BÀI “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU
lượt xem 19
download
- Cảm nhận được một thời kháng chiến gian khổ mà anh hùng, nhất là nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước - Nghệ thuật bài thơ đậm đà tính dân tộc, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: BÀI “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU
- TÌM HIỂU BÀI “VIỆT BẮC” CỦA TỐ HỮU MỤC TIÊU : - Cảm nhận được một thời kháng chiến gian khổ mà anh hùng, nhất là nghĩa tình gắn bó thắm thiết của những người kháng chiến với Việt Bắc, với nhân dân, đất nước - Nghệ thuật bài thơ đậm đà tính dân tộc, làm dạt dào thêm tình yêu quê hương đất nước trong tâm hồn mỗi người Việt Nam. I/Tìm hiểu chung 1/ Hoàn cảnh và mục đích sáng tác - Tháng 10/1954, Trung ương Đảng, Chính phủ về tiếp quản thủ đô Hà Nội. Tố Hữu đã từng gắn bó với Việt Bắc trong suốt những năm kháng chiến. Nhà thơ đã viết bài thơ này. - Một trang sử mới của đất nước, một giai đoạn mới của cách mạng mở ra. Tố Hữu viết bài thơ này với xúc cảm của anh cán bộ kháng chiến. + Bài thơ nhằm tổng kết, tái hiện lại giai đoạn gian khổ, vẻ vang của cách mạng và kháng chiến ở chiến khu Việt Bắc, nó trở thành kỉ niệm khắc sâu lòng người. + Bài thơ là khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến và con người kháng chiến, đồng thời thể hiện tình cảm ân nghĩa thuỷ chung. + Bài thơ còn thể hiện những dự cảm, mong ước về tương lai giữa miền xuôi và miền ngược. - Đoạn trích SGK nằm trong phần đầu của bài thơ. Nửa sau của bài thơ chủ yếu nói về hẹn ước, tương lai giữa miền xuôi và miền ngược. 2/. Kết cầu của bài thơ - Kết cấu là thuật ngữ chỉ nội dung và hình thức của một tác phẩm văn học (thơ, văn). Những biểu hiện bên ngoài là hình thức bên trong là nội dung. - Bài thơ có kết cấu theo lối đối đáp của ca dao trữ tình. Thực chất nó là lối độc thoại, đắm mình trong hoài niệm ngọt ngào về quá khứ. Nó nêu bật tình nghĩa thắm thiết của con người với cách mạng và kháng chiến. Nó còn là khát vọng về tương lai và nhiều dự cảm mới mẻ.
- - Lời đối đáp giữa mình, ta, kẻ ở người đi chỉ là sự phân thân của nhân vật trữ tình, chỉ là cách để tâm trạng bộc lộ đầy đủ hơn trong hô ứng, đồng vọng giữa hai con người tưởng tượng. - Bài thơ chia làm 2 phần. Đoạn trích thuộc phần đầu ôn lại những kỉ niệm đầy nghĩa tình sâu nặng của con người. Đó là tình cảm của anh cán bộ kháng chiến đối với thiên nhiên và con người Việt Bắc, tình cảm của Việt Bắc đối với cách mạng và kháng chiến. 3/. Cảm xúc chủ đạo của đoạn trích - Cảm xúc chủ đạo là tình cảm của nhân vật trữ tình Đoạn trích bộc lộ nỗi nhớ thương da diết của anh cán bộ kháng chiến với thiên nhiên và con người Việt Bắc. Đồng thời là khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến. Tình cảm ấy đọng lại niềm tin vào Đảng, vào Bác Hồ. II. Đọc hiểu văn bản 1. Cuộc chia tay - Nhà thơ tạo ra lời đối đáp giữa kẻ ở người đi + Việt Bắc hỏi: Mình về có nhớ ta chăng Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn + Anh cán bộ kháng chiến trả lời: “Tiến ai… hôm nay” - Sử dụng từ ngữ diễn tả trong tình yêu đôi lứa, vợ chồng + Mình (trở đi trở lại) + Ta - Bằng âm điệu ngọt ngào như lời ru trong thể thơ lục bát. Ba biện pháp nghệ thuật trên đây đã đưa người đọc vào thế giới tâm tình đầy ân nghĩa, trải dài trong không gian, thời gian tâm tưởng.
- - Lời của Việt Bắc lên tiếng trước. Đây là thể hiện sự nhạy cảm về tâm hồn trước hoàn cảnh đổi thay. Việt Bắc hỏi về thời gian “mười lăm năm ấy”, hỏi về không gian “nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn”. Hỏi về không gian và thời gian thường gợi kỉ niệm vừa gắn bó vừa sâu nặng. Nó chứng tỏ người dân Việt Bắc sống gần gủi với thiên nhiên, với những gì rất cụ thể. Lời hỏi của Việt Bắc đã khơi dậy bao kỉ niệm, khơi nguồn cho nỗi nhớ. Không gian và thời gian cụ thể “mười lăm năm” bỗng trở thành không gian và thời gian tâm tưởng. - Lời anh cán bộ kháng chiến. Chia tay với Việt Bắc, anh cán bộ kháng chiến thấy lòng mình bâng khuâng, xao xuyến. Hàng loạt những từ ngữ gợi tâm trạng: “bâng khuâng”, “bồn chồn”, “tha thiết”. Anh cất lên lời đáp. Lời đáp lại như một câu hỏi “Tiếng ai tha thiết bên cồn”. Biết rồi đấy mà vẫn hỏi. Một tiếng ai gợi ra sự gắn bó của người trong cuộc. Nó như lời giả từ của một người yêu với một người yêu. Hình ảnh “áo chàm” được lấy làm hoán dụ để chỉ người có áo, “áo chàm” màu áo không bao giờ phai nhạt ấy lại là biểu tượng cho tấm lòng son sắt thuỷ chung của đồng bào các dân tộc Việt Bắc với cách mạng và kháng chiến. Cảm động nhất vẫn là hình ảnh “cầm tay nhau biết nói gì hôm nay”. Cuộc chia tay không nói nên lời. Nó lưu luyến bịn rịn.Ta cũng chẳng nghe tiếng họ nói những gì với nhau. Chỉ có đôi bàn tay nắm lấy bàn tay và nói giùm tất cả. Tạo ra sự đối đáp, nhà thơ đã dàn dựng được cảnh chia tay. Nhưng đó chỉ là hình thức kết cấu bên ngoài, còn ở chiều sâu chính là sự thống nhất của tình cảm trong tiếng nói chung. - Đó là cách sử dụng ngôn ngữ diễn tả cuộc chia tay. Nhà thơ sử dụng rất sáng tạo đại từ “mình” + “Mình” chỉ bản thân người nói (ngôi thứ nhất) nhưng ở văn cảnh này “mình” còn chỉ đối tượng giao tiếp. Một đối tượng gần gũi, gắn bó, thân thiết, người bạn đời yêu mến. “Mình” đã chuyển sang ngôi thứ 2 nhằm diễn tả quan hệ tình yêu đôi lứa, tình vợ chồng. “Mình” được dùng ở nghĩa thứ hai (đối tượng trực tiếp trò chuyện). Nó góp phần tạo ra mối quan hệ gắn bó giữa hai người – Anh cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc. Ngôn ngữ vừa giản dị, mộc mạc diễn tả tình cảm chân thật, cuộc chia tay bịn rịn, lưu luyến đến bâng khuâng. - Để diễn tả cuộc chia tay đầy lưu luyến, nhà thơ sử dụng câu thơ lục bát cân xứng, nhịp nhàng phù hợp với tâm trạng bâng khuâng của con người trong cuộc tiễn đưa: - Mình về / mình có / nhớ chăng Mười lăm năm ấy / thiết tha mặn nồng Mình về / mình có / nhớ không
- Nhìn cây nhớ núi / nhìn sông nhớ nguồn - Tiếng ai / tha thiết / bên cồn Bâng khuâng trong dạ / bồn chồn bước đi Áo chàm / đưa buổi / phân li Cầm tay nhau biết / nói gì hôm nay. Sự ngắt nhịp ấy chính là nhịp điệu tâm hồn. Nó tạo ra sự cộng hưởng, đồng vọng của cả người ở, người đi. Đó là nỗi nhớ da diểt, mênh mang với thiên nhiên, con người, với cách mạng và kháng chiến. 2. Nỗi nhớ da diết về thiên nhiên con người Việt Bắc - Trong đoạn trích có hơn 30 từ “nhớ” (cụ thể là 35 từ) - Tác dụng của việc lặp lại nhiều lần từ “nhớ”. + Về tâm lí, một hiện tượng, một âm thanh, một từ xuất hiện nhiều lần trước mắt ta, buộc ta phải chú ý. + Về ý nghĩa “nhớ” gắn liền với đối tượng cụ thể. Nó khắc sâu trong tâm trạng người đọc, người nghe về sắc thái tình cảm của con người. Khi diễn tả nỗi nhớ của anh cán bộ kháng chiến, khi là sự đồng vọng cùng nhớ về sự kiện cách mạng, kháng chiến. Nỗi nhớ mang nhiều cung bậc. - Đặc sắc của đoạn thơ là ở chỗ Tố Hữu tạo ra lối đối đáp trong tưởng tượng. Nhà thơ để Việt Bắc hỏi: + Mình đi, có nhớ? + Mình về, có nhớ? Mỗi cụm từ ấy xuất hiện tới ba lần. Nó xoáy sâu vào lòng người, gợi nỗi nhớ như dòng chảy. Thiên nhiên Việt Bắc hiện ra: “Trám bùi”, “măng mai” + Những mái nhà “hắt hiu lau xám” + Những địa danh cụ thể: “Tân Trào”, “Hồng Thái” + Những di tích lịch sử “mái đình, cây đa”
- Ba tiếng “mình” trong một câu thơ mang lại cách hiểu khác nhau. Theo cách hiểu thông thường mình (1), mình (2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ người ở lại. Nhưng cũng có cách hiểu mình (1), mình (2), mình (3) chỉ là một đối tượng: người ra đi. Người ra đi tự hỏi mình, tự đối thoại với mình để đừng bao giờ quên Việt Bắc. Cũng có thể người ở lại nhắc người ra đi đừng có quên những ngày tháng, đừng quên chính mình, đánh mất mình. Thơ như thế thật dung dị mà sâu sắc. Đáp lại sự khẳng định: Ta với mình, mình với ta Mình ta sau trước mặn mà đinh ninh Mình đi mình lại nhớ mình Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu Cũng là ba tiếng “mình”. Mình (1) và (2) chỉ người ra đi. Mình (3) chỉ người ở lại. Tiếng gọi ấy gần gũi, thân thiết quá. Ta nghe như người yêu nói với người yêu, tiếng của người bạn đời yêu dấu, tiếng của vợ, của chồng. Nhưng ba tiếng “mình” ấy cũng để chỉ người ra đi. Lời hứa trở nên mặn mà, đinh ninh, sâu sắc. Nhân vật trữ tình tự phân thân, lại hoà làm một xoáy sâu vào tiếng nói của tâm trạng để tìm sự đồng vọng của người đọc người nghe. - Đó là đoạn thơ: Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người …. Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung - Thiên nhiên thật tươi tắn “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”. Thiên nhiên mang vẻ đẹp riêng của Việt Bắc “Mùa xuân mơ nở trắng rừng” không ở đâu có được. Không chỉ có ở màu sắc đường nét mà cả âm vang sôi động: “ve kêu rừng phách đổ vàng”. - Cái hay, cái đẹp của đoạn thơ là sự kết hợp đến dung dị, cứ một câu tả về thiên nhiên là một câu nói về con người. + “Đèo cao ánh nắng dao gài thắt lưng”: Con người thật bình dị, khoẻ khoắn trong lao động. Đến những câu: + “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang” + “Nhớ cô em gái hái măng một mình”
- Con người cần mẫn trong công việc. Con người Việt Bắc thật vui, thật tươi sung sướng đón nhận cuộc sống hoà bình, không có tiếng súng, hạnh phúc đã trở về với họ “Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung” - Đoạn thơ hay và tiêu biểu khi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc. Thiên nhiên làm nền để bức chân dung phác thảo về con người hiện lên mồn một. Con người gần gũi với thiên nhiên, bình dị như thiên nhiên. - Nhớ về những con người lam lũ nghèo khổ: Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô Tấm lưng người mẹ nghèo miền núi đã đi vào thơ không chỉ một mà nhiều người: Em cu Tai ngủ trên lưng mẹ ơi Em ngủ cho ngoan đừng rời lưng mẹ (Nguyễn Khoa Điềm - Tiếng hát những em bé lớn trên lưng mẹ) Buổi chiều mẹ lên rẫy Thấy bóng cây Kơ nia Bóng tròn che lưng mẹ Về nhớ anh mẹ khóc (Bóng cây Kơ nia-Ngọc Anh phỏng dịch theo điệu Ka choi) Người đọc không thể quên hình ảnh “nắng cháy lưng” trong thơ Tố Hữu. - Nhớ về những người thuỷ chung son sắt, nghĩa tình với kháng chiến: Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn sui đắp cùng Thơ hay và thấm thía bởi đề cập tới nghĩa tình con người cùng chia sẻ gian khổ và niềm vui. Cuộc sống con người chỉ đẹp khi gian khổ càng sắt son, gắn bó. Thơ Tố Hữu luôn đi sâu phát huy những gì tốt đẹp của truyền thống hơn là theo hướng cách tân hiện đại. Vì thế, nhà thơ khám phá những nét riêng của cuộc sống bình dị mà ấm áp của Việt Bắc: Nhớ sao tiếng mõ rừng chiều Chày đêm nện cối đều đều suối xa. - Nhưng cũng có lúc nỗi nhớ về cảnh và người Việt Bắc đẫm trong cảm xúc mơ màng, lãng mạn:
- Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đỉnh núi, nắng chiều lưng nương Nỗi nhớ thật đẹp. Ta nhận ra trong nỗi nhớ ba đối tượng không thể tách rời: đó là nhớ về thiên nhiên, con người cuộc kháng chiến hào hùng và niềm tin sâu sắc. 3. Nỗi nhớ về cuộc kháng chiến và niềm tin của con người - Đoạn thơ sau: + “Nhớ khi giặc đến giặc lùng … mai lên” + “Ai về ai có nhớ không… các khu” Đọc những đoạn thơ này ta bắt nhịp được với âm vang, hình ảnh sống động của khúc ca hùng tráng về cuộc kháng chiến + Đó là cuộc kháng chiến thể hiện thể trận của chiến tranh nhân dân. Toàn dân đánh giặc, đánh giặc ngay tại chỗ, đánh giặc bằng tất cả những gì có trong tay. Dựa vào rừng núi để đánh giặc, quân dân đoàn kết: Núi giăng thành luỹ sắt dây Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng. + Đó là cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện. Đây là hình ảnh trên đường ra trận: “Những người Việt Bắc của ta …mai lên” Những hình ảnh so sánh: “Đêm đêm rầm rập như là đất rung”. Những hình ảnh khẳng định đội ngũ “Quân đi điệp điệp trùng trùng”; Những hình ảnh đẹp trong chiến đấu “ánh sao đầu súng”; Những hình ảnh khẳng định sức mạnh: “bàn chân nát đá” Tin vui chiến thắng gắn liền với chiến dịch lớn: Tin vui chiến thắng trăm miền Hoà bình, Tây Bắc, Điện Biên vui về Nhịp thơ sôi nổi, giọng thơ hào hùng, những hình ảnh gây ấn tượng mạnh mẽ khác hẳn ở đoạn trên êm ả, ngọt ngào, Tố Hữu đã truyền đến cho người đọc, người nghe
- khí thế sôi động của chiến tranh toàn dân mà không phải nhà thơ nào cũng có được. Ở đây Tố Hữu đã kết hợp giọng điệu ngọt ngào của thơ lục bát với khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. + Tố Hữu đã phản ánh cuộc chiến tranh toàn diện: Ai về ai có nhớ không Ngọn cờ đỏ thẳm gió lồng cửa hang …. Gửi dao miền ngược, thêm trường các khu Ta vừa đánh giặc vừa lo phát triển kinh tế, vừa đánh giặc vừa chăm lo phát triển văn hoá. Có như vậy mới thực hiện đúng đường lối kháng chiến trường kì gian khổ nhưng nhất định thắng lợi. Ta nói vậy vì ta có niềm tin. - Tin vào Đảng và Bác Hồ: ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền Ở đâu, ở đâu dù u ám do quân thù tàn phá, giày xéo, đốt phá, chém giết hãy hướng về Việt Bắc. Nơi ấy có Trung ương Đảng và Bác Hồ. Câu thơ đã gieo một niềm tin tưởng. Nhịp thơ, lời thơ đã tạo ra giọng điệu trang trọng, lắng sâu trong niềm tin tưởng vô bờ. Anh cán bộ kháng chiến và đồng bào các dân tộc Việt Bắc và cả chúng ta nữa đều có niềm tin ấy. + Sử dụng thể thơ lục bát, một hình thức thơ ca dân tộc. Nó phát huy đầy đủ tiếng Việt nhất là con người Việt Nam. Đó là thuỷ chung tình nghĩa, đạo lí uống nước nhớ nguồn. * Những suy nghĩ, tư tưởng tình cảm của con người đất nước gắn liền với đạo lí tình nghĩa cách mạng. - Tình nghĩa thuỷ chung, son sắt với căn cứ địa cách mạng Mình về có nhớ núi non Nhớ khi kháng chiến thuở còn Việt Minh Mình đi mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa
- - Tình nghĩa thuỷ chung gắn bó trong những ngày kháng chiến gian khổ, ác liệt: + “Mình đi có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai” + “Nhớ sao ngày tháng cơ quan Gian nan đời vẫn ca vang núi đèo” + “Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây Núi giăng thành luỹ sắt đầy Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù” - Thuỷ chung tình nghĩa, thơ diễn tả lối sống theo đạo lí uống nước nhớ nguồn: + “Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà Mình về mình lại nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào” - Thuỷ chung, son sắt với niềm tin vào Đảng, Bác Hồ: + “Ở đâu u ám quân thù Nhìn lên Việt Bắc: Cụ Hồ sáng soi Ở đâu đau đớn giống nòi Trông về Việt Bắc mà nuôi chí bền” - Tình nghĩa thuỷ chung với nhân dân các dân tộc Việt Bắc: + “Nhớ người mẹ nắng cháy lưng Địu con lên rẫy bẻ từng bắp ngô” + “Ta đi ta nhớ những ngày Mình đây ta đấy đắng cay ngọt bùi Thương nhau chia củ sắn lùi Bát cơm sẻ nửa, chăn xui đắp cùng” + “Mình đi có nhớ những nhà Hắt hiu lau xám đậm đà lòng son”
