intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948

Chia sẻ: Nguyễn Thị Thùy Trang | Ngày: | Loại File: DOC | Số trang:44

84
lượt xem
10
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài "Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948" giới thiệu đến các bạn nguồn gốc của cuộc chiến tranh, lực lượng tham chiến ban đầu, chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948. Mời các bạn cùng tham khảo nội dung đề tài để có thêm tài liệu phục vụ nhu cầu học tập và nghiên cứu.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Chiến tranh Ả Rập-Israel năm 1948

  1. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM TP HỒ CHÍ MINH KHOA LỊCH SỬ ­­­­­­­­­­ Đề tài: CHIẾN TRANH Ả RẬP­ISRAEL NĂM 1948 SVTH: Nguyễn Thị Thùy Trang MSSV: K37.602.104 Lớp: K37_Sử B TP Hồị Chí Minh tháng 5 năm 2013 Môn: L ch sử thế giới hiện đại học phần 2 Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    1
  2. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    2
  3. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 MỤC LỤC MỞ ĐẦU..........................................................................................4 I. Nguồn gốc của cuộc chiến tranh.............................................5 1. Cuộc nổi dậy của người Ả Rập (1936–1939) và hệ quả.......6 2.  Bộ  máy chính quyền Anh và việc huấn luyện quân sự  cho  người Do Thái và Ả Rập..............................................................8 3. Kế hoạch phân chia lãnh thổ của Liên Hiệp Quốc...............10 4. Nội chiến 1947–1948 trong vùng đất ủy trị..........................11 II. Lực lượng tham chiến ban đầu............................................15 1. Đánh giá lực lượng.................................................................15 2. Lực lượng Yishuv..................................................................16 3. Lực lượng Ả Rập...................................................................18 III. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948....................................22 1. Giai đoạn 1 (14/5 tới 11/6/1948)...........................................22 2. Cuộc ngưng bắn thứ nhất (11/6 tới 8/7/1948).....................25 Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    3
  4. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 3. Giai đoạn 2 (8/7 tới 18/7/1948).............................................26 a) Chiến dịch Dani................................................................26 b) Chiến dịch Dekel..............................................................27 c) Chiến dịch Kedem.............................................................27 4. Cuộc ngưng bắn thứ hai (18/7 tới 15/10/1948)....................28 5. Giai đoạn ba (15/10/1948 tới 20/7/1949)..............................28 IV. Kết quả...................................................................................27 PHỤ LỤC........................................................................................30 TÀI LIỆU THAM KHẢO...............................................................38 Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    4
