LUẬN VĂN:

Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước –

GiảI pháp quan trọng, cơ bản trong việc

đổi mới và tổ chức lại các Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay

Lời mở đầu

Từ sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI, nước ta chuyển sang phát triển nền

kinh tế hành hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý và

điều tiết của nhà nước. Trong bước nghoặc trọng đại này,khu vực doanh nghiệp nhà

nước – một bộ phận trọng yếu của nền kinh tế nhà nước - đã bộc lộ rõ nhiều yếu

kém,bất cập:phát triển tràn lan, cơ sở vật chất - kỹ thuật nghèo nàn lạc hậu,tình trạng

thiếu và thất thoát vốn một cách nghiêm trọng, cơ chế quản lý còn nhiều lúng

túng,không đáp ứng được yêu cầu phát triển nhanh tính xã hội hoá của lực lượng sản

xuất, ngăn cản không nhỏ vai chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nhiều

thành phần.

Trước thực trạng trên, Đảng và nhà nước ta đã chủ trương đổi mới các doanh

nghiệp nhà nước(DNNN). Hàng loại các giảI pháp đã được tiến hành như:

giao,bán,khoán,cho thuê,sát nhập,giảI thể các DNNN, trong đó giảI pháp chuyển một

số doang nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần( còn gọi là cổ phần hoá các doanh

nghiệp nhà nước).

Tuy chủ trương cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước đã được tiến hành

từ đấu những năm 90, nhưng hiện nay vẫn chưa đạt được mục tiêu đề ra. Số DNNN

chuyển thành công ty cổ phần còn rất ít, tốc độ cổ phần hoá còn rất chậm, nhiều lúc

như giậm chân tại chỗ.Nhiều vướng mắc cả về lý luận và thực tiễn vẫn chưa được

khai thông. Thực tiền đang đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta nói chung, các nhà khoa học

nói riêng cần phải tập trung công sức và trí tuệ nhiều hơn nữa thì mới mong đạt tới sự

thúc đẩy mạnh mẽ và vững chắc chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp trong thời

gian tới.

Là một sinh viên trường Quản lý và kinh doanh Hà Nội, một chủ doanh ngiệp

trong tương lai, việc nghiên cứa về tình hình hoạt động của các doanh nghiệp nhà

nước nói chung và vấn đề cổ phần hoá các doang nghiệp nhà nước nói riêng là vô

cùng cần thiết đối với riêng bản thân em.Chíng vì vậy em đã đI sâu vào nghiên cứa

đề tàI: ‘Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước – GiảI pháp quan trọng, cơ bản

trong việc đổi mới và tổ chức lại các Doanh nghiệp Nhà nước hiện nay”.Đồng thời

để bàI viết của em có sức thuyết phục hơn,em xin liên hệ thực tế tình hình hoạt động

tại một doanh nghiệp nhà nước sau khi cổ phần hoá trở thành công ty cổ phần,đó

là:công ty cổ phần TRàng Tiền.

Nội dung bàI viết của em gồm bốn phần sau:

Phần I: Cơ sở lý luận và ý nghĩa thực tiễn của cổ phần hoá một số DNNN

Phần II: Một số các qui định pháp luật liên quan tới cổ phần hoá một số DNNN

Phần III Thực trạng và bàI học quí báu của CTCP Tràng Tiền sau khi tiến hành

cổ phần hoá.

Phấn IV: Một số kiến nghị và đề xuất giảI quyết

Phần I: Một số vấn đề lý luận và ý nghĩa thực tiễn của cổ phần hoá một số

Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay

1. Thực chất của cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước

Điều 1 của thông tư 50/TT/TCDN ngày30/08/1996 của Bộ TàI chính đã ghi rõ:

“ Doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần( hay còn gọi Cổ phần hoá

các Doanh nghiệp nhà nước) là biện pháp chuyển doanh nghiệp từ sở hữu nhà nước

sang hình thức nhiều thành phần, trong đó tồn tại một phần sở hữu nhà nước ”.

Xét về mặt hình thức: Cổ phần hoá(CPH) tức là nhà nước bán một phần hoặc

toàn bộ giá trị cổ phần của mình trong doanh nghiệp(DN) cho các tổ chức hoặc tư

nhân trong và ngoàI nước, các cán bộ quản lý và công nhân viên trong doanh nghiệp

bằng đấu giá công khai hoặc thông qua thị trường chứng khoán để hình thành nên các

công ty cổ phần(CTCP).

Xét về bản chất: Cổ phần hoá tức là phương thức thực hiện xã hội hoá sở hữu,

chuyển hình thức kinh doanh một chủ với sở hữu nhà nước duy nhất trong doanh

nghiệp thành công ty cổ phần với nhiều chủ sở hữu, nhằm tạo ra một doanh nghiệp

hiện đại thích ứng với yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường hiện đại. CPH là

công cụ, phương tiện huy động vốn đạt hiệu quả cao và ổn định lâu dàI tạo điều kiện

cho người lao động làm chủ doanh nghiệp. CPH nói chung không chỉ diễn ra tại các

doanh nghiệp nhà nước mà còn diễn ra tại các doanh nghiệp tư nhân, các công ty

trách nhiệm hữu hạn, các công ty liên doanh.Như vậy cổ phần hoá chính là quá trình

đa dạng hoá sở hữu tại các Doanh nghiệp.

Đối với VIệt Nam hiện nay, CPHDNNN cũng mang thực chất của cổ phần hoá

nói trên. Song để làm rõ hơn thực chất của quá trình này, chúng ta cần phảI theo dõi

nội dung hình thức mà các doanh nghiệp nhà nước chuyển thành công ty cổ phần như

thế nào? Trên thực tế thì các doanh nghiệp nhà nước chuyển thành các CTCP theo

một trong hai cách sau: Thứ nhất: bán một phần hoặc toàn bộ tàI sản hiện có thuộc sở

hữu nhà nước tại DN cho công bằng phát hành cổ phiếu.Thứ hai: giữ nguyên toàn bộ

giá trị vốn, tàI sản hiện có tại DN phát hành thên cổ phiếu ra công chúng để thu hút

vốn mở rộng DN. Đây là một hình thức khác biệt của CPHDNNN, mở rộng hơn so

với CPH tại các DN tư nhân khác, tức là đồng thời với việc chuyển quyền sở hữu nhà

nước tại doanh nghiệp sang sở hữu tập thể cổ đông là việc chuyển quyền quản lý từ

trực tiếp của chủ sở hữu nhà nước sang gián tiếp là các cổ đông thông qua Hội đồng

quản trị.

