
Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng
Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 1
CHƯƠNG 5
TỔNG QUAN VỀ THUẾ VÀ CÁC TÁC ĐỘNG CỦA THUẾ
5.1. TỔNG QUAN VÊ THUẾ
5.1.1. Khái niệm thuế
Thuế có lịch sử rất lâu đời. Thuế đã phát sinh, tồn tại và phát triển cùng với
sự ra đời, tồn tại và phát triển của nhà nước. Từ khi có nhà nước là phải có thuế.
Tuy nhiên, môi trường tồn tại của thuế phải là nền kinh tế hàng hoá, tuỳ theo cách
tiếp cận có khái niệm thuế như sau:
Thuế là khoản đóng góp bắt buộc của các cá nhân và doanh nghiệp cho một
hoạt động vì lợi ích chung nào đó. Khoản thu từ thuế sẽ được sử dụng để mua các
đầu vào cần thiết nhằm sản xuất các hàng hóa và dịch vụ của Chính phủ hoặc để
phân phối lại sức mua giữa các cá nhân.
“thuế là gì?” không đơn thuần chỉ là một cầu hỏi mang tính học thuật, nó
còn mang những ý nghĩa thực tiễn quan trọng. Thuế có hai đặc điểm cơ bản:
Thứ nhất, nó mang tính bắt buộc chứ không có tính chất tự nguyện..
Thứ hai, thuế là khoản đóng góp không hoàn trả trực tiếp cho người nộp.
Những đặc điểm này cho thấy, thuế thường bị coi là tạo ra gánh nặng lớn
hơn so với giá cả. Vì thế, trong những trường hợp có thể được thì tài trợ cho các
khoản chi tiêu bằng giá cả sẽ có lợi thế hơn là bằng thuế. Nhưng có những loại
hàng hóa và dịch vụ không thể tài trợ được bằng cách đặt giá như nhiều loại hàng
hóa công cộng và ngoại ứng, vì thế bắt buộc phải sử dụng thuế như một công cụ
quan trọng để tạo dựng nguồn thu.
Thuế có một số vai trò như sau:
Thuế là nguồn thu chủ yếu và lâu dài của ngân sách quốc gia.
Thuế là một công cụ tác động vào sự phân bổ nguồn lực trong xã hội.
Thuế là công cụ để phân phối lại thu nhập giữa các cá nhân trong xã hội.

Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng
Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 2
5.1.2. Các nguyên tắc cơ bản khi đánh thuế
a./ Nguyên tắc lợi ích và nguyên tắc khả năng thanh toán.
Nguyên tắc lợi ích cho rằng nên đánh thuế các cá nhân tỷ lệ theo mức lợi ích
mà họ nhận được từ các chương trình của Chính phủ. Theo quan điểm này, nếu như
các cá nhân phải trả tiền túi cho các hàng hóa cá nhân tương ứng với lượng tiêu
dùng hàng hóa đó của họ, Chính phủ cũng nên bắt họ phải trả thuế tương ứng với
mức độ sử dụng các hàng hóa công cộng của họ như đường sá, công viên.
Nguyên tắc khả năng thanh toán: Nguyên tắc này phát biểu rằng, thuế mà
người dân phải đóng nên tùy thuộc vào khả năng chi trả, tức là phụ thuộc vào thu
nhập và của cải tích lũy được của họ. Cá nhân nào có khả năng đóng thuế cao hơn
thì sẽ có nghĩa vụ nộp thuế nhiều hơn so với những người có khả năng chi trả thấp.
Theo nguyên tắc này, việc phân chia nghĩa vụ thuế giữa các cá nhân hoàn toàn
không phụ thuộc vào mức lợi ích biên mà các cá nhân nhận được từ các dịch vụ của
Chính phủ.
b./ Nguyên tắc công bằng ngang và công bằng dọc.