  5. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 MỞ ĐẦU Cuộc Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948, được người Do Thái gọi là  Chiến tranh giành độc lập và Chiến tranh giải phóng, còn người Palestine   gọi là Al Nakba (tiếng Ả Rập: ‫النكبة‬, "cuộc Thảm họa") là cuộc chiến đầu  tiên trong một loạt cuộc chiến giữa Israel và các nước Ả Rập láng giềng. Cuộc chiến nổ  ra ngay khi Chế độ   ủy trị  Anh tại Palestine kết thúc  ngày 15/5/1948, tiếp tục giai đoạn nội chiến 1947­1948, khi người  Ả Rập   bác bỏ Nghị quyết 181 của Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhằm lập ra   một quốc gia  Ả  Rập và một quốc gia Do Thái trên mảnh đất này. Cuộc  chiến diễn ra phần lớn trên lãnh thổ   Ủy trị  Palestine thuộc Anh và trong  một thời gian ngắn tại bán đảo Sinai. Cuộc chiến kết thúc với Hiệp định  ngưng bắn 1949, nhưng cuộc Xung đột Ả Rập­Israel vẫn tiếp diễn. Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    5
  6. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 I. Nguồn gốc của cuộc chiến tranh Sau khi Đế chế Ottoman bị đánh bại trong Đệ  nhất thế chiến, phía Đồng   minh nhóm họp tại San Remo, Ý ngày 18–26/4 để  bàn bạc các điều khoản cho  hiệp  ước với Thổ  Nhĩ Kỳ. Kết luận của cuộc họp chủ yếu xác nhận các điều  khoản của cuộc đàm phán London lần thứ nhất và thỏa thuận Sykes­Picot ngày  16/5/1916 và Tuyên cáo Balfour ngày 12/11/1917. Theo thỏa thuận, Pháp được   ủy nhiệm quản lý Syria còn Anh được  ủy nhiệm quản lý vùng Lưỡng Hà và  Palestine, đường biên giới sẽ được các cường quốc tham gia đàm phán xác lập. Trong cuộc họp  ở Cairo và Jerusalem giữa Winston Churchill và hoàng tử  Abdullah (sau là vua Abdullah đệ  nhất của Jordan) tháng 3/1921, họ  đồng ý  Abdullah sẽ cai quản lãnh thổ Transjordan (trong vòng 6 tháng) để đại diện cho   phía Palestine. Tới mùa hè năm 1921, vùng Transjordan vẫn còn nằm trong Lãnh  thổ ủy trị, nhưng không nằm trong các điều khoản về Quê hương cho người Do  Thái. Ngày 24/7/1922, Hội quốc liên chấp thuận các điều khoản về  việc  ủy   nhiệm cho Anh các vùng đất Palestine và Transjordan. Ngày 16/9, Hội quốc liên  chính thức phê chuẩn bản ghi nhớ  của Huân tước Balfour, xác nhận ngoại trừ  Transjordan trong các điều khoản về việc thành lập một quốc gia cho người Do  Thái. Tới năm 1922, dân cư Palestine bao gồm khoảng 589.200 người Hồi giáo,  83.800 người Do Thái, 71.500 người Thiên chúa giáo và 7.600 người khác (thống  kê năm 1922). Tuy nhiên, tại vùng này diễn ra một cuộc di cư lớn của người Do   Thái (đa phần chạy tị  nạn khỏi sự truy bức tại châu Âu). Cuộc chạy tị  nạn và   lời kêu gọi thành lập quốc gia Do Thái gây nên phản ứng quyết liệt từ phía dân  cư Ả Rập bản địa, vì người Ả Rập đồn là người Do Thái âm mưu nô dịch người   Ả Rập và trục xuất dân cư bản địa không phải là Do Thái. Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    6
