Thiết kế theo đuổi chi phí Thiết kế tính năng và công dụng
khác biệt
Tài chính Tiết kiệm, linh hoạt Thận trọng, chặt chẽ
Nhân lực Thi đua, khen thưởng cá Khen thưởng theo nhóm, theo tập
nhân, khuyến khích phát huy thể, khuyến khích tinh thần đồng
khả năng cá nhân đội
Nguồn: Philip Kotler, Quản trị marketing, tài liệu, NXB Thống kê, 1994, trang 263
3.4.5. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ
Tình hình KD: Mức tiêu thụ, thị phần, mức lời, LN/vốn đầu tư, mức lưu
chuy ển TM, sử dụng nguồn lực
3.4.6. Ước lượng các kiểu phản ứng của đối thủ
Đối thủ cạnh tranh điềm tĩnh: là những doanh nghiệp không có phản ứng nhanh
mạnh (phản ứng chậm chạp) trước hoạt động cạnh tranh của đối thủ, họ không phát hiện
ra chiến lược của đối thủ, họ không có đủ khả năng phản ứng trước chiến lược của các
đối thủ đề ra, chưa có ý tưởng về một chiến lược thấu đáo nên chưa vội phản ứng....
Nguyên nhân: họ tin tưởng vào lòng trung thành của khách hàng
Đối thủ cạnh tranh thờ ơ: là những doanh nghiệp không có phản ứng trước tất cả
các hoạt động cạnh tranh của đối thủ, họ không quan tâm vì đối thủ không nguy hiểm
68
Đối thủ cạnh tranh kén chọn : Phản ứng với những kiểu tấn công nhất định
Ví dụ: khi đối thủ giảm giá, họ không phản ứng vì cho rằng chỉ tiêu giá không
phải là chỉ tiêu quan trọng đối với khách hàng của họ
Đối thủ cạnh tranh hung dữ : Phản ứng mau lẹ và mạnh mẽ với mọi cuộc tấn
công của đối thủ khác khi xâm nhập vào lãnh địa của họ, họ là những công ty mạnh
và luôn tìm cách bành trướng thay vì bị xâm lược, họ thường chủ động phòng thủ và
tấn công tương đối mãnh liệt
Đối thủ cạnh tranh khôn ngoan: Khó đoán trước được phản ứng của họ trước
đối thủ khác, ngược lại họ có khả năng nhanh nhạy nắm bắt được các chiến lược có
thể có của đối thủ. Vì vậy họ luôn có những chiến lược bất ngờ, thu hút được sự chú
ý của đa số khách hàng nhưng đôi khi các doanh nghiệp khác lại thờ ơ, họ có thể có
khả năng vô hiệu hoá chiến lược của đối thủ cạnh tranh mạnh.
3.4.7. Thiết kế hệ thống tình báo cạnh tranh
Xây dựng hệ thống thông tin tình báo cạnh tranh
- Chuẩn bị hệ thống: doanh nghiệp phát hiện những kiểu thông tin về đối thủ
cạnh tranh quan trọng, phát hiện những nguồn tốt nhất cung cấp những thông tin đó
và cử ra người quản trị hệ thống và dịch vụ của nó
- Thu thập dữ liệu: tiếp xúc với lực lượng bán hàng, các thành viên kênh, nhà
cung ứng.. để thu thập số liệu về thị trường, khách hàng, đối thủ cạnh tranh. Ngoài ra
có thể thông qua các công ty nghiên cứ thị trường, hệ thống thương mại, hay các số
liệu đã công bố như các ấn phẩm, báo, tạp chí. Doanh nghiệp cần phải tìm ra cách có
được thông tin về đối thủ cạnh tranh hiệu quả mà không vi phạm những tiêu chuẩn
pháp luật hay đạo đức kinh doanh.
- Đánh giá và phân tích: các dữ liệu được xắp xếp, phân loại, phân tích, đánh
giá chính xác phục vụ cho ra quyết định
- Báo cáo và trả lời: Gửi cho người có trách nhiệm
Các nguồn thu thập thông tin tình báo cạnh tranh
- Những nhân viên của đối thủ cạnh tranh và những người mới tuyển dụng
- Từ những người có quan hệ với đối thủ (đối tác làm ăn)
- Từ những tài liệu đã xuất bản, những nguồn cung cấp thông tin công cộng
69
- Theo dõi các đối thủ
3.4.8. Các quan điểm định hướng theo khách hàng và đối thủ cạnh tranh
- Quan điểm hướng theo khách hàng: lấy khách hàng làm trung tâm
- Quan điểm hướng theo đối thủ cạnh tranh: lấy đối thủ cạnh tranh làm trung tâm
3.5. CÁC CHIẾN LƯỢC MARKETING CẠNH TRANH
3.5.1. Các chiến lược của người dẫn đầu thị trường
3.5.1.1. Mở rộng toàn bộ thị trường
Mọi doanh nghiệp điều có lợi khi toàn bộ thị trường được mở rộng, nhưng doanh
nghiệp dẫn đầu thị trường thường được lợi nhiều hơn hết. Nói chung người dẫn đầu
thị trường nên tìm kiếm người sử dụng mới và khuyến khích dùng nhiều hơn cho các
sản phẩm của mình.
- Người tiêu dùng mới: Mỗi loại sản phẩm đều có khả năng thu hút những người
mua mới trong số những người chưa biết đến sản phẩm hay không mua nó vì giá cả
hay sản phẩm do thiếu một số đặc tính nào đó theo yêu cầu của họ.
- Công dụng mới.: Nhờ vào việc phát hiện và quảng cáo những công dụng mới
của sản phẩm mà doanh nghiệp có thể mở rộng thị được thị trường. Thông thường
người sản xuất khi thiết kế sản phẩm thường xác định những thuộc tính cơ bản qui
định những công dụng chủ yếu của sản phẩm đó nhằm thoả mãn những mong muốn
của người tiêu dùng. Nhưng trong quá trình nghiên cứu cải tiến sản phẩm của doanh
nghiệp hay trong quá trình sử dụng của người tiêu dùng, người ta có thể phát hiện
những công dụng mới của sản phẩm, nhờ đó có thể tăng khối lượng và tấn suất sử
dụng chúng. Mỗi công dụng mới cũng làm cho sản phẩm có chu kỳ mới. Nhiệm vụ
của các doanh nghiệp là theo dõi cách sử dụng của người tiêu dùng, thu thập và sử lý
các thông tin về nhu cầu của khách hàng để đề xuất phát triển sản phẩm mới.
- Tăng khối lượng sử dụng: Một ý tưởng nữa của chiến lược mở rộng thị trường
là thuyết phục dân chúng sử dụng nhiều hơn trong mỗi lần sử dụng và do đó sẽ làm
gia tăng mức bán hàng của doanh nghiệp.
3.5.1.2. Bảo vệ thị phần
Trong lúc cố mở rộng quy mô thị trường, doanh nghiệp dẫn đầu thị trường
70
cũng phải thường xuyên bảo vệ mình chống lại sự tấn công của đối thủ cạnh tranh.
Người dẫn đầu thị trường để bảo vệ thị trường của mình thì phải đổi mới liên
tục. Người dẫn đầu thị trường không được bằng lòng với những gì đang có và dẫn đầu
ngành về những ý tưởng sản phẩm mới, dịch vụ khách hàng, hiệu năng phân phối và
giảm giá. Doanh nghiệp phải luông tăng cường hiệu quả cạnh tranh và nâng cao giá trị
phục vụ khách hàng. Doanh nghiệp cần giành thế chủ động và tìm cách tấn công vào
những điểm yếu của đối phương. Cách phòng thủ hay là cáh tấn công tốt nhất.
Doanh nghiệp dẫn đầu ngay cả khi không tung ra các cuộc tấn công, ít ra cũng
phải bảo vệ mọi mặt và không để hở các điểm yếu. Doanh nghiệp phải tìm cách giảm
chi phí, và giá cả phải phù hợp với giá trị mà khách hàng cảm nhận được từ nhãn hiệu
của mình với nhiều kích cỡ và hình thức để đáp ứng được các sở thích đa dạng của
khách hàng chiếm được nhiều chỗ trên các quầy hàng của đại lý
Người dẫn đầu thị trường không thể bảo vệ được tất cả các vị trí của mình trên
thị trường, họ phải tập trung những nguồn lực vào những điểm trọng yếu. Mục đích
của chiến lược phòng vệ là giảm bớt xác suất bị tấn công và hướng các cuộc tấn công
của đối thủ cạnh tranh vào những nơi ít nguy hại hơn.
Có 6 chiến lược phòng vệ mà người dẫn đầu có thể sử dụng
- Phòng vệ vị thế: Hình thức phòng vệ vị thế căn bản nhất là dựng thành trì
chung quanh một vị trí.
- Phòng vệ bên sườn: Trong khi bảo vệ vị trí cao của mình, người dẫn đầu thị
trường nên đặc biệt chú ý bảo vệ những lĩnh vực trọng yếu của mình.
- Phòng vệ chặn trước: Đây chính là hình thức doanh nghiệp chủ động tấn công
đối thủ trước khi nó có thể tấn công chống lại doanh nghiệp. Phòng vệ chặn trước có
thể tiến hành trên từng đoạn thị trường mục tiêu hay trên phần lớn thị trường. Người
dẫn đầu thị trường có nguồn lực mạnh thường có khả năng chống lại các cuộc tấn
công, và trong trường hợp có ưu thế tuyệt đối trên thị trường doanh nghiệp có thể nhử
đối phương lao vào cuộc tấn công tốn kém mà không cần phản ứng lại.
- Phòng vệ phản công: Một khi người dẫn đầu thị trường đã bảo vệ bên sườn
hoặc đã triển khai các biện pháp ngăn ngừa mà vẫn bị tấn công thì phải phản công
lại. Tuy nhiên kinh nghiệm cho thấy doanh nghiệp dẫn đầu thị trường không nên tiến
71
hành phản công ngay mà tạm thời rút lui để tìm ra chỗ sai lầm, sơ hở trong chiến
thuật của đối phương để đánh đòn phản công quyết định thì mới chắc chắn thành
công. Cách phản ứng thành công và có hiệu quả là đánh thẳng vào thị trường và sản
phẩm sinh lợi cao nhất của đối phương buộc nó phải rút lui một phần nguồn lực về
để bảo vệ.
- Phòng vệ cơ động: Phòng vệ cơ động bao gồm sự mở rộng thị trường lân
những cận mà người dẫn đầu thị trường có thể dùng như những cơ sở tương lai cho
sự phòng vệ cũng như tấn công của mình.
Việc mở rộng thị trường đòi hỏi doanh nghiệp phải chuyển trọng tâm từ sản
phẩm hiện tại sang nhu cầu cơ bản chung và tập trung nghiên cứu, phát triển toàn bộ
công nghệ gắn liền với nhu cầu đó.
- Phòng vệ co cụm: Một doanh nghiệp không còn bảo vệ được toàn bộ thị trường
của mình nữa vì nguồn lực dàn trải và đối thủ cạnh tranh đang lấn dần trên một số phân
đoạn thị trường thì cách tốt nhất là nên co cụm lại, tức là rút lui chiến lược. Việc rút lui
chiến lược không có nghĩa là từ bỏ thị trường, mà là từ bỏ những phân đoạn thị trường
yếu kém và tập trung nguồn lực sang phân đoạn thị trường mạnh hơn.
3.5.1.3. Mở rộng thị phần
Những người dẫn đầu thị trường cũng có thể phát triển bằng cách làm tăng
hơn nữa thị phần của mình. Thực tiễn kinh doanh ở các nước phát triển cho thấy rằng
giữa thị phần chiếm lĩnh và khả năng sinh lời có mối quan hệ khá chặc chẽ. Khả năng
sinh lời của doanh nghiệp (ROI) tăng tỉ lệ thuận với mức tăng của thị phần tương đối
của nó trên thị trường mà doanh nghiệp phục vụ. Điều này làm cho nhiều doanh
nghiệp theo đuổi chiến các chiến lược mở rộng thị phần và lấy đó làm mục tiêu, bởi
vì nó không chỉ tạo ra nhiều lợi nhuận mà còn tạo ra khả năng sinh lời lớn hơn.
3.5.2. Những chiến lược của người thách thức thị trường
Doanh nghiệp chọn để thách thức những đối thủ nằm trong số ba loại sau đây:
- Doanh nghiệp có thể tấn công vào người dẫn đầu thị trường
- Doanh nghiệp có thể tấn công vào những doanh nghiệp cùng tầm cỡ
- Doanh nghiệp có thể tấn công vào những doanh nghiệp vừa và nhỏ
72
Chọn chiến lược tấn công
Bằng cách nào người thách thức thị trường có thể tấn công một cách tốt nhất
vào đối thủ đã chọn và đạt được các mục tiêu chiến lược? Doanh nghiệp thách thức
thị trường có thể vận dụng năm chiến lược sau đây:
- Tấn công trực diện: Doanh nghiệp có thể tung ra một cuộc tấn công trực diện
bằng cách tập trung vào các điểm mạnh của mình để chống lại các điểm mạnh của
đối thủ.
- Tấn công bên sườn: Đối thủ thường tập trung tiềm lực bảo vệ những vị thế
mạnh nhất mà theo dự đoán của họ là sẽ bị tấn công. Do đó sẽ ít có khả năng bảo vệ
tốt những điểm yếu khác. Chính những điểm yếu này sẽ là đối tượng cho những người
thách thức thị trường tấn công. Chiến thuật này thường làm cho người phòng thủ mất
cảnh giác và nó đặc biệt có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp có nguồn
lực ít hơn đối thủ cạnh tranh.
- Tấn công bao vây: Tấn công bên sườn thì đòi hỏi việc tìm ra những sơ hở trên
thị trường hiện tại của đối thủ. Tấn công bao vây thì ngược lại, bao hàm việc tung ra
một cuộc tấn công trên nhiều trận tuyến. Do đó, đối thủ phải bảo vệ phía trước, bên
cạnh và đằng sau ngay lập tức. Để thực hiện chiến lược này thành công người tấn
công phải có ưu thế về nguồn nhân lực hơn, có khả năng cung ứng cho thị trường tốt
hơn và nhiều lợi ích hơn đối thủ cạnh tranh, sao cho có thể thuyết phục khách hàng
rằng sản phẩm và dịch vụ của nó đem lại cho họ nhiều sự thõa mãn hơn đối thủ.
- Tấn công đường vòng: Cuộc tấn công đường vòng là một chiến lược cạnh
tranh gián tiếp, tránh được việc phải đương đầu trực tiếp với đối thủ. Người thách
thức tấn công vòng qua đối thủ và nhằm vào những thị trường dễ hơn để mở rộng sơ
sở nguồn lực của mình.
- Tấn công du kích: Người thách thức thị trường thực hiện những tấn công nhỏ,
định kỳ để quấy rối làm suy yếu lực lượng và tinh thần đối thủ, hi vọng rằng dần dần
sẽ xây dựng được chỗ đứng ổn định trên thị trường.
3.5.3. Những chiến lược của người đi theo thị trường
Có nhiều doanh nghiệp đứng hàng thứ hai chủ trương chiến lược đi theo hơn
73
là thách thức người đứng đầu thị trường.
Chiến lược đi theo thị trường áp dụng phổ biến trong những ngành có sản
phẩm đồng nhất như sắt thép, phân bón, hoá chất là nơi ít có cơ hội tạo sự khác biệt
về sản phẩm, hình ảnh hay hay chất lượng sản phẩm và dịch vụ, nhưng có sự nhạy
cảm về giá rất cao.
Một người đi theo thị trường phải biết làm cách nào để giữ khách hàng hiện
có và đạt thêm một số khách hàng mới. Mỗi người đi theo thị trường đều cố gắng
mang đến cho khách hàng mục tiêu của mình những lợi điểm riêng về địa điểm, dịch
vụ, tài chính. Người đi theo thị trường phải biết giữ cho chi phí sản xuất của mình
thấp, chất lượng sản phẩm cao, và dịch vụ tốt. Doanh nghiệp cũng phải nhảy vào
những thị trường mới, khi những thị trường này mở rộng.
Đi theo thị trường không phải là thụ động làm giống theo, cũng không phải là bản
sao của người dẫn đầu thị trường. Người đi theo thị trường phải xác định con đường phát
triển, nhưng là một con đường không tạo ra sự trả đũa có tính cạnh tranh.
Người đi theo thị trường có 3 chiến lược phổ biến:
- Sao chép: Ở đây, người đi theo thị trường làm giống theo người dẫn đầu thị
trường cả về sản phẩm lẫn cách phân phối và quảng cáo…mà không có một sự sang
tạo hay khác biệt nào. Thực chất đây là một kiểu ăn bám theo đầu tư của người dẫn
đầu thị trường.
- Nhái kiểu: Người đi theo thị trường cố gắng duy trì một số điểm khác biệt về
bao gói, quảng cáo… Nhưng vẫn đi theo người dẫn đầu thị trường trong phạm vi
những đổi mới về thị trường và sản phẩm, mức giá cơ bản và phân phối.
- Cải tiến: Doanh nghiệp này theo sát người dẫn đầu ở một vài điểm, và đôi
khi theo cách thức riêng của mình, họ cải tiến sản phẩm mang tính đổi mới hoàn toàn,
nhưng tránh cạnh tranh trực tiếp bằng cách bán chúng trên các thị trường khác. Người
đi theo theo thị trường trở thành người thách thức tương lai.
3.5.4. Những chiến lược của người lấp chỗ trống thị trường
Hầu như trong mọi ngành đều có những doanh nghiệp nhỏ chuyên môn vào
những thị trường mà họ tránh được sự đụng chạm với các doanh nghiệp lớn. Họ cố
tìm lấy một hoặc nhiều chỗ an toàn và có lợi trên thị trường và từ đó họ có thể phục
74
vụ một cách hiệu quả hơn thông qua sự chuyên môn hóa mà những doanh nghiệp lớn
thường ít hoặc không quan tâm đến. Người lấp chỗ trống thường đạt lợi nhuận cao,
trong khi người bán đại trà đạt được khối lượng lớn.
- Mỗi chỗ trống lí tưởng ở thị trường có những đặc điểm sau:
+ Chỗ trống có quy mô và mã lực đủ để có thể sinh lời.
+ Chỗ trống ấy có tiềm năng tăng trưởng.
+ Chỗ trống ấy không được những người dẫn đầu thị trường để ý đến.
+ Doanh nghiệp có những kĩ năng cần thiết để phục vụ chỗ trống ấy của thị
trường một cách hiệu quả.
+ Doanh nghiệp có thể phòng chống lại một cuộc tấn công của đối thủ mạnh
hơn thông qua sự mến mộ của khách hàng mà doanh nghiệp đã gây dựng.
- Người lấp chỗ trống thị trường có thể thực hiện chuyên môn hóa trong các
lĩnh vực sau đây:
+ Chuyên môn hóa theo người sử dụng cuối cùng: Cty chuyên môn hóa trong
việc phục vụ một loại khách hàng sử dụng cuối cùng.
Ví dụ; một công ty tư vấn pháp lý có thể chuyên môn hóa theo các thị trường
luật hình sự, dân sự và luật kinh doanh.
+ Chuyên môn hóa theo mức dọc: Cty chuyên môn hóa ở một mức dọc nào đó
trong chuỗi giá trị sản xuất – phân phối.
Ví dụ; Công ty Đồng có thể tập trung vào sản xuất đồng thô, đông đen tuyền
và đồng thành phẩm.
+ Chuyên môn hóa theo quy mô khách hàng: Cty tập trung vào việc bán hàng
cho khách hàng cở nhỏ, vừa hay lớn. nhiều công ty lấp chỗ trống thị trường chuyên
phục vụ các khách hàng nhỏ mà những công ty lớn không quan tâm.
+ Chuyên môn theo khách hàng đặc biệt: Cty chỉ bán hàng cho một vài khách
hàng lớn.
Ví dụ; Nhiều công ty bán toàn bộ sản lượng của mình cho một công ty, như
Sears hay General Motor.
+ Chuyên môn hóa theo địa bàn: Cty bán hàng tại một địa phương, vùng hay
75
khu vực nhất định trên thế giới.
+ Chuyên môn hóa theo sản phẩm hay chủng loại sản phẩm: Cty CMH trong
việc sản xuất một kiểu sản phẩm nhất định hay một sản phẩm có tính chất nhất định.
Ví dụ; Công ty ren – a – Werck là một hãng cho thuê xe ô tô ở Mỹ chuyên cho
thuê xe cũ nát.
+ Chuyên môn hóa theo từng công việc: Cty thay đổi sản phẩm của mình cho
phù hợp với yêu cầu của khách hàng.
+ Chuyên môn hóa theo chất lượng/giá: Cty hoạt động ở đầu thấp hay đầu cao
thị trường.
Ví dụ; Hewlett – Packat chuyên phục vụ mảng thị trường mây tính bỏ túi chất
lượng cao, giá cao.
+ Chuyên môn hóa về dịch vụ: Cty đáp ứng một hay nhiều dịch vụ mã các
công ty khác không làm.
Ví dụ; một ngân hàng cho vay theo yêu cầu qua điện thoại và giao tiền tận tay
khách hàng.
+ Chuyên môn hóa theo kính: Cty chuyên phục vụ chỉ một kênh phân phối
duy nhất.
Ví dụ; một công ty nước giải khát quyết định sản xuất nước giải khát với quy
mô lớn chỉ bán tại các trạm bán xăng dầu.
Rủi ro chủ yếu của chiến lược người lấp chỗ trống thị trường là nơi lấp chỗ
trống đó có thể hết nhu cầu hay bị tấn công.
Công ty cần nhận thức được những nơi lấp chỗ trống có thể bị suy yếu. Cty cần
khhoong ngừng sang tạo những nơi lấp chỗ trống mới. Cty phải bám lấy chiến lược lấp
chỗ trống, nhưng không nhất thiết bán nơi lấp chỗ trống của mình. Chính vì thế mà
chiến lược nhiều nơi lấp chỗ trống hơn chiến lược một nơi lấp chỗ trống. nhờ củng cố
hai hay nhiều nơi lấp chỗ trống mà công ty tăng được khả năng sống sót của mình.
Khi mới tham gia vào thị trường công ty phải nhắm vào một nơi lấp chỗ trống
của thị trường, chứ không phải toàn bộ thị trường.
Tuy nhiên. Doanh nghiệp cần phải xác định không có một chỗ trống thị trường
nào là an toàn tuyệt đối và không có đối thủ cạnh tranh tiềm tang. Chiến lược lấp chỗ
76
trống thị trường có thể gặp phải những rủi ro do thị trường hết nhu cầu hay bị đối thủ
tấn công. Vì thế doanh nghiệp cần phải không ngừng củng cố vị thế của chỗ trống
trên thị trường hiện có, và đồng thời khai thác thêm những chỗ trống mới trên thị
trường để giảm bớt nguy cơ và duy trì khả năng sống sót của mình.
D) CÂU HỎI, BÀI TẬP, NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CỦA
CHƯƠNG 1
- Câu hỏi ôn tập:
1. Phân tích cấu trúc cạnh tranh trong ngành và ý nghĩa của nó đối với việc ra
quyết định marketing.
2. Hãy phân tích cấu trúc cạnh tranh ngành cho một sản phẩm cụ thể, ví dụ
Honda, vinamilk.
3. Nội dung phân tích đối thủ cạnh tranh với tư cách là một doanh nghiệp cạnh tranh
4. Phân tích chiến lược marketing của từng đối thủ cạnh tranh, đánh giá mặt
mạnh, yếu của từng đối thủ
5. Nhận diện đối thủ cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường
- Câu hỏi thảo luận:
+ Nhận diện đối thủ cạnh tranh của công ty Hon da Việt Nam/công ty sữa Việt
77
Nam Vinamilk
CHƯƠNG 4: QUẢN TRỊ SẢN PHẨM
(Số tiết: 5 (Lý thuyết: 4 tiết, bài tập, thảo luận: 01 tiết)
A) MỤC TIÊU:
- Kiến thức:
+ Nắm được định nghĩa sản phẩm theo quan điểm marketing, phân loại sản
phẩm, các cấp độ sản phẩm
+ Hoạch định bao bì và quản trị danh mục sản phẩm, quản trị thương hiệu
+ Hoạch định chiến lược marketing cho từng giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm
+ Hoạch định chiến lược phát triển sản phẩm mới.
- Kỹ năng:
+ Phân tích và giải quyết các tình huống quản trị marketing;
+ Làm việc nhóm, thuyết trình các vấn đề liên quan đến nội dung chương. - Mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm:
+ Chủ động nghiên cứu, tìm hiểu về chiến lược sản phẩm trong các doanh
nghiệp hiện nay;
+ Tìm hiểu các quy định luật pháp liên quan đến sản phẩm: quy định về bao
bì, nhãn mác, thương hiệu...
+ Tích cực, chủ động phát huy vai trò của mình khi tham gia hoạt động nhóm;
+ Say mê tìm hiểu, khám phá kiến thức, kĩ năng mới.
B) TÀI LIỆU HỌC TẬP
- PGS.TS. Trương Đình Chiến- Quản trị marketing - NXB Đại học Kinh tế
quốc dân, năm 2017 {tr273-tr30; tr317-tr349}
- Phát triển và quản trị sản phẩm – chìa khóa vàng trong Marketing
https://sage.edu.vn/blog/phat-trien-va-quan-tri-san-pham-chia-khoa-vang-trong-
marketing/
C) NỘI DUNG:
4.1. KHÁI NIỆM VỀ SẢN PHẨM
4.1.1. Định nghĩa sản phẩm
Sản phẩm là bất cứ thứ gì có thể cung ứng ra thị trường để thu hút, mua sắm sử
78
dụng hoặc tiêu dùng nhằm thoả mãn nhu cầu hoặc mong muốn của con người.
Ví dụ: Một cái đầu DVD Sony, xe hơi Ford Taurus, một kỳ nghỉ ở Costa Rica,
một cốc cà phê Trung Nguyên, Một chuyến bay SG – ĐN của Vietnam Airlines, một
dịch vụ ATM ở ngân hàng Đông Á, một dịch vụ khám chữa bệnh ở bệnh viện Hoàn
Mỹ, tất thảy điều là sản phẩm.
Theo nghĩa rộng sản phẩm có thể là những vật thể, dịch vụ, con người, địa điểm,
tổ chức, ý tưởng hoặc phối hợp với các yếu tố đó. Do vậy chúng ta sẽ sử dụng thuật
ngữ sản phẩm cho tất cả các loại sản phẩm nêu trên.
Dịch vụ là một hình thức sản phẩm bao gồm các hoạt động, các lợi ích hoặc các
sự thoả mãn được đưa ra bán và nó chủ yếu là vô hình và không có sự sở hữu vật chất
4.1.2. Các cấp độ của sản phẩm
Các nhà marketing nghĩ về sản phẩm theo ba cấp độ. Mỗi cấp độ tăng thêm giá
trị cho khách hàng
- Sản phẩm cốt lõi
Cấp độ cơ bản nhất là lợi ích cốt lõi, chính là dịch vụ hay lợi ích cơ bản mà
khách hàng mua. cấp độ này đề cập câu hỏi khách hàng thật sự mua cái gì? Khi thiết
kế sản phẩm người làm marketing trước hết phải định nghĩa lợi ích cốt lõi và giải
quyết vấn đề hoặc dịch vụ mà khách hàng đang tìm kiếm. Một người khách nghỉ đêm
ở khách sạn người ta mua “sự nghỉ ngơi và giấc ngủ”, một người phụ nữ mua sắm
son môi, họ mong đợi nhiều hơn ở màu môi.
Charles Revlon của hãng mỹ phẩm Revlon đã phát biểu:“Ở công xưởng chúng
tôi sản xuất mỹ phẩm, ở cửa hàng chúng tôi bán niềm hy vọng”
- Sản phẩm chung
Ở cấp độ thứ hai những nhà hoạch định sản phẩm phải chuyển những lợi ích
cốt lõi vào sản phẩm chung. Chính là dạng cơ bản của sản phẩm. Ví dụ khách sạn là
một toà nhà có các phòng để cho thuê, 1 chiếc ô tô, 1 lần khám bệnh...
- Sản phẩm mong đợi
Tức là tập hợp những thuộc tính và điều kiện mà người mua thường mong đợi
và chấp thuận khi họ mua sản phẩm đó. Ví dụ, khách đến khách sạn mong muốn có
một cái giường sạch sẽ, xà phòng khăn tắmarketing, điện thoại, tủ để quần áo và một
79
mức độ yên tĩnh tương đối.
- Sản phẩm hoàn thiện thêm
Tức là một sản phẩmarketing bao gồm cả những dịch vụ và lợi ích phụ thêm
làm cho sản phẩm của doanh nghiệp khác với sản phẩm của đổi thủ cạnh tranh. Ví dụ
khách sạn có thể hoàn thiện thêm sản phẩm của mình bằng cách trang bị máy thu
hình, bổ sung dầu gội và hoa tươi, dịch vụ đăng kí trả phòng nhanh chóng...
Ở các nước phát triển ngày nay cạnh tranh chủ yếu diễn ra ở mức độ hoàn thiện
sản phẩm.
- Sản phẩm marketing tiềm ẩn
Tức là những sự hoàn thiện và biến đổi sản phẩm có thể có được trong tương
lai. Trong khi sản phẩm hoàn thiện thể hiện những gì đã được đưa vào sản phẩm hiện
tại, thì sản phẩm tiềm ẩn chỉ nêu ra hướng phát triển có thể có của nó.
Như vậy, khi mua sản phẩm người mua mong muốn thoả mãn cho cả một chuỗi
nhu cầu, các nhu cầu đó có quan hệ tác động qua lại lẫn nhau trong quá trình ra quyết
định mua của khách hàng.
4.2. PHÂN LOẠI SẢN PHẨM
4.2.1. Hàng bền và hàng không bền
Sản phẩm có thể xếp vào 3 loại theo tính bền và tính hữu hình của nó.
Hàng bền là những hàng hoá hữu hình thường được sử dụng rất nhiều lần. Ví
dụ như máy móc, quần áo, xe máy, ...Hàng bền thường đòi hỏi phải bán trực tiếp và
dịch vụ nhiều hơn.
Hàng không bền là những hàng hoá hữu hình và thường chỉ qua được một vài
lần sử dụng. Ví dụ như bia, xà phòng...Do đặc điểm tiêu hao nhanh và phải mua sắm
thường xuyên, nên người bán phải bảo đảm cho người mua có thể mua được chúng ở
nhiều nơi, tiến hành quảng cáo mạnh mẽ để khuyến khích khách hàng dùng thử và
tạo sở thích.
Các dịch vụ có tính vô hình, dễ thay đổi, không cụ thể, không phân chia được,
sản xuất và tiêu dùng diễn ra cùng một lúc. Ví dụ như sữa chữa, hớt tóc...Đối với loại
hàng này đòi hỏi phải kiểm tra chất lượng nhiều hơn, người cung ứng phải có tín
80
nhiệm và khả năng thích ứng cao hơn.
4.2.2. Sản phẩm tiêu dùng
Sản phẩm tiêu dùng là những sản phẩm và dịch vụ mà khách hàng là người
tiêu dùng cuối cùng mua để tiêu dùng cho cá nhân. Người làm marketing thường xếp
những loại sản phẩm và dịch vụ này dựa trên những nổ lực mua sản phẩm của khách
hàng. Các sản phẩm tiêu dùng bao gồm những sản phẩm tiện dụng, sản phẩm mua
sắm, sản phẩm mua đặc biệt và sản phẩm mua theo nhu cầu thụ động. Những sản
phẩm này khác nhau ở cách thức khách hàng mua chúng và vì thế cách thức marketing
chúng đối với khách hàng cũng khác nhau.
Sản phẩm tiện dụng là những sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng mà khách hàng
mua thường xuyên và ngay lập tức và với sự lựa chọn so sánh và nỗ lực mua hàng tối
thiểu. Chẳng hạn như việc mua thức ăn nhanh, tạp chí, kẹo, bột giặt,...Các sản phẩm
tiện dụng thường có giá thấp và các nhà làm marketing phân phối chúng rộng rãi
nhằm tạo ra độ bao phủ và độ sẵn có của sản phẩm trên thị trường bất cứ khi nào và
bất cứ ở đâu mà khách hàng cần.
Sản phẩm mua sắm là những sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng mà khi mua chúng
khách hàng cân nhắc lựa chọn bằng cách so sánh một cách thận trọng về sự thích hợp,
chất lượng, giá, kiểu dáng. Khi mua sản phẩm và dịch vụ mua sắm, khách hàng
thường bỏ ra nhiều thời gian và nổ lực trong việc tìm kiếm thông tin và so sánh nhiều
lựa chọn khác nhau. Chẳng hạn như mua sắm đồ nội thất, quần áo, vé máy bay, khách
sạn khi đi du lịch...Những người làm marketing các sản phẩm mua sắm thường phân
phối các sản phẩm của mình thông qua một số ít các cửa hàng nhưng cung ứng các
hỗ trợ bán hàng phong phú nhằm giúp khách hàng trong việc họ so sánh các lựa chọn.
Sản phẩm đặc biệt là những sản phẩm và dịch vụ tiêu dùng với những đặc tính
hoặc sự nhận dạng nhãn hiệu duy nhất theo đó các nhóm khách hàng mong muốn
thức hiện các nỗ lực mua hàng đặc biệt. Chẳng hạn các nhãn hiệu đặc biệt và các loại
xe ôtô đặc biệt, các trang thiết bị điện tử, quần áo đắt tiền, thời trang các dịch vụ về
pháp luật và y tế.
Sản phẩm mua theo nhu cầu thụ động là những sản phẩm tiêu dùng mà khách
hàng vừa không biết hoặc biết nhưng không nghĩ sẽ mua. Hầu hết những sản phẩm
81
vừa phát minh là những sản phẩm không được tìm kiếm cho đến khi khách hàng nhận
biết sản phẩm thông qua quảng cáo. Ví dụ điển hình các sản phẩm được biết đến
nhưng không nghĩ sẽ mua đó là bảo hiểm, đất lập mộ, từ điển bách khoa. Các loại sản
phẩm này này hỏi nhiều quảng cáo, nỗ lực bán hàng cá nhân và nhiều nỗ lực
marketing khác.
4.2.3. Sản phẩm công nghiệp
Là những sản phẩm được mua được tái sản xuất hoặc được sử dụng để phục
vụ cho việc kinh doanh. Do vậy, sự phân biệt sản phẩm tiêu dùng và sản phẩm công
nghiệp dựa trên mục đích mua sản phẩm. Nếu khách hàng mua một cái máy xén cỏ
để dùng trong nhà, thì nó là sản phẩm tiêu dùng nhưng nếu cùng một sản phẩm đó
được sử dụng cho công ty môi trường đô thị đề làm vườn thì đó lại là sản phẩm công
nghiệp.
Có 3 nhóm sản phẩm và dịch vụ công nghiệp bao gồm nguyên vật liệu, máy
móc thiết bị và các dịch vụ hỗ trợ.
Nguyên vật liệu, bao gồm các nguyên vật liệu thô và các nguyên vật liệu đã
qua xử lý. Nguyên vật liệu thô bao gồm các sản phẩm do con người tạo ra như vải
sợi, hoa quả...và những sản phẩm tự nhiên như cá, dầu, các quặng mỏ...Các nguyên
vật liệu qua chế biến bao gồm những nguyên vật liệu tổng hợp thép, xi măng...Hầu
hết các loại nguyên vật liệu đã qua chế biến được bán trực tiếp cho người sử dụng
công nghiệp. Giá và dịch vụ là những nhân tố marketing, đặt nhãn hiệu và quảng cáo
có tí quan trọng hơn.
Máy móc thiết bị là những sản phẩm công nghệ hỗ trợ cho hoạt động sản xuất
và vận hành của khách hàng tổ chức, bao gồm thiết đặt và các thiết bị phụ tùng. Sản
phẩm thiết đặt bao gồm nhà xưởng (xưởng sản xuất và văn phòng) và những thiết bị
cố định (hệ thống máy tính, máy móc phụ vụ sản xuất...) Thiết bị phụ từng bao gồm
những thiết bị sản xuất có thể di chuyển và những dụng cụ (dụng cụ cầm tay, đội xe)
và các thiết bị văn phòng. Những sản phẩm này không bền và đơn thuần chỉ để hỗ trợ
cho hoạt động sản xuất.
Vật tư và dịch vụ là những thứ hàng không đi vào sản phẩm hoàn thành. Các
82
vật tư phụ như chất bôi trơn, giấy in, mực in,...thường được bán qua trung gian và
nhà sản xuất mua theo cách đạt hàng lại. Các dịch vụ như bảo trì và sửa chữa, tư vấn
về pháp luật và tư vấn về quản lý thường được thực hiện theo hợp đồng.
4.3. QUYẾT ĐỊNH NHÃN HIỆU SẢN PHẨM
4.3.1. Khái niệm về nhãn hiệu sản phẩm
Theo hiệp hội Marketing Mỹ, nhãn hiệu là một tên gọi, thuật ngữ, dấu hiệu,
biểu tượng hay kiểu dáng, hoặc một sự kết hợp những cái đó nhằm xác định những
hàng hóa hay dịch vụ của một người hay nhóm người bán và phân biệt chúng với sản
phẩm của đối thủ cạnh tranh.
