Chương 10 TỔ CHỨC THỰC HiỆN VÀ KiỂM TRA CHƯƠNG TRÌNH MARKETING

L/O/G/O www.themegallery.com

Mục tiêu chương

Cung cấp thông tin về việc tổ chức và thực hiện các chương trình Marketing

1

Giới thiệu và phân tích việc kiểm tra chương trình Marketing

2

Nội dung chương

Tổ chức thực hiện và

10.1

kiểm tra chương trình Marketing

10.2

Kiểm tra chương trình Marketing

10.1 Tổ chức và thực hiện các chương trình Marketing

10.1.1 Tổ chức bộ phận Marketing

Các bộ phận Marketing hiện đại được tổ

chức theo nhiều cách khác nhau và như là

theo chức năng, theo khu vực địa lý, theo

sản phẩm, theo thị trường và theo sản phẩm

thị trường.

10.1.1.1 Tổ chức theo chức năng

Những chuyên gia về các chức năng

marketing trực thuộc một phó giám đốc

marketing, người có trách nhiệm phối hợp

các hoạt động của họ

Các chuyên gia marketing có thể làm việc

trong các lĩnh vực quản trị hành chính

marketing, quảng cáo và khuyến mãi, tiêu

thụ, nghiên cứu marketing, sản phẩm mới.

Lợi thế chủ yếu của việc tổ chức theo

chức năng:

Sự chuyên môn hóa theo chức năng

Tính đơn giản về mặt hành chính

Tuy nhiên, hình thức này sẽ mất đi tính

hiệu quả khi sản phẩm và thị trường của

doanh nghiệp tăng lên.

• Việc hoạch định đối với những sản phẩm

và thị trường cụ thể không sát với thực tế,

không có ai trách nhiệm về bất kỳ sản

phẩm và thị trường nào.

• Mỗi nhóm chức năng đều muốn tranh

giành nhau để có được ngân sách nhiều

hơn cũng như địa vị cao hơn so với

những chức năng khác.

10.1.1.2 Tổ chức quản lý theo khu vực địa lý

Người quản trị bán hàng toàn quốc có thể

giám sát những người quản trị bán hàng

theo khu vực. Doanh nghiệp có thể tổ chức

lực lượng bán cho từng quận (huyện), tỉnh

(thành)….

Phạm vi kiểm tra tăng dần lên khi chúng

ta đi từ người quản trị bán hàng toàn quốc

đến quản trị bán hàng theo địa bàn.

Phạm vi kiểm tra hẹp hơn cho phép các

nhà quản trị dành nhiều thời gian hơn cho

cấp dưới

10.1.1.3 Tổ chức quản lý theo sản phẩm

Tổ chức quản trị theo sản phẩm được đặt

dưới quyền một người quản trị sản phẩm.

Người quản trị sản phẩm giám sát những

người quản trị loại sản phẩm, và những

người quản trị loại sản phẩm này lại giám

sát những người quản trị sản phẩm và nhãn

hiệu cụ thể.

• Triển khai các kế hoạch sản phẩm

• Xem xét việc thực hiện chúng

• Dự báo các kết quả, và hiệu chỉnh.

Vai trò của người quản trị sản phẩm:

Cách tổ chức quản trị theo sản phẩm tạo

• Người quản trị sản phẩm có thể tập trung

ra nhiều lợi điểm:

vào việc xây dựng một marketing - mix có

hiệu quả về chi phí cho sản trước phẩm

đó.

• Người quản trị sản phẩm có thể phản ứng

nhanh chóng hơn đối với những vấn đề

trên thị trường, so với một ban chức năng

gồm các chuyên gia.

• Các nhãn hiệu nhỏ ít bị xem nhẹ vì chúng

• Việc quản trị theo sản phẩm là một cơ sở

có một người bảo vệ sản phẩm

huấn luyện cho những cán bộ điều hành

trẻ

10.1.1.4 Tổ chức quản lý theo thị trường

Nếu những người tiêu dùng thuộc những

nhóm người sử dụng khác nhau với những

sở thích và thói quen mua hàng khác nhau,

thì nên tổ chức bộ phận marketing theo thị

trường.

Người quản trị các thị trường giám sát

một số người quản trị một thị trường

Những người quản trị thị trường có trách

nhiệm triển khai các kế hoạch dài hạn và kế

hoạch hằng năm về doanh số và lợi nhuận

trong thị trường của mình.