  7. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 Dưới   sự   lãnh   đạo   của   Amin   al­Husayni,   đại   Giáo   trưởng   Hồi   giáo   ở  Jerusalem, người  Ả  Rập nổi lên chống lại người Anh và liên tục tấn công dân   cư Do Thái. Các cuộc tấn công lẻ tẻ bắt đầu từ cuộc nổi loạn của người Ả Rập   năm 1920 và cuộc nổi dậy ở Jaffa năm 1921. Trong cuộc nổi dậy năm 1929, 67  người Do Thái bị  giết tại Hebron, những người sống sót được nhà chức trách  Anh di tản. 1. Cuộc nổi dậy của người Ả Rập (1936–1939) và hệ quả Cuối những năm 1920, đầu 1930, một số đảng phái của người Palestine  trở  nên mất kiên nhẫn với tình trạng bè phái, mất đoàn kết trong cộng đồng,   cũng như  sự  bất lực của tầng lớp lãnh đạo người Palestine, nên bắt đầu một  phong trào bài Anh và bài Do Thái của giới bình dân, lãnh đạo bởi những đảng  như  Hội Thanh niên Hồi giáo. Họ  cũng tổ  chức tẩy chay và bất hợp tác theo   hình mẫu Ấn Độ. Hầu hết những phong trào mới khởi phát này đều bị dập tắt  bởi giới nhân sỹ địa phương hoạt động cho bộ máy chính quyền Anh, đặc biệt   là "giáo trưởng Hồi giáo" và người bà con của ông là Jamal al­Husayni. Cái  chết của nhà truyền giáo Izz ad­Din al­Qassam bởi tay của cảnh sát Anh tại  Jenin tháng 11/1935 làm cho người Hồi giáo đặc biệt tức giận. Một đám đông  lớn đưa tiễn thi thể ông đi mai táng tại Haifa. Vài tháng sau, một cuộc tổng bãi  công do người  Ả Rập khởi xướng đồng loạt diễn ra và kéo dài cho đến tháng  10/1936. Trong mùa hè năm đó, hàng ngàn mẫu ruộng và vườn cây của người  Do Thái bị chặt phá, người Do Thái bị tấn công và bị  giết hại, khiến cho một  số cộng đồng Do Thái, như ở Beisan và Acre, phải bỏ chạy lánh nạn. Tiếp theo cuộc tổng bãi công, cùng với khuyến nghị của phái đoàn Peel   chia vùng này thành một tiểu quốc Do Thái và một quốc gia Ả Rập thống nhất  Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    7
  8. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 với Jordan, một cuộc khởi nghĩa vũ trang nổ  ra trên toàn lãnh thổ. Trong vòng   18 tháng tiếp theo, người  Anh mất quyền kiểm soát Jerusalem,  Nablus, và  Hebron. Trong khoảng thời gian từ  1936–1939, quân Anh, được hỗ  trợ  bởi   6.000 cảnh sát Do Thái vũ trang, đàn áp cuộc nổi dậy của người  Ả  Rập. Kết   quả  là có 5.000 người  Ả  Rập bị  chết và 10.000 người bị  thương. Tổng cộng,  10 phần trăm số đàn ông Ả Rập trưởng thành bị chết, bị thương, bị bắt giữ hay   phải bỏ  trốn. Cộng đồng Do Thái có 400 người chết, còn chính quyền Anh   mất 200 người. Một diễn biến quan trọng trong thời kỳ này, là việc viên sỹ quan cao cấp  của Anh Charles Orde Wingate, (người ủng hộ chủ trương tái lập quốc gia cho   người Do Thái), thành lập Đội đặc nhiệm đêm gồm thành viên của Haganah,  chỉ huy bởi sỹ quan Anh, và đã giành được nhưng "thắng lợi quan trọng chống  lại quân nổi loạn Ả Rập tại vùng hạ Galilee và thung lũng Jezreel", bằng cách  đột kích vào các làng Ả  Rập. Haganah huy động đến 20.000 cảnh sát, quân dã  chiến và các đội tuần tra đêm. Cũng phải kể  đến việc từ  năm 1936 đến năm   1945, đồng thời với việc hợp tác với Tổng bộ  Do Thái, chính quyền Anh tịch   thu 13.200 súng từ người Ả Rập, và 521 súng từ người Do Thái. Cuộc tấn công của