Với nội dung trên thì không thể coi CPNDNNN là tư nhân hoá, cũng không nên

phiến diện cho rằng CPHDNNN là quá trình chuyển quyền sở hữu nhà nước sang sở

hữu cổ đông. Bởi ngoàI hình thức này, còn có các hình thức DNNN thu hút thêm vốn

để trở thành các công ty cổ phần.

Tóm lại CPH DNNN không phảI là quá trình tư nhân hoá nền kinh tế, mà là quá

trình giảm bớt sở hữu của nhà nước trong các DNNN, và đa dạng hoá sở hữu trong

DN. Nó tạo cơ sở cho việc đổi mới các quan hệ tổ chức quản lý và thúc đẩy quá trình

tích tụ vốn nhằm hiện đại hoá nền kinh tế, nâng cao hiệu quả kinh doanh của DN. Cổ

phần hoá không làm tàI sản nhà nước suy yếu mà còn có khẳ năng gia tăng nhờ lợi

tức cổ phần của nhà nước và sự đóng góp ngày càng tăng của các CTCP làm ăn có

hiệu qủa vào ngân sách nhà nước .

2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là sự chọn lựa tất yếu

Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế, đã có lúc Việt Nam đI theo con

đường kinh tế kế hoạch hoá tập trung, lấy mở rộng và phát triển khu vực kinh tế nhà

nước bao trùm toàn bộ nền kinh tế quốc dân làm mục tiêu cho công cuộc cảI tạo và

xây dựng chủ nghĩa xã hội.Vì thế đã có quá nhiều DNNN được thành lập và phát

triển một cách tràn lan nhưng lại không được tổ chức và quản lý tốt.Những kháI niệm

như: cạnh tranh, thị trường, sức lao động, hoạt động kinh doanh vì lợi nhuận, …hoàn

toàn xa lạ đối với các doanh nghiệp lúc đó.Trong quản lý kinh tế theo kiểu hành

chính, Nhà nước giao chỉ tiêu sản xuất và cung ứng vật tư thiết bị cho các DN,sản

phẩm sản xuất ra dù tốt hay xấu đều đã chỉ tiêu tiêu thụ theo mức giá mà nhà nước đã

qui định.Tính chủ động trong sản xuất –kinh doanh bị gò bó bởi nhiều qui chế xuất

phát từ quyền sở hữu của nhã nước. Với cách quản lý như trên đã đánh mất đI động

lực kinh tế trong hoạt động sản xuất kinh doanh nghiệp, làm cho hiệu quả hoạt động

sản xuất của các DNNN yếu kém, trì trệ, nền kinh tế rơI vào tình trạng khủng hoảng

nghiêm trọng. Chính điều này đẫ trở thành gắng nặng cho ngân sách nhà nước. Nhà

nước phảI thường xuyên sử dụng ngân sách trợ cấp trực tiếp và gián tiếp cho các

DNNN dẫn đến tình trạng thâm hụt ngân sách trầm trọng.

Nhiều giảI pháp đã được đưa ra nhằm sắp xếp tổ chức lại các DNNN như: cơ

cấu lại vốn và lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp ; sát nhập các doanh nghiệp

có vốn nhỏ ; giảI thể các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ hoặc liên doanh liên kết với

cac tổ chức nước ngoàI để tận dụng nguồn vốn,tiếp cận với các phương thức quản lý

tiên tiến. Song những giảI pháp này vần chưa tạo được sự thay đổi về chất, chưa có

sự thay đổi mang tính bước ngoặc,hiệu quả kinh doanh của các doanh nghiệp có thấp

kém, nhiều DNNN làm ăn thua lỗ.

Để giảI quyết vấn đề trên, Nghị quyết trung ương 2 khoá VII đã đưa ra một giảI

pháp quan trọng nhằm tổ chức và sắp xếp lại các DNNN. Theo đó ‘Chuyển một số

doanh nghiẹp quốc doanh có điều kiện thành công ty cổ phần và thành lập một số

công ty cổ phần quốc doanh mới, phảI làm thí điểm,chỉ đạo chặt chẽ, rút kinh nghiệm

chu đáo trước khi mở rộng trong phạm vi thích hợp ”.

3. Cổ phẩn hoá các doanh nghiệp nhà nước – giảI pháp quan trọng, cơ bản

trong việc đổi mới và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước.

Như đã nêu ở trên, trong một loạt các giảI pháp sắp xếp và tổ chức lại các

DNNN: cổ phần hoá, tư nhân hoá,cho thuê,sát nhập, giáI thể các DNNN thì giảI pháp

cổ phần hoá một số doanh nghiệp nhà nước được coi là hữu hiệu nhất để giảI quyết

các khó khăn trong khu vực kinh tế nhà nước

Tầm quan trọng và sức hấp dẫn của cổ phần hoá không chỉ thể hịên ở chỗ giảI

toả được bế tắc, khúng hoảng về vốn cho các DNNN hiện nay có nhiều cơ hội đứng

vững và phát triển trong thị trường cạnh tranh, nhưng lại đang thiếu vốn nghiêm

trọng nếu chỉ trông chờ vào nguồn vốn ngân sách nhà nước và vốn vay ngân hàng,

nhằm tạo ra môI trường huy động vốn dàI hạn cho các DNNN đầu tư có chiều sâu,

nâng cao khẳ năng cạnh tranh của các DN trong và ngoài nước.

Mà còn quan trọng hơn là ở chỗ CPHDNNN đã thông qua đa dạng hoá sở hữu

để từ đó gắn trực tiếp quyền lợi và trách nhiệm của các cổ đông( là công chúng,

người lao động trong các DN) với kết quả hoạt động của các DN, làm cho các DNNN

đang ở tình trạng “ vô chủ” trở thành “ hữu chủ ‘” thật sự.Có lẽ đây là biện pháp hữu

hiệu nhất nhất trong quá trình tìm kiếm lời giảI đáp về yêu cầu hữu chủ hoá quyền sở

hữu ở các DNNN hiện nay.

Sự hấp dần khác của giảI pháp cổ phần hoá các DNNN còn ở chỗ nó cho phép

Nhà nước có thể điều chỉnh vai trò của mình đối với các doanh nghiệp. Nếu cần có sự

can thiệp và kiểm soát lớn thì Nhà nước sẽ giữ lại tỷ lệ cổ phần cao hoặc ngược lại

nếu muốn giảm bớt sự kiểm soát của mình, Nhà nước có thể bán phần lớn hoặc toàn

bộ số cổ phần của mình trong các doanh nghiệp. Quá trình này sẽ giúp cho nhà nước

thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn ngoàI xã hội đầu tư vào sán xuát kinh

doanh , nhờ đó mà thu hồi được một phần vốn lớn cho ngân sách hoặc tập trung đầu

tư cho các hoạt động cần ưu tiên hơn nhằm tạo đòn bẩy thúc đẩy phát triển kinh tế

toàn xã hội.