10.1.1.5 Tổ chức quản lý sản phẩm – thị trường

Doanh nghiệp có thể sử dụng một hệ

thống quản trị theo sản phẩm và việc này

đòi hỏi người quản trị sản phẩm phải am

hiểu những thị trường có sự khác biệt rất

lớn.

Hoặc, họ có thể sử dụng một hệ thống

quản trị theo thị trường, có nghĩa là những

người quản trị thị trường cũng phải rất am

hiểu các sản phẩm khác biệt nhau mà

những thị trường của họ đã mua.

Hoặc có thể kết hợp cả hai loại lại thành

một tổ chức ma trận

10.1.1.6 Tổ chức theo mô hình công ty – chi nhánh

Khi sự phát triển của các sản phẩm, của

các thị trường đạt quy mô lớn thì các doanh

nghiệp thường thành lập các chi nhánh

quản lý từng nhóm sản phẩm, thị trường.

Mô hình quản lý này đặt ra vấn đề là nên

giữ lại những dịch vụ và hoạt động

Marketing nào, với mức độ bao nhiêu để

phòng Marketing của doanh nghiệp quản lý

và thực hiện

Thứ 1

Không có phòng Marketing của công ty

Thứ 2

Các hoạt động Marketing được thực hiện ở mức độ vừa phải ở cấp độ công ty

Thứ 3

Triển khai mạnh mẽ hoạt động Marketing ở cấp độ công ty

10.1.2 Xây dựng định hướng Marketing sáng tạo trong toàn doanh nghiệp

Để có thể xây dựng được một định

hướng Marketing rõ ràng và thấm sâu vào

tất cả các bộ phận, công ty phải thực hiện

một số biện pháp sau:

• Thuyết phục các cán bộ quản lý về tầm

quan trọng của khách hàng và thỏa

mãn nhu cầu khách hàng

• Tuyển chọn cán bộ Marketing cao cấp

và một lực lượng Marketing chuyên

trách

• Mời các chuyên gia Marketing bên

• Thay đổi chế độ khen thưởng trong

ngoài công ty để hợp tác giúp đỡ

doanh nghiệp

• Tuyển dụng nhân tài giỏi về Marketing

• Xây dựng chương trình huấn luyện

• Xây dựng một hệ thống kế hoạch

Marketing

Marketing hiện đại.

• Xây dựng chương trình khen thưởng

thành tích Marketing xuất sắc hàng

• Thay đổi quan điểm quản lý theo sản

năm.

phẩm sang quan điểm quản lý theo thị

trường

10.1.3 Thực hiện Marketing

Tổ chức thực hiện marketing là tiến trình

chuyển các chiến lược và chương trình

marketing thành những hoạt động marketing

trên thực tế nhằm thành đạt các mục tiêu

marketing đã đề ra một cách có hiệu quả

Thứ 1

Chiến lược xác định những hoạt động thực thi nào là cần thiết

Thứ 2

sự lựa chọn chiến lược tùy thuộc rất nhiều vào khả năng đảm bảo các nguồn lực của doanh nghiệp để thực thi chiến lược.

10.2 Kiểm tra chương trình Marketing

Công việc của bộ phận marketing là lập

kế hoạch, thực hiện và kiểm tra hoạt động

marketing.

Theo Philip Kotler, kiểm tra marketing có

thể phân thành bốn loại: Kiểm tra kế hoạch

năm, kiểm tra khả năng sinh lời, kiểm tra

hiệu quả và kiểm tra chiến lược marketing

10.2.1 Kiểm tra kế hoạch năm

Mục đích của việc kiểm tra kế hoạch năm

là nhằm đảm bảo doanh nghiệp sẽ đạt được

những chỉ tiêu về mức doanh số, lợi nhuận

và những chỉ tiêu khác đã đề ra trong kế

hoạch năm

• Thứ nhất, ban lãnh đạo phải ấn định các

mục tiêu marketing cho từng tháng hay

• Thứ hai, theo dõi kết quả thực hiện các chỉ

từng quý.

tiêu đó trên thị trường.

• Thứ ba, xác định những nguyên nhân

• Thứ tư, tiến hành những biện pháp điều

không đạt được chỉ tiêu đề ra.

chỉnh để thu hẹp khoảng cách giữa chỉ

tiêu và kết quả thực hiện.

10.2.1.1 Phân tích mức tiêu thụ

Phân tích mức tiêu thụ là lượng định và

đánh giá mức tiêu thụ thực tế so với chỉ tiêu

về mức tiêu thụ dự kiến.

Phương pháp này sử dụng hai cộng cụ là

phân tích độ chênh lệch của mức tiêu thụ và

phân tích mức tiêu thụ của từng địa bàn.

Phân tích độ chênh lệch của mức tiêu thụ

là đo phần đóng góp tương đối của các yếu

tố khác nhau vào khoản chênh lệch của kết

quả tiêu thụ.

Giả sử kế hoạch năm đòi hỏi phải bán

được 500 sản phẩm với giá 1 triệu đồng mỗi

sản phẩm, vậy tổng số tiền đòi hỏi thu về là

500 triệu đồng.

Đến cuối năm chỉ bán được 400 sản

phẩm với giá 0,9 triệu (900 ngàn) đồng mỗi

sản phẩm, hay tổng số tiền thu về là 360

triệu đồng.

Độ chênh lệch của kết quả tiêu thụ là 140

triệu (500tr – 360tr) hay 28% mức tiêu thụ

dự kiến [(140tr x 100)/500tr].

Người quản trị marketing cần tìm hiểu

xem trong phần không đạt chỉ tiêu này có

bao nhiêu phần là do giảm giá và bao nhiêu

phần là do giảm khối lượng sản phẩm?

Có thể giải thích vấn đề này bằng kết quả

tính toán sau:

Chênh lệch do giảm giá =

(1 tr.đ. - 0,9 tr.đ.) ×(400) = 40 tr.đ.

[(40tr x 100)/140] = 28,57%

Chênh lệch do giảm khối lượng =

(1 tr. đ.) ×(500 - 400) = 100 tr.đ.

[(100tr x 100)/140] = 71,43%

Phần lớn của khoản chênh lệch mức tiêu

thụ là do không đạt chỉ tiêu khối lượng.

Doanh nghiệp cần tìm hiểu nguyên nhân vì

sao không đạt được khối lượng tiêu thụ dự

kiến.

Phân tích mức tiêu thụ của từng địa bàn

có thể giải thích vấn đề này.

Thông qua việc phân tích khối lượng tiêu

thụ thực tế của từng địa bàn so với khối

lượng tiêu thụ dự kiến tại mỗi địa bàn đó,

doanh nghiệp có thể biết được tổng khối

lượng tiêu thụ bị giảm sút chủ yếu là do địa

bàn nào.

10.2.1.2 Phân tích thị phần

Việc so sánh thị phần của doanh nghiệp

so với đối thủ cạnh tranh cần tiến hành theo

bốn loại

Thị phần tổng quát (tỉ lệ phần trăm mức

tiêu thụ của doanh nghiệp trên tổng mức

tiêu thụ của thị trường tính bằng đơn vị sản

phẩm hay bằng tiền).

Công thức tính cơ bản là: số sản phẩm

bán ra chia cho tổng sản phẩm tiêu thụ của

thị trường hoặc doanh số bán hàng của

doanh nghiệp chia cho tổng doanh số của

thị trường

Thị phần phục vụ (tỉ lệ phần trăm mức

tiêu thụ của doanh nghiệp trong tổng mức

tiêu thụ của thị trường phục vụ).

Thị trường phục vụ của công ty là tất cả

những người mua có khả năng và sẵn sàng

mua sản phẩm đó

Thị phần phục vụ của công ty bao giờ

cũng lớn hơn thị phần tổng quát của nó.

Công ty có thể chiếm được 100% thị trường

phục vụ của mình song chỉ đạt được một thị

phần nhỏ trên tổng thị trường đó.

Thị phần tương đối so với ba đối thủ

cạnh tranh lớn nhất (tỉ lệ phần trăm mức

tiêu thụ của doanh nghiệp trên tổng mức

tiêu thụ của ba đối thủ cạnh tranh lớn nhất).

CÔNG THỨC TÍNH:

Thị phần tương đối = Phần doanh số

của doanh nghiệp / Phần doanh số

của ba đối thủ cạnh tranh

HAY:

Thị phần tương đối = Số sản phẩm bán

ra của doanh nghiệp / Số sản phẩm

bán ra của ba đối thủ cạnh tranh.

Thị phần tương đối so với đối thủ cạnh

tranh dẫn đầu thị trường (tỉ lệ phần trăm

mức tiêu thụ của doanh nghiệp trên tổng

mức tiêu thụ của đối thủ cạnh tranh dẫn

đầu).

10.2.1.3 Phân tích chi phí Marketing so với doanh số

Việc kiểm tra kế hoạch năm còn bao gồm

việc xem xét các khoản chi phí Marketing so

với doanh số để đảm bảo rằng công ty

không chi quá mức để đạt mục tiêu doanh

số của mình

Tỷ lệ chi phí Marketing trên doanh số của

một công ty, giả sử là 30% và bao gồm năm

loại chi phí cấu thành:

• Chi phí cho lực lượng bán hàng trên

• Nghiên cứu Marketing trên doanh số: 1%.

• Chi phí quản lý phân phối tiêu thụ trên

doanh số: 15%.

• Chi phí quảng cáo trên doanh số: 5%.

• Chi phí kích thích tiêu thụ: 6%.

doanh số: 3%.

10.2.1.4 Thăm dò thái độ khách hàng

• Các doanh nghiệp cần theo dõi sự thay

đổi thái độ của khách hàng để có thể biết

được những thay đổi của khách hàng

trước khi việc đó làm ảnh hưởng đến

doanh số của doanh nghiệp

• Các doanh nghiệp định hướng theo thị

trường đều có ghi nhận, phân tích và trả

lời những khiếu nại của khách hàng. Các

khiếu nại có tính chất nghiêm trọng cần

được chú ý.

10.2.2 Kiểm tra khả năng sinh lời

Việc phân tích khả năng sinh lời của

marketing có thể tiến hành theo các bước

sau đây:

• Phân tích báo cáo lời - lỗ theo sản phẩm,

địa bàn, nhóm khách hàng, kênh phân

phối và quy mô đặt hàng (doanh thu bán

hàng, chi phí hàng bán, chi phí khác, lãi

ròng).

• Giải trình các loại chi phí (tổng chi phí,

trong đó: lương, tiền thuê, vật tư phụ) theo

các hoạt động marketing chức năng

(quảng cáo, bán hàng,...).

• Phân bổ chi phí các hoạt động marketing

chức năng theo các kênh phân phối.

• Chuẩn bị báo cáo lời - lỗ cuả từng kênh

phân phối (doanh thu bán hàng, chi phí

hàng bán, chi phí khác, lãi ròng).

• Xác định các biện pháp điều chỉnh cần

thiết nhằm nâng cao khả năng sinh lời,

trên cơ sở các kết quả phân tích ở các

bước trên.

10.2.3 Kiểm tra hiệu suất

9.2.3.1

9.2.3.2

Hiệu suất của lực

Hiệu suất của quảng cáo

lượng bán hàng

9.2.3.3

9.2.3.4 Hiệu suất của phân

Hiệu suất của khuyến mại

phối sản phẩm

10.2.4 Kiểm tra chiến lược

Các doanh nghiệp thường sử dụng hai

công cụ để đánh giá chiến lược Marketing là

đánh giá hiệu quả Marketing và kiểm tra

Marketing.

10.2.4.1 Đánh giá hiệu quả Marketing

Hiệu quả Marketing của một doanh

nghiệp được phản ánh qua mức độ nó thể

hiện năm tính chất chủ yếu của định hướng

Marketing

• Triết lý về khách hàng

• Tổ chức Marketing tổng hợp

• Thông tin Marketing chính xác

• Định hướng chiến lược

• Hiệu suất hoạt động

10.2.4.2 Kiểm tra Marketing

Kiểm tra Marketing được thực hiện đối

với tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt bắt

buộc thực hiện đối với những doanh nghiệp

có kết quả đánh giá hiệu quả Marketing

không tốt.

Kiểm tra Marketing là việc kiểm tra định kỳ,

độc lập, toàn diện môi trường Marketing, mục

tiêu, chiến lược và hoạt động của một doanh

nghiệp, hay đơn vị kinh doanh, nhằm xác định

những lĩnh vực có vấn đề và những cơ hội, và

đề xuất một kế hoạch hành động nhằm nâng

cao thành tích Marketing của doanh nghiệp.

Hoạt động kiểm tra Marketing phải đảm

bảo bốn yêu cầu cơ bản là:

Tính độc lập

Tính toàn diện

Tính hệ thống

Tính định kỳ

Kiểm tra Marketing bao gồm:

Kiểm tra môi trường Marketing

Kiểm tra chiến lược Marketing

Kiểm tra tổ chức Marketing,

• Kiểm tra các hệ thống Marketing

• Kiểm tra năng suất Marketing

• Kiểm tra chức năng Marketing.

Thank You!

L/O/G/O www.themegallery.com