người Ả Rập vào cộng đồng dân cư Do Thái có 3 hệ  quả lâu dài: thứ nhất, người Do Thái phát triển rộng thêm lực lượng dân quân  bí mật, chủ  yếu là Haganah ("Lực lượng phòng vệ"), mà sau này là nhân tố  quyết định chiến thắng năm 1948. Thứ  nhì là các cuộc tấn công làm người ta  càng tin tưởng là hai cộng đồng này không thể  chung sống hòa bình, nên ý   tưởng phân chia lãnh thổ nảy sinh. Thứ ba là người Anh đối phó với sự chống  đối của người  Ả Rập bằng cách phát hành sách trắng (trong đó công bố chính   sách của chính quyền Anh) hạn chế  ngặt nghèo người Do Thái di cư. Tuy  Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    8
  9. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 nhiên, với Đệ  nhị  thế  chiến hiển hiện trước mắt, ngay cả số quota di cư hạn  chế  này cũng không thể  nào đạt được. Sách trắng khiến cho một bộ  phận  người Do Thái trở nên cực đoan, quyết không hợp tác với người Anh, sau khi   Đại chiến thế giới kết thúc. 2. Bộ  máy chính quyền Anh và việc huấn luyện quân sự  cho  người Do Thái và Ả Rập  Từ năm 1936 trở đi, chính quyền Anh tạo điều kiện huấn luyện, trang bị  và tuyển mộ một loạt lực lượng an ninh và cơ sở tình báo hợp tác với Tổng bộ  Do Thái (tức chính quyền Do Thái thời kỳ tiền lập quốc). Trong số đó phải kể  đến lực lượng "Vệ  binh", bao gồm từ  6.000 đến 14.000 Cảnh sát trù bị  Do  Thái, 6.000 đến 8.000 Cảnh sát Định cư tinh nhuệ và Đội đặc nhiệm ban đêm,  tiền thân của đơn vị  Đặc nhiệm đường không của Anh. Ngoài ra còn có lực  lượng xung kích tinh nhuệ  FOSH, tức Đại đội dã chiến, với khoảng 1.500   thành viên để  thay thế  lực lượng HISH (tức "Lực lượng dã chiến") đông đảo   hơn vào năm 1939. Cơ  quan SHAI, tức cục tình báo và chống phản gián của  Haganah, là tiền thân của Mossad (cơ quan tình báo Israel sau này). Chính quyền Anh cũng tuyển mộ  chừng 6.000 người  Ả  Rập Palestine   trong thời kỳ Đệ nhị thế chiến và 1.700 người khác được tuyển vào lực lượng   cảnh sát biên giới Liên­Jordan, hay T.J.F.F. Thêm vào đó, người Anh cung cấp  sỹ  quan cho đạo quân Lê Dương  Ả  Rập của Jordan, và cấp cho quân đội Ai   Cập xe tải, súng trường và phi cơ. Người Anh như  vậy rất nghịch lý là đã  trang bị cho cả hai phe trong cuộc xung đột sắp nổ ra. Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    9
  10. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2  Đệ nhị thế chiến Ngày 6/8/1940, Anthony Eden, Bộ  trưởng Chiến tranh của Anh, thông  báo cho Quốc hội Anh là Chính phủ  đã quyết định tuyển mộ  người Ả Rập và  Do Thái vào các tiểu đoàn Royal East Kent Regiment (còn gọi là the "Buffs").  Trong buổi ăn trưa với tiến sỹ Chaim Weizmann (lãnh tụ người Do Thái) ngày   3/9, Winston Churchill chấp thuận việc tuyển mộ  trên qui mô lớn người Do   Thái sống trong vùng lãnh thổ  Ủy nhiệm của Anh tại Palestine và huấn luyện   sỹ quan Do Thái. Hơn 10 ngàn người khác (trong đó không quá 3 ngàn người từ  Palestine) sẽ được tuyển mộ và huấn luyện tại Anh. Đối mặt  với   đà tiến công của Nguyên soái  Đức Rommel  ở  Ai Cập,   người Anh quyết định cho 10.000 binh lính