- + “Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về Nhớ từng rừng nứa bờ tre Ngòi Thia, sông Đáy, suối Lê vơi đầy” + “Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người …thuỷ chung” * Thể thơ lục bát được vận dụng trong một bài thơ dài và nhiều lời thể hiện truyền thống dân tộc để làm sáng tỏ nghĩa tình cách mạng. - Thơ lục bát tạo ra âm hưởng thống nhất mà lại biến hoá đa dạng + Tha thiết ở nỗi nhớ + Sôi nỗi, mạnh mẽ, hào hùng ở ca ngợi kháng chiến + Trang trọng thiết tha thể hiện niềm tin biết ơn - Lời nói giàu hình ảnh + Thiên nhiên, con người Việt Bắc + Biểu dương lực lượng và sức mạnh + Thế trận của chiến tranh nhân dân - Sử dụng nhiều cách chuyển nghĩa truyền thống + Lối so sánh + Lối ẩn dụ + Tượng trưng, ước lệ “Ta về ta nhớ những hoa cùng người” “Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan” “Ở đâu u ám quân thù” Những vấn đề cơ bản trong bài thơ "Việt Bắc" ( Tố Hữu) 1.Hoàn cảnh sáng tác bài thơ : -Việt Bắc là quê hương CM, trước CM T8 có khởi nghĩa Bắc Sơn (1941), nơi thành lập MTVM; trong kháng chiến chống Pháp là nơi ở và làm việc của TW Đảng và chính phủ
- -Bài thơ Việt Bắc được sáng tác vào tháng 10/ 1954. Đây là thời điểm các cơ quan TW của Đảng và chính phủ rời chiến khu VB về Hà nội, sau khi cuộc kháng chiến chống pháp đã kết thúc vẻ vang với chiến thắng ĐBP và hoà bình được lập lại ở miền Bắc. Nhân sự kiện lịch sử này, Tố Hữu viết bài thơ để ôn lại một thời kháng chiến gian khổ mà hào hùng thể hiện nghĩa tình sâu nặng của những người con kháng chiến đối với nhân dân Việt Bắc, với quê hương CM. 2.Chủ đề của đoạn trích “Việt Bắc” Đoạn trích ca ngợi con người và cuộc sống ở chiến khu VB trong thời kì kháng chiến chống Pháp gian khổ, hào hùng, đồng thời thể hiện tình nghĩa thủy chung giữa người Cách mạng và nhân dân Việt Bắc. 3. Nghệ thuật đậm đà tính dân tộc trong đoạn trích “Việt Bắc” - Thể lục bát tài tình, thuần thục. - Sử dụng một số cách nói dân gian: thi liệu, xưng hô, đối đáp,... - Giọng điệu quen thuộc, gần gũi, ấm áp. - Sở trường sử dụng từ láy. - Cổ điển+hiện đại - Kết cấu bài thơ: lời đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca. Không chỉ là đối đáp mà còn hô ứng. - Cặp đại từ nhân xưng mình ta. 4. Nội dung đoạn trích: 4.1 - Sắc thái tâm trạng ,lối đối đáp của nhân vật trữ tình trong đoạn trích : -Hoàn cảnh sáng tác tạo nên một sắc thái tâm trạng đặc biệt, đầy xúc động bâng khuâng: Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay....Đó là cuộc chia tay của những người từng sống gắn bó suốt mười lăm năm ấy, có biết bao kỉ niệm ân tình, từng sẻ chia mọi cay đắng ngọt bùi, nay cùng nhau gợi lại những hồi ức đẹp đẽ, khẳng định nghĩa tình thuỷ chung và hướng về tương lai tươi sáng. Chuyện ân tình cách mạng đã được Tố Hữu khéo léo thể hiện như tâm trạng của tình yêu lứa đôi. -Diễn biến tâm trạng như trong tình yêu lứa đôi được tổ chức theo lối đối đáp quen thuộc của ca dao, dân ca, bên hỏi, bên đáp, người bày tỏ tâm sự, người hô ứng, đồng vọng. + Bốn câu đầu là lời ướm hỏi dạt dào tình cảm của ngưòi ở lại,đồng thời cũng khảng
- định tấm lòng thuỷ chung của mình: Đại từ Mình-Ta:Mối quan hệ gần gũi thân thiết -> gợi bao lưu luyến, bâng khuâng, bồn chồn, bịn rịn. Điệp từ “nhớ.”(láy lại) Lời nhắn nhủ của VB “Mình có nhớ ta, mình có nhớ không” vang lên ray rứt,gợi nỗi nhớ triền miên 15 năm gợi thời gian. Cây, núi, sông, gợi không gian thời gian hoạt động kháng chiến tại không gian Việt Bắc + 4 câu sau là tiếng lòng của người cán bộ cách mạng về xuôi. Nghe câu hỏi nên người về bâng khuâng , bồn chồn => Tình cảm thắm thiết của người cán bộ với cảnh và ngưòi Việt Bắc Đại từ phiếm chỉ “ai”nhưng lại rất cụ thể gợi sự gần gũi thân thương Áo chàm: H/ảnh bình dị, chân tình, chỉ người Việt Bắc. “Cầm tay ....”.-> Câu thơ bỏ lửng ngập ngừng nhưng đã diễn đạt chính xác thái độ xúc động nghẹn ngào không thể nói nên lời của người cán bộ từ dã Việt Bắc về xuôi.. .->Hỏi và đáp đều mở ra bao nhiêu kỉ niệm về một thời cách mạng và kháng chiến gian khổ mà anh hùng, mở ra bao nhiêu nỗi niềm nhớ thương. Thực ra, bên ngoài là đối đáp, còn bên trong là độc thoại, là sự biểu hiện tâm tư, tình cảm của chính nhà thơ, của những người tham gia kháng chiến. Qua hồi tưởng của chủ thể trữ tình, cảnh và người Việt Bắc hiện lên thật đẹp: - Nỗi nhớ thiết tha của người cán bộ sắp về xuôi đã khắc sâu thiên nhiên núi rừng Việt Bắc với vẻ đẹp vừa hiện thực, vừa thơ mộng, thi vi, gợi rõ những nét riêng biệt, độc đáo, khác hẳn những miền quê khác của đất nước. . + Hình ảnh thiên nhiên thơ mộng, ấm áp tình người: Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương., bản khói... sớm khuya... + Bức tranh tứ bình, mỗi mùa một hình ảnh đẹp làm say lòng người. Mùa đông: rừng xanh, hoa chuối đỏ tươi Mùa xuân: hoa mơ nở trắng rừng