Khó khăn lớn nhất trong cơ chế quản lý đối với các DNNN hiện nay là vẫn là

vấn đề về xử lý mối quan hệ giữa quyền sở hữu vốn của Nhà nước và quyền sở dung,

quản lý vốn và tàI sản của các DNNN. Bên cạnh những lợi thế so với các doanh

nghiệp tư nhân về các mặt hoạt động, DNNN cũng có những điểm hạn chế phát sinh

từ vấn đề sở hữu và sử dụng vốn. Trong các doanh nghiệp tư nhân, người sở hữu vốn

và người quản lý vốn luôn được đặt trong mối quan hệ phụ thuộc sống còn,do đó

trong cơ chế quản lý được hình thành một cách tự nhiên và rất chặt chẽ. Còn ở các

DNNN mối quan hệ này rất mơ hồ, không có người cụ thể đảm nhận hoặc đại diện

với sự gắn bó trách nhiệm và quyền lợi. Do chưa xác định rõ ràng quyền sở hữu, nên

quyền sử dụng của các doanh nghiệp cũng bị vi phạm và không có ranh giới cụ thể.

Sự lúng túng trong lý luận và thực tế quản lý đã dẫn đến tình trạng nhà nước có thể

can thiệp tuỳ ý vào hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp hoặc là tình trạng doanh

nghiệp có thể sử dụng bứa bãI vốn và tàI sản của nhà nước. Ơ nước ta, vấn đề này

cũng đã được tranh luận khá sôI nổi và đa dạng. Có nhiều ý kiến cho rằng không nên

có sự phân biệt giữa quyền sở hữu và quyền sử dụng, mà hai quyền này phảI được

hợp nhất về một các nhân – Giám đốc doanh nghiệp. Nhưng cũng có ý kiến khác thì

lại nhấn mạnh vào vai trò của người lao động, coi tập thể người lao động là đại diện

cho quyền sở hữu của Nhà nước …Mỗi ý kiến đều chứa đựng những luận cứ có tính

thuyết phục riêng,song bên cạnh đó vẫn chứa đựng những thiếu sót. Thật vậy, Giám

đốc của các DNNN cũng như các công ty cổ phần không thể có quyền hoặc đại diện

cho quyền sở hữu của Nhà nước hay của các cổ đông. Chỉ có ở doanh nghiệp tư

nhân khi mà nhà tư bản tự bỏ vốn ra kinh doanh thì hai quyền đó mới nhập làm

một.Còn người lao động trong các DNNN thì nghĩa vụ lớn nhất của họ là làm việc có

hiệu quả để có thu nhập cao cho gia đình và bản thân.Thêm vào đó, ở vị trí của

mình,người lao động không thể có đủ điều kiện, trình độ và khả năng để đảm nhận

chức năng là người chủ sở hữu.

Vấn đề quyền sở hữu của các DN để thực hiện sản xuất kinh doanh đều được

hầu hết các ý kiến cho rằng, người chịu trách nhiệm vốn và tàI của Nhà nước và

Giám đốc, người được Nhà nước bổ nhiệm hoặc đI thuê. Điều chưa rõ ràng trong

nhiều năm qua là quỳên sử dụng vốn của Giám đốc. Trong cơ chế bao cấp,Giám đốc

chỉ thực hiện chức năng quản lý và điều hành các hoạt dộng của doanh nghiệp.Song

anh ta không có quyền sử dụng vốn , trong thời gian này quyền sở hữu thuộc về Nhà

nước. Chỉ đến khi có Nghị định 217-HĐBT, thì quyền sở hữu vốn của Giám đốc mới

được xem xét lại, tuy nhiên vẫn chưa có sự tách bạch rõ ràng về quyền sở hữu và

quyền sử dụng nên nhiều Giám đốc chưa hiểu đúng về quyền sở hữu và sử dụng dẫn

đến những hậu quả nghiêm trọng.

Thực tế cho thấy, trong những năm qua hoạt động của các doang nghiệp thường

là không giống nhau có nơI Giám đốc bị tước hết mọi quyền sử dụng, mọi hoạt động

sản xuất kinh doanh đều phảI xin ý kíên cấp trên. Ngược lại có nơI Giám đốc lại lợi

dụng quyền sở hữu của Nhà nước để làm giàu cho bản thân( tham nhũng, nhậu nhẹt,

hối lộ ….) Để giảI quyết tình trạnh vô chủ và tìm kiếm câu trả lời các yêu cầu về hữu

chủ hoá trong các DNNNthỉ giảI pháp cổ phần hoá là hữu hiệu hơn cả. Nó cho phép

nhà nước điều chỉnh vai trò của mình đối với các doanh nghiẹp.Đồng thời thông qua

CPHDNNN, Nhà nước tạo điều kiện pháp lý để cho người lao động trong các DNNN

được công nhận quyền làm chủ một bộ phận tàI sán của mình bằng cách cho họ tham

gia đầu tư mua cổ phiếu, nâng cao quyền làm chủ thật sự, có tính vật chất, trên phần

vốn đóng góp và thực sự phấn đấu hăng háI để nâng cao hiệu quả đồng vốn đó, làm

giàu cho bản thân và xã hội đạt mục tiêu dân giàu, nước mạnh,xã hội công bằng văn

minh.

Từ các phân tích trên cho thấy việc tổ chức và đổi mới lại các DNNN vẫn phảI

tôn trọng quyền tự chủ, kinh doanh độc lập, tụ do cạch tranh. Trong các giảI pháp sắp

xếp, tổ chức lại các DDNNN thì CPH là một giải pháp có ưu thế, thế mạnh trên nhiều

mặt mà kinh nghiệm của các nước trên thế giới trong đó có Việt Nam, đã xác nhận.

Từ đó chúng ta có thể khẳng định lại rằng chủ trương CPHDNN của Đảng và Nhà

nước ta là một chủ trương vô cùng đúng đắn và cấp thiết hiện nay.

