
Đánh giá hiện trạng chất lượng nước mặt tại cửa thoát nước khu vực An Tây (AT) và nước sông Sài Gòn tại cầu Phú Cường (TDM)
lượt xem 1
download

Đánh giá chất lượng nước thải và nguồn tiếp nhận nước thải trên cơ sở khảo sát thực nghiệm hiện trạng chất lượng nước mặt tại 2 vị trí cửa xả An Tây và nước mặt sông Sài Gòn tại cầu Phú Cường giai đoạn 2016 - 2021. Công tác quan trắc, lấy mẫu nước mặt nước được thực hiện hàng tháng tại điểm nghiên cứu. Chất lượng nước mặt tại cửa xả ở An Tây bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp khu vực lân cận.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đánh giá hiện trạng chất lượng nước mặt tại cửa thoát nước khu vực An Tây (AT) và nước sông Sài Gòn tại cầu Phú Cường (TDM)
- ĐÁNH GIÁ HIỆN TRẠNG CHẤT LƯỢNG NƯỚC MẶT TẠI CỬA THOÁT NƯỚC KHU VỰC AN TÂY (AT) VÀ NƯỚC SÔNG SÀI GÒN TẠI CẦU PHÚ CƯỜNG (TDM) Nguyễn Văn Tiến1, Nguyễn Thị Bích Trâm2 1. Lớp CH21MT01, Trường Đại học Thủ Dầu Một; 2. Trường Đại học Thủ Dầu Một TÓM TẮT Đánh giá chất lượng nước thải và nguồn tiếp nhận nước thải trên cơ sở khảo sát thực nghiệm hiện trạng chất lượng nước mặt tại 2 vị trí cửa xả An Tây và nước mặt sông Sài Gòn tại cầu Phú Cường giai đoạn 2016 - 2021. Công tác quan trắc, lấy mẫu nước mặt nước được thực hiện hàng tháng tại điểm nghiên cứu. Chất lượng nước mặt tại cửa xả ở An Tây bị ảnh hưởng nghiêm trọng bởi nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp khu vực lân cận. Kết quả khảo sát cho thấy, chất lượng nước mặt tại cửa xả An Tây bị ô nhiễm cao và bất thường. Tại điểm khảo sát trên sông Sài Gòn, các chỉ tiêu khảo sát ít biến động nhưng đôi khi vẫn vượt quy chuẩn ở một số chỉ tiêu nghiên cứu, đặc biệt là chỉ tiêu kim loại nặng. Kiểm soát nguồn thải hiện nay là vấn đề nhức nhối tại các địa phương phát triển sản xuất công nghiệp cũng như các vùng lân cận chịu ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp. Nguồn ô nhiễm này ngày càng lan rộng ở các vùng sông nước. Từ khóa: Kim loại nặng, nước uống, sông Sài Gòn. 1. GIỚI THIỆU Ô nhiễm nước bắt nguồn từ nhiều nguồn và nguyên nhân khác nhau. Sông ngòi chỉ thể khả năng phục hồi đối với tác động của một số chất ô nhiễm trong một định mức nhất định. Về lâu dài, sông ngòi có rất ít khả năng chống lại tác động của ô nhiễm trong nước. Các chất ô nhiễm vào môi trường nước sẽ bị tích luỹ và tăng dần nồng độ dẫn đến suy thoái môi trường. Việc tiếp tục thải ra nước thải và nước thải công nghiệp tiếp tục là một mối đe dọa nghiêm trọng đối với các nguồn nước tiếp nhận, gây ra hậu quả trên diện rộng và lâu dài. Đa số các khu vực đô thị đang phát triển đều có một số hệ thống quản lý nước thải, một số hệ thống rất hiệu quả và đáp ứng các tiêu chuẩn cho phép. Nhưng nhiều hệ thống khác lại gặp khó khăn với thiết kế kém, các vấn đề bảo trì và mở rộng bao gồm đầu tư kém vào hệ thống quản lý nước thải. Ở các cộng đồng nông thôn và nghèo thường không có bất kỳ hình thức hệ thống quản lý nước thải nào. Các chất thải từ các ngành công nghiệp quy mô lớn và nhỏ thường được chuyển đến các dòng nước mặt, điều này thường gây ô nhiễm, mất đặc tính sinh học trong hệ sinh thái thủy sinh và có thể gây nguy hiểm cho sức khỏe con người. Nước thải được xử lý kém có thể có ảnh hưởng sâu sắc đến lưu vực tiếp nhận. Các tác động độc hại có thể là cấp tính hoặc tích lũy. Các tác động cấp tính từ nước thải xả ra nói chung là do hàm lượng amoniac và clo cao, lượng vật liệu cần oxy cao, hoặc nồng độ độc hại của kim loại nặng và các chất ô nhiễm hữu cơ. Các tác động tích lũy là do sự tích tụ dần dần của các chất ô nhiễm trong nguồn nước mặt tiếp nhận, điều này chỉ trở nên rõ ràng khi vượt quá một 131