- Mùa hè: ve kêu, rừng phách đổ vàng Mùa thu: ánh trăng soi sáng khắp núi rừng... = > Có thể thấy thiên nhiên Việt Bắc hiện lên với bao vẻ đẹp thật đa dạng, phong phú, sinh động, thay đổi theo từng thời tiết, từng mùa,đầy màu sắc lãng mạn, ấm áp lòng người. Chỉ những người đã từng sổng Việt Bắc, coi Việt Bắc cũng là quê hương thân thiết của mình mới có nỗi nhớ thật da diết, những cảm nhận thật sâu sắc, thấm thía về cảnh Việt Bắc như vậy. -Nhưng có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ về Việt Bắc là sự hoà quyện thắm thiết giữa cảnh với người, là ấn tượng không thể phai mờ về những người dân Việt Bắc cần cù trong lao động, thuỷ chung trong nghĩa tình : + Người VB cần lao gian khổ và đầy tình thương yêu chia ngọt sẻ bùi (câu 31->câu 36) +Hình ảnh sinh hoạt của cán bộ CM trong chiến khu hoà lẫn với sinh hoạt của nhân dân VB: Tiếng mõ rừng chiều, chày đêm nện cối, lớp học i tờ, giờ liên hoan = >Chính nghĩa tình của nhân dân với cán bộ, bộ đội, sự đồng cảm và san sẻ, cùng chung mọi gian khổ và niềm vui, cùng gánh vác mọi nhiệm vụ nặng nề, khó khăn,... tất cả càng làm Việt Bắc thêm ngời sáng trong tâm trí của nhà thơ. 4.2-Khung cảnh hùng tráng của Việt Bắc trong chiến đấu và vai trò của Việt bắc trong cách mạng và kháng chiến . + Khí thế hào hùng lên đường hành quân của quân và dân ta với những hình ảnh tuyệt đẹp mang dáng dấp sử thi (câu 53-> câu 70) Cách mạng và kháng chiến đã xua tan vẻ âm u, hiu hắt của núi rừng, đồng thời khơi dậy sức sống mạnh mẽ của thiên nhiên và con người Việt Bắc. + Chiến công Việt Bắc là bản tổng kết những nét lớn của sự phát triển ngày càng cao những chiến dịch, những thắng lợi trong niềm vui phơi phới. -Vượt qua bao thiếu thốn, gian khổ, hi sinh Việt bắc đã làm nên những kì tích, những chiến công gắn với những địa danh: Phủ Thông, đèo Giàng, sông Lô, phố Ràng, Hoà Bình, Tây Bắc, Điện Biên,... -Tố Hữu không chỉ miêu tả khí thế hào hùng của cuộc kháng chiến mà còn đi sâu lí
- giải những cội nguồn sức mạnh đã dẫn tới chiến thắng. Đó là sức mạnh của lòng căm thù: Miếng cơm chấm muối, mối thù nặng vai, sức mạnh của tình nghĩa thuỷ chung: Mình đây ta đó, đắng cay ngọt bùi, sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân, của sự hoà quyện gắn bó giữa con người với thiên nhiên - tất cả tạo thành hình ảnh đất nước đứng lên Nhớ khi giặc đến giặc lùng …………………………… Đất trời ta cả chiến khu một lòng. - Đặc biệt, Tố Hữu đã nhấn mạnh, khẳng định Việt Bắc là quê hương của Cách mạng, là căn cứ địa vững chắc, là đầu não của cuộc kháng chiến, nơi hội tụ bao tình cảm, suy nghĩ, niềm tin và hi vọng của mọi người Việt Nam yêu nước: +Trong những năm tháng đen tối trước Cách mạng, hình ảnh Việt Bắc hiện dần từ mờ xa (mưa nguồn suốt lũ, những mây cùng mù) đến xác định như một chiến khu kiên cường, nơi nuôi dưỡng bao sức mạnh đấu tranh, nơi khai sinh những địa danh sẽ mãi mãi đi vào lịch sử dân tộc (dẫn đoạn thơ từ câu Mình về,-còn nhờ núi non đến câu Tân Trào, Hồng Thái, mái đình, cây đa). + Trong những ngày kháng chiến gian lao, Việt Bắc là nơi có Cụ Hồ sáng soi, có Trung ương, Chính phủ luận bàn việc công. TÁC GIA TỐ HỮU I . VÀI NÉT VỀ TIỂU SỬ . Tố Hữu (1920 - 2002) tên thật là Nguyễn Kim Thành, quê Phù Lai, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên – Huế . Ông xuất thân trong một gia đình nhà nho nghèo ham thích văn chương . Chính truyền thống gia đình và cảnh sắc thơ mộng của xứ Huế cùng những nét văn hoá đâm đà bản sắc dân tộc góp phần quan trọng trong việc hình thành hồn thơ Tó Hữu . Tố Hữu sớm tham gia hoạt động cách mạng . Năm 1938 được kết nạp vào Đảng cộng sản Đông Dương . Mặc dù bị bắt, bị giam cầm trong nhà tù nhưng ý chí cách mạng vẫn không hề lay chuyển . Cách mạng tháng Tám 1945 nổ ra, Tố Hữu lãnh đạo cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Huế . Sau cách mạng tháng Tám, Tố Hữu ra Bắc và liên tục giữ những chức vụ quan trọng
- của bộ máy lãnh đạo của Đảng và Nhà nước . Năm 1996 được Đảng và Nhà nước tặng thưởng giải thường Hồ Chí Minh về văn học nghệ thuật (đợt 1) II . CON ĐƯỜNG THƠ TỐ HỮU . Tố Hữu là cây đại thụ của văn chương cách mạng, đặc biệt ở thể loại thơ trữ tình chính trị . Con đường thơ của ông luon song hành với các giai đoạn cách mạng, phản ánh những chặng đường cách mạng đồng thời thể hiện sự vận động của tư tưởng và nghệ thuật của nhà thơ . 1 . Chặng đường “Từ ấy” . Tập thơ “Từ ấy” (1937 - 1946) là niềm hân hoan của tâm hồn trẻ đang băn khoăn đi tìm lẽ yêu đời tìm thấy lí tưởng và ánh sáng cách mạng , tìm thấy lẽ sống . Tập thơ được chia làm ba phần : Máu lửa, Xiềng xích, Giải phóng . Trong đó Xiềng xích là phần thành công nhất, thể hiện sự trưởng thành của người thanh niên cộng sản và bước phát triển của hồn thơ Tố Hữu . Tập thơ thể hiện chất men say lí tưởng, chất lãng mạn trong trẻo, tâm hồn nhạy cảm, sôi nổi, trẻ trung của một cái tôi trữ tình mới . 2 . Chặng đường “Việt Bắc” . Tập thơ “Việt Bắc” (1947 - 1954) chủ yếu hướng vào thể hiện quần chúng cách mạng, được phát triển theo hướng khái quát – tổng hợp mang đậm tính sử thi . Tập thơ thể hiện ba điểm cần lưu ý : - Là bản anh hùng ca của cuộc kháng chiến, phản ánh những chặng đường gian lao anh dũng và thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp . - Thể hiện thành công hình ảnh và tâm tư của quần chúng nhân dân kháng chiến . - Kết tinh những tình cảm lớn của người Việt Nam kháng chiến mà bao trùm và thống nhất mọi tình cảm là lòng yêu nước nồng nàn . 3 . Chặng đường “Gió lộng” . Tập thơ “Gió lộng” (1955 - 1961) tiếp tục khuynh hướng khái quát và cảm hứng lịch sử cuối tập Việt Bắc, kết hợp với cái tôi trữ tình công dân, khai thác các chủ đề lớn : Chủ nghĩa xã hội, đấu tranh thóng nhất đất nước và tình cảm quốc tế vô sản .