Phần II: Những qui định pháp luật liên quan tới cổ phần hoá một số doanh

nghiệp

nhà nước

1. Những cơ chế, chính sách đã được ban hành

Cổ phần hoá DNNN là đường lối nhất quán của Đảng trong hơn 10 năm qua, là

cuộc vận động đang được triển khai tích cực trong công cuộc cảI cách và đổi mới

DNNN. Để tạo cơ sở pháp lý cho CPHDNNN,Chính phủ và các Bộ, các ngành hữu

quan đã đưa ra nhiều chủ trương, chính sách theo hướng ngày càng đổi mới và thông

thoáng, sát hợp với tình hình kinh tế- xã hội thực tế ở nước ta.

Sau Nghị quyết TW2 khoá VII ra đời, ngày 8/6/1992 Chủ tịch hội đồng bộ

trưởng( nay là Thủ tướng chính phủ) đã ban hành Quyết định số 202/CT kèm theo đề

án triển khai thí điểm chuyển một số DNNN thành CTCP. Đây là những văn bản

pháp lý đầu tiên của Chính phủ ban hành để hướng dẫn thi hành chủ trương CPH

của Đảng.

Sau bốn năm thực hiện CPHDNNN, chúng ta đã đúc rút được nhiều kinh

nghiẹm. Đến ngày 7/5/1996 Chính phủ đã ban hành NĐ 28/ CP “ về việc chuyển một

số DNNN thành CTCP” Tuy nhiên, do còn nhiều vướng mắc còn chưa được xác

định rõ ràng như:việc xác định giá trị của doanh nghiệp sau khi cổ phần hoá….Vì vậy

NĐ28/ CP đã đI vào cuộc sống rất chậm, từ khi NĐ28 / CP ban hành cho đến 6/1998

chỉ có 25 DNNN tiến hành CPH.

Trước tình hình này,ngày 29/6/1998 Chính phủ đã ban hành NĐ44/1998/ NĐ-

CP “ về việc chuyển DNNN thành CTCP’’ thay thế NĐ 28 / CP nói trên. Hiện nay,

nghị định 44/1998/NĐ- CP được coi là nghị định thông thoáng,tạo được sức hấp dẫn

đối với các DNNN với thủ tục pháp lý rõ ràng,đầy đủ.

Với những kết quả đã được của gần bốn năm thực hiện NĐ48/1998/NĐ-CP,

ngày 19/06/2002 Chính phủ đã ban hành Nghị định số 64/2002/ NĐ-CP “ về việc

chuyển DNNN thành CTCP” Nghị định này nhằm quán triệt những chủ trương mới

và triển khai thực hiện nhiệm vụ sắp xếp, đổi mới phát triển và nâng cao hiệu quả của

DNNN từ 2002-2005 được đề ra trong Nghị quyết hội nghị Trung ương 3 khoá I X.

2. Những kết quả tích cực đã đạt được

Hiện nay, NĐ 64/2002/ND-CP đã có nhiều ưu điểm hơn so với

NĐ44/1998/ND-CP.Cụ thể trong những nội dung sau:

2.1. Đối tượng cổ phần hoá

Cũng như NĐ44/1998/NĐ-CP,tại Điều 2 của nghị định số 64/2002/NĐ-CP đã

qui định rất rõ “ Danh mục phân loại doanh nghiệp nhà nước do Thủ tướng chính phủ

quyết định trong từn g thời kỳ ”.Nhưng thay vì một danh mục cứng nhắc như NĐ 44/

1998 thì NĐ 64/2002 chỉ qui định thẩm quyền phân loại doanh nghiệp nhà nước còn

cụ thể là doanh nghiệp nhà nước nào còn tuỳ thuộc vào điều kiẹn, tình hình phát trỉên

kinh tế của ta trong từng thời kỳ. Đồng thời tại khoản 2 Điều2 NĐ 64 /2002 cũng qui

định: Đơn vị phụ thuộc của các doanh nghiệp nhà nước chỉ cần tiến hành khi có đủ

điều kiện hạch toán độc lập và việc cổ phần hoá không gây khó khăn hoặc ảnh hưởng

xấu đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp , hoặc bộ phận còn lại của

doanh nghiệp. Với qui định này, đã giúp cho nhà nước ngăn chặn được những khó

khăn, phức tạp xảy ra trong quá trình chuyển đổi DNNN thành CTCP, dặc biệt là

công doạn xác định giá trị DN sau khi cổ phần hoá.Đây là một thay đổi quan trọng

thể hiện cơ chế quản lý mềm dẻo của Nhà nước ta nhằm phát huy vai trò chủ đạo của

khu vực kinh tế nhà nước.

2.2. Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

Cũng như Điều 7 ND44/1998, thì tại Điều 3 NĐ 64/2002 CPHDNNN được tiến

hành theo 4 hình thức sau:

 Giữ nguyên giá trị tàI sản thuộc vốn hiện có của nhà nuớc tại doanh nghiệp,

phát hành thêm cổ phần để thu hút vốn

 Bán một phần giá trị thuộc vốn nhà nước hiẹn có tại doanh nghiệp

 Bán toàn bộ giá trị hiện có thuộc vốn hiện có của nhà nước tại doanh nghiệp

để chuyển thành công ty cổ phần.

 Thay vì hình thức tách một bộ phận doanh nghiệp có thể hoạt động độc lập

và hạch toán riêng giá trị tàI sản để cổ phần hoá như NĐ 44/1998 thì NĐ 64 /2002áp

dụng hình thức: thực hiện các hình thức bán một phần hoặc bán toàn bộ phần vốn

hiện có của nhà nước tại doanh nghiệp kết hợp với phát hành cổ phiếu dể thu hút

vốn.Hình thức này tạo điều kiện cho các DNNN thu hút được một lượng vốn lớn

ngay từ thời điểm cổ phần hoá mà không phảI là đa dạng hoá hay chuyển đổi hình

thức sở hữu.Thay đổi này là hoàn toàn hợp lý, phù hợp với qui định của pháp luật.

2.3. Thẩm quyền lựa chọn và quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

Thay vì giao thẩm quyền lựa chọn và quyết định doanh nghiệp cổ phần hoá xuất

phát từ chủ thể thành lập như Điều15 NĐ44/1998, căn cứ theo Điều 30 NĐ 64/2002,

Nhà nước có cách nhìn mới đó là giao thẩm quyền lựa chọn và quyết định doanh

nghiệp cổ phần hoá từ chính cơ quan có trách nhiệm quản lý doanh nghiệp. Theo đó,

cơ quan quản lý ngành kinh tế kỹ thuật sẽ có vai trò và trách nhiệm rất lớn đối với

các DNNN thuộc phạm vi mình quản lý.Các Bộ trưởng, Thứ trưởng, cơ quan ngang

Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, Chủ tịch UBND cấp tỉnh, Hội đồng quản trị tổng công

ty 91 có trách nhiêm xây dựng phương án tổng thể sắp xếp DNNN thuộc phạm vi

mình quản lý, trình Thủ tướng phê duyệt và chịu trách nhiệm tổ chức thực hiện.

