intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài giảng Kiểm toán - Bài 3: Bằng chứng kiểm toán

Chia sẻ: Kim Cương KC | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:36

37
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

"Bài giảng Kiểm toán - Bài 3: Bằng chứng kiểm toán" cung cấp các kiến thức về vai trò của bằng chứng trong kiểm toán; yêu cầu đối với bằng chứng kiểm toán; vận dụng được những kỹ thuật khác nhau trong thu thập bằng chứng kiểm toán; thủ tục kiểm toán để thu thập bằng chứng kiểm toán.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài giảng Kiểm toán - Bài 3: Bằng chứng kiểm toán

  1. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán Bài 3 BẰNG CHỨNG KIỂM TOÁN Nội dung Mục tiêu Trong bài này, người học sẽ được tiếp cận  Hiểu được vai trò của bằng chứng trong các nội dung: kiểm toán.  Bản chất của bằng chứng kiểm toán,  Hiểu được những yêu cầu đối với bằng chứng thu thập bằng chứng trong quy trình kiểm toán. hình thành ý kiến kiểm toán báo cáo  Hiểu và vận dụng được những kỹ thuật khác tài chính. nhau trong thu thập bằng chứng kiểm toán.  Các yêu cầu đối với bằng chứng  Hiểu và vận dụng được thủ tục kiểm toán để kiểm toán. thu thập bằng chứng kiểm toán.  Các yếu tố ảnh hưởng tới mỗi yêu cầu của bằng chứng kiểm toán trong kiểm Hướng dẫn học toán tài chính. Để học tốt bài này sinh viên cần:  Các thủ tục kiểm toán thu thập bằng  Đọc bài giảng text tương ứng với mỗi nội chứng kiểm toán trong kiểm toán tài dung kết hợp với thực hành các bài tập chính để thu thập bằng chứng kiểm cuối bài. toán đủ bằng chứng kiểm toán  Liên hệ với những tài liệu được gợi ý đọc thích hợp. thêm theo những nội dung có liên quan.  Kết hợp với hiểu biết về kế toán, tổ chức thông tin kế toán để hiểu những nguồn thu thập bằng chứng kiểm toán cụ thể. 64 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  2. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán Tình huống dẫn nhập Một điểm chung giữa kiểm toán với những hoạt động kiểm tra khác là kết luận phải dựa trên cơ sở vững chắc - những bằng chứng. Nghiên cứu tình huống này giúp anh/chị thấy được vai trò của bằng chứng kiểm toán trong đưa ra kết luận nói chung và kết luận kiểm toán nói riêng. Giả sử, thông tin ở một tờ báo cho biết 10% tổng số xe máy đang lưu hành trên địa bạn Hà Nội đang trong tình trạng thiếu an toàn vì ta lông trên lốp xe đã mòn, không còn đủ tiêu chuẩn độ dày (tiêu chuẩn là 1mm). Việt thực hiện kiểm tra kết luận này bằng cách kiểm tra lốp xe của 100 xe máy trong khu vực lân cận. Thống kê các kết quả bạn có kết quả thể hiện trong bảng sau: Bảng 3.1. Bảng thống kê kết quả kiểm tra ta lông lốp xe Xe có lốp không đủ tiêu chuẩn % xe không đủ tiêu chuẩn Tổng xe được Thứ tự kiểm tra kiểm tra Số lượng Cộng dồn % Cộng dồn 10 xe đầu tiên 10 2 2 20% 20% 10 xe tiếp theo 20 0 2 0% 20% 10 xe tiếp theo 30 1 3 10% 10% 10 xe tiếp theo 40 0 3 0% 7% 10 xe tiếp theo 50 1 4 10% 8% 10 xe tiếp theo 60 2 6 20% 10% 10 xe tiếp theo 70 1 7 10% 10% 10 xe tiếp theo 80 2 9 20% 11% 10 xe tiếp theo 90 0 9 0% 10% 10 xe tiếp theo 100 1 10 10% 10% Nếu anh/chị là Việt, anh/chị sẽ nhìn nhận kết quả kiểm tra trong quan hệ với kết luận của bài báo như thế nào với mỗi tình huống sau đây: 1. Nếu Việt không thể khẳng định 100 xe máy đã kiểm tra mang tính đại diện cho tất cả các xe máy lưu hành trên địa bàn Hà Nội thì kết luận của bài báo cần nhìn nhận như thế nào? 2. Trong giai đoạn đầu của quá trình kiểm tra, các kết quả khảo sát có thể dẫn tới phán đoán của anh/chị trong quan hệ với kết luận trên (báo) như thế nào? Nếu tiếp tục kiểm tra, kết luận của anh/chị có thay đổi không? 65 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  3. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán 3.1. Yêu cầu đối với bằng chứng kiểm toán 3.1.1. Khái niệm bằng chứng kiểm toán Quy trình hình thành ý kiến kiểm toán thực chất là quá trình các kiểm toán viên thực hiện những công việc khác nhau để tìm kiếm bằng chứng kiểm toán làm cơ sở cho kiểm toán viên đưa ra ý kiến về đối tượng được kiểm toán. Do đó, bằng chứng kiểm toán có ý nghĩa quan trọng ảnh hưởng quyết định tới thành công của cuộc kiểm toán. Ngoài ra, bằng chứng kiểm toán còn là cơ sở để giám sát chất lượng hoạt động của các kiểm toán viên thực hiện kiểm toán trong tổ chức kiểm toán khác nhau (kiểm toán độc lập, kiểm toán nhà nước, kiểm toán nội bộ). Trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên muốn giảm rủi ro của việc phát hành một ý kiến chấp nhận hoàn toàn báo cáo tài chính hoặc hoạt động kiểm soát nội bộ khi chúng vẫn có thể chứa đựng một sai phạm trọng yếu hoặc yếu điểm kiểm soát trọng yếu. Vì thế, kiểm toán viên cố gắng tìm kiếm tất cả những thông tin từ nhiều nguồn khác nhau làm bằng chứng để xác định thông tin đã được trình bày trên báo cáo tài chính và những công bố có phù hợp với những đặc tính đã thiết lập hay không. Theo Chuẩn mực Kiểm toán quốc tế 15 (AS15), bằng chứng kiểm toán là thông tin thu thập được bằng những thủ tục kiểm toán hoặc những nguồn khác được kiểm toán viên sử dụng dẫn đến những kết luận, trong đó có ý kiến kiểm toán viên. Bằng chứng kiểm toán bao gồm cả thông tin hỗ trợ và chứng thực những cơ sở dẫn liệu quản lý liên quan tới báo cáo tài chính hoặc kiểm soát nội bộ đối với lập báo cáo tài chính và cả thông tin trái ngược với những cơ sở dẫn liệu này. Định nghĩa về bằng chứng kiểm toán nêu trên có nội dung tương tự như định nghĩa về bằng chứng kiểm toán được trình bày trong chuẩn mực và thông báo của AICPA và IAASB. Với quan điểm tương tự, Chuẩn mực Kiểm toán Việt Nam số 500 (VSA 500) xác định: “Bằng chứng kiểm toán là tất cả các tài liệu, thông tin xác thực mà các kiểm toán viên thu thập được liên quan đến cuộc kiểm toán và dựa trên các thông tin này kiểm toán viên hình thành nên ý kiến của mình". Theo VSA 500, Đoạn 10 quy định: “Kiểm toán viên và công ty kiểm toán phải thu thập đầy đủ các bằng chứng kiểm toán thích hợp để làm cơ sở đưa ra ý kiến của mình về báo cáo tài chính của đơn vị được kiểm toán”. Theo đó, kiểm toán viên phải thu thập đủ bằng chứng thích hợp trước khi phát hành ý kiến kiểm toán. Mặc dù vậy, việc xác định bằng chứng “phù hợp” (appropriate) và “đủ” (sufficient) là vấn đề không dễ dàng. Theo AICPA Chuẩn mực Kiểm toán AU-C 500 định nghĩa sự phù hợp của bằng chứng kiểm toán là “thước đo chất lượng của bằng chứng kiểm toán (nó thể hiện sự liên quan - relevance, và tin cậy - reliability, trong hỗ trợ cho các kết luận trong đó có ý kiến kiểm toán)”; Sự đầy đủ của bằng chứng kiểm toán là “thước đo số lượng bằng chứng kiểm toán. Số lượng bằng chứng kiểm toán cần thiết bị ảnh hưởng bởi đánh giá của kiểm toán viên về những rủi ro sai phạm trọng yếu và cũng ảnh hưởng bởi chất lượng của bằng chứng kiểm toán”. Mối quan hệ giữa rủi ro và các yêu cầu thu thập bằng chứng kiểm toán được khái quát trong hình 3.1 dưới đây. 66 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  4. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán Phù hợp Liên quan Tin cậy Chất lượng của bằng chứng Rủi ro kiểm toán viên thu thập Tài khoản, cơ sở dữ liệu bị đánh giá sai phạm trọng yếu Rủi ro Rủi ro tiềm tàng kiểm soát Đầy đủ Số lượng bằng chứng kiểm toán viên thu thập Hình 3.1. Quan hệ giữa rủi ro và yêu cầu đối với bằng chứng kiểm toán Những yếu tố xác định sự phù hợp và đầy đủ thường chịu ảnh hưởng từ rủi ro sai phạm trọng yếu của công ty khách hàng và rủi ro yếu kiểm soát nội bộ trọng yếu. Nói cách khác, yêu cầu bằng chứng kiểm toán liên quan tới rủi ro tiềm tàng và rủi ro kiểm soát. Việc xác định các yêu cầu đối với bằng chứng sẽ khác nhau với những tài khoản và cơ sở dẫn liệu khác nhau. Chuẩn mực kiểm toán quốc tế khuyến khích các kiểm toán viên tập trung vào những tài khoản và cơ sở dẫn liệu có khả năng sai phạm trọng yếu lớn nhất. Hình 3.1 cho thấy mối liên hệ giữa các yêu cầu đối với bằng chứng kiểm toán ở những mức rủi ro khác nhau hay chi phí để thu thập đủ bằng chứng kiểm toán thích hợp. 3.1.2. Tìm hiểu các yêu cầu đối với bằng chứng kiểm toán a. Sự phù hợp của bằng chứng kiểm toán Sự phù hợp của bằng chứng kiểm toán là một cách đo lường chất lượng bằng chứng kiểm toán. Sự phù hợp bao gồm sự liên quan của bằng chứng với sự hiệu lực của cơ sở dẫn liệu được kiểm tra và sự tin cậy của bằng chứng - thể hiện tính thuyết phục của bằng chứng. Sự liên quan của bằng chứng liên quan tới mối quan hệ giữa thủ tục kiểm toán được thực hiện với cơ sở dẫn liệu được kiểm toán. Sự tin cậy của bằng chứng thường chịu ảnh hưởng bởi nguồn bằng chứng, bản chất và tình huống cụ thể khi thu thập bằng chứng. Sự liên quan của bằng chứng kiểm toán Bằng chứng kiểm toán phải có liên quan hoặc thích đáng tới mục tiêu kiểm toán mà kiểm toán viên đang kiểm tra trước khi xem xét tới độ tin cậy. Sự liên quan của bằng chứng kiểm toán tới cơ sở dẫn liệu được kiểm toán chịu ảnh hưởng bởi một số nhân tố khác nhau như: Mục tiêu của thủ tục kiểm toán thực hiện; hướng thực hiện thử nghiệm; thủ tục kiểm toán cụ thể hoặc một nhóm thủ tục được thực hiện. Ngoài ra, bằng chứng 67 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  5. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán có thể liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới một cơ sở dẫn liệu. Ví dụ, kiểm toán viên nghi ngờ khả năng nghiệp vụ bán hàng bị ghi trùng lặp làm doanh thu tăng (Mục tiêu xảy ra). Sau đó, kiểm toán viên chọn một mẫu hóa đơn bán hàng và thực hiện đối chiếu theo trình tự kế toán tới nhật ký bán hàng, hóa đơn vận chuyển, biên bản bàn giao hàng hóa. Trường hợp này, bằng chứng kiểm toán viên thu thập không liên quan tới mục tiêu kiểm toán. Vì vậy, bằng chứng thu thập được không có độ tin cậy với mục tiêu xảy ra (trong kiểm tra nghiệp vụ bán hàng). Sự liên quan của bằng chứng có thể được xem xét chỉ trong quan hệ với những mục tiêu kiểm toán cụ thể. Bằng chứng có thể liên đới tới một mục tiêu kiểm toán nhưng có thể không chỉ có liên quan tới một mục tiêu kiểm toán nhưng không thể liên quan tới tất cả các mục tiêu kiểm toán. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới sự liên quan của bằng chứng trình bày chi tiết dưới đây:  Mục đích của một thủ tục kiểm toán Thủ tục kiểm toán được phân chia thành 3 nhóm: đánh giá rủi ro, thử nghiệm kiểm soát, thủ tục cơ bản. Những thủ tục kiểm toán có mục đích thu thập bằng chứng khác nhau: o Thủ tục đánh giá rủi ro thường được sử dụng trong lập kế hoạch kiểm toán để nhận diện những rủi ro sai phạm trọng yếu; o Thử nghiệm kiểm soát thường sử dụng khi kiểm toán viên muốn đánh giá hiệu lực hoạt động của hoạt động kiểm soát trong việc ngăn chặn, phát hiện và sửa chữa sai phạm trọng yếu; o Thủ tục kiểm toán cơ bản sử dụng khi kiểm toán viên muốn thu thập bằng chứng trực tiếp về khả năng tồn tại sai phạm trọng yếu trên báo cáo tài chính.  Hướng thực hiện thử nghiệm Sự liên quan của bằng chứng thu thập được tới cơ sở dẫn liệu được kiểm tra bằng thủ tục kiểm toán có thể bị ảnh hưởng bởi hướng thực hiện kiểm tra. Kiểm tra trực tiếp liên quan tới kiểm tra số dư cho cả khả năng đánh giá tăng và đánh giá giảm. Ví dụ, nếu kiểm toán viên muốn kiểm tra cơ sở dẫn liệu tồn tại đối với tài khoản Phải trả người bán, kiểm toán viên sẽ kiểm tra liệu tất cả những khoản phải trả người bán đã ghi nhận thực tế tồn tại hay không, nghĩa là kiểm toán viên kiểm tra khả năng đánh giá tăng khoản phải trả người bán. Trong trường hợp này, điểm khởi đầu cho kiểm tra có thể sẽ là tất cả những khoản phải trả người bán đã ghi nhận, kiểm toán viên sẽ thực hiện thủ tục để thu thập bằng chứng chứng minh về sự tồn tại của những khoản phải trả đã ghi nhận trên sổ. Do đó, kiểm toán viên có thể tìm kiếm những tài liệu hỗ trợ để khẳng định cơ sở dẫn liệu này như hóa đơn người bán. Ngược lại, nếu kiểm toán viên muốn kiểm tra khả năng ghi giảm khoản phải trả người bán (cơ sở dẫn liệu trọn vẹn/đầy đủ) thì thu thập bằng chứng từ những ghi chép những khoản phải trả đã ghi nhận trên sổ sẽ không thu được bằng chứng liên quan. Để thu thập bằng chứng liên quan tới cơ sở dẫn liệu trọn vẹn, kiểm toán viên phải thu thập bằng chứng liên quan tới khả năng khoản phải trả người bán đã không được ghi nhận từ nghiệp vụ thanh toán sau ngày kết thúc niên độ, báo cáo đối chiếu của nhà cung cấp, chênh lệch với báo cáo nhận hàng. Trong ví dụ trên kiểm toán viên đã sử dụng 2 hướng kiểm tra để thu thập bằng chứng liên quan tới cơ sở dẫn liệu khác nhau là tồn tại và trọn vẹn. Khi kiểm toán viên thực 68 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  6. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán hiện thử nghiệm theo hướng/trình tự xuôi theo hướng/trình tự xử lý nghiệp vụ, kiểm toán viên thu thập bằng chứng liên quan tới cơ sở dẫn liệu trọn vẹn. Hướng kiểm tra như vậy gọi là kiểm tra xuôi theo trình tự nghiệp vụ (tracing). Kiểm tra xuôi theo trình tự đôi khi liên quan tới quá trình làm lại quy trình. Do đó, hướng kiểm tra này thường thể hiện bằng việc kiểm toán viên lựa chọn một mẫu những tài liệu gốc và kiểm tra xem chúng có được ghi nhận đủ trên nhật ký hoặc sổ cái thích hợp không. Ngược lại, khi kiểm toán viên muốn thu thập bằng chứng liên quan tới cơ sở dẫn liệu tồn tại, kiểm toán viên thực hiện thử nghiệm theo hướng ngược lại với quy trình/trình tự xử lý nghiệp vụ. Hướng kiểm tra như vậy thường gọi là kiểm tra theo trình tự ngược với quy trình xử lý nghiệp vụ (vouching). Theo hướng này, kiểm toán viên thường lựa chọn một mẫu những nghiệp vụ đã được ghi nhận trên sổ và đối chiếu với nguồn tài liệu gốc.Trong thực hiện thủ tục kiểm toán, điều quan trọng phải lưu ý là một số cơ sở dẫn liệu đã thể hiện bản chất những chỉ dẫn hướng kiểm tra. Cơ sở dẫn liệu tồn tại/xảy ra xác định khả năng đánh giá tăng trong khi cơ sở dẫn liệu trọn vẹn lại xác định hướng kiểm tra là đánh giá giảm. Vì thế, cơ sở dẫn liệu được kiểm tra xác định hướng thực hiện thử nghiệm và loại bằng chứng có liên quan. Tài sản và doanh thu thường được kiểm tra với hướng đánh giá tăng vì xu hướng thông thường (giả thuyết) của nhà quản trị mong muốn cải thiện kết quả hoạt động. Kiểm tra một tài sản theo hướng đánh giá tăng cũng cung cấp bằng chứng về khả năng đánh giá tăng của doanh thu, nợ hoặc khả năng đánh giá giảm tiềm tàng của những tài sản khác hoặc tài khoản chi phí liên quan. Ngược lại với tài sản và doanh thu, nợ và chi phí thường có khả năng bị đánh giá giảm vì giả thuyết nhà quản trị thường mong muốn cải thiện kết quả tài chính. Do đó, kiểm tra nợ theo hướng đánh giá giảm cung cấp bằng chứng về khả năng đánh giá giảm của chi phí hoặc tài sản hoặc đánh giá tăng của doanh thu và những khoản nợ khác. Để dự đoán về mối liên hệ này, kiểm toán viên cần xuất phát từ mối quan hệ đối ứng trong các nghiệp vụ ghi kép.  Loại thủ tục Một thủ tục kiểm toán cụ thể có thể cung cấp bằng chứng kiểm toán liên quan tới những cơ sở dẫn liệu nhất định nhưng không phải tất cả các cơ sở dẫn liệu. Ví dụ, nếu kiểm toán viên thực hiện thủ tục kiểm toán để thu thập bằng chứng về sự tồn tại của một tài sản hữu hình như hàng tồn kho hoặc vô hình như phải thu khách hàng, kiểm toán viên mong nuốn thực hiện thủ tục bổ sung để thu thập bằng chứng liên quan tới cơ sở dẫn liệu quyền. Nếu kiểm toán viên thực hiện kiểm tra từ kho của công ty khách hàng để kiểm tra về hàng tồn kho, kiểm toán viên có thể thu thập bằng chứng liên quan tới sự tồn tại của hàng tồn kho. Tuy nhiên, thực hiện thủ tục theo cách này không cung cấp bằng chứng liên quan tới cơ sở dẫn liệu quyền (sở hữu) với hàng tồn kho của công ty khách hàng. Trong một số trường hợp, một thủ tục có thể cung cấp bằng chứng liên quan tới nhiều cơ sở dẫn liệu. Ví dụ, nếu một kiểm toán viên kiểm tra những tài liệu liên quan tới việc thu tiền từ các khoản phải thu khách hàng sau ngày kết thúc năm tài chính, thủ tục kiểm toán này có thể cung cấp bằng chứng liên quan tới cả cơ sở dẫn liệu tồn tại và cơ sở dẫn liệu đánh giá của khoản phải thu khách hàng.  Bằng chứng trực tiếp và gián tiếp 69 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  7. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán Bằng chứng kiểm toán viên thu thập được có thể liên quan trực tiếp hoặc gián tiếp tới cơ sở dẫn liệu được kiểm tra. Một số bằng chứng liên quan trực tiếp tới một cơ sở dẫn liệu nhất định. Ví dụ, trao đổi với người mua của khách thể kiểm toán về khả năng liệu người mua có nợ một khoản phải trả cho hàng hóa mua (với khách thể kiểm toán) sẽ cung cấp bằng chứng trực tiếp về cơ sở dẫn liệu tồn tại của số dư khoản phải thu khách hàng. Bằng chứng gián tiếp không phải là những bằng chứng có liên quan trực tiếp tới cơ sở dẫn liệu được kiểm tra. Ví dụ, kiểm toán viên có thể thực hiện thủ tục phân tích cơ bản đối với một số dư tài khoản như phân tích chi phí và so sánh tài khoản chi phí với những năm trước. Giả sử kiểm toán viên không phát hiện được những kết quả như kỳ vọng, trường hợp này kiểm toán viên không có bằng chứng liên quan trực tiếp về cơ sở dẫn liệu đánh giá đối với khoản mục chi phí. Trong một số trường hợp, bằng chứng gián tiếp như vậy có thể đầy đủ. Trong một số trường hợp khác, kiểm toán viên có thể cần thu thập bằng chứng kiểm toán trực tiếp về chi phí khi khoản mục này tồn tại đánh giá rủi ro sai phạm trọng yếu ở mức cao. Sự tin cậy của bằng chứng kiểm toán Sự tin cậy của bằng chứng kiểm toán được xét đoán thông qua khả năng cung cấp bằng chứng thuyết phục liên quan tới mục tiêu kiểm toán cụ thể sử dụng để đánh giá. Trong xem xét về yêu cầu sự tin cậy của bằng chứng kiểm toán, Chuẩn mực kiểm toán quốc tế ISA 500 (A31) cho rằng “Sự tin cậy của thông tin được sử dụng như bằng chứng kiểm toán và vì thế bản thân bằng chứng kiểm toán bị ảnh hưởng bởi nguồn bằng chứng, bản chất của bằng chứng và nhưng tình huống cụ thể khi thu thập bằng chứng, bao gồm cả hoạt động kiểm soát đối với việc chuẩn bị và duy trì bằng chứng liên quan. Vì vậy, những khẳng định về độ tin cậy của những loại bằng chứng khác nhau có thể ảnh hưởng tới những vấn đề ngoại trừ quan trọng. Thậm chí khi thông tin được sử dụng như bằng chứng kiểm toán được thu thập từ những nguồn bên ngoài khách thể kiểm toán, những tình huống này có thể tồn tại có thể ảnh hưởng tới sự tin cậy của bằng chứng. Ví dụ, thông tin thu thập từ một nguồn bên ngoài độc lập có thể không đáng tin cậy nếu nguồn thông tin là không có đủ hiểu biết hoặc một chuyên gia của ban quản trị có thể thiếu khách quan.” Thông tin trên nhấn mạnh vào tầm quan trọng của việc xem xét nguồn của bằng chứng trong đánh giá về độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán. IAASB và ISA 500 có những khẳng định về độ tin cậy của bằng chứng như sau:  Bằng chứng thu thập trực tiếp, bằng chứng từ những nguồn độc lập bên ngoài, bằng chứng thể hiện trong những mẫu tài liệu và bằng chứng từ những tài liệu gốc thường có độ tin cậy cao hơn;  Bằng chứng gián tiếp, bằng chứng thu được từ những hệ thống kiểm soát kém hoặc hệ thống thông tin dễ dàng bị lạm dụng, bằng chứng từ bộ phận của công ty khách hàng, bằng chứng bằng lời và bằng chứng thu thập được từ chụp ảnh hoặc việc sao chép hoặc dữ liệu số có độ tin cậy thấp hơn. Lựa chọn bằng chứng dựa vào cơ sở dẫn liệu cần kiểm tra và độ tin cậy bằng chứng có thể bị ảnh hưởng bởi nhiều xem xét khác. Trong khi những tài liệu nội bộ thường có độ tin cậy thấp hơn những tài liệu bên ngoài, tài liệu nội bộ có thể có độ tin cậy thấp khi hệ 70 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  8. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán thống kiểm soát nội bộ không hiệu lực và những tài liệu gốc không thể dễ dàng sao chép. Phân tích những yếu tố ảnh hưởng tới sự tin cậy của bằng chứng kiểm toán cụ thể như sau:  Với tài liệu nội bộ Tài liệu nội bộ gồm các loại khác nhau như văn bản pháp lý, tài liệu kinh doanh, tài liệu kế toán, tài liệu về lập kế hoạch và hoạt động kiểm soát. Thông thường, độ tin cậy của thông tin từ những tài liệu này chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố sau: o Hiệu lực hoạt động kiểm soát nội bộ: Khi hệ thống kiểm soát nội bộ của công ty khách hàng hoạt động hiệu quả, bằng chứng thu thập được thường có độ tin cậy cao hơn so với trường hợp hệ thống kiểm soát nội bộ yếu. Ví dụ, nếu kiểm soát nội bộ đối với nghiệp vụ bán hàng và phát hành hóa đơn là hiệu lực thì kiểm toán viên có thể thu thập được bằng chứng hiệu lực từ hóa đơn bán hàng, chứng từ vận chuyển (với độ tin cậy cao hơn là trong điều kiện kiểm soát nội bộ yếu); o Động cơ của ban quản trị để làm sai lệch tài khoản/khoản mục đơn lẻ; o Hình thức của tài liệu, chẳng hạn sự thừa nhận về sự hiệu lực của tài liệu bởi những đối tác bên ngoài đơn vị hoặc sự độc lập của chức năng kế toán; o Sự độc lập của việc chuẩn bị tài liệu từ những nghiệp vụ ghi chép.  Tài liệu bên ngoài Tài liệu bên ngoài thường được xem xét có độ tin cậy cao hơn. Tuy nhiên, sự tin cậy lại khác nhau phụ thuộc vào khả năng tài liệu có (a) được chuẩn bị bởi một nguồn bên ngoài có đủ hiểu biết và độc lập và (b) được kiểm toán viên nhận trực tiếp hay không. Thông thường những tài liệu bên ngoài được gửi cho khách hàng. Ví dụ, một đơn đặt hàng cung cấp thông tin chi tiết về giá và số lượng là tài liệu bên ngoài mà công ty khách hàng nhận được mà không phải là kiểm toán viên. Vì thế, trong những tình huống rủi ro cao kiểm toán viên cần xác nhận nội dung của tài liệu với nguồn bên ngoài thích hợp.  Bằng chứng từ một chuyên gia của ban quản trị công ty khách hàng Trong một số trường hợp kiểm toán viên thu thập bằng chứng từ chuyên gia của ban quản trị của khách hàng thuê. Chuẩn mực AU-C 500 định nghĩa chuyên gia của ban quản trị có thể là “một cá nhân hoặc tổ chức xử lý vấn đề chuyên môn trong một lĩnh vực khác ngoài kế toán hoặc kiểm toán, những công việc của chuyên gia trong lĩnh vực đó được sử dụng bởi khách thể kiểm toán để trợ giúp cho đơn vị trong chuẩn bị báo cáo tài chính.” Trong chuẩn bị báo cáo tài chính, công ty khách hàng có thể yêu cầu chuyên gia trong một lĩnh vực khác ngoài lĩnh vực kế toán hoặc kiểm toán, ví dụ, tính toán phí bảo hiểm, định giá hoặc xử lý dữ liệu cơ khí. Nếu công ty khách hàng không có chuyên môn cần thiết trong lĩnh vực đặc biệt liên quan tới lập báo cáo tài chính, công ty khách hàng sẽ sử dụng ý kiến chuyên gia ban quản trị trong những lĩnh vực ấy để thu thập kiến thức chuyên môn cần thiết để chuẩn bị báo cáo tài chính. Thực tế, thất bại để thực hiện công việc sử dụng ý kiến chuyên gia trong khi kiến thức chuyên môn lĩnh vực riêng là cần thiết, sẽ làm tăng những rủi ro sai phạm trọng yếu và có thể là thiếu sót quan trọng hoặc yếu điểm trọng yếu trong hoạt động kiểm soát nội bộ. Nếu xem thông tin được mà công ty khách hàng dựa vào khi lập báo cáo tài chính là bằng chứng kiểm toán được chuẩn bị bởi các chuyên gia của ban quản trị 71 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  9. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán thì kiểm toán viên nên xem xét những nhân tố ảnh hưởng tới sự tin cậy và sự liên quan của thông tin sau đây: o Năng lực, khả năng và sự khách quan của chuyên gia; o Công việc do các chuyên gia thực hiện; o Sự phù hợp của công việc của chuyên gia như là bằng chứng cho cơ sở dẫn liệu liên quan. Khi xem xét về độ tin cậy của bằng chứng kiểm toán, kiểm toán viên thường sử dụng những hướng dẫn để thẩm định bằng chứng như sau: o Bằng chứng kiểm toán thu thập được từ bên ngoài doanh nghiệp có sức thuyết phục hơn là bằng chứng thu thập được bên trong doanh nghiệp; o Bằng chứng thu thập được hoặc được lập ra bởi các bên thứ ba không liên quan thuyết phục hơn bằng chứng thu được từ các bên có liên quan; o Bằng chứng kiểm toán thu thập được từ bên trong doanh nghiệp có sức thuyết phục hơn trong trường hợp công việc kiểm soát nội bộ có hiệu lực; o Bằng chứng kiểm toán thu thập được trực tiếp thông qua tiến hành so sánh, kiểm tra tài liệu, quan sát hoặc kiểm kê có sức thuyết phục hơn những bằng chứng được thu thập gián tiếp thông qua phỏng vấn; o Bằng chứng kiểm toán thu được từ một chuyên gia có sức thuyết phục hơn là bằng chứng thu từ những người không có trình độ; o Bằng chứng kiểm toán dưới dạng các chứng từ hoặc bằng văn bản có sức thuyết phục hơn là trình bày miệng; Các bằng chứng kiểm toán thu thập được từ nhiều nguồn dẫn tới cùng một kết luận thì có sức thuyết phục hơn bằng chứng thu thập từ duy nhất một nguồn. b. Yêu cầu về sự đầy đủ của bằng chứng kiểm toán Bằng chứng kiểm toán đầy đủ là yêu cầu về số lượng của bằng chứng kiểm toán. Số lượng bằng chứng kiểm toán cần thiết chịu ảnh hưởng bởi đánh giá của kiểm toán viên về những rủi ro sai phạm trọng yếu và chất lượng của những bằng chứng kiểm toán. Ví dụ, nếu kiểm toán viên đánh giá rủi ro sai phạm trọng yếu ở mức cao hơn thì kiểm toán viên sẽ cần thu thập nhiều bằng chứng kiểm toán hơn; Nếu chất lượng của bằng chứng kiểm toán cao hơn thì kiểm toán viên cần ít bằng chứng kiểm toán hơn. Số lượng bằng chứng kiểm toán thu thập phải đủ để thuyết phục nhóm kiểm toán về sự hiệu lực của hoạt động kiểm soát nội bộ hoặc sự chính xác của một số dư tài khoản hoặc cơ sở dẫn liệu. Tương tự, bằng chứng kiểm toán phải đảm bảo đánh giá khách quan khác sẽ dẫn tới kết luận tương tự. Tuy nhiên, việc xác định bao nhiêu bằng chứng là đầy đủ thường không có khuôn mẫu. Một phần của việc trả lời câu hỏi về số lượng bằng chứng kiểm toán liên quan tới xét đoán kiểm toán phụ thuộc vào kinh nghiệm làm việc. Mặt khác, số lượng bằng chứng kiểm toán phụ thuộc vào đặc điểm những rủi ro của công ty khách hàng. Điểm quan trọng là bằng chứng kiểm toán được thu thập từ nhiều nguồn. Ghi nhận những bằng chứng từ những nguồn thu thập và thực hiện thử nghiệm liên quan tới số dư tài khoản giữ vai trò quan trọng và là những vấn đề đầu tiên cần xem xét khi một cuộc kiểm toán thất bại. 72 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  10. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán Đối với các thử nghiệm kiểm soát, thử nghiệm cơ bản đối với nghiệp vụ và số dư, kiểm toán viên phải xác định một kích cỡ mẫu cho thực hiện thử nghiệm. Do đó, số lượng bằng chứng kiểm toán liên quan trước hết tới kích cỡ mẫu chọn. Với một thủ tục kiểm toán nhất định, bằng chứng kiểm toán thu thập từ một mẫu có 100 phần thường sẽ đầy đủ hơn là thu thập bằng chứng từ một mẫu có 60 phần tử. Trong khi chọn mẫu, kích cỡ mẫu chọn chịu ảnh hưởng của việc áp dụng công thức tính toán mẫu thống kê hoặc xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên. Khi thực kiểm tra chi tiết với nghiệp vụ và số dư tài khoản, những yếu tố cần được kiểm toán viên xem xét liên quan tới kích cỡ mẫu chọn bao gồm rủi ro sai phạm trọng yếu và sự bảo đảm từ việc áp dụng những thủ tục kiểm toán khác. Khi thực hiện thử nghiệm kiểm soát, việc tăng số lượng bằng để thuyết phục kiểm toán viên về sự hiệu lực của hoạt động kiểm soát phụ thuộc vào mức rủi ro trong quan hệ với hoạt động kiểm soát cụ thể - khi rủi ro của việc hoạt động kiểm soát có thể không hiệu lực và không hiệu lực, thì rủi ro sai phạm trọng yếu có thể xảy ra. Ở mức rủi ro trong quan hệ với hoạt động kiểm soát như vậy, kiểm toán viên nên thu thập nhiều bằng chứng kiểm toán hơn. Đối với việc thực hiện thử nghiệm kiểm soát, số lượng bằng chứng kiểm toán cần thu thập dựa vào khả năng liệu khách hàng đã kiểm tra hoạt động kiểm soát hay không. Điều này là cơ sở cho cơ sở dẫn liệu về sự hiệu lực của hoạt động kiểm soát nội bộ. Ngoài ra, loại thử nghiệm kiểm soát sử dụng sẽ ảnh hưởng tới kích cỡ mẫu. Ví dụ, nếu kiểm toán viên đang kiểm tra một hoạt động kiểm soát thủ công liên quan tới quá trình xử lý một nghiệp vụ, kích cỡ mẫu sẽ xác định dựa vào những hướng dẫn được phát triển cho thực hiện kiểm tra thuộc tính bằng cách sử dụng kỹ thuật lấy mẫu thống kê. Nếu hệ thống xử lý nghiệp vụ theo cách tự động hóa với sự hỗ trợ của máy tính và kiểm toán viên kiểm tra hoạt động kiểm soát trên máy tính phổ biến, ví dụ, kiểm soát với sự thay đổi chương trình, đưa ra kết luận hoạt động kiểm soát hiệu lực thì thử nghiệm với hoạt động kiểm soát ứng dụng trên máy tính sẽ ít hơn so với trường hợp nêu trên. Điều này đem lại hiệu quả cho kiểm toán viên thực hiện thử nghiệm kiểm soát. Tuy nhiên, trong hầu hết các trường hợp, một hoạt động kiểm soát liên quan tới nhiều tình huống đa dạng và kiểm toán viên có thể lựa chọn kiểm tra những báo cáo những trường hợp ngoại lệ để nhận diện những nghiệp vụ bất thường đã được thực hiện. Một nhân tố khác tác động tới kích cỡ mẫu cho thử nghiệm kiểm soát là tần suất mà một hoạt động kiểm soát được thực hiện. Với hoạt động kiểm soát hàng tháng, ví dụ, đối chiếu số dư tài khoản tiền gửi, kiểm toán viên có thể lựa chọn một tháng và thực hiện một thử nghiệm kiểm soát như kiểm tra tài liệu hoặc thực hiện lại. Ngược lại, nếu hoạt động kiểm soát được thực hiện nhiều lần trong ngày, ví dụ, kiểm soát với các nghiệp vụ bán hàng, kiểm toán viên sẽ sử dụng một mẫu lớn hơn. Hoạt động kiểm soát với những bút toán điều chỉnh sẽ yêu cầu xem xét bổ sung khi bút toán điều chỉnh có rủi ro sai phạm trọng yếu ở mức cao. Việc mở rộng thử nghiệm kiểm soát đối với những nghiệp vụ điều chỉnh sẽ theo hướng ngược lại trong quan hệ với môi trường kiểm soát - Môi trường kiểm soát tốt thì kích cỡ mẫu thử nghiệm nhỏ và ngược lại. Thực hiện thử nghiệm cũng thay đổi liên quan trực tiếp tới tính trọng yếu của số dư tài khoản và đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro số dư tài khoản có thể sai phạm trọng 73 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  11. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán yếu. Kiểm toán viên muốn đánh giá một số nghiệp vụ để xác định (a) hoạt động kiểm soát khác không bị ban quản trị lạm dụng, (b) có sự hỗ trợ đối với những nghiệp vụ điều chỉnh, ví dụ, phân tích dữ liệu, (c) Nghiệp vụ được phê chuẩn bởi cấp quản lý thích hợp. Nếu số lượng nghiệp vụ nhiều, kiểm toán viên có thể áp dụng chọn mẫu thống kê. Ngược lại, kiểm toán viên có thể lựa chọn tập trung vào những nghiệp vụ với số tiền lớn. 3.2. Thu thập bằng chứng kiểm toán 3.2.1. Loại thủ tục kiểm toán Những xét đoán của kiểm toán viên về loại thủ tục kiểm toán để thực hiện thu thập bằng chứng có vai trò quan trọng để đảm bảo một cuộc kiểm toán chất lượng. Những thủ tục kiểm toán kiểm tra hoạt động kiểm soát gắn với mục đích đánh giá hiệu lực hoạt động của hoạt động kiểm soát thường gồm: Kiểm tra tài liệu; Quan sát; Thực hiện lại; Phỏng vấn. Những thủ tục kiểm toán cơ bản hướng tới xác định khả năng những sai phạm trọng yếu có tồn tại trên báo cáo tài chính bằng chứng gồm: Kiểm tra tài liệu; Kiểm tra tài sản; Xác nhận từ bên ngoài; Tính toán lại; Thủ tục phân tích; Rà soát; Phỏng vấn. Những thủ tục đánh giá rủi ro sẽ được trình bày trong bài 5. Trong cách phân loại chung liên quan tới kỹ thuật thu thập bằng chứng, kiểm toán viên có thể sử dụng 7 kỹ thuật cơ bản gồm: Kiểm kê; Kiểm tra tài liệu; Phỏng vấn; Quan sát; Xác nhận; So sánh; và Tính toán. Bằng chứng kiểm toán viên thu thập thường bao gồm cả những hiểu biết của công ty khách hàng về những ghi chép kế toán và chứng thực thông tin. Những ghi chép kế toán liên quan thường gồm:  Bằng chứng của hoạt động kiểm soát nội bộ đối với lập báo cáo tài chính cũng như là nhữngg tài liệu liên quan tới nghiệp vụ, ví dụ hóa đơn, hợp đồng, giấy báo của ngân hàng,…  Sổ cái tổng hợp và chi tiết;  Bút toán trên nhật ký;  Những bảng tính liên quan tới phân bổ chi phí, tính toán tổng hợp, chỉnh hợp và tổng hợp thông tin công bố. Xác nhận thông tin - điều này hiệu lực với những ghi chép kế toán cơ bản bao gồm những bằng chứng như biên bản của các cuộc họp, xác nhận từ những bên độc lập, dữ liệu ngành, phỏng vấn, quan sát, kiểm tra tài liệu. a. Kiểm tra tài sản Kiểm toán viên thường kiểm tra tài sản của công ty khách hàng, bao gồm hàng tồn kho và những tài sản dài hạn. Đối với tài sản hữu hình, kiểm tra tài sản thường liên quan tới quá trình kiểm kê tại chỗ hay tham gia kiểm kê các loại tài sản của doanh nghiệp. Kết quả của quá trình kiểm tra này thường là các biên bản kiểm kê, biên bản kiểm tra, biên bản đánh giá, bảng thống kê,... Với đặc điểm như vậy thì ưu điểm của kiểm kê là cung cấp bằng chứng có độ tin cậy cao nhất vì kiểm kê là quá trình xác minh sự hiện hữu của tài sản, mang tính khách quan. Hơn nữa cách thực hiện kỹ thuật này đơn giản, phù hợp với chức năng xác minh của kiểm toán. Tuy nhiên, kỹ thuật kiểm kê bao giờ cũng có 74 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  12. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán những hạn chế nhất định. Đối với một số tài sản cố định như: đất đai, nhà xưởng, máy móc thiết bị... kỹ thuật kiểm kê chỉ cho biết sự hiện hữu của tài sản, không cho biết quyền sở hữu của đơn vị đối với tài sản đó; hoặc tài sản có thể hiện hữu nhưng lại là tài sản thuê ngoài, hay đã đem thế chấp... Đối với hàng hóa, nguyên vật liệu tồn kho, kiểm tra vật chất chỉ cho biết sự tồn tại thực tế về số lượng, còn chất lượng, tình trạng kỹ thuật, phương pháp đánh giá đúng hay sai thì chưa thể hiện. Điều này dẫn tới một thực tế là, kiểm toán viên muốn có được bằng chứng tin cậy hơn thì cần thực hiện phương pháp này với các kỹ thuật khác. b. Xác nhận Thủ tục xác nhận là quá trình thu thập thông tin do bên thứ ba độc lập cung cấp để xác minh tính chính xác của thông tin mà kiểm toán viên nghi vấn. Hình thức thực hiện việc xác nhận thường là bằng văn bản (thư xác nhận). Thư xác nhận (sau khi đã có ký, duyệt của đại diện đơn vị được kiểm toán) có thể được kiểm toán viên gửi trực tiếp đến người thứ ba để nhờ xác nhận thông tin theo yêu cầu và sau đó được gửi trở lại theo địa chỉ của kiểm toán viên. Thông thường, đơn vị được kiểm toán có thể gửi thư nhờ xác nhận đến người thứ ba theo yêu cầu của kiểm toán viên, nhưng thư trả lời vẫn phải gửi trực tiếp về địa chỉ của kiểm toán viên và kiểm toán viên phải kiểm soát được toàn bộ việc gửi và nhận các xác nhận. Thủ tục này có nhiều ưu điểm của kỹ thuật xác nhận là bằng chứng thu được có độ tin cậy cao nếu kiểm toán viên thực hiện đúng quy trình và đảm bảo các yêu cầu:  Thông tin cần phải được xác nhận theo yêu cầu của kiểm toán viên;  Sự xác nhận phải được thực hịên bằng văn bản;  Sự độc lập của người xác nhận thông tin;  Kiểm toán viên phải kiểm soát được toàn bộ quá trình thu thập thư xác nhận. Thủ tục xác nhận có thể được thực hiện theo hai hình thức, hình thức gửi thư xác nhận phủ định và thư xác nhận dạng khẳng định. Theo hình thức thứ nhất, kiểm toán viên yêu cầu người xác nhận gửi thư phản hồi nếu có sai khác giữa thực tế với thông tin kiểm toán viên nhờ xác nhận. Theo hình thức thứ hai, kiểm toán viên yêu cầu người xác nhận gửi thư phản hồi cho tất cả các thư xác nhận dù thực tế có trùng khớp với thông tin mà kiểm toán viên quan tâm. Hai hình thức này khác nhau về điều kiện vận dụng, độ tin cậy và cả những rủi ro khi vận dụng kỹ thuật này. Bảng 3.2 dưới đây minh họa về những thông tin cần xác nhận và nơi xác nhận tương ứng. 75 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  13. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán Bảng 3.2. Ví dụ về loại thông tin và nơi xác nhận Thông tin cần xác nhận Nơi xác nhận Tiền gửi ngân hàng Ngân hàng Khoản phải thu Người mua Hàng tồn kho nhận ký gửi Bên có hàng ký gửi Hàng tồn kho ở đại lý Đại lý Phải trả người bán Nhà cung cấp Trả trước của khách hàng Khách hàng Trái phiếu phải trả Người mua trái phiếu Nợ ngoài ý muốn Luật sư, Ngân hàng Tài sản đem đi ký quỹ cho chủ nợ Chủ nợ Mặc dù có nhiều ưu điểm nhưng kỹ thuật này cũng có hạn chế là chi phí thực thi khá lớn và do đó phạm vi áp dụng tương đối giới hạn, nhất là khi đơn vị được kiểm toán có quy mô lớn, quan hệ rộng, đa quốc gia... Hơn nữa kiểm toán viên cũng cần quan tâm đến khả năng các xác nhận của bên thứ ba đã qua sự dàn xếp trước của đối tượng được kiểm toán. Khả năng nhận được thư xác nhận sẽ là rất nhỏ hoặc không chính xác khi mà người được xác nhận không hợp tác. Vì thế kiểm toán viên cũng cần sử dụng thêm các thủ tục kiểm toán bổ sung khác. c. Kiểm tra tài liệu Kiểm tra tài liệu là quá trình xem xét, kiểm tra, đối chiếu các chứng từ sổ sách có liên quan sẵn có trong đơn vị. Thủ tục này thông thường được áp dụng đối với các hóa đơn bán hàng, phiếu nhập kho, xuất kho, hóa đơn vật tải, sổ kế toán. Bằng việc sử dụng thủ tục kiểm tra tài liệu, kiểm toán viên có thể thu thập bằng chứng kiểm toán có độ tin cậy cao, thuận tiện trong thực hiện và chi phí áp dụng thấp hơn so với các kỹ thuật khác. Tuy nhiên, kỹ thuật này cũng có những hạn chế nhất định đó là nó phụ thuộc vào nguồn gốc của bằng chứng. Những tài liệu được kiểm toán viên đối chiếu, kiểm tra có thể bị làm giả, sửa chữa,… do đó làm mất đi tính khách quan, đôi khi dẫn đến kết luận sai. Khi áp dụng kỹ thuật này, kiểm toán viên cần chú ý cách thức vận dụng trong từng trường hợp cụ thể: (1) Nếu kiểm toán viên cần thu thập bằng chứng kiểm toán cho kết luận của mình từ một kết luận đã có trước thì thông thường kiểm toán viên phải dựa vào đặc điểm, các tài liệu có liên quan để đối chiếu làm cơ sở cho kết luận. Chẳng hạn, kiểm toán viên muốn kiểm tra quyền sở hữu của tài sản cố định thì kiểm toán viên có thể kiểm tra hồ sơ tăng, giảm của tài sản ấy; muốn kiểm tra để khẳng định việc thanh toán cho một hóa đơn mua hàng là đủ thủ tục, kiểm toán viên có thể kiểm tra căn cứ thanh toán của nghiệp vụ ấy như hóa đơn mua hàng, phiếu yêu cầu mua, đơn đặt hàng, biên bản giao nhận;… (2) kiểm tra các tài liệu của một nghiệp vụ được ghi trên sổ sách kế toán. Trong quá trình kiểm tra, kiểm toán viên có thể tiến hành theo hai hướng: (a) Từ trên 76 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  14. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán xuống (Top - Down): Việc kiểm tra sẽ bắt đầu từ chứng từ gốc, kiểm tra theo trình tự ghi sổ kế toán đến sổ sách. Trường hợp này, kiểm toán viên muốn chứng minh rằng nghiệp vụ phát sinh đã được ghi sổ đầy đủ; (b) Từ dưới lên (Botton - Up): Việc kiểm tra sẽ bắt đầu từ sổ sách kiểm tra ngược theo trình tự ghi sổ kế toán về chứng từ gốc. Trong trường hợp này, kiểm toán viên thường thu thập bằng chứng về tính có thật của mọi nghiệp vụ được ghi sổ. d. Quan sát Quan sát là việc sử dụng các giác quan để đánh giá một số hoạt động nhất định. Trong một cuộc kiểm toán, có rất nhiều tình huống có thể sử dụng các giác quan để nhằm đánh giá một phạm vi lớn các sự việc. Chẳng hạn, kiểm toán viên có thể quan sát về máy móc thiết bị trong nhà máy có hoạt động không? Mới hay đã cũ? Tự động hóa hay thủ công?... Quan sát sẽ rất hữu ích trong nhiều phần hành của cuộc kiểm toán, bằng chứng thu được đáng tin cậy nhưng mang tính thời điểm và hiếm khi được coi là đầy đủ. Để khắc phục nhược điểm của kỹ thuật này trong quá trình kiểm toán, kiểm toán viên cần sử dụng quan sát với kỹ thuật khác xuất phát từ những ấn tượng ban đầu từ quan sát. e. Phỏng vấn Phỏng vấn là quá trình kiểm toán viên thu thập thông tin bằng cách thẩm vấn (hỏi) những người hiểu biết về vấn đề kiểm toán viên quan tâm. Kết quả thu được từ phỏng vấn là biên bản phỏng vấn, ghi chép của kiểm toán viên, hoặc các loại băng đĩa từ,… ghi lại cuộc phỏng vấn. Thông thường, kiểm toán viên tập trung nội dung phỏng vấn vào những vấn đề sau:  Hệ thống kế toán;  Những kế hoạch của nhà quản trị cho những vấn đề như đầu tư chứng khóan, phát triển những sản phẩm mới, dừng hoạt động dây chuyền sản xuất, hoạt động đầu tư mới;  Kiện hoặc tranh chấp thực tế với công ty khách hàng;  Thay đổi trong thủ tục kế toán hoặc nguyên tắc kế toán áp dụng;  Cách tiếp cập của nhà quản trị và những giả thuyết được sử dụng trong đánh giá những tài khoản/khoản mục chủ yếu;  Đánh giá của kiểm soát viên hoặc của nhà quản trị về những vấn đề tài chính phức tạp. Với những đặc tính trên, phỏng vấn giúp kiểm toán viên thu thập được những hiểu biết về khách hàng, phối hợp với bằng chứng khác để củng cố luận cứ của kiểm toán viên. Tuy nhiên, nhược điểm của thủ tục này là độ tin cậy của bằng chứng không cao do đối tượng được phỏng vấn chủ yếu là người trong đơn vị được kiểm toán nên thiếu tính khách quan; Chất lượng của bằng chứng cũng phụ thuộc vào trình độ và sự hiểu biết của người được hỏi. f. Tính toán lại Đây là quá trình kiểm toán viên kiểm tra chính xác về mặt số học của việc tính toán và ghi sổ. Tính toán lại chỉ quan tâm đến tính chính xác thuần túy về mặt số học, không chú ý đến sự phù hợp của phương pháp tính được sử dụng. Do đó áp dụng kỹ thuật này 77 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  15. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán thường được phối hợp với các thủ tục khác như kiểm tra tài liệu, kiểm tra tài sản, phân tích trong quá trình thu thập bằng chứng. Khi sử dụng thủ tục tính toán lại, kiểm toán viên có thể thu thập được bằng chứng có độ tin cậy cao, xét về mặt số học. Tuy nhiên, nhược điểm của thủ tục này là các phép tính và phân bổ đôi khi khá phức tạp, tốn thời gian đặc biệt khi đơn vị được kiểm toán có quy mô lớn, loại hình kinh doanh đa dạng, luồng tiền ra vào rất lớn trong trường hợp đó, để thực hiện kỹ thuật này kiểm toán viên cần được trang bị máy tính cá nhân nhiều số, máy tính xách tay... để thuận tiện cho quá trình kiểm tra và kiểm tra có hiệu quả. g. Rà soát Rà soát là một loại thủ tục kiểm toán liên quan tới đánh giá của kiểm toán viên về dữ liệu kế toán để nhận diện những khoản mục quan trọng hoặc bất thường để kiểm tra. Những khoản mục đơn lẻ không thông thường có thể gồm những bút toán trong bảng kê ghi nhận nghiệp vụ, sổ cái chi tiết, sổ cái tổng hợp, bút toán điều chỉnh, chỉnh hợp số dư hoặc những báo cáo chi tiết khác. Những khoản mục quan trọng hoặc bất thường được kiểm toán viên thực hiện kiểm tra chi tiết, ví dụ, kiểm toán viên phỏng vấn, kiểm tra tài liệu hoặc kiểm tra tài sản, và có thể xác nhận. Trong khi rà soát được thực hiện thủ công, những thủ tục kiểm toán dựa vào máy tính có thể trợ giúp kiểm toán viên trong nhận diện những khoản mục bất thường. h. Thủ tục phân tích Thủ tục phân tích là việc đối chiếu về mặt lượng của cùng một chỉ tiêu, nó bao hàm cả việc đối chiếu giữa số thực tế với số liệu ước tính của kiểm toán viên. So sánh được thực hiện theo nhiều hình thức khác nhau:  So sánh giữa số cuối kỳ và số đầu năm, giữa các kỳ, giữa các bộ phận và tổng thể của cùng một chỉ tiêu trên báo cáo;  So sánh số dự toán, số định mức, số kế hoạch với số thực tế của cùng một chỉ tiêu;  So sánh của cùng một nghiệp vụ, chứng từ nhưng được bảo quản, ghi chép ở những địa điểm khác nhau, quản lý ở những đơn vị khác nhau;  So sánh tỷ trọng của một chỉ tiêu tại một thời điểm so với cùng tỷ trọng của chỉ tiêu ấy nhưng tính tại thời điểm khác;  So sánh giữa con số ước tính của kiểm toán viên với số liệu thực tế của chỉ tiêu ấy tại đơn vị được kiểm toán;  So sánh trị số của chỉ tiêu với trị số của các chỉ tiêu cấu thành chỉ tiêu ấy... Phân tích được thực hiện bằng nhiều hình thức khác nhau nhưng về cơ bản thì kỹ thuật này đem lại thông tin về sự thay đổi trị số là chủ yếu để từ đó giúp kiểm toán viên có thể dự đoán cũng như khẳng định về đối tượng kiểm toán. Mặc dù thủ tục này đem lại những thông tin về trị số của một chỉ tiêu nhưng để có được kết luận từ sự so sánh ấy, kiểm toán viên cần phải có khả năng phán đoán, khả năng liên hệ các chỉ tiêu cũng như là sự biến động của chúng. Bởi vậy, ngoài việc so sánh thuần túy kiểm toán viên phải hiểu được bản chất của chỉ tiêu ấy mới có thể thành công trong sử dụng kỹ thuật này. Trong trường hợp như vậy, kiểm toán viên cũng cần có sự trợ giúp của các kỹ thuật kiểm toán khác. 78 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  16. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán 3.2.2. Những vấn đề chung khi sử dụng các thủ tục kiểm toán Việc sử dụng các thủ tục kiểm toán thu thập bằng chứng thích hợp liên quan tới những vấn đề cụ thể như: Sự phù hợp của thủ tục kiểm toán với cơ sở dẫn liệu quản lý; sự thống nhất của bằng chứng kiểm toán; vấn đề chi phí và lợi ích khi sử dụng thủ tục kiểm toán; thời điểm thực hiện thủ tục kiểm toán. a. Thủ tục kiểm toán và những cơ sở dẫn liệu quản lý Trong phân tích trên, một trong những yêu cầu để bằng chứng kiểm toán thích hợp là sự liên quan của bằng chứng với cơ sở dẫn liệu quản lý. Vì thế, kiểm toán viên phải sử dụng thủ tục kiểm toán cung cấp bằng chứng liên quan tới một cơ sở dẫn liệu cụ thể cần kiểm tra. Tuy nhiên, một thủ tục kiểm toán có thể cung cấp bằng chứng cho một hoặc nhiều cơ sở dẫn liệu ảnh hưởng tới số dư một tài khoản. Thông thường thủ tục kiểm toán được tổ chức theo cơ sở dẫn liệu nhất định. Một số thủ tục kiểm toán có thể sử dụng thu thập bằng chứng liên quan tới nhiều hơn một cơ sở dẫn liệu. b. Đánh giá sự thống nhất của bằng chứng Trong quy trình hình thành ý kiến kiểm toán về khả năng một tài khoản được trình bày đúng trên cơ sở xét đoán trọng yếu, kiểm toán viên tìm kiếm những bằng chứng liên quan chặt chẽ và bằng chứng thống nhất. AS15 hướng dẫn kiểm toán viên như sau: “Nếu bằng chứng kiểm toán thu thập được từ một nguồn không thống nhất với bằng chứng từ một nguồn khác hoặc nếu kiểm toán viên nghi ngờ về sự tin cậy của thông tin được sử dụng làm bằng chứng kiểm toán, kiểm toán vên nên thực hiện những thủ tục kiểm toán cần thiết để giải quyết vấn đề này và nên xác định ảnh hưởng nếu có trên những khía cạnh của cuộc kiểm toán.” Theo hướng dẫn này, kiểm toán viên cần xem xét tất cả những nguồn thông tin cũng như là sự thống nhất của thông tin để đưa ra xét đoán về khả năng bằng chứng kiểm toán có dẫn tới kết luận về sự trung thực, khách quan của việc trình bày báo cáo tài chính hay không. Để đánh giá sự thống nhất của bằng chứng, kiểm toán viên nên thực hiện các công việc như:  Xem xét sự nhất quán trong nội bộ những bằng chứng đã thu thập;  Xem xét sự thống nhất của bằng chứng thu thập từ nguồn bên trong với nguồn bên ngoài (phản ảnh điều kiện kinh tế và hoạt động của khách hàng kiểm toán);  Mở rộng bằng chứng - thủ tục thu thập bằng chứng ở những khu vực có bằng chứng không thống nhất hoặc nghi ngờ về sự đúng đắn của số dư tài khoản;  Ghi chép những kết luận dựa vào bằng chứng đã thu thập được, ví dụ, hiểu biết của một cá nhân trong thực hiện kiểm toán có thể theo một quy trình có cơ sở. c. Xem xét chi phí và lợi ích khi lựa chọn thủ tục kiểm toán Khi xem xét một thủ tục kiểm toán để thực hiện thu thập bằng chứng, kiểm toán viên và công ty kiểm toán cần cân đối 2 mục tiêu: Lợi ích và quản lý rủi ro. Vì thế, các kiểm toán viên sẽ thực hiện kiểm toán hiệu quả và hiệu lực. Mỗi thủ tục kiểm toán được kiểm toán viên lựa chọn thực hiện liên quan tới thời gian, nỗ lực cá nhân và chi phí để thực hiện. Thủ tục kiểm toán theo trật tự sẽ cung cấp bằng chứng kiểm toán chất lượng cao hơn nhưng thường “đắt” hơn. Bảng 3.a dưới đây mô tả 79 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  17. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán một số đặc điểm chung về sự đánh đổi chi phí - lợi ích khi lựa chọn những thủ tục kiểm toán cơ bản khác nhau. Bảng 3.a. Quan hệ chi phí thực hiện thủ tục và chất lượng bằng chứng kiểm toán Loại thủ tục cơ bản Đặc điểm chi phí thực hiện Chất lượng bằng chứng Kiểm tra tài liệu Thấp tới trung bình tùy thuộc vào kích Trung bình tới cao (cần xem cỡ mẫu xét nguồn) Kiểm tra tài sản Thấp tới cao Cao (với sự tồn tại), thấp tới trung bình (Đánh giá; Sở hữu) Quan sát Thấp tới cao Trung bình (vì con người có thể thay đổi hành vi) Xác nhận bên ngoài Thấp tới trung bình Trung bình tới cao Tính toán lại Thấp tới cao Trung bình tới cao Thực hiện lại Thấp tới cao Trung bình tới cao Thủ tục phân tích Thấp tới trung bình Trung bình tới cao Rà soát Thấp tới trung bình Thấp tới trung bình Phỏng vấn Thấp Thấp Kiểm toán viên có thể có nhiều lựa chọn sử dụng thủ tục kiểm toán. Việc xác định kết hợp thích hợp những bằng chứng cho bất cứ một cơ sở dẫn liệu hoặc tài khoản cụ thể là quyết định quan trọng, kể cả xét về mặt chi phí. Quyết định về thủ tục kiểm toán nào sẽ được thực hiện dựa vào xét đoán nghề nghiệp của kiểm toán viên liên quan tới mong muốn về hiệu lực và hiệu quả của những thủ tục kiểm toán có thể sử dụng. Tùy thuộc vào mỗi trường hợp cụ thể, kiểm toán viên có thể xác định với sự kết hợp dưới đây theo những thủ tục cơ bản:  Chỉ thực hiện thủ tục phân tích thích hợp, ví dụ, khi đánh giá của kiểm toán viên về rủi ro được hỗ trợ bằng những bằng chứng kiểm toán trong điều kiện hoạt động kiểm soát hiệu lực;  Chỉ thực hiện thủ tục kiểm tra chi tiết có thể thích hợp;  Thực hiện một sự kết hợp thủ tục phân tích và kiểm tra chi tiết có thể thực hiện với rủi ro được đánh giá. Tuy nhiên, không tương ứng với những rủi ro sai phạm trọng yếu được đánh giá, kiểm toán viên nên thực hiện thủ tục kiểm toán cơ bản đối với tất cả những cơ sở dẫn liệu liên quan tới mỗi tài khoản và công bố trọng yếu. d. Thời điểm của thủ tục kiểm toán Một yếu tố khác cần xem xét để xác định loại thủ tục kiểm toán thực hiện là kiểm toán viên phải xác định khi nào thực hiện thủ tục - vào thời điểm lập báo cáo tài chính, thời điểm trước ngày lập báo cáo tài chính hay sau ngày lập báo cáo tài chính. Quyết định về thời điểm cần dựa vào những đánh giá rủi ro trong quan hệ với tài khoản, hiệu lực của 80 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  18. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán hoạt động kiểm soát nội bộ, bản chất của tài khoản/khoản mục và nhân lực kiểm toán. Thực hiện thủ tục sau ngày kết thúc năm tài chính có thể cung cấp bằng chứng thuyết phục nhất, ví dụ, thu tiền từ khoản phải thu sau này kết thúc năm tài chính là bằng chứng có độ tin cậy cao liên quan tới cơ sở dẫn liệu tồn tại và đánh giá của tài khoản phải thu khách hàng. Thực hiện các thủ tục kiểm toán trước ngày lập báo cáo tài chính cho phép hoàn thành cuộc kiểm toán sớm hơn và tránh quá tải công việc cho kiểm toán viên. Tuy nhiên thực hiện thủ tục kiểm toán vào thời điểm như vậy làm tăng rủi ro sai phạm trọng yếu xảy ra giữa thời điểm thực hiện thủ tục đến thời điểm lập báo cáo tài chính. Khi một khách hàng có hoạt động kiểm soát nội bộ hiệu lực đối với lập báo cáo tài chính, rủi ro sai phạm trọng yếu trong giai đoạn nêu trên sẽ giảm. Kiểm toán viên có thể thực hiện thủ tục kiểm tra hiệu quả và hiệu lực với một số tài khoản trong năm hơn là thực hiện vào thời điểm lập báo cáo tài chính. Ví dụ, kiểm toán viên kiểm tra tài sản dài hạn tăng và giảm trong năm; khoản phải thu khách hàng có thể xác nhận trước ngày kết thúc năm tài chính. Thông thường, cách tiếp cận thực hiện thủ tục tương tự có thể áp dụng với những tài sản dài hạn khác, nợ dài hạn, nghiệp vụ liên quan tới vốn chủ sở hữu. Tuy nhiên, khi thực hiện thủ tục kiểm toán ở thời điểm trước khi kết thúc năm tài chính, kiểm toán viên cần thực hiện những thủ tục kiểm toán bổ sung vào thời điểm kết thúc năm tài chính hoặc sau khi kết thúc năm tài chính để đảm bảo chắc chắn không có sai phạm trọng yếu xảy ra trong giai đoạn từ thời điểm thực hiện thủ tục kiểm toán trước khi kết thúc năm tài chính (interim date) tới thời điểm lập báo cáo tài chính (balance sheet date) - gọi là giai đoạn trước kết thúc năm (roll forward period). Những thủ tục kiểm toán có thể là thủ tục kiểm toán cơ bản, có thể kết hợp với thử nghiệm kiểm soát. Kiểm toán viên cần bằng chứng để có cơ sở hợp lý cho việc mở rộng những kết luận kiểm toán từ thời điểm trước tới thời điểm ngày lập báo cáo tài chính. Một vấn đề thời điểm thực hiện thủ tục kiểm toán khác liên quan tới giai đoạn tiếp giáp với ngày lập báo cáo tài chính - từ một số ngày trước thời điểm lập cho tới một số sau thời điểm lập báo cáo tài chính (cutoff period). Rủi ro lớn nhất của việc ghi nhận những nghiệp vụ xảy ra vào không đúng kỳ kế toán có thể xảy ra trong giai đoạn này. Ví dụ, kiểm toán viên quan tâm tới khả năng doanh thu, hàng bán bị trả loại và nghiệp vụ nhận tiền được ghi nhận không đúng kỳ. Để xác định khả năng này, kiểm toán viên thực hiện thủ tục kiểm tra chia cắt kỳ kết toán hay thủ tục kiểm tra tính đúng kỳ (cutoff test). Việc mở rộng thủ tục kiểm toán này phụ thuộc vào đánh giá của kiểm toán viên về hiệu lực kiểm soát ghi nhận nghiệp vụ ở giai đoạn tiếp giáp kỳ kế toán của công ty khách hàng. Nếu khách hàng có thủ tục kiểm soát mạnh đảm bảo các nghiệp vụ được ghi nhận đúng kỳ, kiểm toán viên có thể giảm số lượng thử nghiệm. Tuy nhiên, kiểm toán viên cần chú ý tới khả năng hoạt động kiểm soát bị lạm dụng, vô hiệu hóa. 3.2.3. Thực hiện thủ tục phân tích cơ bản a. Quy trình thực hiện thủ tục phân tích Chuẩn mực kiểm toán quốc tế và Chuẩn mực kiểm toán Việt Nam cho phép kiểm toán viên lựa chọn (không bắt buộc) thực hiện những thủ tục phân tích cơ bản. Lợi ích của việc thực hiện thủ tục phân tích là khả năng giảm số lượng thủ tục kiểm toán chi tiết, từ 81 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  19. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán đó giảm chi phí. Trong quá trình quyết định thực hiện thủ tục phân tích, kiểm toán viên xem xét những yếu tố sau đây:  Sự thích hợp của hoạt động kiếm soát nội bộ đối với tài khoản: Kiểm soát nội bộ càng hiệu lực, thủ tục phân tích có thể sử dụng tốt hơn.  Mức độ rủi ro sai phạm trọng yếu: Nếu rủi ro sai phạm trọng yếu thấp tới mức nhất định, đủ để những bằng chứng gián tiếp, ví dụ, như bằng chứng từ thủ tục phân tích, có thể làm cơ sở đưa ra kết luận về tài khoản thì thủ tục phân tích sẽ rất hiệu lực.  Những dữ liệu sử dụng trong đánh giá một tài khoản kế toán theo cả độ tin cậy và sự liên quan: Dữ liệu có thể được sử dụng để phát triển những “kỳ vọng” bao gồm cả báo cáo phân tích, dữ liệu tiêu chuẩn của ngành, những dữ liệu nội bộ (dự toán, dự báo, thông tin về hoạt động) kỳ hiện tại và những kỳ trước, thông tin trao đổi với nhà quản lý,… là cơ sở cho phân tích có thể thực hiện được một cách tin cậy.  Tồn tại mối liên hệ giữa logic giữa dữ liệu với sự thay đổi của điều kiện kinh tế sẽ ảnh hưởng tới việc thực hiện và kết quả phân tích. Một số trường hợp vận dụng mối quan hệ giưa các dữ liệu trong phân tích có thể sử dụng gồm: Thông tin tài chính tương ứng của những giai đoạn trước; So sánh kết quả với dự toán hoạt kế hoạch; So sánh những tài khoản có mối quan hệ với nhau; Sử dụng tỷ suất tài chính; Xu hướng của công ty với của ngành; Phân tích quan hệ giữa thông tin tài chính với phi tài chính. Quy trình thực hiện thủ tục phân tích bao gồm những bước cơ bản sau đây:  Bước 1, phát triển một kết quả dự kiến (kỳ vọng kiểm toán): Kỳ vọng có thể về số dư tài khoản, một tỷ suất hoặc một mối quan hệ dự kiến. Ví dụ, kiểm toán viên có thể dự kiến một mối liên hệ giữa tài khoản doanh thu và tỷ lệ lãi gộp hoặc chi phí lương bình quân theo khu vực. Kiểm toán viên có thể dựa vào thông tin thu thập được từ những kỳ hoạt động trước trong quy trình hình thành ý kiến kiểm toán. Kiểm toán viên có thể dự kiến số dư tài khoản tăng hoặc giảm từ giai đoạn trước, kiểm toán viên có thể xác định khoảng thay đổi của số dư tài khoản thích hợp hoặc kiểm toán viên có thể xác định một giá trị ước tính.  Bước 2, xác định khi nào sự khác biệt giữa dự kiến của kiểm toán viên và thông tin của khách hàng được xem là quan trọng: Khi kiểm toán viên phát triển một dự kiến, điều này không giống như những gì khách hàng đã ghi nhận, đặc biệt là nếu ước tính của kiểm toán viên là rất chính xác. Trước khi so sánh với dự kiến của kiểm toán viên với những gì mà khách hàng đã ghi nhận, kiểm toán viên nên xác định số lượng/giá trị sự khác biệt có thể được xem là quan trọng. Điều này sẽ yêu cầu kiểm toán viên phải xem xét mức đánh giá trọng yếu của kiểm toán viên.  Bước 3, tính toán sự khác biệt giữa dự kiến của kiểm toán viên và dữ liệu của khách hàng. Đây là công việc tính toán mang tính cơ học: Kiểm toán viên phải xác định bất cứ sự khá biệt quan trọng nào tồn tại giữa dự kiến của kiểm toán viên và thực tế ghi nhận tại khách hàng. Kết quả xác định ở Bước 3 phải được kiểm toán viên xem xét với đánh giá của kiểm toán viên ở Bước 2.  Bước 4, kiểm tra những khác biệt quan trọng: Một sự khác biệt quan trọng giữa dự kiến của kiểm toán viên với thực tế ghi nhận tại công ty khách hàng cho thấy khả năng cao tồn tại sai phạm trọng yếu. Để đánh giá sự khác biệt đó, kiểm toán viên có thể xem xét những phản hồi/phản ứng của ban quản trị với câu hỏi phỏng vấn của các 82 ACC509_Bai3_v2.0018103215
  20. Bài 3: Bằng chứng kiểm toán kiểm toán viên về nguyên nhân sự khác biệt có thể tồn tại. Tuy nhiên kiểm toán viên thường thu thập bằng chứng khác để chứng thực và xem xét sự thích hợp của những thông tin do ban quản trị công ty khách hàng cung cấp. Nếu có một sự khác biệt quan trọng, kiểm toán viên sẽ cần thực hiện những đủ những thử nghiệm chi tiết thích hợp. Nếu không có sự khác biệt quan trọng, kiểm toán viên có thể không thực hiện bất cứ thử nghiệm chi tiết nào hoặc có thể giảm số lượng loại thử nghiệm chi tiết thực hiện. b. Vận dụng thủ tục phân tích cơ bản Thủ tục phân tích cơ bản không đơn giản là một thủ tục kiểm toán. Phân tích cơ bản là một phần của quy trình ra quyết định được thiết kế để cung cấp bằng chứng về tính đúng đắn của số dư tài khoản. Thông thường, việc áp dụng thủ tục phân tích cần đảm bảo (a) tin cậy được, (b) lợi ích - chi phí được cân nhắc so với thủ tục cơ bản khác. Việc vận dụng thủ tục phân tích hiệu lực trong cung cấp bằng chứng phụ thuộc vào một số nhân tố khác nhau như:  Bản chất của cơ sở dẫn liệu được kiểm tra;  Dữ liệu sử dụng đáng tin cậy và có thể dự đoán được về mối quan hệ trong dữ liệu sử dụng;  Tính sẵn có và độ tin cậy của dữ liệu sử dụng những kết quả dự kiến của kiểm toán viên;  Sự đúng đắn của kết quả dự kiến của kiểm toán viên đưa ra;  Sự phù hợp của thủ tục phân tích sử dụng. Ba yếu tố đầu tiên được xem xét như những nhân tố tác động từ bên ngoài với hiệu lực của thủ tục phân tích cơ bản. Hai yếu tố tiếp theo được xác định là những nhân tố chủ quan tác động tới hiệu lực của thủ tục phân tích. Liên quan tới sự đúng đắn của kết quả dự kiến, kiểm toán viên có thể phát triển một kỳ vọng/dự kiến chung, ví dụ, lãi suất nhận được sẽ tăng lên hàng năm. Dự kiến này có thể không đủ độ tin cậy cần thiết với một thủ tục phân tích cơ bản. Để phát triển một dự kiến tin cậy, kiểm toán viên có thể sử dụng những kỹ thuật hồi quy - một kỹ thuật liên quan tới sử dụng dữ liệu trên cơ sở mảng dữ liệu được phân chia theo những tiêu thức khác nhau như thời gian, khu vực, loại khác hàng, loại sản phẩm,… Thông tin sử dụng trong hồi quy càng nhiều thì độ tin cậy của kết quả dự kiến càng tin cậy. Trong quan hệ với loại thủ tục phân tích sử dụng, mỗi loại thủ tục phân tích có thể đảm bảo sự tin cậy khác nhau. Những kỹ thuật phân tích như phân tích xu hướng, phân tích tỷ suất và rà soát có độ tin cậy thấp hơn so với những loại phân tích khác. Một cách tiếp cận để phân tích có độ tin cậy cao hơn là kiểm tra tính hợp lý. Trong kiểm tra tính hợp lý, kiểm toán viên đưa ra một giá trị dự kiến của một tài khoản bằng cách sử dụng dữ liệu từng phần hoặc toàn bộ độc lập với hệ thống thông tin kế toán. Ví dụ, kiểm toán viên có thể đưa ra một kết quả dự kiến về thu nhập từ lãi cho vay của khách hàng. Lãi cho vay được xác định từ giá trị của khoản cho vay nhân với tỷ lệ lãi suất trung bình. Trong khi sử dụng một cách tính toán đơn giản những vẫn đem lại kết quả dự kiến tin cậy thì kiểm toán viên vẫn có thể cải thiện tốt hơn kết quả tính toán bằng cách sử dụng kỹ thuật hồi quy trên cơ sở dữ liệu liên quan. Một trong những cách tiếp cận tin cậy nhất đối với thủ tục phân tích là phân tích hồi quy. Trong thực hiện phân tích hồi quy, giá trị dự kiến hoặc dự đoán được xác định dựa trên 83 ACC509_Bai3_v2.0018103215
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2