- Tên hiệu (Brand Name) là tên gọi nhằm xác định hàng hoá hay dịch vụ của
người bán và phân biệt với hàng hoá của những doanh nghiệp khác. Tên hiệu là phần
đọc lên được. Ví dụ: Pepsi, Tribeco
- Dấu hiệu (Brand Mark) là một phần của nhãn hiệu nhưng không đọc được
như biểu tượng, mẫu vẽ, một kiểu chữ và màu sắc riêng biệt đặc trưng cho một hãng
hoặc một sản phẩm. Ví dụ: biểu tượng của hãng Mercedes là cái vô lăng hình ngôi
sao ba cạnh
- Nhãn hiệu thương mại (Trade Mark) là tên hiệu thương mại đã được đăng ký
và được luật pháp bảo vệ tránh hiện tượng làm giả.
Nhãn hiệu là một sự hứa hẹn của người bán bảo đảm cung cấp cho người mua
một tập hợp nhất định những tính chất, lợi ích và dịch vụ. Những nhãn hiệu danh
tiếng bao hàm một sự bảo đảm và chất lượng. Nhãn hiệu là một biểu tượng phức tạp.
Những người làm marketing chỉ ra 6 cấp độ ý nghĩa của nhãn hiệu:
Thuộc tính: Ví dụ như Medcedes gợi cho ta những thuộc tính rất đặc trưng
như đắt tiền, sang trọng, uy tín, thiết kế hoàn hảo và dùng lâu bền,…
Lợi ích: Khách hàng không mua những thuộc tính mà mua lợi ích mà sản phẩm
mang lại. Các thuộc tính cần phải có khả năng chuyển thành các lợi ích. Ví dụ, thuộc
tính bền cho ta ý nghĩa về tiết kiệm, thuộc tính thiết kế hoàn hảo cho ta ý nghĩa về sự
an toàn sau tay lái.
Giá trị: Chẳng hạn, nhãn hiệu Medcedes nói lên giá trị mà người mua tìm kiếm,
83
đó là sự hoàn hảo an toàn và uy tín.
Văn hóa: Nhãn hiệu của nhà sản xuất thể hiện một nền văn hóa nhất định.
Medcedes thể hiện nền văn hóa Đức: có tổ chức, hiệu quả và chất lượng cao.
Tính cách: Nhãn hiệu biểu đạt một tính cách nhất định. Medcedes cho ta hình
ảnh về một người chủ không phải kém cỏi.
Người sử dụng: Nhãn hiệu còn thể hiện khách hàng mua hay sử dụng một sản
phẩm, nếu người sử dụng biết tôn trọng giá trị, văn hóa và phong cách mà sản phẩm
đó thể hiện.
Cần nhận thức rằng, người mua quan tâm đến các cấp độ ý nghĩa của nhãn
hiệu với mức độ khác nhau. Họ thường coi trọng lợi ích, giá trị và tính cách hơn các
thuộc tính của sản phẩm. Hơn nữa theo thời gian các thuộc tính sẽ mất dần giá trị
được đề cao của nó.
4.3.2. Sự cần thiết phải đặt tên cho nhãn hiệu sản phẩm
4.3.2.1. Quan điểm người mua
Tên hiệu giúp người ta biết ít nhiều về chất lượng: Kodak, Honda, Sony… Nếu
hàng tiêu dùng không nhãn hiệu thì phải sờ, ngửi… khá mất thời gian. Nếu nhờ người
khác mua họ sẽ rất khó khăn. Nhãn hiệu giúp gia tăng hiệu quả của người mua, giúp
người mua nhận biết sản phẩm mới có thể có ích cho họ.
4.3.2.2. Quan điểm người bán
+ Tên hiệu sẽ giúp công ty dễ thực hiện đơn đặt hàng tìm ra các vấn đề nhanh
chóng.
+ Tên hiệu tạo điều kiện chống cạnh tranh, được pháp luật bảo vệ.
+ Việc lập nhãn hiệu giúp người bán có cơ hội thu hút được những khách hàng
trung thành và có lợi
+ Tên hiệu làm tăng uy tín của công ty.
+ Giúp người bán phân đoạn thị trường
4.3.2.3. Quan điểm xã hội
Đặt tên hiệu đưa tới chất lượng sản phẩm cao hơn và phù hợp hơn
+ Việc đặt nhãn hiệu thúc đẩy các nhà sản xuất tăng cường cải tiến, tìm kiếm
những đặc điểm mới để hoàn thiện sản phẩm, đồng thời tạo ra nhiều mặt hàng hơn,
84
đa dạng sự lựa chọn cho khách hàng.
+ Nhãn hiệu gia tăng hiệu suất của người mua, vì nó cung cấp cho họ nhiều
thông tin về sản phẩm và cho biết tìm mua ở đâu.
4.3.3. Quyết định về người đứng tên hiệu
Sản phẩm có thể được tung ra với tên hiệu người sản xuất hay tên hiệu của người
phân phối (trung gian). Thậm chí người ta có thể mướn tên hiệu. Ví dụ: năm 1981
Piere Carddin thu được 50 triệu đô la tiền bản quyền trên các sản phẩm trị giá 1 tỷ đô
la của 540 hãng trên toàn thế giới, khách hàng lưỡng lự giữa hai sản phẩm tương tự
thì hầu như sẽ chọn sản phẩm có tên hiệu quen thuộc.
4.3.4. Quyết định tên hiệu riêng hay tên công ty
Chúng ta có thể lựa chọn một trong hai hướng, tên hiệu riêng hoặc tên hiệu có
kèm theo tên công ty.Tên hiệu riêng không ảnh hưởng đến uy tín của công ty. Còn
tên hiệu có kèm tên công ty: có nhiều thuận lợi khi công ty nổi tiếng, có uy tín. Tuy
nhiên nếu sản phẩm chất lượng yếu ảnh hưởng đến uy tín công ty.
4.3.5. Quyết định về chất lượng tên hiệu
Chất lượng là một trong những công cụ định vị chủ yếu của nhà làm marketing,
chất lượng thể hiện: tính bền, tính tin cậy, tính an toàn, dễ sử dụng, dễ sửa chữa độ
chính xác và các thuộc tính khác của sản phẩm. Một số trong những thuộc tính này
có thể đo lường một cách khách quan.
Theo quan điểm marketing chất lượng phải được đo lường theo những cảm nhận
của người mua. Có 4 mức chất lượng: thấp, trung bình, cao và hảo hạng. Thực tế cho
thấy mức lời tăng theo mức chất lượng của sản phẩm. Công ty nên nhắm vào chất
lượng cao. Tuy nhiên, nếu mọi hãng cạnh tranh đều nhắm vào chất lượng cao, thì
chiến lược này cũng kém hiệu quả. Chất lượng phải được lựa chọn phù hợp với từng
phân đoạn thị trường nhất định. Chất lượng hảo hạng chỉ làm mức lời tăng nhẹ chút
ít mà chi phí lại lớn
4.3.6. Quyết định mở rộng tên hiệu
Các công ty có thể sử dụng một tên hiệu đã thành công để tung ra những sản
phẩm mới hay sản phẩm cải tiến.Ví dụ: Hãng Honda dùng tên của mình để tung ra
mặt hàng máy xén cỏ. Trong khi đó hãng Gillette sử dụng tên Gillette để tung ra các
85
mặt hàng vệ sinh nam giới.
4.3.7. Quyết định đa hiệu
Đây là quyết định triển khai nhiều nhãn hiệu trong cùng một loại sản phẩm. Ví
dụ: hãng P&G sản xuất được 10 loại bột giặt với tên hiệu khác nhau. Do đó, công ty
tăng nhanh được doanh số, lợi nhuận, chiếm được nhiều chỗ trên kệ bày hàng.
4.3.8. Quyết định, tái định vị tên hiệu
Dù một tên hiệu được định vị tốt thế nào trong thị trường thì sau đó nhà sản xuất
cũng phải tái định vị cho nó. Việc tái định vị có thể đòi hỏi thay đổi cả sản phẩm lẫn
hình ảnh của nó. Hãng P&G đã tái định vị xà bông Bold bằng cách thêm chất giữ
mềm vải.
Tóm lại, việc lựa chọn một tên hiệu phải hết sức cẩn thận. Tên hiệu phải nói lên
được phần nào về lợi ích và chất lượng sản phẩm. Phải dễ đọc, dễ nhận ra và dễ nhớ.
Tên hiệu phải độc đáo, phải dịch được dễ dàng sang tiếng nước ngoài và có thể được
đăng ký và pháp luật bảo vệ dễ dàng.
4.4. NHỮNG QUYẾT ĐỊNH VỀ BAO BÌ VÀ QUẢN TRỊ DANH MỤC SẢN
PHẨM
4.4.1. Quyết định về bao bì sản phẩm
Bao bì có vai trò rất quan trọng. Một số nhà marketing đã coi bao bì là chữ P
thứ năm cùng với 4 chữ P trong marketing mix (Packeage). Tuy nhiên hầu hết giới
marketing đều cho rằng bao bì là một yếu tố trong chiến lược sản phẩm.
Việc tạo bao bì (Packaging). Là những hoạt động nhằm vẽ kiểu và sản phẩm
đồ chứa hay đồ bao gói cho một sản phẩm. Bao bì gồm 3 lớp:
- Bao bì lớp đầu là cái trực tiếp chứa sản phẩm. Ví dụ chai đựng nước hoa là
bao bì lớp đầu.
- Bao bì lớp nhì là bao bì bảo vệ bao bì lớp đầu và sẽ bỏ đi khi ta sắp dùng sản
phẩm đó. Hộp đựng chai nước hoa là bao bì lớp nhì. Nó có tác dụng bảo vệ bổ sung,
vừa là chỗ để quảng cáo thêm.
- Bao bì vận chuyển là lớp bao bì cần thiết cho việc lưu kho và vận chuyển.
Một số hộp cứng đựng 6 tá chai nước hoa nói trên là bao bì vận chuyển.
86
Bao bì là một công cụ marketing quan trọng
Bao bì thu hút khách hàng, mô tả được ích dụng của sản phẩm, tạo niềm tin và
ấn tượng tốt đẹp về sản phẩm. Người tiêu dùng sẵn sàng mua sự tiện lợi, kiểu dáng
đẹp, mức đáng tin cậy và uy tín của một bao bì tốt. Bao bì giúp cho khách hàng nhận
ngay ra công ty hoặc sản phẩm nào đó. Ai đi mua phim ảnh cũng nhận ra ngay bao
bì màu vàng quen thuộc của hãng Kodak, màu xanh của hãng FUJI.
Triển khai bao bì cho sản phẩm mới
Việc triển khai một bao bì hữu hiệu cho một sản phẩm mới đòi hỏi nhiều quyết
định. Nhiệm vụ của bao bì là bảo vệ, giới thiệu sản phẩm. Kích cỡ, hình dáng, chất
liệu, màu sắc, chữ nghĩa và dấu hiệu trên bao bì. Những yếu tố này phải hài hoà để
làm nổi bật giá trị bổ sung của sản phẩm cho khách hàng thấy và hỗ trợ cho việc định
vị sản phẩm và chiến lược marketing. Bao bì phải nhất quán đối với việc quảng cáo,
định giá, phân phối và các chiến lược marketing khác.
Những quyết định về nhãn hiệu trên bao bì
Nhãn hiệu trên bao bì có thể mô tả vài điều về sản phẩm. Ai sản xuất, sản xuất
ở đâu, khi nào, chứa cái gì, sử dụng như thế nào? Và sử dụng sao cho an toàn. Nhãn có
thể quảng cáo cho sản phẩm nhờ những hình vẽ hấp dẫn của nó. Nhãn có thể lỗi thời
theo thời gian nên cần làm mới. Nhãn xà bông Ivory đã được làm lại 18 lần.
4.4.2. Quản trị danh mục sản phẩm
4.4.2.1. Quyết định về đặc tính sản phẩm
- Bản mô tả các thuộc tính của sản phẩm chia làm 2 phần:
+ Các đặc tính chức năng hay công dụng chủ yếu của sản phẩm như: thành
phần hoá học, tính năng chủ yếu..ví dụ độ cồn trong bia.
+ Các đặc tính phi chức năng như màu sắc, mùi vị, mẫu mã, kiểu dáng. Ví dụ,
bia có vị và màu như thế nào?
4.4.2.2. Quyết định về hỗn hợp (danh mục) sản phẩm và dòng sản phẩm
Hỗn hợp sản phẩm là tổng thể các sản phẩm mà doanh nghiệp tung ra bán, là
tâp hợp tất cả các nhóm chủng loại hàng hoá (các dòng sản phẩm) của doanh nghiệp
Ví dụ: hỗn hợp sản phẩm của Unilever gồm: dòng chăm sóc tóc, dòng dưỡng
87
da, chất tảy rửa, bột ngọt, trà v.v
Hỗn hợp sản phẩm của các doanh nghiệp cụ thể thường khác nhau về bề rộng,
mức độ phong phú, bề sâu và mức độ hài hoà của nó.
Bề rộng hỗn hợp sản phẩm: số lượng dòng sản phẩm mà doanh nghiệp sản
xuất (số lượng các nhóm chủng loại hàng hoá doanh nghiệp kinh doanh
Độ phong phú của hỗn hợp sản phẩm: số lượng những mặt hảng cụ thể trung
bình trong mỗi dòng (số lượng các chủng loại của cùng một mặt hàng)
Độ sâu của hốn hợp sản phẩm của doanh nghiệp: số các phương án chào bán
của từng mặt hàng cụ thể:
Ví dụ, bột giặt omo có 6 kiểu đóng gói: 400g; 800g; 3kg; 4,5kg; 6kg; 9kg
Mức độ hài hoà của hỗn hợp sản phẩm: là mức độ gần gũi của hàng hoá thuộc
các nhóm chủng loại khác nhau xét theo góc độ mục đích sử dụng cuối cùng, theo
yêu cầu về tổ chức sản xuất, các kênh phân phối hay các chỉ tiêu nào đó. Các dòng
sản phẩm có thể hỗ trợ nhau trong tiêu thụ hoặc cùng được sản xuất ra từ yếu tố sản
xuất giống nhau
Dòng sản phẩm là nhóm các sản phẩm có mối liên hệ mật thiết với nhau, có
thể là vì chúng thoả mãn cùng bậc nhu cầu, được sử dụng cùng nhau, được bán tới
cùng nhóm khách hàng, sử dụng cùng loại trung gian, hoặc được bán với cùng nhóm
giá nhất định.
Ví dụ: dòng sản phẩm xe máy
Các chiến lược sản phẩm
Chiến lược mở rộng danh mục sản phẩm: bổ sung thêm dòng sản phẩm mới
88
Chiến lược thu hẹp dòng sản phẩm
4.5. CHIẾN LƯỢC MARKETING THEO TỪNG CHU KỲ SỐNG CỦA SẢN
PHẨM
Doanh sè
®êng cong
®êng cong
Thê
I
II
III
IV
Hình 4.1. Chu kỳ sống sản phẩm
Chu kỳ tăng trưởng - tàn - ổn định
Chu kỳ lặp lại
Các dạng của chu kỳ sống
Mốt
Phong cách
Chu kỳ thâm nhập nhan h
Chu kỳ tăng trưởng ổn định
Mốt nhất thời
Hình 4.2. Các dạng của chu kỳ sống sản phẩm
4.5.1.Giai đoạn tung ra thị trường
Giai đoạn tung ra thị trường bắt đầu khi một sản phẩm mới được đem ra bán
trên thị trường. Cần phải có thời gian để trải sản phẩm ra một số thị trường và đảm
89
bảo vận chuyển cho các đại lý, nên nhịp độ tăng trưởng mức tiêu thụ có thể là chậm.
Những sản phẩm quen thuộc như cà phê hoà tan, nước cam ướp lạnh và máy làm kem
cà phê bột đã phải mất nhiều năm mới bước sáng một giai đoạn phát triển nhanh.
Buzzell đã phát hiện ra một số nguyên nhân làm cho nhiều sản phẩm thực phẩm chế
biến phát triển chậm: Sự chậm trễ trong việc mở rộng năng lực sản xuất; những vấn
đề kỹ thuật ('bị hư hỏng vì nhiễm khuẩn"); sự chậm trễ trong việc tổ chức lại mạng
lưới phân phối thích hợp thông qua các cửa hàng bán lẻ; và người tiêu dùng không
muốn thay đổi những hành vi đã trở thành cố hữu. Trong trường hợp những sản phẩm
mới, đắt tiền, mức tiêu thụ tăng châm còn do một số yếu tố phụ khác nữa: Trước nhất
là vì chỉ có một số ít người mua có đủ tiền để mua sản phẩm mới đó.
Trong giai đoạn này, lợi nhuận âm hay thấp bởi vì mức tiêu thụ thấp, các chi
phí phân phối và khuyến mãi rất lớn. Cần phải có nhiều tiền để thu hút những người
phân phối và cung cấp hàng cho họ. Các chi phí khuyến mại chiển tỷ lệ lớn nhất trong
doanh số bán ra "vì cần có nỗ lực khuyến mại ở mức độ cao nhằm (1) thông tin cho
những người tiêu dùng tiềm ẩm về sản phẩm mới và chưa biết điến, (2) kích thích
dùng thử sản phẩm, và (3) đảm bảo phân phối đến các cửa hàng bán lẻ".
Chỉ có một số ít đối thủ cạnh tranh và họ sản xuất những kiểu mẫu cơ bản của
sản phẩm đó, vì thị trường vẫn chưa có những đòi hỏi tinh tế đối với sản phẩm. Các
công ty tập trung vào việc bán sản phẩm của mình cho những người mua nào đã sẵn
sàng mua nhất, thường là những nhóm có thu nhập cao. Giá có xu hướng cao, bởi vì
"(1) chi phí cao do năng suất tương đối thấp, (2) những vấn đề công nghệ sản xuất có
thể vẫn chưa làm chủ được hoàn toàn và (3) cần có mức độ cao để hỗ trợ cho chi phí
90
khuyến mại lớn cần thiết trước để đạt được sự phát triển".
Khuyến mãi Cao Thấp
Cao
CL hớt váng chớp nhoáng CL hớt váng chậm
Giá
Thấp
CL xâm nhập chớp nhoáng
CL xâm nhập từ từ
Hình 4.3. Bốn chiến lược Marketing khi tung hàng ra thị trường
Chiến lược hớt váng chớp nhoáng là tung sản phẩm mới ra thị trường với giá
cao và mức khuyến mại cao. Công ty tính giá cao để đảm bảo lãi gộp trên đơn vị sản
phẩm ở mức cao nhất. Công ty chi khá nhiều cho việc khuyến mại nhằm thuyết phục
thị trường về ích lợi sản phẩm ngay cả với giá cao. Hoạt động khuyến mãi ở mức độ
cao là nhằm tăng nhanh nhịp độ xâm nhập thị trường. Chiến lược này chỉ thích hợp
với những giả thiết như sau: Phần lớn thị trường tiềm ẩn chưa biết đến sản phẩm;
những người biết đến đều thiết tha với sản phẩm và có thể trả theo giá chào; công ty
đứng trước sự cạnh tranh tiềm ẩn và muốn tạo ra sự ưa thích nhãn hiệu.
Chiến lược hớt váng từ từ:
là tung sản phẩm mới ra thị trường cao và mức khuyến mãi thấp. Giá cao góp
phần đạt mức lãi gộp trên đơn vị sản phẩm cao nhất, còn mức khuyến mại thấp thị
giữ cho chi phí Marketing ở mức thấp. Cách kết hợp này có kỳ vọng là sẽ hớt được
nhiều lợi nhuận trên thị trường. Chiến lược này chỉ thích hợp khi thị trường có quy
mô hữu hạn; phần lớn thị trường điều biết đến sản phẩm đó; người mua sẵn sàng trả
giá cao; và sự cạnh tranh tiềm ẩm không có dấu hiệu sắp xảy ra.
Chiến lược xâm nhập chớp nhoáng
Là tung sản phẩm mới ra thị trường với giá cao và mức khuyến mại cao. Công
ty tính giá cao để đảm bảo lãi gộp trên đơn vị sản phẩm ở mức cao nhất. Công ty chi
khá nhiều cho việc khuyến mại nhằm thuyết phục thị trường về ích lợi sản phẩm ngay
cả với giá cao. Hoạt động khuyến mãi ở mức độ cao là nhằm tăng nhanh nhịp độ xâm
91
nhập thị trường. Chiến lược này chỉ thích hợp với những giả thiết như sau: Phần lớn
thị trường tiềm ẩn chưa biết đến sản phẩm; những người biết đến đều thiết tha với sản
phẩm và có thể trả theo giá chào; công ty đứng trước sự cạnh tranh tiềm ẩn và muốn
tạo ra sự ưa thích nhãn hiệu.
Chiến lược xâm nhập từ từ .
Là tung sản phẩm mới ra thị trường với giá thấp và mức khuyến mãi thấp. Giá
thấp sẽ khuyến khích chấp nhận sản phẩm nhanh chóng, còn công ty giữ chi phí
khuyến mãi ở mức thấp là nhằm đạt được nhiều lãi ròng hơn. Công ty tin chắc rằng
nhu cầu của thị trường co giãn mạnh theo giá, nhưng rất ít co giãn do khuyến mãi.
Chiến lược này chỉ thích hợp khi thị trường lớn; thị trường đã biết rõ sản phẩm; thị
trường nhạy cảm với giá; và có sự cạnh tranh tiềm ẩn.
Một công ty, nhất là công ty đi tiên phong trên thị trường, phải lựa chọn chiến
lược tung sản phẩm ra thị trường cho nhất quán với ý đồ xác định vị trí sản phẩm của
mình. Chiến lược tung sản phẩm ra thị trường phải là bước đầu tiên trong kế hoạch
lớn nhằm tiến hành Marketing chu kỳ sống. Nếu người đi tiên phong lựa chọn chiến
lược tung sản phẩm ra thị trường nhằm "thắng đậm", thì nó sẽ phải hy sinh thu nhập
lâu dài để giữ lấy thu nhập trước mắt. Những người tiên phong của thị trường có
nhiều khả năng nhất để giữ vị trí dẫn đầu thị trường, nếu họ biết cách sử dụng con bài
của mình
Lúc đầu những người tiên phong là những người cung ứng duy nhất, nắm giữ
100% năng lực sản xuất và mức tiêu thụ. Giai đoạn thứ hai, đối thủ cạnh tranh xâm
nhập thị trường, bắt đầu từ khi có đối thủ cạnh tranh mới tạo nền năng lực sản xuất
và bắt đầu bán sản phẩm của mình ra thị trường. Các đối thủ cạnh tranh khác cũng
nhảy vào phần sản lượng và mức tiêu thụ của người dẫn đầu bị giảm xuống.
Những đối thủ cạnh tranh tiếp theo xâm nhập thị trường bằng cách tính giá thấp
hơn với người dẫn đầu. Sau một thời gian giá trị tương đối, nhận thức được sản phẩm
của người dẫn đầu bị giảm đi, buộc người đó phải giảm bớt giá.
Trong giai đoạn tăng trưởng nhanh, năng lực sản xuất có xu hướng tạo nên quá khứ
dư thừa, thành thử đến khi xuất hiện thời kỳ sản xuất ngừng trệ theo chu kỳ thì năng lực
sản xuất dư thừa của ngành sẽ kéo mức lời xuống mức "bình thường" hơn. Những đối
92
thủ cạnh tranh mới quyết định không xâm nhập thị trường nữa và những đối thủ cạnh
tranh hiện tại thì cố gắng củng cố vị trí của mình. Điều này dẫn đến giai đoạn thứ ba, thị
phần ổn định, khi mà các phần năng lực sản xuất và thị phần đều ổn định.
Tiếp sau thời kỳ này là giai đoạn cạnh tranh hàng hoá. Sản phẩm được xem là
hàng hoá người mua không còn trả giá cao nữa mà những người cung ứng chỉ kiếm
được tỷ suất lợi nhuận trung bình. Tại điểm này bắt đầu giai đoạn rút lui. Người tiên
phong có thể quyết định tăng thị phần của mình khi những công ty khác rút lui. Khi
người tiên phong có thể quyết định tăng thị phần của mình khi những công ty khác
rút lui. Khi người tiên phong trải qua những giai đoạn khác nhau của chu kỳ cạnh
tranh này nó phải không ngừng định giá lại và sửa đổi các chiến lược Marketing
4.5.2. Giai đoạn phát triển
Giai đoạn phát triển được đánh dấu bằng mức tiêu thụ tăng nhanh. Những người
tiên phong thích sản phẩm và những người tiêu dùng đến sớm bắt đầu mua sản phẩm
đó. Các đối thủ cạnh tranh xâm nhập thị trường vì bị hấp dẫn bởi những cơ hội mở
rộng sản xuất và lợi nhuận cao. Họ tung ra những tính chất mới của sản phẩm và phát
triển thêm các cửa hàng phân phối.
Giá cả vẫn giữ nguyên hay có giảm xuống đôi chút vì nhu cầu tăng rất nhanh.
Các công ty vẫn duy trì chi phí khuyến mãi của mình ở mức cũ hay có tăng đôi chút
để đối phó với sự cạnh tranh mà tiếp tục huấn luyện thị trường. Mức tiêu thụ tăng
nhanh hơn nhiều làm hạ thấp tỷ lệ khuyến mãi doanh số bán.
Trong giai đoạn này lợi nhuận tăng nhanh vì chi phí khuyến mãi được phân bổ
cho một khối lượng hàng lớn hơn và chi phí sản xuất trên đơn vị sản phẩm giảm
nhanh hơn so với nhịp độ giảm giá nhờ hiệu quả của "đường cong kinh nghiệm".
Rút cuộc, nhịp độ tăng trưởng chuyển từ nhịp độ nhanh dần sang chậm dần. Các
công ty phải theo dõi điểm bắt đầu nhịp độ chậm dần để chuẩn bị những chiến lược mới.
* Chiến lược Marketing trong giai đoạn phát triển
Trong giai đoạn này, công ty sử dụng một số chiến lược để kéo dài mức tăng
trưởng nhanh của thị trường càng lâu càng tốt.
+ Công ty nâng cao chất lượng sản phẩm, bổ sung thêm những tính chất mới
cho sản phẩm và cải tiến kiểu dáng.
93
+ Công ty bổ sung những mẫu mã mới và những sản phẩm che sườn.
+ Xâm nhập các khúc thị trường mới.
+ Mở rộng phạm vi phân bố của mình và tham giá các kênh phân phối mới.
+ Chuyển từ quảng cáo mức độ biết đến sản phẩm quảng cáo mức độ ưa thích
sản phẩm.
+ Giảm giá để thu hút số người mua nhạy cảm với giá tiếp sau.
Công ty theo đuổi những chiến lược mở rộng thị trường này sẽ củng cố được vị
trí cạnh tranh của mình. Nhưng kết quả này đi kèm với những chi phí thêm. Trong
giai đoạn phát triển công ty phải dung hoà giữa thị phần lớn và lợi nhuận hiện tại cao.
Bằng cách chi tiền vào việc cải biến sản phẩm, khuyến mãi và phân phối công ty có
thể giành được vị trí không chế. Nó từ bỏ lợi nhuận tối đa trước mặt với hy vọng
trong giai đoạn sắp tới kiếm được lợi nhuận còn lớn hơn nữa.
4.5.3. Giai đoạn chín muồi (sung mãn)
Tại một điểm nào đó, nhịp độ tăng trưởng mức tiêu thụ sản phẩm sẽ chững lại
và sản phẩm bước vào giai đoạn sung mãn tương đối. Giai đoạn tăng trưởng kéo dài
hơn so với các giai đoạn trước và nó đặt ra những giai đoạn ghê gớm đối với việc
quản trị Marketing. Hầu hết các sản phẩm đều ở giai đoạn sung mãn của chu kỳ sống
và vì vậy gần như toàn bộ công việc quản trị Marketing đều nhằm giải quyết sản
phẩm sung mãn đó.
Giai đoạn sung mãn có thể chia làm ba thời kỳ.
Trong thời kỳ thứ nhất, sung mãn tăng trưởng, nhịp độ tăng trưởng mức tiêu
thụ bắt đầu giảm sút. Không có kênh phân phối mới để tăng cường, mặc dù một số
người mua lạc hậu vẫn còn tiếp tục tham gia thị trường.
Trong thời kỳ thứ hai, sung mãn ổn định, mức tiêu thụ tính trên đầu người
không thay đổi, bởi vì thị trường đã bão hoà. Hầu hết những người tiêu dùng tiềm ẩn
đã dùng thử sản phẩm đó và mức tiêu thụ tương lại chịu sự chi phối của mức tăng dân
số và nhu cầu thay thế.
Trong thời kỳ thứ ba, sung mãn suy tàn, mức tiêu thụ tuyệt đối bắt đầu giảm,
khách hàng chuyển sang những sản phẩm khác và những sản phẩm thay thế.
Nhịp độ tăng mức tiêu thụ chậm lại tạo ra tình trạng dư thừa năng lực sản xuất
94
trong ngành. Tình trạng dư thừa năng lực sản xuất này dẫn đến sự cạnh tranh quyết liệt
hơn. Các đối thủ cạnh tranh tranh nhau tìm kiếm và xâm nhập những góc thị trường
còn trống. Họ thường xuyên giảm giá và thay đổi bảng giá chính thức. Họ tăng cường
quảng cáo và các giao dịch thương mại và giao dịch với người tiêu dùng. Họ tăng ngân
sách nghiên cứu và phát triển để cải tiến sản phẩm và phát triển những sản phẩm che
sườn. Họ đồng ý cung ứng những nhãn hiệu riêng. Những bước đi này trong một chừng
mực nào đó gây thiệt hại đến lợi nhuận. Thời kỳ rũ bỏ bắt đầu và những đối thủ cạnh
tranh tương đối yếu hơn rút lui. Cuối cùng, ngành đó chỉ còn lại những đối thủ cạnh
tranh cố thủ vững chắc với định hướng cơ bản là giành cho được lợi thể cạnh tranh.
Những đối thủ cạnh tranh này có hai loại. Quyền khống chế ngành rơi vào tay
một số ít Doanh nghiệp khổng lồ sản xuất ra phần lớn sản lượng của ngành. Những
công ty này phục vụ toàn bộ thị trường và kiếm lời chủ yếu nhờ khối lượng lớn và
chi phí thập hơn. Những người dẫn đầu về khối lượng này có khác nhau ở một mức
độ nào đó về danh tiến đối với chất lượng cao, dịch cụ đầy đủ và giá hạ. Vây quanh
những công ty khống chế này là rất nhiều những người nép góc thị trường. Những
người nép góc bao gồm các chuyên gia thị trường, chuyên gia sản phẩm và những
công ty phục cụ theo ý khách hàng. Những người nép góc phục vụ và thoả mãn thị
trường sung mãn là liệu có nên phấn dấu trở thành một trong ba công ty hàng đầu và
kiếm lời nhờ khối lượng lớn không hay theo đuổi các chiến lược nép góc và kiếm lời
nhờ giá cao.
Chiến lược Marketing trong giai đoạn sung mãn
Một số công ty loại bỏ những sản phẩm yếu kém của mình. Họ tập trung các
nguồn tài nguyên của mình vào những sản phẩm có lời nhiều hơn và những sản phẩm
mới. Tuy vậy, họ có thể xem thường tiềm năng to lớn mà nhiều sản phẩm cũ vẫn có.
Nhiều ngành mọi người tưởng là đã sung mãn, như ô tô, xe gắn máy, máy thu hình,
đồng hồ, máy ảnh, đã được người Nhật chứng minh là hoàn toàn không phải như vậy.
Họ tìm được những cách tạo ra giá trị mới cho khách hàng. Những người làm
Marketing cần xem xét một cách có hệ thống những chiến lược thị trường, sản phẩm
và cải tiến Marketing mix.
Các chiến lược marketing trong giai đoạn sung mãn
95
- Cải biến thị trường
Công ty có thể cố gắng mở rộng thị trường cho những nhãn hiệu sung mãn của
mình bằng cách sử dụng hai yếu tố hợp thành khối lượng tiêu thụ:
Khối lượng = số người sử dụng nhãn hiệu * mức sử dụng trên một người.
Công ty có thể cố gắng tăng số người sử dụng nhãn hiệu theo ba cách:
+ Thay đổi thái độ của người không sử dụng: Công ty có thể cố gắng thu hút
những người không sử dụng sản phẩm đó. Ví dụ, chìa khoá để tăng khối lượng dịch
vụ vận tải hàng không là không ngừng tìm kiếm những người sử dụng mới mà công
ty vận tải hàng không có thể trình bày cho họ thấy rõ ích lợi của vận tải hàng không
nhiều hơn so với vận tải dưới mặt đất.
+ Xâm nhập những khúc thị trường mới: Công ty có thể cố gắng xâm nhập
những khúc thị trường mới, về địa lý, nhân khẩu học v.v..., có sử dụng sản phẩm đó,
chứ không phải nhãn hiệu đó. Ví dụ, công ty Johnson & Jonnson đã quảng cáo cho
những người lớn sử dụng dầu gội đầu của trẻ sơ sinh.
+ Giành khách hàng của các đối thủ cạnh tranh: Công ty có thể thu hút khách
hàng của các đối thủ cạnh tranh dùng thử hay chấp nhận nhãn hiệu đó. Ví dụ, háng
Pepsi - Cola không ngừng lôi kéo những người sử dụng Coca - Cola chuyển sang sử
dụng Pepsi - Cola, liên tục đưa ra hết thách thức này đến thách thức khác.
Khối lượng cũng có thể tăng được bằng cách thuyết phục những người hiện
đang sử dụng nhãn hiệu đó tăng mức sử dụng hàng năm của mình lên. Sau đây là ba
chiến lược:
+ Sử dụng thường xuyên hơn: Công ty có thể cố gắng làm cho khách sử dụng
sản phảm đó thường xuyên hơn. Ví dụ, những người làm Marketing nước cam đang
cố gắng làm cho mọi người uống nước cam và cả những lúc khác, chứ không riêng
gì lúc ăn sáng.
+ Tăng mức sử dụng mỗi lần: Công ty có thể cố gắng làm cho những người sử
dụng quan tâm đến việc sử dụng nhiều hơn sản phẩm đó trong từng lần. Chẳng hạn,
như hãng sản xuất dầu gội dầu có thể hướng dẫn là dầu gội đầu sẽ có hiệu quả hơn
khi gội hai lần thay vì một lần.
+ Những công dụng mới và phong phú hơn: Công ty có thể cố gắng phát hiện
96
ra những công dụng mới của sản phẩm và thuyết phục mọi người sử dụng sản phẩm
đó theo nhiều cách khác nhau hơn. Ví dụ, các nhà sản xuất thực phẩm liệt kê một số
cách làm trên bao bì sản phẩm để người tiêu dùng biết cách sử dụng sản phẩm đó đa
dạng hơn.
- Cải biến sản phẩm
Những nhà quản trị cũng cố gắng kích thích tiêu thụ bằng cách cải biến đặc
điểm của sản phẩm. Cách làm này có thể có mấy hình thức.
Chiến lược cải biến chất lượng nhằm nâng cao tính năng của sản phẩm, như
độ bền, độ tin cậy, tốc độ, hương vị. Nhà sản xuất có thể thắng các đối thủ cạnh tranh
của mình bằng cách tùng ra máy công cụ, ô tô, thu hình hay chất tẩy rửa "mới và đã
được cải tiến". Những người sản xuất thực phẩm đóng hộp gọi đó là cách tạo ưu thế
cho sản phẩm khuếch trương một cái mới bổ sung thêm hay quảng cáo một thứ gì đó
là "mạnh hơn", lớn hơn" hay "tốt hơn". Chiến lược này có hiệu quả khi mà chất lượng
được cải tiến, người mua chấp nhận là chất lượng được nâng cao và có đủ số người
mua sẵn sàng trả tiền cho chất lượng cao hơn.
Chiến lược cải tiến tính chất nhằm bổ sung thêm tính chất mới (như kích cỡ,
trọng lượng, vật liệu, chất phụ gia, phụ tùng kèm theo) làm tăng thêm công dụng,
mức độ an toàn hay sự thuận tiện của sản phẩm. Ví dụ, việc sử dụng điện năng cho
máy cắt cỏ sẽ tăng tốc độ và giảm bớt công việc cắt cỏ. Khi đó các nhà sản xuất máy
cắt cỏ phải nghiên cứu thiết kế đảm bảo tính chất an toàn tốt hơn. Một số nhà sản xuất
đã bổ sung những tính năng chuyển đổi để máy cắt có thể làm việc cả công việc dọn
tuyết nữa.
Chiếc lược cải tiến các tính chất có một số ưu điểm. Những tính chất mới tạo
hình ảnh và tinh thần đổi mới công ty. Chúng tranh thủ được lòng trung thành của
những khúc thị trường nhất định coi trọng những tính chất đó. Ta có thể chấp nhận
hay loại bỏ những tính chất đó một cách nhanh chóng theo sự lựa chọn của người
mua. Chúng tạo cơ hội để tuyên truyền không mất tiền và chúng làm cho lực lượng
bán hàng và người phân phối phấn khởi. Điểm bất lợi chủ yếu là việc cải tiến các tính
chất rất dễ bị bắt chước; việc cải tiến các tính chất có thể không được trả tiền, trừ khi
97
nó có được lợi lâu dài do là người đầu tiên.
