I. Khái quát chung

 Âm dương và ngũ hành là hai phạm trù quan trọng và là những khái

niệm trừu tượng đầu tiên của người xưa đối với sự tiến hóa của vũ trụ.  Là cội nguồn của quan điểm duy vật và biện chứng trong tư tưởng TH

của người T.hoa.

 Học thuyết âm dương ngũ hành là thế giới quan của người Trung Hoa ở vào một thời kỳ lịch sử đã lùi vào dĩ vãng, lúc đó lực lượng sản xuất và khoa học còn ở trình độ thấp, cho nên không khỏi có những hạn chế do những điều kiện lịch sử đương thời quy định. Đặc biệt, sự phát triển của nó chưa gắn với những thành tựu của khoa học tự nhiên cận hiện đại, nó còn mang dấu ấn của tính trực giác và tính kinh nghiệm. Song học thuyết đó đã trang bị cho con người tư tưởng duy vật khá sâu sắc và độc đáo nên đã trở thành lý luận cho một số ngành khoa học cụ thể.

1

II. Tư tưởng THọc về âm dương

THÁI CỰC ĐỒ

Nam

 Người Trung Quốc khi vẽ hình thì hướng Bắc bên dưới, Nam bên trên, Đông bên phải và Tây bên trái của hình bởi vì Trung Quốc ở Bắc Bán Cầu nên người ta ngồi ở phía Bắc mà nhìn lên phía Nam, và theo đó mà đặt phương vị.

Đông

Tây

 Như vậy trước mặt là phương Nam, tay trái phương Đông, bên phải phương Tây.

 Trên Thái Cực Đồ thì phần màu

Bắc

trắng là khí Dương nằm ở phương Đông nơi Mặt Trời mọc, phần màu đen thì là khí Âm nằm ở phương Tây.

2

 Trời Đất vạn vật nói chung là một đại vũ

trụ và con người là một tiểu vũ trụ và cũng hàm chứa Âm Dương và Ngũ Hành.

 Khởi đầu là Thái Cực, chưa có sự biến hóa. Thái Cực này vận động biến thành hai khí Âm và Dương.

 Hai khí Âm Dương luôn luôn chuyễn hóa làm cho Vũ Trụ động và vạn vật sinh tồn. Người ta thường nói: Thái Cực thị sinh Lưỡng Nghi, Lưỡng Nghi sinh Tứ Tượng, Tứ Tượng sinh Bát Quái.

3

 Hai khí Âm Dương giao tiếp tuần hòan sinh hóa ra vạn vật theo 4 trạng thái phát triển và suy tận được gọi là Tứ Tượng (Thiếu Dương, Thái Dương, Thiếu Âm, Thái Âm).  Tứ Tượng lại sinh Bát Quái. Bát Quái là tám tướng chính của Âm Dương, sinh hóa ra 5 khí chất chính là Ngũ Hành.  Theo Đổng Trọng Thư thì "Khí của trời đất, hợp thì là một, chia thì là Âm và Dương, tách ra làm bốn mùa, bày xếp thành Ngũ hành."Âm Dương là một, nhưng Âm Dương thiên biến vạn hóa (Bất Trắc) để sinh Ngũ Hành, và với tính cách tương phản tương thành đã sinh hóa vạn vật, muôn lòai, tạo ra một chuỗi nhân quả liên tục không dứt.  “Dương” nguyên nghĩa là ánh sáng mặt trời hay là những gì thuộc về ánh sáng mặt trời và ánh sáng. “Âm” có nghĩa là thiếu ánh sáng mặt trời, tức là bóng râm hay bóng tối.

4

 Dịch lí quan niệm Âm Dương là khí và Ngũ Hành là thể

chất

 Âm Dương tượng trưng cho hai khí thiên nhiên trong vũ

trụ. Nguyên lí của Vũ Trụ thì vô hình, không thể mô tả cụ thể được, mà dù cho có mô tả được đi chăng nữa thì cũng không bao giờ mô tả hết được. Muốn mô tả nguyên lí của Vũ Trụ đó ta phải mượn hữu hình để mô tả cho chân lí vô hình đó, gọi là mượn Tượng để mô tả Hình

 Khí Dương tượng trưng bỏi nóng, cứng, dài, nhanh, khỏe, Nam, ban ngày, trời, số lẻ, phát triển, trẻ, Mặt Trời, mùa Xuân, Hạ, hướng Đông, hướng Nam, phía trên, phía ngoài, lửa, sáng, năng động, tích cực, cương quyết, hữu hình...