Như vậy, nếu như thẩm quyền phê duyệt phương án cổ phần và chuyển DNNN

thành CTCP theo Điều 17 NĐ 44/1998 xuất phát từ tiêu chí vốn của nhà nước tại

doanh nghiệp thì theo khoản 2 Điều 30 Nghị định 64/2002 cũng được giao cho cơ

quan quản lý ngành kinh tế – kỹ thuật hoặc chủ tịch UBND cấp tỉnh qui định

Trên cơ sở phương án sắp xếp DN tổng thể được phê duyệt theo hưỡng dẫn của

các cơ quan liên quan.

2.4. Thẩm quyền xác định giá trị doanh nghiệp

Căn cứ theo Điều 16 Nghị định 44/ 1998 thì

- Bộ trưởng TàI chính quyết định giá trị doanh nghiệp có mức vốn nhà nước ghi

trên sổ sách kế toán đến thời điểm cỏ phần hóa trên 10tỷ đồng sau khi có thoả thuận

với Bộ quản lýngành,BND tỉnh,Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 liên quan

- Căn cứ vào hướng dẫn của Bộ TàI Chính, Bộ trưởng các bộ, Chủ tịch UBND

cấp tỉnh, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 quyết định giá trị doanh nghiệp có mức

vốn nhà nước ghi trên sổ sách kế toán đến thời điểm cổ phần từ dưới 10 tỷ.

Còn theo khoản 3 Điều 30 Nghị định 64/2002, các Bộ trưởng cơ quan ngang

bộ, cơ quan thuộc chính phủ, chủ tịch UBND cấp tỉnh mới là người có thẩm quyền

quyết định giá trị DN và họ chỉ phảI xin ý kiến chấp thuận của Bộ trưởng Bộ TàI

chính trước khi quyết định nếu như giá trị thực tế phần vốn góp của nhà nước tại

doanh nghiệp nhỏ hơn giá trị ghi trong số sách kế toán từ 500 triệu trở lên. Đây là

điều cần thiết bởi muốn loại trừ khả năng có sự gian lận hoặc nhầm lẫn ở đây đòi hỏi

phảI có nghiệp vụ và chuyên môn để kiểm tra.

2.5. Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp

Căn cứ theo NĐ 44/ 1998/ NĐ-CP thì giá trị thực tế của doanh nghiệp là toàn

bộ tàI sản hiện có của DN tại thời điểm cổ phần hoá mà người mua và người bán có

thể chấp nhận được.

Các yếu tố xác định giá trị thực tế của DN

a Số liệu trong sổ sách kế toán của doanh nghiệp

b Phẩm chất và tính năng kỹ thuật của tàI sản theo,giá thị trường về thời điểm

cổ phần hoá.

c Lợi thế kinh doanh của doanh nghiệp: vị trí địa lý, uy tín mặt hàng…

2.6. Trình tự, thủ tục chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần

Sau khi thực hiện cổ phần hoá, DN sẽ hoạt động theo chế độ công ty cổ phần,

qui định trong Luật Doanh nghiệp có hiệu lực ngày 1/1/2000. Nghị định 44/98/NĐ-

CP đã qui định quy trình chuyển đổi DNNN thành CTCP gồm 4 bước chính sau:

A Chuẩn bị cổ phần hoá

Ban quản lý tại doanh nghiệp chuẩn bị tàI liệu về: hồ sơ pháp lý khi thành lập

DN, tình hình công nợ,tàI sản..; danh sách cổ đông doanh nghiệp đến thời điểm cổ

phần hoá, dự kiến kinh phí CPH cho đến khi hoàn thành.

B Xây dựng phương án cổ phần hoá

Ban đổi mới và quản lý tại DN lập phương án( dự kiên) CPHDN và dự thảo

điều lệ tổ chức và hoạt động của công ty. PHổ biến và niêm yết công khai dự kiến

phương án nêu trên để mọi người lao động trong DN được biết. Sau khi hoàn thiện

phương án CPHDN,thì sẽ trình lên cơ quan có thẩm quyền phê duyệt,

C Phê duyệt và triển khai thực hiện phương án cổ phần

Sau khi được các cơ quan có thẩm quyền phê duyệt, ban quản lý đổi mới DN

mở sổ đăng ký mua cổ phần của các cổ đông, đăng ký mua tờ cổ phiếu tại kho bạc,

thông báo công khai trên các phương tiện thông tin đại chúng chủ trương bán cổ phần

của DN cho các cổ đồng

TRưởng ban đổi mới và quản lý của DN triệu tập Hội đồng cổ đông lần thứ

nhất để bầu Hội đồng quản trị,Ban kiểm soát thông qua điều lệ hoạt động của công

ty

D Ra mắt công ty cổ phần và đăng ký kinh doanh

Sau khi ban quản lý và dổi mới giảI tán, Hội đồng công ty tiếp tục hoàn tất các

công tác còn lại: nộp lại con dấu…Cuối cùng cho ra mắt các công ty cổ phần, đang

ký trên các phương tiên thông tiên đại chúng hoặc bằng văn bản thời điẻm hoạt động

của CTCP theo con dấu mới, vố n điều lệ,ngành nghề kinh doanh.

Đăng ký kinh doanh vơI Sở Kế hoạch và Đầu tư tỉnh, Thành phố trực thuộc

Trung ương nơI DN đặt trụ sở chính.

Phần III: Thực trạng và bàI học kinh nghiệm từ công ty cổ phần Tràng Tiền

sau khi chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần

1 Thực trạng

Công ty cổ phần Tràng Tiền tiền thân là một doanh nghiệp quốc doanh được

thành lập từ năm 1992 với tên gọi ban đầu là Công ty ăn uống và khách sạn 35 Tràng

Tiền -Hà Nội. Sau một thời gian dàI hoạt động kinh doanh không có hiệu quả, người

lao động không có việc làm,do đó công ty đã quyết định chuyển sang mô hình cổ

phần hoá.

Sau gần nửa năm tiến hành và triển khai,ngày 5/1/2000 công ty đã chính thức đI

vào hoạt động theo mô hình mới, chuyển từ doanh nghiệp quốc doanh là công ty ăn

uống và khách sạn 35 Tràng Tiền thành công ty cổ phần Tràng Tiền theo quyết định

số 26/2000 QĐ - TTg của Thủ tướng chính phủ cấp ngày 5/1/2000.