Cho dù được tổ chức theo nguyên tắc lợi ích hay khả năng thanh toán thì các
hệ thống thuế hiện đại đều cố gắng phản ánh quan niệm về công bằng. Nhắc lại
rằng, bất kể một chính sách nào cũng cần được xem xét theo hai tiêu chuẩn về công
bằng: Tiêu chuẩn công bằng ngang cho rằng các cá nhân có năng lực kinh tế như
nhau thì phải chịu thuế như nhau. Như vậy, nếu hệ thống thuế được xây dựng trên
nguyên tắc lợi ích, thì hai người hưởng thụ các dịch vụ hoàn toàn như nhau, từ
đường cao tốc đến công viên, sẽ phải trả thuế như nhau. Còn nếu hệ thống thuế xây
dựng theo nguyên tắc khả năng thanh toán, công bằng ngang đòi hỏi những người
có thu nhập như nhau sẽ phải đóng thuế như nhau. Tiêu chuẩn gây nhiều tranh cãi
hơn là công bằng dọc vì nó cho rằng những người có năng lực kinh tế khác nhau sẽ
phải trả những mức thuế khác nhau. Tuy nhiên, trả thuế khác nhau như thế nào
được coi là công bằng là một vấn đề rất mơ hồ.

Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng
Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 3
5.1.3. Các cách phân loại thuế
a./ Thuế trực thu và thuế gián thu.
Thuế trực thu là loại thuế đánh trực tiếp vào các cá nhân hoặc các doanh
nghiệp. Ví dụ, về thuế trực thu là thuế thu nhập, thuế bảo hiểm xã hội, các loại thuế
đánh vào lương khác, thuế thừa kế và thuế quà tặng. Thuế thu nhập doanh nghiệp
cũng được coi là thuế trực thu vì mọi người nhận thu nhập từ doanh nghiệp.
Thuế gián thu là thuế đánh vào hàng hóa và dịch vụ, tức là chỉ đánh gián tiếp
vào các cá nhân. Chẳng hạn như thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế nhập khẩu, thuế tài sản,
thuế giá trị gia tăng là các loại thuế gián thu.
b./ Thuế phổ cập và thuế chọn lọc.
Để giải thích về cách phân loại này, cần bắt đầu với khái niệm về cơ sở tính
thuế. Cơ sở tính thuế là một khoản mục hay một hoạt động kinh tế mà dựa vào đó,
Chính phủ đánh thuế. Cơ sở tính thuế thường được chia làm ba loại chính là thu
nhập, tiêu dùng và của cải. Ba loại cơ sở tính thuế này có quan hệ mật thiết với
nhau. Thuế đánh vào các cơ sở này có thể là thuế phổ cập hay thuế chọn lọc.
Thuế phổ cập là loại thuế đánh vào tất cả các bộ phận cấu thành của một cơ
sở tính thuế, và không chấp nhận một trường hợp nào được loại trừ, được miễn
hoặc giảm thuế từ cơ sở tính thuế đó.
Thuế chọn lọc là loại thuế chỉ đánh vào một phần của cơ sở tính thuế, hoặc
nó cho phép có các trường hợp miễn giảm thuế khỏi cơ sở tính thuế chung.
c./ Thuế lũy tiến, lũy thoái và thuế tỷ lệ
Một cách phân loại thuế cũng rất phổ biến khác là phân loại thuế theo thuế
suất thành thuế lũy tiến, lũy thoái và thuế tỷ lệ. Tuy nhiên, một điều cần lưu ý ở đây
là thuế suất dùng làm căn cứ phân loại là thuế suất trung bình (Average tax rate –
ATR) là tỷ số giữa tổng số tiền thuế phải trả chia cho giá trị bằng tiền của cơ sở
tính thuế. Còn thuế suất biên (Marginal tax rate – MTR) là doanh thu thuế thu được
thêm trên giá trị tăng thêm của cơ sở tính thuế khi cơ sở tính thuế tăng lên.
Dựa vào thuế suất trung bình, thuế được chia làm ba loại:

Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng
Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 4
Thuế tỷ lệ: là loại thuế mà thuế suất trung bình không thay đổi theo giá trị
của cơ sở tính thuế. Ví dụ, thuế 10% đánh vào mọi mức thu nhập là thuế tỷ lệ, vì
thuế suất trung bình đối với người có thu nhập 100.000 đồng hay 1 triệu đồng đều
bằng nhau là 10%.
Thuế lũy tiến: là loại thuế mà thuế suất trung bình tăng lên khi giá trị cơ sở
tính thuế tăng lên. Thông thường, một biểu thuế lũy tiến thường bao gồm nhiều
thuế suất biên khác nhau, mỗi thuế suất được áp dụng cho các mức thu nhập nằm
trong một giới hạn nhất định mà người ta gọi là khoang thuế. Khoang thuế càng cao
thì thuế suất biên phải chịu thường là càng lớn. Ví dụ, một người đang quyết định
làm nhiều giờ hơn, và lợi ích ròng mà người đó nhận được là phần thu nhập khả
dụng sau thuế của anh ta. Nếu thu nhập của anh ta phải chịu thuế suất biên là 50%
thì anh ta chỉ có khả năng giữ lại cho mình một nửa thu nhập đó, sau khi đã trả
thuế. Tuy nhiên, vì chi khi thu nhập vượt quá một mức giới hạn nhất định thì mới
chịu 50% thuế, nên thuế suất trung bình của anh ta sẽ thấp hơn 50%.
Thuế lũy thoái: là loại thuế mà thuế suất trung bình giảm xuống khi giá trị
cơ sở tính thuế tăng lên. Một số người cho rằng, nếu thu nhập cao hơn là do con
người làm việc chăm chỉ hơn thì đánh thuế thu nhập lũy thoái có thể làm tăng tính
hiệu quả, vì những người làm việc có hiệu suất đã được xã hội “thưởng” bằng một
thuế suất thấp hơn khi họ lao động hăng say hơn. Tuy vậy, thuế lũy thoái lại bị rất
nhiều người khác coi là không tiến bộ vì nó đã vi phạm nguyên tắc khả năng thanh
toán, cho rằng thu nhập cao hơn thì khả năng trả thuế của cá nhân cũng cao hơn, vì
thế người có thu nhập cao cần đóng góp nhiều hơn cho xã hội. Trong thuế lũy
thoái, người giầu trả một tỷ lệ thuế thấp hơn trong thu nhập của mình so với người
nghèo, nhưng điều đó không có nghĩa là họ trả một mức thuế tuyệt đối nhỏ hơn
người nghèo.
5.1.4. Phạm vi ảnh hưởng của thuế
Phạm vi ảnh hưởng của thuế là một khái niệm chung để chỉ tác động của
thuế đến sự thay đổi thu nhập của các đối tượng có liên quan. Người ta thường đề

Lưu hành nội bộ Biên soan: Ths Nguyễn Việt Dũng
Chương 5: Tổng quan về thuế và tác động của thuế 5
cập đến hai loại phạm vi ảnh hưởng của thuế. Phạm vi ảnh hưởng luật định của
thuế là khái niệm để chỉ ai là đối tượng phải có nghĩa vụ trả thuế theo luật định.
Sự thay đổi trong thu nhập thực tế của các cá nhân do thuế gây ra gọi là
phạm vi ảnh hưởng kinh tế của thuế. Như vậy, chỉ có phạm vi ảnh hưởng kinh tế,
chứ không phải phạm vi ảnh hưởng luật định, mới cho chúng ta biết thực chất gánh
nặng thuế đã được phân chia như thế nào giữa các cá nhân trong xã hội. Từ đây, khi
nói đến phạm vi ảnh hưởng của thuế nghĩa là chúng ta ngầm định về phạm vi ảnh
hưởng kinh tế.
5.1.5. Sự chuyển thuế
Sự khác nhau giữa phạm vi ảnh hưởng luật định và phạm vi ảnh hưởng kinh
tế của thuế được gọi là chuyển thuế. Có thể có hai dạng chuyển thuế.
Chuyển thuế thuận chiều: là sự chuyển thuế từ người sản xuất, khi họ là
người chịu thuế theo luật định, sang cho người tiêu dùng dưới dạng nâng cao giá
hàng.
Chuyển thuế nghịch chiều: là sự chuyển thuế từ người tiêu dùng, khi họ là
đối tượng chịu thuế luật định, sang cho người sản xuất hay người bán hàng bằng
cách làm giảm giá hàng hóa chịu thuế.
5.1.6. Thuế đơn vị và thuế theo giá trị
Thuế đánh vào các hàng hóa được trao đổi trên thị trường có thể thuộc về
một trong hai loại: Thuế đơn vị và thuế theo giá trị.
Thuế đơn vị là thuế đánh vào một lượng cố định trên từng đơn vị sản phẩm
được bán.
Thuế theo giá trị là thuế đánh theo một tỷ lệ phần trăm nhất định của giá bán.
Như khái niệm của loại thuế này cho thấy, thuế theo giá trị phụ thuộc vào giá bán.