
26
Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
© Học viện Ngân hàng
ISSN 3030 - 4199
Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng
thực nghiệm từ các công ty niêm yết trên thị trường
chứng khoán Mỹ
Ngày nhận: 24/06/2024 Ngày nhận bản sửa: 21/02/2025 Ngày duyệt đăng: 03/03/2025
Tóm tắt: Hành vi “tẩy xanh” đang ngày càng phổ biến trên thị trường tài chính
nhằm cường điệu hóa kết quả hoạt động môi trường, xã hội, quản trị (ESG) của
doanh nghiệp, khiến các khách hàng và nhà đầu tư đưa ra các quyết định sai
lầm đi ngược lại với kỳ vọng về xu hướng tiêu dùng và đầu tư “xanh”. Mục tiêu
của bài nghiên cứu là hệ thống hoá cơ sở luận và nhận diện hành vi tẩy xanh
của các doanh nghiệp bằng phương pháp thống kê mô tả, đồng thời dưới góc
nhìn tài chính và quản trị, làm rõ đặc điểm của các doanh nghiệp có xu hướng
thực hiện hành vi tẩy xanh thông qua phân tích định lượng trên mẫu nghiên
cứu là 3.149 doanh nghiệp Mỹ niêm yết trong giai đoạn 2009-2018. Kết quả
Theoretical framework of greenwashing and empirical evidence from listed companies on the
U.S. Stock Market
Abstract: "Greenwashing" behaviors are increasingly prevalent in the financial market, where businesses
exaggerate their environmental, social and governane (ESG) performance. That leads to erroneous
decisions and for consumers and investors, contradicting their expectations towards “green” consumption
and investments. The main objective of this study is to systematize theoretical foundations and identify
greenwashing behaviors using descriptive statistical methods. Additionally, from a corporate financial and
governance perspective, the study aims to clarify the characteristics of businesses that tend to engage
in greenwashing through a quantitative analysis based on a sample of 3,149 US listed companies during
the period of 2009-2018. The research findings contribute to the limited body of empirical studies on
greenwashing, providing an overview of the extent of greenwashing behavior across economic sectors
and corporate financial and governance criteria. Furthermore, it highlights the role of legal regulations and
corporate governance in preventing greenwashing. These recommendations are valuable for regulatory
agencies, corporate managers, and other stakeholders in promoting substantive ESG practices towards the
sustainable development.
Keywords: Greenwashing, Green highlighting, Environmental- Social- Governance (ESG), Selective
disclosure, Misleading disclosure, Corporate governance, Financial market
Doi: 10.59276/JELB.2025.03.2777
Tran, Thi Xuan Anh1, Dao, Hong Nhung2, Tran, Anh Tuan3
Email: anhttx@hvnh.edu.vn1, nhungdh@hvnh.edu.vn2, trantuan@hvnh.edu.vn3
Organization of all: Banking Academy of Vietnam
Trần Thị Xuân Anh, Đào Hồng Nhung, Trần Anh Tuấn
Học viện Ngân hàng, Việt Nam

TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN
27
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
nghiên cứu đóng góp vào tập hợp rất ít các nghiên cứu thực nghiệm một bức
tranh tổng thể về mức độ thực hiện hành vi tẩy xanh theo ngành, lĩnh vực kinh
tế và các tiêu chí về tài chính và quản trị, đồng thời nhấn mạnh vai trò của các
quy định pháp lý và quản trị doanh nghiệp trong việc ngăn chặn hành vi tẩy
xanh. Đây là những khuyến nghị hữu ích cho các cơ quan quản lý, nhà quản trị
doanh nghiệp và các bên liên quan trong nỗ lực thúc đẩy hoạt động ESG thực
chất hướng tới phát triển bền vững.
Từ khóa: Tẩy xanh, Nhuộm xanh, Môi trường-Xã hội-Quản trị (ESG), Công bố
thông tin có chọn lọc, Công bố thông tin sai lệch, Quản trị doanh nghiệp, Thị
trường tài chính
nhiều doanh nghiệp có xu hướng thực hiện
các hành vi “Tẩy xanh- Greenwashing”
nhằm đưa ra các công bố ESG không đúng
với thực tế hoạt động, không mang lại hiệu
quả như doanh nghiệp công bố, hoặc có
thể các công bố này phần nào gây hiểu lầm
hoặc che lấp sự thật về ảnh hưởng tiêu cực
của doanh nghiệp đến môi trường dưới góc
nhìn của những người sử dụng thông tin.