Chiến lược cải tiến kiểu dáng nhằm làm tăng tính hấp dẫn về thẩm mỹ của sản
phẩm. Việc định kỳ tung ra thị trường những kiểu xe mới được xem là cạnh tranh
kiểu dáng, chứ không phải là cạnh tranh chất lượng hay tính năng. Trong trường hợp
thực phẩm đóng gói và sản phẩm gia dụng, các công ty thường tung ra các kiểu màu
sắc, kết cấu khác nhau hay thay đổi kiểu dáng bao bì và xem đó là việc mở rộng sản
phẩm. Ưu tiên của việc cải tiến kiểu dáng là tạo ra đặc điểm độc đáo để thị thường
nhận biết và tranh thủ những khách hàng trung thành. Tuy vậy, cạnh tranh kiểu dáng
cũng là một vấn đề. Thứ nhất khó có thể đoán trước được người ta, và ai sẽ thích kiểu
dáng mới đó. Thứ hai là việc thay đổi kiểu dáng thường đòi hỏi phải ngưng sản xuất
kiểu dáng cũ và công ty có nguy cơ mất khách hàng vì họ vẫn thích kiểu dáng cũ.
- Cải biến Marketing mix
Những nhà quản trị sản phẩm có thể cố gắng kích thích tiêu thụ bằng cách cải
biến một hay nhiều yếu tố trong Marketing mix. Họ cần phải nêu ra những câu hỏi
sau đây về những yếu tố phi sản phẩm trong Marketing mix để tìm cách kích thích
tiêu thụ một sản phẩm súng mãn:
+ Giá cả: Cắt giảm có thể thu hút được những người dùng thử và người sử
dụng mới không? Nếu có thì cần giảm giá chính thức hay không giảm giá thông qua
cách quy định giá đặc biệt, chiết khấu do mua nhiều hay mua đầu tiên, gánh chịu cước
vận chuyển, hay những điều kiện bán chịu dễ dàng hơn? Hay có nên tăng gia để thông
báo về chất lượng cao hơn không?
+ Phân phối: Công ty có thể tranh thủ được nhiều sự hỗ trợ sản phẩm hơn và
trưng bày nhiều hơn ỏ các cửa hàng bán lẻ hiện có không? Công ty có thể tung sản
phẩm ra thị trường thông qua những loại hình kênh phân phối mới không?
+ Quảng cáo: Có cần tăng chi phí quảng cao không? Có cần thay đổi thông tin
hay nội dung quảng cáo không? Có cần thay đổi phương tiện truyền thông không?
Có cần thay đổi thời điểm, tần suất hay kích thước quảng cáo không?
+ Kích thích tiêu thụ: Công ty cần đẩy mạnh kích thích tiêu thụ bằng hợp đồng
mậu dịch, hoàn lại tiền bớt giá, bảo hành, quà biếu và thi tài không?
+ Bán hàng trực tiếp: Có cần tăng số lượng hay chất lượng nhân viên bán hàng
98
không? Có cần thay đổi những nguyên tắc chuyên môn hoá lực lượng bán hàng
không? Có cần xem xét lại các địa điểm bán hàng không? Có cần xem xét lại chế độ
khen thưởng lực lượng bán hàng không? Có thể cải tiến cách lên kế hoạch viếng thăm
chào hàng không?
+ Dịch vụ: Công ty có thể đẩy mạnh việc giao hàng không? Công ty có thể
tăng cường hỗ trợ kỹ thuật cho khách hàng không? Công ty có thể mở rộng diện cho
trả chậm không?
4.5.4. Giai đoạn suy thoái
Cuối cùng thì mức tiêu thụ của hầu hết các dạng sản phẩm và nhãn hiệu đều
suy thoái. Tốc độ suy thoái mức tiêu thụ có thể chậm, như trong trường hợp bột yến
mạch, hay nhanh. Mức tiêu thụ có thể tụt xuống đến số không hay có thể chững lại ở
mức thấp.
Mức tiêu thụ suy giảm vì một số lý do, trong đó sự tiến bộ về công nghệ, thị
hiếu của người tiêu dùng thay đổi, và mức độ cạnh tranh nội địa và nước ngoài gia
tăng. Tất cả những điều đó dẫn đến tình trạng dư thừa năng lực sản xuất, phải cắt
giảm giá thêm nữa và thiệt hại về lợi nhuận.
Khi mục tiêu và lợi nhuận suy giảm, một số công ty rút lui khỏi thị trường.
Những công ty còn ở lại có thể giảm bớt số sản phẩm chào bán. Họ có thể rút khỏi
những khúc thị trường nhỏ và những kênh thương mại tương đối yếu hơn. Họ có thể
cắt giảm ngân sách khuyến mại và tiếp tục giảm giá hơn nữa.
Đáng tiếc là hầu hết các công ty đều không xây dựng được một chính sách có
cân nhắc kỹ lưỡng để xử lý những sản phẩm già cỗi của mình. ở đây tình cảm có một
vai trò nhất định.
Nhưng việc giết chết những sản phẩm của mình hay để cho chúng chết đều là
việc làm không thích thú gì và thường gây ra nhiều sự phiền muộn trong chuyện phải
chia tay vĩnh viễn với những người bạn cũ và đã qua thử thách. Loại bánh quy dài
sáu cạnh dễ mang theo là sản phẩm đầu tiêu mà công ty đã sản xuất. Thiếu nó thì
chủng loại sản phẩm của ta sẽ không còn là chủng loại của ta nữa.
Logic cũng giữ một vai trò. Ban lãnh đạo tin chắc rằng mức tiêu thụ sản phẩm
sẽ khá hơn khi nền kinh tế được cải thiện hay khi chiến lược Marketing được xem xét
99
lại và khi sản phẩm được cải tiến. Sản phẩm yếu kém vẫn có thể được giữ lại vì được
cho là nó có đóng góp cho việc tiêu thụ những sản phẩm khác của công ty. Hay thu
nhập của nó có thể trang trải được những chi phí đã bỏ ra và công ty không có cách
nào sử dụng số tiền đó tốt hơn.
Trừ khi có những lý do nghiêm trọng để giữ lại, còn việc kinh doanh sản phẩm
yếu kém là rất tốn kém cho công ty . Chi phí đó không phải là số tiền quản lý phí và
lợi nhuận không thu hồi được. Những số liệu kế toán tài chính không thể nói lên đầy
đủ tất cả những khoản chi phí ngầm: Sản phẩm yếu kém vẫn có thể làm hao tốn một
số thời giờ không tương xứng của ban lãnh đạo; nó thường đòi hỏi phải thường xuyên
điều chỉnh giá và lượng dự trữ; nói chung nó đòi hỏi phải tổ chức sản xuất từng đợt
ngắn, mặc dù thời gian chuẩn bị rất đắt; nó đòi hỏi phải chú ý đến quảng cáo và lực
lượng bán hàng để có thể sử dụng tốt hơn vào việc làm cho những sản phẩm "khoẻ"
sinh lời nhiều hơn; tình trạng rất không phù hợp của nó có thể làm cho khách hàng
ngần ngại và làm lu mờ hình ảnh của Doanh nghiệp. Chi phí lớn nhất có thể phát sinh
trong tương lai. Việc không loại bỏ những sản phẩm yếu kém làm trì hoãn việc tiếp
tục tìm kiếm sản phẩm khác để thay thế; những sản phẩm yếu kém tạo ra một danh
mục sản phẩm không cân đối, nhiều sản phẩm trụ cột của ngày hôm qua và ít sản
phẩm trụ cột của ngày mai; chúng ức chế khả năng sinh loài hiện tại và làm suy yếu
chỗ đứng chân của công ty trong tương lai. Chiến lược Marketing trong giai đoạn suy
thoái, nghĩa là Doanh nghiệp phải giải quyết một số nhiệm vụ và quyết định để xử lý
những sản phẩm già cỗi.
Các chiến lược marketing trong giai đoạn suy thoái
- Phát hiện những sản phẩm yếu kém
Nhiệm vụ đầu tiên là thiết lập một hệ thống để phát hiện những sản phẩm yếu
kém. Doanh nghiệp cử ra một ban rà soát lại sản phẩm gồm đại diện của các phòng
Marketing, nghiên cứu và phát triển, sản xuất và tài chính. Ban này xây dựng một hệ
thống để phát hiện những sản phẩm yếu kém. Phòng kiểm tra cung cấp những số liệu
về từng sản phẩm thể hiện những xu hướng của quy mô thị trường, thị phần, giá, chi
phí và lợi nhuận. Thông tin này được máy tính phân tích nhằm phát hiện những sản
phẩm đáng ngờ. Tiêu chuẩn bao gồm số năm mức tiêu thụ suy giảm, xu hưởng của
100
thị phẩn, mức lãi gộp và tỷ suất lợi nhuận trên vốn đầu tư. Những nhà quản trị phụ
trách những sản phẩm đáng ngờ điền vào các biểu mẫu đánh giá thể hiện ý kiến của
họ về xu hướng của mức tiêu thụ và lợi nhuận khi có và không thay đổi chiến lược
Marketing. Ban rà soát lại sản phẩm sẽ nghiên cứu thông tin này và đưa ra kiến nghị
về từng sản phẩm nghi ngờ, để yên nó, thay đối chiến lược Marketing hay loại bỏ.
- Xác định chiến lược Marketing
Có những Doanh nghiệp bỏ rơi những thị trường suy yếu sớm hơn các Doanh
nghiệp khác. Điều này phụ thuộc rất nhiều vào những rào cản xuất. Rào cản xuất càng
thấp thì Doanh nghiệp càng dễ dàng rời bỏ ngành và càng xúi giục những Doanh
nghiệp ở lại quyết tâm ở lại hơn và thu hút khách hàng của những Doanh nghiệp rút
lui. Những Doanh nghiệp ở lại sẽ được hưởng mức tiêu thụ và lợi nhuận cao hơn.
Trong một công trình nghiên cứu chiến lược của các công ty trong những ngành
đang suy thoái, Harrigan đã phân biệt năm kiểu chiến lược mà các Doanh nghiệp đã
sử dụng.
+ Tăng vốn đầu tư của Doanh nghiệp (để khống chế hay củng cố vị trí cạnh
tranh của mình).
+ Duy trì mức đầu tư của Doanh nghiệp cho đến khi giải quyết xong tình trạng
không chắc chắn của ngành.
+ Giảm có chọn lọc mức đầu tư của Doanh nghiệp bằng cách loại bỏ những
nhóm khách hàng không có lời, đồng thời củng cố vốn đầu tư của công ty ở những
mẫu thị trường sinh lời.
+ Thu hoạch (hay vắt kiệt) vốn đầu tư của Doanh nghiệp để trang trải nhanh các
khoản tiền mặt.
+ Giải thể nhanh chóng doanh nghiệp đó bằng cách bán tài sản của nó một cách
có lợi nhất.
Chiến lược thích hợp trong giai đoạn suy thoái phụ thuộc vào mức độ hấp dẫn
tương đối của ngành và sức cạnh tranh của công ty trong ngành đó. Ví dụ, một công
ty trong một ngành không hấp dẫn nhưng lại có sức cạnh tranh thì cần xem xét việc
co cụm có chọn lọc. Tuy nhiên nếu công ty đó ở trong một ngành hấp dẫn và sức cạnh
101
tranh thì nó cần suy tính đến việc củng cố vốn đầu tư của mình, Procter & Gamble
trong một số trường hợp đã chấp nhận những nhãn hiệu làm khách hàng không hài
lòng ở những thị trường mạnh và khôi phục lại chúng.
- Quyết định loại bỏ
Khi Doanh nghiệp quyết định loại bỏ một sản phẩm, nó phải thông qua số quyết
định tiếp theo. Nếu sản phẩm đó được phân phối rất mình và vẫn còn tín nhiệm thì
chắc chắn công ty có thể bán nó cho một công ty nhỏ hơn.
Nếu Doanh nghiệp không tìm được người mua nào thì nó phải quyết định nên
thanh lý nhãn hiệu nhanh hay chậm. Nó cũng phải quyết định cần duy trì bao nhiêu
phụ tùng và dịch vụ để phục vụ khách hàng cũ.
Bảng 4.1: Tóm tắt đặc điểm chiến lược trong chu kỳ sống
Giai đoạn
Giới thiệu Tăng trưởng Sung mãn Suy thoái
Đặc điểm
Doanh số thấp Doanh số tăng Doanh số Doanh số Doanh số
nhanh đỉnh cao giảm dần
Chi phí tính Chi phí tính Chi phí tính Chi phí tính Chi phí
trên khách trên khách trên khách trên khách
hàng cao hàng trung hàng thấp hàng thấp
bình
Lợi nhuận âm Lợi nhuận Lợi nhuận Lợi nhuận Lợi nhuận
tăng cao giảm
Khai phá Tiên phong Đến sớm Lạc hậu Khách hàng
Ít đông lên ổn định và giảm bớt ĐTCT
bắt đầu giảm
Tạo sự biết Tăng tối đa thị Tăng tối đa Giảm chi MỤC TIÊU
đến và dùng phần lợi nhuận và phí và tận MARKETING
thử bảo vệ thị dụng nhãn
102
phần hiệu
CHIẾN LƯỢC MARKETING - MIX CHO CÁC GIAI ĐOẠN
Giai đoạn
Giới thiệu Tăng trưởng Sung mãn Suy thoái
Đặc điểm
Chào bán sản Chào bán sản Đa dạng hóa Loại bỏ mặt Sản phẩm
phẩm cơ bản phẩm, phát nhãn hiệu mẫu hàng yếu kém
triển, dịch vụ, mã
bảo hành
Chi phí cộng lãi Định giá để Định giá bằng Cắt giảm giá Giá cả
thâm nhập thị hay thấp hơn
trường đối thủ cạnh
tranh
Phân phối có Phân phối ồ ạt Phân phối ồ ạt Chọn lọc loại Phân phối
chọn lọc hơn nữa bỏ các cửa
hàng không
sinh lời
Tạo sự biết đến Nhấn mạnh sự Giảm xuống
Quảng cáo Tạo sự biết đến khách trong và quan tâm khác biệt của mức cần thiết
hàng tiên phong trong thị trường nhãn hiệu và lợi để giữ chân
khách hàng và đại lý đại chúng ích
trung thành
nhất
Khuyến mãi Giảm bớt để Tăng cường để Giảm tới mức Khuyến
mạnh để thu hút chiếm lợi thế và khuyến khích tối thiểu mãi
dùng thử nhu cầu của chuyển nhãn
người dùng hiệu
103
nhiều
4.6. PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM MỚI
4.6.1. Sản phẩm mới và các cách thức của sản phẩm mới
Sản phẩm mới là gì? Sản phẩm mới đối với mục đích của ta bao gồm sản phẩm
mới hoàn toàn, sản phẩm cải tiến, sản phẩm cải tiến và nhãn hiệu mới mà Công ty
phát triển, thông qua những lỗ lực nghiên cứu phát triển của chính mình. Ta cũng sẽ
quan tâm đến vấn đề người tiêu dùng có xem chúng là "mới" không.
Booz, Allen & Hamilton đã phát hiện ra sau loại sản phẩm mới theo góc độ
chúng có tính mới mẻ đối với Công ty và đối với thị trường. Đó là:
- Sản phẩm mới đối với Thế giới: Những sản phẩm mới tạo ra một thị trường
hoàn toàn mới.
- Chủng loại sản phẩm mới: Những sản phẩm mới cho phép Công ty xâm nhập
một thị trường đã có sẵn lần đầu tiên.
- Bổ sung chủng loại sản phẩm hiện có: Những sản phẩm mới bổ sung thêm
vào các chủng loại sản phẩm đã có của Công ty (kích cỡ gói, hương vị, v.v..)
- Cải tiến sửa đổi những sản phẩm hiện có: Những sản phẩm mới có những tính
năng tốt hơn hay giá trị nhận thức được lớn hơn và thay thế những sản phẩm hiện có.
- Định vị lại: Những sản phẩm hiện có được nhắm vào những thị trường hay
khúc thị trường mới.
- Giảm chi phí: Những sản phẩm mới có tính năng tương tự với chi phí thấp
hơn. Công ty thường theo đuổi cả một danh mục những sản phẩm mới này. Một phát
hiện quan trọng là chỉ có 10% số sản phẩm mới là thực sự đổi mới đối với Thế giới.
Những sản phẩm này có chi phí và rủi ro cực lớn, bởi vì chúng mới cả đối với Công
ty lẫn thị trường. Phần lớn hoạt động về sản xuất mới của Công ty được dành cho
việc cải tiến những sản phẩm hiện có chứ không phải sáng tạo ra những sản phẩm
mới. ở hãng Sony 80% hoạt động về sản phẩm mới được dành cho việc cải tiến và
cải biến những sản phẩm hiện có của Sony.
Việc phát triển thành công sản phẩm mới bị cản trở bởi nhiều yếu tố:
+ Thiếu những ý tưởng quan trọng về sản phẩm mới trong những lĩnh vực nhất
đinh: Có thể chỉ còn lại rất ít cách cải tiến những sản phẩm cơ bản như thép, chất tẩy
104
rửa v.v..
+ Thị trường vụn vặt: sự cạnh tranh mạnh mẽ đang dẫn đến chỗ xé nhỏ thị
trường. Các công ty phải hướng những sản phẩm mới của mình vào những khúc thị
trường nhỏ hơn và điều này có nghĩa là mức tiêu thụ và lợi nhuận sẽ thấp hơn đối với
từng sản phẩm.
+ Những hạn chế của xã hội và Nhà nước: Những sản phẩm mới phải thoả mãn
được những tiêu chuẩn công cộng, an toàn cho người tiêu dùng và không phá hoại sinh
thái. Những yêu cầu của Nhà nước đã làm chậm lại quá trình đổi mới trong ngành dược
phẩm ở Mỹ gây rắc rối thêm cho thiết kế sản phẩm và các quyết định quảng cáo trong
những ngành như thiết bị công nghiệp, hoá chất, ô tô và đồ chơi.
+ Quá trình phát triển sản phẩm mới quá tốn kém: Công ty thường phải đưa ra
rất nhiều ý tưởng về sản phẩm mới để cuối cùng còn lại được một vài ý tưởng tốt.
Hơn nữa, công ty phải đương đầu với những chi phí cho nghiên cứu và phát triển sản
xuất và Marketing ngày càng tăng
+ Thiếu vốn: Một số Công ty có những ý tưởng tốt, nhưng không thể tăng kinh
phí để nghiên cứu chúng.
+ Thời gian phát triển ngày càng nhanh: Rất có thể là nhiều đối thủ cạnh tranh
cũng có cùng một ý tưởng giống nhau vào cùng một thời điêmr và kẻ chiến thắng
thường là kẻ nhanh chân nhất. Những sự năng động phải rút ngắn thời gian phát triển
bằng cách sử dụng kỹ thuật thiết kế và sản xuất có máy tính hỗ trợ, các đối tác chiến
luợc, thử nghiệm ý đồ trước, lập kế hoạch Marketing tiên tiến. Các công ty Nhật xem
vấn đê thách thức là "đạt chất lượng tốt hơn với giá rẻ và tốc độ nhanh hơn đối thủ
cạnh tranh".
+ Chu kỳ sống của sản phẩm ngắn hơn: Khi một sản phẩm mới thành công,
các địch thủ lập tứ sao chép nó, thành thử chu kỳ sống của sản phẩm mới sẽ bị rút
ngắn đáng kể. Sony thường chỉ được hưởng ba năm trọn vẹn cho sản phẩm mới của
mình trước khi bị các đối thủ khác sẽ nhái theo sản phẩm mới trong vòng sáu tháng
và khó còn đủ thời gian để cho Sony chuộc lại được vốn đầu tư của mình.
Dù vậy việc tung ra thị trường sản phẩm mới thành công cũng còn có những
yếu tố đặc trưng chung. Việc phát triển thành công một sản phẩm mới đòi hỏi Công ty
105
phải thành lập một tổ chức có hiệu lực để quản trị quá trình phát triển sản phẩm mới.
Công ty cần vận dụng những công cụ phân tích và quan điểm tốt nhất trong từng giai
đoạn của quá trình này. Chúng ta sẽ lần lượt nghiên cứu chúng ở những phần sau:
4.6.2. Tiến trình phát triển sản phẩm mới
4.6.2.1. Hình thành ý tưởng
Quá trình phát triển sản phẩm mới bắt đầu từ việc tìm kiếm những ý tưởng.
Việc tìm kiếm không thể là vu vơ. Ban lãnh đạo tối cao phải xác định những sản phẩm
và thị trường cần chú trọng. Họ cần xác định mục tiêu của sản phẩm mới, như tạo lưu
kim lớn, khống chế thị phần hay những mục tiêu khác. Họ cũng phải xác định cần
dành bao nhiêu nỗ lực cho việc phát triển những sản phẩm đột phá, cải biến những
sản phẩm hiện có và làm nhái sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh.
Những ý tưởng sản phẩm mới có thể nảy sinh từ nhiều nguồn: Khách hàng,
các nhà Khoa học, đối thủ cạnh tranh, công nhân viên, các thành viên của kênh và
ban lãnh đạo tối cao.
Quan điểm Marketing khẳng định rằng những nhu cầu và mong muốn của
khách hàng là nơi hợp logic để bắt đầu tìm kiếm những ý tưởng sản phẩm công nghiệp
mới đều bắt nguồn từ khách hàng. Những Doanh nghiệp kỹ thụât có thể đạt được rất
nhiều khi nghiên cứu một nhóm khách hàng nhất định của mình, những người sử
dụng chủ chốt, cụ thể là những khách hàng sử dụng sản phẩm của Doanh nghiệp một
cách tân tiến nhất và ý thức được những cải tiến cần thiết trước những khách hàng.
Các Doanh nghiệp có thể phát hiện những nhu cầu và mong muốn của khách thông
qua các cuộc thăm dò khách hàng, trắc nhiệm chiếu hình, trao đổi nhóm tập trung và
những thư góp ý và khiếu nại của khách hàng. Nhiều ý tưởng hay nhất nảy sinh khi
yêu cầu khách hàng trình bày những vấn đề của mình liên quan đến những sản phẩm
hiện có.
Các Doanh nghiệp cũng dựa vào những nhà Khoa học, các kỹ sư, những người
thiết kế và các công nhân viên khác để khai thác những ý tưởng sản phẩm mới. Những
Doanh nghiệp thành công đã xây dựng một nền nếp của Doanh nghiệp khuyến khích
mọi công nhân viên tìm kiếm những ý tưởng mới để cải tiến sản xuất, sản phẩm và
106
dịch vụ của Doanh nghiệp
Các Doanh nghiệp có thể tìm được những ý tưởng hay qua khảo sát sản phẩm
và dịch vụ của các đối thủ cạnh tranh. Qua những người phân phối, những người cung
ứng và các đại diện bán hàng có thể tìm hiểu xem các đối thủ cạnh tranh đang làm gì.
Họ có thể phát hiện ra khách hàng thích những gì ở các sản phẩm mới của các đối thủ
cạnh tranh. Họ có thể mua sản phẩm của các đối thủ cạnh tranh, tháo tung chính ra
nghiên cứu và làm ra những sản phẩm tốt hơn. Chiến lược cạnh tranh của họ là chiến
lược này, theo nghĩa là họ đã mua giấy phép sản xuất hay sao chép nhiều sản phẩm
của phương Tây và tìm được những cách cải tiến chúng.
Các đại diện bán hàng và những người trung gian của Doanh nghiệp là nguồn
ý tưởng sản phẩm mới rất tốt. Họ có điều kiện mắt thấy tai nghe những nhu cầu và
phàn nàn của khách hàng. Họ thường hay biết được trước tiên những diễn biến cạnh
tranh. Ngày càng nhiều Doanh nghiệp huấn luyện và khen thưởng các đại diện bán
hàng, người phân phối và các đại lý của mình về việc tìm được những ý tưởng mới.
Những ý tưởng sản phẩm mới cũng có thể có những nguồn khác như những
nhà sáng chế, những người có bằng sáng chế, các phòng thí nghiệm của các trường
Đại học và các phòng thí nghiệm thương mại, các cố vấn công nghiệp, các Công ty
quảng cáo, các Công ty nghiên cứu Marketing và các ấn phẩm chuyên ngành.
Mặc dù các ý tưởng này sinh từ nhiều nguồn, song khả năng để có được sự
chú ý một cách nghiêm chỉnh thường phụ thuộc vào một người nào đó trong tổ chức
giữ vai trò "đầu tàu" về sản phẩm mới. Trừ khi có một người nào đó kiên quyết bảo
vệ ý tưởng sản phẩm, còn thì nó không chắc được xem xét một cách nghiêm túc.
4.6.2.2. Phương pháp hình thành ý tưởng
- Liệt kê thuộc tính
Phương pháp này đòi hỏi phải liệt kê những thuộc tính chủ yếu của một sản
phẩm hiện có rồi sau đó cải tiến từng thuộc tính để tìm ra một sản phẩm cải tiến.
- Những quan hệ bắt buộc.
Ở đây một số sự vật được xem xét trong mối quan hệ gắn bó với nhau.
- Phân tích hình thái học
Phương pháp này đòi hỏi phải phát hiện những cấu trúc rồi khảo sát mối quan
107
hệ giữa chúng. Giả sử vấn đề là "di chuyển một cái gì đó từ chỗ này sang chỗ khác
bằng một phương tiện cơ giới". Những biến quan trọng là kiểu phương tiện (Xe, gối
dỡ, quang treo, bệ đỡ), môi trường truyền lực (không khí, nước, dầu, bề mặt cứng,
bánh lăn, đường ray), nguồn năng lượng (khí nén, máy nổi động cơ điện). Chẳng hạn
như một phương tiện xe kiểu có động cơ nổ và di chuyển trên một mặt phẳng cứng là
ô tô. Hy vọng là tìm được một cách kết hợp mới.
- Phát hiện nhu cầu/vấn đề
Những phương pháp sáng tạo trên không đòi hỏi thông tin từ người tiêu dùng
để hình thành ý tưởng. Mặt khác, việc phát hiện nhu cầu/vấn đề lại bắt đầu từ người
tiêu dùng được hỏi về nhu cầu, vấn đề là ý tưởng. ví dụ, họ có thể được hỏi về những
vấn đề khi sử dụng một sản phẩm hay một loại sản phẩm cụ thể.
Thảo luận nhóm
Có thể kích thích nhóm sáng tạo bằng phương pháp động não do Alex Osborn
đưa ra. Nhóm động não thông thường từ sáu đến mười người. vấn đề được đặt ra cụ
thể. Các buổi họp chỉ kéo dài khoảng một giờ. Người chủ trì có ý kiến mở đầu là "Hãy
nhớ rằng chúng ta cần càng nhiều ý tưởng càng tốt, càng rộng càng tốt và nhớ rằng
chưa cần đánh giá". Các ý tưởng bắt đầu tuôn ra, ý tưởng này làm nảy sinh ý tưởng
khác, và trong vòng một giờ có thể có hàng trăm ý tưởng mới được ghi lại bằng máy
ghi âm. Để cho cuộc họp có hiệu quả tối đa, Osborn đưa ra bốn ý kiến chỉ đạo sau:
+ Không phê phán: Phải loại bỏ những ý kiến phê phán các ý tưởng ngay cả
sau một thời gian
+ Tự do thoải mái: ý tưởng càng rộng lớn càng tốt im lặng thì dễ hơn là nói ra
được ý nghĩ của mình
+ Khuyến khích số lượng: càng nhiều ý tưởng thì càng nhiều khả năng có
những ý tưởng hữu ích
+ Khuyến khích kết hợp và phát triển ý tưởng: Những người tham dự có thể
kết hợp những ý tưởng của người khác thành những ý tưởng mới.
Gordon mô tả năm nguyên tắc cơ bản của phương pháp synecties như sau:
+ Trì hoãn: Trước tiên tìm kiếm quan điểm chứ không phải giải pháp.
108
+ Tính độc lập của sự vật: Hãy để cho vấn đề có cuộc sống riêng của nó.
+ Sử dụng điều bình thường: Tận dụng cái quen thuộc làm điểm xuất phát để
tiến đến cái chưa biết.
+ Tham gia tách ra: Thay đổi từ việc đi sâu vào những trường hợp riêng của
vấn đề sang tư thế lùi xa ra khỏi chúng để xem xét chúng như những trường hợp của
một cái chung.
+ Sử dụng phép ẩn dụ: Để cho những cái tình cờ, có vẻ không có liên quan gợi
ý những cái tương tự là những quan điểm mới.
Điểm chủ yếu về sự hình thành ý tưởng là mọi Doanh nghiệp đều có thể làm
nảy sinh những ý tưởng hay bằng cách tổ chức một cách thích hợp. Công ty cần động
viên công nhân viên nêu ra những ý tưởng của mình. Chúng phải được chuyển đến
một vị chủ tịch ban tập hợp ý tưởng có tên và số điện thoại được phổ biến cho mọi
người biết. Các ý tưởng phải được viết ra giấy và được một ban phụ trách ý tưởng
xem xét hàng tuần. Ban phụ trách ý tưởng phải phân loại các ý tưởng thành ba nhóm:
Những ý tưởng có hứa hẹn, những ý tưởng vụn vặt, và những ý tưởng bị loại bỏ. Mỗi
ý tưởng có hứa hẹn sẽ được một thành viên của ban đó nghiên cứu rồi báo cáo lại.
Sau đó những ý tưởng có hứa hẹn còn lại sẽ được đưa vào quá trình sàng lọc toàn
diện. Doanh nghiệp sẽ tặng thưởng tiền hay giấy khen cho những công nhân viên đã
đưa ra được những ý tưởng hay nhất.
- Sàng lọc ý tưởng
Mục đích của giai đoạn hình thành ý tưởng là sáng tạo ra thật nhiều ý tưởng.
Mục đích của các giai đoạn tiếp theo là giảm bớt số ý tưởng xuống còn vài ý tưởng hấp
dẫn và có tính thực tiễn. Giai doạn loại bớt ý tưởng đầu tiên là giai đoạn sàng lọc.
Khi sàng lọc các ý tưởng công ty phải tránh hai kiểu sai lầm. Bỏ sót sai lầm
xảy ra khi Doanh nghiệp gạt bỏ một ý tưởng hay. Việc dễ nhất có thể làm được là tìm
ra những thiếu sót trong các ý tưởng của người khác . Có những Doanh nghiệp phải
giật mình khi xem lại một số ý tưởng mà họ đã gạt bỏ.
Nếu một Doanh nghiệp phạm quá nhiều sai lầm để sót thì có nghĩa là những
tiêu chuẩn của nó là quá thủ cựu.
Sai lầm để lọt lưới xảy ra khi Doanh nghiệp để cho một ý tưởng tồi đi vào giai
109
đoạn phát triển và thương mại hoá. Ta có thể phân biệt ba kiểu thất bại của sản phẩm.
Thất bại tuyệt đối của sản phẩm là mất tiền; tiền bán nó không đủ để trang trải chi phí
biến đổi. Thất bại một phần của sản phẩm là mất tiền, nhưng tiền bán nó đủ để trang
trải toàn bộ chi phí biến đổi và phần chi phí cố định. Thất bại tương đối của sản phẩm
có đem lại lợi nhuận nhưng thấp hơn tỷ suất lợi nhuận mục tiêu của Công ty.
Mục đích của việc sàng lọc là loại bỏ những y tưởng tồi càng sớm càng tốt. Lý
do là chi phí phát triển sản phẩm tăng lên đáng kể qua mỗi giai đoạn phát triển tiếp
theo. Khi sản phẩm bước vào những giai đoạn cuối, ban lãnh đạo cảm thấy rằng mình
đã đầu tư quá nhiều vào việc phát triển sản phẩm đó, nên phải tung nó ra bán để gỡ
lại một phần vốn đầu tư. Nhưng như vậy có nghĩa là thả những đồng tiền trong túi
mình ra để rồi đuổi bắt những đồng tiền còn chưa thấy bóng dáng nó ở đâu, nên giải
pháp thực tế là không được để cho những ý tưởng sản phẩm yếu kém được tiếp tục
triển khai.
4.6.2.3. Phát triển và thử nghiệm quan niệm
Những ý tưởng hấp dẫn phải được xác định chi tiết thành những quan niệm về
sản phẩm có thể thử nghiệm được. Ta có thể phân biệt ý tưởng sản phẩm, quan niệm
sản phẩm và hình ảnh sản phẩm. ý tưởng sản phẩm là một sản phẩm có thể có mà
Công ty có thể cung ứng cho thị trường. Quan niệm sản phẩm là một cách giải thích
ý tưởng bằng ngôn ngữ mà người tiêu dùng hiểu được. Hình ảnh sản phẩm là bức
tranh cụ thể của một sản phẩm thực tế hay tiềm ẩn mà người tiêu dùng có được.
4.6.2.4. Hoạch định chiến lược Marketing cho sản phẩm mới
Bây giờ người quản trị sản phẩm mới phải hoạch định một chiến lược Marketing
để tung sản phẩm đó ra thị trường. Chiến lược Marketing này sẽ được xác định chi
tiết hơn trong những giai đoạn tiếp sau.
Kế hoạch chiến lược Marketing gồm ba phần. Phần thứ nhất mô tả quy mô, cơ
cấu và hành vi của thị trường mục tiêu, dự kiến định vị của sản phẩm, mức tiêu thụ
và thị phần, các chỉ tiêu lợi nhuận dự kiến trong một vài năm đầu tiên.
Phần thứ ba của kế hoạch Marketing trình bày chỉ tiêu mức tiêu thụ và lợi nhuận
lâu dài và chiến lược Marketing mix theo thời gian.
4.6.2.5. Phân tích tình hình kinh doanh
110
- Ước tính mức tiêu thụ
Ban lãnh đạo cần ước tính xem mức tiêu thụ có đủ lớn để đem lại lợi nhuận
thoả đáng không. Phương pháp ước tính mức tiêu thụ phụ thuộc vào chỗ sản phẩm
đó là sản phẩm mua một lần, sản phẩm mua thường xuyên hay sản phẩm mua không
thường xuyên. Mức tiêu thụ lúc đầu tăng, đạt tới đỉnh cao, rồi sau đó tiến dần đến
không khi số người mua tiềm ẩn đã cạn kiệt. Nếu vẫn có những người mua mới tham
gia thị trường thì đường cong sẽ không tiến đến số không
- Ước tính mức tiêu thụ lần đầu
Nhiệm vụ đầu tiên là xác định khối lượng mua lần đầu sản phẩm mới đó trong
từng thời kỳ.
- Ước tính mức tiêu thụ thay thế
Để ước tính mức tiêu thụ thay thế, ban lãnh đạo phải nghiên cứu phân bố tuổi
thọ sản phẩm của mình. Mức thấp của phân bố này chỉ khi bắt đầu có mức tiêu thụ
thay thế. Thời điểm thay thế thực tế còn chịu ảnh hưởng của quan điểm kinh tế của
khách hàng, tình hình thu chi và các phương án sản phẩm cũng như giá cả, điều kiện
tài trợ và nỗ lực bán hàng của Công ty. Vì rất khó xác định mức tiêu thụ thay thế
trước khi sản phẩm được sử dụng thực tế, một số hãng sản xuất dựa trên cơ sở ước
tính mức tiêu thụ lần đầu để quyết định việc tung ra chỉ một sản phẩm mới.
- Ước tính mức tiêu thụ lặp lại
Đối với sản phẩm mới mua thường xuyên người bán phải ước tính mức tiêu thụ
lặp lại cũng như mức tiêu thụ lần đầu. Chính là vì giá trị đơn vị của sản phẩm mua
thường xuyên thấp nên chỉ sau khi tung ra thị trường một ít lâu là đã có trường hợp
mua lặp lại. Mức mua lặp lại cao có nghĩa là khách hàng hài lòng, mức tiêu thụ có thể
vẫn cao ngay cả sau khi tất cả mọi người đã mua lần đầu. Người bán phải theo dõi tỷ
lệ phần trăm trường hợp mua lặp lại xảy ra trong từng lớp mua lặp lại: Những người
mua lặp lại một lần, hai lần, ba lần, v.v... Có một số sản phẩm và nhãn hiệu được mua
một vài lần rồi thôi. Điều quan trọng là phải ước tính xem tỷ lệ mua lặp lại có thể tăng
hay giảm, và với mức độ như thế nào đối với những lớp mua lặp lại nhiều hơn.
111
- Ước tính chi phí và lợi nhuận
Sau khi chuẩn bị dự báo mức tiêu thụ, ban lãnh đạo có thể ước tính chi phí và
lợi nhuận dự kiến của vụ kinh doanh này. Chi phí do các phòng nghiên cứu và phát
triển, sản xuất, Marketing và tài chính ước tính.
Các Công ty sử dụng những số liệu tài chính để đánh giá giá trị của đề án sản
phẩm mới. Đơn giản nhất là phân tích điểm hoà vốn, trong đó ban lãnh đạo đánh giá
xem Công ty phải bán được bao nhiêu đơn vị sản phẩm đó thì mới hoà vốn, với giá
và cơ cấu chi phí đã định. Nếu ban lãnh đạo tin chắc rằng Công ty có thể dễ dàng đạt
được số lượng để hoà vốn, thì thường nó sẽ để cho tiếp tục chuyển đề án sang giai
đoạn phát triển sản phẩm.
Phương pháp phức tạp nhất là phân tích rủi ro. Ở đây ba kết quả ước tính (lạc
quan, bi quan và nhiều khả năng nhất) thu được đối với từng biến không chắc chăn,
có ảnh hưởng đến khả năng sinh lời của môi trường Marketing đã giả thiết và chiến
lược Marketing đã định trong kỳ kế hoạch. Máy tính mô phỏng các kết quả khả dĩ và
tính toán phân phối xác suất của tỷ suất lợi nhuận, thể hiện khoảng tỷ suất lợi nhuận
có thể đạt được và xác suất của chúng.
Phát triển sản phẩm và thử nghiệm trên thị trường.