Giấy phép đăng ký kinh doanh số 410300344 do Sở Kế hoạch và Đầu tư TP Hà

Nội cấp ngày 20/1/2000

Trụ sở chính: 35 Tràng Tiền – Hà Nội

Hoạt động kinh doanh: Nhà hàng, khách sạn

Công ty tiến hành cổ phần hoá theo hình thức giữ nguyên phần vốn hiện có của

nhà nước tại công ty và phát hành cổ phiếu cho các cán bộ, công nhân viên trong

công ty để huy động vốn mở rộng sản xuất.Tại thời điểm cổ phần hoá số vốn điều lệ

là 3,2 tỷ đồng( trong đó số vốn nhà nước là 1,9 tỷ). Ngay sau khi tiến hành cổ phần

hoá số vốn này đã được chia thành 32.000 cổ phần. Số cổ phần này đã được bán cho

100% cán bộ, công nhân viên trong công ty với giá ưu đãI.

Ngay sau khi tiến hành cổ phần hoá, công ty làm ăn có hiệu quả hơn. Nếu số

doanh thu năm 1999 là 4,2tỷ đồng,thì năm 2000 là 5,535 tỷ(tăng 31,8%) ;Lương bình

quân của công nhân viên tăng đáng kể: năm 1999 là 700.000 /người/tháng ; năm

2000 là 1.037.000 /người/tháng.Trong đó 100% công nhân viên có việc làm; cổ đông

được hưởng lợi tức 12%.

Tuy nhiên, trong hai năm gần đây( 2001-2003) khoảng 80% số cổ phiếu và 2/3

số vốn điều lệ đã bị một thể nhân bên ngoàI đầu cơ. Nguyên nhân của tình trạng trên

xuất phát từ hai “ tiền đề” sau: Trước hết là việc xác định giá trị tàI sản của DN thiếu

chính xác. Bởi theo con mắt của các nhà kinh tế,CTCP Tràng Tiền với 2.600 m2 xây

dựng toạ lạc trên khuân viên rộng 1.500m2 đất ở một nơI đẹp nhất Hà Nội, sẽ là một

vị trí siêu lợi nhuận cho bất kỳ nhà kinh doanh nào. Và theo họ,với giá thị trường như

hiện nay cộng thêm hệ thống máy móc, trang thiết bị của khách sạn, nhà hàng, ghá trị

tàI sản của công ty phảI lên tới hàng trăm tỷ đồng. Nhưng trên thực tế, khi định giá

để CPH thì chỉ được xác định trọn gói có 3,2 tỷ đồng.Vì thế CTCP Tràng Tiền đã trở

thành miếng mồi béo bở cho bất kỳ ai muốn chiếm đoạt khi có cơ hội.

Bên cạnh đó, sau CPH số cổ phần của công ty đẫ được bán hết cho 100%

CBCNV với giá ưu dãI. Vì thế một số CBCNV vốn chỉ là những người làm công ăn

lương nay lại được sở hữu một “giấy tờ” có giá mà bản thân họ chỉ phảI bỏ một số

tiền không nhiều và thực tế cũng không định được giá trị đích thực của chúng là bao

nhiêu.

Lợi dụng sự thiếu hiểu biét về giá trị cổ phiếu của không ít cổ đông,một số cổ

đông trong công ty đã cấu kết với người nước ngoàI tổ chức mua chui cổ phiếu của

CTCP Tràng Tiền với gía gấp 7-10 lần giá trị ghi trên cổ phiếu. Và cho đến cuối năm

2001, có tới 2/3 số vốn điều lệ và khoảng 80% số cổ phiéu với số tiền mua bán trên

20 tỷ đồng đã được chuyển nhượng bất hợp pháp cho một thể nhân bên ngoàI công

ty. Để có được số cổ phiếu trên, người này đã dùng một “chiêu” rất độc đáo đó là ký

kết hợp đồng thoả thuận lao động với những người chuyển nhượng như một cam kết

đảm bảo việc làm cho họ sau khi chuyển nhượng cổ phiếu.

Chính điều này đã làm giảm đáng kể số cổ đông là người lao động trong công ty

Trong số 96 cổ đông trong công ty ban đầu sở hữu 32.000 cổ phần thì đến cuối năm

2001 số trụ lại chỉ còn 20 người. Trường hợp của CTCP Tràng Tiền đã gây xôn xao

dư luận trong năm 2001.

2. Những bàI học kinh nghiệm quí báu

Vẫn biết rằng CPH là một giảI pháp đúng đắn song đằng sau nó vẫn còn tồn tại

những hạn chế nhất định, ảnh hưởng không nhỏ đến sự tồn tại và phát triển của các

DN cổ phần.Trường hợp của CTCP Tràng Tiền không phảI là trường hợp duy nhất

lâm vào khủng hoảng do hạn chế từ sau CPH đặc biệt là việc định giá tàI sản DN

thiếu chính xác.Việc chuyển nhượng cổ phiếu ở CTCP Tràng Tiền đã vi phạm Điều

86 của Bộ Luật Hình Sự , Điều 58 của Luật Doanh Nghiệp và sẽ bị xử phạt theo pháp

luạt. Điều đáng nói ở đây,từ “sự cố’’ này đã để lại cho công tác CPH một bàI học đắt

giá từ đó có thể rút ra được những kinh nghiệm qúi báu cho các nhà quản lý đang và

sẽ tiến hành cổ phần hoá

Việc chuyển đổi DNNN thành CTCP, về căn bản là táI cấu trúc lại vốn và cơ

cấu chủ sở hữu, là quá trình đI tìm động lực mới để cảI tiến và pháp triển công ty,

chứ không đơn thuần là chủ trương hữu sản hoá một thực thể có sẵn cho người lao

động tại chỗ.Thực tế cho thấy,ở CTCP Tràng Tiền, do không có các nhân tố mới

trong cơ cấu chủ sở hữu nên trong phương án kinh doanh không có những thay đổi

tích cực mang lại hiệu quả cao cho doanh nghiệp. Vì thế ai đó muốn “ ngầm thôn

tính ”và một só cổ đông sẵn sàng bán cổ đông ra bên ngoàI là một điều tất yếu.

Đồng thời, CPH nếu làm đúng thì giá trị nhà nước bao gồm tàI sản hưũ hình và

tàI sản vô hình chỉ thay đổi về hình thức quản lý mà không làm mất đI giá trị thực tế.

Vì thế để tránh việc định giá trị tàI sản DN thiếu chinhs xác như CTCP Tràng Tiền ,

thì ngoàI một tỷ lệ nhất định ưu tiên cho cán bộ công nhân viên, phần còn lại nên đấu

thầu. Ai có phương án sử dụng hữu hiệu hơn, có kế hoạch phát triển kinh doanh hiệu

quả hơn thì người đó hoặc nhóm người đó sẽ trở thành người quản lý mới của

DN.Phần ưu tiên cho nội bộ cũng tính theo giá đấu thầu nhưng được giảm một tỷ lệ

nhất định.Đ ặc biệt, khi bán cổ phần, CBCNV được quyền ưu tiên mua, nếu mua

không hết thì số cổ phần đó sẽ bán ra ngoàI cho các nhà đầu tư có điều kiện muốn

tham gia. Làm như vậy Nhà nước sẽ thu nhận và chọn lựa được người quản lý có

năng lực nhất.

Từ sự việc vừa xảy ra tại CTCP Tràng Tìên cho thấy, nếu CPH được tiến hành

một cách minh bạch, chính xác ; cổ đông hiểu được giá trị đích thực của DN cũng

như số cổ phiếu mà họ đang nắm giứ ; Ban lãnh đạo được lựa chọn với những điều

kiện rõ ràng, thì CPH sẽ phát huy hết tác đụng của nó, mang lại lợi ích cho nhà nước

và tập thể CBCNV của doanh nghiệp. Còn nếu không thì những sự việc xảy như ở

CTCP Tràng Tiền sẽ còn tiếp diễn là điều không tránh khỏi.

Phần IV: Kiến nghị và đề xuất giảI quyết

Hiện nay, tốc độ cổ phần hoá các DNNN của nước ta đang còn tương đối chậm

Do vậy để thúc đẩy mạnh mẽ và vững chắc tiến trình CPHDNNN trong thời gian

tới,một mặt chúng ta phảI tích cực tạo ra các điều kiện khách quan về kinh tế, mặt

khác còn phảI coi trọng nhân tố chủ quan trong việc đề ra và thực hiện các giảI pháp

về chế độ, chính sách và biện pháp triển khai.Cụ thể:

Khẩn trương sửa đổi, bổ sung các văn bản qui chế hiện hành tạo điều hiện cho

các DN tiến hành CPH. Hiện nay, nhà nước đang tiến hành triển khai CPH chủ yếu

trên cơ sở Nghị định 44/1998/NĐ- CP ngày 19/06/1998. Đây là nghị định được ban

hành đầy đủ nhất, có hệ thống mục tiêu, yêu cầu, đối tượng, đến phương thức tiến

hành, chế độ đối với người lao động trong các DNCPH

Từ kinh nghiệm của một số nước và rà soát lại các văn bản, qui chế về CHH đã

ban hành để xây dựng một hệ thống các văn bản pháp qui đầy đủ và đồng bộ tạo điều

kiện thuận lợi cho các DN trong quá trình CPH cần phảI sửa đổi và bổ sung:

1. Quyền được mua cổ phần lần đầu khi tiến hành cổ phần hoá.

Chính phủ có ba qui định cụ thể đối với 3 loại DN: Loại DN mà nhà nước nắm

cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt mà pháp nhân chỉ có quyền mua tối đa không quá

10% và cá nhân có quyền mua tối đa không quá 5% vốn điều lệ ; Loại DN mà nhà

nước không nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì mỗi pháp nhân được mua

không quá 20% và cá nhân được mua không quá 10% vồn điều lệ ; Loại DN mà nhà

nước không tham gia cổ phần không hạn chế số lượng cổ phần

Nhưng theo Bộ TàI chính hướng dẫn vấn đề tàI chính khi DNNN chuyển thành

CTCP thì cổ phần chi phối của nhà nước là loại cổ phần phảI đáp ứng một trong hai

tiêu chuẩn sau: 1/ Cổ phần nhà nước chiếm 50% tổng số cổ phần của công ty 2/Cổ

phần nhà nước ít nhất gấp 2 lần cổ phần của cổ đông lớn nhất trong công ty

Với cách giảI thích này chưa rõ ràng: Ơ đây người ta có thể hiểu theo 2 cách

sau: 1/ Nhà nước qui định số cổ phần mà mình giữ lại(chẳng hạn 40%) trong khi đó

cổ đông được phần mua cổ phần nhiều nhất không quá 1/2 số cổ phần của nhà nước.

Vậy là số cổ phần mà cổ đông lớn nhất mua có thể lớn hơn so với mức qui định của

NĐ 44/ 1998(10%); 2/ Nhà nước cho phép các pháp nhân, cá nhân đăng ký mua cổ

phần trước rồi mới xác định mức cổ phần mà mình cần giữ lại để chi phối doanh

nghiệp. Với cách này sẽ gây tình trạng bị động, lúng túng.

Như vậy cần sửa đổi theo cách sau: Đối với những DN mà nhà nước không nắm

giữ cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, hoặc không có cổ phần thì cần xoá bỏ sự

khống chế khi các nhà đầu tư bên ngoàI tham gia mua cổ phầnDNNN.Tuy nhiên vẫn

phảI ưu tiên để người lao động trong Doanh nghiệp có cổ phần. Sửa đổi như vậy sẽ

tạo được sự nhất quán trong các văn bản,qui chế cho CPHDNNN

2. Mở rộng hình thức CPH

NĐ 44/1998/NĐ-CP qui định 4 hình thức cổ phần hoá. Nhưng trên thực tế các

DNNN đã cổ phần hoá mới chủ yếu áp dụng hình thức bán phần vốn hiện có của nhà

nước trong các DN nên chưa có tác động trong đổi mới công nghệ, mở rộng qui mô

kinh doanh của doanh nghiệp. Vì vậy cần mở rộng hình thức phát hành cổ phiếu gọi

thêm vốn cổ phần để mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp Trừ

trường hợp DN mà nhà nước nắm cổ phần chi phối, cổ phần đặc biệt, còn các DN

khác thuộc diện CPH có thể áp dụng chế độ bán toàn bộ tàI sản của nhà nước cho nhà

đầu tư.

NgoàI ra còn áp dụng các hình thức khác như: thành lập CTCP mới trên cơ sở

một DNNN hiện có làm sáng lập viên, bán cổ phàn cho các cán bộ trong và ngoai

DN, kể cả cho các DN khác và hợp tác xã cổ phần

Cho phép các CTCP phát hành tráI phiếu để thu hút vốn phát triển doanh

nghiệp

Khi có thị trường chứng khoán cần khuyến khích DN đã CPH tham gia vào thị

trường chứng khoán và tham gia vào quỹ đầu tư chứng khoán mở rộng hình thức huy

động vốn để phát triển DN

3. Phương pháp định giá DN cần linh hoạt hơn

Những tàI sản mà DN không cần sử dụng thì phảI sử lý kịp thời, không ép doanh

nghiệp phảI đưa vào giá trị doanh nghiệp cổ phần hoá.Trong quá trính xác định giá trị

doanh nghiệp, cần có nhiều biện pháp để so sánh sao cho gắn với thị trường.Việc nghiên

cứa đưa giá trị quyền sử dụng đất vào giá trị của DN cần phảI trảI qua bước thí điểm,

phu hợp với tình hình thực tế.

4. Sớm ban hành triển khai nhanh việc phân cấp,quản lý,sắp xếp và tổ chức

lạiDN

Theo đó Thứ nhất Chủ tịch UBND được quyền quyết định CPH ;giao bán

khoán, cho thuê và sắp xếp , đổi mới với các DN thuộc quyền quản lý của UBND.

TP ; Việc xác định giá trị thực tế của công ty được cổ phần hoá nhiều trường hợp

không phảI xin ý kiến của Bộ TàI chính. Thứ hai: khi quyết định chuyển đổi DN có

vốn trên 10 tỷ đồng thành CTCP, UBND. TP cũng được toàn quyền quyết định

không phảI trình Thủ tướng. Thứ ba : giao, bán, khoán DNNN từ 1-5 tỷ cũng do

UBND quyết định.

5. Đơn giản qui trình CPH

Qua các lần sủa đổi ngày 29/8/1998 Ban dổi mới DNTW đã hướng dần qui

trình chuyển DNNN thành CTCP ban hành kèm theoCông văn số3395/VPCP–

ĐMDN

Nội dung gồm 4 bước: Song xét thấy không cần thiết phảI áp dụng lần

lượt và đầy đủ các bước trên. Chỉ những DN nào mà nhà nước nắm giữ cổ

phần chi phối, cổ phần đặc biệt thì mới phải lập phương án cụ thể chi tiết

CPH còn những doanh nghiệp mà nhà nước không nắm giữ cổ phần chi phối ,

cổ phần đặc biệt hoặc không có cổ phần thì cần xác định số lượng lao động

cần giữ lại sau khi cổ phần hoá. Những vấn đề khác như lập phương án kinh

doanh; phương án sản xuất ; tổ chức quản lý sẽ do Hội đồng quản trị quyết

định.

Kết luận

Trong cơ chế đổi mới toàn diện nền kinh tế, đổi mới khu vực kinh tế nhà nước

đóng vai trò quyết định. Đổi mới và sắp xếp các DNNN nhằm nâng cao hiệu quả sản

xuất kinh doanh, tăng sức cạnh tranh trên thị trường.

Trong thời qian qua, Đảng ta đã ban hành nhiều chủ trương,nghị định tập trung

vào việc đổi mới và sắp xếp lại các DNNN trong đó chủ trương CPHDNNN được coi

là giảI pháp có ưu thế trên nhiều mặt. Nó không chỉ là sự bắt kịp xu hướng chung của

thế giói, mà còn đáp ứng kịp thời đòi hỏi bức bách của cuộc sống hiện nay. Việc lựa

chọn giảI pháp này, không phảI là để tìm kiếm các hình thức sở hữu khác nhau,

không phảI là để tư nhân hóa nhằm giảm bớt vai trò của kinh tế nhà nước mà là một

quá trình đổi mới thực sự để các DNNN làm tốt vai trò chủ đạo tối cần thiết hướng

nền kinh teed nhiếu thành phần phát triển theo mục tiêu dân giàu, nước mạnh,xã hội

công bằng, văn minh.

Mặc dù hiện nay tốc độ CPHDNNN còn đang rất chậm, nguyên nhân là do:cơ

chế pháp lý chưa rõ ràng và nhận thức của một số giám đốc chưa đúng hoặc sợ mất

quỳên lợi khi chuyển đổi sở hữu. Thiết nghĩ trong thời gian tới, Đảng và nhà nước ta

cần sớm đưa ra nhiều biện pháp tối ưu hơn nữa để đẩy nhanh tốc độ cổ phần hoá,

hoàn thành các mục tiêu đề ra.

Mục lục

Trang

Lời mở đầu ........................................................................................................ 1

Phần I: Một số vấn đề lý luận và ý nghĩa thực tiễn của cổ phần hoá một số

Doanh nghiệp nhà nước Việt Nam hiện nay .................................................... 4

1. Thực chất của cổ phần hoá một số Doanh nghiệp nhà nước .................... 4

2 Cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là sự chọn lựa tất yếu .................... 5

3. Cổ phẩn hoá các doanh nghiệp nhà nước – giảI pháp quan trọng, cơ bản trong

việc đổi mới và tổ chức lại các doanh nghiệp nhà nước. ........................ 6

Phần II: Những qui định pháp luật liên quan tới cổ phần hoá một số doanh

nghiệp Nhà nước .............................................................................................. 9

1. Những cơ chế, chính sách đã được ban hành .......................................... 9

2. Những kết quả tích cực đã đạt được...................................................... 10

2.1. Đối tượng cổ phần hoá ................................................................... 10

2.2. Hình thức cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước .............................. 10

2.3. Thẩm quyền lựa chọn và quyết định cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước

....................................................................................................... 11

2.4. Thẩm quyền xác định giá trị doanh nghiệp ..................................... 11

2.5. Nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp ....................................... 12

2.6. Trình tự, thủ tục chuyển doanh nghiệp nhà nước thành công ty cổ phần

....................................................................................................... 12

Phần III: Thực trạng và bàI học kinh nghiệm từ công ty cổ phần Tràng Tiền

sau khi chuyển từ doanh nghiệp nhà nước sang doanh nghiệp cổ phần ...... 13

1 Thực trạng ................................................................................................. 13

2. Những bàI học kinh nghiệm quí báu ..................................................... 15

Phần IV: Kiến nghị và đề xuất giảI quyết ..................................................... 17

1. Quyền được mua cổ phần lần đầu khi tiến hành cổ phần hoá. ......... 17

2. Mở rộng hình thức CPH ................................................................. 18

3. Phương pháp định giá DN cần linh hoạt hơn .................................. 18

4. Sớm ban hành triển khai nhanh việc phân cấp,quản lý,sắp xếp và tổ chức

lạiDN ............................................................................................. 19

5. Đơn giản qui trình CPH ................................................................. 19

Kết luận ........................................................................................................... 19