Động lực của hành vi tẩy xanh là các doanh
nghiệp có thể nâng cao danh tiếng của mình
về trách nhiệm xã hội và môi trường, đồng
thời nâng cao hiệu quả tài chính của mình
bằng cách thu hút nhiều khách hàng và nhà
đầu tư có ý thức về môi trường hơn. Do
đó, “tẩy xanh” chỉ là một chiến lược tiếp
thị chứ không phải là một nỗ lực phát triển
bền vững nên rủi ro mà nhà đầu tư và các
bên liên quan phải đối mặt rất lớn. Điều
này vô hình chung đi ngược lại với sự kỳ
vọng của nhà đầu tư về ảnh hưởng tích cực
của ESG trong việc hỗ trợ doanh nghiệp
nhận diện và giảm thiểu các nguy cơ rủi
ro để hướng tới phát triển bền vững. Các
nghiên cứu trước về “tẩy xanh” tập trung
vào các phân tích định tính về bản chất,
phân loại, xu hướng của “tẩy xanh” trong
một số ngành nghề, lĩnh vực cụ thể (De
Freitas Netto và cộng sự, 2020; Gatti và
cộng sự, 2019; Montero-Navarro và cộng
sự, 2021; Yang và cộng sự, 2020). Có rất ít
1. Đặt vấn đề
Môi trường, Xã hội và Quản trị (ESG-
Enviromental, Social, Governance) được
xem là chiến lược quan trọng nhằm mục
tiêu hướng tới phát triển bền vững doanh
nghiệp, đồng thời đóng góp vào sự thành
công chung của mục tiêu bảo vệ môi
trường và cam kết chống biến đổi khí
hậu quốc gia. Các chiến lược về ESG của
doanh nghiệp cũng được các nhà đầu tư và
các bên liên quan quan tâm khi đánh giá
hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp. Một
doanh nghiệp có các tuyên bố, cam kết
mạnh mẽ về ESG sẽ góp phần nâng cao
vị thế, uy tín và trách nhiệm của mình, và
đứng trên góc độ tài chính, đây có thể xem
là một lợi thế cạnh tranh của doanh nghiệp
trên thị trường, tạo cơ hội để doanh nghiệp
gia tăng khả năng tiêu thụ sản phẩm và thu
hút nguồn lực từ các bên liên quan. Do vậy,
các doanh nghiệp trong thời gian gần đây
rất chú trọng vào việc đầu tư và đưa ra các
công bố về ESG nhằm đạt được mục tiêu
kinh doanh và tài chính của mình. Báo cáo
PwC (2022) dự đoán đầu tư ESG toàn cầu
sẽ tăng đáng kể lên 33,9 nghìn tỷ USD vào
năm 2026, chiếm 21,5% tài sản được quản
lý. Nói cách khác, trong số 100 USD đầu
tư thì có 21,5 USD sẽ liên quan đến ESG.
Tuy nhiên, cũng do tính cấp thiết của ESG,

Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Mỹ
28 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
nghiên cứu định lượng về “tẩy xanh”, trong
đó tập trung đánh giá ảnh hưởng của “tẩy
xanh” đến giá trị doanh nghiệp và lợi ích
của các bên liên quan (Du, 2015; Guo và
cộng sự (2017); Huang và cộng sự, 2020;
Lyon và Maxwell, 2011; Mahoney và cộng
sự (2013); Walker & Wan, 2012).
Bài nghiên cứu sẽ hệ thống hóa cơ sở luận
và cách thức nhận diện hành vi tẩy xanh
của các doanh nghiệp, đồng thời làm rõ đặc
điểm ngành lĩnh vực kinh doanh, tài chính
và quản trị của các doanh nghiệp có xu
hướng thực hiện hành vi tẩy xanh. Phương
pháp nghiên cứu chủ yếu được sử dụng là
tổng hợp tài liệu để làm rõ cơ sở lý luận về
hành vi tẩy xanh và phân tích định lượng
trên mẫu nghiên cứu 3.149 doanh nghiệp
Mỹ trong giai đoạn 2009-2018. Kết quả
nghiên cứu đóng góp vào tập hợp rất ít các
nghiên cứu thực nghiệm về tẩy xanh bức
tranh tổng quan về mức độ thực hiện hành
vi tẩy xanh theo ngành, lĩnh vực kinh tế và
các tiêu chí về tài chính và quản trị đồng
thời nhấn mạnh vai trò của các quy định
pháp lý, quản trị doanh nghiệp trong việc
trong việc ngăn chặn hành vi tẩy xanh. Đây
được xem là những khuyến nghị hữu ích
cho các cơ quan quản lý, nhà quản trị doanh
nghiệp cũng như các bên liên quan trong
những nỗ lực thúc đẩy hoạt động ESG thực
chất hướng tới phát triển bền vững.