Do Thái "Buffs" vốn phân thành   từng đại đội thống nhất thành các đơn vị   ở  mức tiểu đoàn, đồng thời động  viên thêm 10.000 binh lính nữa, cùng với 6.000 Cảnh sát trù bị và từ 40.000 cho   đến 50.000 vệ binh. Kế hoạch được phê chuẩn bởi Nguyên soái John Dill. Lực   lượng tác chiến đặc biệt (SOE)  ở Cairo chấp nhận đề  nghị  của Haganah tiến  hành các hoạt động du kích  ở  miền bắc Palestine do bộ  phận Palmach của   Haganah thực hiện, để bảo vệ lãnh thổ, đồng thời từ đó đột kích các tuyến liên  lạc và tiếp tế của Đức quốc xã, nếu cần. Tình báo Anh cũng huấn luyện một  mạng lưới thông tin viên sử dụng radio dưới quyền Moshe Dayan để chuẩn bị  hoạt động gián điệp chống quân chiếm đóng Đức. Sau nhiều lần do dự, ngày 3/7/1944, chính phủ Anh đồng ý thành lập Lữ  đoàn Do Thái, với các sỹ  quan gồm cả  Do Thái và không phải Do Thái được   tuyển chọn kỹ  càng. Ngày 20/9/1944, một sỹ  quan thông tin thuộc Văn phòng  Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    10
  11. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 chiến tranh thông báo việc thành lập Cụm Lữ  đoàn Do Thái trong Quân đội  Anh. Lá cờ Zion của người Do Thái được chính thức chấp nhận làm chiến kỳ  của Lữ đoàn. Lực lượng này bao gồm hơn 5.000 quân tình nguyện Do Thái từ  Palestine, chia làm ba tiểu đoàn bộ binh và một số đơn vị hỗ trợ. Ngay khi chiến tranh kết thúc, người Anh quay ngoắt lại với chính sách  thực hiện trước chiến tranh. Họ  tịch thu vũ khí, và một số  thành viên của   Haganah bị  bắt  và bị   đưa ra tòa, trong  đó  phải kể   đến trường  hợp Eliahu   Sacharoff, bị  kết án 7 năm tù chỉ  vì sở  hữu 2 viên đạn nhiều hơn so với giấy  phép. 3. Kế hoạch phân chia lãnh thổ của Liên Hiệp Quốc Ngày 29/11/1947, Đại hội đồng Liên hiệp quốc chấp thuận nghị  quyết   số 181, giải quyết cuộc xung đột Ả Rập­Do Thái bằng cách phân chia Palestine  thành hai quốc gia, Do Thái và  Ả  Rập. Mỗi quốc gia sẽ  bao gồm 3 vùng lãnh   thổ chính, liên kết bởi các dải lãnh thổ đặc quyền hẹp; người Ả Rập cũng sẽ  được vùng đất Jaffa nằm lọt trong lãnh thổ  của người Do Thái. Với chừng   32% dân số, người Do Thái sẽ được 56% lãnh thổ, trong đó có 499.000 người  Do Thái và 438.000 người Palestine cư ngụ, mặc dù phần lãnh thổ này tính cả  hoang mạc Negev ở phía nam. Người Palestine được 42% lãnh thổ, với dân cư  gồm 818.000 người Palestine và 10.000 người Do Thái. Vì tính chất tôn giáo   thiêng liêng của Jerusalem, nên vùng này, bao gồm cả  Bethlehem, với 100.000   dân Do Thái và cũng khoảng chừng  ấy dân  Ả  Rập sẽ  được quản trị  bởi Liên   hiệp quốc. Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    11
  12. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 Mặc dù một số  người Do Thái chỉ  trích kế  hoạch này, bản nghị  quyết  được đông đảo nhân dân Do Thái  ủng hộ. Ban lãnh đạo Zion chấp nhận nghị  quyết như là "sự cần thiết tối thiểu", vui mừng là họ nhận được sự thừa nhận   của cộng đồng quốc tế, dù rằng họ  vẫn lấy làm tiếc là họ  không được chia  nhiều lãnh thổ hơn. Cho rằng kế  hoạch phân chia không công bằng với người  Ả  Rập, khi   tính đến tỷ trọng dân cư, đại diện của người  Ả Rập Palestine và Liên đoàn Ả  Rập chống đối quyết liệt kế  hoạch của Liên hiệp quốc, thậm chí bác bỏ  quyền của Liên hiệp quốc can thiệp vào cuộc xung đột. Họ nhất định cho rằng  "quyền cai quản Palestine phải thuộc về  cư dân của nó, theo các điều khoản  Hiến chương Liên hiệp quốc". Theo Điều 73b của Hiến chương, Liên hiệp  quốc phải dựng lên chính quyền tự quản của chính dân cư sống trong lãnh thổ. 4. Nội chiến 1947–1948 trong vùng đất ủy trị Ngay sau khi Liên hợp quốc chấp thuận kế hoạch phân chia, cộng đồng  Do Thái như vỡ tung lên vì hoan hỉ, trong khi cộng đồng  Ả  Rập tỏ  ra hết sức  bất mãn. Chẳng bao lâu sau, xung đột nổ ra và ngày càng lan rộng, chém giết,  báo thù và phản báo trả thù nối tiếp nhau, khiến cho hàng chục người ở cả hai  phe thiệt mạng. Trong khoảng thời gian từ tháng 12/1947 cho tới hết tháng 1/1948,  ước  tính có khoảng 1000 người bị giết và 2000 người bị thương. Tới cuối tháng 3,  thương   vong   đã   lên   tới   2000   người   chết   và   4000   người   bị   thương,   tương   Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    12
  13. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 đương với khoảng 100 người chết và 200 người bị thương mỗi tuần, với dân  số chỉ vỏn vẹn 2 triệu người. Từ tháng 1 trở đi, các hoạt động ngày càng mang tính quân sự, với hàng   trung đoàn Quân giải phóng  Ả  Rập can thiệp vào phía người Palestine, bố  trí  quanh một số thị trấn ven biển cũng như củng cố các vùng Galilee và Samaria.  Abd al­Qadir al­Husayni cũng đến từ  Ai Cập tham chiến với vài trăm thành  viên của Quân đội thánh chiến. Sau khi tuyển mộ  được vài ngàn quân tình nguyện, al­Husayni tổ  chức  phong tỏa 100.000 cư  dân Do Thái  ở  Jerusalem.   Để  đáp lại, ban  lãnh  đạo  Yishuv tìm cách tiếp tế cho thành phố với đoàn xe tiếp viện lên tới 100 xe bọc  thép, nhưng chiến dịch tiếp viện ngày càng trở nên thiếu thực tế, vì càng ngày  càng có nhiều người bị giết trong chiến dịch tiếp tế. Tới tháng 3, chiến thuật  của Al­Hussayni mang lại thành công, hầu hết đoàn xe tiếp tế bị phá hủy, cuộc  phong tỏa trở  nên toàn diện, và hàng trăm thành viên Haganah tham gia cứu   viện thành phố bị giết. Tình hình những người bị kẹt lại trong các khu Do Thái  ở vùng hoang mạc Negev và miền bắc trở nên khốn quẫn. Vì những người Do Thái được chỉ  thị  phải bám trụ  bằng mọi giá, tình  hình bất  ổn trên toàn quốc  ảnh hưởng đến người  Ả  Rập còn nặng nề  hơn,   chừng 100.000 Palestine, chủ yếu là những người ở tầng lớp trung lưu khá giá,  chạy ra nước ngoài hoặc chuyển đến Samaria để tránh chiến tranh. Tình hình này buộc nước Mỹ  phải xem xét lại sự   ủng hộ  mà họ  dành  cho kế  hoạch Phân chia, làm cho Liên đoàn  Ả  Rập tin rằng, người Palestine,   với sự hỗ trợ của Quân giải phóng Ẩ rập, có thể phá hỏng kế hoạch Phân chia.   Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    13