 Khí Âm tượng trưng bởi lạnh, mềm, ngắn, chậm, yếu, Nữ, ban đêm, đất, số chẵn, suy thoái, già, Mặt Trăng, mùa Thu, Đông, hướng Tây, hướng Bắc, phía dưới, phía trong, nước, tối, thụ động, tiêu cực, nhu nhược, vô hình ...

5

Nguyên lý hoạt động của thuyết Âm dương

 Âm dương thống nhất. Nguyên lý này nói

lên tính toàn vẹn, tính chỉnh thể, cân bằng. Nó bao hàm tư tưởng về sự thống nhất và sự biến đổi

 Trong thái cực, thiếu dương vận động đến thái dương thì trong lòng thái dương lại nảy sinh thiếu âm, thiếu âm vận động đến thái âm thì trong lòng thái âm lại nảy sinh thiếu dương. Cứ như thế, âm dương biến hoá liên tục, tạo thành vòng biến hóa không bao giờ ngừng nghỉ. Nguyên lý này nói lên khả năng biến đổi của Âm Dương đã bao hàm trong Thái cực.

6

 Các nguyên lý trên được khái quát bằng vòng tròn khép kín, có hai hình đen trắng tượng trưng cho Âm Dương. Hai hình này hẳn biệt cách tuy lập nhau nhau, đối nhưng ôm lấy nhau, xoắn lấy nhau.

7

III. Tư tưởng T.Học về Ngũ hành

 Từ “Ngũ hành” được dịch là

5 yếu tố.

 Là 5 thế lực động có ảnh

hưởng đến nhau

 5 yếu tố không tồn tại biệt

lập mà trong 1 hệ thống ảnh hưởng đến nhau theo  Luật: Tương sinh – Tương

khắc – Tương Thừa – Tương Vũ

8

 Ngũ Hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ khi tương tác lẫn nhau cũng phải theo cơ chế hai chiều đối xứng là Âm và Dương, tức cơ chế Tương Sinh và Tương Khắc. Đây là tinh thần căn bản của thuyết Ngũ Hành. Theo đó cứ hai Hành đứng kề cận nhau thì sinh cho nhau, luân chuyển mãi không ngừng, các Hành cách nhau thì khắc chế nhau, và cứ thế mà luân lưu mãi, biểu thị cho triết lý cao siêu của sự đổi thay, biến dịch của vũ trụ tự nhiên.

9

IV. Luật biến đổi của Âm dương Ngũ hành và tác dụng của nó đến đời sống hiện thực  Vạn vật đều biến động đổi dời tuân theo các qui luật như luật Biến Hóa, luật Tương Sinh Tương Khắc (Tướng Phản tương Thành), luật Tiêu Trưởng, luật Tương Ứng Tương Cầu, luật Tích Tiệm, luật Phản Phục, luật Biến Dịch.

 Luật Biến Hóa nghĩa là biến động mãi mãi, chu lưu khắp chốn, lên xuống không cùng, luân phiên thay đổi nhau: cứng mềm, nóng lạnh, sinh tử cho nên không thể lấy cái gì làm chủ yếu điển hình được. Biến là do cùng: Cùng tắc biến, biến tắc thông, thông tắc cửu, nghĩa là có cùng thì mới có biến, có biến mới có thông, có thông mới có lâu bền. Một đóng, một mở gọi là biến. Qua rồi lại, lại rồi qua, và qua lại không cùng gọi là thông.

10

 Luật Tương ứng tương cầu (giao cảm) nghĩa là hai khí Âm Dương có giao cảm với nhau thì vạn vật mọi hóa sinh, vạn vật sinh rồi lại tiếp tục sinh mãi đưa đến cuộc biến đổi trở thành vô tận.

(Chú ý: để có sự hóa sinh thì cần phải khác Âm Dương và ngũ hành phải tương sinh hoặc tương khắc.) Tương khắc không đưa đến hóa sinh mà đưa đến hủy diệt thì đòi hỏi phải cùng Âm Dương và ngủ hành tương khắc,

Ví dụ Dương Kim thì khắc Dương Mộc (ví như kim khí cứng rắn mà gặp cây cứng rắn thì mới khắc mạnh, mới đưa đến sự hủy diệt, còn Dương Kim tuy có khắc Âm Mộc nhưng không mạnh được, trái lại lại đưa đến sự hóa sinh)

11

 Luật Tích Tiệm: Tích có nghĩa là chất chứa, tích lũy từ lâu dài. Biến và hóa đều có nghĩa là đổi dời, nhưng biến thì đổi từ từ, khó nhận thấy, còn gọi là tiệm biến, hóa xảy ra ngay khi cuộc chuyển biến đã hoàn tất, gọi là đột biến

 Luật Phản Phục: trở lại nơi khởi điểm, trở về cái gốc cũ. Sự tiến triễn của vạn vật không đi luôn mà sẽ trở lại. Vật cùng tắc phản, nghĩa là khi cùng cực thì trái nghịch trở về cái gốc, cái trước. Nếu không đi thì sẽ không trở lại, đã có đi thì sẽ có lại (Vô vãng bất phục)

 Luật bất dịch (bất di bất dịch): sự biến hóa ở vạn vật diễn biến trong vòng trật tự, theo một qui luật nhất định, không thay đổi, thuờng hằng. Tất cả mọi vật đều rất động, nhưng nhờ qui luật này chi phối mà sự động ấy không bị rối lọan, không đổi khác. Tất cả sự vật đều cùng về một nguồn (gọi là Thái Cực), nhưng mọi vật theo con đường riêng của mình, cùng về nhà mà đi khác đường (Đồng qui nhi thù đồ).

 Luật thuờng hằng do chi phối tất cả mọi cuộc biến hóa trong

trời đất, điều hòa mọi trạng thái động tĩnh, không cho sự gì đi đến thái quá hay bất cập, thiếu thì nó bù vào, thừa thì nó bớt đi, đưa đến quân bình

12

 Phong thủy và lịch vạn niên

(chữ Hán:風水) là học thuyết chuyên nghiên cứu sự ảnh hưởng của hướng gió, hướng khí, mạch nước đến đời sống hoạ phúc của con người.

 Về mặt từ nguyên, 風 phongcó nghĩa là "gió", là hiện tượng không khí chuyển động và 水thủycó nghĩa là "nước", là dòng nước, tượng trưng cho địa thế.

 Phong thủy không phải là yếu tố đơn lẻ mà là tổng hợp hàng loạt yếu tố về địa hình địa thế xung quanh nhà ở, thôn xóm, thành phố hoặc mồ mả, hướng gió, dòng nước cùng tọa hướng, hình dạng, bố cục mặt bằng không gian xây dựng. Phong thủy liên quan đến cát hung, họa phúc, thọ yểu, sự cùng thông của nhân sự. Cát ắt là phong thủy hợp, hung ắt là phong thủy không hợp.

 Phong thủy chia làm hai lĩnh vực:  Âm trạch: Là cuộc đất dùng để chôn người chết, còn gọi là mồ mả.

Phong thủy cho rằng, nếu người chết được chôn vào một cuộc đất tốt về phong thủy thì sẽ truyền được phúc đức cho con cháu đời sau.

 Dương trạch: Là cuộc đất được dùng vào mục đích làm nhà cửa, đình, chùa, miếu mạo, thôn xóm, làng mạc, thị trấn, thành phố. Dương trạch phải hài hòa với thiên nhiên, có môi trường tốt đẹp, làm cho con người thấy vui tươi, mạnh khỏe, hạnh phúc. Dương trạch tốt tức là môi trường tốt.

13

Làm nhà và hình thế khu đất  Theo Ngũ hành, thế đất được phân thành các hình như sau: ngoằn ngoèo (Thủy), hình dài (Mộc), hình nhọn (Hỏa), hình tròn (Kim) và hình vuông (Thổ). Mỗi thế đất tương ứng với mỗi hành đều tương sinh và tương khắc với các hành khác. Từ đó, có thể phối hợp - chỉnh sửa sao cho phù hợp. Ví dụ: khi ta gặp một khu đất vuông vức bằng phẳng có nhiều nhà mái bằng chung quanh, tức là địa điểm mang tính chất Hành Thổ, thì nên xây cất thế nào cho phù hợp Ngũ hành? Các khả năng sau đây sẽ xảy ra: - Nếu kiến trúc làm có dạng Mộc (cao ốc vươn lên), thì do Mộc khắc Thổ, cao ốc này sẽ ảnh hường xấu đến chung quanh như lún nền , che khuất nắng gió, ồn ào... Do đó, cao ốc thường được quy hoạch thành khu riêng, không nên xen cấy giữa các nhà thấp

 Nhưng VN ko hiểu quy hoạch kiểu gì mà lẫn lộn cả.

 Làm dạng Hành Thủy, hình ngoằn ngoèo, uốn khúc với đất hành Thổ là

bất lợi, vì Thổ khắc Thủy, các góc cong khó sử dụng, ít khi dùng cho nhà ở. Thường hành Thủy phù hợp với dạng khu vui chơi giải trí như nhà hát Opera Sidney là một công trình đặc trưng hành Thủy

14

15

 Theo mô hình không gian Ngũ hành, hành Thủy được quy định về phương

Bắc, màu chủ đạo là đen và xanh dương, thời tiết thuộc về mùa đông. Hình dáng đặc trưng hành Thủy là những đường uốn khúc, lượn sóng và đa diện cong. Ngôi nhà ở mà thiếu hành Thủy thì xem như khiếm khuyết yếu tố nuôi dưỡng cho hành Mộc và hạn chế tính Hỏa vượng.

 Trong tự nhiên vốn ít có đường thẳng tắp hay bàn cờ như kiểu nhân tạo. Ở Hà Nội, ông cha ta khi xây đền Ngọc Sơn giữa hồ Gươm, hoặc chùa Một Cột với tượng hình tiêu biểu cho bông sen nở trên mặt nước cũng chính là tạo thế Thủy Bao, đều là những ví dụ sống động về sử dụng Thủy khí trong kiến trúc truyền thống. Nét uốn lượn của hành Thủy gắn liền với dòng chảy sông suối cũng chính là nguồn nước - trục giao thông - trục cảnh quan nên thực tế các điểm dân cư luôn gắn với một dòng nước.

 Do châu Á, phương Đông vốn thuộc Mộc, kiến trúc luôn nương nhờ thiên

nhiên nên hành Thủy (sinh Mộc) được ưa chuộng khi bố cục cảnh quan, từ lối đi quanh co đến bờ ao giếng nước, từ non bộ hồ cảnh đến tranh sơn thủy nội gia, làm nên đặc trưng văn hóa cư trú của dân vùng nông nghiệp lúa nước. Thời hiện đại, trong nhà ở và công trình phục vụ du lịch (nghỉ ngơi, giải trí…), Thủy khí được phát huy như một yếu tố làm dịu đi các góc cạnh, tăng tính Mộc (che chở nuôi dưỡng, Thủy sinh Mộc) như các khu resort rất chuộng cách bố trí xoay quanh hồ bơi trung tâm. Ở phương Tây, sân vận động Allianz Arena tại Munich (Đức) cho kỳ World Cup vừa qua là một tổ hợp hình khối dạng Kim - Thủy khá giản đơn mà lại độc đáo.

16

17

18

 Ẩm thực:

Trong việc ăn, người Việt Nam đặc biệt chú trọng đến quan hệ biện chứng âm dương, bao gồm 3 mặt quan hệ hết sức mật thiết với nhau, đó là: bảo đảm hài hòa âm dương của thức ăn (các món ăn với nhau hài hòa âm dương); bảo đảm sự quân bình âm dương trong cơ thể và bảo đảm sự cân bằng âm dương giữa con người với môi trường tự nhiên (ăn theo thời tiết: nóng, lạnh..). Trong chế biến thức ăn, phải đảm bảo đủ ngũ chất gồm: bột, nước, khoáng, đạm, béo; đủ ngũ vị gồm: chua, cay, ngọt, mặn, đắng; đủ ngũ sắc gồm: trắng, xanh, vàng, đỏ, đen.

Trong cách ăn, phải ăn bằng cả năm giác quan. Mũi ngửi mùi thơm từ thức ăn; mắt nhìn màu sắc hài hòa của thức ăn được bày biện; lưỡi nếm vị ngon của thức ăn; tai nghe tiếng kêu giòn tan của thức ăn; tay sờ mó, cắn xé thức ăn

 Màu sắc bày biện

 Y học cổ truyền Việt nam:

Theo Hải thượng y tông tâm lĩnh” của Lê Hữu Trác , Thuỷ hoả là gốc sinh ra con người, Thuỷ hoả phải cân bằng mà không nên chênh lệch. Thủy lên, hoả xuống như thế gọi là giao nhau, tức là Thuỷ hoả "ký tế”. Thuỷ hoả "ký tế” thì âm dương bình hoà, Thuỷ hoả tách rời nhau (vị tế) thì âm dương chia lìa, sinh mạng người có nguy cơ bị đe doạ. Người thầy thuốc giỏi là phải biết được vị trí và quy luật lên xuống của Thuỷ hoả mà điều chỉnh âm dương cho phù hợp. Nếu người chân âm thịnh thì phải bổ chân đương, khí âm nhờ đó mà theo khí dương bay lên.

19

Làm đẹp  Mái tóc dài bồng bềnh, gợi sóng là biểu tượng của nước (hành Thủy). Nếu hình thể của bạn thon và cao thì đây là sự kết hợp rất tốt giữa Thủy và Mộc, bởi vì Thủy sinh Mộc.

 Mái tóc dài gợn sóng (hành Thủy) kết hợp với trang phục màu xanh dương, đỏ, tím hoặc đen có nghĩa là mang lại nhiều nước. Đây là sự kết hợp không hài hòa, không tốt.

 Nếu bạn có hình dáng mập, lùn và thường mặc trang phục may suông thẳng thì có thể đoán được hành Thổ quá nhiều, bởi vì hình dáng tổng thể của bạn là hình vuông. Tốt nhất bạn nên mặc trang phục màu trắng (Kim), bởi vì sự kết hợp giữa Thổ và Kim rất tương sinh, tương hợp.

 Một số cách kết hợp giữa gương mặt và kiểu tóc  Kiểu tóc ngắn đi với gương mặt dài (tương tự như hình chữ nhật)

không phải là một kết hợp tốt, bởi vì Kim khắc Mộc.

 Kiểu tóc ngắn (tương tự hình tròn) đi với gương mặt hình oval (tương

tự hình nhọn) là một kết hợp xấu, tức Kim khắc Hỏa.

 Kiểu tóc ngắn đi với gương mặt vuông là một sự kết hợp rất tốt, bởi

vì Thổ sinh Kim.

20

 Học thuyết Âm Dương cho rằng sự vật đạt đến trạng thái cân bằng động lý tưởng khi

Âm Dương cân bằng. Thực tế trong cuộc sống, tất cả mọi điều không hay xảy đến đều do mất cân bằng Âm Dương mà ra. Nếu biết khéo léo áp dụng học thuyết Âm Dương, rèn luyện thế cân bằng sẽ dễ thành công trong mọi việc.

Có thể kể ra đây rất nhiều tác dụng của nguyên lý cân bằng Âm Dương, chẳng hạn : Trong tính cách, nếu Dương tính quá nhiều dễ sinh ra manh động, liều lĩnh, nóng vội và thường khó thành công trong mọi việc. Nếu Âm tính quá nhiều sẽ uỷ mị, không quyết đoán làm lỡ mất thời cơ. Cần rèn luyện để đạt đến trạng thái cân bằng, bình tĩnh, khoan hoà để giải quyết mọi việc, khi thời cơ đến cần quyết đoán để không bỏ lỡ thời cơ.

Trong sức khoẻ nhất là vấn đề ăn uống cần giữ cân bằng Âm Dương, tránh ăn quá nhiều thức ăn Âm tính sẽ làm yếu mềm cá tính, hại cho nội quan. Tránh ăn quá nhiều thức ăn Dương tính sẽ làm hại tỳ vị, sinh ra nhiều bệnh tật. Cần ăn cân bằng cả chất rau, hoa quả và các chất đạm, chất béo.

Trong việc dùng người, những việc cần nhanh nhạy, quả quyết, tận dụng thời cơ cần sức mạnh nên dùng nam giới. Những việc cần bền bỉ, khéo léo, giải quyết ôn hòa thì nên dùng phụ nữ. Trong một tổ chức nên có số nam nữ cân bằng nhau.

Các vấn đề tuyển dụng ngày nay, chúng ta luôn thấy các Sếp rất coi trọng việc xem nhân viên có hợp với mình về ngũ hành ko… Xung khắc là bye bye liền.

21

 Trong sức khoẻ, cơn nóng giận, bực tức nổi lên là Dương, không nên dùng thêm Dương như lửa cháy đổ thêm dầu, càng bực tức sẽ sinh nóng giận, bực tức khác. Cần dùng Âm để điều hoà Dương bằng những suy nghĩ và hành động Âm như nghĩ đến những sự yên tĩnh, hoà bình, những kỷ niệm đẹp, dùng những lời nói êm dịu, nhẹ nhàng, đi đến những nơi thanh tĩnh, yên bình.

 Nếu gặp sự chán nản, buồn phiền tức là Âm thì không nên bổ sung

thêm Âm lại càng buồn phiền hơn, sẽ dẫn đến chán nản, buồn phiền khác. Cần bổ sung thêm Dương bằng những suy nghĩ và hành động Dương như đến chỗ đông người, vui vẻ, nhộn nhịp, hoạt động tích cực, hăng say, dùng những lời nói quyết đoán, vui vẻ, hài hước.

 Bất kể một việc gì cũng đều có tốt có xấu, thể hiện nguyên lý trong Âm có Dương và trong Dương có Âm. Một việc khi đã thành công tuyệt đối tức đã đạt đến trạng thái khí Nguyên Dương hoặc Nguyên Âm tuyệt đối thì tất sẽ trong tương lai sẽ suy bại và phá vỡ. Vì vậy, khi thành công một việc gì, nhất là khi đã đạt đến đỉnh vinh quang cần lường trước sự suy thoái. Ngược lại, khi sự việc đã đến mức cùng cực tồi tệ tất sẽ xuất hiện điều sáng sủa ở tương lai. Đó là nguyên lý "cùng tắc biến, biến tắc thông" trong thuyết Âm Dương, hoặc như chúng ta vẫn thường nói "hết cơn bĩ cực đến hồi thái lai".

22

Áp dụng thuyết âm dương vào lĩnh vực các giá trị xã hội

ta hãy xét cặp “liêm khiết - tham nhũng”. Có những người liêm khiết mà không có những người tham nhũng thì những người liêm khiết cũng không được gọi là liêm khiết. Cũng vậy, một xã hội gồm toàn những người tham nhũng, không có ai liêm khiết, thì khái niệm “tham nhũng” cũng không tồn tại. Trong xã hội ta hiện nay, nạn tham nhũng lan tràn từ trên xuống dưới khiến luật pháp …, nhưng khái niệm “tham nhũng” vẫn tồn tại, chứng tỏ vẫn còn có người liêm khiết, dù rất ít. Nạn tham nhũng đã trở thành quốc nạn ở nước ta, khiến chúng ta bức xúc, nhức nhối. Chúng ta đều muốn quét sạch quốc nạn này để xã hội được trong sạch hơn; nhưng bằng cách nào, khi mà xét về phương diện lợi ích, tện nạn này cũng làm lợi cho rất nhiều người. Kẻ có quyền thì giàu lên, người đi xin xỏ thì được việc của mình, chỉ có nhà nước là chịu thiệt hại. Nhưng nhà nước là ai? Ai là người đứng ra thay mặt cho nhà nước chống lại các thiệt hại này? Người có chức năng đại diện cho nhà nước là cá nhân thì cũng có lợi trong chuyện tham nhũng này. Thật là một cái vòng kim cô của Tôn Ngộ Không mà chưa ai tìm ra cách thoát ra được! Thế nhưng thuyết âm dương dạy ta rằng âm cực thì dương sinh, nghĩa là khi nạn tham nhũng đã đến mức đỉnh, thì xã hội sẽ liêm khiết trở lại. Tương lai sẽ trả lời chúng ta. Nếu chúng ta không có đủ dũng khí để đứng lên chống lại nạn tham nhũng thì đành chỉ “ngoạ sơn quan hổ đấu” một cách bàng quan, mong cho bánh xe lịch sử quay qua giai đoạn đen tối này đến thời kỳ sáng sủa hơn!

23

 Nhìn theo góc độ ngũ hành, thóc gạo mang tính mộc, tiền mặt và tem phiếu mang tính thuỷ, vàng mang tính kim, đất đai mang tính thổ và cổ phiếu (dạng tài sản ảo) mang tính hoả. Sự luân chuyển các dạng tài sản nổi bật của các thời kỳ tương ứng sẽ là Mộc, Thuỷ, Kim, Thổ, Hoả. Đây là vòng xoáy ngược của ngũ hành. Mỗi hành cầm trịch (nổi trội) trong khoảng 12 năm.

92-2004: đất

80-92: vàng 04-nay: chứng khoán

 Nếu ngoại suy theo vòng xoáy ngũ hành này, cổ phiếu còn là tâm điểm chú ý của xã hội trong một thời gian khá dài nữa rồi hành Mộc sẽ quay trở lại. Sẽ không phải là Mộc thóc gạo của ngày xưa mà là một dạng mới nào đó vì lịch sử thường không lặp lại hoàn toàn những gì đã trải qua.

60s: thóc gạo 70s: tiền VN

24

V. Đánh giá về học thuyết Âm Dương – Ngũ hành

 Chỉ ra được:  Nguồn gốc của Thế giới vật chất không phải là do Thượng

đế sáng tạo ra  tiến bộ, tư tưởng duy vật

 Luôn tồn tại tính chất 2 mặt trong cùng 1 sự vật và hiện tượng và Sự vận động không ngừng của vật chất  thể hiện sự biện chứng trong phương pháp tư duy… Không có gì là mãi mãi, có thịnh sẽ có suy, trong lúc thịnh nhất cũng vẫn tiềm ẩn những nguy cơ  giúp người ta tin vào cuộc sống tốt đẹp, “qua cơn bĩ cực sẽ đến hồi thái lai”.  Đây là học thuyết nói về sự cân bằng hài hòa. Điều này lý giải người P.Đồng thích cuộc sống ôn hòa, lộc ko hưởng hết…

25

 Xin chân thành cảm ơn!

Lê Thị Thanh Nhàn Nguyễn Thị Minh Nghĩa Nguyễn Thị Ngọc Bích Nguyễn Thị Hồng Nguyễn Thị Nhung

26

Quan hệ

 Học thuyết âm dương đã nói rõ sự vật, hiện tượng tồn tại trong thế giới

khách quan với hai mặt đối lập thống nhất đó là âm dương. Âm dương là quy luật chung của vũ trụ, là kỉ cương của vạn vật, là khởi đầu của sự sinh trưởng, biến hóa. Nhưng nó sẽ gặp khó khăn khi lý giải sự biến hóa, phức tạp của vật chất. Khi đó nó phải dùng thuyết ngũ hành để giải thích. Vì vậy có kết hợp học thuyết âm dương với học thuyết ngũ hành mới có thể giải thích mọi hiện tượng tự nhiên và xã hội một cách hợp lý.

 Hai học thuyết này luôn luôn phối hợp với nhau, hỗ trợ cho nhau, không thể tách rời. Muốn nhìn nhận con người một cách chỉnh thể, đòi hỏi phải vận dụng kết hợp cả hai học thuyết âm dương và ngũ hành. Vì học thuyết âm dương mang tính tổng hợp có thể nói lên được tính đối lập thống nhất, tính thiên lệch và cân bằng của các bộ phận trong cơ thể con người, còn học thuyết ngũ hành nói lên mối quan hệ phức tạp, nhiều vẻ giữa các yếu tố, các bộ phận của cơ thể con người và giữa con người với tự nhiên. Có thể khẳng định, trên cơ bản, âm dương ngũ hành là một khâu hoàn chỉnh, giữa âm dương và ngũ hành có mối quan hệ không thể tách rời.

27

 Ngũ Hành Mộc Hỏa Thổ Kim Thủy  Bát Quái Chấn, TốnLyCấn, KhônĐoài, CànKhảm  Cửu Cung 3, 495, 8, 27, 61  Thiên can

Giáp, ẤtBính, ĐinhMậu, KỷCanh, TânNhâm,

Dần, MãoTỵ, NgọThìn, Tuất, Sửu, MùiThân,

Quý  Địa Chi

DậuHợi Tý

 Mùa Xuân Hạ Cuối Hạ Thu Đông  Thời Gian Rạng SángGiữa TrưaChiềuTốiNửa Đêm  Phương HướngĐông Nam Trung Tâm Tây Bắc  Khí Hậu Gió Nóng Ẩm Khô Lạnh  Ngũ Khí Phong Thử Thấp Táo Hàn  Ngũ Âm Giốc ChủyCungThươngVũ  Ngũ Đức NhânLễTínNghĩaTrí

28

 Hình Thể Trụ Thẳng ĐứngChóp NhọnBằng PhẳngTrònUốn Lượn  Trạng Thái SinhTrưởngHóaThâuTàng  Màu Sắc XanhĐỏVàngTrắngĐen  Cơ Thể GânMạchThịtDa LôngXương  Ngũ Quan MắtLưỡiMiệngMũiTai  Tạng GanTimTỳPhổiThận  Phủ MậtRuột NonDạ DàyRuột GiàBàng Quang  Ngũ TânBùnMồ HôiNước DãiNước MắtNước Miếng  Ngũ Vị ChuaĐắngNgọtCayMặn  Cảm Xúc GiậnMừngLoBuồnSợ  Giọng HétNóiCaKhócRên

29

 Hành Mộc gọi là Phu Hòa, vì nó phân bố ra khí ôn hòa làm cho vạn vật được nẩy sinh tươi tốt.

Hành Hỏa gọi là Thăng Minh, có nghĩa là bừng sáng, có khí thịnh trưởng làm cho vạn vật được phát triển.

Hành Thổ gọi là Bị Hóa, vì nó đầy đủ khí hóa sinh vạn vật, làm cho vạn vật được đầy đủ hình thể.

Hành Kim gọi là Thẩm Bình, vì nó phát ra khí yên tĩnh, hòa bình, làm cho vạn vật kết quả.

Hành Thủy gọi là Tĩnh Thuận, vì có khí tĩnh mà nhu thuận làm cho vạn vật được bế tàng, gìn giữ.

Quan hệ tương sinh nghĩa là giúp cho nhau lớn hoặc sinh ra nhau. Quan hệ tương khắc là ức chế, làm thiệt hại nhau, nhưng phải biểu hiện cái ý quân bình và giữ gìn lẫn nhau giữa các Hành. Quan hệ tương sinh và tương khắc nếu thái quá lại làm cho sự biến hóa bị trở ngại khác thường thành ra thái quá hoặc bất cập.

Hành Mộc bất cập được gọi là Ủy Hòa, nghĩa là thiếu khí ôn hòa sẽ làm cho vạn vật rũ rượi, không phấn chấn.

Hành Hỏa bất cập được gọi là Phục Minh, nghĩa là thiếu khí ấm áp làm cho vạn vật ảm đạm, không sáng.

Hành Thổ bất cập gọi là Ty Giám, nghĩa là không có khí hóa sinh, sẽ làm cho vạn vật yếu ớt, không có sức.

Hành Kim bất cập gọi là Tòng Cách, nghĩa là không có khí thu liễm, làm cho vạn vật trở nên mềm giãn, không có sức đàn hồi.

30

 Hành Thủy bất cập gọi là Hạc Lưu, nghĩa là không có khí phong tàng dấu kín,

làm cho vạn vật bị khô queo.

Hành Mộc thái quá thì gọi là Phát Sinh, do sự khuếch tán khí ôn hòa quá sớm, làm cho vạn vật sớm phát dục.

Hành Hỏa thái quá gọi là Hách Hy, do khuếch tán hỏa khí mãnh liệt, làm cho vạn vật nóng nảy chẳng yên.

Hành Thổ thái quá gọi là Đơn Phụ, do có khí nồng hậu rắn chắc, làm cho vạn vật không thể thành hình.

Hành Kim thái quá gọi là Kiên Thành, do có khí cứng cỏi làm cho vạn vật ngay thẳng, không có sức nhu nhuyễn.

 Hành Thủy thái quá gọi là Lưu Diễn, do có khí đầy tràn làm cho vạn vật phiêu

lưu không thể về chỗ.

Do đó 2 hệ thống tương sinh và tương khắc không tồn tại đơn độc, biệt lập. Trong tương khắc đã có ngụ ý tương sinh và ngược lại, để vạn vật cùng tồn tại và phát triển. Bởi vì vũ trụ không thể có sinh mà không có khắc, không thể có khắc mà không có sinh. Không có sinh thì vạn vật không nảy nở, không có khắc thì sự phát triển quá độ sẽ có hại.

31