Ngoài phần đặt vấn đề, bài nghiên cứu
được kết cấu thành các phần chính: Cơ
sở lý luận và tổng quan nghiên cứu, dữ
liệu và phương pháp nghiên cứu, kết quả
nghiên cứu và thảo luận, kết luận và một số
khuyến nghị.
2. Cơ sở lý luận và tổng quan nghiên cứu
2.1. Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh
Thuật ngữ “Greenwashing” (Tẩy xanh)
được sử dụng đầu tiên trong nghiên cứu
của nhà môi trường người Mỹ Westervelt
(1986), trong đó tác giả luận giải các “Chính
sách xanh- Green policy” mà các khách sạn
công bố qua việc tái sử dụng khăn tắm về
bản chất chỉ nhằm cắt giảm chi phí chứ
không hướng đến mục tiêu vì môi trường.
Thuật ngữ này cũng được đưa vào từ điển
Oxford năm 1999 với hàm ý “tẩy xanh” là
hành vi công bố thông tin sai lệch, không
có căn cứ hoặc cố ý gây nhầm lẫn của một
tổ chức nhằm thể hiện hình ảnh trước cộng
đồng về trách nhiệm đối với môi trường.
Từ điển Cambridge định nghĩa “tẩy xanh”
là hoạt động tiếp thị được thiết kế cho một
doanh nghiệp hoặc tổ chức để công chúng
tin rằng doanh nghiệp hoặc tổ chức đó có
vẻ thân thiện với môi trường trong khi thực
tế ngược lại. Hành vi này tạo ra ảo tưởng
về trách nhiệm môi trường, gây hiểu lầm vì
doanh nghiệp/ tổ chức đó tự định vị mình
là “xanh” hơn thực tế. Việc lạm dụng “tẩy
xanh” không mang lại bất kỳ hiệu quả nào
liên quan đến bảo vệ môi trường, bao gồm
cả việc giảm phát thải khí nhà kính. Đây là
lý do tại sao “tẩy xanh” thường được các tổ
chức phi chính phủ sử dụng để tố cáo việc
các công ty đưa ra các quan ngại về môi
trường trong khi các hoạt động và thực tiễn
của họ lại chứng minh điều ngược lại (De
Freitas Netto và cộng sự, 2020). Như vậy,
xét về bản chất, hành vi “tẩy xanh” là điểm
giao nhau, kết hợp của hai hoạt động trong
cùng một doanh nghiệp: Hoạt động môi
trường kém trên thực tế song hành cùng
với quảng bá tích cực về hoạt động môi
trường trên truyền thông. Nghiên cứu của
Delmas và Burbano (2011) đã xây dựng
ma trận về mối liên hệ giữa kết quả hoạt
động môi trường (trên thực tế) với cách
doanh nghiệp truyền thông về vấn đề này
dưới góc độ “tẩy xanh” (Bảng 1).
Xét dưới góc độ hiệu quả hoạt động môi
trường, doanh nghiệp được chia thành hai
loại: các doanh nghiệp có kết quả hoạt

TRẦN THỊ XUÂN ANH - ĐÀO HỒNG NHUNG - TRẦN ANH TUẤN
29
Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025- Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng
động môi trường tốt (green firms) và các
doanh nghiệp có kết quả hoạt động môi
trường kém (brown firms). Về vấn đề
truyền thông, với các doanh nghiệp xếp
vào nhóm có kết quả hoạt động môi trường
tốt, họ sẽ lựa chọn hoạt động truyền thông
tích cực cho kết quả này (vocal green
firms), hoặc lựa chọn giữ im lặng (silent
green firms). Với các doanh nghiệp xếp
vào nhóm gây hại cho môi trường (brown
firms), họ sẽ lựa chọn không truyền thông
(giữ im lặng) về kết quả hoạt động môi
trường kém của mình (silent brown firms)
hoặc lựa chọn truyền thông về kết quả này
theo một hướng tích cực (greenwashing
firms)- đây chính là đối tượng chính được
cho là thực hiện hành vi tẩy xanh. Đặc biệt,
ma trận này cũng lý giải nguyên nhân vì
sao số lượng các doanh nghiệp bị cáo buộc
thực hiện hành vi tẩy xanh (greenwashing
firms) ngày càng tăng, xuất phát từ hai con
đường chính: (i) các doanh nghiệp gây hại
với môi trường (silent brown firms) có xu
hướng đẩy mạnh truyền thông tốt về hình
ảnh công ty để che lấp các kết quả yếu kém
của mình; (ii) các doanh nghiệp đã có lịch
sử truyền thông tích cực (vocal green firms)
sẽ duy trì cách thức truyền thông này cho
dù kết quả hoạt động môi trường của họ trở
nên kém đi (chuyển từ trạng thái tốt sang
kém) (Delmas & Burbano, 2011).
Các lý thuyết nền chính cung cấp một
khung lý luận để hiểu rõ động cơ và chiến
lược đằng sau hành vi tẩy xanh bao gồm
Lý thuyết về tính chính danh (Legitimacy
theory), Lý thuyết các bên liên quan
(Stakeholder theory), Lý thuyết tín hiệu
(Signal theory), Lý thuyết cạnh tranh
hướng tới lợi ích xã hội (Competitive
altrusim theory). Lý thuyết về tính chính
danh cho rằng các tổ chức tìm kiếm sự công
nhận từ xã hội bằng cách điều chỉnh hành
vi theo các chuẩn mực và kỳ vọng xã hội,
đôi khi sử dụng các tuyên bố ESG không
thực chất (superficial ESG) để duy trì tính
chính danh (Lee & Raschke, 2023; Li và
cộng sự, 2023; Oliver, 1991). Lý thuyết
các bên liên quan nhấn mạnh trách nhiệm
của doanh nghiệp trong việc đáp ứng mối
quan tâm của các bên liên quan, trong đó
các hành động ESG mang tính biểu tượng
có thể được sử dụng để xoa dịu áp lực từ
bên ngoài mà không tạo ra thay đổi thực
chất (Schons, 2016). Dưới góc nhìn của
Lý thuyết tín hiệu, doanh nghiệp công bố
thông tin liên quan đến ESG một cách chiến
lược nhằm truyền đi thông điệp về hiệu quả
phát triển bền vững của doanh nghiệp, tuy
nhiên hành vi tẩy xanh xuất hiện khi các
tín hiệu này mang tính sai lệch hoặc gây
hiểu lầm (Li và cộng sự, 2023). Lý thuyết
cạnh tranh hướng tới lợi ích xã hội chỉ ra
rằng các doanh nghiệp có thể tham gia vào
các hoạt động ESG không chỉ vì mục tiêu
tạo ra giá trị chung cho xã hội mà còn để
nâng cao hình ảnh, uy tín và vị thế cạnh
tranh trên thị trường, dẫn tới những hoạt
động này đôi khi chỉ mang tính chất biểu
Bảng 1. Mối quan hệ giữa kết quả hoạt động môi trường thực tế và “Tẩy xanh”
Truyền thông về
kết quả hoạt động
môi trường
Truyền thông
tích cực
Hành vi Tẩy xanh
(Greenwashing firms)
Hoạt động môi trường tốt
và truyền thông tích cực
(Vocal green firms)
Không truyền
thông
Hoạt động môi trường kém và
không truyền thông
(Silent Brown firms)
Hoạt động môi trường tốt và
không truyền thông
(Silent green firms)
Kém (Brown firms)
Tốt (Green firms)
Kết quả hoạt động môi trường
Nguồn: Delmas và Burbano (2011)

Cơ sở lý luận về hành vi tẩy xanh và bằng chứng thực nghiệm từ các công ty niêm yết
trên thị trường chứng khoán Mỹ
30 Tạp chí Kinh tế - Luật & Ngân hàng- Số 275- Năm thứ 27 (3)- Tháng 3. 2025
tượng (Barclay, 2004; Hardy & Van Vugt,
2006). Tóm lại các lý thuyết nền đều đồng
quan điểm cho rằng động cơ của hành vi
tẩy xanh của doanh nghiệp là mong muốn
sự công nhận từ xã hội và các bên liên quan
thông qua việc công bố các thông tin liên
quan đến ESG (mặc dù các thông tin này
có thể không thực chất, mang tính biểu
tượng).
Hành vi “tẩy xanh” có thể được nhận diện
bằng nhiều phương thức khác nhau, nghiên
cứu của Bernini và La Rosa (2023) đã đưa
ra một số cách thức từ góc độ công bố
thông tin như sau:
(1) Công bố thông tin có chọn lọc (selective
disclosure)
Công ty lựa chọn chỉ công bố các thông tin
tích cực về kết quả hoạt động môi trường
của mình mà không cung cấp đầy đủ thông
tin về những điểm hạn chế, các hành vi tiêu
cực có thể gây hại đến môi trường dẫn tới
cường điệu hóa hình ảnh tốt đẹp về công
ty. Việc này dẫn tới việc công bố thông tin
không đầy đủ, gây bất cân xứng thông tin
trong hoạt động truyền thông về môi trường
của công ty (Lyon & Maxwell, 2011).
Ví dụ điển hình cho hành vi tẩy xanh liên
quan đến tập đoàn Nesle vào năm 2002. Tập
đoàn này ra mắt công chúng sản phẩm nước
đóng chai mang nhãn liệu Pure Life với
khẩu hiệu truyền thông: “Nước đóng chai
là sản phẩm tiêu dùng có trách nhiệm với
môi trường nhất trên thế giới. Nestle Pure
Life là một sự lựa chọn thân thiện với môi
trường và có lợi có sức khỏe” (Hills, 2008).
Sản phẩm được kỳ vọng góp phần hạn chế
rác thải ra môi trường thông qua việc có thể
tái chế, đồng thời có thể tránh các rủi ro sụt
lún địa hình địa chất, gây hại môi trường do
hoạt động khai thác nước ngầm.
Hành vi tẩy xanh của công ty nằm ở chỗ
việc truyền thông sản phẩm đang tập trung
vào các mặt tích cực đó là việc các chai
nhựa sẽ được tái chế. Tuy nhiên thông tin
về tỷ lệ tái chế thì nhà sản xuất không công
bố hoặc cố tình bỏ qua. Một lượng nhỏ chai
nhựa được tái chế, còn phần lớn sẽ được xả
ra bên ngoài môi trường tự nhiên trở thành
rác thải tiêu dùng. Doanh nghiệp cũng
không đề cập đến quy trình sản xuất sẽ cần
đến các nhiên liệu hóa thạch là dầu, khí tự
nhiên ảnh hưởng lớn đến hoạt động phát
thải của mình.
(2) Công bố thông tin dễ gây hiểu lầm
(misleading disclosure)
Hành vi tẩy xanh loại này xuất phát từ việc
công bố thông tin sai sự thật, không trung
thực, dễ gây hiểu lầm về các hoạt động môi
trường, xã hội của công ty. Đây được coi là
một hành vi gian lận, các công bố thông tin
dễ gây hiểu lầm này tạo ra nhận thức và trải
nghiệm sai lệch về hoạt động môi trường
của công ty cho các bên liên quan.
Năm 2005, tập đoàn Honda lần đầu công
bố mẫu xe sử dụng động cơ Hybrid với kỳ
vọng tiết kiệm nhiên liệu và cải thiện công
suất hoạt động: Honda cho biết người lái
xe không cần phải sử dụng các kỹ năng lái
xe đặc biệt để nâng cao hiệu quả sử dụng
nhiên liệu, hãy lái Honda Civic Hybrid
như những chiếc xe truyền thống khác, và
dòng xe này sẽ chỉ mức tiêu hao 49- 50
dặm/gallon (Lane, 2010). Những thông
tin quảng cáo này là nguyên nhân của vụ
kiện liên quan đến hiệu năng tiêu thụ của
mẫu xe Civic Hybrid. Thực tế đo lường chỉ
ra rằng với 1gallon xăng di chuyển trong
thành phố thì chiếc xe đi được khoảng 26
dặm, mức tiết kiệm nhiên liệu chỉ bằng một
nửa so với công bố từ hãng Honda. Theo
như nhân viên kỹ thuật của Honda, để đạt
được mức tiêu hao 50 dặm/gallon, người
lái xe cần có kỹ năng tốt và di chuyển trên
đường cao tốc, còn nếu di chuyển trong nội
đô với việc dừng đỗ tại các nơi giao cắt
có đèn giao thông thì không thể đạt được
trạng thái đó (Lane, 2010). Như vậy, trong
trường hợp này hãng xe Honda đã công bố