Nếu quan niệm sản phẩm đó qua được thử nghiệm kinh doanh thì nó sẽ đi tiếp
sang giai đoạn nghiên cứu và phát triển và/hay thiết kế kỹ thuật để phát triển thành
sản phẩm vật chất. Cho đến lúc này nó mới chỉ ở dạng mô tả bằng lời, một hình vẽ
hay mô hình phác thảo. Bước này đòi hỏi phải có một sự nhảy vọt về vốn đầu tư, số
tiền cần thiết sẽ lớn gấp bội so với chi phí đánh giá ý tưởng phát sinh trong những
giai đoạn trước. Giai đoạn này sẽ trả lời ý tưởng sản phẩm đó, xét về mặt kỹ thuật và
thương mại, có thể biến thành một sản phẩm khả thi không. Nếu không, thì những chi
phí tích luỹ của đề án mà Công ty đã chi ra sẽ mất trắng, chỉ trừ những thông tin hữu
ích đã thu được trong quá trình đó.
Phòng nghiên cứu và phát triển sẽ phát triển một hay nhiều dạng mẫu vật chất
của quan niệm sản phẩm. Họ hy vọng rằng, sẽ tìm được một nguyên mẫu mà người
tiêu dùng thấy rằng nó có đủ những thuộc tính then chốt được mô tả trong quan niệm
sản phẩm, hoạt động an toàn trong điều kiện sử dụng bình thường, và có thể sản xuất
112
trong phạm vi chi phí sản xuất đã dự toán.
Việc phát triển được một nguyên mẫu thành công phải mất nhiều ngày, tuần,
tháng, thậm chí nhiều năm. Việc thiết kế một máy bay thương mại mới sẽ chiếm mất
vài năm của công tác phát triển. Ngay cả việc phát triển công thức có hương vị mới
cũng có thể mất thời gian.
Việc thử nghiệm với người tiêu dùng có thể thực hiện theo một số hình thức
khác nhau, từ việc đưa người tiêu dùng đến phòng thí nghiệm đến việc cho họ mẫu
hàng đem về nhà dùng thử. Việc thử nghiệm sản phẩm tại nhà được áp dụng phổ biến
đối với những sản phẩm khác nhau, từ hương vị kem đến những thiết bị mới. Khi
hãng Du Pont phát triển loại thảm mới bằng vật liệu tổng hợp, Công ty đã cung cấp
thảm miễn phí để trải sàn ở một số nhà với điều kiện là chủ nhà sẵn sàng cho nhận
xét về những điểm thích và không thích đối với thảm tổng hợp. Việc trắc nghiệm sở
thích của người tiêu dùng sử dụng nhiều phương pháp khác nhau, như xếp hạng, so
sánh từng cặp, và cho điểm, mỗi phương pháp đều có những ưu điểm và nhược điểm
của nó.
Không phải Công ty nào cũng chọn con đường thử nghiệm trên thị trường. Có
một quan chức của Công ty Revlon, Inc.., đã phát biểu như sau:
Trong lĩnh vực của chúng tôi, chủ yếu là mỹ phẩm giá cao, không phân phối
đại trà, không cần thiết phải thử nghiệm trên thị trường. Khi chúng tôi phát triển một
sản phẩm đã quen thuộc với lĩnh vực này. Và chúng tôi đã có 1.500 trình diễn viên ở
các cửa hàng bách hoá tổng hợp để khuếch trương nó.
Tuy nhiên, hầu hết các Công ty đều biết việc thử nghiệm trên thị trường có thể
cung cấp những thông tin có giá trị về người mua, các đại lý, hiệu quả của chương trình
Marketing, tiềm năng của thị trường và nhiều vấn đề khác. Những vấn đề chính là sẽ
thử nghiệm trên thị trường bao nhiêu lần và cách thử nghiệm như thế nào?
Số lượng thử nghiệm trên thị trường chịu ảnh hưởng một bên là chi phí và rủi
ro của vốn đầu tư, và một bên là sức ép thời gian và chi phí nghiên cứu. Những sản
phẩm có vốn đầu tư rủi ro cao cần được thử nghiệm trên thị trường tới mức độ đủ để
không phạm sai lầm; chi phí thử nghiệm trên thị trường sẽ bằng một tỷ lệ phần trăm
không đáng kể trong tổng chi phí của dự án. Những sản phẩm có rủi ro lớn, tức là
113
những sản phẩm tạo ra những loại sản phẩm mới (bữa ăn sáng liền đầu tiên) hay có
những tính chất mới (thuộc đánh răng đầu tiên có chứa fluoride) cần được thử nghiệm
trên thị trường nhiều hơn những sản phẩm cải tiến (nhãn hiệu thuốc đánh răng khác).
Nhưng số lượng thử nghiệm trên thị trường có thể giảm đi một chừng mực nào đó
nếu cong ty đang bị sức ép về thời gian vì thời vụ đã bắt đầu hay vì các đối thủ cạnh
tranh sẽ tung ra những nhãn hiệu của mình. Vì vậy công ty có thể chấp nhận rủi ro
sản phẩm bị thất bại hơn là rủi ro mất khả năng phân phối hay xâm nhập thị trường
với một sản phẩm chắc chắn thành công. Chi phí thử nghiệm trên thị trường cũng
chịu ảnh hưởng của số lượng thử nghiệm và loại sản phẩm gì.
4.6.2.6. Thương mại hóa
Thử nghiệm trên thị trường có lẽ đã cung cấp đủ thông tin để ban lãnh đạo quyết
định xem xét các sản phẩm mới ra không. Nếu Công ty tiếp tục thương mại hoá thì nó
phải chịu những chi phí lớn nhất từ trước đến giờ. Công ty sẽ phải ký hợp đồng sản
xuất hay xây dựng hoặc một cơ sở sản xuất có quy mô tương xứng. quy mô của nhà
máy là một biến cực kỳ quan trọng của quyết định. Công ty có thể xây dựng một nhà
máy nhỏ hơn so với yêu cầu của dự báo mức tiêu thụ để cho an toàn hơn.
- Thời điểm (trả lời câu hỏi Khi nào?)
Trong việc thương mại hoá một sản phẩm mới, thời điểm tung ra thị trường có
thể là cực kỳ quan trọng. giả sử, một Công ty hầu như đã hoàn tất việc phát triển một
sản phẩm mới và nghe nó có một đối thủ cạnh tranh sắp kết thúc việc phát triển sản
phẩm của mình. Công ty phải đứng trước ba cách lựa chọn:
1. Tung ra thị trường trước tiên: Công ty tham gia thị trường đầu tiên thường
có được "ưu thế của người chủ động" là nắm chắc được những người phân phối và
khách hàng chủ chốt và giành được vị trí dẫn đầu về tiếng tăm. Kết quả nghiên cứu
của A.Mc Kinsey cho thấy rằng, người đầu tiên tung sản phẩm mới ra thị trường, cho
dù phải chi vượt ngân sách, vẫn tốt hơn là người đến muộn hơn, nhưng đảm bảo ngân
sách. Mặt khác, nếu sản phẩm đó được tung ra thị trường trước khi chi hết ngân sách,
thì sản phẩm đó có thể có một hình ảnh không hoàn mỹ.
2. Tung ra thị trường đồng thời: Công ty có thể xác định thời điểm tung ra thị
trường đồng thời với đối thủ cạnh tranh đó. Nếu đối thủ cạnh tranh vội vã tung ra thị
114
trường thì Công ty cũng làm như vậy. Nếu đối thủ cạnh tranh tranh thủ thơi gian, thì
Công ty cũng tranh thủ thời gian, làm thêm giờ để hoàn thiện sản phẩm của mình. Công
ty có thể muốn cả hai cùng gánh chịu chi phí quảng cáo về việc tung sản phẩm mới.
3. Tung ra thị trường muộn hơn: Doanh nghiệp có thể hoãn tung sản phẩm của
mình ra thị trường cho đến khi đối thủ cạnh tranh đã xâm nhập thị trường. Trong
trường hợp này có ba lợi thế tiềm ẩn. Đối thủ cạnh tranh sẽ phải gánh chi phí đào tạo
thị trường. Sản phẩm của đối thủ cạnh tranh có thể bộc lộ những thiếu sót mà người
đi sau có thể tránh. Doanh nghiệp có thể biết được quy mô của thị trường. Ví dụ, công
ty EMI của Anh là người đi tiên phong về kỹ thuật quét cắt lát bằng máy tính, nhưng
GE đã giành mất thị trường, bởi vì nó hoàn hảo hơn rất nhiều về năng lực sản xuất và
mạnh hơn nhiều về phân phối cho các bệnh việc.
Quyết định thời điểm có liên quan đến những vấn đề phụ kèm theo. Nếu sản
phẩm mới thay thế một sản phẩm cũ của công ty, thì Công ty có thể hoãn việc tung
ra thị trường cho đến khi tiêu thụ hết số sản phẩm cũ còn tồn kho. Nếu sản phẩm có
tính thời vụ cao thì có thể giữ lại cho đến đúng thời vụ của nó. Tóm lại, cần phải suy
nghĩ kỹ về thời điểm tung ra thị trường.
- Khu vực thị trường (trả lời câu hỏi ở đâu?)
Doanh nghiệp sẽ phải quyết định tung sản phẩm mới ra tại một địa bàn, một khu
vực, nhiều khu vực hay thị trường toàn quốc, thị trường quốc tế. Có một số Doanh
nghiệp có đủ lòng tin, vốn, và năng lực để tung sản phẩm mới ra thị trường toàn quốc
hay toàn cầu. Họ sẽ xây dựng kế hoạch chiếm lĩnh thị trường theo thời gian. Những
công ty nhỏ thì chọn lấy một thành phố hấp dẫn và mở một chiến dịch chớp nhoáng
để xâm nhập thị trường. Họ cũng xâm nhập các thành phố khác dần dần, mỗi lần một
thành phố. Những Công ty lớn thì từng sản phẩm ra toàn bộ khu vực rồi sau đó chuyển
sang khu vực tiếp sau. Những công ty có mạng lưới phân phối toàn quốc như các
hãng ô tô chẳng hạn sẽ tung model sản phẩm mới của mình trên thị trường cả nước.
Khi áp dụng Marketing vết dầu loang Doanh nghiệp phải đánh giá mức độ hấp
dẫn của các thị trường. Các thị trường dự kiến có thể liệt kê thành hàng, hay thành cột
theo tiêu chuẩn mức độ hấp dẫn. Những tiêu chuẩn xếp hạng chủ yếu là tiềm năng của
thị trường, danh tiếng địa phương của Doanh nghiệp, chi phí thiết lập kênh thông tin,
115
chi phí về các phương tiện truyền thông, ảnh hưởng của các khu vực đó đối với các
khu vực khách, và tình hình cạnh tranh. Bằng cách này Doanh nghiệp xếp thứ tự được
những thị trường hàng đầu và xây dựng một kế hoạch chiếm lĩnh dần từng địa bàn.
- Những khách hàng triển vọng của thị trường mục tiêu (Cho ai?)
Trong phạm vi những thị trường lấn chiếm, Doanh nghiệp phải hướng mục tiêu
phân phối và khuyến mãi của mình vào những nhóm khách hàng triển vọng quan
trọng nhất. Những khách hàng triển vọng hàng đầu đối với một sản phẩm tiêu dùng
mới, trong trường hợp lý tưởng, phải có những đặc điểm sau: Họ phải là những người
chấp nhận sản phẩm sớm, sử dụng nhiều, hướng dẫn dư luận và có thể đạt được chi
phí thấp. Có một vài nhóm có đầy đủ tất cả những đặc điểm này. Căn cứ vào những
đặc điểm vừa nêu, Doanh nghiệp có thể xếp hạng các nhóm khách hàng triển vọng
khác nhau rồi chọn nhóm tốt nhất làm mục tiêu. Mục đích là tạo ra được mức tiêu thụ
mạnh càng sớm càng tốt để động viên lực luợng bán hàng và thu hút thêm những
khách hàng triển vọng khác.
Nhiều Doanh nghiệp đã ngạc nhiên khi biết được ai thực sự đã mua sản phẩm
của mình và vì sao. Lò vi ba chỉ phát triển nhảy vọt sau khi bỏng ngô rang bằng lò vi
ba phát triển. Những người sớm chấp nhận đầu máy video đã bị thu hút bởi cơ hội
xem phim ảnh khiêu dâm.
- Chiến lược tung ra thị trường (Làm như thế nào?)
Công ty phải xây dựng một kế hoạch hành động để tung sản phẩm mới ra
những thị trường lấn chiếm.
Để sắp xếp trình tự và phối hợp nhiều hoạt động liên quan đến việc tung sản
phẩm mới ra thị trường, ban lãnh đạo có thể dùng phương pháp sơ đồ mạng như
phương pháp đường tới hạn.
4.6.2.7. Quá trình chấp nhận của người tiêu dùng
Quá trình chấp nhận của người tiêu dùng bắt đầu từ chỗ quá trình đổi mới của
Công ty chấm dứt. Nó mô tả cách thức khách hàng tiềm ẩn tìm hiểu về sản phẩm mới,
dùng thử nó và chấp nhận hay từ chối nó. Ban lãnh đạo phải hiểu được quá trình này
để xây dựng một chiến lược hiệu quả nhằm xâm nhập sớm thị trường. Tiếp sau quá
trình chấp nhận của người tiêu dùng là qúa trình trung thành của người tiêu dùng, một
116
mối quan tâm của nhà sản xuất đã ổn định.
4.6.2.8. Những giai đoạn của quá trình chấp nhận
Kết quả quan sát những người chấp nhận sản phẩm mới cho thấy họ đã trải
qua năm giai đoạn sau:
+ Biết đến: Người tiêu dùng biết đến sự đổi mới, nhưng còn thiếu những thông
tin về nó.
+ Quan tâm: Người tiêu dùng bị kích thích để tìm kiếm thông tin về sự đổi mới.
+ Đánh giá: Người tiêu dùng xem xét có nên dùng thứ sản phẩm mới đó không.
+ Dùng thử: người tiêu dùng dùng thử sản phẩm mới để đánh giá giá trị của
nó kỹ hơn.
+ Chấp nhận: Người tiêu dùng quyết định sử dụng thường xuyên và hoàn toàn
sản phẩm đó.
Quá trình tiến triển này cho thấy rằng người làm Marketing sản phẩm mới cần
nhắm vào việc tạo thuận lợi để người tiêu dùng chuyển từ giai đoạn này sang giai
đoạn khác. Một hãng sản xuất máy rửa chén đĩa xách tay, chạy điện phát hiện ra rằng
nhiều người tiêu dùng bị kẹt lại ở giai đoạn quan tâm. Họ không mua là vì họ không
biết chắc chắn và chi phí đầu tư lớn. Thế nhưng những người tiêu dùng này sẽ sẵn
sàng dùng thử máy rửa chén đĩa chạy điện với một khoản chi phí hàng tháng nhỏ.
Nhà sản xuất cần suy tính về việc đưa ra một kế hoạch cho dùng thử, sau đó được
quyền chọn mua.
Tóm tắt các đặc điểm, mục tiêu và chiến lược marketing theo chu kỳ sống của
sản phẩm
4.7. QUYẾT ĐỊNH VỀ DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG
Dịch vụ cho khách hàng là một yếu tố quan trọng trong chiến lược sản phẩm.
Các sản phẩm như xà bông, kem đánh răng, mì ăn liền hay hay muối thì chẳng có
dịch vụ đi kèm.
Những sản phẩm như xe hơi, tủ lạnh, tivi thường có kèm theo dịch vụ để tăng khả
năng thu hút khách hàng. Các dịch vụ có thể bao gồm: hướng dẫn sử dụng, bảo trì, giao
hàng theo ý khách và bán trả góp. Dịch vụ khách hàng phải làm thật tốt và với chất lượng
117
cao. Chúng sẽ là những công cụ cạnh tranh có hiệu quả trên thương trường.
D) CÂU HỎI, BÀI TẬP, NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CỦA
CHƯƠNG 1
- Câu hỏi ôn tập: 1. Qui trình phát triển sản phẩm mới?
2. Các chiến lược marketing cho từng giai đoạn của chu kỳ sống?
3. Các quyết định về danh mục sản phẩm?
4. Các quyết định về nhãn hiệu/dịch vụ/bao bì
118
- Câu hỏi thảo luận: Tình hình mua bán nhượng quyền tại Việt Nam hiện nay?
CHƯƠNG 5 : QUẢN TRỊ GIÁ
(Số tiết: 5 (Lý thuyết: 4 tiết, bài tập, thảo luận: 01 tiết)
A) MỤC TIÊU:
- Kiến thức:
+ Hiểu rõ khái niệm giá, các nhân tố ảnh hưởng tới định giá
+ Nắm được các phương pháp định giá
+ Các chiến lược định giá
- Kỹ năng:
+ Sinh viên rèn kỹ năng định giá
+ Phân tích và giải quyết các tình huống liên quan giá bán;
+ Làm việc nhóm, thuyết trình các vấn đề liên quan đến học phần. - Mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm:
+ Nhận thức được tầm quan trọng của giá bán trong cạnh tranh và trong chiến
lược marketing - mix của doanh nghiệp;
+ Chủ động tìm hiểu vể những quy định luật pháp về giá.
+ Tích cực, chủ động phát huy vai trò của mình khi tham gia hoạt động nhóm;
+ Say mê tìm hiểu, khám phá kiến thức, kĩ năng mới.
B) TÀI LIỆU HỌC TẬP
PGS.TS. Trương Đình Chiến- Quản trị marketing - NXB Đại học Kinh tế
quốc dân, năm 2017 {tr350-tr372}
C) NỘI DUNG:
5.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỊNH GIÁ
5.1.1. Khái niệm giá
- Theo góc độ trao đổi: giá là mối tương quan trao đổi trên thị trường - Theo góc độ người mua: giá là một khoản chi phí để sở hữu sản phẩm - Theo góc độ người bán: giá là một khoản thu nhập/doanh thu do bán sản phẩm
5.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới định giá
5.1.2.1. Các yếu tố nội tại ảnh hưởng đến giá
a. Mục tiêu marketing:
Trước khi định giá, Doanh nghiệp phải quyết định xem với sản phẩm đó thì
119
cần phải đạt được điều gì. Nếu Doanh nghiệp chọn thị trường mục tiêu và định vị thị
trường cẩn thận, thì chiến lược phối hợp marketing bao gồm cả giá cả, sẽ thực hiện
khá dễ dàng. Đồng thời, công ty còn có các mục tiêu khác nữa. khi mục tiêu được xác
định rõ ràng, việc định giá càng dễ dàng hơn. Các mục tiêu phổ biến là sự tồn tại, tối
đa hóa lợi nhuận, tối đa hóa thị phần và dẫn đầu về chất lượng sản phẩm.
Sự tồn tại(đảm bảo sống sót): khi cạnh tranh khốc liệt, công ty gặp nhiều khó
khăn họ sẽ coi trọng sự tồn tại như mục tiêu chính yếu. Họ phải định giá thấp, miễn
là giá cả đủ trang trải các biến phí và một số định phí khác để có thể tồn tại, cầm cự
được một thời gian nhằm vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Tối đa hóa lợi nhuận: Nhiều Doanh nghiệp muốn đề ra một mức giá nhằm tối
đa hóa lợi nhuận hiện tại. Họ ước lượng mức cầu và phí tổn đi liền với những mức
giá khác nhau và chọn ra mức giá có được lợi nhuận tối đa hoặc tỉ lệ doanh thu trên
vốn đầu tư tối đa.
Dẫn đầu thị phần: có công ty muốn đạt thị phần cao nhất. Họ tin rằng công ty
nào có thị phần lớn nhất sẽ có phí tổn thấp nhất và lợi nhuận về lâu dài là cao nhất.
Họ đeo đuổi thị phần bằng cách định giá thấp và một chương trình phối hợp hoạt
động marketing đồng bộ để đạt được mục tiêu này.
Dẫn đầu về chất lượng sản phẩm: Một Doanh nghiệp có thể lấy mục tiêu dẫn
đầu về chất lượng sản phẩm trên thị trường. thường thì điều này đòi hỏi phải đè ra
mức giá cao và phí tổn R & D cao.
Các mục tiêu khác: Doanh nghiệp có thể sử dụng giá để đạt các mục tiêu khác.
Họ có thể định giá thấp để ngăn chặn không cho các đối thủ tham gia vaò thị trường
hoặc định giá ngang đối thủ để ổn định thị trường. Giá có thể đưa ra để duy trì sự
trung thành và ủng hộ của giới bán lại hoặc để tránh sự can thiệp của chính phủ. Giá
có thể tạm thời giảm để tạo sự đáp ứng nồng nhiệt của khách hàng đói với một sản
phẩm hoặc để lôi kéo thêm nhiều khách hàng đến các cửa hiệu bán lẻ. Một sản phẩm
có thể định giá để giúp cho việc tạo doanh số của những sản phẩm khác thuộc mặt
hàng của các Doanh nghiệp . Như thế, việc định giá có thể đóng vai trò quan trọng
trong việc hoàn thành các mục tiêu của Doanh nghiệp ở nhiều mức độ khác nhau.
120
b. Chiến lược phối thức marketing:
Giá cả là một trong các công cụ thuộc phối thức marketing mà công ty sử dụng
để đạt được mục tiêu marketing của mình. Các quyết định về giá phải được phối hợp
với những quyết định về mẫu mã, phân phối, cổ động cho sản phẩm để hình thành
một chương trình marketing nhất quán và có hiệu quả. Các quyết đưa ra cho những
khâu khác thuộc phối thức marketing đều có ảnh hưởng đến những quyết định về giá.
Chẳng hạn, các nhà sản xuất đang sử dụng nhiều nhà bán lại và mong rằng những
người này sẽ ủng hộ và cổ động cho sản phẩm của mình thì có thể đưa vào giá mức
lời hơn cho các nhà buôn. Quyết định trên khai một vị trí có chất lượng cao sẽ có
nghĩa rằng người bán phải để giá cao hơn để trang trải các chi phí cao.
Doanh nghiệp thường phải định giá sản phẩm trước, từ đó mới đưa ra những quyết
định khác thuộc phối thức marketing trên cơ sở mức giá mình muốn cho sản phẩm. Như
vậy giá là yếu tố định vị chính cho sản phẩm, xác định thị trường của sản phẩm, đối thủ
cạnh tranh và mẫu mã. Giá đó quyết định đặc điểm và phí tổn sản phẩm.
Tóm lại, nhà marketing phải xem xét tổng phối thức marketing khi định giá.
nếu sản phẩm được định vị dựa trên những yếu tố phi giá thì các quyết định về chất
lượng quảng cáo và phân phối sẽ ảnh hưởng mạnh lên giá cả. nếu giá cả là yếu tố
định vị chính thì nó sẽ ảnh hưởng mạnh đến các quyết định khác thuộc phối thức
marketing. Nói chung công ty phải xem xét tất cả các quyết định thuộc phối thức
marketing chung với nhau, khi triển các chương trình marketing.
c. Phí tổn
Phí tổn tạo nền cho việc định giá sản phẩm. Công ty muốn đề ra một mức giá
có thể trang trải cho mọi phí tổn về sản xuất, phân phối bán sản phẩm gồm cả một tỉ
lệ lời hợp lý cho những nỗ lực và rủi ro của mình. Doanh nghiệp phải xem xét các
loại phí tổn. nếu chi phí của Doanh nghiệp cao hơn chi phí của các nhà cạnh tranh khi
sản xuất và bán một sản phẩm tương đương, Doanh nghiệp phải đề ra một mức giá
cao hơn các đối thủ cạnh tranh hoặc kiếm lời ít hơn và phải ở vào một thế bất lợi về
cạnh tranh. Phí tổn Doanh nghiệp gồm 2 loại:
Định phí là những chi phí không thay đổi theo khối lượng sản xuất hay doanh
121
thu. Các chi phí như tiền thuê mặt bằng, chi phí quản lý, khấu hao tài sản cố định là
những chi phí cố định. Khi khối lượng sản xuất hay khối lượng bán tăng lên định phí
tính cho một đơn vị sản phẩm giảm xuống.
Biến phí là những chi phí thay đổi trực tiếp theo khối lượng sản xuất. khi khối
lượng sản xuất tăng tổng biến phí sẽ tăng theo. biến phí tính cho một đơn vị sản phẩm
thì không thay đổi.
Tổng phí tổn: Bao gồm cả định phí lẫn biến phí. Cấp điều hành muốn đề ra
một mức giá ít nhất sẽ trang trải được cho tổng chi phí ở một mức độ sản xuất nhất
định nào đó.. khi kinh nghiệm được tích lũy công việc được tổ chức tốt hơn, thiết bị
được cải tiến và tìm được những quy trình sản xuất tốt hơn. Với khối lượng càng lớn,
công ty càng trở nên hiệu quả hơn thực hiện được lợi thế quy mô. Kết quả là chi phí
bình quân giảm xuống.
d. Tổ chức định giá
Cấp lãnh đạo Doanh nghiệp phải xem ai là người chịu trách nhiệm định giá. Ở
các công ty nhỏ giá cả thường do giới quản trị cao cấp định ra hơn là do phòng
marketing hay phòng kinh doanh. Ở các công ty lớn việc định giá thường do các quản
trị viên sản phẩm hay nhóm sản phẩm xử lý. Ở các thị trường công nghiệp, nhân viên
bán hàng được phép thương lượng với khách hàng trong phạm vi giá cả nào đó trên
cơ sở chính sách và mục tiêu về giá do ban quản trị cao cấp đề ra. Trong một số ngành
mà việc định giá là yếu tố then chốt (hàng không, đường sắt, dầu khí...) các công ty
thường lập thành ban định giá. Ban này thường đặt dưới sự chỉ đạo của cấp quản trị
cao nhất.
5.1.2.2. Những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng đến các quyết định về định giá
a. Thị trường và nhu cầu:
Phí tổn tạo nền cho việc lập giá còn thị trường và nhu cầu thì tốc độ cao. Cả
khách hàng tiêu dùng lẫn khách hàng kinh doanh đều cân bằng gía cả của sản phẩm
và dịch vụ dựa trên những lợi ích có được từ sản phẩm hay dịch vụ đó. Như thế, trước
khi định giá, nhà marketing phải hiểu được mối quan hệ giữa giá cả và mức cầu đối
với sản phẩm của mình.
Định giá trong các thị trường khác nhau: Bề rộng của định giá của người bán
122
thay đổi khác nhau theo các thị trường khác nhau. Ở thị trường cạnh tranh thuần túy
cả người bán lẫn người mua đều chấp nhận thời giá thị trường. Việc định giá đặc biệt
mang tính chất thách đố trong những thị trường mang tính độc quyền.
Những cảm nhận của người tiêu thụ. Người tiêu thụ sẽ là người quyết định xem
xét giá của sản phẩm có phù hợp không? Khi định giá công ty phải xét đến những
cảm nhận của ngườu tiêu thụ về giá và những cảm nhận ấy ảnh hưởng ra sao đến các
quyết định mua hàng của họ.
Khi người tiêu thụ mua một sản phẩm, họ đổi một số giá trị (giá cả) để lấy một
giá trị khác. Vì vậy việc lập giá định hướng theo người mua bao hàm chuyện hiểu được
giá trị người tiêu dùng muốn có qua những lợi ích họ nhận được từ sản phẩm và chuyện
đề ra một mức giá cả phù hợp với giá trị đó. Các lợi ích bao gồm cả hữu hình và vô
hình. Khi một người tiêu dùng mua một bữa ăn ở một nhà hàng sang trọng thì việc tính
giá trị các món ăn trong bữa ăn thật dễ dàng. Thế nhưng để tính được giá trị của những
điều hài lòng khác như khẩu vị, khung cảnh thanh lịch, sự thỏa mái, sự chuyện trò, địa
vị,... thì quả là rất khó khăn ngay cả đối với chính người tiêu dùng. Và những giá trị
này sẽ thay đổi theo những người tiêu dùng khác nhau và theo những hoàn cảnh khác
nhau. Như thế, công ty thường thấy rằng khó đo lường được giá trị mà khách hàng sẽ
gán cho sản phẩm của mình, mặc dù vậy người tiêu dùng vô tình hay hữu ý, đều đang
sử dụng những giá trị này để đánh giá mức giá của một sản phẩm. nếu người tiêu thụ
cảm thấy giá cả cao hơn giá trị của sản phẩm họ sẽ không mua sản phẩm đó.
Các nhà marketing phải cố gắng phân tích những động cơ của người tiêu thụ
trong việc mua sản phẩm và đề ra giá cả phù hợp với những cảm nhận của họ về giá
trị sản phẩm. Vì người tiêu thụ thay đổi các giá trị mà họ dành cho những đặc điểm
sản phẩm khác nhau, nên các nhà làm marketing thường thay đổi các chiến lược lập
giá đối với những khúc tuyến giá cả khác nhau. Họ cống hiến những kết hợp đặc
điểm, tính chất sản phẩm khác nhau cho những mức giá khác nhau.
Việc định giá định hướng theo người mua nghĩa là nhà làm marketing không
chỉ thiết kế, sản xuất ra sản phẩm đưa ra chương trình marketing rồi cứ thế mà định
giá. Muốn định giá có hiệu quả cần bắt đầu bằng sự phân tích nhu cầu của người tiêu
123
dùng và những cảm nhận về giá của họ. Giá cả phải được xem xét cùng với nhứng
yếu tố biến đổi khác thuộc phối thức marketing, trước khi để ra chương trình
marketing.
Phân tích mối quan hệ giá cả- nhu cầu: Mỗi mức giá mà Doanh nghiệp có thể
đưa ra đều dẫn đến một mức cầu khác nhau. Thông thường nhu cầu và giá cả có tỷ lệ
nghịch tức là giá càng cao, sức cầu càng thấp và ngược lại. Cần xác định độ co giãn
của cầu theo giá cả.
Giả sử nhu cầu giảm đi 10% khi người bán tăng giá 2%. Độ co giãn của cầu sẽ
là 5. Nếu sức cầu giảm đi 2% với mức tăng giá 2%, độ co giãn là 1. Trong trường hợp
này, doanh số của người bán vẫn y nguyên, không đổi. nếu nhu cầu giảm đi 1% khi
giá cả tăng lên 2% độ co giãn là –1/2. Sức cầu co giãn ít , người bán dễ tăng giá. Nêu
nhu cầu co giãn nhiều, người bán sẽ nghĩ đến chuyện hạ giá. Một mức giá thấp hơn
sẽ dẫn đến tổng doanh thu cao hơn.
b. Cạnh tranh.
Giá cả của đối thủ cạnh tranh và phản ứng của họ về giá ảnh hưởng không nhỏ
đến việc định giá của Doanh nghiệp . Người tiêu dùng đánh giá về giá trị và giá cả
của một sản phẩm dựa trên những giá cả và giá trị của sản phẩm tương đương. Chiến
lược định giá của Doanh nghiệp cũng có thể ảnh hưởng đến sự cạnh tranh. Một chiến
lược giá cao, mức lời cao, có thể thu hút sự cạnh tranh, trong khi một chiến lược giá
thấp, mức lời thấp có thể làm nản các đối thủ cạnh tranh hay làm họ rút lui khỏi thị
trường.
Doanh nghiệp cần biết giá cả và chất lượng của đối thủ. Điều này có thể thực
hiện được bằng nhiều cáchDoanh nghiệp có thể cử người đi khảo giá và so sánh các
sản phẩm của phía cạnh tranh. Doanh nghiệp có thể kiếm bảng giá của đối thủ, tìm
mua thiết bị của họ và phân tích. Doanh nghiệp có thể hỏi người mua xem họ cảm
124
nhận thế nào về giá cả và chất lượng sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
Một khi Doanh nghiệp đã biết rõ giả cả và các cống hiến của những đối thủ
cạnh tranh, công ty có thể sử dụng nó như một điểm định hướng cho việc định giá
của mình. nếu sản phẩm của mình tương tự sản phẩm của một đối thủ quan trọng,
Doanh nghiệp phải đề sát giá với các đối thủ ấy, không thì sẽ bị mất doanh số. Nếu
sản phẩm của mình tuyệt hơn, công ty có thể đề giá cao hơn đối thủ. Tuy nhiên, công
ty phải ý thức được rằng các đối thủ cạnh tranh cũng có thể thay đổi giá của họ để đói
lại với giá của Doanh nghiệp . về cơ bản, công ty sẽ sử dụng để định vị sản phẩm của
mình tương quan với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh.
c. Các yếu tố bên ngoài khác
Khi định giá, Doanh nghiệp cũng phải xét đến những yếu tố khác thuộc môi
trường bên ngoài của mình chẳng hạn, tình hình kinh tế có thể có một tác động mạnh
đến hiệu năng của các chiến lược định giá khác nhau. Các yếu tố kinh tế như lạm
phát, tăng trưởng hay suy thoái và lãi suất, đều ảnh hưởng đến các quyết định lập giá,
bởi vì chúng ảnh hưởng đến phí tổn sản xuất của một sản phẩm lẫn những cảm nhận
của người tiêu thụ về giá cả và giá trị của sản phẩm đó.
Doanh nghiệp cũng phải xem xét giá cả của mình có ảnh hưởng thế nào đến
những thành viên khác thuộc môi trường của mình. Những người bán lại sẽ phản ứng
ra sao trước các mức giá? công ty nên định giá sao cho những người bán lại đó có
được một lợi nhuận thỏa đáng, khích lệ họ ủng hộ, và giúp họ bán được sản phẩm
một cách hiệu quả. Chính quyền là một ảnh hưởng quan trọng khác lên quyết định
giá. Các nhà marketing cần phải biết các luật lệ đang ảnh hưởng đến giá cả và đảm
bảo rằng các chính sách định giá của công ty là đúng đắn.
5.2. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ
5.2.1. Định giá dựa trên chi phí
- Định giá cộng thêm chi phí.
Phương pháp định giá sơ đẳng nhất là cộng thêm vào phí tổn một mức lợi nhuận
mục tiêu: ta có thể dùng công thức:
G = Z + m
Trong đó: G là giá bán đơn vị sản phẩm.
125
Z là phí tổn cho một đơn vị sản phẩm
m là lợi nhuận mục tiêu,%, m có thể tính theo % của phí tổn hoặc %của giá bán.
Tuy nhiên phương pháp này không tính đến nhu cầu và cạnh tranh trên thị
trường nên cũng còn những nhược điểm nhất định. Một cách tiếp cận khác của
phương pháp định giá theo phí tổn và lợi nhuận mục tiêu là sử dụng phương pháp xác
định điểm hòa vốn.
5.2.2. Định giá dựa trên người mua (dựa trên giá trị)
Ngày càng có nhiều Doanh nghiệp định giá dựa trên giá trị được cảm nhận của
sản phẩm. Họ xem sự cảm nhận về giá trị của người mua, chứ không phải phí tổn của
người bán, là chìa khóa để định giá. Họ sử dụng những biến số phi giá trong phối
thức marketing để xây dựng giá trị được cảm nhận trong tâm trí người mua. Giá được
đề ra là để đạt được cái giá trị cảm nhận ấy. Công ty sử dụng lối định giá theo giá trị
cảm nhận phải thiết lập được giá trị trong ý nghĩa của người mua trong sự tương quan
với các sản phẩm cạnh tranh khác.
5.2.3. Định giá dựa vào cạnh tranh.
a. Định giá theo thời giá:
Khi định giá theo thời giá Doanh nghiệp căn cứ chủ yếu vào giá của đối thủ
cạnh tranh, ít chú trọng đến phí tổn hay sức cầu. Doanh nghiệp có thể định giá bằng,
cao hơn hay thấp hơn đối thủ cạnh tranh chính. Các Doanh nghiệp nhỏ thì làm theo
hãng đứng đầu. Việc định giá theo thời giá rất phổ biến, nơi nào mà độ co giãn của
sức cầu khó đo lường được thì giá thịnh hành tiêu biểu cho chsi khôn tập thể của cả
ngành sẽ tạo ra được một mức doanh thu thảo đáng. Định giá theo thời giá sẽ bảo
toàn được sự hòa hợp của cả ngành.
b. Định giá đấu thầu.
Định giá dựa trên sự cạnh tranh cũng chi phối các xí nghiệp đấu thấu để nhận
việc. Doanh nghiệp định giá dựa trên những đối thủ cạnh tranh. Xí nghiệp muốn giành
được hợp đồng thì phải định giá thấp hơn các xí nghiệp khác. Doanh nghiệp không
thể định giá thấp hơn phí tổn mà không phương hại đến vị trí của mình. Nhưng càng
định giá cao hơn phí tổn, cơ may đạt được hợp đồng của xí nghiệp càng ít đi. Hệ quả
thuần của hai sức kéo trái ngược nhau này có thể được miêu tả bằng thuật ngữ lợi
126
nhuận dự kiến của một cuộc đấu thầu đặc thù nào đó. Sử dụng lợi nhuận dự kiến như
một tiêu chuẩn để đề giá là điều có ý nghĩa đối với công ty lớn đang thực hiện nhiều
cuộc đấu thầu.
5.3. CÁC CHIẾN LƯỢC ĐỊNH GIÁ
5.3.1. Các chiến lược định giá sản phẩm mới.
Khi doanh nghiệp tung ra một sản phẩm mới có thể lựa chọn cách định giá thăm
dò thị trường. Hoặc là định giá cao- giá hớt kem hay giá chắt với thị trường.. hoặc là
định giá thấp nhằm thâm nhập thị trường.
Định giá hớt váng thị trường.
Nhiều Daonh nghiệp có phát minh được sản phẩm mới đã định giá cao ban
đầu để thu được tỷ suất lợi nhuận lớn trên mỗi đơn vị sản phẩm. Vì giá cao nên số
người mua không nhiều, doanh nghiệp dần dần giảm giá xuống để có thêm khách
hàng mới. Việc định giá hớt váng thị trường chỉ có ý nghĩa trong những điều kiện
như số lượng người mua đủ để có mức cầu hiện hành cao, phí tổn trên mỗi đơn vị
sản phẩm khi sản xuất với khối lượng nhỏ, không quá cao đến độ làm triệt tiêu lợi
thế của việc đề ra mức giá mà khách sẽ chấp nhận. Gia ban đầu cao sẽ không thu
hút thêm các đối thủ cạnh tranh hay giá cao hỗ trợ được hình ảnh về một sản phẩm
hảo
Định giá nhằm thâm nhập thị trường
Một số doanh nghiệp khác định giá sản phẩm tương đối thấp, hi vọng rằng sẽ thu
hút được một lượng khách mua lớn và đạt được một thị phần lớn. Dần dần do cải tiến,
tích lũy kinh nghiệm, chi phí sản xuất sẽ hạ thấp hơn nữa và lợi nhuận sẽ tăng lên
*Những điều kiện sau đây thuận lợi cho lối định giá thấp - Thị trường rất nhạy cảm với giá cả và giá thấp sẽ kích thích sức tăng trưởng của
thị trường nhiều hơn nữa
- Chi phí sản xuất và phân phối ngày càng giảm do cải tiến và tích lũy được nhiều
kinh nghiệm.
- Do giá thấp, giảm bớt được cạnh tranh thực tế và tiềm tàng vì đối thủ không thấy
hấp dẫn khi lợi nhuận ít
Định giá một sản phẩm mới do mô phỏng
Khi Doanh nghiệp có kế hoạch triển khai một sản phẩm mới do mô phỏng sẽ phải
127
xác định vị trí sản phẩm của mình (định vị sản phẩm). Doanh nghiệp phải quyết định vị
trí chất lượng và giá cả của sản phẩm ấy. Hình 5 -1 trình bày 9 chiến lược có thể có về chất lượng và giá
Hình 5. 1. Chiến lược phối hợp giá cả và chất lượng
Giá Trung bình Thấp Cao
Cao CL siêu giá Chiến lược giá trị cao Chiến lược giá trị siêu hạng
CL giá trị tốt CL lấy giá quá cao CL giá trị TB Trung bình Chất lượng SP
CL lừa đảo
Thấp
CL tiết kiệm gian dối CL giá tiết kiệm
Chiến lược giá/chất lượng
Nếu Công ty đứng đầu thị trường hiện thời đã chiếm lĩnh ô 1 qua việc đưa ra sản
phẩm hảo hạng và đề ra mức giá cao nhất, thì doanh nghiệp mới gia nhập, có thể thích
triển khai một trong số những chiến lược khác. Doanh nghiệp mới ấy có thể thiết kế một
sản phẩm có chất lượng cao và đề ra giá trung bình (ô2) thiết kế một sản phẩm chất lượng
trung bình và đề ra một trung bình (ô5) .v..v. Doanh nghiệp cũng phải xem xét qui mô
128
và tốc độ tăng trưởng thị trường trong mỗi ô và các đối thủ cạnh tranh đặc biệt.
5.3.2. Các chiến lược định giá phối thức sản phẩm.
Định giá cho dòng sản phẩm.
Các doanh nghiệp thường triển khai các mặt hàng của một dãy hay tuyến sản
phẩm (product line). Thí dụ hãng Panasonic đưa ra 5 loại máy quay vi deo màu, từ
cái đơn giản nặng 2 kg đến loại phức tạp nặng 2,8 kg gồm hệ thống điều chỉnh ánh
sáng, tiêu cự tự động và ống kính hai tốc độ. Mỗi loại máy nối tiếp trong chuỗi mặt
hàng ấy đều có cống hiến những đặc điểm khác nữa. Các nhà marketing phải quyết
định các bậc giá cho những loại sản phẩm khác nhau ấy.
Các bậc giá ấy cần tính đến những cách biệt về phí tổn giữa các máy ấy, những
đánh giá của khách hàng về các đặc điểm khác nhau và giá cả của các đối thủ cạnh
tranh. Nếu sự sai lệch về giá giữa hai máy kế tiếp nhau mà nhỏ thì người mua sẽ mua
máy tân tiến hơn và điều này sẽ làm tăng lợi nhuận của doanh nghiệp nếu sai biệt về
phí tổn nhỏ hơn sai biệt về giá cả. Nếu sự cách biệt về giá mà cao thì khách hàng sẽ
mua những máy ít tân tiến hơn. Nhiệm vụ của nhà marketing là phải thiết lập được
những sự khác biệt về chất lượng được cảm nhận để góp phần hỗ trợ cho những khác
biệt về giá cả.
Định giá sản phẩm phụ trợ.
Nhiều Công ty có đưa ra bán những sản phẩm tùy khách chọn thêm cùng với
sản phẩm chính. Người mua xe hơi có hể đặt mua thêm bộ phận điện tử điều khiển
cửa xe, bộ phận làm tan dương mù, bộ phận làm dịu ánh sáng.v.v.. Việc định giá
những bộ phẩm tùy chọn là một vấn đề không đơn giản. Các hãng xe hơi phải quyết
định xem những thứ nào hình thành giá cả và những thứ nào sẽ để khách tùy chọn.
Chiến lược định giá của hãng General Motors là quảng cáo một kiểu xe đơn thuần
với giá 8.000 đô la để thu hút khách hàng đến phòng trưng bày và dành hầu hết chỗ
của phòng triển lãm để bày những chiếc xe có đủ thứ kèm theo với giá 10.000 hay
12.000 đôla.
Model tiết kiệm thì bị cắt xén rất nhiều tiện nghi đến nỗi phần lớn người mua
không chuộng nó. Khi hãng GM tung ra loại xe mới có truyền động bánh trước hiệu
J vào mùa xuân 1981, hãng đã đưa vào trong giá một số tiện ích mà trước đây chỉ là
129
những thứ tùy chọn. Giờ đây, giá quảng cáo thường tượng trưng cho một chiếc xe
được trang bị hòan hảo. Tuy nhiên vì giá cao, nhiều khách hàng đã do dự khi mua
sắm xe.
Định giá sản phẩm bổ sung.
Có những sản phẩm được dùng kèm theo với sản phẩm chính. Ví dụ: lưỡi dao
cạo dùng với dao cạo râu, phim dùng cho máy chụp ảnh. Các nhà sản xuất những sản
phẩm chính (dao cạo râu, máy chụp ảnh) thường định giá chúng thấp và dồn mức lời
cao cho những sản phẩm đi kèm. Kodak định giá máy ảnh của mình thấp vì Công ty
kiếm được nhiều lời từ việc bán phim. Các nhà sản xuất máy ảnh mà không bán phim
thì phải định giá máy cao hơn để đạt lợi nhuận mục tiêu.
Định giá sản phẩm phụ.
Trong ngành chế biến thịt, lọc dầu, hóa chất, luyện kim, thường có các sản
phẩm phụ và sau khi xử lý, chúng có những giá trị nhất định. Các sản phẩm phụ trong
ngành chế biến thịt là da, xương, huyết, lòng, tim, gan,… trong ngành lọc dầu là nhựa
đường, dầu nhớt…; trong ngành luyện kim là xi măng xỉ, bê tông xỉ, khí lò cốc, lò
cao..v..v. Khi tìm kiếm được thị trường tiêu thụ cho các sản phẩm phụ này, chúng
cho phép giảm được nhiều chi phí, do đó giảm được giá bán sản phẩm chính khiến
nó có sức cạnh tranh cao hơn.
5.3.3. Các chiến lược điều khiển giá cả.
Các Công ty thường phải điều chỉnh giá bán do những điều kiện, hòan cảnh
môi trờng thay đổi hoặc do các yếu tố liên quan đến hách hàng. Các chiến lược điều
chỉnh giá bao gồm:
Định giá chiết khấu.
Chiết khấu tiền mặt. Chiết khấu tiền mặt là sự giảm giá cho những người mua
nào thanh toán sớm. Một ví dụ tiêu biểu: Nếu người bán ghi là “2/10 net 30” có nghĩa
việc thanh toán được kéo dài trong vòng 30 ngày, nhưng người mua có thể được lợi
2% trên giá nếu thanh toán hóa đơn trong vòng 10 ngày. Những chiết khấu này khá
phổ biến và phục vụ cho mục đích cải thiện thanh toán khỏan của người bán và làm
130
bớt phí tổn thu nợ cũng như lượng nợ khó đòi.
Chiết khấu số lượng là sự giảm giá cho những người mua nhiều. Chiết khấu này
phải được áp dụng cho mọi khách hàng nhằm khích lệ họ mua nhiều nhờ đó giảm
được nhiều phí tổn và tăng được tổng lợi nhuận của Công ty.
Chiết khấu chức năng còn được gọi là Chiết khấu thương mại được nhà sản xuất
giành cho các thành viên trong kênh phân phối nhằm kích thích họ hòan thành tốt các
công việc của họ.
Chiết khấu theo mùa là sự giảm giá cho các khách hàng mua hàng hay dịch
vụ vào màu vắng khách. Ví dụ các khách sạn vùng biển giảm giá phòng vào mùa
đông lạnh.
Định giá theo phân đoạn thị trường
Các Doanh nghiệp thường thay đổi mức giá tùy theo đối tượng mua (trẻ em,
thương binh, sinh viên… thường được giảm giá vé xe lửa, máy bay) hoặc tùy loại bao
bì, cách phục vụ, chỗ ngồi (trong rạp hát, rạp chiếu bóng), theo ngày hay giờ phục
vụ.
Định giá tâm lý.
Ở đây người bán không chỉ lưu tâm đến vấn đề kinh tế mà còn để ý đến khía
cạnh tâm lý học của giá cả nữa. Hãy xem một đầu máy video giá 300 đô la với một
đầu máy cùng loại để giá 299,95 đô la. Chênh lệch thực tế có 5 xu nhưng sự cách biệt
về tâm lý rất lớn. Khách hàng cho máy bán với giá 299,95 đô la là rẻ, nó nằm trong
phạm vi trên 200 đô la chứ không phải phạm vi 300 đôla. Người mua có cảm giác
được mua với giá rẻ hơn sẽ vui hơi, hài lòng hơn.
Định giá để quảng cáo.
Do những hòan cảnh nào đó, các doanh nghiệp sẽ tạm thời định giá sản phẩm
thấp hơn giá niêm yết và thậm chí có lúc thấp hơn cả giá thành. Việc định giá quảng
cáo mang nhiều hình thức:
- Định giá quảng cáo bán giá vốn vào dịp đặc biệt nào đó.
- Hồi khấu tiền mặt gửi trực tiếp đến khách hàng khi mua sản phẩm của Doanh
131
nghiệp. Đây là một công cụ linh hoạt để giải quyết sản phẩm tồn đọng.
- Chiết khấu tâm lý: người bán đề ra một mức giá cao giả tạo cho một sản
phẩm và rồi bán ra với giá thật thấp. Chẳng hạn trước đây giá bán 599 đô a nay
còn 299 đô la.
Định giá theo địa lý
Với những khách hàng ở các miền khác nhau trong nước, Doanh nghiệp phải
định giá như thế nào? Doanh nghiệp nên định giá cao đối với khách hàng ở xa để
trang trải chi phí vận chuyển cao hay nên tính cùng một giá cho khách hàng bất kể ở
đâu. Định giá theo địa dư gồm có:
* Định giá FOB.
Định giá FOB là định giá hàng hoá với điều kiện hàng hoá được giao lên sàn
của phương tiện vận chuyển. Sau đó khách hàng chịu chi phí vận chuyển tiếp đến
điểm đến. Có người cho rằng đây là cách công bằng nhất để phân chia chi phí vận
chuyển. Tuy nhiên Công ty sẽ khó thu hút được các khách hàng ở xa, khi ở đó các
đối thủ cạnh tranh có thể cung cấp cho các sản phẩm tương tự có giá bán bằng hoặc
cao hơn Công ty một chút nhưng khách hàng không chịu chi phí vận chuyển lớn.
* Định giá đồng vận phí.
Ở đây doanh nghiệp đề ra mức giá bán như nhau đối với mọi khách hàng bất kể
họ ở đâu. Lối định giá này tương đối dễ quản lý và cho phép doanh nghiệp duy trì
được mức giá đã được quảng cáo khắp nước.
* Định giá theo vùng
Đây là sự triết trung giữa định giá FOB và định giá đồng vận phí. Mọi khách
hàng trong vùng đều mua với một mức giá như nhau tuy nhiên ở những vùng giáp
ranh sẽ có chênh lệch về giá mặc dù khách hàng ở rất gần nhau.
* Định giá miễn thu vận phí.
Nhà kinh doanh nào quan tâm đến các khách hàng nhiều hơn nhằm cạnh tranh,
họ có thể chịu tòan bộ phí tổn vận chuyển để thu hút khách. Người ta lập luận rằng:
Nếu bán được nhiều hơn, phí tổn bình quân sẽ hạ xuống và bù lại được phần vận phí
phải gánh thêm ấy.
Lối định giá này dùng để xâm nhập thị trường và cũng để đứng trụ được trong
132
những thị trường ngày càng cạnh tranh nhiều hơn.
5.3.4. Những chiến lược điều chỉnh giá.
Chủ động giảm giá
Nhiều hoàn cảnh có thể làm cho một doanh nghiệp phải xét đến chuyện giảm
giá sản phẩm của mình xuống mặc dù điều này có thể gây nên những trận chiến về giá
cả. Một nguyên nhân là sự quá thừa năng lực, Công ty thì cần thêm khách hàng nhưng
không thể đạt dược bằng các biện pháp khác. Từ cuối những năm 70 nhiều doanh
nghiệp đã từ bổ lối định giá theo hãng dẫn đầu và chuyển sang lối định giá linh hoạt.
Có nguyên nhân khác nữa là sự giảm thị phần đáng kể do cạnh tranh mãnh liệt
về giá. Một số ngành công nghiệp Mỹ - xe hơi, điện tử, gia dụng, máy ảnh, đồng hồ
và thép đang mất dần thị phần vào tay các đối thủ cạnh tranh Nhật Bản vì sản phẩm
của Nhật có chất lượng cao lại đang bán với giá rẻ hơn sản phẩm của Mỹ. Gãng
General Motors đã phải giảm giá xe hơi iểu mini của mình xuống 10% ở vùng bờ tây
nơi mà sự cạnh tranh của người Nhật mạnh nhất.
Các doanh nghiệp cũng sẽ chủ động giảm giá trong một chiến dịch nhằm chi
phối thị trường thông qua phí tổn thất. Hoặc doanh nghiệp khởi đầu với phí tổn thấp
hơn đối thủ, hoặc chủ động giảm giá với hy vọng đạt được thị phần là điều sẽ dẫn tới
phí tổn thất khi khối lượng lớn
Chủ động tăng giá
Trong những năm gần đây, nhiều doanh nghiệp đã phải tăng giá lên. Một sự
tăng giá thành công có thể làm tăng lợi nhuận. Nguyên nhân chính của sự tăng giá là
do sự lạm phát chi phí dai dẳng có tính tòan cầu. Mức tăng năng suất không sánh kịp
với vật giá gia tăng đã gậm dần biến tế lợi nhuận, khiến các doanh nghiệp cứ phải
tăng giá lên mãi.
Nhiều doanh nghiệp thường nâng giá cao hơn mức vật giá gia tăng trong sự tiên
đoán rằng sự lạm phát còn cao hơn nữa. Một yếu tố khác dẫn đến chuyện tăng giá là
mức cầu quá độ.
Để tăng giá thành công, doanh nghiệp nên tránh tạo ấn tượng mình là kẻ đục
nước béo cò. Phải hỗ trợ việc tăng giá bằng một chương trình truyền thống, nhằm nói
cho khách hàng biết lý do tăng giá. Các lực lượng bán hàng của doanh nghiệp nên
133
giúp đỡ khách hàng tìm các phương cách tiết kiệm.
Phản ứng của người mua đối với việc thay đổi giá cả
Khách hàng không luôn luôn hiểu đúng về sự thay đổi giá cả. Một sự giảm giá
có thể làm cho khách hàng nghi ngờ: sắp có một model mới thay thế, món hàng có
khuyết điểm gì đó và bán không chạy, chất lượng hàng bị giảm.v.v…
Một sự tăng giá thường làm giảm khối lượng bán ra, có thể có một số ý nghĩa
tích cực đối với người mua: Món hàng bán rất chạy, nếu không mua ngay có thể
không mua được, món hàng có giá trị tốt khác thường.v.v...
Phản ứng của đối thủ cạnh tranh đối với sự thay đổi giá cả.
Các nhà cạnh tranh rất dễ phản ứng với sự thay đổi giá. Làm thế nào Công ty có
thể lường trước được các phản ứng có thể có của các nhà cạnh tranh? Có thể phản
ứng của đối thủ cạnh tranh nằm trong chiều hướng chung của việc thay đổi giá - Như
vậy phản ứng của đối thủ có thẻ lượng trước được. Có thể đối thủ coi sự thay đổi giá
như sự thách đố mới và phản ứng theo quyền lợi riêng của họ. Trong trường hợp này
doanh nghiệp phải xác định xem phần lợi riêng của họ. Trong trường hợp này doanh
nghiệp phải xác định xem quyền lợi riêng của họ là gì? Khi có nhiều nhà cạnh tranh
doanh nghiệp phải dự đoán được phản ứng của mỗi đối thủ.
Đáp ứng với những thay đổi giá cả.
Doanh nghiệp nên đáp ứng thế nào đối với một sự thay đổi giá do đối thủ cạnh
tranh khởi xướng. Doanh nghiệp cần xem xét những vấn đề như tại sao đối thủ thay
đổi giá? Đối thủ lập kế hoạch thay đổi giá tạm thời lâu dài. Điều gì sẽ xảy ra cho thị
phần và lợi nhuận của Doanh nghiệp nếu Doanh nghiệp không phản ứng lại? hay đáp
ứng có thể có của đối thủ sẽ như thế nào?
Trên cơ sở phân tích mục tiêu, chiến lược của đối thủ những mặt mạnh mặt yếu
của họ, độ nhạy của giá cả và giá trị của thị trường Doanh nghiệp cần có những phản
ứng linh hoạt và sáng tạo tùy theo những điều kiện và hòan cảnh cụ thể. Các vấn đề
này chúng ta sẽ tham khảo thêm trong các tình huống, tài liệu đọc thêm và bài tập
được đưa ra dưới đây.
D) CÂU HỎI, BÀI TẬP, NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CỦA
CHƯƠNG 6
134
- Câu hỏi ôn tập:
1. Trình bày nội dung các bước trong quy trình xác định giá bán?
2. Phân tích mối quan hệ giữa cầu và giá bán?
3. Phân tích các yếu tố thuộc nội bộ doanh nghiệp ảnh hưởng đến quyết định giá bán?
4. Phân tích nội dung và điều kiện áp dụng các chiến lược giá của doanh nghiệp
- Câu hỏi thảo luận: Tại sao nói quyết định về giá lại nhạy cảm và phức tạp
CHƯƠNG 6 : QUẢN TRỊ KÊNH PHÂN PHỐI
(Số tiết: 6 (Lý thuyết: 5 tiết, bài tập, thảo luận: 01 tiết)
A) MỤC TIÊU:
- Kiến thức:
+ Nắm được khái niệm, vai trò, các thành viên của kênh phân phối;
+ Hiểu và phân tích được các dạng kênh phên phối:
+ Nắm được các các quyết định trong quản trị kênh phân phối;
+ Biết thiết kế các hệ thống phân phối trong DN;
+ Biết quản trị hệ thống phân phối trong DN;
- Kỹ năng:
+ Sinh viên có kỹ năng phân tích, ra quyết định các vấn đề liên quan đến kênh
phân phối như: giải quyết các mâu thuẫn trong kênh phân phối, ra quyết định trong
quản trị kênh phân phối...
+ Kỹ năng làm việc nhóm, kỹ năng thuyết trình, kỹ năng phản biện...
- Mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm:
+ Nhận thức được tầm quan trọng của kênh phân phối trong hoạt động kinh
doanh và marketing của doanh nghiệp;
+ Chủ động nghiên cứu tài liệu học tập, thực tiễn;
+ Tích cực, chủ động phát huy vai trò của mình khi tham gia hoạt động nhóm;
+ Say mê tìm hiểu, khám phá kiến thức, kĩ năng mới.
B) TÀI LIỆU HỌC TẬP
- PGS.TS. Trương Đình Chiến- Quản trị marketing - NXB Đại học Kinh tế
135
quốc dân, năm 2017 {tr373-tr411}
C) NỘI DUNG:
6.1. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA KÊNH PHÂN PHỐI
6.1.1. Vai trò của trung gian thương mại
Giới trung gian marketing, qua những tiếp xúc, kinh nghiệm, sự chuyên môn
hóa và quy mô hoạt động của họ đã đem lại cho nhà sản xuất nhiều điều lợi hơn so
với việc nhà sản xuất tự phân phối. Sử dụng giới trung gian phân phối có thể đem lại
những sự tiết kiệm khá lớn (hình 6.1)
Ký hiệu quy ước: SX: Nhà sản xuất
KH: Khách hàng
Hình 6.1: Trung gian phân phối có thể đem lại sự tiết kiệm như thế nào
Như hình vẽ cho thấy: Bốn nhà sản xuất trực tiếp làm marketing để phân phối
cho bốn khách hàng đòi hỏi tới 16 lần tiếp xúc. Nhưng nếu sử dụng trung gian phân
136
phối số lần tiếp xúc giảm xuống chỉ còn 8.
6.1.2. Các loại kênh marketing
Hình 6.2. Các loại kênh marketing
Kênh trực tiếp không có trung gian, nhà sản xuất bán hàng thẳng cho người tiêu
dùng. Có ba cách bán hàng trực tiếp: Bán đến từng nhà, bán tại cửa hàng giới thiệu
sản phẩm và bán theo thư hoặc điện thoại đặt hàng
Kênh 1 cấp chỉ có một trung gian bán hàng trong thị trường hàng tiêu dùng, đó
là người bán lẻ. Trong thị trường hàng công nghiệp, đó là người môi giới hay đại diện
bán hàng.
Kênh 2 cấp có 2 trung gian marketing. Trong thị trường hàng tiêu dùng, đó
thường là nhà bán sỉ và bán lẻ. Trong thị trường kỹ nghệ thì đó là bộ phận phân phối
của công ty và các nhà buôn.
Kênh 3 cấp có 3 trung gian phân phối. Thí dụ: Trong ngành nước ngọt, rượu bia
có thể có thêm tổng đại lý hay đại lý bán buôn-người bán sỉ và người bán lẻ.
6.1.3. Các chức năng của kênh marketing
Điều nghiên
Cổ động
Tiếp xúc
Phân chia, đóng gói, phân loại hàng hóa.
137
Thương lượng
Tài trợ.
Chịu may rủi.
6.2. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA KÊNH
6.2.1 Hoạt động của kênh phân phối:
Một kênh phân phối là một sự liên kết các cơ sở khác nhau lại vì lợi ích chung.
Mỗi thành viên trong đường dây đều dựa vào những thành viên khác. Các nhà phân
phối xe Ford dựa vào công ty Ford để có được những chiếc xe thiết kế và chế tạo tốt,
đáp ứng được nhu cầu của khách. Công ty Ford thì lại dựa vào các nhà phân phối để
thu hút khách hàng, thuyết phục họ mua xe Ford và cung cấp các dịch vụ sau khi họ đã
mua. Sự thành công của mỗi nhà phân phối xe Ford cũng phụ thuộc vào việc toàn bộ
đường dây của hãng có cạnh tranh giỏi với đường dây của các hãng xe hơi khác không?
Mỗi thành viên trong đường dây giữ một vai trò riêng và chuyên thực hiện một
hay nhiều chức năng. Vai trò của hãng IBM là sản xuất ra những máy tính cá nhân
hấp dẫn khách hàng và tạo ra sức cầu qua quảng cáo rộng rãi toàn quốc. Vai trò của
cửa hàng chuyên doanh máy tính là trưng bày máy tại những vị trí thuận lợi, trả lời
thắc mắc của khách hàng muốn mua, ký kết thương vụ và cung cấp dịch vụ cho khách.
Đường dây sẽ có hiệu quả nhất khi từng thành viên được giao nhiệm vụ mà họ có thể
làm tốt nhất.
Vì sự thành công của các cá nhân thành viên tuỳ thuộc vào thành công của cả
đường dây, nên mọi cơ sở trong đường dây đều phải hiểu vào chấp nhận phần việc
riêng của mình, phối hợp mục tiêu và hoạt động của mình với mục tiêu và hoạt động
của các thành viên khác và phối hợp để hoàn thành mục tiêu của đường dây. Bằng sự
hợp tác, họ có thể nắm bắt, cung ứng và thỏa mãn thị trường mục tiêu tốt hơn.
Để toàn bộ đường dây hoạt động tốt, cần chuyên môn hóa vai trò của từng thành
viên và các xung đột và nếu có các xung đột thì phải được điều giai hữu hiệu. Sự hợp
tác, chuyên môn hóa và xung đột trong đường dây chỉ thực hiện được với một cấp
lãnh đạo vững mạnh. Đường dây sẽ hoạt động tốt hơn nếu có một guồng máy điều
hành có quyền lực, phân chia lực lượng hợp lý trong đường dây, biết cách phân nhiệm
138
vụ và phân giải xung đột một cách khoa học.
6.2.2. Tổ chức kênh phân phối
Trước đây, các kênh phân phối là tập hợp ngẫu nhiên, các thành viên độc lập về chủ
quyền vào quản lý, đồng thời mỗi thành viên ít quan tâm tới hoạt động của cả kênh.
Sự phát triển của hệ thống marketing dọc VMS (Vertical Marketing System)
Một hệ thống marketing dọc VMS hoạt động như một thể thống nhất, gồm các
nhà sản xuất, nhà bán sỉ và nhà bán lẻ. Hoặc thành viên này là chủ của thành viên
khác hoặc cho họ độc quyền kinh tiêu hoặc có quyền lực mạnh đến nỗi các thành viên
kia phải hợp tác. Một VMS có thể do một nhà sản xuất, một nhà bán lẻ hay một nhà
bán sỉ thống trị. VMS xuất hiện nhằm kiểm soát hoạt động của kênh và điều giải xung
đột do mỗi thành viên chỉ chạy theo lợi ích riêng của mình.
So sánh kênh marketing thông thường với hệ thống marketing dọc được trình
bày trong hình 6.3
139
Hình 6.3. So sánh kênh marketing thông thường với hệ thống marketing dọc
VMS
VMS tập đoàn
VMS hợp đồng
VMS được quản lý
Chuỗi tình nguyện do nhà bán buôn đảm bảo
Nhượng quyền KD
Tổ chức hợp tác bán lẻ
Hình 6.4. Hệ thống marketing dọc (VMS-Vertical Marketing System)
Sự phát triển của hệ thống marketing đa kênh
Các doanh nghiệp cũng ứng dụng những hệ thống marketing đa kênh để vươn
tới cùng một thị trường hay những thị trường khác nhau. Chẳng hạn, ở Mỹ công ty
General Electric vừa phân phối sản phẩm cho các nhà buôn độc lập, vừa bán thẳng
cho các nhà thầu xây dựng lớn. Ở Việt Nam, công ty nước giải khát IBC vừa phân
phối cho các nhà buôn độc lập, vừa phân phối cho các điểm HOREKA (Hotel,
Restaurant, Karaoke).
Nhà PP BL
NTD
Công ty Rượu Voka Men
-
- Nhà hàng - Quán Karaoke - Hotel
140
Hình 6.5: Cấu trúc kênh phân phối của Công ty rượu Voka Men
6.3. HOẠCH ĐỊNH VÀ QUYẾT ĐỊNH KÊNH PHÂN PHỐI
Hoạch định kênh phân phối đòi hỏi phải định ra các mục tiêu, ràng buộc, xác
định những chọn lựa về kênh và đánh giá chúng.
6.3.1. Thiết lập các mục tiêu và các ràng buộc
Việc hoạch định một kênh phân phối hiệu quả bắt đầu bằng sự định rõ cần phải
vươn tới thị trường nào với mục tiêu nào? Các mục tiêu có thể là mức phục vụ khách
hàng tới đâu và các trung gian phải hoạt động như thế nào? Những ràng buộc của
kênh bao gồm: đặc điểm của người tiêu thụ. Đặc điểm về sản phẩm, đặc điểm của
giới trung gian (tiếp cận, thương thảo, quảng cáo, lưu kho...), đặc điểm của môi trường
và đặc điểm của công ty (quy mô, khả năng tài chính, chiến lược marketing.
Xác định những lựa chọn chủ yếu bao gồm Các kiểu trung gian marketing, số
lượng trung gian (phân phối rộng rãi, tổng kinh tiêu, phân phối chọn lọc) và quyền
hạn và trách nhiệm của các thành viên trong kênh.
Đánh giá những lựa chọn kênh. Giả sử một nhà sản xuất muốn cho ra một kênh
thỏa mãn tốt nhất những mục tiêu dài hạn của Doanh nghiệp. Nhà kinh doanh cần phải
đánh giá kênh theo các tiêu chuẩn kinh tế, tính thích nghi và tính dễ kiểm soát.
Những quyết định về kênh phân phối đòi hỏi sự lựa chọn và kích thích từng cá
nhân trung gian và đánh giá hoạt động của các thành viên trong kênh.
6.3.2. Tuyển chọn thành viên của kênh
Công ty phải biết thu hút các trung gian có chất lượng cho kênh dự định. Những
trung gian tốt cần có những đặc điểm gì? Đó là khả năng am hiểu và quan hệ tốt đối
với khách hàng, thâm niên và kinh nghiệm, khả năng hợp tác, hiệu quả và uy tín trong
kinh doanh. Đôi khi còn đánh giá về địa điểm kinh doanh, khả năng phát triển trong
tương lai.
6.3.3. Kích thích thành viên của kênh
Giới trung gian phải được thường xuyên kích thích để làm việc tốt hơn. Công
ty cần phải hiểu được nhu cầu và ước muốn của họ. Có 3 kiểu tiếp cận với giới trung
gian: hợp tác, tạo dựng quan hệ hợp tác và lập chương trình phân phối
- Sự hợp tác được kích thích bằng mức lời cao, tiền thưởng, trợ cấp quảng cáo,
141
trợ cấp trưng bày hàng, thi đua doanh số.
- Tạo dựng quan hệ hợp tác thể hiện cách làm ăn lâu dài, vì lợi ích chung đối
với nhà phân phối.
- Lập chương trình phân phối là kiểu thỏa thuận tiến bộ nhất. Hai bên cùng vạch ra
mục tiêu kinh doanh, kế hoạch tiêu thụ, kế hoạch quảng cáo, khuyến mại. Công ty đã
biến các nhà phân phối từ cách nghĩ ở phía người mua chuyển sang cách nghĩ, làm ăn ở
phía người bán. Họ là một bộ phận trong hệ thống marketing dọc VMS của công ty.
6.3.4. Đánh giá các thành viên của kênh
Nhà sản xuất phải định kỳ đánh giá hoạt động của người trung gian theo những tiêu
chuẩn như định mức doanh số đạt được, mức độ lưu kho trung bình, thời gian giao hàng
cho khách, cách xử lý hàng hóa thất thoát hoặc hư hỏng, mức hợp tác trong các chương
trình quảng cáo và huấn luyện của công ty và những dịch vụ họ phải làm cho khách.
Mức doanh số đạt được của các trung gian có thể được so sánh với mức họ đã
đạt được trong thời kỳ trước đó. Tỷ lệ tăng tiến trung bình của cả nhóm có thể dùng
như một tiêu chuẩn để đánh giá.
6.4. TỔ CHỨC HỆ THỐNG BÁN LẺ
Bán lẻ là tất cả những hoạt động có liên quan đến việc bán hàng hóa hay dịch vụ
trực tiếp cho người tiêu dùng để họ sử dụng cho bản thân chứ không phải để kinh doanh.
Bán lẻ là một ngành quan trọng. So với các cơ sở sản xuất và bán sỉ, họ đông
gấp 7 lần và là nguồn cung cấp việc làm rất lớn. Các nhà bán lẻ ở Mỹ đạt doanh số
tới hàng ngàn tỉ đô la. Mười hãng, bán lẻ hàng đầu đã đạt doanh số từ 8 tỷ đến 40 tỷ
đô la hàng năm. Các hình thức bán lẻ rất phong phú và đa dạng.
6.4.1. Theo mức độ phục vụ
- Bán lẻ tự phục vụ
- Bán lẻ phục vụ có giới hạn
- Bán lẻ phục vụ toàn phần
6.4.2. Theo mặt hàng kinh doanh
- Cửa hàng chuyên doanh
- Cửa hàng bách hóa
- Các siêu thị và đại siêu thị
142
- Các cửa hàng thực phẩm tiện dụng
6.4.3. Theo giá bán
- Cửa hàng chiết khấu. Các cửa hàng này bán hàng đạt tiêu chuẩn với giá thấp.
Họ chấp nhận mức lời thấp nhưng khối lượng bán ra lớn.
- Cửa hàng kho (bán số lượng lớn với giá hạ).
6.4.4. Bán lẻ không dùng cửa hiệu
- Bán qua bưu điện
- Bán qua catalog
- Bán qua điện thoại
- Bán hàng bằng máy bán hàng tự động
- Bán lẻ tận nhà
6.4.5. Cửa hàng chuỗi (Chain Store)
Cửa hàng chuỗi là một trong số những phát triển quan trọng nhất của hoạt động
bán lẻ của thế kỷ này. Đó là cửa hàng có hai hay nhiều hiệu bán lẻ cùng chung một
sở hữu và kiểm soát bán những mặt hàng giống y như nhau, việc mua bán có tính chất
tập quyền và có thể có kiểu kiến trúc cửa hiệu y hệt nhau. Chuỗi công ty có cùng
chung sở hữu và kiểm soát, có kiến trúc với phong cách đồng nhất để làm nổi bật mỗi
cửa hàng đơn vị và giúp khách hàng dễ nhận ra hơn. Chuỗi doanh nghiệp có lợi thế
hơn các cửa hàng độc lập nhờ khả năng có thể bán giá hạ và tiêu thụ được khối lượng
lớn hàng hóa.
6.4.6. Hợp tác xã tiêu thụ
Là tổ chức bán lẻ của chính khách hàng. Những người cư trú chung trong một
cộng đồng có thể lập một hợp tác xã tiêu thụ khi họ cảm thấy những hiệu bán lẻ ở địa
phương lời quá cao hoặc cung cấp hàng kém phẩm chất hay mặt hàng nghèo nàn.
Những người dân này góp tiền lại để mở ra cửa hàng riêng của họ và biểu quyết về
mọi đường lối hoạt động cũng như chọn lựa các quản trị viên. Cửa hàng có thể bán
giá thấp hơn hoặc bán giá như bình thường và chia lời cho các xã viên dựa trên mức
mua hàng của họ.
6.4.7. Tổ chức độc quyền kinh tiêu
Một tổ chức độc quyền kinh tiêu là một sự liên kết theo hợp đồng giữa bên ký phát
143
đặc quyền (Franchiser) và bên được nhượng đặc quyền (Franchisees) - Những thương
gia độc lập muốn mua quyền sở hữu và quyền kinh doanh một hoặc nhiều đơn vị
thuộc hệ thống đặc quyền.
Người ký phát độc quyền kinh tiêu sẽ nhận được nhiều khoản lợi như: phí gia
nhập, tiền bản quyền tính theo doanh số, lệ phí cho thuê trang thiết bị được chia một
phần lớn.
Ví dụ: Hãng Mc. Donald thu lệ phí gia nhập 150.000 đô la cho mỗi người được
nhượng đặc quyền; lệ phí bản quyền là 3%, lệ phí thuế mướn trang thiết bị là 8,5%
doanh số của người mua đặc quyền. Công ty còn buộc họ phải tới học ở Hamburger
University trong 3 tuần lễ để biết cách kinh doanh ra sao.
6.5. TỔ CHỨC HỆ THỐNG BÁN SỈ
Bán sỉ bao gồm tất cả các hoạt động nhằm bán hàng hóa và dịch vụ cho người
mua và để bán lại hoặc để kinh doanh. ác nhà bán sỉ, giao dịch chủ yếu đối với khách
hàng buôn bán hơn là khách tiêu dùng trực tiếp. Họ chủ yếu mua hàng từ nhà sản
xuất, bán cho người bán lẻ, cho các cơ sở kỹ nghệ và các nhà bán sỉ khác.
Nhà bán sỉ thực hiện nhiều chức năng bao gồm việc bán hàng và quảng cáo,
mua hàng và làm công việc phân phối, bốc dỡ hàng với khối lượng lớn, tồn kho,
chuyên chở, tài trợ, chấp nhận rủi ro, cung ứng tin tức thị trường, cung cấp các dịch
vụ về quản trị và làm tư vấn. Giới bán sỉ thường được phân phối thành bốn nhóm:
6.5.1. Nhà bán sỉ thương nghiệp
Nắm quyền sở hữu hàng hóa. Nhóm này gồm các nhà bán sỉ phục vụ toàn phần
(thương nhân bán sỉ, nhà phân phối - kinh tiêu kỹ nghệ) và các nhà bán sỉ phục vụ
giới hạn (bán sỉ tiền mặt tự chở, nhà bán sỉ bỏ mối trung gian trực tiếp giao hàng, nhà
bán sỉ ký gởi và bán sỉ theo đơn đặt hàng).