- ngưỡng nhất định (The Effects of Wastewater and How Bad It Is For the Environment - Conserve Energy Future, n.d.). Tất cả các sinh vật sống dưới nước đều có một phạm vi môi trường nhất định cho chức năng và sự tồn tại tối ưu của chúng. Do tải lượng hữu cơ của nước thải, nước thải thải ra thường góp phần vào sự thay đổi tính chất của nguồn nước tiếp nhận. Đối với nước thải chưa xử lý khi xả vào nguồn tiếp nhận, làm suy giảm oxy hòa tan (DO) trong nước bề mặt nguồn tiếp nhận. Nếu mức DO dưới 5 mg /L sẽ ảnh hưởng xấu đến hệ sinh thái thủy sinh (Morrison và nnk., 2001). Sự thay đổi tính chất của nguồn tiếp nhận nước thải không chỉ là sự thay đổi chỉ riêng DO hay pH, … mà là sự thay đổi tổng thể của nguồn tiếp nhận do sự khuếch tán, sự tích tụ hay chuyển hoá theo một cách khác. Nước mặt là một trong những hệ sinh thái bị ảnh hưởng nặng nề nhất trên trái đất, và sự thay đổi chất lượng nước do tiếp nhận nguồn thải từ quá trình sản xuất và sinh hoạt của con người đã dẫn đến suy thoái sinh thái trên diện rộng như suy giảm chất lượng và nguồn nước, mất các loài sinh vật, và thay đổi sự phân bố và cấu trúc của quần thể sinh vật dưới nước Pberdorff và nnk., 1997) do đó, làm thay đổi tính chất hóa lý và vi sinh vật của dòng nước, chế độ thủy văn, và bản chất của môi trường sống ở sông và ven sông cũng theo đó mà thay đổi theo (Poff và nnk., 1997). Tính từ hồ Dầu Tiếng về hướng Sài Gòn, sông Sài Gòn là nơi tiếp nhận nước thải từ tất cả các nguồn nước thải sinh hoạt, chăn nuôi gia súc, sản xuất nông nghiệp, sản xuất công nghiệp. Do vậy, việc kiểm soát nguồn thải vào sông Sài Gòn là một vấn đề khó khăn. Mạng lưới cấp nước cho sinh hoạt của Bình Dương, Sài Gòn đều bắt nguồn từ sông Sài Gòn. Vấn đề ô nhiễm nguồn nước cấp cho sinh hoạt sẽ càng khó khăn nếu nước thải không được thu gom và xử lý hiệu quả; và khi các kênh rạch thoát nước từ các khu vực vào sông Sài Gòn như kênh thoát nước khu vực An Tây vẫn chưa được quản lý, giám sát hiệu quả thì chất lượng nguồn nước Sông Sài Gòn sẽ càng ô nhiễm trầm trọng, gây hại cho hệ sinh thái thuỷ vực ở các tầng nước và đáy; cuộc sống con người sẽ ngày càng khó khăn. Khu vực xã An Tây, thị xã Bến Cát có tốc độ đô thị hoá nhanh do có sự tập trung phát triển công nghiệp cao, mật độ dân số tăng nhanh làm ô nhiễm nguồn nước ngầm (Thu Thảo, 2012) và nguồn nước mặt trước khi xả vào sông Sài Gòn. Mặt khác, trong đời sống sinh hoạt hàng ngày của người dân trong khu vực đã xả nước thải tự phát vào kênh rạch làm tăng ô nhiễm nguồn nước. Nguồn phát sinh nước thải tại khu vực này luôn là điều cần quan tâm và cần kiểm soát chặt chẽ. Hình 1: Cửa xả khu vực An Tây 132
- Qua tổng hợp, phân tích các kết quả được tiếp nhận từ Trung tâm quan trắc môi trường Bình Dương cho thấy các chỉ tiêu pH, EC, TDS, COD, Fe, Zn vượt quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt QCVN 08-MT:2015/BTNMT cột A (A1 và A2). Trong đó: A1 - Sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt (sau khi áp dụng xử lý thông thường), bảo tồn động thực vật thủy sinh và các mục đích khác như loại A2, B1 và B2. A2 - Dùng cho mục đích cấp nước sinh hoạt nhưng phải áp dụng công nghệ xử lý phù hợp. Với nguồn thải vượt chuẩn cho phép vẫn thường xuyên xả thải vào sông Sài Gòn. Việc thống kê các kết quả quan trắc trong những năm từ 2016 đến 2021 đối với các chỉ tiêu pH, EC, TDS, COD, Fe, Zn được tiến hành để xác định độ ô nhiễm tại cửa xả tiếp nhận nước thải vào sông Sài Gòn – Khu vực An Tây và nước mặt tại cầu Phú Cường nhằm tham khảo, nhận biết thực trạng nguồn nước mặt trên sông Sài Gòn. 2. DỮ LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Nguồn dữ liệu sử dụng Nghiên cứu sử dụng dữ liệu các kết quả quan trắc chất lượng nước mặt của sông Sài Gòn – cửa xả tại khu vực An Tây (AT) và nước mặt trên sông Sài Gòn tại điểm Cầu Phú Cường (TDM) năm 2016-2021. Kết quả quan trắc bao gồm những chỉ tiêu pH, EC, TDS, COD, Fe, Zn. Khoảng cách giữa 2 điểm: khoảng 26 km tính theo chiều dài của sông Sài Gòn. (Toạ độ: Cửa xả khu vực An Tây: 