intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bài thu hoạch GDCD đầu khóa năm 2016-2017

Chia sẻ: đỗ Thị Trang | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:17

269
lượt xem
6
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Gửi đến các bạn tài liệu Bài thu hoạch GDCD đầu khóa năm 2016-2017. Hi vọng tài liệu sẽ là nguồn tư liệu bổ ích cho các bạn trong quá trình học tập cũng như làm bài thu hoạch GDCD đầu năm. Để nắm vững hơn nội dung kiến thức bài thu hoạch mời các bạn cùng tham khảo tài liệu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bài thu hoạch GDCD đầu khóa năm 2016-2017

  1. Đỗ Thị Thủy                                         BÀI THU HOẠCH                       GDCD ĐẦU KHÓA NĂM HỌC 2016­2017                              (Dùng cho trình độ Cao Đẳng ) Họ và tên : Đỗ Thị Thủy Ngày tháng năm sinh : 29-4-1998 Quê quán : Phường Hội Hợp –Thành phố Vĩnh Yên – Tỉnh Vĩnh Phúc Sinh viên lớp : 9B Khoa Kế Toán
  2. Câu 1: Vì sao em chọn trường Cao Đẳng Kinh Tế Vĩnh Phúc ? Có rất nhiều con đường để vào đời, thế nhưng khi hết cấp III hầu như các bạn  trẻ đều trăn trở với câu hỏi "Làm sao để vào được đại học". Rất nhiều người trong   số đó vẫn biết rằng còn rất nhiều con đường khác để chuẩn bị cho tương lai,  nhưng rồi chẳng ai dám tự tin đi những con đường khác, tất cả đều đổ dồn vào một   con đường duy nhất: “học để vào đại học” và cuối cùng cảm thấy mệt mỏi vì phải  gồng mình chạy theo người khác trong khi điều kiện và năng lực của mình không  đáp ứng được. Mỗi năm cả nước có hàng triệu thí sinh tham dự các kỳ thi tuyển sinh vào các  trường đại học, thế nhưng con số đậu chỉ chiếm khoảng 1/3, vậy thì số thí sinh còn  lại sẽ ra sao? Thi đỗ vào đại học không phải là con đường duy nhất của một học  sinh. Nếu không đủ năng lực, bạn có thể học trung cấp hay cao đẳng, hoặc học các  trường nghề. Đây cũng là những nơi đào tạo nhân lực cho đất nước. Thực tế cho  thấy, có biết bao người đã tạo dựng sự nghiệp mà không cần đến tấm bằng ĐH.  Không phải cứ học giỏi, bằng cấp cao là sẽ thành công trong công việc, sự nghiệp.  không những HS vừa học xong chương trình cấp 3 mà không ít các bạn sinh viên  sau khi tốt nghiệp đại học, cao đẳng ở các ngành kinh tế, quản trị kinh doanh, ngân  hàng và nhiều ngành được cho là “hot” đã và đang rơi vào tình trạng thất nghiệp  nên bắt buộc phải học thêm một nghề để kiếm việc. Tình hình hiện nay tấm bằng  đại học cũng mất dần giá trị, nó không thể đảm bảo cho bạn một công việc như ý  sau khi ra trường. Chính vì vậy,trường cao đẳng kinh tế _ vĩnh phúc là một trường  có  hình thức đào tạo nghề có uy tín, có bằng cấp được chứng nhận đang là xu  hướng lựa chọn của nhiều bạn trẻ, đặc biệt các bạn học sinh trung học phổ thông  và sinh viên đang theo học ở các ngành khác. Học cao đăng th ̉ ực hanh, ho ̀ ặc nghề ở  trường có những ưu điểm sau: ­ Phù hợp với trình độ và điều kiện của đa số học sinh hiện nay. ­ Sau khi tốt nghiệp học sinh dễ có cơ hội tìm việc, nhất là khi mà chúng ta đang hội   nhập sâu vào AFTA và WTO. ­ Các doanh nghiệp trong và ngoài nước cũng đang rất thiếu lao động có tay nghề. ­ Kinh phí cho đào tạo ít tốn kém hơn phù hợp với thu nhập của đại đa số người dân   Việt Nam ­ Thời gian đào tạo ngắn từ 1năm, 2 năm hay 3 năm. Nếu có nhu cầu học tập lên 
  3. Đỗ Thị Thủy cao sẽ được đào tạo liên thông từ trung cấp lên cao đẳng và đại học. Câu 2: Em có mong ước gì sau khi học xong ngành mà em đã lựa chọn? - đầu tiên là giúp bản thân trưởng thành hơn về nhân cách để có những bước quyết định chin chắn hơn cho tương lai -để có tri thức , xin việc vào công ty như mình mong muốn Câu 3:  Là một sinh viên việt nam, em phải làm gì để giữ gìn chủ quyền biển đảocủa tổ quốc? Thanh niên là lực lượng đông đảo, là lớp người trẻ tuổi, có sức khỏe, ham hiểu  biết cái mới, giàu sức sáng tạo, hăng hái, có chí tiến thủ, xung kích, sáng tạo trong  việc quán triệt và thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật   của Nhà nước, là nguồn nhân lực chủ yếu tạo nên sức mạnh to lớn trong sự nghiệp   cách mạng của dân tộc. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta và Chủ tịch  Hồ Chí Minh luôn quan tâm chăm lo, giáo dục, bồi dưỡng và phát huy vai trò thanh  niên để họ trở thành đội quân xung kích trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ  quốc. Hiện nay, tình hình Biển Đông có những diễn biến phức tạp, nhiệm vụ bảo vệ  vững chắc chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc đang đặt ra yêu cầu cấp thiết đối với  cả hệ thống chính trị, các ngành, các lực lượng, trong đó có thanh niên. Thế nhưng,  các hoạt động của Đoàn “vẫn chưa tạo được sự phát triển đồng đều ở các cấp,  chưa phát huy được mạnh mẽ tiềm năng, sức sáng tạo của thanh niên. Công tác  giáo dục của Đoàn tuy rộng nhưng chưa sâu, chất lượng của nhiều đoàn viên chưa  cao; việc đoàn kết tập hợp thanh niên trên một số lĩnh vực chưa hiệu quả”1. Công  tác tuyên truyền giáo dục và phát huy vai trò, sức mạnh của thanh niên chưa thật  sâu sắc và thường xuyên. Nhận thức về vai trò, trách nhiệm, thái độ, động cơ, ý chí,   quyết tâm và hành động thiết thực đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo  của Tổ quốc ở một số thanh niên chưa cao. Trước những diễn biến phức tạp, khó  lường của tình hình thế giới, khu vực, đặc biệt là sự chống phá của các thế lực thù  địch và những tác động của mặt trái nền kinh tế thị trường, “một bộ phận thanh  niên còn biểu hiện suy thoái tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; phai nhạt lý  tưởng, giảm sút niềm tin, ít quan tâm đến tình hình đất nước, thiếu ý thức chấp  hành pháp luật, sống thực dụng, xa rời truyền thống văn hóa dân tộc”2, chưa chứng  
  4. tỏ đầy đủ được vai trò, trọng trách của mình trước vận mệnh của đất nước, sự  nghiệp cách mạng của dân tộc, “xa rời chủ nghĩa yêu nước, xem nhẹ truyền thống  cách mạng, ít quan tâm sinh hoạt chính trị, coi thường giá trị nhân văn, kỷ cương,  đạo lý, mắc tệ nạn xã hội... mang nặng tâm lý hưởng thụ”3, thờ ơ và quên đi trách  nhiệm, nghĩa vụ công dân. Thực tiễn đó đòi hỏi thanh niên phải không ngừng tu  dưỡng, rèn luyện, nâng cao trách nhiệm, có quyết tâm mạnh mẽ để giữ vững độc  lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Đồng thời, cần phát  huy vai trò của thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đó là  quá trình khơi dậy, huy động, khai thác những tiềm năng, sức mạnh to lớn trong tuổi   trẻ và tạo ra những điều kiện hoạt động thuận lợi giúp thanh niên nâng cao nhận  thức về vai trò, trách nhiệm của mình, hình thành niềm tin, thái độ, động cơ, ý chí,  quyết tâm và hành động thiết thực trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo bằng các  phương thức khác nhau, góp phần bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN. Quán triệt quan điểm, mục tiêu: “Phát huy mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp của toàn  dân tộc, của cả hệ thống chính trị... bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống  nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển đảo, biên giới, vùng trời...”4, cần  phát huy vai trò thanh niên trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc với các  giải pháp đồng bộ, trong đó nổi lên là: Thứ nhất, thường xuyên giáo dục nâng cao nhận thức cho thanh niên về vai trò,  trách nhiệm đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo. Đây là vấn đề cơ bản  đầu tiên nhằm giúp thanh niên nâng cao nhận thức và xác định rõ vai trò, trách  nhiệm của mình đối với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đặc biệt là bảo vệ  chủ quyền biển, đảo. Nội dung giáo dục, bồi dưỡng nâng cao nhận thức cho thanh  niên cần toàn diện; trong đó, tập trung quán triệt quan điểm cơ bản của Đảng về  bảo vệ Tổ quốc, trực tiếp là bảo vệ chủ quyền biển, đảo được thể hiện trong Nghị   quyết Trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình hình  mới,Nghị quyết Trung ương 4 (khóa X) về Chiến lược Biển Việt Nam đến năm  2020, Nghị quyết Đại hội XI của Đảng và Luật Biển Việt Nam... Qua đó, giúp thanh   niên nhận thức rõ tầm quan trọng của biển, đảo, ý thức sâu sắc về vai trò, trách  nhiệm, nghĩa vụ to lớn của mình trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc.  Đồng thời, giáo dục thanh niên (nhất là học sinh, sinh viên) nâng cao cảnh giác cách   mạng, nhận rõ đúng sai, không để các thế lực thù địch lấy danh nghĩa bảo vệ 
  5. Đỗ Thị Thủy Trường Sa, Hoàng Sa để lợi dụng lôi kéo vào các hoạt động gây mất an ninh chính  trị, trật tự, an toàn xã hội, phá hoại mối quan hệ với các nước láng giềng. Trong quá trình bồi dưỡng nâng cao nhận thức, cần đa dạng hóa hình thức,  phương pháp cho phù hợp với đặc điểm của từng địa bàn, từng đối tượng và  thường xuyên bổ sung, phát triển đáp ứng thực tiễn nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền  biển, đảo. Cấp ủy, chính quyền các cấp cần phát huy vai trò các tổ chức, đoàn thể,  nhất là đoàn thanh niên, nhằm tạo nên sức mạnh tổng hợp trong công tác tuyên  truyền và gắn kết chặt chẽ với việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ  Chí Minh trong thanh niên để giáo dục họ. Để nâng cao hiệu quả giáo dục và tăng  tính hấp dẫn đối với thanh niên, nên đa dạng các hình thức, như: giáo dục truyền  thống, các bài học kinh nghiệm và gương các anh hùng trong kháng chiến chống  xâm lược... Thông qua các cuộc vận động và chương trình hành động của thanh  niên với cách làm thiết thực, như: “Tuổi trẻ Việt Nam học tập và làm theo lời Bác”,   “Tuổi trẻ giữ nước”, “Năm xung kích phát triển kinh tế ­ xã hội và bảo vệ Tổ  quốc”, “Nghĩa tình biên giới, hải đảo”, “Vì Trường Sa thân yêu”, “Góp đá xây  Trường Sa”, “Đồng hành cùng ngư dân trẻ ra khơi”, “Tuổi trẻ hướng về biển, đảo   của Tổ quốc” và “Phấn đấu xứng danh Bộ đội Cụ Hồ” của thanh niên quân đội...  