6.5.2. Các nhà môi giới và đại lý
Họ không sở hữu hàng hóa và chỉ thực hiện chức năng môi giới tạo thuận lợi
cho việc mua và bán, qua đó họ được hưởng hoa hồng từ 2 - 6% trên giá bán. Điển
hình của giới này là các nhà môi giới thực phẩm, địa ốc, bảo hiểm và chứng khoán.
Các đại lý thường có nhiều dạng: đại lý của nhà sản xuất (đại lý bán sỉ), các đại lý
144
tiêu thụ, đại lý thu mua và nhà buôn ăn hoa hồng.
6.5.3. Chi nhánh và văn phòng của nhà sản xuất
Văn phòng giao dịch và chi nhánh bán hàng của nhà sản xuất được thành lập để
thực hiện các công việc bán hàng, quảng cáo và kiểm tra hàng tồn kho. Những chi
nhánh bán hàng này thường có trữ hàng và thường hoạt động trong nhiều ngành trang
thiết bị, phụ tùng xe hơi, tạp hóa, hàng khô.
6.5.4. Các nhà bán sỉ tạp loại
Gồm các nhà bán sỉ kinh doanh nhiều loại mặt hàng khác nhau kể cả các đại lý
đầu mối xăng dầu, bán và giao hàng đến tận từng cây xăng, các công ty đấu giá…
Trong hoạt động kinh doanh hiện nay, các nhà bán sỉ tiến bộ đang thích ứng các
hoạt động, dịch vụ theo nhu cầu khách hàng và tìm kiếm những phương pháp giảm
chi phí của việc giao dịch.
6.6. TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG BÁN HÀNG
Công việc tổ chức và quản trị nhân viên bán hàng là phân tích, lập kế hoạch,
thực hiện và kiểm tra những hoạt động bán hàng. Nó bao gồm việc thiết lập mục tiêu,
chiến lược cho nhân viên bán hàng, tuyển dụng, chọn lựa, huấn luyện, giám sát và
đánh giá những đại diện bán hàng của công ty.
Nhân viên bán hàng phải thăm dò, tìm kiếm và vun trồng các khách hàng mới.
Họ phải truyền đạt khéo léo những thông tin về sản phẩm và dịch vụ của công ty. Nhân
viên bán hàng phải biết nghệ thuật bán hàng bao gồm: tiếp cận, giới thiệu trả lời những
cự tuyệt và kết thúc việc bán. Họ cũng cung cấp dịch vụ cho khách hàng - cố vấn, trợ
giúp kỹ thuật, thu xếp việc, tài trợ và giao hàng. Nhân viên bán hàng còn phải làm công
việc điều nghiên và tình báo về thị trường và làm những báo cáo về giao dịch. Họ cũng
tiến hành điều phối hàng hóa khan hiếm trong thời kỳ sản xuất thiếu.
Nhân viên bán hàng nên dành 80% thời gian cho khách hàng hiện tại và 20%
cho khách hàng tương lai và dành 85% cho những sản phẩm đã ổn định 15% cho
những sản phẩm mới. Nhân viên bán hàng phải biết cách tạo thỏa mãn cho khách và
tạo lợi nhuận cho công ty. Họ phải biết cách phân tích dữ liệu về tiêu thụ, đo lường
tiềm năng thị trường thu nhặt tin tức thị trường và triển khai những chiến lược cùng
145
kế hoạch marketing.
Cốt tủy của một hoạt động bán hàng thành công là phải có một đội ngũ nhân
viên bán hàng giỏi. Phải biết tuyển chọn họ. Họ phải là người có thói quen theo đuổi,
luôn luôn có nhu cầu phải chiến thắng và tác động được đến người khác. Đó cũng là
những người dám nhận rủi ro để đạt được mục đích, biết gắn bó chặt chẽ mình với
khách hàng. Họ coi trọng lợi ích của khách hàng, xem mình là bạn, là đồng đội với
khách hàng hơn là đối thủ.
Các nhân viên bán hàng cần được đào tạo, huấn luyện một cách cẩn thận và có
hệ thống. Họ cần biết thăm dò, đánh giá, tiếp cận với khách hàng, biết cách trình bày
giới thiệu hàng hóa, biết cách xử lý tình huống. Người bán hàng cần được huấn luyện
kỹ về kỹ năng thương thảo, cách kết thúc một thương vụ, biết cách hướng dẫn sử
dụng, lắp đặt và thực hiện hoàn hảo các dịch vụ cho khách hàng.
Nhân viên bán hàng cần được giám sát, khuyến khích và động viên liên tục để
nâng cao hiệu quả hoạt động của họ. Người bán hàng càng được động viên kích thích
tốt thì càng tận tụy với công việc và kết quả càng tốt hơn - khi đó họ có thể được
thưởng nhiều hơn, do đó vui lòng hơn và lại càng hăng hái, cố gắng.
D) CÂU HỎI, BÀI TẬP, NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CỦA
CHƯƠNG 6
- Câu hỏi ôn tập: 1. Bản chất của kênh phân phối và vai trò của kênh phân phối?
2. Tại sao nội dung về các dòng chảy trong kênh lại cần thiết cho người quản
lý kênh?
3. Phân biệt cấu trúc kênh phân phối và cấu trúc bổ trợ?
4. Phân tích mối quan hệ giữa tổ chức lực lượng bán hàng với quản trị kênh
phân phối?
5. Phân tích đặc điểm các hoạt động của kênh phân phối liên kết dọc? 6. Phát triển các tiêu chuẩn lựa chọn thành viên kênh? 7. Trình bày các vấn đề cưo bản của hoạt động phân phối vật chất? 8. Các tổ chức bán buôn và bán lẻ?
9. Tổ chức lực lượng bán hàng? - Câu hỏi thảo luận: Xây dựng hệ thống phân phối cho 1 sản phẩm của một
146
DN mà anh (chị) biết
CHƯƠNG 7: QUẢN TRỊ XÚC TIẾN
(Số tiết: 4 (Lý thuyết: 3 tiết, bài tập, thảo luận: 01 tiết)
A) MỤC TIÊU:
- Kiến thức:
+ Nắm được các yếu tố ảnh hưởng tới quá trình truyền thông;
+ Tiến trình thực hiện truyền thông hiệu quả;
+ Biết được các công cụ truyền thông và cách tổ chức hoạt động truyền thông
hiệu quả: Quảng cáo, PR, Khuyến mại, Marketing trực tiếp, Bán hàng cá nhân;
- Kỹ năng:
+ Kỹ năng ra quyết định quản trị liên quan đến xúc tiến;
+ Kỹ năng làm việc nhóm, thuyết trình;
- Mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm:
+ Nhận thức được tầm quan trọng của các công cụ xúc tiến;
+ Chủ động tìm hiểu các quy định luật pháp liên quan đến công cụ xúc tiến:
quảng cáo, khuyễn mãi
+ Tích cực, chủ động phát huy vai trò của mình khi tham gia hoạt động nhóm;
+ Say mê tìm hiểu, khám phá kiến thức, kĩ năng mới.
B) TÀI LIỆU HỌC TẬP
PGS.TS. Trương Đình Chiến- Quản trị marketing - NXB Đại học Kinh tế quốc
dân, năm 2017 {tr412-tr452 ; tr453-tr473}
C) NỘI DUNG:
7.1. KHÁI NIỆM VỀ PHỐI THỨC TRUYỀN THÔNG
Phối thức truyền thông marketing ngày nay của các công ty còn được gọi là phối
thức truyền thông cổ động (promotion mix) bao gồm sự kết hợp giữa các công cụ sau:
- Quảng cáo: Là bất kỳ hình thức giới thiệu gián tiếp và khuyếch trương các ý
tưởng, hàng hoá hoặc dịch vụ, do một tổ chức hoặc một người nào đó muốn quảng
cáo chi tiền để thực hiện.
- Khuyến mại, bán hàng: là những kích thích ngắn hạn nhằm khyến khích việc
147
mua sản phẩm hoặc dịch vụ.
- Bán hàng cá nhân: là các tương tác trực tiếp với một hoặc nhiều khách hàng tiềm
năng nhằm mục đích giới thiệu, trả lời các câu hỏi và tìm kiếm các đơn đạt hàng
- Quan hệ công chúng là các chương trình được thiết kế để cổ động hoặc bảo vệ
hình ảnh của công ty hoặc các sản phẩm của công ty.
- Marketing trực tiếp: Sử dụng thư, điện thoại, fax, email hoặc internet để truyền
thông trực tiếp với hoặc xin câu trả lời trực tiếp từ những khách hàng cụ thể.
Tòan bộ các hoạt động xúc tiến trên phải được phối hợp để đạt tác dụng truyền
thông tối đa tới người tiêu dùng.
Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình truyền thông
Hiệu năng của các công cụ xúc tiến thay đổi tùy theo thị trường. Trong thị trường
hàng tiêu dùng, quảng cáo được xem là công cụ quan trọng nhất. Trong thị trường hàng
công nghiệp, vị trí quan trọng nhất thuộc về chào hàng và bán hàng cá nhân. Các hoạt động
xúc tiến hỗn hợp chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của việc công ty chọn chiến lược đẩy hay chiến
lược kéo để tiêu thụ sản phẩm của mình (Xem Hình 7 –1)
Chiến lược đẩy đòi hỏi doanh nghiệp quảng cáo, khuyến mại tốt đối với giới
buôn bán để đẩy sản phẩm đi qua các trung gian phân phối. Nhà sản xuất quảng cáo
sản phẩm một cách năng động đến các nhà bán sỉ, các nhà bán sỉ quảng cáo năng
động đến các nhà bán lẻ, các nhà bán lẻ quảng cáo năng động đến người tiêu dùng để
đẩy hàng hóa đến với họ.
Chiến lược kéo đòi hỏi chi phí chiêu thị nhiều và hoạt động chiêu thị năng động
đối với người tiêu dùng để tạo nên nhu cầu tiêu thụ. Nếu có hiệu quả, người tiêu dùng
sẽ hỏi mua sản phẩm ở các nhà bán lẻ, các nhà bán lẻ sẽ hỏi mua ở các nhà bán sỉ,
148
các nhà bán sỉ sẽ hỏi mua ở các nhà sản xuất.
NSX
NSX
quảng bá
Người bán sỉ
Người bán sỉ
quảng bá
á b
Người bán lẻ
Người bán lẻ
g n ả u Q
quảng bá
NTD
NTD
Chiến lược đẩy (Push Strategy) Chiến lược kéo (Pull Strategy)
Hình 7.1: Các chiến lược trong xúc tiến hỗn hợp
Một số Công ty nhỏ sản xuất hàng kỹ nghệ chỉ sử dụng chiến lược đẩy. Một số
Công ty chỉ dùng chiến lược kéo. Hầu hết cá Công ty lớn sử dụng phối hợp giữa đẩy
và kéo. Thí dụ, hãng Procter & Gamble quảng cáo bằng phương tiện truyền thông đại
chúng để lôi kéo khách hàng cho các sản phẩm của hãng rồi sử dụng một lực lượng
bán hàng lớn cũng như các cuộc cổ động thương mại để đẩy các sản phẩm đi qua các
trung gian marketing.
Tiến trình truyền thông
Mô tả truyền thông giải đáp: ai, nói gì, trong kênh nào, cho ai, hiệu quả như thế
nào, Truyền thông liên quan đến 9 yếu tố được trình bày trong hình 7 - 2. Hai yếu tố
thể hiện các bên chủ yếu tham gia truyền thông là người gửi và người nhận. Hai yếu
tố là những công cụ truyền thông chủ yếu, tức là thông điệp và các phương tiện truyền
thông. Bốn yếu tố khác nữa là những chức năng truyền thông chủ yếu, gồm mã hóa,
giải mã, phản ứng đáp lại và thông tin phản hồi. Yếu tố cuối cùng là nhiễu trong hệ
thống, các yếu này được định nghĩa như sau
Người gửi: là bên gửi thông điệp cho bên còn lại (còn được gọi là nguồn
truyền thông)
Mã hóa: là tiến trình chuyển ý tưởng thành biểu tượng
149
Thông điệp: tâp hợp các biểu tượng mà bên gởi truyền đi
Phương tiện truyền thông: gồm các kênh truyền thông qua đó thông điệp truyền
đi từ người gửi đến người nhận.
Giải mã: là tiến trình người nhận quy ý nghĩa cho các biểu tượng do người gửi
truyền đến.
Người nhận: là bên nhận thông điệp do bên kia gửi đến.
Đáp ứng: là tập hợp những phản ứng mà người nhận có được sau khi tiếp nhận
thông điệp.
Phản hồi: là một phần sự đáp ứng của người nhận được thông tin trở lại cho
người gửi
Nhiễu tạp: là những yếu tố làm sai lệch thông tin trong quá trình truyền thông,
dẫn đến kết quả là người nhận nhận được một thông điệp không giống thông điệp
Mã hóa
Thông điệp
Giải mã
Người nhận
được gởi đi.
Phương tiện
Nhiễu tạp
Phản hồi
Đáp ứng
Người gửi
Hình 7.2: Quá trình truyền thông
Để thông điệp hiệu quả, quá trình mã hoá của người gửi phải khớp với quá trình
giải mã của người nhận. Do vậy, những thông điệp tốt nhất bao gồm những từ ngữ và
các biểu tượng khá quen thuộc với người nhận. Kinh nghiệm người gửi càng giống
với thông điệp người nhận thì càng hiệu quả hơn. Các nhà truyền thông marketing
không phải luôn luôn chia sẽ cùng một kinh nghiệm marketing với khách hàng. Tuy
nhiên, để truyền thông hiệu quả, các nhà truyền thông marketing phải hiểu lĩnh vực
kinh nghiệm của khách hàng..
Mô hình này chỉ ra một số nhân tố cơ bản trong truyền thông tốt. Người gửi
150
phải hiểu những gì công chúng muốn đạt được và những đáp ứng mà minh muốn. Họ
phải làm tốt trong việc mã hoá thông điệp có tính đến việc công chúng mục tiêu giải
mã chúng như thế nào. Họ phải gửi những thông điệp qua phương tiện truyền thông
nhằm tiếp cận với công chúng và họ phải phát triển kênh phản hồi nhằm có thể đánh
giá các đáp ứng của người nhận về thông điệp.
7.2. PHÁT TRIỂN CHIẾN LƯỢC TRUYỀN THÔNG HIỆU QUẢ
7.2.1 Định dạng công chúng mục tiêu
Cần xác định được đâu là khán thỉnh giả mục tiêu. Khán thính giả có thể là
những khách mua tiền tàng của sản phẩm của Doanh nghiệp, những người đang sử
dụng sản phẩm, những người quyết định mua hoặc có ảnh hưởng đến quyết định mua.
Khán thính giả mục tiêu có ảnh hưởng quan trọng đến các quyết định truyền thống
của Doanh nghiệp. Đó là các quyết định:
- Nói cái gì?
- Nói như thế nào?
- Nói khi nào?
- Nói ở đâu ?
- Nói với ai?
7.2.2 Xác định mục tiêu truyền thông
Sau khi xác định khán thính giả mục tiêu, Doanh nghiệp phải xác định xem sẽ
có những đáp ứng nào. Dĩ nhiên đáp ứng tối hậu là việc mua hàng. Nhưng hành vi
mua là kết quả của một tiến trình dài thuộc quyết định mua hàng của người tiêu thụ.
Nhà marketing cần phải biết khán giả mục tiêu đang đứng ở đâu và cần đưa họ đến
trạng thái nào? Khán thính giả mục tiêu có thể đang ở bất kỳ một trong sáu trạng thái
sẵn sàng của người mua. Đó là Biết – Hiểu – Thích – Chuộng – Tin và Mua.
- Biết (Awareness).
Cần phải nắm được việc khán thính giả mục tiêu biết đến sản phẩm hay doanh
nghiệp của mình như thế nào? nếu họ chưa biết thì phải làm cho họ biết, bằng những
thông điệp giản đơn lặp lại nhiều lần. Công viẹc này đòi hỏi tốn thời gian.
- Hiểu (Knowledge).
Khán thính giả mục tiêu có thể biết về sản phẩm hoặc Công ty nhưng lại không
151
hiểu ý. Cần làm cho họ hiểu về Công ty: Nhiệm vụ, mục tiêu và các sản phẩm của nó.
- Thích (Liking)
Nếu khán thính giả đã hiểu về sản phẩm, họ có cảm nghĩ gì về sản phẩm đó
(Ghét, khong thích, thích). Nếu có sự không thích do những khuyến khuyết của sản
phẩm của Công ty thì cần phải cải tiến hòan thiện sản phẩm sau đó mới truyền thông
về chất lượng sản phẩm. Cần phải có “sản phẩm tốt đi trứơc lời nói tốt”.
- Chuộng (Preference).
Khán thính giả mục tiêu có thể thích sản phẩm nhưng lại không ưa chuộng nó
hơn những sản phẩm khác. Cần cóo gắng xây dựng sự ưa chuộng sản phẩm nơi khách
hàng. Cần đưa ra những lời rao cụ thể về chất lượng, giá cả, tính năng và những thuộc
tính khác của sản phẩm. Nên kiểm tra mức độ ưa chuộng của khách hàng sau chiến
dịch đó.
- Tin (Conviction).
Khán thính giả có thể ưa chuộng sản phẩm nhưng chưa chắc đã mua. Cần tạo ra
một niềm tin vững chắc là sản phẩm đó có thể có nhiều lợi ích, đáp ứng những nhu
cầu, đòi hỏi của người tiêu dùng.
- Mua (Purchase)
Khi khán thính giả đã có lòng tin, cần phải dẫn họ đến bước cuối cùng. Chẳng
hạn mời khách hàng dùng thử, bán với giá rẻ, có tặng thưởng hoặc báo cho họ biết
sản phẩm sắp hết.
Sáu trạng thái trên được rút gọn lại thành ba giai đoạn sau:
- Nhận thức (biết, hiểu)
- Cảm thụ (thích, chuộng, tin)
- Hành vi (mua)
Khách hàng phải trải qua 3 giai đoạn trên để đi đến việc mua. Cần xác định xem
người tiêu dùng đang ở giai đoạn nào và triển khai một chiến dịch truyền thông hữu
hiệu để đưa họ đến giai đoạn tiếp theo.
7.2.3 Thiết kế thông điệp
Sau khi xác định được mong muốn của người mua, tiếp theo cần thiết kế một
thông điệp có hiệu quả. Một cách lí tưởng, theo mô hình AIDA một thông điệp phải
152
gây sự chú ý (attention), tạo được sự quan tâm (interest), khơi dậy được mong muốn
(desire) và thúc đẩy được hành động (action). Trong thực tế, ít có thông điệp nào đưa
người tiêu dùng đi trọn vẹn từ trạng thái biết đến hành vi mua, nhưng cấu trúc AIDA
đưa ra những tiêu chuẩn đáng mong muốn.
Việc tạo thành một thông điệp sẽ đòi hỏi giải quyết bốn vấn đề
* Nội dung thông điệp
* Cấu trúc thông điệp
* Hình thức thông điệp
* Nguồn thông điệp
7.2.4 Lựa chọn các phương tiện truyền thông
* Kênh truyền thông trực tiếp
Trong kênh này, hai hay nhiều người truyền thông trực tiếp với nhau. Họ có thể
truyền thông qua tiếp xúc trực tiếp nhân viên với đối tượng, qua điện thoại, hoặc qua
thư từ trên co sở giao tiếp cá nhân. Các kênh truyền thông trực tiếp tạo ra hiệu quả
thông qua những cơ hội cá nhân hóa việc giới thiệu và thông tin phản hồi. Kênh
truyền thông trực tiếp có thể chia nhỏ thành kênh giới thiệu, kênh chuyên viên và
kênh xã hội.
* Kênh truyền thông gián tiếp
Những kênh truyền thông điệp gián tiếp chuyển các thông tin thông điệp đi mà
không cần có sự tiếp xúc hay giao tiếp trực tiếp. Chúng bao gồm các kênh đại chúng,
bầu không khí và các sự kiện.
7.2.5 Xây dựng ngân sách cổ động
* Phương pháp căn cứ vào khả năng ngân sách dành cho cổ động
* Phương pháp tính tỉ lệ phần trăm trên doanh thu
* Phương pháp cân bằng cạnh tranh
* Phương pháp căn cứ vào mục tiêu và nhiệm vụ
7.3. QUYẾT ĐỊNH HỆ THỐNG CỔ ĐỘNG
Có nhiều yếu tố ảnh hưởng đến việc lựa chọn các công cụ chiêu thị, mỗi công
cụ chiêu thị lại có những đặc thù riêng và chi phí của nó. Người làm marketing phải
153
nắm được những đặc điểm này khi lựa chọn chúng.
7.3.1. Quảng cáo
Quảng cáo là một trong những công cụ quan trọng nhất của hoạt động chiêu
thị. Quảng cáo chuyển các thông tin có sức thuyết phục đến các khách hàng mục tiêu
của Công ty. Công tác quảng cáo đòi hỏi sự sáng tạo rất nhiều. Đó là một nghệ thuật:
Nghệ thuật quảng cáo.
Đặc điểm của quảng cáo
- Tính đại chúng: quảng cáo là một hình thức truyền thông mang tính đại chúng rất
cao. Bản chất đại chúng của nó khẳng định tính chính thức của sản phẩm và cũng tạo nên
một tiêu chuẩn cho sản phẩm. Vì nhiều người nhận được một thông điệp như nhau, nên
người mua biết rằng mọi người cũng sẽ hiểu được động cơ mua sản phẩm đó.
- Tính sâu rộng: Quảng cáo là một phương tiện truyền thông rất sâu rộng, cho
phép người bán lập lại thông điệp nhiều lần. Nó cho phép người mua nhận được và
so sánh thông điệp của các đối thủ cạnh tranh.
- Tính biểu cảm:Quảng cáo tạo ra những cơ hội để giới thiệu doanh nghiệp và
sản phẩm của nó bằng cách sử dụng khôn khéo hình ảnh âm thanh và màu sắc.
- Tính chung: Quảng cáo không thể có tính chất ép buộc như trường hợp đại
diện bán hàng của doanh nghiệp. Công chúng không cảm thấy mình phải chú ý hay
hưởng ứng. Quảng cáo chỉ có thể thực hiện độc thoại hay đối thoại với công chúng.
Quảng cáo là một phương tiện hỗ trợ đắc lực cho cạnh tranh.
Mục đích của quảng cáo là để thu hút sự chú ý của khách hàng, thuyết phục họ
về những lợi ích, sự hấp dẫn của sản phẩm nhằm thay đổi hoặc củng cố thái độ và
lòng tin tưởng của người tiêu thụ về sản phẩm của Doanh nghiệp, tăng lòng ham
muốn mua hàng của họ và đi đến hành động mua hàng
Những quyết định chủ yếu trong hoạt động quảng cáo bao gồm
+ Quyết định về mục tiêu quảng cáo
Mục tiêu quảng cáo phải xuất phát từ các mục tiêu trong kinh doanh của doanh
nghiệp và các mục tiêu marketing. Ví dụ: mục tiêu doanh số, lợi nhuận, thị phần, các
mục tiêu này nâng cao uy tín của doanh nghiệp, của sản phẩm…Các mục tiêu quảng
cáo thường được phân loại thành mục tiêuđể thông tin mục tiêu để thuyết phục hay
154
mục tiêu để nhắc nhở.
- Quảng cáo thông tin hình thành mạnh mẽ vào giai đoạn giới thiệu sản phẩm
nhằm tạo nên nhu cầu ban đầu. Nó có thể giới thiệu cho thị trường bết về một sản
phẩm mới, về cách sử dụng mới của một sản phẩm hoặc sự thay đổi về giá cả.
- Quảng cáo thuyết phục cần thiết và rất quan trọng trong giai đoạn cạnh tranh
nhằm tạo ra sự ưa chuộng nhãn hiệu hoặc thuyết phục khách hàng mua ngay. Quảng
cáo thuyết phục có thể dùng thể loại so sánh. Ví dụ: hãng Toyota đã so sánh loại xe
Lexus của họ với loại xe Mercedes của Đức cả về giá cả lẫn chất lượng (động cơ chạy
êm như thế nào). Quảng cáo so sánh cũng được sử dụng nhiều đối với các loại thuốc
khử mùi hôi, kem đánh răng, rượu và các loại thuốc giảm đau.
- Quảng cáo nhắc nhở rất quan trọng trong giai đoạn trưởng thành (bão hòa) của
sản phẩm để nhắc nhở khách hàng luôn luôn nhớ đến nó đầu tiên, nhắc họ nhớ đến
địa điểm mua nó đầu tiên, nhắc họ nhớ đến địa điểm mua nó ở đâu v.v…
+ Quyết định về ngân sách quảng cáo
Sau khi xác định các mục tiêu quảng cáo rồi, doanh nghiệp có thể quyết định
ngân sách quảng cáo cho mỗi sản phẩm nhằm hòan thành mục tiêu bán hàng. Có 4
phương pháp để xác định ngân sách:
- Phương pháp tùy khả năng:.
- Phương pháp tính theo phần trăm của doanh số, ví dụ, 5% hay 10% của doanh
số năm tới. Ưu tiên của phương pháp này là chi phí quảng cáo gắn liền với kết quả
hoạt động kinh doanh (với doanh số, lợi nhuận…) và đảm bảo sự ổn định cạnh tranh.
- Phương pháp cân bằng cạnh tranh. Một số doanh nghiệp xác định ngân sách
quảng cáo của họ ngang bằng với mức chi của các hãng cạnh tranh cùng cỡ. Tuy
nhiên, do uy tín, tài lực, cơ may và mục tiêu của từng Doanh nghiệp khác nhau rất xa
nên chắc chắn kết quả chiêu thị sẽ khác nhau.
- Phương pháp mục tiêu và công việc.
Phương pháp này đòi hỏi nhà marketing lập ngân sách bằng cách:
- Xác định mục tiêu của doanh nghiệp
- Xác định những công việc, chương trình cần thực hiện để đạt mục tiêu (quảng
155
cáo trên báo, radio, TV như thế nào…)
- Ước tính chi phí để hòan thành công việc tổng số chi phí này chính là ngân
sách quảng cáo đề nghị cho năm tới.
+ Quyết định về thông điệp quảng cáo.
Quyết định về thông điệp quảng cáo thường gồm 3 bước: tạo ra thông điệp, đánh
giá và tuyển chọn thông điệp, thực hiện thông điệp.
Việc tạo thông điệp đòi hỏi giải quyết 3 vấn đề: Nói cái gì (nội dung thông điệp),
nói thế nào cho hợp lý (cấu trúc thông điệp) và nói thế nào cho có hiệu quả (hình thức
thực hiện thông điệp)
Về nội dung thông điệp
Cần thiết kế, phác họa những sự gợi dẫn để có được những đáp ứng mong muốn.
Có 3 loại gợi dẫn:
Gợi dẫn sự hợp lý: Sản phẩm đem lại những ích dụng theo yêu cầu (bền, tiết
kiệm, có giá trị… Ví dụ: “ổn áp Lioa chất lượng ngoại, giá nội”, “Giá mà mọi thứ
đều bền như Electrolux”.
Những gợi dẫn tạo xúc cảm. Những gợi dẫn tạo xúc cảm kích thích những tình
cảm tích cực để đưa đến việc mua. Ví dụ: sợ sâu răng dẫn đến việc đánh răng thường
xuyên.
Những gợi dẫn đạo đức. Những gợi dẫn đạo đức hướng đến cái thiện nơi khách
hàng. Ví dụ: có ý thức bảo vệ môi trường, mua vé ủng hộ lũ lụt.
Về cấu trúc thông điệp
Hiệu quả của quảng cáo phụ thuộc khá nhiều vào cấu trúc của thông điệp. Thứ
nhất, có nên đưa ra kết luận rõ ràng hay để khách hàng tự kết luận lấy. Đưa ra kết
luận thường hiệu quả hơn. Thứ hai, trình bày luận chứng theo kiểu đơn tuyến hay
song tuyến? Thường đơn tuyến hiệu quả hơn. Thứ ba, nên đưa luận chứng đanh thép
nhất vào đầu hay cuối điệp truyền.
Hình thức thông điệp.
Cần triển khai một hình thức sinh động cho thông điệp. Trong quảng cáo in ấn, nhà
marketing phải quyết định tiêu đề, lời lẽ, minh họa và màu sắc. Để thu hút sự chú ý có thể
156
sử dụng những cách như tính độc đáo và tương phản hình ảnh và tiêu đề lôi cuốn, hình
thức hấp dẫn, kích cỡ và vị trí của lời rao hợp lý. Thông điệp cần phải đáng tin cậy, được
ưa thích, tạo nên sự tin tưởng hòan tòan nơi khách hàng.
Thực hiện thông điệp nên như thế nào? Kết quả của thông điệp quảng cáo không
những chủ tùy thuộc vào những gì được nói mà còn tùy thuộc vào cách thức được nói
như thế nào?
Cần có một văn phòng một ngữ điệu và một sự trình bày hợp lý để thực hiện
thông điệp. Nếu thông điệp được truyền trên ti vi người trình bày phải chú y sự biểu
lộ của nét mặt, cử chỉ, trang phục tư thế và kiểu tóc. Có thể dựng lên một khung cảnh,
một kiểu dáng hay một hình ảnh mang tính nghệ thuật với sắc đẹp, tình yêu, thiên
nhiên, sự trong sáng….
+ Quyết định về phương tiện quảng cáo.
Tùy theo khách hàng mục tiêu và loại sản phẩm kinh doanh mà Công ty có thể
chọn phương tiện quảng cáo cho phù hợp. Các loại phương tiện quảng cáo thường
được sử dụng: báo chí, Radio, Tivi, phim ảnh quảng cáo, Quảng cáo bằng thư gửi qua
bưu điện, Quảng cáo bằng Pano, ap phichvv...
+ Đánh giá hiệu quả của quảng cáo
Để đánh giá hiệu quả của quảng cáo cần phân tích xem mục tiêu của quảng
cáo có đạt được không? Đích cuối cùng của quảng cáo là làm cho việc bán hàng được
nhiều hơn nhằm tăng doanh số và lợi nhuận.
Hiệu quả của quảng cáo phụ thuộc vào hai yếu tố: Hiệu quả của tin tức của
thông điệp quảng cáo. Và hiệu quả của phương tiện quảng cáo. Hiệu quả của tin tức
quảng cáo nghĩa là tin tức quảng cáo đã đưa ra được những lợi ích, ưu việt của sản
phẩm làm thu hút sự chú ý của khách hàng, có thể còn làm thay đổi quan điểm ý kiến,
sự ưa thích và thái độ của họ đối với sản phẩm.
Hiệu quả của phương tiện: Phương tiện quảng cáo mà thích hợp với nội dung
và tin tức quảng cáo đồng thời có tác dụng nhanh, mạnh tới khách hàng thì quảng cáo
sẽ có hiệu quả, ít tốn kém hơn.
Quảng cáo còn mang lại hiệu quả là nâng cao uy tín và gấy tiếng tăm cho doanh
157
nghiệp, tạo điều kiện thuận lợi trong cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường.
7.3.2. Xúc tiến bán (Khuyến mại/ Khuyến mãi)
Khuyến mại bao gồm rất nhiều công cụ cổ động nhằm kích thích thị trường đáp
ứng nhanh và mạnh hơn đối với sản phẩm và dịch vụ của Doanh nghiệp. Hầu hết các
tổ chức kinh doanh đều sử dụng các công cụ khuyến mại.
Có nhiều yếu tố bên trong cũng như bên ngoài doanh nghiệp góp phần làm cho
hoạt động khuyến mại tăng lên dữ dội. Bên trong doanh nghiệp, sự nhận thức vai trò
quan trọng của khuyến mại ở mọi cấp quản trị đã được khẳng định. Bên ngòai Công
ty do cạnh tranh, do lạm phát, do suy thoái kinh tế, đã làm cho việc bán hàng trở nên
khó khăn, mặt khác do chi phí quảng cáo cao, phải chen chúc nhau trong các phương
tiện truyền thông v..v…làm cho người ta sử dụng khuyến mại càng nhiều hơn.
* Các quyết định chủ yếu trong khuyến mại bao gồm:
+ Quyết định về mục tiêu khuyến mại
Mục tiêu khuyến mại rút ra từ mục tiêu marketing cơ bản đối với mỗi sản phẩm.
Những mục tiêu riêng của khuyến mại sẽ thay đổi tùy theo loại thị trường. Với người
tiêu dùng: Mục tiêu là thúc đẩy họ tiêu dùng mua nhiều hơn, khuyến khích dùng thử,
thu hút khách hàng mới. Còn với các trung gian marketing: dẫn dụ họ bán những mặt
hàng mới, tồn kho nhiều hơn, cố gắng tìm kiếm những khách tiêu thú mới, kích thích
bán hàng trong mùa vắng khách.
+ Quyết định chọn công cụ khuyến mại
Có nhiều công cụ khuyến mại khác nhau nhằm đạt những mục tiêu khuyến
mại khác nhau tùy theo thị trường, sản phẩm và điều kiện cạnh tranh. Sau đây là một
số công cụ chính:
- Hàng mẫu: có thể gửi đến từng nhà qua bưu điện hoặc nhận tại cửa hàng.
- Quà hàng: Thường tặng miễn phí như nón, mũ, áo thun, ba lô, túi xách. Phiếu
đi nghỉ mát, phiếu ăn tối tại nhà hàng…
- Gói hàng chung: Đó là một giói hàng chung được bán với giá hạ. Ví dụ: Một
bàn chải kèm một ống kem đánh răng. Hộp dao cạo râu vưói kem hay xà bông cao
râu, nước hoa bôi râu sau khi caov.v…
158
+ Quyết định triển khai chương trình khuyến mại.
Nhà marketing cần phải đưa ra những quyết định sau đây để triển khai chương
trình khuyến mại.
- Qui mô khích lệ: Nhà marketing phải quyết định hứa hẹn bao nhiêu. Cần có
một kích thích tối thiểu nào đó nếu muốn cho chương trình thành công. Kích thích
càng nhiều thì kết quả doanh số càng tăng nhưng với gia tốc giảm dần.
- Điều kiện tham gia. Những cuộc kích thích có thể dành cho mọi khách hàng
có tham gia mua hàng. Những công nhân viên của Công ty và các thành viên trong
gia đình họ không được tham gia.
- Thời hạn cổ đông. Nếu thời hạn quá ngắn, nhiều khách hàng sẽ không kịp tham
gia. Nếu thời hạn quá dài thì chương trình sẽ mất dần tính thúc đẩy “làm ngay”. Kết
quả nghiên cứu cho thấy rằng tần số thuận lợi nhất là ba tuần trong một qúy. Cũng
cần qui định cụ thể ngày tháng cho các cuộc khuyến mại.
Thử nghiệm trước.
Các công cụ khuyến mại nên được thể nghiệm trước nếu có thể được, để xác
định xem chúng có phù hợp với mục tiêu, quy khuyến mại không.
Thực hiện và kiểm tra đánh giá.
Các Công ty dựa vào các kế hoạch, chương trình khuyến mại đã lập để chỉ đạo
thực hiện suốt cả thời gian khi bắt đầu thực thi đến lúc kết thúc chương trình.
Để đánh giá kết quả của đợt khuyến mại, người ta có thể so sánh doanh số trước,
trong khi và sau cuộc khuyến mại. Tỷ lệ này tăng lên 10% trong khi tiến hành chương
trình, giảm xuống 5% sau khi kết thúc chương trình, một thời gian, một thời gian sau
lại tăng lên 7%. Chương trình khuyến mại rõ ràng đã có nhiều khách mới thử
dùng và những khách cũ đã mua hàng nhiều hơn. Sau chương trình, doanh số giảm
xuống vì khách đã có đủ hàng trong nhà. Doanh số tăng lên sau này cho thấy doanh
nghiệp đã có những khách hàng mới. Nếu thị phần của nhãn hiệu trở về mức cũ như
hồi chưa có chương trình khuyến mại thì cưhơng trình chỉ tạo sự thay đổi mức câu
trong nhất thời chứ không phải tổng sức cầu.
7.3.3 Quan hệ công chúng
Công chúng là mọi nhóm người có quan tâm hoặc ảnh hưởng thực tế hay tiềm
159
tàng đến khả năng của doanh nghiệp trong việc thành đạt các mục tiêu của mình. Vì
thế các doanh nghiệp cần phải có những biện pháp cụ thể để giải quyết các quan hệ
công chúng chủ yếu.
Quan hệ với công chúng của doanh nghiệp có nhiều mục đích, kể cả việc tuyên
truyền tốt làm ăn đúng đắn quan tâm đến sự phát triển của địa phương
Có năm hoạt động cơ bản mà nhà quan hệ công chúng thực hiện.
+ Quan hệ với báo chí
+ Tuyên truyền sản phẩm
+ Truyền thông của doanh nghiệp
+ Vận động hành lang
+ Tham mưu
* Những quyết định chủ yếu của marketing đối với quan hệ công chúng (PR=
Publish Relation)
- Xác định mục tiêu PR
- Lựa chọn thông điệp và phương tiện PR
- Tổ chức thực hiện và đánh giá của kết quả PR
7. 3.4. Marketing trực tiếp
Marketing trực tiếp một hệ thống tương tác marketing có sử dụng một hay
nhiều phương tiện quảng cáo để tác động đến một sản phẩm hay đáp ứng lại bất kỳ
địa điểm nào.
Những người làm marketing trực tiếp sử dụng các phương tiện quảng cáo trả lời trực
tiếp để bán hàng và tìm hiểu về khách hàng có tên và có đặc điểm chủ yếu đã được
nhập vào cơ sở dữ liệu khách hàng nhằm thiết lập mối quan hệ thường xuyên.
Các hình thức phổ biến của marketing trực tiếp là: marketing bằng catalog,
marketing bằng thư trực tiếp, marketing đáp ứng trực tiếp trên truyền hình, truyền
thanh, báo tạp chí, mua hàng điện tử, mua hàng bằng má đặt hàng tại các cửa hàng, sân
bay...
Markeitng trực tiếp đem lại nhiều lợi ích cho khách hàng, như tiết kiệm thời
gian và công sức, có thể ngồi tại nhà chọn mua qua mạng hay catalog đặt mua quà
gửi thẳng đến người thân, có thể tìm hiểu về sản phẩm và dịch vụ mà không bị ràng
160
buộc về thời gian và gặp gỡ các nhân viên bán hàng.
* Những quyết định chủ yếu của marketing trực tiếp
- Mục tiêu
- Khách hàng mục tiêu
- Chiến lược chào hàng
- Trắc nghiệm các yếu tố marketing trực tiếp và đo lường kết quả
7.3.5. Bán hàng cá nhân
Từ khi con người biến sống bằng phương thức trao đổi, bán hàng là một trong
những nghề lâu đời nhất
Nội dung chủ yếu của quản trị lực lượng bán hàng là
a, Thiết kế lực lượng bán hàng
* Mục tiêu của lực lượng bán hàng
Việc xây dựng mục tiêu bán hàng thường xoay quanh 3 mục tiêu chính
+ Mục tiêu doanh số hay sản lượng
+ Mục tiêu lợi nhuận
+ Mục tiêu thị phần
* Chiến lược của lực lượng bán hàng
* Cấu trúc của lực lượng bán hàng
161
+ Cấu trúc theo lãnh thổ (Territorial sales force structure)
+ Cấu trúc theo sản phẩm (Product sales force structure)
162
Cấu trúc theo khách hàng (Customer sales force structure)
+ Cấu trúc phức hợp (Complex sales force structure)
GĐ Kinh doanh
GĐBH Miền Trung GĐBH miền Nam GĐ BH Miền Bắc
Phụ trách SP tẩy rửa Phụ trách SP dưỡng da Phụ trách SP Chăm sóc tóc
* Qui mô của lực lượng bán hàng
Vị trí công tác chủ yếu thể hiện qua các chức danh phổ biến:
+ Đại diện bán hàng
+ Giám sát bán hàng
+ Giám đốc bán hàng khu vực
+ Giám đốc miền
163
+ Giám đốc bán hàng toàn quốc
D) CÂU HỎI, BÀI TẬP, NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CỦA
CHƯƠNG 7
- Câu hỏi ôn tập, bài tập: 1. Trình bày nội dung chủ yếu của các công cụ truyền thông tích hợp
2. Phân tích quy trình các bước thực hiện một chương trình quảng
cáo/PR/Khuyến mại
3. Tổ chức lực lượng bán hàng cá nhân
4. Chính sách trả lương cho nhân viên bán hàng
5. Nội dung quản lý điều hành lực lượng bán hàng
6. Cách xác định lực lượng bán hàng
Bài tập: Tính lực lượng bán hàng, giám sát bán hàng và giám đốc bán hàng
CHƯƠNG 8: TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CÁC
HOẠT ĐỘNG MARKETING
(Số tiết: 5 (Lý thuyết: 4 tiết, bài tập, thảo luận: 01 tiết)
A) MỤC TIÊU:
- Kiến thức:
+ Tìm hiểu các mô hình tổ chức bộ phận quản trị marketing để giúp nhà quản
trị có thể lựa chọn mô hình tổ chức phù hợp.
+ Nghiên cứu các vấn đề trong tổ chức thực hiện kế hoạch và biện pháp
marketing.
+ Xác định các nội dung cần đánh giá và điều khiển trong quá trình thực hiện
hoạt động marketing.
- Kỹ năng:
+ Kỹ năng tổ chức hoạt động marketing trong đơn vị, doanh nghiệp;
+ Làm việc nhóm, thuyết trình các vấn đề liên quan đến học phần.
- Mức độ tự chủ, tự chịu trách nhiệm:
+ Tự nghiên cứu, xây dựng được bộ phận marketing phù hợp với mô hình, đặc
điểm của doanh nghiệp;
+ Tích cực, chủ động phát huy vai trò của mình khi tham gia hoạt động nhóm;
164
+ Say mê tìm hiểu, khám phá kiến thức, kĩ năng mới.
B) TÀI LIỆU HỌC TẬP
- PGS.TS. Trương Đình Chiến- Quản trị marketing - NXB Đại học Kinh tế
quốc dân, năm 2017 {tr532-tr548}
- Philip Kotler, Quản trị marketing , Nhà xuất thống kê 2016 (Trang 840 - 867)
C) NỘI DUNG:
8.1 TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHƯƠNG TRÌNH
MARKETING
Tổ chức thực hiện marketing là tiến trình chuyển các chiến lược và chương
trình marketing thành những hoạt động marketing trên thực tế nhằm thành đạt các
mục tiêu marketing đã đề ra một cách có hiệu quả. Trong khi việc phân tích và
hoạch định chiến lược marketing là xác định một cách rõ ràng cái gì và tại sao của
những hoạt động marketing, thì việc thực hiện nhắm tìm câu trả lời: ai, ở đâu, khi
nào, và làm thế nào để biến các ý tưởng chiến lược trở thành hiện thực.
Chiến lược và việc thực hiện có quan hệ mật thiết với nhau. Thứ nhất, chiến
lược xác định những hoạt động thực thi nào là cần thiết. Chẳng hạn, quyết định "thu
hoạch" một sản phẩm nào đó phải được chuyển thành những việc làm cụ thể như
phân phối ngân sách ít hơn cho sản phẩm đó, chỉ thị cho nhân viên bán có thể tăng
giá lên, và tập trung các nỗ lực quảng cáo cho những sản phẩm khác. Thứ hai, sự lựa
chọn chiến lược tùy thuộc rất nhiều vào khả năng đảm bảo các nguồn lực của doanh
nghiệp để thực thi chiến lược. Thành tích nghèo nàn có thể là kết quả từ những chiến
lược nghèo nàn, hoặc từ những chiến lược tốt nhưng được thực hiện một cách kém
cỏi
8.1.1 Nguyên nhân dẫn đến việc thực thi kém hiệu qủa
Việc thực hiện chiến lược kém hiệu quả là do những nguyên nhân sau đây.
- Việc hoạch định biệt lập. Kế hoạch chiến lược của doanh nghiệp thường do "các
chuyên viên kế hoạch" cấp doanh nghiệp thảo ra, mà những người này có thể không liên
hệ chặt chẽ với những người quản trị marketing vốn phải thực thi chiến lược.
- Những cân nhắc chọn lựa giữa các mục tiêu lâu dài và trước mắt. Các doanh
nghiệp thiết kế chiến lược marketing nhằm tạo ra lợi thế cạnh tranh dài hạn. Thế
165
nhưng những người quản trị marketing, những người thực thi các chiến lược đó
thường được thưởng vì doanh số, sự phát triển, hoặc lợi nhuận ngắn hạn. Khi đối
diện với sự chọn lựa giữa chiến lược dài hạn và thành tích trước mắt, những người
quản trị marketing thường thiên về lợi ích ngắn hạn. Có thể họ đã đáp ứng được
những mục tiêu thành tích ngắn hạn và đã nhận được những sự đánh giá cao, nhưng
việc làm của họ sẽ làm tổn hại đến chiến lược dài hạn và vị thế của doanh nghiệp.
- Chống lại sự thay đổi. Những hoạt động hiện tại của doanh nghiệp đều được
phải được thiết kế nhằm đảm bảo thực thi thành công các chiến lược. Thế nhưng ở
nhiều doanh nghiệp, những chiến lược mới không phù hợp với các khuôn mẫu và tập
quán đã có của nó sẽ bị chống lại. Và chiến lược càng khác biệt nhiều với cái cũ, sự
chống lại việc thực thi nó càng lớn. Đối với những chiến lược mới, việc thực thi có
thể phá vỡ các mô hình tổ chức truyền thống trong doanh nghiệp và cả những cấu
trúc hoạt động đã có của các nhà cung cấp và các tổ chức khác của kênh phân phối.
- Thiếu những kế hoạch thực hiện cụ thể. Một số chiến lược được thực thi
nghèo nàn là do những người lập kế hoạch không triển khai các kế hoạch thực thi chi
tiết và thiếu sự kết hợp đồng bộ các kế hoạch bộ phận thành một chương trình toàn
diện triển khai theo kế hoạch tiến độ để đạt những mục tiêu chuyên biệt, và phân
công trách nhiệm không rõ ràng cho những người thực hiện.
8.1.2. Tiến trình thực hiện
Mọi người ở tất cả các cấp của hệ thống marketing đều phải phối hợp với nhau
để thực thi các chiến lược marketing. Bên trong bộ phận marketing, những người làm
quảng cáo, bán hàng, nghiên cứu thị trường, và triển khai sản phẩm đều phải thực
hiện các hoạt động hỗ trợ cho kế hoạch chiến lược. Những nhân viên marketing này
phải phối hợp công việc của mình với những người ở các bộ phận khác trong doanh
nghiệp - nghiên cứu và phát triển, sản xuất, thu mua, tài chính,...
Các cá nhân và tổ chức thuộc hệ thống marketing bên ngoài doanh nghiệp như
những người cung cấp, nhữn người bán sỉ và bán lẻ, các cơ sở quảng cáo, những
nhóm bảo vệ lợi ích công chúng, chính quyền đều có thể hỗ trợ hay gây trở ngại cho
những cố gắng thực thi các chiến lược marketing của doanh nghiệp. Doanh nghiệp
phải triển khai những cấu trúc và hệ thống hiệu quả nhằm phối hợp tất cả những hoạt
166
động này lại với nhau thành một phương án hành động hiệu quả. Tiến trình thực thi
bao gồm năm hoạt động tương tác: Triển khai chương trình hành động, xây dựng cơ
cấu tổ chức, thiết kế các hệ thống quyết định và tưởng thưởng, phát triển nguồn lực
con người, và thiết lập một bầu không khí quản trị cũng như phong cách của doanh
nghiệp.
a. Triển khai chương trình hành động
Để thực thi các chiến lược marketing, mọi thành viên ở tất cả các cấp của hệ
thống marketing đều phải đưa ra những quyết định và hoàn thành những nhiệm vụ
nhất định. Những người quản trị marketing cộng tác với những người quản trị khác
của doanh nghiệp để đảm bảo nguồn lực cần thiết và ưu tiên cho những sản phẩm
mới có nhiều triển vọng thành công. Họ thảo luận với bộ phận nghiên cứu và phát
triển về thiết kế sản phẩm, với bộ phận sản xuất về cấp độ chất lượng, sản xuất và
lưu kho, với bộ phận tài chiïnh về kinh phí, với bộ phận pháp lý về đăng ký phát minh
và những vấn đề an toàn sản phẩm, với bộ phận nhân sự về việc huấn luyện và bố trí
nhân viên.
Để thực hiện thành công các chiến lược, doanh nghiệp phải triển khai một
chương trình hành động chi tiết. Chương trình này định rõ những quyết định và
công việc chủ yếu cần thiết để biến các chiến lược marketing thành những hoạt động
thực tế trên thị trường. Chương trình hành động cũng phân công trách nhiệm về việc
quyết định và công việc cho các bộ phận và thành viên của doanh nghiệp. Cuối
cùng,chương trình hành động còn bao gồm một kế hoạch tiến độ chỉ rõ khi nào thì
phải đưa ra các quyết định, khi nào thì phải thực hiện các công việc và khi nào thì
những điểm mốc chiếc lược phải được thực hiện, ai sẽ làm điều đó và các quyết định
cũng như hành động sẽ được phối hợp ra sao để đạt được những mục tiêu chiến lược
của doanh nghiệp.
b. Xây dựng cơ cấu tổ chức hiệu quả
Cơ cấu tổ chức chính thức của doanh nghiệp đóng vai trò quan trọng trong
việc thực hiện chiến lược marketing. Cơ cấu tổ chức xác định và phân chia nhiệm vụ
cho từng bộ phận và nhân viên cụ thể, thiết lập những tuyến thẩm quyền và mối liên
167
hệ, phối hợp các quyết định cũng như công việc trong doanh nghiệp.
Các doanh nghiệp với những chiến lược khác nhau thì cần đến các cơ cấu tổ
chức khác nhau. Doanh nghiệp cần thiết kế một cơ cấu tổ chức phù hợp với việc triển
khai ý đồ chiến lược, các đặc điểm của doanh nghiệp, khách hàng mục tiêu và đối
thủ cạnh tranh. Cơ cấu tổ chức phân chia nhiệm vụ của doanh nghiệp thành những
công việc được xác định rõ ràng và có thể quản lý được cho các bộ phận và nhân viên
nhằm tạo được hiệu quả thông qua việc chuyên môn hoá chức năng hoạt động của
họ. Cơ cấu tổ chức còn tạo nên sự phối hợp những quyết định và hoạt
động chuyên môn hoá này bằng cách xác định các mối quan hệ chính thức
giữa các nhân viên và các bộ phận, cũng như những mối quan hệ quyền hạn và hệ
thống thông tin quản trị.
c. Thiết kế hệ thống ra quyết định và động lực thúc đẩy
Doanh nghiệp cũng phải thiết kế những hệ thống quyết định và động lực thúc
đẩy hỗ trợ cho các chiến lược marketing của mình. Các hệ thống ấy bao gồm những
thể thức hoạt động chính thức và bán chính thức có tác dụng hướng dẫn và tiêu chuẩn
hoá những hoạt động như lập kế hoạch, thu thập và sử dụng thông tin, dự tính các
nguồn lực vật chất và con người, tuyển chọn và huấn luyện, đo lường và kiểm tra
thành tích, đánh giá và động viên, thúc đẩy nhân viên.
d. Phát triển nguồn lực con người
Các chiến lược marketing được thực hiện bởi nhiều người trong và ngoài
doanh nghiệp. Việc thực thi thành công đòi hỏi phải hoạch định cẩn thận nguồn lực
con người. Ở tất cả các cấp, doanh nghiệp cần bố trí vào cấu trúc và các hệ thống của
mình những người có khả năng, động cơ và phẩm chất cần thiết cho việc thực thi
chiến lược.
Doanh nghiệp cũng phải quyết định về tỷ lệ các nhà quản trị và nhân viên ở
các cấp quản trị. Nhiều doanh nghiệp tiến hành cắt giảm các chức vụ ở cấp doanh
nghiệp và bộ phận khác, để giảm bớt chi phí hành chính và đưa quyết định đến
những người trực tiếp thi hành. Sự tuyển lựa và phát triển các nhà quản trị có tính
chất quyết định đặc biệt đối với việc thực thi chiến lược. Những chiến lược khác nhau
đòi hỏi phải có những nhà quản trị khác nhau với những phẩm chất và kỹ năng khác
168
nhau. Những chiến lược mạo hiểm cần những quản trị viên có kỹ năng nhạy bén,
những chiến lược duy trì đòi hỏi các nhà quản trị phải có các kỹ năng về tổ chức và
quản lý, và những chiến lược phòng ngự đòi hỏi các nhà quản trị kỹ năng về cắt giảm
chi phí. Thế nên doanh nghiệp phải biết bố trí các nhà quản trị phù hợp với các yêu
cầu của chiến lược đang được thực hiện.
e. Thiết lập bầu không khí và nền văn hoá của doanh nghiệp
Bầu không khí và nền văn hoá của doanh nghiệp có ảnh hưởng rất quan trọng
đến tư duy và hành động và cách thức ứng xử của những người ra quyết định và thực
thi chiến lược.
Bầu không khí của tổ chức thể hiện cách thức mà các nhà quản trị hợp tác với
những người khác trong công việc chung. Một số nhà quản trị có phong cách độc
đoán, họ ra lệnh, ít chịu ủy quyền, kiểm soát chặt chẽ và chú trọng đến sự liên lạc -
báo cáo thông qua những kênh thông tin chính thức. Những người khác thì có phong
cách dân chủ hơn, họ giao nhiệm vụ và quyền hạn, cộng tác hơn là ra lệnh, khuyến
khích các cộng sự có sáng kiến và liên lạc một cách thân mật không câu nệ nghi thức.
Không có phong cách quản trị nào tốt nhất cho tất cả mọi tình huống.
Những chiến lược khác nhau có thể cần đến những phong cách lãnh đạo khác
nhau, và nó thay đổi tuỳ vào cấu trúc, nhiệm vụ, con người và hoàn cảnh của doanh
nghiệp và môi trường.
Nền văn hoá của doanh nghiệp là một hệ thống những giá trị và niềm tin mà
mọi người trong một tổ chức cùng chia xẻ. Nó thể hiện bản sắc, triết lý kinh doanh
và ý nghĩa cộng đồng trong doanh nghiệp. Nền văn hoá định hướng cách thức ứng
xử sự của mọi người trong tất cả các cấp của doanh nghiệp.
Phong cách quản trị và nền văn hoá của doanh nghiệp là những chuẩn mực giá
trị được các thành viên của doanh nghiệp thừa nhận và chia xẻ, nó định hướng và
thúc đẩy họ trong việc ra quyết định và thực hiện nhiệm vụ. Những chiến lược không
phù hợp với phong cách quản trị và văn hoá của doanh nghiệp sẽ khó có khả năng
thực thi một cách thành công.
g. Các mối quan hệ giữa nhiệm vụ, cơ cấu, hệ thống, nhân sự và nền văn hoá
Để thực hiện có hiệu quả, tất cả các hoạt động của hệ thống đều phải hỗ trợ cho
169
chiến lược mà doanh nghiệp đang theo đuổi. Những chương trình hành động, cơ cấu
tổ chức, các hệ thống quyết định và động lực thúc đẩy, phong cách quản trị và nền văn
hoá của doanh nghiệp phải thống nhất với nhau. Nhân sự của doanh nghiệp phải có
những kỹ năng cần thiết để ra quyết định và hoàn thành các nhiệm vụ cần cho việc
thực thi chiến lược. Các động lực thúc đẩy phải động viên được nhân viên nỗ lực hoàn
thành nhiệm vụ của chiến lược. Nhân sự sẽ làm việc hiệu quả hơn nếu họ đồng nhất
với phong cách quản trị và nền văn hoá của doanh nghiệp.
8.2. TỔ CHỨC MARKETING
8.2.1. Sự phát triển của bộ phận marketing
Trong qúa trình phát triển của mình, marketing đã từ một chức năng bán hàng
đơn giản trở thành một nhóm các hoạt động phức tạp, mà không phải bao giờ cũng
kết hợp tốt với nhau và với các bộ phận khác của doanh nghiệp. Bộ phận marketing
ngày nay là sản phẩm của cả một quá trình phát triển lâu dài, trải qua năm giai đoạn
với các hình thức tổ chức khác nhau.
Bộ phận bán hàng đơn giản
Trong doanh nghiệp, hoạt động kinh doanh được tiến hành với năm chức năng
cơ bản. Phải có người nào đó dứng ra quản lý vốn (tài chính), thuê người (nhân sự),
sản xuất ra sản phẩm hay dịch vụ (sản xuất), bán nó đi (tiêu thụ), và ghi chép sổ sách
(kế toán). Chức năng bán hàng được đặt dưới quyền chỉ đạo của một phó giám đốc
tiêu thụ. Khi cần nghiên cứu marketing hay quảng cáo, phó giám đốc tiêu thụ thực
hiện luôn những chức năng đó
Bộ phận bán hàng kiêm các chức năng marketing
Khi doanh nghiệp cần mở rộng để phục vụ những khách hàng mới hay địa bàn
mới, nó cần tăng cường những chức năng marketing nhất định, không liên quan đến
việc bán hàng, như nghiên cứu marketing để tìm hiểu nhu cầu khách hàngvà tiềm
năng thị trường, quảng cáo và đảm bảo dịch vụ cho khách hàng,... Phó giám đốc tiêu
thụ sẽ cần phải thuê các chuyên gia để hoàn thành các chức năng marketing khác này,
hay thuê một người quản trị marketing để quản trị những chức năng đó.
Bộ phận marketing riêng biệt
Sự phát triển liên tục của doanh nghiệp đẫ làm tăng khả năng đầu tư có hiệu
170
quả vào các chức năng khác của marketing như nghiên cứu thị trường, phát triển sản
phẩm mới, quảng cáo và khuyến mãi, dịch vụ khách hàng, có liên quan với hoạt động
của lực lượng bán hàng. Lúc này doanh nghiệp sẽ thấy cần thiết lập một bộ phận
marketing riêng biệt, đặt dưới quyền chỉ đạo của một phó giám đốc marketing. Ởí
giai đoạn này, bán hàng và marketing là hai chức năng tách riêng trong tổ chức đó,
nhưng vẫn yêu cầu phối hợp chặt chẽ với nhau
Bộ phận marketing hiện đại
Mặc dù hai phó giám đốc tiêu thụ và marketing cần làm việc ăn ý với nhau,
nhưng đôi khi quan hệ giữa họ trở nên căng thẳng và có những biểu hiện trục trặc.
Phó giám đốc tiêu thụ muốn bộ phận bán hàng có vị trí quan trọng hơn trong
marketing -mix , và mọi nỗ lực đều tập trung cho việc gia tăng mức tiêu thụ hiện tại.
Phó giám đốc marketing lại muốn có quyền hạn và ngân sách nhiều hơn cho các hoạt
động không phải của lực lượng bán hàng, và mọi cố gắng đều nhằm vào việc hoạch
định đúng đắn chiến lược marketing để dáp ứng được những nhu cầu lâu dài của
khách hàng. Để giải quyết mâu thuẫn, giám đốc công ty có thể chỉ thị cho phó giám
đốc điều hành xử lý những mâu thẫn phát sinh, hay giao hoạt động marketing trở lại
cho phó giám đốc tiêu thụ, hoặc giao cho phó giám đốc marketing phụ trách tất cả
các chức năng, kể cả lực lượng bán hàng.Cách giải quyết cuối cùng này tạo cơ sở cho
việc tổ chức bộ phận marketing hiện đại đặt dưới quyền lãnh đạo của phó giám đốc
điều hành marketing và tiêu thụ với những người quản trị riêng từng chức năng
marketing, kể việc quản trị tiêu thụ
Công ty marketing hiện đại
Một công ty có thể có một bộ phận marketing hiện đại mà chưa hoạt động như
một công ty marketing hiện đại. Khi các quan niệm về marketing phát triển, coi
marketing là một quá trình trọn vẹn của những nỗ lực của tất cả các bộ phận của công
ty nhằm đáp ứng những nhu cầu đa dạng của thị trường, lúc đó công ty mới trở thành
một công ty marketing hiện đại.
8.2.2. Những hình thức tổ chức bộ phận marketing
Các bộ phận marketing hiện đại có thể được tổ chức theo nhiều hình thức khác
171
nhau. Mỗi hình thức tổ chức phải cho phép bộ phận marketing phục vụ được theo
bốn chiều cơ bản của hoạt động marketing: các chức năng, khu vực địa lý, sản phẩm
và thị trường khách hàng.
Tổ chức theo chức năng
Hình thức phổ biến nhất của cách tổ chức marketing là tổ chức theo chức năng,
theo đó những chuyên gia về các chức năng marketing trực thuộc một phó giám đốc
marketing, người có trách nhiệm phối hợp các hoạt động của họ. Các chuyên gia
marketing có thể làm việc trong các lĩnh vực quản trị hành chính marketing, quảng
cáo và khuyến mãi, tiêu thụ, nghiên cứu marketing, sản phẩm mới. Có thể có thêm
các chuyên gia phụ trách các lĩnh vực dịch vụ khách hàng, hoạch định marketing,
phân phối sản phẩm vật chất.
Lợi thế chủ yếu của việc tổ chức theo chức năng là sự đơn giản về mặt hành
chính, song hình thức này sẽ mất đi tính hiệu quả khi sản phẩm và thị trường của doanh
nghiệp tăng lên. Trước hết là việc hoạch định đối với những sản phẩm và thị trường cụ
thể không sát với thực tê,ú không có ai trách nhiệm về bất kỳ sản phẩm và thị trường
nào. Thứ hai mỗi nhóm chức năng đều muốn tranh giành nhau để có được ngân sách
nhiều hơn cũng như địa vị cao hơn so với những chức năng khác. Phó giám đốc
marketing luôn phải cân nhắc những yêu cầu và khiếu nại của chuyên gia chức năng
cạnh tranh nhau và phải đối diện với một vấn đề phối hợp rất khó khăn.
Tổ chức theo địa lý
Một doanh nghiệp bán hàng trong thị trường cả nước thường tổ chức lựa chọn
lực lượng bán của mình (và đôi khi những chức năng khác) theo các khu vực địa lý.
Người quản trị bán hàng toàn quốc có thể giám sát những người quản trị bán
hàng theo khu vực. Mỗi người quản trị bán hàng khu vực điều khiển các quản trị bán
hàng theo từng địa bàn nhỏ hơn, mỗi người quản trị địa bàn điều khiển nhiều nhân
viên bán hàng. Phạm vi kiểm tra tăng dần lên khi chúng ta đi từ người quản trị bán
hàng toàn quốc đến quản trị bán hàng theo địa bàn. Phạm vi kiểm tra hẹp hơn cho
phép các nhà quản trị dành nhiều thời gian hơn cho cấp dưới vì công việc bán hàng
rất phức tạp, nhân viên bán hàng được trả lương cao hơn và tác động của người bán
hàng lên lợi nhuận rất lớn.
172
Tổ chức theo sản phẩm
Những doanh nghiệp sản xuất nhiều loại sản phẩm hay nhãn hiệu thường thành
lập tổ chức quản trị theo sản phẩm hay nhãn hiệu. Tổ chức quản trị theo sản phẩm
không thay thế cho tổ chức quản trị theo chức năng, nhưng đóng vai trò như một cấp
quản trị khác. Tổ chức quản trị theo sản phẩm được đặt dưới quyền một người quản
trị sản phẩm. Người quản trị sản phẩm giám sát những người quản trị loại sản phẩm,
và những người quản trị loại sản phẩm này lại giám sát những người quản trị sản
phẩm và nhãn hiệu cụ thể.
Vai trò của người quản trị sản phẩm là triển khai các kế hoạch sản phẩm, xem
xét việc thực hiện chúng, dự báo các kết quả, và hiệu chỉnh. Người quản trị triển khai
một chiến lược cạnh tranh cho sản phẩm, soạn thảo một kế hoạch marketing và tiên
đoán mức tiêu thụ, cộng tác với các cơ sở quảng cáo để triển khai những chiến dịch
quảng cáo, khích lệ lực lượng bán hàng và nhà phân phối ủng hộ sản phẩm, phân tích
tình hình sản phẩm và đề xuất những cải tiến sản phẩm để đáp ứng các nhu cầu đang
thay đổi của thị trường.
Cách tổ chức quản trị theo sản phẩm tạo ra nhiều lợi điểm. Thứ nhất, người
quản trị sản phẩm có thể tập trung vào việc xây dựng một marketing - mix cos hiệu
quả về chi phí cho sản trước phẩm đó. Thứ hai, người quản trị sản phẩm có thể phản
ứng nhanh chóng hơn đối với những vấn đề trên thị trường, so với một ban chức năng
gồm các chuyên gia. Thứ ba, các nhãn hiệu nhỏ ít bị xem nhẹ vì chúng có một người
bảo vệ sản phẩm. Thứ tư, việc quản trị theo sản phẩm là một cơ sở huấn luyện tuyệt
vời cho những cán bộ điều hành trẻ, vì nó buộc họ phải tham gia vào hầu hết các lĩnh
vực hoạt động của doanh nghiệp.
Tổ chức theo thị trường
Các doanh nghiệp thường bán sản phẩm của mình trên các thị trường khác
nhau. Và nếu những người tiêu dùng thuộc những nhóm người sử dụng khác nhau
với những sở thích và thói quen mua hàng khác nhau, thì nên tổ chức bộ phận
marketing theo thị trường. Tổ chức quản trị theo thị trường tương tự như việc tổ chức
quản trị theo sản phẩm. Người quản trị các thị trường giám sát một số người quản trị
một thị trường (cũng được gọi là những người quản trị phát triển thị trường, các
173
chuyên gia thị trường, hay những chuyên gia theo ngành). Những người quản trị thị
trường có trách nhiệm triển khai các kế hoạch dài hạn và kế hoạch hằng năm về doanh
số và lợi nhuận trong thị trường của mình. Họ phải phối hợp sự trợ giúp từ phía
nghiên cứu marketing, quảng cáo, bán hàng, cùng những phần việc khác. Họ phải
phân tích xem thị trưòng của mình đang hướng đến đâu và doanh nghiệp cần chào
bán trên thị trường những sản phẩm nào. Thành tích của họ thường được đánh giá
theo mức độ đóng góp làm gia tăng thị phần, chứ không phải vào khả năng sinh lời
hiện tại trên thị trường. Hệ thống này cũng có những ưu điểm và nhưọc điểm giống
như các hệ thống quản trị theo sản phẩm. Lợi thế chính của hệ thống này là hoạt động
marketing được tổ chức để đáp ứng những nhu cầu của các nhóm khách hàng khác
nhau, chứ không tập trung vào bản thân các chức năng marketing, các khu vực hay
các sản phẩm.
Tổ chức theo sản phẩm/thị trường
Các doanh nghiệp sản xuất nhiều sản phẩm để bán ra trên nhiều thị trường có
hai cách để lựa chọn. Họ có thể sử dụng một hệ thống quản trị theo sản phẩm, vốn
đòi hỏi người quản trị sản phẩm phải am hiểu những thị trường có sự khác biệt rất
lớn. Hoặc, họ có thể sử dụng một hệ thống quản trị theo thị trường, có nghĩa là những
người quản trị thị trường cũng phải rất am hiểu các sản phẩm khác biệt nhau mà
những thị trường của họ đã mua. Hoặc có thể kết hợp cả hai loại lại thành một tổ
chức ma trận. Tuy nhiên, điều trở ngại là hệ thống này khá tốn kém và thường phát
sinh sự mâu thuẩn.
8.3. KIỂM TRA HOẠT ĐỘNG MARKETING
Công việc của bộ phận marketing là lập kế hoạch, thực hiện và kiểm tra hoạt
động marketing. Một kế hoạch marketing dù được thiết kế hoàn hảo đến đâu, trong
quá trình thực hiện vẫn có thể nẩy sinh nhiều vấn đề cần giải quyết, vì thế bộ phận
marketing phải thường xuyên theo dõi và kiểm tra các hoạt động marketing. Các hệ
thống kiểm tra marketing nếu hoạt động tốt sẽ đảm bảo cho hoạt động marketing nói
riêng và hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp nói chung đạt được mục tiêu với
hiệu quả cao.
Kiểm tra marketing có thể phân thành bốn loại: Kiểm tra kế hoạch năm, kiểm
174
tra khả năng sinh lời, kiểm tra hiệu quả và kiểm tra chiến lược
Kiểm tra kế hoạch năm là việc kiểm tra quá trình thực hiện và kết quả đạt
được của những người làm marketing dựa trên kế hoạch năm và tiến hành những điều
chỉnh cần thiết nhằm đảm bảo hoàn thành kế hoạch đề ra. Kiểm tra khả năng sinh lời
bao gồm những nỗ lực xác định khả năng sinh lợi đích thực của các sản phẩm, các
khu vực, các thị trường, và các kênh phân phối khác nhau. Kiểm tra hiệu suất nhằm
đánh giá và tìm cách nâng cao hiệu suất của chi phí marketing thông qua các hoạt
động bán hàng, quảng cáo, phân phối và khuyến mãi. Kiểm tra chiến lược
bao gồm việc khảo sát định kỳ để biết những chiến lược cơ bản của doanh
nghiệp khai thác như thế nào những cơ hội marketing.
8.3.1. Kiểm tra kế hoạch năm
Mục đích của việc kiểm tra kế hoạch năm là nhằm đảm bảo chắc chắn rằng
doanh nghiệp sẽ đạt được những chỉ tiêu về mức doanh số, lợi nhuận và những chỉ
tiêu khác đã đề ra trong kế hoạch năm của mình. Việc này gồm bốn bước: Thứ nhất,
ban lãnh đạo phải ấn định các mục tiêu marketing cho từng tháng hay từng quý. Thứ
hai, theo dõi kết quả thực hiện các chỉ tiêu đó trên thị trường. Thứ ba, xác định những
nguyên nhân không đạt được chỉ tiêu đề ra. Thứ tư là tiến hành những biện pháp điều
chỉnh để thu hẹp khoảng cách giữa chỉ tiêu và kết quả thực hiện điều này có thể đòi
hỏi phải thay đổi chương trình hành động, hoặc thậm chí thay đổi các chỉ tiêu. Mô
hình kiểm tra này được áp dụng cho tất cả các cấp tổ chức.
Những người quản trị sử dụng năm công cụ chủ yếu để kiểm tra kết quả thực
hiện kế hoạch: Phân tích mức tiêu thụ, phân tích thị phần, phân tích chi phí marketing
trên doanh thu bán hàng, phân tích tài chính và theo dõi mức độ hài lòng của khách
hàng.
Phân tích mức tiêu thụ
Phân tích mức tiêu thụ là lượng định và đánh giá mức tiêu thụ thực tế so với
chỉ tiêu về mức tiêu thụ dự kiến. Phương pháp này sử dụng hai cộng cụ là phân tích
độ chênh lệch của mức tiêu thụ và phân tích mức tiêu thụ của từng địa bàn.
Phân tích độ chênh lệch của mức tiêu thụ là đo phần đóng góp tương đối của
các yếu tố khác nhau vào khoản chênh lệch của kết quả tiêu thụ. Giả sử kế hoạch năm
175
đòi hỏi phải bán được 500 sản phẩm với giá 1triệu đồng mỗi sản phẩm hay 500 triệu
đồng. Đến cuối năm chỉ bán được 400 sản phẩm với giá 0,9 triệu đồng mỗi sản phẩm,
hay 360 triệu đồng. Độ chênh lệch của kết quả tiêu thụ là 160 triệu đồng hay 32%
mức tiêu thụ dự kiến. Người quản trị marketing cần tìm hiểu xem trong phần không
đạt chỉ tiêu này có bao nhiêu phần là do giảm giá và bao nhiêu phần là do giảm khối
lượng sản phẩm ? Có thể giải thích vấn đề này bằng kết quả tính toán sau:
Chênh lệch do giảm giá = (1 tr.đ. - 0,9 tr.đ.)×(400) = 70 tr.đ. 43,75%
Chênh lệch do giảm khối lượng = (0,9 tr. đ.)×(500 - 400) = 90 tr.đ. 56,25%
160 tr.đ. 100,00%
Phần lớn của khoản chênh lệch mức tiêu thụ là do không đạt chỉ tiêu khối
lượng. Doanh nghiệp cần tìm hiểu nguyên nhân vì sao không đạt được khối lượng
tiêu thụ dự kiến.
Phân tích mức tiêu thụ của từng địa bàn có thể giải thích vấn đề này. Thông
qua việc phân tích khối lượng tiêu thụ thực tế của từng địa bàn so với khối lượng tiêu
thụ dự kiến tại mỗi địa bàn đó, doanh nghiệp có thể biết được tổng khối lượng tiêu
thụ bị giảm sút chủ yếu là do địa bàn nào. Giả sử doanh nghiệp bán hàng trên hai địa
bàn A và B với mức tiêu thụ dự kiến tương ứng là 300 sản phẩm và 200 sản phẩm.
Khối lượng tiêu thụ thực tế ở địa bàn A là 270 sản phẩm và ở địa bàn B là 130 sản
phẩm. Như vậy, ở địa bàn A thiếu 10% so với mức tiêu thụ dự kiến của nó, còn ở địa
bàn B thiếu đến 35%. Địa bàn B là nguyên nhân gây ra sự thiếu hụt về mức tiêu thụ
sản phẩm của doanh nghiệp.
Phân tích thị phần
Mức tiêu thụ của doanh nghiệp chưa thể hiện được sự thành công của doanh
nghiệp trong mối quan hệ so sánh với đối thủ cạnh tranh. Để đạt được mục đích này,
doanh nghiệp cần theo dõi thị phần của mình. Nếu thị phần của doanh nghiệp tăng,
có nghĩa là doanh nghiệp đang thành công hơn đối thủ, nếu thị phần của doanh
nghiệp giảm tức là doanh nghiệp đang kém hơn đối thủ cạnh tranh.
Việc so sánh thị phần của doanh nghiệp so với đối thủ cạnh tranh cần tiến hành
theo bốn loại: thị phần tổng quát (tỉ lệ phần trăm mức tiêu thụ của doanh nghiệp trên
tổng mức tiêu thụ của thị trường tính bằng đơn vị sản phẩm hay bằng tiền), thị phần
176
mục tiêu (tỉ lệ phần trăm mức tiêu thụ của doanh nghiệp trong tổng mức tiêu thụ của
thị trường mục tiêu), thị phần tương đối so với ba đối thủ cạnh tranh lớn nhất (tỉ lệ
phần trăm mức tiêu thụ của doanh nghiệp trên tổng mức tiêu thụ của ba đối thủ cạnh
tranh lớn nhất), và thị phần tương đối so với đối thủ cạnh tranh dẫn đầu thị trường
(tỉ lệ phần trăm mức tiêu thụ của doanh nghiệp trên tổng mức tiêu thụ của đối thủ
cạnh tranh dẫn đầu).