11.099150, 106.535446 . Sông Sài Gòn tại cầu Phú Cường: 10.979632, 106.640649). Hướng dòng chảy tại điểm quan trắc: Tại cửa xả tại khu vực An Tây: Dòng chảy từ các KCN và khu dân cư chảy ra sông Sài Gòn và không bị ảnh hưởng bởi triều cường của sông. Do vậy, kết quả phân tích không bị ảnh hưởng bởi sự thay đổi của nước sông. Nhưng, kết quả có thể bị ảnh hưởng theo mùa. Tại cầu Phú Cường: Chất lượng nước thay đổi qua các tháng quan trắc và chế độ nhật triều, khi triều cường giảm nhẹ thì độ đục tăng. Nhìn chung, nước sông Sài Gòn khi sử dụng cho mục đích cấp nước sinh hoạt cần phải có các biện pháp xử lý phù hợp. Tần suất quan trắc: mỗi tháng 1 lần (12 lần/năm). Quy chuẩn so sánh: QCVN 08- MT:2015/BTNMT: quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt, QCVN 40:2011/BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về nước thải công nghiệp, QCVN 38:2011/BTNMT quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về chất lượng nước mặt bảo vệ đời sống thủy sinh, QCVN 01-1:2018/BYT Chất lượng nước sạch sinh hoạt) 2.2. Phương pháp thống kê Bảng 1: Số liệu thống kê thực hiện trên phần mềm R.studio, kết quả quan trắc chất lượng nước mặt của sông Sài Gòn – cửa xả tại khu vực An Tây (AT) và nước mặt trên sông Sài Gòn tại điểm Cầu Phú Cường (TDM) năm 2016-2021. pH EC (μs/cm) TDS (mg/L) CHỈ TIÊU pH-AT pH TDM EC-AT EC TDM TDS-AT TDS TDM SL kết quả vượt chuẩn 22 1 45 7 11 1 % kết quả vượt chuẩn 30.56 1.39 62.5 9.72 15.28 1.39 COD (mg/L) Fe (mg/L) Zn (mg/L) CHỈ TIÊU COD-AT COD TDM Fe-AT Fe TDM Zn-AT Zn TDM SL kết quả vượt chuẩn 10 9 9 20 18 0 % kết quả vượt chuẩn 13.89 12.50 12.50 27.78 25.00 - 133
- Nhìn chung, các chỉ tiêu quan sát tại cửa xả nước thải khu vực An Tây đều vượt chuẩn cho phép. Ở những chỉ tiêu khác nhau, tỷ lệ % vượt so với QCVN 08-MT:2015/BTNMT, cột A1 là khác nhau. Ngoài chất thải, nước thải sinh hoạt thì các nhà máy sản xuất công nghiệp cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm nước mặt với các sản phẩm phụ rò rỉ ra hệ thống thoát nước. Vấn đề vệ sinh, xử lý chất thải cũng là nguyên nhân không kiểm soát được chất lượng nguồn thải và khi có các thay đổi về thời tiết như mưa, gió, … rác thải sinh hoạt, bụi, chất thải công nghiệp khác từ các hạ tầng đô thị, khu công nghiệp sẽ theo mưa, gió cuốn vào hệ thống thoát nước làm nguồn nước mặt. Nguồn gây ô nhiễm này rất khó quản lý và kiểm soát. Nước bị ô nhiễm chứa nhiều mầm bệnh là các vi sinh vật (E.coli, coliform) hoặc là nguyên nhân gây ra các loại bệnh khác nhau (chất vô cơ khó phân huỷ, kim loại nặng, …). Từ kết quả trên ta nhận thấy, sự ô nhiễm nguồn nước là hiện hữu, thực sự nguy hiểm khi nguồn nước sông Sài Gòn đang là nguồn cấp nước thô cho các nhà máy xử lý nước cấp, cấp cho người dân Bình Dương, Sài Gòn. Vì vậy, nguồn nước này cần được xử lý hiệu quả bằng những phương pháp kỹ thuật phù hợp, đạt chất lượng cho phép trước khi cấp vào Hệ thống cấp nước dân dụng. 3. KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Qua tổng hợp các số liệu liên quan đến các chỉ tiêu pH, EC, COD, TDS, Fe, Zn bằng biểu đồ trong khoảng thời gian khảo sát, có các giá trị biểu thị như sau: Chỉ tiêu pH Cửa xả khu vực An Tây (pH-AT) có sự biến động rất lớn về mặt giá trị (Max = 8,2; Min = 2,77), trong khi giá trị dưới cho phép là pH = 6. Sự biến động của pH có xu hướng giảm số lần vượt chuẩn. Độ pH tại cầu Phú Cường (pH TDM) tương đối ổn định. Nhưng có lúc cũng cao bất thường ở pH = 7,45. Hình 2: Biểu đồ biến động pH nước mặt tại cửa xả khu vực An Tây (AT) và nước mặt trên sông Sài Gòn tại điểm Cầu Phú Cường (TDM) 134
- Ở pH = 7,45 sẽ là bình thường với nguồn nước có lưu lượng nhỏ. Tuy nhiên, sông Sài Gòn có lưu lượng trung bình vào khoảng 54 m3/s (Cổng thông tin điện tử chính phủ, 2011) nên số liệu này cao bất thường. nó phản ánh có một nguồn thải có độ pH rất cao mới xả thải vào lưu vực sông. Sự thay đổi pH môi trường nước ảnh hưởng rất lớn đến hàm lượng CO2 hoà tan trong nước. Nguồn axit phổ biến nhất trong nước là CO2 hòa tan. Do đó, càng nhiều CO2 trong nước, độ pH càng giảm và ngược lại. Phản ứng như sau: CO2 (aq) + H2O ⇌ H2CO3 (aq). Độ pH sẽ giảm khi CO2 trong nước tăng. Nước có độ pH thấp có thể chứa hàm lượng kim loại nặng cao (Król và nnk., 2020), gây hư hỏng sớm cho đường ống kim loại, làm cho nước có mùi vị kim loại hoặc chua. Sự thay đổi giá trị pH của nước rất quan trọng đối với hệ sinh thái thuỷ sinh. Hầu hết các sinh vật đã thích nghi với cuộc sống trong nước có độ pH cụ thể và có thể chết nếu nó thay đổi dù chỉ một chút. Đặc biệt đối với động vật không xương sống sống dưới nước và trứng cá và cá con, chúng rất dễ nhạy cảm với sự thay đổi của pH (Chris McGann, 2022). Chỉ tiêu EC EC hay Độ dẫn điện của nước là khả năng dẫn dòng điện của nó. Muối hoặc các hóa chất khác hòa tan trong nước có thể phân hủy thành các ion tích điện dương và âm. Các ion tự do này trong nước dẫn điện, do đó độ dẫn điện của nước phụ thuộc vào nồng độ của các ion. Chỉ tiêu EC-AT tại cửa xả khu vực An Tây có sự biến động rất lớn về mặt giá trị (Max = 3.307; Min = 1,106). Sự biến động của vẫn đang xảy ra, và không có dấu hiệu giảm. EC-TDM tại cầu Phú Cường tương đối ổn định. Nước ngọt thường có EC từ 0 đến 1.500 uS/cm (Water Quality Standards, 2022). Giá trị EC không được vượt quá 400 μS /cm (Meride và Ayenew, 2006). Các kết quả EC tại cửa xả khu vực An Tây thường vượt chuẩn cho phép, điều này chỉ ra rõ ràng rằng nước ở vị trí này thường bị ion hóa mạnh và có nồng độ ion cao hơn do lượng chất rắn hòa tan lớn. Hình 3: Biểu đồ biến động chỉ tiêu EC nước mặt tại cửa xả khu vực An Tây (AT) và nước mặt trên sông Sài Gòn tại điểm Cầu Phú Cường (TDM) 135
- Chỉ tiêu TDS Chỉ tiêu TDS tại cửa xả khu vực An Tây có sự biến động rất lớn, (trong khi giá trị dưới cho phép là 1.000). Sự biến động của chỉ tiêu này vẫn đang xảy ra, và có dấu hiệu tăng dần. Chỉ tiêu TDS tại cầu Phú Cường tương đối ổn định thấp. Nhưng lại có lúc cao bất thường (1,726 mg/L; vượt chuẩn 1,726 lần). Tổng chất rắn hòa tan (TDS) bao gồm chất vô cơ muối và một lượng nhỏ chất hữu cơ hòa tan trong nước. Các thành phần chính thường là các cation canxi, magiê, natri và kali và các anion cacbonat, bicacbonat, clorua, sunphat, nitrat, … Theo quy định của WHO (Tổ chức y tế thế giới), US EPA (Cục bảo vệ môi trường Hoa Kỳ) và ở Việt Nam, hàm lượng TDS không được vượt quá 500 mg/L đối với nước ăn uống và không được vượt quá 1000 mg/L đối với nước sinh hoạt. Dựa theo số lượng tổng chất rắn hòa tan trên lít thì có thể phân thành 4 loại nước: Nước ngọt, nước lợ, nướt mặn, nước muối. TÊN LOẠI NƯỚC CHỈ SỐ TDS TRONG NƯỚC Nước ngọt (Fresh water) < 1.000 mg/L Nước lợ (Brackish water ) 1.000 - 10.000 mg/L Nước mặn (Saline water) 10.000 - 30.000 mg/L Nước muối (Brine ) > 30.000 mg/L Nếu chỉ số TDS trong nước quá cao sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sức khỏe con người. Nó sẽ mang theo những chất rắn, kim loại hòa tan trong nước vào trong cơ thể và gây ra những bệnh nguy hiểm đến con người. Tiếp theo, nó sẽ ảnh hưởng đến mùi vị của thức uống, món ăn hoặc làm cho nước có vị mặn, vị kim (Water Quality Standards, 2022). Hình 4: Biểu đồ biến động chỉ tiêu TDS nước mặt tại cửa xả khu vực An Tây (AT) và trên sông Sài Gòn tại điểm Cầu Phú Cường (TDM) Chỉ tiêu COD Chỉ tiêu COD-AT tại cửa xả khu vực An Tây có dấu hiệu giảm và ổn định nhưng vẫn luôn vượt chuẩn cho phép. COD-TDM tại cầu Phú Cường tương đối ổn định, nhưng vẫn thường vượt chuẩn cho phép. COD trung bình hàng năm là: Năm 2016: 87,17 mg/L; Năm 2017: 13,83 mg/L; Năm 2018: 11,08 mg/L; Năm 2019: 10,54 mg/L; Năm 2020: 18,17 mg/L; Năm 2021: 9 mg/L. 136
- Hình 5: Biểu đồ biến động chỉ tiêu COD nước mặt tại cửa xả khu vực An Tây (AT) và trên sông Sài Gòn tại điểm Cầu Phú Cường (TDM) COD là một thông số chất lượng nước quan trọng, nó cung cấp một chỉ số để đánh giá ảnh hưởng của nước thải thải ra môi trường tiếp nhận. Trong nước mặt, COD hầu hết liên quan đến các chất hữu cơ. Đôi khi, hàm lượng COD còn chịu ảnh hưởng bởi các i-on kim loại hoặc hàm lượng Cl- trong nước. Hàm lượng COD có trong nước thải thể hiện sự có mặt của các hợp chất gây hại tồn tại trong nước. Nếu chỉ số này càng cao thì chứng tỏ nguồn nước thải càng bị ô nhiễm nặng và ảnh hưởng cực lớn tới môi trường xung quanh. Mức COD cao hơn sẽ làm giảm mức oxy hòa tan (DO). Giảm DO có thể dẫn đến các điều kiện yếm khí, có hại cho các dạng sống thủy sinh (American Public Health Association, 1992). Chỉ tiêu Fe Chỉ tiêu Fe-AT tại cửa xả khu vực An Tây có dấu hiệu giảm nhưng, vẫn còn hiện diện ở mức vượt chuẩn cho phép. Fe-TDM tại cầu Phú Cường vẫn còn tình trạng vượt chuẩn cho phép. Số mẫu vượt chuẩn trên tổng số mẫu phân tích là 20/72 chiếm 27,78%. Trong đó, lần vượt chuẩn cao nhất là 2,36 mg/L, gấp 2,36 lần (tháng 05/2018). Hình 6: Biểu đồ biến động chỉ tiêu Fe nước mặt tại cửa xả khu vực An Tây (AT) và trên sông Sài Gòn tại điểm Cầu Phú Cường (TDM) 137
- Sắt thường thường không tan trong nước. Khả năng hòa tan trong nước của một số hợp chất sắt tăng lên ở các giá trị pH thấp hơn. Khả năng hoà tan của các hợp chất Fe là khác nhau trong một ngưỡng pH. Sắt là nhu cầu thiết yếu đối với hầu hết các sinh vật, và đóng một vai trò quan trọng trong các quá trình chuyển hoá tự nhiên. Thiếu sắt dẫn đến thiếu máu, gây mệt mỏi, đau đầu và mất tập trung. Hệ thống miễn dịch cũng bị ảnh hưởng. Ở trẻ nhỏ điều này ảnh hưởng không tốt đến sự phát triển trí não, dễ dẫn đến cáu gắt, rối loạn khả năng tập trung. Những hợp chất chứa Fe thường gây hại. Như FeCl2 và FeSO4 có thể gây ra tác dụng độc khi nồng độ vượt quá 200 mg và có thể gây tử vong cho người lớn khi dùng liều 10-50g (Abhilash và nnk, 2013). Chỉ tiêu Zn Chỉ tiêu Zn-AT tại cửa xả khu vực An Tây có dấu hiệu giảm và đạt chuẩn cho phép. Zn- TDM tại cầu Phú Cường ổn định trong chuẩn cho phép. Trong 72 lần lấy mẫu, không có mẫu vượt chuẩn. Giới hạn lớn nhất là 0,18 mg/L. Hình 7: Biểu đồ biến động chỉ tiêu Zn nước mặt tại cửa xả khu vực An Tây (AT) và trên sông Sài Gòn tại điểm Cầu Phú Cường (TDM) Mặc dù các sinh vật sống sử dụng kẽm là một yếu tố thiết yếu cần thiết cho quá trình trao đổi chất, nhưng các nghiên cứu trước đây (Lidman và nnk., 2020; Singh và nnk., 2022) đã phát hiện ra các tác động độc hại lên các sinh vật sống dưới nước. Phần lớn Zn được thải ra từ các khu sản xuất và sinh hoạt của con người, đặc biệt là các khu sản xuất công nghiệp, với những ngành nghề mà trong quy trình sản xuất có các công đoạn tẩy rửa bề mặt kim loại, xi mạ. Ngoài ra, theo “Kế hoạch bảo vệ môi trường thị xã Bến Cát giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2025” (BC KHBVMT BC, 2016). STT TÊN ĐIỂM QUAN TRẮC KÝ HIỆU 1 Cách đập Dầu Tiếng 2km SG1 2 Họng thu nước nhà máy nước TDM (gần cầu Phú Cường) SG2 3 Cách ngã 3 rạch Vĩnh Bình- sông Sài Gòn 50m về hướng hạ lưu SG3 4 Kênh thoát nước An Tây tại cửa đổ vào sông Sài Gòn RSG8 138
- Như vậy, qua công tác quan trắc chất lượng môi trường nước sông Sài Gòn giai đoạn 2012- 2016 cho thấy: chất lượng nước sông Sài Gòn đang ngày càng bị ô nhiễm hữu cơ, dinh dưỡng và có sự gia tăng về nồng độ ô nhiễm theo thời gian (đặc biệt tại kênh thoát nước An Tây tại cửa đổ vào sông Sài Gòn tiếp nhận nước thải từ các Công ty, KCN và nước thải sinh hoạt của khu dân cư khu vực lân cận KCN Rạch Bắp), cụ thể: Nồng độ DO các năm tương đối thấp dao động từ 2,3-4,3 mg/L đều thấp hơn so với QCVN 08-MT:2015/BTNMT, A2 (≤ 5 mg/L). Tuy nhiên đến nay nồng độ DO vẫn không được cải thiện. Nồng độ NH4+ dao động từ 0,16-3,5 mg/L, tại một số thời điểm vượt Quy chuẩn lên đến 81,13 lần so với QCVN 08-MT:2015/BTNMT, A2 (năm 2016). Năm 2012- 2016 nồng độ NH4+ đang có xu hướng ô nhiễm nhiều hơn. Hình 8: Biến động nồng độ DO, NH4+ trong nước mặt sông Sài Gòn tại điểm Cầu Phú Cường (TDM) Đồng thời, các kết quả phân tích cho thấy có sự chênh lệch về kết quả trong 2 mùa, cụ thể: nồng độ các chất ô nhiễm mùa mưa đều cao hơn mùa khô nguyên nhân có thể vào mùa mưa mưa cuốn theo các chất ô nhiễm trên mặt đất xuống và đồng thời có một số doanh nghiệp lợi dụng lúc mưa xả nước thải chưa qua được xử lý hoặc xử lý không đạt Quy chuẩn làm ảnh hưởng đến chất lượng nước mặt nói chung trên địa bàn Thị xã (BC KHBVMT BC, 2016). Hình 9: Biến động NH3_N, PO43- _P trên các rạch đổ ra hạ lưu sông Sài Gòn trong năm 2021 Với xu hướng phát triển công nghiệp, dịch vụ của Bình Dương nói riêng và khu vực miền Đông Nam Bộ thì hệ quả ô nhiễm từ các kênh rạch chảy ra Sông Sài Gòn là một sự tất yếu, khó kiểm soát. Theo kết quả quan trắc nước mặt một số kênh rạch chảy chảy ra sông Sài Gòn năm 2021 của Sở TNMT tỉnh Bình Dương (Qtnm-Nam-2021, 2021). Sự gia tăng ô nhiễm hữu cơ thường luôn vượt chuẩn cho phép. 139
- STT Điểm quan trắc Ký hiệu Mô tả điểm quan trắc 1 Rạch Ông Đành tại Cầu RSG3 Đánh giá chất lượng nước bị tác động bởi nước thải sinh hoạt Ông Đành của thị xã Thủ Dầu Một 2 Suối Chòm Sao tại Cầu RSG5 Đánh giá chất lượng nước bị tác động bởi nước thải từ các Bà Hai KCN Việt Hương, các doanh nghiệp gốm sứ và nước thải sinh hoạt của khu dân cư 3 Kênh Ba Bò tại cầu RSG7 Đánh giá mức độ ô nhiễm nước thải Khu công nghiệp Sóng Kênh Thần I, II, các cơ sở sản xuất ngoài khu công nghiệp và các khu dân cư vào kênh Ba Bò 4 Kênh thoát nước thải tại RSG9 Đánh giá mức độ ô nhiễm nước thải từ các Công ty, KCN và cầu ông Bố nước thải sinh hoạt của khu dân cư khu vực KCN Đồng An 1 Qua xem xét các số liệu thống kê, có thể thấy rằng hệ thống thoát nước từ các khu vực dân cư, các khu công nghiệp, thương mại – dịch vụ đang là những điểm phát sinh nguồn ô nhiễm cho các vùng tiếp nhận (sông, suối, ao hồ). Vì vậy, cần lập danh sách chặt chẽ về danh mục ngành nghề của mỗi khu, các nét đặc trưng trong quy trình sản xuất,.. để đánh giá, lựa chọn các đặc trưng gây ô nhiễm của mỗi khu vực. Từ đó, định hướng quan trắc, theo dõi các đặc trưng gây ô nhiễm chính, nâng cao hiệu quả quản lý, giảm phát thải ô nhiễm vào môi trường. Có thể phân nhóm khi đánh giá rủi ro đối với môi trường nước, phân loại tình trạng của các vùng nước và kiểm soát xả thải theo tính độc hại, đặc tính tích lũy sinh học và / hoặc tồn tại trong môi trường. Chất lượng và lưu lượng nước có thể sử dụng là mối quan tâm lớn về môi trường của nhân loại. Trong nhiều thập kỷ qua, một lượng lớn nước thải được xả vào các vùng nước mặt từ các nguồn thành phố, công nghiệp và nông nghiệp, gây ô nhiễm cả nước mặt và nước ngầm. Các nguồn ô nhiễm nguồn điểm lớn là nước thải đô thị, làm ô nhiễm các sông, cống và suối ở hạ lưu các thành phố lớn với các chất hữu cơ, chất rắn lơ lửng và chất hoạt động bề mặt, ... Nước thải công nghiệp, làm ô nhiễm nước mặt với kim loại nặng, các sản phẩm dầu, phenol và các chất độc hại khác. Vì các nguyên nhân gây suy giảm chất lượng nước là phổ biến đối với tất cả các khu vực trong một quốc gia, nên có nhiều cơ hội hợp tác để tìm kiếm các biện pháp khắc phục và các biện pháp quản lý để giải quyết vấn đề. Tất đa số các điểm quan trắc nước mặt đều vượt chuẩn PO43- _P, số lần vượt chuẩn cao nhất là 4,6 lần. Trong đó, RSG9 đều vượt ở tất cả các lần lấy mẫu trong năm. Kết quả chỉ ra rằng, kênh rạch xả nước thải ra Sông Sài Gòn đang là hiện trạng thực tế. Mức độ ô nhiễm tăng cao ở khu vực có mật độ phát triển công nghiệp và dân số cao. Trên cơ sở đó cần thúc đầy công tác quản lý và khoanh vùng khu vực sông, suối, kênh rạch ô nhiễm nặng để đề ra giải pháp khôi phục tình trạng chất lượng nước mặt trước khi xả ra sông Sài Gòn. Bảng 2: Thống kê biến động NH3_N trên các rạch đổ ra hạ lưu sông Sài Gòn trong năm 2021 QCVN 08- KÝ Th- Th- Th- Th- Th- Th- Th- Th- Th- Th- Th- Th- MT:2015/ HIỆU 1 2 3 4 5 6 7 8 9 10 11 12 BTNMT (A2) RSG3 5.3 9 6.7 7.1 5.9 4.1 0.7 0.8 3.2 4.1 5.9 1.3 0.3 cột A2 RSG5 0.8 5.5 2.1 4.5 12 2.5 0.5 0.4 2.1 1.9 4.5 2 0.3 RSG7 4.1 17 18 12 14 33 15 12 11 8.1 11 1.7 0.9 Cột B1 RSG9 11 9.4 11 8.3 6.4 6.3 14 14 8.5 6.8 8 2.7 0.9 Tất cả các điểm quan trắc nước mặt đều vượt chuẩn NH3_N, số lần vượt chuẩn từ 1,85 ÷ 39 lần. 140
- Bảng 3: Thống kê biến động PO43- _P trên các rạch đổ ra hạ lưu sông Sài Gòn trong năm 2021 QCVN 08- PO43-_P Th- 1 Th- 2 Th- 3 Th- 4 Th- 5 Th- 6 Th- 7 Th- 8 Th- 9 Th- 10 Th- 11 Th- 12 MT:2015/ BTNMT (A2) RSG3 0.02 0.92 0.16 0.31 0.22 0.17 0.45 0.28 0.52 0.33 0.16 0.1 0.2 cột RSG5 0.02 0.32 0.02 0.22 0.17 0.24 0.02 0.11 0.08 0.08 0.45 0.15 0.2 A2 RSG7 0.03 0.12 0.04 0.31 0.18 0.64 1.23 0.75 0.85 1.03 0.12 0.51 0.3 Cột RSG9 0.57 0.51 0.88 0.89 0.72 0.58 1.24 0.67 0.82 1.08 0.59 0.61 0.3 B1 Các quy định pháp luật về chất lượng môi trường và chống ô nhiễm là những biện pháp can thiệp được sử dụng rộng rãi nhất để kiểm soát và giảm thiểu ô nhiễm môi (Nghị Định 45/2022/NĐ-CP Xử Phạt vi Phạm Hành Chính Lĩnh Vực Bảo vệ Môi Trường, 2022). Việc sử dụng các biện pháp trừng phạt hình sự cũng đã hạn chế được tình trạng ô nhiễm nhưng việc thực thi các luật về môi trường này vẫn còn nhiều bất cập. Việc thực thi luật môi trường gặp phải những trở ngại lớn do ý kiến chuyên gia chưa được quan tâm đầy đủ hoặc do định kiến lấy phát triển kinh tế làm đầu, tham nhũng (Leitao, 2016; Tacconi và Williams, 2020) hoặc do hiệu quả răn đe thấp của các biện pháp trừng phạt. 4. KẾT LUẬN Kết quả nghiên cứu hiện trạng chất lượng nước mặt tại 2 điểm: cửa xã khu vực An Tây và cầu Phú Cường cho thấy sự thay đổi của các thành phần trong môi trường nước mặt có sự khác nhau giữa hai vị trí quan trắc. Nhìn chung, chất lượng nước mặt tại cửa xã khu vực An Tây 2016 – 2021 có tính phức tạp. Các thông số pH, EC, TDS, COD, Fe, Zn có hiện tượng ô nhiễm cục bộ. Do đó, cần tăng cường hơn nữa việc quản lý, kiểm soát hiệu quả nguồn thải nói trên, góp phần cải thiện tình trạng ô nhiễm nguồn nước mặt trên sông Sài Gòn. LỜI CẢM ƠN Trung tâm quan trắc tỉnh Bình Dương đã cung cấp dữ liệu. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Báo cáo tổng hợp Nhiệm vụ “Kế hoạch bảo vệ môi trường thị xã Bến Cát giai đoạn 2016-2020, tầm nhìn đến năm 2025”, http://moitruongbinhduong.gov.vn/upload/files/3_BC%20KHBVMT%20BC%20_14_12_2016.pdf 2. American Public Health Association (APHA) (1992) Standard Methods for the Examination of Water and Wastewater. 18th Edition, American Public Health Association, Washington DC. 3. Abhilash, K. P. P., Arul, J. J., & Bala, D. (2013). Fatal overdose of iron tablets in adults. Indian Journal of Critical Care Medicine : Peer-Reviewed, Official Publication of Indian Society of Critical Care Medicine, 17(5), 311–313. https://doi.org/10.4103/0972-5229.120326 4. Báo động ô nhiễm nước ngầm ở Bến Cát. (n.d.). Retrieved July 24, 2012, from https://baobinhduong.vn/bao-dong-o-nhiem-nuoc-ngam-o-ben-cat-a91020.html 5. Chemical Oxygen Demand (COD). (n.d.). Real Tech Water. Retrieved September 8, 2022, from https://realtechwater.com/parameters/chemical-oxygen-demand/ 6. Dissolved Oxygen. (n.d.). Environmental Measurement Systems. Retrieved September 3, 2022, from https://www.fondriest.com/environmental-measurements/parameters/water-quality/dissolved-oxygen/ 7. Does the total dissolved solids (TDS) affect the taste of water? | APEC Water. (n.d.). Retrieved September 8, 2022, from https://www.freedrinkingwater.com/water_quality/quality1/15-08-tds- affects-taste-of-water.htm 141
- 8. Król, A., Mizerna, K., & Bożym, M. (2020). An assessment of pH-dependent release and mobility of heavy metals from metallurgical slag. Journal of Hazardous Materials, 384, 121502. https://doi.org/10.1016/j.jhazmat.2019.121502 9. Leitao, A. (2016). Corruption and the Environment. 5(3), 5. 2016 10. Lidman, J., Jonsson, M., & Berglund, Å. M. M. (2020). The effect of lead (Pb) and zinc (Zn) contamination on aquatic insect community composition and metamorphosis. Science of The Total Environment, 734, 139406. https://doi.org/10.1016/j.scitotenv.2020.139406 11. Mebane, C. A., Schmidt, T. S., Miller, J. L., & Balistrieri, L. S. (2020). Bioaccumulation and Toxicity of Cadmium, Copper, Nickel, and Zinc and Their Mixtures to Aquatic Insect Communities. Environmental Toxicology and Chemistry, 39(4), 812–833. https://doi.org/10.1002/etc.4663 12. Meride, Y., & Ayenew, B. (2016). Drinking water quality assessment and its effects on residents health in Wondo genet campus, Ethiopia. Environmental Systems Research, 5(1), 1. https://doi.org/10.1186/s40068-016-0053-6 13. Morrison, G., Fatoki, O., Persson, L., & Ekberg, A. (2001). Assessment of the impact of point source pollution from the Keiskammahoek Sewage Treatment Plant on the Keiskamma River - pH, electrical conductivity, oxygen- demanding substance (COD) and nutrients. Water SA, 27. https://doi.org/10.4314/wsa.v27i4.4960 14. Nghị định 45/2022/NĐ-CP xử phạt vi phạm hành chính lĩnh vực bảo vệ môi trường. (n.d.). Retrieved September 3, 2022, from https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Vi-pham-hanh-chinh/Nghi-dinh-45- 2022-ND-CP-xu-phat-vi-pham-hanh-chinh-linh-vuc-bao-ve-moi-truong-484772.aspx 15. Oberdorff, T., Pont, D., Hugueny, B., & Porcher, J.-P. (2002). Development and validation of a fish- based index for the assessment of ‘river health’ in France. Freshwater Biology, 47(9), 1720–1734. https://doi.org/10.1046/j.1365-2427.2002.00884.x 16. Poff, N., Allan, J. D., Bain, M., Karr, J., Prestegaard, K., Richter, B., Sparks, R., & Stromberg, J. (1997). The Natural Flow Regime: A Paradigm for River Conservation and Restoration. Bioscience, 47. 17. qtnm-nam-2021, Retrieved September 4, 2022, from https://moitruongbinhduong.gov.vn/upload/news/qtnm-nam-2021-1182.pdf 18. Singh, A., Sharma, A., Verma, R. K., Chopade, R. L., Pandit, P. P., Nagar, V., Aseri, V., Choudhary, S. K., Awasthi, G., Awasthi, K. K., & Sankhla, M. S. (2022). Heavy Metal Contamination of Water and Their Toxic Effect on Living Organisms. IntechOpen. https://doi.org/10.5772/intechopen.105075 19. Tacconi, L., & Williams, D. A. (2020). Corruption and Anti-Corruption in Environmental and Resource Management. Annual Review of Environment and Resources, 45(1), 305–329. https://doi.org/10.1146/annurev-environ-012320-083949 20. The Effects of Wastewater and How Bad It Is For the Environment - Conserve Energy Future. (n.d.). Retrieved May 20, 2023, from https://www.conserve-energy-future.com/effects-wastewater- environment.php 21. The Effects of Wastewater and How Bad It Is For the Environment - Conserve Energy Future. (2019, August 27). https://www.conserve-energy-future.com/effects-wastewater-environment.php 22. tphcm.chinhphu.vn. (2011, November 7). Nguồn nước và thủy văn. tphcm.chinhphu.vn. https://tphcm.chinhphu.vn/news-1014577.htm 23. Weber, S., Khan, S., & Hollender, J. (2006). Human risk assessment of organic contaminants in reclaimed wastewater used for irrigation. Desalination, 187(1), 53–64. https://doi.org/10.1016/j.desal.2005.04.067 24. Chris McGann, 2022, What Is the Effect of PH on Living Organisms? (n.d.). Sciencing. Retrieved September 8, 2022, from https://sciencing.com/effect-ph-living-organisms-6723807.html 142

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD


Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn
