intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Bệnh Kawasak

Chia sẻ: Nguyen Phong | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:21

48
lượt xem
4
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Bệnh Kawasaki là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tim mắc phải ở trẻ em tại Hoa Kỳ và các quốc gia phát triển khác. Tuổi mắc bệnh của trẻ thường dưới 2 tuổi. Và 80% trẻ mắc bệnh là dưới 5 tuổi. Bệnh gây ra viêm mạch máu toàn thân mà không rõ nguyên nhân. Bệnh Kawasaki có thể là nguyên nhân gây ra những bất thường về bệnh mạch vành, kể cả phình động mạch vành. Có từ 20 đến 25 %trẻ em không được điều trị phát triển thành những bất thường của động mạch vành, những...

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Bệnh Kawasak

  1. Bệnh Kawasaki Bệnh Kawasaki là nguyên nhân hàng đầu gây bệnh tim mắc phải ở trẻ em tại Hoa Kỳ và các quốc gia phát triển khác. Tuổi mắc bệnh của trẻ th ường dưới 2 tuổi. Và 80% trẻ mắc bệnh là dưới 5 tuổi. Bệnh gây ra viêm mạch máu toàn thân mà không rõ nguyên nhân. Bệnh Kawasaki có thể là nguyên nhân gây ra những bất thường về bệnh mạch vành, kể cả phình động mạch vành. Có từ 20 đến 25 %trẻ em không được điều trị phát triển thành những bất thường của động mạch vành, những bất thường này có thể hồi phục hoặc tồn tại dai dẳng. Những bất bất thường này đặc biệt có liên quan đến và có thể gây ra huyết khối, hẹp hoặc hiếm hơn là vỡ động mạch vành. Nguyên nhân chính gây tử vong của bệnh Kawasaki là nhồi máu cơ tim. Nguyên nhân gây bệnh vẫn chưa rõ, theo yếu tố dịch tể, và biểu hiện lâm sàng, người ta nghĩ là do tác nhân vi sinh vật gây ra. Tiêu chuẩn chẩn đoán bao gồm sốt và những triệu chứng khác. Trong giai đoạn cấp của bệnh, việc điều trị bao gồm thuốc acetylsalicylic acid và truyền tĩnh mạch immunoglobulin nhằ m giảm viêm động mạch vành và cơ tim . Ðiều trị sớm bệnh Kawasaki có thể làm giảm được khả năng bị tổn thương động mạch vành.
  2. Bệnh Kawasaki hay hội chứng Kawasaki là một bệnh gây viêm mạch máu toàn thân, mà nguyên nhân vẫn chưa rõ, là nguyên nhân gây bệnh tim mắc phải tại các nước đã phát triển. Bệnh này đầu tiên được tác giả Kawasaki mô tả vào năm 1967, bệnh này còn được gọi là " hội chứng hạch to ở da niêm" , ông mô tả có 50 trẻ em Nhật mắc cùng chứng bệnh này, có cùng những trịêu chứng như sốt, nổi mẫn đỏ da, sung huyết kết mạc, hạch cổ to, viêm vùng sinh dục hay khoang miệng, đỏ da cánh tay và cẳng chân. Lúc đầu, người ta cho là bệnh lành tính ở trẻ, nhưng lại là nguyên nhân gây tử vong nhiều trẻ em Nhật tuổi dưới 2 . Mổ tử thi cho thấy có nhiều cục máu đông làm tắc nghẽn động mạch vành bị phình, và gây nhồi máu cơ tim. Người ta nhận thấy rằng những bất th ường động mạch vành chiếm 20-25 % trẻ bị bệnh Kawasaki nếu không được điều trị. DỊCH TỂ HỌC Bệnh Kawasaki đã được báo cáo trên khắp thế giới. Tại Mỹ, bệnh này gia tăng một cách đáng kể vào những năm 1970 và một số vùng lân cận vào năm 1976. Bệnh Kawasaki thường xảy ra ở bé trai nhiều hơn bé gái với tỉ lệ 1,5:1. Gần 80% số trẻ bị bệnh này dưới 5 tuổi . Tỉ lệ tái phát là trên 2%. Tỉ lệ số ca bệnh mới mắc tại Mỹ là 12-14/100.000 mỗi năm, còn ở Canada là khoảng 6-11 ca/100.000 dân mỗi năm, chủ yếu là trẻ em dưới 5 tuổi. Bệnh xảy ra quanh năm, nhưng số ca bệnh được báo cáo thường cho thấy bệnh xảy ra vào mùa xuân và mùa đông. Mỗi năm có khoảng 3.500 trẻ em nhập viện vì bệnh này tại
  3. những quốc gia trên. Bệnh thường gặp ở trẻ em da trắng, cao nhất là những trẻ vùng Bắc Mỹ, nguồn gốc châu Á ( đặc biệt là Gốc Nhật Bản và Hàn Quốcê( Tại Nhật, bệnh xảy ra khắp nước, khoảng 2 năm một lần, kể từ năm 1970. Cuối tháng 12 năm 1992 có 116.848 trẻ em bị bệnh Kawasaki. Tị lệ mắc bệnh năm 19911992 là 90 ca/ 100.000 trẻ em dưới 5 tuổi. Khoảng 1% trẻ em bị bệnh này có yếu tố gia đình rõ ràng. Hơn 50% trường hợp phát bệnh trong vòng 10 ngày sau ca nhiễm bệnh đều tiên. BẢNG 1 Tiêu chuẩn chẩn đoán bệnh Kawasaki: những dấu hiệu lâm s àng chính -------------------------------------------------------------------------------- Sốt kéo dài tối thiểu 5 ngày: thường sốt rất cao ( 400 C hoặc hơn) kéo dài 1-2 tuần nếu không được điều trị. Có ít nhất 4 trong 5 triệu chứng chính sau : 1- Có sự thay đổi ở các đầu ngón: sưng, đỏ, cứng ở các đầu ngón tay, ngón chân. Khoảng 1-2 tuần sau khi sốt, da ngón tay, ngón chân bong vẩy. Sau khi sốt 1 -2 tháng, xuất hiện những lằn màu trắng vắt ngang móng tay chân.
  4. 2- Hồng ban đa dạng: nổi hồng ban ở da thân mình và đầu ngón tay-chân, đó là dạng nặng của bệnh, kể cả nổi hồng ban dạng mề đay, hồng ban lan toả như trong sốt tinh hồng nhiệt. Hồng ban thường xuất hiện sau khi sốt 5 ngày. 3- Viêm kết mạc hai bên: thường ở kết mạc nhãn cầu, bờ rõ. Viêm kết mạc không kèm xuất tiết, và hơi đau .
  5. 4- Có sự thay đổi ở môi và miệng: lưỡi mọng màu vàng rơm, môi đỏ, hồng ban vùng niêm mạc hầu họng. Khó thấy được những tổn thương loét.
  6. The 'strawberry' appearance of the tongue at presentation biểu hiện lưỡi dâu trong bệnh Kawasaki 5- Hạch cổ to, đau ( kích thước lớn hơn 1,5 cm), hạch thường to một bên chắc, đau nhẹ. Loại trừ bệnh khác có những dấu hiệu tương tự. -------------------------------------------------------------------------------- - Một số chuyên gia cho rằng khi có những dấu hiệu lâm s àng chính, một số người có kinh nghiệm có thể chẩn đoán bệnh Kawasaki trước ngày thứ 5 của sốt.
  7. - Bốn trong năm triệu chứng chính đầu tiên hiện diện trong khoảng 90% tr ường hợp bị bệnh Kawasaki. Hạch cổ to gặp trong 50-75% trường hợp. Nguyên nhân Những yếu tố dịch tể học và lâm sàng chính gợi ý nguyên nhân nhiễm trùng của bệnh Kawasaki . Tuy nhiên, cho đến ngày nay, nguyên nhân gây bệnh Kawasaki vẫn chưa rõ. Có nhiều tác nhân gây nhiễm trùng đã được đề cập đến như : rickettsiae, virus (Epstein-Barr virus và retroviruses), Streptococcus viridans, staphylococci, Propionibacterium species và parvovirus. Xét nghi ệm cận lâm sàng chuẩn thường không đủ để chẩn đoán bệnh . Chẩn đoán phân biệt của bệnh Kawasaki gồm: bệnh sởi, sốt tinh hồng nhiệt, sốc nhiễm độc, và hội chứng Stevens-Johnson syndrome. Một nghiên cứu đã nêu ra yếu tố siêu kháng nguyên (ví dụ, độc tố của một số vi khuẩn như tụ cầu ) và đưa ra nhiều loại độc tố của hội chứng sốc, cùng với độc tố của Staphylococcus aureus có thể gây ra bệnh Kawasaki. Tuy nhiên, cho đến ngày nay, chỉ điểm cho nghiên cứu về bệnh này vẫn chưa có nền tảng vững chắc. Người ta không rõ tại sao có sự đáp ứng miễn dịch trong suốt giai đoạn cấp tính của bệnh Kawasaki . Người ta thấy có sự điều hoà bất thường của hệ miễn dịch. Có sự bài tiết các cytokine từ các tế bào đích nội mô mạch máu. Khi đó, kháng thể
  8. được sản xuất ra để chống lại kháng nguyên này, có thể chống lại chính các tế bào nội mô mạch máu, kết quả làm hoạt động dòng thác đáp ứng miễn dịch làm tổn thương mạch máu. CHẨN ÐOÁN BẢNG 2 Chẩn đoán phân biệt của bệnh Kawasaki Sởi Sốt tinh hồng nhịêt Dị ứng thuốc Hội chứng Stevens-Johnson Sốt có nổi hồng ban do các loại virus khác Hội chứng sốc nhiễm độc Sốt phát ban vùng núi Sốt phát ban do Staphylococ Viêm khớp dạng thấp ở người trẻ.
  9. Leptospirose Ngộ độc thuỷ ngân ----------------------------------------------------------- --------------------- Trong trường hợp không có xét nghiệm chẩn đoán đặc hiệu. Bệnh Kawasaki có thể được chẩn đoán bằng cách dựa vào trịêu chứng lâm sàng, yếu tố bệnh sử. Các tiêu chuẩn lâm sàng được Uỷ ban nghiên cứu bệnh Kawasaki của Nhật và Hội Tim Mạch Hoa Kỳ đưa ra. Những tiêu chuẩn này được sắp xếp dựa vào những triệu chứng chỉ điểm chính về lâm sàng cũng như cận lâm sàng. Triệu chứng chính của bệnh Kawasaki được liệt kê trong bảng 1. Sốt và có tối thiểu 4 trong 5 triệu chứng lâm s àng chỉ điểm chính là đủ chẩn đoán. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp bệnh Kawasaki " không điển hình" hay "không đầy đủ, bệnh nhân có ít hơn 4 triệu chứng chính, cũng ngày càng thường gặp. Tiêu chuẩn chẩn đoán kinh điển thường rõ ở những trẻ em dưới 6 tháng tuổi. Bệnh nhân sốt cộng thêm 3 triệu chứng lâm sàng chính có thể chẩn đoán bệnh Kawasaki, khi có kèm thêm bệnh động mạch vành được phát hiện trên siêu âm tim 2 chiều hay chụp động mạch vành . Rất có nhiều khả năng mắc bệnh Kawasaki khi có những dấu hiệu chỉ điểm chính kinh điển, nhưng nó không đủ tiêu chẩn để chẩn đoán bệnh. Nhiều bệnh nhân trong số đó bị sốt kéo dài không giải thích được, hay có hạch cổ to mà không đáp
  10. ứng vơi điều trị bằng kháng sinh, hoặc bệnh nhân có thể sốt kèm theo 2-3 tiêu chuẩn kinh điển của bệnh Kawasaki . Rõ ràng là bệnh nhân bị bệnh Kawasaki không điển hình hay không đủ tiêu chuẩn vẫn có nhiều nguy cơ bị các bất thường ở động mạch vành, và họ có nhiều thuận lợi hơn khi điều trị, nếu bệnh được xác định. Vì các dấu hiệu chỉ điểm chính để chẩn đoán bệnh Kawasaki cũng không đặc hiệu, một số bệnh hay những rối loạn khác cũng giống với bệnh Kawasaki cũng có thể được loại trừ (Bảng 2). Ðặc biệt cần phải cân nhắc kỹ đối với bệnh sởi vì các biện pháp kiểm soát thích hợp khó có thể chẩn đoán phân biệt với bệnh Kawasaki . Những yếu tố nguy cơ bị phình động mạch vành là : bé trai, dưới 1tuổi, sốt tái phát sau một thời gian không sốt 24 giờ, và các dấu hiệu khác ở tim như loạn nhịp tim. Diễn biến của bệnh Kawasaki có thể được chia ra thành 3 giai đoạn lâm sàng chính: cấp tính, bán cấp và thời kỳ bình phục. Trong giai đoạn cấp, sốt thường kéo dài ít nhất là 14 ngày. Cuối giai đoạn này, người bệnh hết sốt, thay vào đó là viêm kết mạc, miệng, môi, sưng đỏ tay, chân , hạch cổ to (hình 1,2 và 3). Giai đoạn bán cấp được tính từ khi hết sốt, khoảng 25 ngày. Trong suốt giai đoạn này, có bong vảy ở ngón tay và ngón chân (Hình 4), viêm khớp, đau khớp và xuất huyết giảm tiểu cầu.
  11. Giai đoạn hồi phục khi các triệu chứng lâm sàng biến mất và tốc độ lắng máu trở về bình thường sau 6-8 tuần kể từ khi khởi phát bệnh. CÁC DẤU CHỈ ÐIỂM VỀ LÂM SÀNG VÀ XÉT NGHIỆM Những dấu chỉ điểm này không phải là tiêu chuẩn chính để chẩn đoán, thường hiện diện ở bệnh nhân bị bệnh Kawasaki. Những triệu chứng chỉ điểm n ày được chia ra thành triệu chứng ở tim, không thuộc tim và những chỉ điểm trên xét nghiêm. Yếu tố nguy cơ bị phìng động mạch vành ở bệnh nhân bị bệnh Kawasaki. -------------------------------------------------------------------------------- Con trai Dưới 1 tuổi Các triệu chứng khác của viêm màng ngòai tim, viêm cơ tim và viêm nội tâm mạc, kể cả rối lọan nhịp tim. Viêm kéo dài với sốt trên 10 ngày. Sốt tái phát sau giai đọan không sốt ít nhất 24 giờ. Các dấu hiệu của tim
  12. Các biểu hiện ở tim có thể nổi bật trong giai đọan cấp của bệnh và có thể nguyên nhân gây tử vong. Có thể bị viêm tim và viêm động mạch vành. Tràn dịch màng ngòai tim thường tự khỏi mà không cần điều trị đặc hiệu. Tràn dịch màng ngòai tim thường được phát hiện bằng siêu âm tim, chiếm 30% bệnh nhân. Suy tim sung huyết trên lâm sàng thường biểu hiện những triệu chứng nh ư nhịp tim nhanh, không tương ứng với sốt, tiếng ngựa phi hoặc lọan nhịp. Có sự biến đổi không đặc hiệu trên điện tâm đồ gặp trong 30% bệnh nhân. Những biến đổi trên điện tâm đồ bao gồm sóng R có điện thế thấp, đọan ST chênh xuống, sóng T dẹt hay đảo ngược, đọan PR hoặc QT kéo dài (hoặc cả hai). Các dấu hiệu chỉ điểm về xét nghiệm trong bệnh Kawasaki gồm, tăng bạch cầu, tăng tốc độ lắng, tiểu mủ vô khuẩn. Bất thường ở động mạch vành gặp trong 20-25 % trẻ bị bệnh Kawasaki không được điều trị, dãn động mạch vành nhiều chỗ hay gây phình động mạch vành. Những bệnh nhân bị phình lớn động mạch vành( đường kính trong động mạch vành tối đa đến 8 mm) có tiên lượng xấu nhất và có nguy cơ rất cao bị huyết khối động mạch vành, hẹp động mạch vành và bị nhồi máu cơ tim. Khác với phình nhỏ, phình lớn động mạch vành thường khó có thể điều trị khỏi.. Trẻ bị bất thường động mạch vành, đặc biệt là phình lớn động mạch vành, thường có kèm theo những phình động mạch ở nơi khác như động mạch thận, động mạch cánh tay, động mạch đùi. Phình động mạch thường xuất hiện sau khi khởi phát sốt
  13. từ 1-3 tuần. Yếu tố nguy cơ bị phình động mạch vành ở bệnh nhân bị bệnh Kawasaki được liệt kê trong bảng sau đây. Siêu âm tim và chụp mạch máu về lâu dài giúp đánh giá tình trạng dòng máu trong mạch vành bị phình. Kết quả đánh giá này cho thấy 50% bệnh nhân bị có bất thường động mạch vành có giảm kích thước chổ phình, 1/3 phình phục hồi nhưng tiến triển đến hẹp hoặc tắc động mạch vành. Thiếu máu cơ tim có thể xảy ra khi có hẹp hoặc tắc nghẽn động mạch vành. Nếu bệnh không được điều trị trong vòng 10 ngày đầu, trẻ em nhất là những trẻ dưới 1 tuổi rất dễ có nguy cơ bị phình động mạch vành. So với những trẻ nhỏ, biểu hiện bệnh Kawasaki ở trẻ lớn có vẻ kín đáo h ơn. Kết quả là, việc chẩn đoán bệnh này thường gặp khó khăn hơn. BẢNG 5 Những chỉ điểm lâm sàng không phải tại tim của bệnh Kawasaki giai đoạn cấp. ---------------------------------------- ---------------------------------------- Bệnh nhân Kawasaki có một số triệu chứng lâm sàng không biểu hiện tại tim (bảng 5). Chẳng hạn, trẻ sơ sinh và trẻ nhỏ mắc bệnh này thường bức rức khó chịu hơn những trẻ mắc các chứng bệnh có sốt. Viêm khớp và đau khớp (thường gặp hơn ở bé gái lớn) xuất hiện trong hai đến ba tuần đầu khởi bệnh, vị trí điển h ình ở
  14. gối, cổ chân và hông. Chọc dò tủy sống trong đoạn cấp ghi nhận một phần tư bệnh nhân Kawasaki có tình trạng viêm màng não vô trùng kéo dài. Các triệu chứng thường gặp khác gồm tiêu chảy, nôn ói, đau bụng và viêm phổi. Bàng quang căng cấp tính, mất khả năng tống nước tiểu (ứ nước) xuất hiện trong hai tuần lễ đầu. Gần đây có báo cáo về tình trạng tăng nồng độ acid mật trong huyết tương ở bệnh nhân bị bệnh Kawasa ki cấp. Các triệu chứng khác ít gặp hơn như hồng ban và nốt chai tại vị trí mới được tiêm ngừa vắc xin Calmette-Guerin. Các bất thường về thính lực, sưng tinh hoàn, và hoại thư ngoại biên cũng gặp ở bệnh nhân mắc bệnh này. Cận lâm sàng Bảng 8 liệt kê các xét nghiệm cận lâm sàng cùng với giá trị thường gặp trong bệnh Kawasaki. Dầu rằng các xét nghiệm này không đặc hiệu để chẩn đoán bệnh nh ưng chúng giúp hướng đến chẩn đoán. Trong vòng 7 đến 14 ngày đầu khởi bệnh, ở bệnh nhân có tình trạng gia tăng các phản ứng của giai đoạn cấp và các giá trị này sẽ về bình thường trong vòng sáu đến tám tuần. Các phản ứng này gồm tăng bạch cầu đa nhân trung tính, thiếu máu nhẹ, giảm albumine máu và tăng nồng độ Ig E huyết tương. Trong tuần lễ đầu thường có hiện tượng tăng tiểu cầu và được coi như là dấu hiệu của bệnh. Tiểu đạm và tiểu mủ vô trùng nguồn gốc niệu đạo thường gặp từ tuần lễ thứ hai trở đi. Điều trị
  15. Do không rõ tác nhân gây bệnh nên điều trị khởi đầu bệnh Kawasaki hướng đến việc hạ sốt, kháng viêm nhằm tránh làm nặng thêm các rối loạn mạch vành và tổn thương dưới cơ tim do thiếu máu cục bộ. Điều trị dài hạn nhắm đến chống ngưng tập tiểu để tránh huyết khối mạch vành. Trẻ sốt liên tục 24-48 giờ sau nhập viện do truyền immunoglubolin tĩnh mạch hoặc giảm sốt trong vòng 24 giờ sau đó sốt lại cần lập lại liều immunoglobulin. Các khuyến cáo điều trị ban đầu hiện tại (trong 10 ngày đầu khởi bệnh) gồm truyền tĩnh mạch immunoglobulin để ngừa các rối loạn mạch vành và acetylsalicylic acid (aspirin) liều cao đường uống để đẩy nhanh sự thoái lui của các biểu hiện bệnh, đặc biệt là sốt. (Bảng 7.25) Hội Tim Mạch Hoa Kỳ (AHA) khuyến cáo rằng trong giai đoạn cấp dùng aspirin liều 80-100 mg mỗi kg cân nặng một ngày. Duy trì liều này ít nhất vài ngày sau khi bệnh nhân hết sốt. Sau đó giảm liều còn aspirin 3-5 mg mỗi kg cân nặng một ngày và duy trì liều đó để đạt hiểu quả chống ngưng tập tiểu cầu. Ngưng điều trị aspirin sau sáu đến tám tuần nếu không có biểu hiện bất thường của mạch vành trên điện tâm đồ. Khi trên điện tâm đồ có bất thường về mạch vành, cần duy trì aspirin liều thấp không thời hạn. Tuy nguy cơ bị hội chứng Reye rất thấp nhưng để hạn chế nguy cơ này cần ngưng điều trị aspirin một tuần hoặc hơn khi bệnh nhân mắc thủy đậu hoặc cúm.
  16. Người ta không biết đích xác cơ chế tác động của truyền immunoglolulin tĩnh mạch nhưng hiệu quả có lợi trong phòng ngừa các bệnh mạch vành đã được báo cáo năm 1984. Kết hợp immunoglobulin truyền tĩnh mạch và aspirin đường uống được chứng minh ưu thế hơn là dùng aspirin đơn độc trong hạ sốt, kháng viêm và ngừa phình mạch vành, đặc biệt là phình động mạch khổng lồ. AHA khuyến cáo liều dùng immunoglobulin đơn độclà 2g mỗi kg cân nặng hoặc truyền 400mg mỗi ngày trong 4 ngày. Một thử nghiệm tại Hoa Kỳ cho thấy so với bệnh nhân được nhận liệu trình điều trị bốn ngày, bệnh nhân được điều trị immunoglobulin liều duy nhất giúp giảm triệu chứng nhanh hơn và hạ thấp các rối loạn mạch vành hơn trong vòng hai tuần sau khởi điều trị, khác biệt có ý nghĩa thống kê. BẢNG 7 Khuyến cáo điều trị bệnh Kawasaki Giai đoạn cấp Immuglobulin truyền tĩnh mạch 2g mỗi kg cân nặng liều duy nhất trên 10-12 giờ Kết hợp với Acetylsalicylic acid (aspirin) đường uống liều 80-100 mg mỗi kg cân nặng chia làm 4 lần cho đến khi hết sốt vài ngày*
  17. Giai đoạn bán cấp và hồi phục Aspirin uống mỗi ngày một lần liều 3-5 mg mỗi kg cân nặng trong 6-8 tuần + *-- Một số nhà lâm sàng khuyên rằng nên sử dụng liệu pháp aspirin liều cao trong suốt 14 ngày đầu của bệnh +-- Có thể ngưng Asprrin sau 6-8 tuần nều không có bằng chứng tổn thương mạch vành trên điện tâm đồ. Nếu điện tâm đồ cho thấy có bất thường về động mạch vành thì tiếp tục liệu pháp aspirin liều thấp vô thời hạn. Trích từ Dajani AS, Taubert KA, Gerber MA, Shulman ST, Ferrieri P, Freed M, v à cộng sự. Chẩn đoán và điều trị bệnh Kawasaki ở trẻ em. Tạp chí Circulation 1993;87:1776-80. Một số bệnh nhân được chẩn đoán bệnh kawasaki sau 10 ngày khởi bệnh và đã có dãn hoặc phình động mạch vành. Hiện tại thiếu các dữ kiện chứng minh lợi ích lâu dài của điều trị aspirin và immunoglobulin sau 10 ngày khởi bệnh. Một số bệnh nhân còn sốt 24-48 giờ sau khi truyền immunoglobulin. Một số khác ban đầu hạ sốt trong ít nhất là 24 giờ nhưng sau đó tái sốt. Cả hai trường hợp trên thường cần được lập lại liều immunoglobulin (2g mỗi kg cân nặng) và nên chuyển bệnh nhân đến trung tâm có kinh nghiệm trong chẩn đoán và điều trị bệnh Kawasaki.
  18. Chống chỉ định sử dụng corticosteroids trong điểu trị bệnh kawasaki trừ một số trường hợp bất thường. Các bất thường động mạch vành thường xảy ra trong giai đoạn cấp ở bệnh nhân được điều trị bằng steroid đơn độc hơn là ở bệnh nhân được điều trị đơn độc bằng aspirin 30 mg mỗi kg cân nặng một ngày (khác biệt có ý nghĩa thống kê). Điều trị biến chứng Kinh nghiệm tạo hình xuyên mạch vành qua da rất hạn chế trên bệnh nhân Kawasaki. Liệu pháp chống huyết khối trong lòng mạch vành hoặc truyền tĩnh mạch có hiệu quả khác nhau trên các nhóm bệnh nhân được chọn lựa. Một số bệnh nhân bị chít hẹp động mạch vành nặng cần phải phẫu thuật để tái lập tuần hoàn. Trên toàn thế giới có ít nhất 13 bệnh nhân mắc bệnh Kawasaki được ghép tim vì bệnh lý thiếu máu cục bộ nghiêm trọng. Nhồi máu cơ tim là nguyên nhân tử vong hàng đầu ở bệnh nhân Kawasaki. Nhồi máu có thể xảy ra cả trong giai đoạn cấp của bệnh nhưng thường gặp hơn trong vòng một năm hoặc những năm sau đó, đặc biệt ở những bệnh nhân bị phình mạch khổng lồ. Các triệu chứng nhồi máu cơ tim là không thể nói thành lời, nôn ói, khó thở, suy tuần hoàn và choáng. Hầu hết các trường hợp nhồi máu được ghi lại xuất hiện trong khi ngủ hoặc nghỉ ngơi. Theo báo cáo, tỉ lệ tử vong vì nhồi máu cơ tim lần đầu dao động từ 14-22 phần trăm. Tỉ lệ tử vong trong lần nhồi máu sau là 16 phần trăm.
  19. Bài viết này nằm trong loạt bài hợp tác với Hội Tim Mạch Hoa Kỳ. Th.S Rodman D. Starke, Phó tổng thư ký ban Khoa học và Y học, Hội Tim Mạch Hoa Kỳ, Dallas hiệu đính. Tiến sĩ KATHRYN A. TAUBERT, Ðại học Y khoa - Hoa Kỳ. BS. STANFORD T. SHULMAN Ðại học Y khoa, Illinos, Chicago, Hoa Kỳ. Theo BSGĐ
  20. a | The Kawasaki disease (KD) agent is inhaled, and infects medium-sized ciliated bronchial epithelial cells. Tissue macrophages engulf the agent and initiate innate immune responses. Antigens are then carried to local lymph nodes, where they initiate adaptive immune responses.
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2