- Các tác phẩm viết về an tình cách mạng, về miền Nam là thành công hơn cả . (Quê mẹ, Người con gái Việt Nam, Mẹ Tơm ...) Hạn chế : cái nhìn đơn giản một chiều, lí tưởng hoá đời sống . 4 . Chặng đường “Ra trân” và chặng đường “Máu và Hoa” . Tập thơ “Ra trận” (1962 – 1971) và tập thơ “Máu và Hoa” (1972 – 1977) là lời động viên, cổ vũ, ca ngợi cuộc chiến đấu, mang đậm phong cách chính luận, thời sự, chất sử thi, có lúc mang âm hưởng anh hùng ca . 5 . Chặng đường “Một tiếng đờn” và “Ta với ta” . Tập thơ “Một tiếng đờn” (1992) và tập thơ “Ta với ta” (1999) là những vần thơ chiêm nghiệm về lẽ sống, về cuộc đời bên cạnh khuynh hướng trữ tình chính trị, thể hiện sự kiên định vào lí tưởng cách mạng của nhà thơ . III . PHONG CÁCH NGHỆ THUẬT . Tố Hữu là nhà thơ của lí tưởng cộng sản . Thơ Tố Hữu tiêu biểu cho khuynh hướng thơ trữ tình chính trị . - Con đường thơ Tó Hữu bắt đầu với sự giác ngộ lí tưởng cách mạng, luôn gắn liền quá trình sáng tác với các giai đoạn của phong trào đấu tranh cách mạng . - Lí tưởng cộng sản luôn là ngọn nguồn của mọi cảm hứng sáng tạo nghệ thuật của Tố Hữu . - Coi việc làm thơ là một nhiệm vụ cách mạng, một hoạt động cách mạng nhằm tuyên truyền , giác ngộ, giáo dục, đấu tranh cho lí tưởng cách mạng . - Kết hợp hài hoà dòng thơ cách mạng đầu thế kỉ XX với truyền tống thẩm mĩ của văn học trung đại .. Các thể thơ bảy chữ, năm chữ, lục bát ... cách phối âm, hiệp vần mang nặng tính truyền thống hơn là sáng tạo, tìm tòi, đổi mới . VIỆT BẮC (Trích) Tố Hữu I . ĐẶT VẤN ĐỀ . Tháng 10 năm 1954, sau thắng lợi vẻ vang của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, trung ương Đảng và chính phủ rời Việt Bắc để trở về Hà Nội tiếp tục lãnh đạo phong trào cách mạng . Trước sự kiện đó Tố Hữu đã viết bài thơ Việt Bắc . Đây là bài thơ ân tình cách mạng, gọi lại những kỉ niệm thân thiết và vẻ đẹp của Việt Bắc từ ngày đầu gian khổ chắt chiu xây dựng căn cứ địa cách mạng cho đến khi kháng chiến thắng lợi . Bài thơ kết cấu theo lối hát giao duyên đối đáp nam nữ nhưng lại thể hiện những ân
- tình cách mạng , và vì thế bài thơ như một chất men say ngấm sâu vào lòng người , trở nên gần gũi , đằm thắm hơn với những cung bậc lan toả của nó . II . GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ . Mở đầu bài thơ là những lời phảng phất phong vị ca dao, tái hiện cảnh tiễn đưa đầy dùng dằng, quyến luyến . Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi nhìn sông nhớ nguồn . Con người đang đứng trước một cuộc biệt li nên câu thơ cũng nhuốm màu li biệt . Tác giả đặt đại từ “mình” và “ta” ở hai đầu câu thơ tạo cảm giác xa xôi, cách biệt, ở giữa là tâm trạng băn khoăn của người ở lại : không biết bạn có còn thuỷ chung trước bao đổi thay và cám dỗ của cuộc sống mới . Lòng ngập tràn nhớ thương, người ở lại không nén được lòng mình đã đưa ra những câu hỏi dồn dập : mình có nhớ ta, mình có nhớ không ? ...càng làm cho người ra đi thêm lưu luyến , cứ vang lên như một niềm khắc khoải khôn nguôi . Không chỉ đưa ra những câu hỏi, người Việt Bắc còn nhắc lại khoảng thời gian mười lăm năm gắn bó thiết tha . Mới đọc ta bắt gặp tứ thơ quen thuộc từ ca dao tình yêu nam nữ kiểu như : Mình về có nhớ ta chăng , Ta về ta nhớhàm răng mình cười ... trong đó người tình chỉ nhắc đến kỉ niệm mười lăm năm ấy . Nhưng đến cặp lục bát tiếp theo thì nó không còn là tình yêu nữa mà được thay thế bằng tình yêu thương gắn bó với với mảnh đất quê hương Vịêt Bắc . Nhớ núi, nhớ rừng thực chất là nhớ ngọn nguồn của cách mạng . Bốn câu thơ đầu tạo thành hai câu hỏi rất khéo mà mỗi câu hỏi về một khía cạnh khác nhau : thời gian và không gian gói gọn một thời cách mạng, một vùng cách mạng . Trước tâm trạng, nỗi niềm bộc bạch của kẻ ở, người đi im lặng lắng nghe : Tiếng ai tha thiết bên cồn Bâng khuâng trong dạ bồn chồn bước đi Người ra đi im lặng là để tri âm, để tiếng ai từ từ ngân vang lắng sâu vào hồn mình cho thật vẹn tròn, đầy đủ . Lặng im nhưng vẫn không kém phần mãnh liệt . Người ở lại nói thiết tha, người đi nghe thiết tha, sự hô ứng ngôn từ này tạo sự đồng vọng trong lòng người . Nhịp thơ lục bát đang đều đặn, nhịp nhàng đến đây như cũng vì chút bối rối ấy trong lòng người mà thay đổi : Áo chàm đưa buổi phân li Cầm tay nhau biết nói gì hôm nay . Trong thời khắc chia tay sau một khoảng thời gian dài gắn bó, có biết bao nhiêu kỉ niệm ngọt bùi, sâu nặng, có nhiều điều để nói nhưng khong thể nói đủ, nói trọn vẹn cùng nhau . Vì thế lòng người cũng bâng khuâng, bước chân cũng bồn chồn, và mặc dù
- người đi không trực tiếp trả lời câu hỏi của người ở lại nhưng hình ảnh áo chàm và hành động cầm tay nhau im lặng đó trả lời thay tất cả, nó chất chứa cả bề sâu cảm xúc của cả người đi và kẻ ở . Bao trùm lên tất cả trong tâm trạng của kẻ ở và người đi là nỗi nhớ da diết mêng mang với nhiều sắc thái khác nhau . Người ở lại băn khoăn tự hỏi về lòng thuỷ chung son sắt của người ra đi thì ngược lại người ra đi khẳng định nghĩa tình mãi không phai nhòa trong kí ức . Và cứ thế Việt Bắc hiện lên trong hoài niệm thật sinh động và cụ thể . Nhớ đến Việt Bắc là nhớ đến những tháng ngày gian khổ hi sinh : Mưa nguồn suối lũ những mây cùng mù, khó khăn nhiều, gian khổ cũng lắm nhưng cán bộ và đồng bào đồng cam cộng khổ, cùng có mối thù sâu nặng với quân xâm lược : Miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai . Đồng thời nhớ đến Việt Bắc cũng là nhớ đến những nghĩa tình đồng bào sâu nặng . Người về khiến núi rừng cũng trở nên trống vắng, ngẩn ngơ, các điệp từ mình về, mình điđược nhắc đi nhắc lại một cách tha thiết khiến cho không gian, thời gian Việt Bắc hiện ra từ trong khói sương của hoài niệm , của tâm trạng chất chứa nhớ nhung trở nên rõ nét và rõ tình hơn .Đại từ “ai” phiếm chỉ được sử dụng để như hỏi vào sự trống vắng nay mai của lòng mình . Với thủ pháp đối lập giữa một bên là lau xámvới lòng son, giữa hắt hiu và đậm đà , người ở nhấn mạnh sắc độ của nỗi nhớ . Người ở lại còn bày tở nõi lo âu, dự cảm : Mình về mình lại nhớ mình . Ba chữ mình được dùng liên tiếp trong một dòng thơ làm cho ý thơ trở nên đa nghĩa một cách thú vị . Mình ở đây là tôi, là chủ thể của nỗi nhớ, và mình cũng có thể là khách thể của nỗi nhớ . Và biết đâu đó đây lại là lới nhắc nhở người đi liệu rồi có còn nhớ chính bản thân mình . Cả người đi và kẻ ở đều được gói gọn trong một chữ mình tha thiết . Và nói gì đi nữa cả ta và mình đều là những người kháng chiến, đều là cách mạng nên khong tách rời nhau là lẽ dĩ nhiên, là điều dễ hiểu . Đáp lại những băn khoăn của người ở lại , người ra đi khẳng định một điều đinh ninh tình nghĩa của mình vẫn còn sâu nặng , dẫu có thế nào thì sự keo sơn, gắn bó bền chặt vẫn không phai nhạt theo thời gian : Ta với mình, mình với ta Lòng ta sau trước mặn mà đinh ninh . Và cụ thể hơn nữa, người ra đi khặng định : Mình đi mình lại nhớ mình và nghĩa tình mãi dạt dào không bao giờ khô cạn : Nguồn bao nhiêu nước nghĩa tình bấy nhiêu . Sự gắn bó sâu nặng với Việt Bắc đã làm cho cảnh Việt Bắc tái hiện trong nỗi nhớ của người về xuôi đã đẹp lại càng trở nên đẹp hơn, càng trở nên lung linh huyền ảo . Nỗi nhớ trong lòng người đi day dứt, thiết tha đến độ cồn cào, ám ảnh như nhớ người
- yêu . Lấy nỗi nhớ trong tình yêu lứa đôi để đo nỗi nhớ về ngọn nguồn kháng chiến, về nghĩa tình cách mạng, đó là một sáng tạo của hồn thơ Tố Hữu . Và cũng chính từ sự gắn bó và nỗi nhớ thương da diết đó, thiên nhiên Việt Bắc mới hiện lên đẹp lộng lẫy như một bức tranh tứ bình về bốn mùa với những nét đặc trưng của Việt Bắc : Ta về mình có nhớ ta Ta về ta nhớ những hoa cùng người Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình Rừng thu trăng rọi hoà bình Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung . Trong bề bộn của kí ức và hoài niệm , bức tranh sáng đẹp về Việt Bắc hiện lên trong nỗi nhớ của người về xuôi như một dấu son tươi nguyên những kỉ niệm . Và trong bức tranh thiên nhiên sống động, bừng sáng đó có sự xuất hiện của con người đang cần mẫn lao động: chuốt từng sợ giang, hái măng một mình giữa rừng vàng . Nhưng có lẽ để lại ấn tượng nhất là tiếng hát ân tình thuỷ chung của con người Việt Bắc . Nó vượt qua trập trùng núi rừng, băng qua mênh mông biển cả của thời gian mà vướng vít bước chân người ra đi . Điệp từ nhớ được lặp lại nhiều lần như khiến cả đoạn thơ bao trùm một tình cảm nhớ thương tha thiết . Nhớ về Việt Bắc là nhớ cảnh nhớ người, nhưng quan trọng hơn là nhớ về cuộc kháng chiến, một Việt Bắc trong kháng chiến thật hào hùng . Nhớ khi giặc đến giặc lùng Rừng cây núi đá ta cùng đánh tây Núi giăng thành luỹ sắt dày Rừng che bộ đội rừng vây quân thù Mênh mông bốn mặt sương mù Đất trời ta cả chiến khu một lòng . Quân đi điệp điệp trùng trùng ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan Dân quân đỏ đước từng đoàn Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay Nghìn đêm thăm thẳm sương dày Đèn pha bật sáng như ngày mai lên Tiết tấu ngân nga, dìu dặt như lời ru đến đây được tác giả phá vỡ để tạo ra một kết cấu khác phi đối xứng làm giọng thơ trở nên gắt, mạnh, dồn dập như âm hưởng bước
- hành quân vũ bão . Hệ thống từ vựng mở căng cường độ diễn tả , hình ảnh kì vĩ , ý thơ phóng xa vào viễn cảnh ... tất cả tạo nên một bức tranh sử thi hoành tráng để ca ngợi sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước, của nhân dân anh hùng . Miêu tả cảnh hành quân, nhà thơ sử dụng cụm từ “điệp điệp, trùng trùng” thật chính xác . Còn từ ngữ nào để diễn đạt sức mạnh của đoàn binh tràn đầy nhiệt huyết hơn những từ ấy ? Nó vừa diễn tả vẻ đẹp hùng dũng bên ngoài lại vừa miêu tả sức mạnh quật cường bên trong . Trong những con người hiên ngang ấy, họ không chỉ biết làm bạn với khói lửa đạn bom mà họ còn đôi lúc thả hồn theo trăng sao . Sự hài hoà giữa sự dữ dội và vẻ đẹp lãng mạn đã làm nên sự chói sáng trong tâm hồn người lính . Hình ảnh ánh sao đầu núi mặc dù không mới (Đầu súng trăng treo - Đồng chí – Chính Hữu) nhưng vẫn có sức lay động kì lạ cái phần hồn dân tộc trong mỗi con người Việt Nam . Và bài thơ khép lại bằng lời khẳng định Việt Bắc mãi là cái nôi, là quê hương của phong trào cách mạng, nơi đặt niềm tin tưởng và hi vọng của người Việt Nam trên khắp mọi miền của Tổ quốc, đặc biệt là những nơi còn u ám quân thù . III . KẾT THÚC VẤN ĐỀ . Việt Bắc là bài thơ tiêu biểu nhất của hồn thơ Tố Hữu viết về nghĩa tình cách mạng . Bài thơ không chỉ là lời chia tay dạt dào xúc cảm mà còn là lời khẳng định đinh ninh sự thuỷ chung son sắt của những người cách mạng , là khúc ca bất tận của tình nghĩa được viết với giọng điệu vừa trữ tình ngọt ngào , vừa sôi nổi thiết tha, trong sáng Phân tích đoạn thơ : Những đường Việt Bắc của ta ………………………… Vui lên Việt Bắc , đèo De , núi Hồng I.MB Tố Hữu ( 1920-2002) được đánh giá là lá cờ đầu của nền văn nghệ cách mạng Việt Nam .Ông để lại một sự nghiệp văn chương phong phú , giàu giá trị và một phong cách nghệ thuật độc đáo mang tính trữ tình-chính trị sâu sắc , đậm đà tính dân tộc . Rất tiêu biểu cho những tìm tòi sáng tạo không ngừng của nhà thơ là bài thơ Việt Bắc .Có thể nói , tinh hoa của tác phẩm lắng đọng trong mười hai câu thơ diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh Việt Bắc hùng tráng trong kháng chiến :
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Phân tích đầy đủ bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
13 p | 6274 | 804
-
Phân tích tính dân tộc trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
8 p | 6661 | 578
-
Tổng hợp những bài văn hay phân tích tác phẩm Việt Bắc của Tố Hữu
12 p | 894 | 205
-
Bình giảng đoạn thơ sau trong bài Việt Bắc của Tố Hữu
14 p | 550 | 88
-
Tổng hợp 5 bài phân tích 8 câu đầu bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
17 p | 716 | 66
-
Tổng hợp 4 bài phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
15 p | 454 | 55
-
Tổng hợp 5 bài phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
28 p | 420 | 55
-
Tổng hợp 3 bài phân tích đoạn thơ "Những đường Việt Bắc của ta...đèo De, núi Hồng" trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
10 p | 460 | 48
-
ĐỀ: Phân tích đoạn thơ sau đây trong bài Việt Bắc của Tố Hữu
3 p | 443 | 48
-
3 Bài văn mẫu cảm nhận về nỗi nhớ qua hai đoạn thơ Việt Bắc của Tố Hữu và Sóng của Xuân Quỳnh
9 p | 912 | 38
-
Phân tích bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
7 p | 379 | 34
-
Tổng hợp 4 bài phân tích khổ 3 bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
15 p | 422 | 31
-
Bình giảng bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
26 p | 257 | 10
-
Tính dân tộc qua bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
7 p | 153 | 10
-
Tổng hợp 3 bài phân tích bức tranh tứ bình trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu
11 p | 198 | 8
-
Tổng hợp 3 bài phân tích đoạn thơ Những đường Việt Bắc của ta....Đèo de, núi hồng trong bài thơ Việt Bắc của tác giả Tố Hữu
10 p | 220 | 7
-
Bình giảng đoạn thơ sau trong bàỉ “Việt Bắc" của Tố Hữu: "Mình đi, có nhớ những ngày (...) Hắt hiu lau xám, đậm đà lòng son"
3 p | 58 | 7
-
Cảm nhận về nỗi nhớ qua 2 đoạn thơ Việt Bắc của Tố Hữu và Sóng của Xuân Quỳnh
8 p | 313 | 4
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn