ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI<br />
<br />
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN<br />
<br />
QUẢN LÝ CHẤT LUỢNG CỦA W. EDWARDS DEMING<br />
TRIẾT LÝ, NỘI DUNG VÀ Ý NGHĨA<br />
<br />
ĐỀ TÀI CẤP ĐHQG, MÃ SỐ: QX.0720<br />
CHỦ TRÌ: HOÀNG VĂN LUÂN<br />
<br />
3<br />
<br />
MỞ ĐẦU<br />
1. Tổng quan về quản lý chất lượng<br />
<br />
Nguồn gốc của phong trào chất lượng xuất hiện từ thời Trung cổ<br />
châu Âu, nơi mà thợ thủ công đã bắt đầu tổ chức thành công đoàn mà lúc<br />
đầu được gọi là phường hội (Guild) ở cuối thế kỷ XIII.<br />
Nghiệp đoàn chịu trách nhiệm đối với việc phát triển các quy tắc<br />
nghiêm ngặt cho các sản phẩm và chất lượng dịch vụ. Uỷ ban kiểm tra thi<br />
hành các quy tắc của hàng hoá. Hàng hóa hoàn hảo (flawless) được đánh<br />
dấu bằng một dấu đặc biệt hoặc biểu tượng.<br />
Thợ thủ công thường được đánh dấu một ký hiệu riêng trên hang hóa<br />
do họ sản xuất. Lúc đầu, việc đánh dấu này đã được sử dụng để theo dõi<br />
nguồn gốc của các mặt hàng bị lỗi. Nhưng qua thời gian, những ký hiệu này<br />
đã trở thành những nhãn hiệu đại diện cho danh tiếng tốt của nghệ nhân.<br />
Kiểm tra, đánh dấu và đánh dấu chủ - thợ thủ công phục vụ như một<br />
bằng chứng về chất lượng cho khách hàng trong suốt thời Trung cổ ở châu Âu.<br />
Cách làm này được vận dụng đến cuộc cách mạng công nghiệp đầu thế kỷ 19.<br />
Cho đến đầu thế kỷ 19, sản xuất công nghiệp trên thế giới có xu<br />
hướng đi theo mô hình sự tinh xảo nghề nghiệp (craftsmanship). Thanh tra<br />
sản phẩm được nhấn mạnh trong các nhà máy Vương quốc Anh bắt đầu<br />
xuất hiện từ những năm 1750s và phổ biến trong cuộc cách mạng công<br />
nghiệp vào đầu thế kỷ XIX.<br />
Trong đầu thế kỷ 19, sản xuất tại Hoa Kỳ có xu hướng đi theo mô<br />
hình Tinh xảo nghề nghiệp đã từng được sử dụng trong các quốc gia châu<br />
Âu. Trong mô hình này, chàng trai trẻ có thể học được một nghề có tay<br />
<br />
4<br />
<br />
nghề cao trong quá trình làm việc trong phường hội như là một người học<br />
việc trong nhiều năm.<br />
Do hầu hết các thợ thủ công được bán hàng hóa của họ tại địa<br />
phương và lợi ích của họ phụ thuộc vào việc đáp ứng các nhu cầu cá nhân<br />
của khách hàng về chất lượng. Nếu nhu cầu chất lượng không được đáp<br />
ứng hoặc các nghệ nhân chuyển đi, thì nguy cơ mất khách hàng xuất hiện.<br />
Vì vậy, các ông chủ duy trì một hình thức kiểm soát chất lượng bằng cách<br />
kiểm tra hàng hoá trước khi bán một cách chặt chẽ và nghiêm ngặt.<br />
Khi sản xuất phát triển, người Châu Âu đã có những cải tiển cơ bản<br />
trong việc đảm bảo chất lượng: công việc của công nhân được chuyên môn<br />
hóa, chủ cửa hang (người phân phối) trở thành người giám sát sản xuất.<br />
Chất lượng trong hệ thống nhà máy đã được bảo đảm thông qua các kỹ<br />
năng của người lao động, bổ sung bằng cách kiểm toán và / hoặc kiểm tra.<br />
Sản phẩm bị khuyết tật hoặc là phải tái chế (reworked) hoặc loại bỏ.<br />
Đến cuối thế kỷ XIX, Hoa Kỳ đã vượt bỏ cách làm truyền thống của<br />
Châu Âu bằng phương pháp quản lý theo khoa học của Frederick W.<br />
Taylor. Mục tiêu của F.W. Taylor là tăng năng suất mà không tăng số<br />
lượng các thợ thủ công lành nghề. Cách tiếp cận của F.W. Taylor đã dẫn<br />
đến tăng đáng kể năng suất, nhưng nó có nhược điểm quan trọng: Người<br />
lao động, một lần nữa, bị tước bỏ quyền lực và quá nhấn mạnh tới năng<br />
suất đã tác động tiêu cực đến chất lượng.<br />
Đến đầu thế kỷ XX, các nhà sản xuất đã bắt đầu đưa quy trình thanh<br />
tra sản phẩm hay kiểm soát chất lượng sản phẩm vào quá trình sản xuất. Và<br />
các quy định về chỉ tiêu, tiêu chuẩn chất lượng đã trở thành một trong<br />
những văn bản quản lý quan trọng.<br />
<br />
5<br />
<br />
Đến đầu thế kỷ XX, quy trình chất lượng đã ra đời. Quy trình chất<br />
lượng được xem xét là một nhóm các hoạt động từ đầu vào đến đầu ra như<br />
một đầu bếp chế biến các nguyên liệu thành các món ăn.<br />
Walter Shewhart, một nhà thống kê cho phòng thí nghiệm Bell, bắt<br />
đầu tập trung vào việc kiểm soát các quá trình trong giữa thập niên 1920<br />
nhằm đảm bảo chất lượng không chỉ ở khâu cuối khi các sản phẩm đã hoàn<br />
tất mà còn nhằm đảm bảo chất lượng từ trong quá trình tạo ra nó.<br />
Shewhart cho rằng bằng phương pháp thống kê và sử dụng các kỹ<br />
thuật thống kê, các dữ liệu có thể được phân tích nhằm tiến tới kiểm soát<br />
một quá trình ổn định về chất lượng. Ông đã đưa ra khái niệm Kiểm soát<br />
chất lượng bằng thống kê (SQC). Với cách làm này, Shewhart đặt nền tảng<br />
cho các biểu đồ kiểm soát, một công cụ hiện đại nhằm đảm bảo chất lượng<br />
ngày nay.<br />
W. Edwards Deming, một nhà thống kê với Sở Nông nghiệp Hoa Kỳ<br />
và Cục Điều tra dân số, đã đi theo phương pháp Kiểm soát bằng thống kê<br />
của Shewhart và sau này trở thành một nhà lãnh đạo của phong trào chất<br />
lượng ở cả Nhật Bản và Hoa Kỳ.<br />
Sau khi Hoa Kỳ bước vào Chiến tranh thế giới lần thứ II, chất lượng<br />
đã trở thành một thành phần quan trọng của các nỗ lực chiến tranh: Các đầu<br />
đạn (Bullets) được sản xuất tại một quốc gia nhưng phải được sử dụng cho<br />
các loại sung trường khác nhau. Trong thời gian này, chất lượng đã trở<br />
thành một vấn đề an toàn quan trọng. Lực lượng vũ trang Hoa Kỳ kiểm tra<br />
chặt chẽ để đảm bảo rằng các đơn vị sản xuất đều an toàn. Trên thực tế,<br />
điều này đòi hỏi lượng lớn các lực lượng thanh tra.<br />
Các lực lượng vũ trang bước đầu được kiểm tra hầu như mỗi đơn vị<br />
sản phẩm, sau đó để đơn giản hóa và đẩy nhanh quá trình này mà không<br />
ảnh hưởng đến an toàn, quân đội đã bắt đầu sử dụng các kỹ thuật lấy mẫu<br />
<br />
6<br />
<br />
để kiểm tra, hỗ trợ bằng việc công bố tiêu chuẩn đặc điểm kỹ thuật quân sự.<br />
Đó là thời kỳ, các khóa đào tạo thống kê của Walter Shewhart được ứng<br />
dụng rộng rãi nhằm kiểm soát kỹ thuật quân sự.<br />
Tuy nhiên, các khóa đào tạo chỉ dẫn đến một số cải tiến chất lượng<br />
trong một số tổ chức, hầu hết các công ty không có động lực để thực sự tích<br />
hợp các kỹ thuật kiểm tra. Với họ, vấn đề quan trọng là hợp đồng với chính<br />
phủ được thanh toán. Vì vậy, ưu tiên hàng đầu của họ là tổ chức sản xuất,<br />
thời hạn giao nộp chứ không phải là chất lượng. Hầu hết các chương trình<br />
SQC đã chấm dứt khi hợp đồng chính quyền chấm dứt.<br />
Sự ra đời của Quản lý chất lượng toàn diện ở Hoa Kỳ là một sự kiện<br />
đáng nhớ đối với người Mỹ sau khi nhận ra rằng sau Chiến tranh thế giới<br />
lần thứ II, Nhật Bản đã hoan nghênh và tích cực ứng dụng các quan điểm<br />
của các nhà tư tưởng quản lý Hòa Kỳ như Joseph M. Juran và W. Edwards<br />
Deming khi các ông phê phán việc tập trung vào kiểm tra và thanh tra sản<br />
phẩm và khuyến cáo tập trung vào việc cải thiện tất cả các quy trình tổ<br />
chức thông qua những người sử dụng chúng.<br />
Thay vì dựa hoàn toàn vào kiểm tra sản phẩm, các nhà sản xuất Nhật<br />
Bản tập trung vào việc cải thiện tất cả các quy trình tổ chức thông qua<br />
những người lao động. Kết quả là, Nhật Bản đã có thể sản xuất hàng xuất<br />
khẩu chất lượng cao với giá thấp hơn và người tiêu dung trên thế giới được<br />
hưởng lợi.<br />
Trong khi đó, các nhà sản xuất Nhật Bản đã bắt đầu tăng thị phần của<br />
mình tại thị trường Mỹ, gây ra hiệu ứng xấu cho kinh tế Hoa Kỳ: Các nhà sản<br />
xuất đã bắt đầu mất dần thị phần, các tổ chức vận chuyển đã bắt đầu công việc<br />
ở nước ngoài, và nền kinh tế phải chịu số dư thương mại bất lợi.<br />
Nói chung, người Mỹ không biết gì về xu hướng chất lượng của<br />
Nhật Bản. Họ tiếp tục cạnh tranh với hàng hóa của Nhật Bản theo giá cả.<br />
<br />
7<br />
<br />