intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Chiếc máy thu thanh làm thay đổi thế giới

Chia sẻ: Duy Tuyển | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:4

98
lượt xem
5
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Hành động cứng rắn của “Con quỉ Sahashi” và các đồng nghiệp nặng tư tưởng dân tộc chủ nghĩa của ông này là căn nguyên nảy sinh khái niệm “Tập đoàn Nhật Bản”. Trong khi nền kinh tế Nhật đi lên dưới “sự hướng dẫn” của MITI, khắp nơi trên thế giới đều nhận xét Nhật Bản là một chỉnh thể vững chắc như bàn thạch mà trong đó chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng phối hợp với nhau giống như những bộ phận nhịp nhàng, ăn ý của một tập đoàn....

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Chiếc máy thu thanh làm thay đổi thế giới

  1. Chiếc máy thu thanh làm thay đổi thế giới - kỳ 4 TTO - Hành động cứng rắn của “Con quỉ Sahashi” và các đồng nghi ệp n ặng t ư t ưởng dân tộc chủ nghĩa của ông này là căn nguyên nảy sinh khái ni ệm “T ập đoàn Nh ật Bản”. Trong khi nền kinh tế Nhật đi lên dưới “sự hướng dẫn” của MITI, kh ắp n ơi trên thế giới đều nhận xét Nhật Bản là một chỉnh thể vững chắc như bàn thạch mà trong đó chính phủ, doanh nghiệp, ngân hàng phối hợp với nhau gi ống nh ư nh ững b ộ ph ận nh ịp nhàng, ăn ý của một tập đoàn. Giống như bất kỳ một doanh nghiệp nào, chỉnh thể “T ập đoàn Nh ật Bản” v ươn ra đ ể đưa các lợi ích của riêng mình tiến xa trên trương trường qu ốc t ế b ằng s ự tr ả giá c ủa các đối thủ cạnh tranh. Nền kinh tế Nhật Bản được mô tả giống nh ư một t ổ ch ức nham hiểm quyết tâm bá chủ thế giới. Năm 1990, Bennett Bidwell, Giám đ ốc đi ều hành c ấp cao thời đó của hãng sản xuất ô tô Mỹ khổng lồ Chryler, đã g ọi Nhật B ản là “k ẻ xâm lược kinh tế tận tâm tận lực với mục tiêu tấn công và có sự tính toán ch ặt ch ẽ t ừ trung ương”. Tuy nhiên, khái niệm “Tập đoàn Nhật Bản” là một trong nh ững nhận th ức sai l ầm l ớn về Phép màu dù thực tế Nhật Bản có tồn tại kiểu kinh doanh liên k ết chặt chẽ v ới nhau. MITI có thể điều khiển các chính sách và tài chính nh ưng c ơ quan này không th ể quản lý vi mô mọi mặt của nền kinh tế chủ yếu là tư nhân. Đã có nhi ều ví d ụ cho th ấy các công ty, thậm chí là toàn bộ các doanh nghiệp trong m ột ngành ngh ề, đã n ổi d ậy, phá vỡ thành công vòng cương tỏa dưới danh nghĩa “h ướng dẫn” c ủa MITI. Một ví dụ, đầu thập niên 60, Sahashi ấp ủ một kế hoạch buộc các doanh nghi ệp trong ngành sản xuất ô tô phải sáp nhập nhằm mục đích tạo ra những công ty l ớn h ơn. Sahashi tin rằng những công ty lớn này sẽ có đ ủ sức cạnh tranh v ới “3 đ ại gia” c ủa M ỹ. Tuy nhiên, kế hoạch của Sahashi vấp phải sự chống đối quyết liệt đ ến n ỗi cu ối cùng
  2. nó buộc phải phá sản. Giới chức MITI cũng góp phần trong nh ững th ất b ại ê ch ề khi “những kẻ chiến thắng” mà họ đã chọn lựa hóa ra thành nh ững k ẻ b ại trận. Một trong những sai lầm được biết đến nhiều nhất của MITI là nỗ lực xây d ựng ngành công nghiệp sản xuất máy bay thương mại với những kỳ vọng rất cao nh ưng k ết c ục là không thành công. Ngược lại, một số ngành phát tri ển thành công nh ất c ủa Nh ật B ản, chẳng hạn như ngành sản xuất xe mô tô, chế tạo người máy, sản xuất máy fax và đi ện tử gia dụng lại ăn nên làm ra mà không có sự đ ỡ đầu đáng kể nào c ủa MITI. Morita phàn nàn “MITI từ trước đến giờ không phải là nhà hảo tâm l ớn c ủa ngành đi ện t ử Nhật Bản như một số người dường như cho là vậy”. Trên thực tế, kết quả thành công xen lẫn thất bại của MITI đã và đang gây ra m ột cu ộc tranh cãi nảy lửa giữa các nhà kinh tế học Nhật Bản về tầm quan tr ọng đích th ực c ủa các chính sách công nghiệp do MITI đề ra trong vi ệc làm nảy sinh t ốc đ ộ tăng tr ưởng thần kỳ của Nhật Bản. Liệu có phải “mô hình châu Á” thực sự hi ệu qu ả đ ến th ế? Li ệu có phải mô hình này là căn nguyên chính của Phép màu? Những người đề xướng “mô hình châu Á”, chẳng hạn như Chalmers Johnson, cho r ằng MITI đã thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa và t ốc độ tăng trưởng kinh t ế c ủa Nh ật Bản vượt xa cái mức mà Nhật hẳn sẽ đạt được nếu thực thi chính sách cho phép t ư nhân tự do kinh doanh. Nói như Johnson, MITI đã “m ột tay” làm bi ến đ ổi c ơ c ấu kinh t ế Nhật Bản vào thập niên 50 và đầu những năm 60. Phe ủng hộ MITI l ập lu ận bằng cách dẫn ra bằng chứng nằm ở các kết quả đạt được: Một vài ngành công nghi ệp được MITI chọn ra với tư cách là kẻ chiến thắng đã nằm trong số nh ững ngành thành công nhất của Nhật Bản. Vì thế, sự can thiệp của chính ph ủ là nhân t ố quy ết đ ịnh. Nhiều người khác không dám khẳng định chắc chắn như vậy. Họ cho rằng nh ững người ủng hộ MITI như Johnson đã dành cho bộ này quá nhi ều l ời khen ng ợi. Nhà kinh tế học Takafusa Nakamura viết: “Những người ủng hộ quan đi ểm “T ập đoàn Nhật Bản” thiên về thổi phồng tầm quan trọng của một khía cạnh duy nhất trong n ền kinh t ế Nh ật Bản”. Johnson và những người có cùng quan điểm với ông này có khuynh h ướng v ừa đánh giá thấp vai trò của các doanh nghiệp, của ban quản tr ị các t ập đoàn và c ủa gi ới công nhân Nhật Bản vừa quy thành công của Nhật cho b ộ máy qu ản lý c ủa nhà n ước. “Tốc độ tăng trưởng nhanh không đơn thuần là kết quả của các chính sách tăng trưởng, càng không phải là kết quả của một “kịch bản” do một nhóm nh ững cá nhân tinh hoa ưu tú nghĩ ra,” nhà kinh tế học Nhật Bản Yutaka Kosai bình lu ận. “Nói đúng hơn, chính những phản ứng nhanh nhạy với các điều ki ện th ị tr ường c ủa các công ty và hộ gia đình ở cấp thấp nhất (trong hệ thống kinh tế) mới đóng vai trò quan tr ọng quyết định”. Nhìn từ góc độ này, MITI đơn thuần chỉ đóng vai trò là người tạo ra các điều ki ện cho phép kinh tế tăng trưởng. Phần việc nặng nề là do các công ty tư nhân Nh ật B ản hoàn tất. Theo lập luận của phe phản đối, nguồn gốc thực sự của việc Nhật Bản phát tri ển nhanh chóng không xuất phát từ bàn tay hướng dẫn c ủa gi ới qu ản lý nhà n ước mà b ắt nguồn từ sức mạnh của các thị trường. “Mặc dù không thể phủ nhận nhà nước đã tạo một môi trường (kinh doanh) thu ận l ợi nhưng các động lực chính thúc đẩy tăng trưởng vẫn là tư nhân: nhu cầu đ ầu t ư kinh doanh, tiết kiệm tư nhân, lực lượng lao động cần cù và có tay nghề cao ho ạt đ ộng trong một môi trường kinh tế định hướng thị trường,” hai nhà kinh t ế h ọc Hugh Patrick
  3. và Henry Rosovsky nhận xét. Họ kết luận, kiểu phát triển của Nhật Bản “không hề mang tính độc nhất vô nhị. Vì vậy, dù chính sách của nhà n ước có th ể đóng vai trò quan trọng nhưng tác động của nó lên thành quả kinh t ế không ph ải là đi ểm ‘riêng có của Nhật Bản’”. Xét theo quan điểm này, MITI chỉ đóng vai trò h ậu thuẫn ch ứ không phải là quyết định đối với Phép màu. Câu chuyện của Sony cho thấy sự nguy hiểm của việc gán cho MITI và các chính sách công nghiệp của bộ này quá nhiều vai trò ảnh h ưởng. Trong quá trình theo đu ổi công nghệ bán dẫn, Morita và Ibuka không tuân theo “h ướng d ẫn hành chính” cũng nh ư không hưởng ứng các khuyến khích cụ thể của MITI. Họ nhìn th ấy s ự ứng d ụng đa dạng trong tương lai của công nghệ bán dẫn và tìm ra đ ược m ột cách s ở h ữu công nghệ này mà không có sự nhúng tay của MITI. Vì không nhận ra được tầm quan trọng của việc mà Sony đã làm nên MITI ph ản đ ối sáng kiến của công ty này. Nhà kinh tế học chính trị Daniel Okimoto vi ết: “Tình ti ết này trái ngược với câu chuyện thần thoại về khả năng tiên đoán c ủa MITI”. Trong su ốt l ịch sử phát triển của mình, Sony chưa bao giờ là một ph ần trong hệ th ống c ủa MITI. Tuy công ty này có hưởng lợi từ một số chính sách nhất định của MITI và B ộ Tài chính, chẳng hạn như chính sách thuế ưu đãi đối với một vài sản phẩm ban đ ầu c ủa Sony khiến cho những sản phẩm này có mức giá dễ mua hơn đối với ng ười tiêu dùng49 nhưng doanh nghiệp của Morita không hề nhận đ ược b ất kỳ m ột s ự h ỗ tr ợ tài chính “mục tiêu” nào, chẳng hạn như các khoản cho vay được chỉ đạo phân bổ theo chính sách. Vào giữa thập niên 50, Sony đã thỉnh cầu các qu ỹ c ủa nhà n ước tài tr ợ cho công ty phát triển một sản phẩm đầu máy nhưng chính phủ đã thẳng th ừng t ừ ch ối.51 Nobuyuki Idei, cựu Giám đốc điều hành của Sony, khẳng đ ịnh công ty đã t ồn t ại theo kiểu “thị trường tự do ngay từ đầu”. Ông nói: “Tôi không nghĩ MITI có quan tâm m ạnh mẽ tới công ty Sony nói riêng hay ngành điện t ử nói chung”. Những người bênh vực MITI phản pháo bằng lập luận cho rằng h ầu hết các nhà kinh tế học quá sa đà một cách dễ dàng vào tư tưởng tự do kinh doanh đã l ỗi th ời c ủa M ỹ trong việc đề cao những nhân tố tạo nên Phép màu của Nh ật B ản. H ọ cho r ằng các nhà kinh tế học kinh điển đã quen với lối tư duy theo ki ểu sự can thi ệp c ủa nhà n ước chẳng đem lại được điều gì ngoài việc làm rối thị trường; rằng các nhà kinh t ế h ọc kinh điển không hiểu được một điều là chính sách của nhà nước có thể d ẫn dắt và thúc đ ẩy các lực lượng thị trường. Theo phe ủng hộ MITI, phiên bản chính sách công nghi ệp c ủa Nh ật Bản đã lèo lái và đẩy nhanh các hoạt động của thị trường chứ không hề thế chỗ cho nh ững ho ạt đ ộng này. Nói theo thuật ngữ của các nhà kinh t ế thì MITI đã theo đu ổi nh ững chính sách “tuân theo thị trường” thay vì “bất chấp thị trường”. Nhà báo James Fallows, m ột trong những người tán thành mạnh mẽ nhất “mô hình châu Á”, đã khẳng đ ịnh “bài h ọc” rút ra từ sự thành công của mô hình có “liên quan đến sự kết h ợp gi ữa th ị tr ường v ới công tác hoạch định nằm đằng sau sự phát triển hiện đại của châu Á”. Bằng cách sử dụng chính sách của nhà nước để điều chỉnh th ị tr ường v ận hành t ốt hơn, Nhật Bản đã cười nhạo vào các nguyên lý truyền th ống c ủa kinh t ế h ọc kinh đi ển và nền tảng của tư tưởng thị trường tự do của Mỹ. Nói theo ki ểu của Fallow thì Nh ật Bản “đã tái phát minh ra các nguyên tắc kinh t ế học”.
  4. Niềm tin cho rằng Nhật Bản đã sáng tạo ra một hình th ức ch ủ nghĩa t ư b ản khá thượng đẳng ngày càng trở nên lan rộng khi Phép màu c ủa Nh ật Bản di ễn ra nhanh chóng. Quan điểm kinh tế kinh điển về thành công của Nh ật B ản đã b ị g ạt sang m ột bên vì không còn phù hợp với thực tế mới của kinh t ế h ọc thế gi ới. Tuy nhiên, tranh cãi xung quanh “mô hình châu Á” thì không bao gi ờ d ịu đi. Ngay cả những người tán thành cực lực nhất “mô hình châu Á” cũng không th ể lý gi ải được nguyên nhân thành công của các công ty gi ống nh ư Sony. Fallows cho r ằng s ự vươn lên tới vị trí nổi bật toàn cầu của Sony không phải do MITI mà là do phong cách kinh doanh lỗi thời và luôn chống đối mạnh mẽ của công ty này. Gọi Morita là “một doanh nhân gian hùng… nếu nhìn nh ận đánh giá ông v ới góc nhìn của một người Mỹ”, Fallow cho rằng Morita “đã xây dựng một công ty tuy ệt v ời mà không ít thì nhiều cũng là của riêng ông ấy nếu cũng nhìn nh ận theo l ối t ư duy truy ền thống của Mỹ”. Suy cho cùng, có lẽ Nhật Bản chẳng “tái phát minh” ra nguyên lý kinh tế nào cả. MICHAEL SCHUMAN
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
5=>2