Phối hợp giữa các cấp, ngành, tổ chức đoàn thể, gia đình, nhà trường, xã hội (nhất  là Đoàn Thanh niên) và các hoạt động văn hoá, các phương tiện thông tin đại chúng  tạo sức mạnh tổng hợp để: “phát huy vai trò xung kích, sáng tạo, tinh thần tình  nguyện, khơi dậy tiềm năng to lớn của các tầng lớp thanh niên... tạo ra môi trường  lành mạnh để thanh niên tự rèn luyện, tìm được lẽ sống cao đẹp cho mình”5, hướng   họ chung sức bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Các cấp bộ Đoàn cần chú  trọng tổ chức các hoạt động thi tìm hiểu, tọa đàm về chủ quyền biển, đảo trong  thanh niên bảo đảm thiết thực, chất lượng tốt; tăng cường tổ chức cho thanh niên  đi thăm và tiến hành các hoạt động nghiên cứu thực tế trên các vùng biển, đảo của  Tổ quốc. Thông qua đó, giúp thanh niên nhận thấy những giá trị to lớn của biển,  đảo Việt Nam nên phải ra sức bảo vệ. Thứ hai, củng cố niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí bảo vệ chủ quyền biển, đảo  của Tổ quốc ngày càng bền vững trong thanh niên. Niềm tin, thái độ, động cơ và ý  chí là những phẩm chất bên trong của mỗi thanh niên, nó rất cần thiết và không thể  thiếu, nhằm giúp họ thực hiện các nhiệm vụ được giao. Nếu không có niềm tin, thái   độ, động cơ và ý chí thì không thể làm được bất cứ việc gì, chưa nói đến bảo vệ Tổ  
  6. quốc. Vì thế, cần hướng cho thanh niên có niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí bảo  vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc một cách bền vững. Theo Hồ Chí Minh, thanh  niên muốn làm chủ nước nhà phải luôn nêu cao cảnh giác cách mạng và “không một   phút nào được quên lý tưởng cao cả của mình là phấn đấu cho Tổ quốc hoàn toàn  độc lập”6. Vì thế, ngay từ bây giờ, thanh niên phải rèn luyện tinh thần và lực lượng  của mình, phải có niềm tin, thái độ, động cơ đúng, ý chí vững vàng để tu dưỡng, rèn   luyện, phấn đấu vươn lên, gương mẫu trong công tác và học tập, nêu cao ý chí  chiến đấu, tinh thần cảnh giác cách mạng, phát huy tính sáng tạo và ý chí quật  cường, vượt mọi khó khăn, gian khổ và có quyết tâm lớn để đưa cách mạng đến  thành công, dù đó là công việc rất khó khăn. Để củng cố niềm tin, thái độ, động cơ và ý chí cho thanh niên, phải tăng cường  công tác tuyên truyền để thanh niên thấy rõ thực lực, sức mạnh bảo vệ Tổ quốc của   ta; nắm vững tư tưởng, phương châm chỉ đạo giải quyết các vấn đề về biển, đảo  của Đảng. Qua đó, giúp cho thanh niên có nhận thức đúng, tin tưởng tuyệt đối vào  sự lãnh đạo của Đảng trong giải quyết các vấn đề liên quan đến chủ quyền quốc  gia, nhất là vấn đề biển, đảo, củng cố niềm tin, ý chí, tình cảm, thái độ và động cơ  đúng ở tuổi trẻ trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ  quốc. Cần giúp thanh niên loại bỏ những thói quen trong nhận thức, thái độ, động  cơ không phù hợp để tạo nên những phẩm chất mới ngày càng ổn định, bền vững  trong tâm thức, lý tưởng của họ, từng bước tạo nên sự thay đổi về chất trong thanh  niên về niềm tin, thái độ, động cơ đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo  của Tổ quốc, để họ thực sự là một lực lượng to lớn và vững chắc trong sự nghiệp  xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Khi thông tin, tuyên truyền, cần làm cho thanh niên  vừa nhận thấy tính chất phức tạp của nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo, vừa  nhận thấy nhân dân ta, đất nước ta có đủ ý chí, quyết tâm và sức mạnh tổng hợp để   bảo vệ vững chắc biển, đảo của mình. Từ đó, củng cố thêm niềm tin, thái độ, động  cơ và ý chí vững vàng cho thanh niên, giúp họ phát huy trách nhiệm trong bảo vệ  chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Thứ ba, chú trọng xây dựng quyết tâm cao, định hướng hành động thiết thực trong  thanh niên đối với nhiệm vụ bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đây là mục   tiêu, là đích hướng tới của quá trình phát huy vai trò thanh niên trong bảo vệ chủ  quyền biển, đảo của Tổ quốc. Trên cơ sở nhận thức rõ vai trò, trách nhiệm và củng   cố được niềm tin, thái độ, động cơ, ý chí vững vàng, phải làm cho thanh niên phát 
  7. Đỗ Thị Thủy huy cao nhất vai trò, trách nhiệm thông qua hiện thực hóa những giá trị đó thành  quyết tâm và hành động cụ thể, thiết thực trong bảo vệ chủ quyền biển, đảo của  Tổ quốc. Để xây dựng quyết tâm cho thanh niên, cần làm cho thanh niên thấy được sự khó  khăn, gian khổ đối mặt với nguy hiểm, sự phức tạp và khắc nghiệt của các hoạt  động trên biển, đảo... Điều đó đòi hỏi thanh niên phải dũng cảm, mưu trí, chủ động  sáng tạo, tự lực tự cường, sẵn sàng hy sinh xương máu, kiên quyết đứng lên bảo vệ  độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của mình. Thấm nhuần lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh khi Người về thăm Bộ đội Hải  quân (năm 1961): “Ngày nay ta có ngày, có trời, có biển. Biển ta dài, tươi đẹp, ta  phải biết giữ gìn lấy nó”. Từ đó, phải chú ý đến xây dựng quyết tâm và định hướng  hành động cho thanh niên, nhất là các lực lượng trực tiếp ngày đêm bám trụ hoạt  động, canh giữ, bảo vệ chủ quyền biển, đảo của Tổ quốc. Đồng thời, bồi dưỡng  phương pháp xử lý các tình huống nhạy cảm trên biển, đảo theo đúng tư tưởng chỉ  đạo, bảo đảm linh hoạt, sáng tạo, sắc sảo, nhạy bén, kiên trì, thận trọng... không bị  rơi vào “bẫy” của đối phương, để giữ vững môi trường hòa bình, ổn định, song  cũng sẵn sàng chiến đấu trong mọi tình huống, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc  lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ quốc gia. Câu 4: Em hãy cho biết suy nghĩ của mình về tình trạng vi phạm pháp luật của  học sinh , sinh viên nói riêng và thanh thiếu niên nói chung? Bản thân em phải  làm gì để không vi phạm pháp luật ? Hiện nay, ở vào thời kì hội nhập nhiều học sinh, sinh viên có ý chí vươn lên trong  học tập, có hoài bão khát vọng lớn. Tuy nhiên, cũng dưới tác động của nền kinh tế  thị trường và cơ chế mở cửa và do nhiều nguyên nhân khác, hành vi lệch chuẩn của   thanh thiếu niên có xu hướng ngày càng tăng. Một số hành vi vi phạm pháp luật của   học sinh, sinh viên khiến gia đình và xã hội lo lắng như: vi phạm giao thông, đua xe  trái phép, bạo lực nhà trường, quay cóp bài, mua điểm, cờ bạc, nghiện rượu, trong  gia đình trẻ em thiếu kính trên nhường dưới, không vâng lời cha mẹ, người  lớn….Một số hành vi lệch chuẩn khác về mặt đạo đức như: sống hưởng thụ, chạy  theo đồng tiền, xa hoa, lãng phí, lười lao động và học tập, thiếu ý thức rèn luyện, 
  8. không dám đấu tranh với cái sai, thờ ơ vô cảm, vị kỷ …cũng ngày càng nhiều hơn ở  đối tượng còn ngồi trên ghế nhà trường. Những phẩm chất xấu ấy là kết quả sự giáo dục không đồng bộ giữa gia đình,  nhà trường và xã hội. Việc giáo dục đạo đức trong nhà trường thường chú trọng tới   nề nếp kỷ cương với nội quy, những bài học giáo huấn, không chú ý đến hành vi  ứng xử thực tế. Chương trình sách giáo khoa quá ôm đồm, nặng về lý thuyết, thiếu  kỹ năng sống, không tạo được dấu ấn để hình thành nhân cách cho học sinh. Trong  khi đó, chương trình giáo dục đạo đức xuyên suốt từ giáo dục lễ giáo ở bậc mầm  non, đạo đức ở bậc tiểu học, giáo dục công dân ở bậc trung học, có đầy đủ tất cả  những bài học về các giá trị đạo đức. Nhưng hệ thống lại không thấy rõ phẩm chất nào là trọng tâm, chỗ nào cần nhấn mạnh. Chương trình học rất nhiều nhưng rất khó nhớ, khó nhập tâm. Bên cạnh đó giáo viên hiện nay chỉ lo truyền thụ kiến thức, học sinh thì cố gắng đạt điểm cao trong học tập nhưng quan hệ thầy trò nhợt nhạt. Về nhà, cha mẹ bận lo công việc, các em không được trang bị những kỹ năng tối thiểu cũng như cách ứng xử trong cuộc sống. Lứa tuổi học trò là tuổi ước mơ và sống vì lý tưởng nhưng hiện nay, họ không có một mẫu người lý tưởng. Chính vì thế, những mối tình sét đánh, những nhân vật ăn chơi sành điệu, những sát thủ tàn bạo trên phim ảnh đã thành thần tượng của biết bao cô cậu học trò. Hiện nay, số lượng trẻ vị thành niên nói chung và học sinh, sinh viên nói riêng phạm pháp đang gia tăng theo xu hướng trẻ hóa và mức độ tội lỗi ngày càng nghiêm trọng. Có rất nhiều nguyên nhân từ phía: Gia đình – Nhà trường – Xã hội ... đã xô đẩy các em rơi vào vũng bùn tội lỗi. Trong đó, tình trạng tổ ấm gia đình bị tan nát, cách nuôi dạy con phản khoa học và sự thiếu gương mẫu của các bậc cha mẹ là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến tình trạng thanh thiếu niên phạm tội. Bên cạnh đó, hình ảnh người thầy ít nhiều bị lu mờ trong nền kinh tế thị trường đầy biến động hết sức phức tạp cũng là một nguyên nhân khiến học sinh – sinh viên không biết lấy đâu làm “điểm tựa” để phấn đấu, một khi vai trò của người thầy không còn được đề cao như trước thì việc giáo dục đạo đức, lối sống trong bộ phận học sinh – sinh viên hiện nay cũng là vấn đề rất đáng được quan tâm. Việc tuyển chọn sinh viên vào các trường sư phạm, việc tuyển dụng giáo viên đang nặng về trình độ học lực, xem nhẹ lòng yêu nghề, chưa chú trọng rèn luyện kỹ năng sư phạm và nâng cao phẩm chất đạo đức nhà giáo. Tấm gương sáng về tinh thần vượt khó tự học tự rèn, hết lòng vì học
  9. Đỗ Thị Thủy sinh, lối sống gương mẫu, ý thức kỷ luật, năng lực chuyên môn của người thầy đã – đang và mãi mãi có sức hút lớn nhất, mạnh mẽ nhất, cao quý nhất đối với tất cả học sinh, sinh viên. Vì thế hơn ai hết, các thầy cô giáo phải là những người tiên phong trong việc giáo dục lối sống, đạo đức, pháp luật cho các em. _ riêng cá nhân e nghĩ : Ở gia đình, các bậc phụ huynh nên dạy con cái biết cách đối nhân xử thế, biết tôn trọng mình và tôn trọng người khác, dạy con lòng khoan dung, sự độ lượng vị tha và những chuẩn mực, giá trị đạo đức mà con người phải sống theo, dạy con điều hay lẽ phải. Nhưng để làm được điều đó, trước hết cha mẹ phải là tấm gương cho con cái noi theo. Trong một thế giới đang đề cao sự thỏa mãn tức thì những ham muốn bản năng, thì gia đình có vai trò rất quan trọng trong việc khơi dậy ý thức về cái tốt và cái xấu, về cái đáng làm và không nên làm, nhưng nếu các bậc cha mẹ đã không đóng đúng vai trò của mình thì đừng đòi hỏi những đứa con ở nhà sẽ trở thành một công dân tốt. “Môi trường tạo nên tính cách”, vì thế nếu cha mẹ rượu chè, cờ bạc, vi phạm pháp luật thì hình ảnh của họ sẽ như thế nào trong mắt con cái ? Khi chúng ta mở cửa giao lưu với thế giới thì những luồng văn hóa, những giá trị khác lạ chắc chắn cũng sẽ tràn vào. Vấn đề ở đây là không phải và cũng không thể ngăn chặn các luồng văn hóa ấy, mà phải tạo cho từng thành viên trong xã hội, nhất là giới trẻ, sức đề kháng trước các luồng văn hóa, lối sống ấy. Đừng để giới trẻ hiện nay bị tha hóa về đạo đức. Muốn vậy hãy cùng chung tay tạo sức đề kháng cho thế hệ trẻ để tránh những cạm bẫy của xã hội, sống tốt hơn để góp sức mình trong công cuộc sây dựng đất nước. Câu 5:Em hãy nêu những điểm mới trong luật giáo dục nghề nghiệp 2014 so  với luật dạy nghề năm 2006? Ngày 27 tháng 11 năm 2014, Luật Giáo dục nghề nghiệp đã được Quốc hội khóa  XIII thông qua tại Kỳ họp thứ 8 và có hiệu lực thi hành từ 01 tháng 7 năm 2015. Có  thể nói, đây là một đạo luật đã thể chế hóa mạnh mẽ chủ trương đổi mới căn bản,  toàn diện giáo dục nói chung, giáo dục nghề nghiệp nói riêng theo tinh thần Nghị  quyết Hội nghị lần thứ 8, Ban Chấp hành Trung ương Khóa XI, giải quyết nhiều  bất cập trong thực tiễn, tạo nên một diện mạo mới của hệ thống giáo dục nghề  nghiệp ở Việt Nam, đáp ứng yêu cầu hội nhập với các nước trong khu vực và quốc  tế.Thực hiện Nghị quyết số 20/2011/QH13 ngày 26/11/2011 về Chương trình xây 
  10. dựng luật, pháp lệnh của Quốc hội nhiệm kỳ khóa XIII, Chính phủ đã chỉ đạo Bộ  Lao động ­ Thương binh và Xã hội phối hợp với các Bộ, ngành có liên quan tổ chức  xây dựng Dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề. Tuy nhiên,  theo Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam được sửa đổi, bổ sung  năm 2013, không có thuật ngữ "dạy nghề" mà chỉ có thuật ngữ “giáo dục nghề  nghiệp” và thuật ngữ “học nghề” tại Điều 61 quy định về giáo dục. Như vậy có  thể hiểu việc học nghề, bao gồm cả học nghề ở trình độ sơ cấp, trung cấp và cao  đẳng đều thuộc về giáo dục nghề nghiệp Trên thế giới  hiện nay thường dung thu ̀ ật ngữ "Vocational Education and  Training" (VET) với nghĩa Giáo dục và đào tạo nghề hoặc "Technical Vocational  Education and Training" (TVET) với nghĩa Giáo dục kỹ thuật và đào tạo nghề và  đều được hiểu chung theo nghĩa rộng là Giáo dục nghề nghiệp (Vocational  Education). Luật Giáo dục nghề nghiệp (GDNN) của các nước đều sử dụng thuật  nghữ VET hoặc TVET và có một số nước, sử dụng chính thuật ngữ Vocational  Education cho tên luật ­ Vocational Education Law (Ví dụ: Luật GDNN của Cộng  hòa Latvia, Trung Quốc, Ailen.v.v....) Do vậy, để bảo đảm tuân thủ Hiến pháp và hội nhập với các nước trong khu vực  và quốc tế, Luật Sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Dạy nghề được đổi tên  thành Luật Giáo dục nghề nghiệp (Law on Vocational Education and Training).   2. Về những điểm mới và tiến bộ của Luật Giáo dục nghề nghiệp Giáo dục nghề  nghiệp gồm 8 chương, 79 điều và có nhiều điểm mới, tiến bộ   trong đó có một số điểm mới quan trọng, cụ thể:   ­ Đổi mới hệ thống giáo dục nghề nghiệp   Theo quy định của Luật Giáo dục năm 2005, giáo dục nghề nghiệp chỉ bao gồm:   trung cấp chuyên nghiệp và dạy nghề. Trong dạy nghề  lại có các trình độ  sơ   cấp nghề, trung cấp nghề và cao đẳng nghề. Như  vậy, vô hình trung, hệ  thống   giáo dục Việt Nam có 2 trình độ trung cấp, 2 trình độ cao đẳng và do 2 cơ quan   quản lý khác nhau. Theo đó, để khắc phục bất cập nêu trên, Luật Giáo dục nghề   nghiệp cấu trúc lại hệ  thống giáo dục quốc dân của Việt Nam, làm thay đổi   toàn diện cấu trúc hệ  thống giáo dục nghề  nghiệp. Hệ  thống giáo dục nghề   nghiệp mới bao gồm: Trình độ sơ cấp; trình độ trung cấp và trình độ cao đẳng.
  11. Đỗ Thị Thủy   ­ Đổi mới tên gọi các cơ sở giáo dục nghề nghiệp   Với việc cấu trúc lại hệ  thống trình độ  đào tạo, nên cơ  sở  giáo dục nghề   nghiệp có sự đổi mới, gồm: Trung tâm giáo dục nghề nghiệp (là sự thống nhất   của   trung   tâm   kỹ   thuật,   tổng   hợp,   hướng   nghiệp   và   trung   tâm   dạy   nghề),   trường trung cấp (là sự  thống nhất của trường trung cấp chuyên nghiệp và   trường trung cấp nghề) và trường cao đẳng (là sự  thống nhất của cao đẳng   chuyên nghiệp và cao đẳng nghề). Thực chất là đưa trường cao đẳng chuyên   nghiệp tách khỏi giáo dục đại học. Giáo dục đại học chỉ  còn trường đại học   đào tạo trình độ đại học, thạc sĩ và tiến sĩ.   ­ Đổi mới tổ chức quản lý, đào tạo   Nếu trước đây, tổ  chức đào tạo trong lĩnh vực giáo dục nghề  nghiệp chỉ  có   phương thức đào tạo theo niên chế  thì bây giờ  Luật quy định rõ trong tổ  chức   quản lý đào tạo có thêm 2 phương thức đào tạo mới: Đào tạo theo tích lũy mô   đun và đào tạo theo tích lũy tín chỉ. Các cơ  sở  giáo dục nghề  nghiệp có quyền   lựa chọn phương thức đào tạo theo điều kiện của từng cơ sở.   Theo phương thức đào tạo này, hệ thống giáo dục nghề nghiệp sẽ là hệ thống   mở, linh hoạt, đảm bảo liên thông thuận lợi giữa các cấp trình độ đào tạo trong   cùng nghề hoặc với các nghề khác hoặc liên thông lên trình độ cao hơn trong hệ   thống giáo dục quốc dân; người học được coi là trung tâm của quá trình đào   tạo, được học theo năng lực, điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân, có thể  học   nhiều nội dung trong cùng thời gian và được công nhận theo hình thức tích lũy   các năng lực; người học có thể  học rút ngắn hoặc kéo dài thời gian học tập   hoàn toàn phụ  thuộc vào năng lực, điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân người   học.   ­ Đổi mới tuyển sinh   Theo quy định hiện hành, cơ sở  dạy nghề chỉ được tuyển sinh theo quy mô của   từng nghề đào tạo ghi trong giấy chứng nhận đăng ký hoạt động dạy nghề (do   cơ  quan quản lý có thẩm quyền cấp), không được tuyển vượt. Thậm chí nếu   tuyển vượt 1 chỉ  tiêu trình độ  cao đẳng nghề  thì bị  xử  lý vi phạm hành chính.   Khắc phục bất cập đó, theo Luật Giáo dục nghề  nghiệp cơ  sở  giáo dục nghề   nghiệp được quyền tự chủ xác định chỉ  tiêu tuyển sinh trên cơ  sở  điều kiện về   số lượng, chất lượng đội ngũ nhà giáo, cơ sở vật chất và thiết bị đào tạo; được  
  12. tuyển sinh nhiều lần trong năm; được tổ chức xét tuyển, thi tuyển hoặc kết hợp   giữa xét tuyển, thi tuyển.    ­ Đổi mới thời gian đào tạo trung cấp đối với những người tốt nghiệp trung học   cơ sở   Thời gian đào tạo trình độ  trung cấp đối với người có bằng tốt nghiệp trung   học cơ  sở  trở  lên chỉ  còn từ  01 đến 2 năm học tùy theo nghề  đào tạo khi học   theo niên chế (theo quy định hiện hành là từ 3 ­ 4 năm do phải học thêm văn hóa   trung học phổ  thông). Đối với người có bằng tốt nghiệp trung học cơ  sở, nếu   có nguyện vọng tiếp tục học lên trình độ cao hơn thì phải tích lũy thêm nội dung   văn hóa trung học phổ thông. Đây là nội dung mang tính tự chọn. Như vậy, nội   dung văn hóa trung học phổ  thông không trở  thành nội dung bắt buộc đối với   người học như quy định của Luật Dạy nghề, Luật Giáo dục. Đối với thời gian   học theo tích lũy mô­đun, tín chỉ là thời gian tích lũy đủ số lượng mô­đun, tín chỉ   quy định cho từng chương trình đào tạo, không phụ thuộc vào số năm học.    ­ Đổi mới chương trình đào tạo   Trước đây theo quy định của Luật Dạy nghề, Bộ Lao động­Thương binh và Xã   hội ban hành chương trình khung đối với từng nghề đào tạo trình độ  trung cấp   và cao đẳng. Trên cơ  sở  chương trình khung, các cơ  sở  dạy nghề  ban hành   chương trình dạy nghề  chi tiết. Theo Luật Giáo dục nghề  nghiệp, Nhà nước   không   ban  hành   chương  trình   khung   mà  giao   cho  các   cơ   sở   giáo  dục   nghề   nghiệp tự  chủ  xây dựng chương trình đào tạo. Hiện nay, theo Dự  thảo Khung   trình độ  quốc gia của Việt Nam, Khung trình độ  gồm 8 bậc: Bậc 1, 2 tương   đương  ở  mức đào tạo dưới 3 tháng (ngắn hạn); Bậc 3 trình độ  sơ  cấp; Bậc 4   trình độ trung cấp; Bậc 5 trình độ cao đẳng; Bậc 6 đại học, Bậc 7 cao học, Bậc   8 Tiến sĩ. Theo đó, các cơ sở giáo dục nghề nghiệp căn cứ  vào chuẩn kỹ  năng   của từng bậc trong khung trình độ  quốc gia để  xây dựng chương trình đào tạo   cho phù hợp.   ­ Đổi mới kiểm tra, thi, xét công nhận tốt nghiệp và cấp bằng tốt nghiệp   Theo quy định hiện hành, người học sau quá trình học tập phải thi tốt nghiệp,   nếu đạt mới được xem xét công nhận và cấp bằng tốt nghiệp.    Với phương thức đào tạo mới, Luật Giáo dục nghề  nghiệp quy định đối với   chương trình đào tạo theo tích lũy mô­đun, tín chỉ  nếu người học tích lũy đủ  
  13. Đỗ Thị Thủy môn­đun, tín chỉ theo quy định của chương trình đào tạo thì được xét công nhận   tốt nghiệp và cấp bằng tốt nghiệp, không phải thi tốt nghiệp cuối khóa. Đối với   người tốt nghiệp trình độ  cao đẳng được cấp bằng cao đẳng và công nhận   danh hiệu kỹ  sư  thực hành hoặc cử  nhân thực hành tùy vào ngành nghề  đào   tạo.    ­ Đổi mới chính sách với người học   Chính sách đối với người học được thể  hiện mạnh mẽ  trong Luật Giáo dục   nghề nghiệp. Đây được coi là một trong những giải pháp thực hiện phân luồng,   thu hút người học, tạo sự  hấp dẫn đối với người học tham gia giáo dục nghề   nghiệp, cụ thể như:    + Người học được miễn học phí đối với các đối tượng chính sách xã hội; đối   với người học tốt nghiệp trung học cơ  sở  (lớp 9) khi học trung cấp;  đối với   những nghề khó tuyển sinh nhưng xã hội có nhu cầu và những ngành nghề đặc   thù;   + Người học được hưởng chính sách nội trú đối với người dân tộc thiểu số   thuộc hộ  nghèo, cận nghèo, người khuyết tật; người dân tộc kinh thuộc hộ   nghèo, cận nghèo, người khuyết tật có hộ khẩu thường trú tại vùng có điều kiện   kinh tế  ­ xã hội đặc biệt khó khăn, vùng dân tộc thiểu số, biên giới, hải đảo;   học sinh trường phổ  thông dân tộc nội trú khi học trình độ  trung cấp, trình độ   cao đẳng    + Người học sau khi tốt nghiệp được tuyển dụng vào các cơ quan nhà nước, tổ   chức chính trị ­ xã hội, đơn vị sự nghiệp công lập; được hưởng tiền lương theo   thỏa thuận với người sử dụng lao động dựa trên vị  trí việc làm, năng lực làm   việc nhưng không được thấp hơn mức lương tối thiểu, mức lương cơ sở hoặc   khởi điểm.   ­ Đổi mới chính sách với nhà giáo   Theo quy định hiện hành, nhà giáo dạy nghề  không có chức danh, không có   thang bảng lương riêng; chính sách tôn vinh, đãi ngộ thiệt thòi.v.v... Khắc phục   các bất cập đó, Luật Giáo dục nghề nghiệp quy định về  các chức danh đối với   nhà giáo trong cơ sở giáo dục nghề nghiệp, quy định thang bảng lương gắn với   chức danh; quy định rõ chính sách tôn vinh (nhà giáo nhân dân, nhà giáo ưu tú),   kéo dài thời gian làm việc với những nhà giáo có trình độ, học hàm học vị, có  
  14. tay nghề cao. Nhà giáo dạy thực hành, vừa dạy lý thuyết thực hành được hưởng   phụ cấp ưu đãi theo quy định của Chính phủ.   ­ Đổi mới chính sách gắn kết cơ sở giáo dục nghề nghiệp với doanh nghiệp   Doanh nghiệp tham gia hoạt động giáo dục nghề nghiệp với vai trò là chủ thể   có quyền và trách nhiệm như nhau trong hoạt động giáo dục nghề nghiệp. Toàn   bộ chi phí cho hoạt động giáo dục nghề nghiệp được trừ để  tính thu nhập chịu   thuế. Nội dung này không chỉ quy định trong Luật Giáo dục nghề nghiệp mà còn   được cụ  thể  hơn trong Luật Sửa đổi, bổ  sung một số  điều của các luật thuế   cũng được Quốc hội Khóa XIII, kỳ họp thứ 8 thông qua.   ­ Đổi mới, nâng cao tính tự chủ của cơ sở giáo dục nghề nghiệp   Cơ  sở  giáo dục nghề  nghiệp tự chủ trong các hoạt động thuộc các lĩnh vực tổ   chức và nhân sự, tài chính và tài sản, đào tạo và công nghệ, hợp tác quốc tế,   bảo đảm chất lượng đào tạo theo quy định của pháp luật. Cơ sở giáo dục nghề   nghiệp công lập tự bảo đảm toàn bộ kinh phí hoạt động chi thường xuyên và chi   đầu tư được thực hiện tự chủ, tự chịu trách nhiệm toàn diện theo quy định của   Chính phủ.   ­ Đổi mới về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục nghề nghiệp   Xác định hội nhập là xu thế  tất yếu, Luật Giáo dục nghề  nghiệp có một mục   riêng quy định về hợp tác quốc tế, như: Quy định các hình thức hợp tác quốc tế;   liên kết đào tạo với nước ngoài; thành lập văn phòng đại diện của cơ sở nước   ngoài tại Việt Nam và văn phòng đại diện của cơ sở giáo dục nghề nghiệp Việt   Nam tại  nước ngoài; quy  định việc công nhận tương  đương  đối với những   người đã tốt nghiệp các trình độ  đào tạo nghề nghiệp  ở  nước ngoài; quy định   trình tự, thủ tục công nhận bằng, chứng chỉ giáo dục nghề nghiệp do cơ sở giáo   dục nghề nghiệp nước ngoài cấp.v.v...   Ngoài những nội dung nêu trên, Luật Giáo dục nghề  nghiệp đã quy định về   nhiều nội dung quan trọng khác như đổi mới mục tiêu; đổi mới kiểm định chất   lượng đào tạo nghề nghiệp; về chính sách xã hội hóa.v.v…   3. Về việc tổ chức triển khai thi hành Luật  
  15. Đỗ Thị Thủy Luật Giáo dục nghề  nghiệp có hiệu lực thi hành từ  ngày 01 tháng 7 năm 2015.   Để triển khai thi hành Luật, nhiều nội dung sẽ phải được chuẩn bị. Có thể nêu   lên đây một số nội dung sau:    ­ Thực hiện tái cấu trúc hệ thống giáo dục nghề nghiệp   Tổng cục Dạy nghề  sẽ  được đổi tên thành Tổng cục Giáo dục nghề  nghiệp,   đồng thời tổ chức bộ máy quản lý giáo dục nghề nghiệp từ trung ương đến địa   phương sẽ  được kiện toàn, bổ  sung để  tương xứng với chức năng, nhiệm vụ   mới; Các cơ  sở  dạy nghề, trường trung cấp chuyên nghiệp, trường cao  đẳng sẽ   được đổi tên theo quy định của Luật. Trung tâm dạy nghề sẽ được đổi tên thành   trung tâm giáo dục nghề nghiệp để  thực hiện hai chức năng dạy nghề  và giáo   dục   hướng   nghiệp.   Trung   tâm   kỹ   thuật   tổng   hợp   hướng   nghiệp   ở   các   địa   phương trước đây thuộc giáo dục phổ  thông sẽ  được sáp nhập vào trung tâm   giáo dục nghề nghiệp.   ­ Xây dựng văn bản hướng dẫn thi hành Luật   Thực hiện Quyết định số  2296/QĐ­TTg ngày 17/12/2014 của Thủ  tướng Chính   phủ  về  ban hành danh mục và phân công soạn thảo các văn bản quy định chi   tiết thi hành Luật Giáo dục nghề nghiệp, Bộ Lao động ­ Thương binh và Xã hội   được giao chủ  trì xây dựng 3 nghị  định của Chính phủ, 3 quyết định của Thủ   tướng Chính phủ hướng dẫn một số nội dung theo quy định của Luật Giáo dục   nghề nghiệp.   Ngoài ra, Tổng cục Dạy nghề  đang dự  thảo 24 thông tư  hướng dẫn các nội   dung khác theo thẩm quyền của Thủ trưởng cơ quan quản lý nhà nước về giáo   dục nghề  nghiệp  ở  trung  ương và một số  các văn bản quy phạm pháp luật có   liên quan đến tổ chức hoạt động đào tạo cần cũng phải được sửa đổi ngay để   bảo đảm sự  thống nhất, đồng bộ  của hệ  thống pháp luật về  giáo dục nghề   nghiệp.   ­ Tuyên truyền, phổ biến Luật Giáo dục nghề nghiệp   Thực hiện quy định của Luật Phổ biến, giáo dục pháp luật, để  mọi người dân   và nhất là các đối tượng chịu tác động của Luật Giáo dục nghề  nghiệp hiểu   biết, nắm được các quy định của Luật, từ  nay đến năm 2015, 2016, Luật Giáo  
  16. dục nghề nghiệp sẽ được tuyên truyền, phổ biến đến mọi đối tượng thông qua   các hình thức tuyên truyền, phổ biến.   ­ Một số công việc khác như: Hướng dẫn công tác tuyển sinh, xây dựng chương   trình, giáo trình giảng dạy theo quy định của Luật Giáo dục nghề  nghiệp; tiến   hành rà soát, quy hoạch mạng lưới cơ  sở  giáo dục nghề  nghiệp theo quy định   tại Điều 8 của Luật Giáo dục nghề  nghiệp; điều chỉnh, bổ  sung quy hoạch   nghề trọng điểm, các trường chất lượng cao để phù hợp với hệ thống mới.   Hội nhập vừa là cơ hội, vừa là thách thức đối với mỗi quốc gia. Việt Nam đang   chuyển mình mạnh mẽ  để  tham gia sâu rộng vào sân chơi của các nước trong   khu vực và quốc tế. Với Luật Giáo dục nghề  nghiệp, với nhiều nội dung đổi   mới mạnh mẽ, toàn diện và có tính đột phá, giáo dục nghề  nghiệp Việt Nam   chắc chắn sẽ hội nhập tốt với các nước trong khu vực ASEAN và quốc tế, góp   phần nâng cao vị thế của nhân lực lao động Việt Nam trên trường quốc tế.  
  17. Đỗ Thị Thủy
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2