Phân tích tỉ lệ chi phí marketing trên doanh thu bán hàng
Việc kiểm tra kế hoạch năm đòi hỏi phải đảm bảo chắc chắn rằng doanh
nghiệp không chi phí quá mức để đạt được chỉ tiêu về mức tiêu thụ. Chỉ số chủ yếu
cần theo dõi là tỉ lệ chi phí marketing trên doanh thu bán hàng, gồm năm tỉ lệ chi phí
thành phần: chi phí cho lực lượng bán hàng trên doanh thu bán hàng, chi phí quảng
cáo trên doanh thu bán hàng, chi phí khuyến mãi trên doanh thu bán hàng, chi phí
nghiên cứu marketing trên doanh thu bán hàng, và chi phí hành chính cho việc tiêu
thụ trên doanh thu bán hàng. Những tăng giảm qua các thời kỳ của từng chỉ số vượt
ra ngoài giới hạn khống chế cần phải được nghiên cứu để tìm ra nguyên nhân và biện
pháp điều chỉnh.
Phân tích tài chính
Các tỉ số chi phí trên doanh thu bán hàng cần được phân tích trong một khung
cảnh tài chính chung để xác định xem doanh nghiệp thu được tiền như thế nào và ở
đâu. Những người làm marketing sử dụng phương pháp phân tích tài chính để tìm ra
những chiến lược tạo ra lợi nhuận chứ không chỉ những chiến lược tạo ra mức tiêu
thụ. Ban lãnh đạo sử dụng phân tích tài chính để phát hiện những yếu tố tác động đến
mức lợi nhuận trên giá trị ròng của doanh nghiệp.
Theo dõi mức độ hài lòng của khách hàng
Những biện pháp kiểm tra trên đây mang nặng tính chất tài chính và định
lượng. Ngoài ra cần phải có những chỉ tiêu định lượng báo động sớm cho ban lãnh
đạo biết những biến động thị phần sắp xảy ra. Một số doanh nghiệp đã thành lập
những hệ thống theo dõi thái độ và mức độ hài lòng của khách hàng, đại diện bán
hàng và những người đầu tư khác. Nhờ theo dỗi sự biến động về mức độ ưa chuộng
và hài lòng của khách hàng trước khi chúng kịp tác động đến mức tiêu thụ, ban lãnh
177
đạo có thể chủ động thi hành sớm hơn các biện pháp điều chỉnh của mình.
8.3.2. Kiểm tra khả năng sinh lời
Ngoài việc kiểm tra kế hoạch năm ra, các doanh nghiệp còn phải đo lường khả
năng sinh lời của các sản phẩm, địa bàn, nhóm khách hàng, kênh phân phối và quy mô
đặt hàng khác nhau của họ. Thông tin này sẽ giúp ban lãnh đạo xác định những sản
phẩm hoặc hoạt động marketing nào cần được mở rộng, thu hẹp hay loại bỏ.
Việc phân tích khả năng sinh lời của marketing có thể tiến hành theo các bước
sau đây:
- Phân tích báo cáo lời-lỗ theo sản phẩm, địa bàn, nhóm khách hàng, kênh
phân phối và quy mô đặt hàng (doanh thu bán hàng, chi phí hàng bán, chi phí khác,
lãi ròng).
- Giải trình các loại chi phí (tổng chi phí, trong đó: lương, tiền thuê, vật tư
phụ) theo các hoạt động marketing chức năng (quảng cáo, bán hàng,...).
- Phân bổ chi phí các hoạt động marketing chức năng theo các kênh phân phối.
- Chuẩn bị báo cáo lời-lỗ cuả từng kênh phân phối (doanh thu bán hàng, chi
phí hàng bán, chi phí khác, lãi ròng).
- Xác định các biện pháp điều chỉnh cần thiết nhằm nâng cao khả năng sinh
lời, trên cơ sở các kết quả phân tích ở các bước trên.
Để giúp thẩm định các hoạt động marketing, một số doanh nghiệp đã lập ra một
chức vụ người kiểm tra marketing. Những người kiểm tra marketing được huấn luyện
cả về mặt tài chíïnh lẫn marketing, và có thể thực hiện những công việc phân tích tài
chính phức tạp về các khoản chi phí marketing đã thực hiện và theo kế hoạch.
8.3.3. Kiểm tra hiệu suất
Nhiều doanh nghiệp khi phân tích khả năng sinh lời của mình nhận thấy rằng
họ thu được rất ít lợi nhuận từ các sản phẩm, địa bàn hay thị trường mục tiêu. Vấn đề
đặt ra là cần tìm kiếm những phương thức quản trị hiệu quả hơn lực lượng bán hàng,
quảng cáo, khuyến mãi và phân phối sản phẩm. Việc phân tích hiệu suất của các yếu
tố marketing đó cho phép tìm ra những điểm yếu kém của chúng để thiết kế những
giải pháp có tính khả thi nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động marketing của doanh
178
nghiệp.
Hiệu suất của lực lượng bán hàng
Những người quản trị bán hàng cần theo dõi những chỉ tiêu quan trọng sau
đây về hiệu suất của lực lượng bán hàng trên địa bàn họ phụ trách:
- Số lần tiếp xúc khách hàng của một nhân viên bán hàng trong một ngày.
- Thời gian trung bình của một lần tiếp xúc.
- Doanh thu trung bình tính trên một lần tiếp xúc.
- Chi phí trung bình của một lần tiếp xúc.
- Tỉ lệ phần trăm đơn đặt hàng trên 100 cuộc tiếp xúc.
- Số khách hàng mới trong một kỳ.
- Số khách hàng bị mất đi trong một kỳ.
- Chi phí của lực lượng bán hàng tính bằng tỉ lệ phần trăm của tổng doanh thu
bán hàng.
Trên cơ sở phân tích các chỉ tiêu về hiệu suất của lực lượng bán hàng, có thể
phát hiện ra những vấn đề cần cải tiến của hoạt động marketing này.
Hiệu suất quảng cáo
Trên thực tế rất khó đo lường chính xác kết quả thu được bằng số tiền quảng
cáo đã bỏ ra. Nhưng ít nhất thì những người quản trị marketing cũng cần đánh giá
các số liệu thống kê sau đây:
- Chi phí quảng cáo trên 1000 khách hàng mục tiêu trong phạm vi bao quát
của phương tiện truyền thông.
- Tỷ lệ phần trăm số công chúng chú ý, nhìn thấy / liên tưởng và đọc phần lớn
nội dung quảng cáo.
- Dư luận người tiêu dùng về nội dung quảng cáo và hiệu quả quảng cáo.
- Thái độ của người tiêu dùng đối với sản phẩm trước và sau khi quảng cáo.
- Yêu cầu của người tiêu dùng tìm hiểu thông tin do quảng cáo kích thích.
- Chi phí trên một yêu cầu.
Ban lãnh đạo có thể thi hành một số biện pháp để nâng cao hiệu suất quảng
cáo, như làm tốt hơn việc xác định vị trí sản phẩm, xác định mục tiêu của quảng cáo,
thử nghiệm trước thông điệp, sử dụng máy tính để lựa chọn phương tiện quảng cáo
179
thích hợp và có hiệu quả, và tiến hành kiểm tra sau quảng cáo.
Hiệu suất khuyến mãi
Có rất nhiều công cụ khuyến mãi để kích thích người mua quan tâm và dùng
thử sản phẩm. Để nâng cao hiệu suất khuyến mãi, ban lãnh đạo cần theo dõi những
chi phí và mức độ tác động đến mức tiêu thụ của từng biện pháp khuyến mãi. Ban
lãnh đạo cần xem xét những số liệu thống kê:
- Tỷ lệ phần trăm khối lượng hàng đã bán theo hợp đồng.
- Chi phí trưng bày hàng tính trên một ngàn đồng doanh số bán.
- Tỷ lệ phần trăm phiếu mua hàng thu về.
- Số yêu cầu tìm hiểu thông tin do trình diễn đem lại.
Người quản trị khuyến mãi cần phân tích các kết quả của những biện pháp
khuyến mãi khác nhau và tư vấn cho những người quản trị sản phẩm sử dụng những
biện pháp khuyến mãi có hiệu quả chi phí cao nhất.
Hiệu suất phân phối
Phân phối là một hoạt động cực kỳ quan trọng nhằm đưa sản phẩm đến đúng
địa điểm, đúng thời gian và đúng khách hàng. Do đó, doanh nghiệp cần phân tích các
yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động phân phối sản phẩm để phát hiện vấn đề, làm cơ sở
cho việc thiết kế các giải pháp khả thi nhằm nâng cao hiệu quả phân phối. Có một số
công cụ để tăng cường kiểm tra dự trữ, cải thiện cách bố trí địa điểm kho hàng và
phương thức vận chuyển. Một vấn đề thường hay gặp phải là hiệu suất phân phối có
thể giảm khi doanh nghiệp tăng mạnh mức tiêu thụ. Mức tiêu thụ tăng vọt có thểî làm
cho doanh nghiệp không đảm bảo được việc giao hàng đúng thời hạn. Tình hình đó
đã làm cho khách hàng lan truyền tin đồn xấu về doanh nghiệp.
Và cuối cùng mức tiêu thụ lại tụt xuống. Ban lãnh đạo đối phó bằng cách tăng
mức khen thưởng cho lực lượng bán hàng để đảm bảo có được nhiều đơn hàng hơn.
Lực lượng bán hàng đã làm được điều đó, thế nhưng một lần nữa doanh nghiệp lại
không đảm bảo được ngày giao hàng như đã hứa. Ban lãnh đạo cần thấy được khâu
bị ách tắc và đầu tư thêm vào năng lực sản xuất và phân phối. Vòng tròn bên trái thể
hiện trường hợp mức tiêu thụ tăng vọt đã chuyển thành mức tiêu thụ giảm sút do giao
hàng chậm trễ. Vòng tròn bên phải thể hiện vấn đề chủ yếu là ban lãnh đạo không
180
đầu tư để tăng năng lực sản xuất và phân phối nhằm đáp ứng mức tiêu thụ tăng vọt.
8.3.4. Kiểm tra chiến lược marketing
Marketing là một lĩnh vực chức năng, trong đó các mục tiêu, chiến lược và
chương trình luôn phải thích ứng với những thay đổi nhanh chóng của thị trường.
Sau mỗi thời gian nhất định các doanh nghiệp cần đánh giá lại quan điểm
chiến lược, mục tiêu và hiệu quả của các hoạt động marketing để có những điều chỉnh
cần thiết.
Có hai công cụ cụ thể là đánh giá hiệu quả marketing và kiểm tra marketing.
a. Đánh giá hiệu quả marketing
Hiệu quả marketing không nhất thiết được thể hiện ra bằng kết quả mức tiêu
thụ và lợi nhuận hiện tại. Kết qủa tốt của một chi nhánh cũng có thể là do chi nhánh
đó được đặt đúng chỗ và đúng lúc, chứ không hẳn là có một ban lãnh đạo marketing
giỏi. Việc cải tiến marketing ở các chi nhánh này có thể cho phép nâng kết quả của
hoạt động marketing. Chi nhánh cũng có thể có kết quả kém, mặc dù có kế hoạch
marketing hoàn hảo.
Hiệu quả marketing của một doanh nghiệp hay chi nhánh được phản ánh qua
mức độ nó thể hiện năm nội dung chủ yếu của định hướng marketing: triết lý về
khách hàng, tổ chức các phối thức marketing (marketing-mix), thông tin marketing
chính xác, định hướng chiến lược và hiệu suất công tác. Các nội dung đánh giá hiệu
quả marketing được trình bày cụ thể như sau:
Triết lý về khách hàng
- Nhận thức của ban lãnh đạo về tầm quan trọng của việc cần có một tổ chức
doanh nghiệp có khả năng đáp ứng tốt nhất những nhu cầu và mong muốn của các
thị trường mục tiêu.
- Quan điểm của ban lãnh đạo về thực hiện marketing có phân đoạn thị trường
(phát triển những sản phẩm khác nhau và triển khai những kế hoạch marketing khác
nhau cho những phân đoạn thị trường khác nhau).
- Quan điểm toàn diện của ban lãnh đạo về hệ thống marketing (những người
cung ứng, các kênh, các đối thủ cạnh tranh, khách hàng, môi trường) khi lập kế hoạch
kinh doanh của mình.
181
Tổ chức marketing-mix
- Mức độ kết hợp marketing và kiểm tra những chức năng marketing chủ yếu.
- Mức độ hợp tác của những người quản trị marketing với những người quản
trị nghiên cứu, sản xuất, cung ứng, phân phối và tài chính.
- Tổ chức quá trình phát triển sản phẩm mới.
Thông tin marketing chính xác
- Mức độ hiểu biết về khách hàng, ảnh hưởng việc mua sắm, các kênh phân
phối và đối thủ cạnh tranh thông qua các cuộc nghiên cứu marketing.
- Mức độ am hiểu về tiềm năng tiêu thụ, khả năng sinh lời của các phân đoạn thị
trường, các khách hàng, địa bàn, sản phẩm, kênh phân phối và quy mô đơn hàng.
- Những hoạt động đã triển khai để nâng cao hiệu quả chi phí của các khoản
chi phí marketing khác nhau.
Định hướng chiến lược
- Mức độ và phạm vi triển khai việc lập kế hoạch marketing chính thức.
- Tình trạng hiện tại của chiến lược marketing.
- Mức độ chủ động xây dựng và thực hiện kế hoạch đối phó với những tình
huống bất trắc trong quá trình thực hiện chiến lược marketing.
Hiệu suất công tác
- Tình hình quán triệt và thực hiện chiến lược marketing.
- Mức độ sử dụng có hiệu quả những nguồn tài nguyên marketing.
- Khả năng phản ứng nhạy bén và có hiệu quả của ban lãnh đạo đối với những
biến động diễn ra trong các hoạt động marketing.
b. Kiểm tra marketing
Những doanh nghiệp phát hiện thấy những điểm yếu kém trong hoạt động
marketing khi áp dụng công cụ đánh giá hiệu quả marketing cần tiến hành nghiên
cứu kỹ hơn bằng cách kiểm tra marketing.
Kiểm tra marketing là việc kiểm tra định kỳ, độc lập, có hệ thống, toàn diện
môi trường marketing, mục tiêu, chiến lược và hoạt động của một doanh nghiệp, hay
đơn vị kinh doanh, nhằm xác định những lĩnh vực có vấn đề và những cơ hội, đề xuất
kế hoạch hành động nhằm nâng cao thành tích marketing của doanh nghiệp.
182
Đặc điểm của kiểm tra marketing
- Toàn diện. Kiểm tra marketing bao quát tất cả mọi hoạt động marketing chủ
yếu của một doanh nghiệp, chứ không chỉ đơn thuần kiểm tra các chức năng
marketing riêng lẻ như kiểm tra lực lượng bán hàng, định giá hay các hoạt động
marketing khác. Mặc dù kiểm tra chức năng là bổ ích, đôi khi nó làm cho ban lãnh
đạo hiểu nhầm nguyên nhân của vấn đề. Ví dụ, tình trạng biến động nhân sự quá mức
trong lực lượng bán hàng có thể là một triệu chứng của tình trạng sản phẩm và khuyến
mãi yếu kém của doanh nghiệp, chứ không phải của tình trạng huấn luyện chưa chu
đáo hay thù lao thấp đối với lực lượng bán hàng. Kiểm tra marketing toàn diện
thườìng có hiệu quả hơn trong việc xác định nguyên nhân thực tế của vấn đề
marketing của doanh nghiệp.
- Hệ thống. Kiểm tra marketing bao gồm một chuỗi những bước chẩn đoán
theo một trình tự nhất định, bao quát toàn bộ môi trường marketing vĩ mô và vi mô
của tổ chức, các mục tiêu và chiến lược marketing, các hệ thống và những hoạt động
marketing cụ thể. Kết quả chẩn đoán chỉ ra những cải tiến cần thiết nhất.
Chúng được thể hiện thành một kế hoạch các biện pháp chấn chỉnh, cả ngắn
hạn lẫn dài hạn, để nâng cao hiệu quả marketing chung của tổ chức.
- Độc lập. Kiểm tra marketing có thể được tiến hành theo sáu cách: tự kiểm
tra, kiểm tra chéo, kiểm tra từ trên xuống, bộ phận kiểm tra của doanh nghiệp, lực
lượng đặc nhiệm kiểm tra của doanh nghiệp, và thuê kiểm tra từ bên ngoài. Tự kiểm
tra, tức là những người quản trị sử dụng một hệ thống các tiêu chuẩn kiểm tra để đánh
giá các hoạt động của chính mình, có thể có ích, nhưng phần lớn các chuyên gia đều
nhất trí rằng tự kiểm tra thiếu tính khách quan và độc lập., nói chung kiểm tra tốt nhất
là do cố vấn thuê từ bên ngoài thực hiện để đảm bảo tính khách quan cần thiết, có
kinh nghiệm sâu rộng về một số ngành, có hiểu biết nhất định về ngành cụ thể đó, và
dành toàn bộ thời gian và tâm trí vào việc kiểm tra.
- Định kỳ. Thông thường kiểm tra marketing chỉ tiến hành sau khi nhận thấy
mức tiêu thụ giảm xuống, tinh thần của lực lượng bán hàng sa sút, và có những vấn
đề khác của doanh nghiệp phát sinh. Có khá nhiều doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng
khủng hoảng một phần là vì họ không rà soát lại các hoạt động marketing của mình
trong một thời gian khá dài. Kiểm tra marketing định kỳ có thể có ích cho cả những
183
doanh nghiệp lành mạnh cũng như những doanh nghiệp gặp rắc rối. Theo A.
Shuchman, “Không có hoạt động marketing nào lại luôn luôn tốt đến mức là không
thể cải tiến thêm được nữa. Ngay cả hoạt động tốt nhất cũng có thể làm tốt hơn. Trong
thực tế, ngay cả cái tốt nhất cũng cần phải tốt hơn nữa. Chỉ đối với một vài hoạt động
marketing, nếu có, là có thể vẫn tiếp tục thành công trong nhiều năm liền mà không
cần cải tiến gì".
Ban lãnh đạo doanh nghiệp cần định rõ mục tiêu, phạm vị, chiều sâu, nguồn
số liệu, biểu mẫu báo cáo và thời gian tiến hành việc kiểm tra marketing. Cần có một
kế hoạch chi tiết về các đối tượng sẽ phỏng vấn, thiết kế bảng câu hỏi, thời gian và
địa điểm tiến hành,... để đảm bảo thời gian và chi phí kiểm tra ở mức tối thiểu. Một
nguyên tắc cơ bản trong kiểm tra marketing là không được phép chỉ dựa vào những
số liệu và ý kiến do những người quản trị của doanh nghiệp cung cấp, mà phải phỏng
vấn khách hàng, đại diện bán hàng và các nhóm công chúng khác.
Nội dung của kiểm tra marketing
Kiểm tra marketing bao gồm sáu vấn đề chủ yếu: kiểm tra môi trường
marketing, chiến lược marketing, tổ chức marketing, hệ thống marketing, hiệu quả
marketing, và chức năng marketing.
Kiểm tra môi trường marketing
Môi trường vĩ mô:
- Nhân khẩu học. Những diễn biến và xu hướng chủ yếu tạo ra những cơ hội,
đe dọa đối với doanh nghiệp. Những biệp pháp để đối phó với những diễn biến và xu
hướng đó.
- Kinh tế. Những thay đổi chủ yếu về thu nhập, giá cả, tiết kiệm và tín dụng
tác động đến doanh nghiệp. Những biệp pháp để đối phó với những thay đổi đó.
- Sinh thái. Xu hướng thay đổi về chi phí và mức độ sẵn có của các nguồn tài
nguyên thiên nhiên và năng lượng cần thiết cho doanh nghiệp. Mức độ quan tâm của
doanh nghiệp đến tình trạng ô nhiễm và các biện pháp đã áp dụng để bảo vệ môi trường.
- Công nghệ. Những thay đổi chủ yếu trong công nghệ sản xuất, và vị trí của
doanh nghiệp về công nghệ đó cũng như những sản phẩm có thể thay thế của nó.
- Chính trị. Những thay đổi về luật pháp và các qui định về kiểm soát ô nhiễm,
đảm bảo cơ hội kiếm việc làm, an toàn sản phẩm, quảng cáo, kiểm soát giá cả,...có
184
thể tác động đến chiến lược và chương trình marketing.
- Văn hóa. Thái độ của công chúng đối với doanh nghiệp và sản phẩm của nó.
Những thay đổi nào về lối sống và quan niệm giá trị của khách hàng có thể tác động
đến doanh nghiệp.
Môi trường vi mô:
- Thị trường. Những thay đổi của thị trường về qui mô, mức độ tăng trưởng, phân
bố địa lý và mức lợi nhuận. Các phân đoạn thị trường chủ yếu của doanh nghiệp.
- Khách hàng. Những nhu cầu và tiến trình mua sắm của các nhóm khách hàng
khác nhau. Đánh giá của khách hàng hiện có và khách hàng tiềm năng đối với doanh
nghiệp và các đối thủ cạnh tranh về danh tiếng, chất lượng sản phẩm, dịch vụ, lực
lượng bán hàng và giá cả.
- Đối thủ cạnh tranh. Những đối thủ cạnh tranh chủ yếu và mục tiêu, chiến
lược, điểm mạnh, điểm yếu, qui mô và thị phần của họ. Những xu hướng ảnh hưởng
đến tình hình cạnh tranh và những sản phẩm thay thế.
- Phân phối. Những kênh phân phối chính, hiệu suất và tiềm năng phát triển
của chúng.
- Người cung ứng. Khả năng của những người cung ứng về các yếu tố sản xuất
chủ yếu, và xu hướng thay đổi của họ trong tương lai.
- Các dịch vụ hỗ trợ. Xu hướng thay đổi về chi phí và mức độ sẵn có của dịch
vụ vận tải, cơ sở kho bãi và các nguồn tài chính. Mức hiệu quả nghiên cứu marketing
và quảng cáo của doanh nghiệp.
-Công chúng. Ảnh hưởng của các nhóm công chúng và các biện pháp của
doanh nghiệp nhằm giao dịch có hiệu quả với các nhóm công chúng khác nhau đó.
Kiểm tra chiến lược marketing
- Nhiệm vụ của doanh nghiệp. Hoạt động marketing của doanh nghiệp có định
hướng theo thị trường hay không, và mức độ khả thi của nhiệm vụ đó.
- Mục tiêu marketing và các chỉ tiêu. Những mục tiêu và chỉ tiêu marketing làm
cơ sở cho việc hoạch định kế hoạch marketing và đo lường kết quả. Mức độ phù hợp
của các mục tiêu marketing với vị trí cạnh tranh, nguồn lực và cơ hội của doanh nghiệp.
- Chiến lược. Mức độ rõ ràng và thuyết phục của chiến lược marketing. Mức
độ phù hợp của chiến lược với các giai đoạn của chu kỳ sống sản phẩm. Các tiêu
185
chuẩn đánh giá và lựa chọn thị trường mục tiêu, và các đặc điểm của các thị trường
mục tiêu đó. Phân bổ các nguồn lực cho các yếu tố của marketing -mix và hiệu quả
của chúng.
Kiểm tra tổ chức marketing
- Cơ cấu tổ chức. Mức độ phân quyền và giao trách nhiệm cho người phụ
trách marketing phù hợp đến đâu với yêu cầu thỏa mãn tốt nhất mong muốn của
khách hàng. Hình thức tổ chức bộ phận marketing (theo chức năng, sản phẩm , địa
bàn, thị trường hay người sử dụng cuối cùng)
- Hiệu suất theo chức năng. Mối quan hệ thông tin và hợp tác giữa các bộ phận
marketing và tiêu thụ. Hình thức lập kế hoạch trong quản trị sản phẩm (lập kế hoạch
lợi nhuận hay lập kế hoạch tiêu thụ).
- Hiệu suất giao tiếp. Những vấn đề cần quan tâm giữa các chức năng marketing
và sản xuất, nghiên cứu và phát triển, cung ứng, tài chính, kế toán và pháp lý.
D) CÂU HỎI, BÀI TẬP, NỘI DUNG ÔN TẬP VÀ THẢO LUẬN CỦA
CHƯƠNG 8
- Câu hỏi ôn tập:
Câu 1. Các cách thức tổ chức marketing, ưu nhược điểm của từng phương
thức. Doanh nghiệp dựa vào những cơ sở nào để tổ chức marketing hiệu quả?
Câu 2. Các mô hình tổ chức bộ phận marketing của một doanh nghiệp, ưu
nhược điểm của từng mô hình. Làm thế nào để lựa chọn được một mô hình tổ chức
phòng marketing tối ưu?
Câu 3. Nội dung các hoạt động kiểm tra marketing: kiểm tra kế hoạch năm,
kiểm tra khả năng sinh lời, kiểm tra các hoạt đông chức năng marketing, kiểm toán
chiến lược marketing?
Câu 4. Phân tích các chỉ tiêu và phương pháp doanh nghiệp sử dụng để đánh
giá kế hoạch năm. Các chỉ tiêu và phương pháp nào là phù hợp với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ?
- Câu hỏi thảo luận: Doanh nghiệp Việt Nam lên chọn hình thức tổ chức bộ
186
phận marketing nào? Vì sao?
MỤC LỤC
CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VỀ QUẢN TRỊ MARKETING ............................. 1
1.1. NHỮNG KHÁI NIỆM CƠ BẢN CỦA MARKETING ...................................... 1
1.1.1. Nhu cầu, mong muốn và yêu cầu ...................................................................... 1
1.1.2. Sản phẩm ........................................................................................................... 2
1.1.3. Trao đổi, giao dịch và các mối quan hệ ............................................................ 2
1.1.4. Thị trường.......................................................................................................... 3
1.1.5. Giá trị khách hàng (customer value) ................................................................. 3
1.2. QUẢN TRỊ MARKETING .................................................................................. 3
1.2.1. Khái niệm .......................................................................................................... 3
1.2.2. Những định hướng phát triển của marketing .................................................... 4
1.2.3.Các mục tiêu của hệ thống Marketing ............................................................... 7
1.2.4. Tiến trình quản trị Marketing ............................................................................ 8
1.2.5. Nhà quản trị marketing.................................................................................... 14
CHƯƠNG 2. HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC MARKETING ........................... 14
2.1. KHÁI NIỆM VỀ CHIẾN LƯỢC MARKETING .............................................. 15
2.1.1. Khái niệm chiến lược và hoạch định chiến lược ............................................. 15
2.1.2. Vai trò của chiến lược Marketing ................................................................... 16
2.2. TIẾN TRÌNH HOẠCH ĐỊNH CHIẾN LƯỢC MARKETING ......................... 17
2.2.1. Xác định nhiệm vụ của doanh nghiệp ............................................................. 17
2.2.2. Xác định mục tiêu của doanh nghiệp .............................................................. 17
2.2.3. Định dạng chiến lược kinh doanh ................................................................... 18
2.2.4. Hoạch định Marketing..................................................................................... 24
CHƯƠNG 3: PHÂN TÍCH CƠ HỘI THỊ TRƯỜNG VÀ CÁC CHIẾN LƯỢC CẠNH TRANH ........................................................................................................ 27
3.1. HỆ THỐNG THÔNG TIN VÀ NGHIÊN CỨU MARKETING ....................... 27
3.3.1 Hệ thống thông tin marketing (hệ thống hỗ trợ ra quyết định: MDSS) ......... 27
3.1.2. Nghiên cứu marketing ..................................................................................... 31
187
3.2. PHÂN TÍCH MÔI TRƯỜNG MARKETING ................................................... 42
3.2.1. Khái niệm và ý nghĩa của việc phân tích môi trường marketing ................... 42
3.2.2. Phân tích môi trường marketing vĩ mô .......................................................... 44
3.2.3. Phân tích môi trường marketing vi mô .......................................................... 52
3.2.4. Phân tích môi trường nội bộ ........................................................................... 54
3.3. PHÂN TÍCH THỊ TRƯỜNG VÀ LỰA CHỌN THỊ TRƯỜNG MỤC TIÊU.. 58
3.3.1. Phân đoạn thị trường và lựa chọn thị trường mục tiêu ................................... 58
3.3.2. Định vị thị trường ........................................................................................... 63
3.4. PHÂN TÍCH ĐỐI THỦ CẠNH TRANH ......................................................... 66
3.4.1. Sự cần thiết phải nghiên cứu đối thủ cạnh tranh ............................................ 66
3.4.2. Xác định đối thủ cạnh tranh ........................................................................... 66
3.4.3. Xác định chiến lược của đối thủ cạnh tranh ................................................... 67
3.4.4. Xác định mục tiêu của đối thủ ........................................................................ 67
3.4.5. Đánh giá điểm mạnh, điểm yếu của đối thủ ................................................... 68
3.4.6. Ước lượng các kiểu phản ứng của đối thủ ..................................................... 68
3.4.7. Thiết kế hệ thống tình báo cạnh tranh ............................................................ 69
3.4.8. Các quan điểm định hướng theo khách hàng và đối thủ cạnh tranh .............. 70
3.5. CÁC CHIẾN LƯỢC MARKETING CẠNH TRANH .................................... 70
3.5.1. Các chiến lược của người dẫn đầu thị trường ................................................ 70
3.5.2. Những chiến lược của người thách thức thị trường ....................................... 72
3.5.3. Những chiến lược của người đi theo thị trường ............................................. 73
3.5.4. Những chiến lược của người lấp chỗ trống thị trường ................................... 74
CHƯƠNG 4: QUẢN TRỊ SẢN PHẨM ............................................................... 78
4.1. KHÁI NIỆM VỀ SẢN PHẨM .......................................................................... 78
4.1.1. Định nghĩa sản phẩm ...................................................................................... 78
4.1.2. Các cấp độ của sản phẩm ............................................................................... 79
4.2. PHÂN LOẠI SẢN PHẨM ................................................................................ 80
4.2.1. Hàng bền và hàng không bền ......................................................................... 80
4.2.2. Sản phẩm tiêu dùng ........................................................................................ 81
4.2.3. Sản phẩm công nghiệp ................................................................................... 82
188
4.3. QUYẾT ĐỊNH NHÃN HIỆU SẢN PHẨM ...................................................... 83
4.3.1. Khái niệm về nhãn hiệu sản phẩm .................................................................. 83
4.3.2. Sự cần thiết phải đặt tên cho nhãn hiệu sản phẩm .......................................... 84
4.3.3. Quyết định về người đứng tên hiệu ................................................................. 85
4.3.4. Quyết định tên hiệu riêng hay tên công ty ...................................................... 85
4.3.5. Quyết định về chất lượng nhãn hiệu ............................................................... 85
4.3.6. Quyết định mở rộng nhãn hiệu ........................................................................ 85
4.3.7. Quyết định đa nhãn hiệu ................................................................................. 86
4.3.8. Quyết định, tái định vị nhãn hiệu .................................................................... 86
4.4. NHỮNG QUYẾT ĐỊNH VỀ BAO BÌ VÀ QUẢN TRỊ DANH MỤC SẢN PHẨM ....................................................................................................................... 86
4.4.1. Quyết định về bao bì sản phẩm ....................................................................... 86
4.4.2. Quản trị danh mục sản phẩm ........................................................................... 87
4.5. CHIẾN LƯỢC MARKETING THEO TỪNG CHU KỲ SỐNG CỦA SẢN PHẨM ....................................................................................................................... 89
4.5.1.Giai đoạn tung ra thị trường ............................................................................. 89
4.5.2. Giai đoạn phát triển ......................................................................................... 93
4.5.3. Giai đoạn chín muồi (sung mãn) ..................................................................... 94
4.5.4. Giai đoạn suy thoái .......................................................................................... 99
4.6. PHÁT TRIỂN SẢN PHẨM MỚI .................................................................... 104
4.6.1. Sản phẩm mới và các cách thức của sản phẩm mới ...................................... 104
4.6.2. Tiến trình phát triển sản phẩm mới ............................................................... 106
4.7. QUYẾT ĐỊNH VỀ DỊCH VỤ KHÁCH HÀNG ............................................. 117
CHƯƠNG 5 : QUẢN TRỊ GIÁ ............................................................................ 119
5.1. KHÁI NIỆM VÀ CÁC NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG TỚI ĐỊNH GIÁ ............. 119
5.1.1. Khái niệm giá ................................................................................................ 119
5.1.2. Các yếu tố ảnh hưởng tới định giá ................................................................ 119
5.2. PHƯƠNG PHÁP ĐỊNH GIÁ........................................................................... 125
5.2.1. Định giá dựa trên chi phí ............................................................................... 125
5.2.2. Định giá dựa trên người mua ....................................................................... 126
5.2.3. Định giá dựa vào cạnh tranh. ........................................................................ 126
189
5.3. CÁC CHIẾN LƯỢC ĐỊNH GIÁ ..................................................................... 127
5.3.1. Các chiến lược định giá sản phẩm mới. ....................................................... 127
5.3.2. Các chiến lược định giá phối thức sản phẩm. .............................................. 129
5.3.3. Các chiến lược điều khiển giá cả. ................................................................. 130
5.3.4. Những chiến lược điều chỉnh giá. ................................................................ 133
CHƯƠNG 6 : QUẢN TRỊ KÊNH PHÂN PHỐI .............................................. 135
6.1. BẢN CHẤT VÀ CHỨC NĂNG CỦA KÊNH PHÂN PHỐI ......................... 136
6.1.1. Vai trò của trung gian thương mại ............................................................... 136
6.1.2. Các loại kênh marketing ............................................................................... 137
6.1.3. Các chức năng của kênh marketing .............................................................. 137
6.2. TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG CỦA KÊNH .................................................. 138
6.2.1 Hoạt động của kênh phân phối: ..................................................................... 138
6.2.2. Tổ chức kênh phân phối ............................................................................... 139
6.3. HOẠCH ĐỊNH VÀ QUYẾT ĐỊNH KÊNH PHÂN PHỐI ............................. 141
6.3.1. Thiết lập các mục tiêu và các ràng buộc ...................................................... 141
6.3.2. Tuyển chọn thành viên của kênh .................................................................. 141
6.3.3. Kích thích thành viên của kênh .................................................................... 141
6.3.4. Đánh giá các thành viên của kênh ................................................................ 142
6.4. TỔ CHỨC HỆ THỐNG BÁN LẺ................................................................... 142
6.4.1. Theo mức độ phục vụ ................................................................................... 142
6.4.2. Theo mặt hàng kinh doanh ........................................................................... 142
6.4.3. Theo giá bán ................................................................................................. 143
6.4.4. Bán lẻ không dùng cửa hiệu ......................................................................... 143
6.4.5. Cửa hàng chuỗi (Chain Store) ...................................................................... 143
6.4.6. Hợp tác xã tiêu thụ ....................................................................................... 143
6.4.7. Tổ chức độc quyền kinh tiêu ........................................................................ 143
6.5. TỔ CHỨC HỆ THỐNG BÁN SỈ .................................................................... 144
6.5.1. Nhà bán sỉ thương nghiệp ............................................................................ 144
6.5.2. Các nhà môi giới và đại lý ............................................................................ 144
6.5.3. Chi nhánh và văn phòng của nhà sản xuất ................................................... 145
190
6.5.4. Các nhà bán sỉ tạp loại .................................................................................. 145
6.6. TỔ CHỨC LỰC LƯỢNG BÁN HÀNG .......................................................... 145
CHƯƠNG 7 : QUẢN TRỊ XÚC TIẾN ................................................................ 147
7.1. KHÁI NIỆM VỀ PHỐI THỨC TRUYỀN THÔNG ....................................... 147
7.2. PHÁT TRIỂN CHIẾN LƯỢC TRUYỀN THÔNG HIỆU QUẢ ..................... 151
7.2.1 Định dạng công chúng mục tiêu .................................................................... 151
7.2.2 Xác định mục tiêu truyền thông ..................................................................... 151
7.2.3 Thiết kế thông điệp ......................................................................................... 152
7.2.4 Lựa chọn các phương tiện truyền thông ......................................................... 153
7.2.5 Xây dựng ngân sách truyền thông ................................................................. 153
7.3. QUYẾT ĐỊNH HỆ THỐNG XÚC TIẾN ....................................................... 153
7.3.1. Quảng cáo ...................................................................................................... 154
7.3.2. Xúc tiến bán (Khuyến mại/ Khuyến mãi) ..................................................... 158
7.3.3 Quan hệ công chúng ....................................................................................... 159
7. 3.4. Marketing trực tiếp ....................................................................................... 160
7.3.5. Bán hàng cá nhân .......................................................................................... 161
CHƯƠNG 8: TỔ CHỨC THỰC HIỆN VÀ KIỂM TRA, ĐÁNH GIÁ CÁC HOẠT ĐỘNG MARKETING ............................................................................. 164
8.1 TỔ CHỨC THỰC HIỆN CHIẾN LƯỢC VÀ CHƯƠNG TRÌNH MARKETING ................................................................................................................................. 165
8.1.1 Nguyên nhân dẫn đến việc thực thi kém hiệu qủa ......................................... 165
8.1.2. Tiến trình thực hiện ....................................................................................... 166
8.2. TỔ CHỨC MARKETING ............................................................................... 170
8.2.1. Sự phát triển của bộ phận marketing ............................................................. 170
8.2.2. Những hình thức tổ chức bộ phận marketing ................................................ 171
8.3. KIỂM TRA HOẠT ĐỘNG MARKETING ..................................................... 174
8.3.1. Kiểm tra kế hoạch năm ................................................................................. 175
8.3.2. Kiểm tra khả năng sinh lời ............................................................................ 178
8.3.3. Kiểm tra hiệu suất ......................................................................................... 178
191
8.3.4. Kiểm tra chiến lược marketing ..................................................................... 181