  14. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 Mặc khác, người Anh lại ra quyết định ngày 17/2/1948  ủng hộ  việc sát nhập  các lãnh thổ Ả Rập vào Jordan. Thủ lĩnh người Do Thái Ben­Gurion tái tổ chức Haganah, ban hành nghĩa  vụ quân sự bắt buộc, tất cả phụ nữ và đàn ông đều phải tham gia huấn luyện   quân sự. Nhờ  vào nguồn tài chính do Golda Meir quyên góp được từ  những   cảm tình viên ở Mỹ, và sự  hỗ trợ của Stalin cho phong trào Zion, đại diện Do  Thái ký được những hợp đồng mua vũ khí quan trọng. Các nhân viên Haganah  thu mua vũ khí tồn kho từ thời Đệ nhị thế chiến để góp phần trang bị cho quân  đội. Cuối tháng ba, lần đầu tiên họ  tiến hành chiến dịch Balak để  chuyển vũ   khí và trang thiết bị về Palestine. Ben­Gurion cũng giao nhiệm vụ  cho Yigal Yadin lên kế  hoạch đối phó   trong trường hợp các quốc gia Ả Rập can thiệp vũ trang. Kết quả là kế hoạch   Dalet ra đời và được đưa vào thực hiện kể từ tháng 4, mà với kế hoạch đó, kể  từ  giai đoạn thứ  hai của cuộc chiến, Haganah chuyển từ thế  phòng ngự  sang  phản công. Chiến dịch đầu tiên, mật danh Nachshon, bao gồm việc phá vỡ  cuộc  phong   tỏa   Jerusalem.   Một   ngàn   năm   trăm   chiến   sỹ   lữ   đoàn   Guivati   thuộc   Haganah và lữ  đoàn Harel thuộc Palmach tham gia chiến dịch mở   đường từ  ngày 5/4 tới ngày 20/4. Chiến dịch thành công với khoảng hai tháng lương thực   được chuyển tới Jerusalem để phân phát cho dân chúng. Thành công của chiến  dịch càng lớn bởi Al­Hassayni bị chết trận. Cùng thời gian, binh sỹ thuộc Irgun   và Lehi (ngoài vòng kiểm soát của Haganah) tiến hành thảm sát hơn một trăm   người  Ả  Rập, đa phần là dân thường tại Deir Yassin, gây chấn động cộng  đồng Ả Rập, khiến cho các thủ lĩnh Do Thái phải lo ngại và lên tiếng chỉ trích. Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    14
  15. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 Cũng trong thời gian đó, chiến dịch lớn đầu tiên của Quân giải phóng Ả  Rập bị  "thất bại thảm hại", vì bị  đánh tơi tả  tại Mishmar Ha'emek, và còn bị  đồng minh là bộ tộc người Druze đào ngũ bỏ sang phe Do Thái. Theo kế  hoạch Dalet, các lực lượng Haganah, Palmach và Irgun tiến   chiếm các khu vực dân cư  hỗn hợp  Ả  Rập­Do Thái. Các thành phố  Tiberias,   Haifa, Safed, Beisan, Jaffa và Acre lần lượt thất thủ, khiến cho hơn 250.000   người Palestine phải chạy tị nạn. Cùng thời gian, người Anh về  cơ  bản đã rút quân, tình hình khiến cho   lãnh đạo các quốc gia Ẩ rập phải can thiệp, nhưng họ chưa hoàn toàn sẵn sàng,   và không thể tập trung kịp lực lược cần thiết để đảo ngược tình hình chiến sự.   Đa phần người Palestine kỳ  vọng vào đạo quân Lê Dương  Ả  Rập của vua  Jordan là Abdullah I, nhưng ông không muốn tạo ra một quốc gia của người   Palestine, mà chỉ  muốn sát nhập lãnh thổ   ủy nhiệm Palestine vào Jordan, nên  tiến hành bắt cá hai tay, giữ  liên lạc với cả  ban lãnh đạo người Do Thái và   Liên đoàn Ả Rập. Để  chuẩn bị  phản công, Haganah mở  chiến dịch Yiftah và Ben­Ami để  củng cố  các khu định cư  Do Thái tại Galilee, và chiến dịch Kilshon, thiết lập  một mặt trận liên tục quanh Jerusalem. Bà Golda Meir và vua Abdullah I gặp mặt ngày 10/5 để thảo luận, nhưng   cuộc họp không mang lại kết quả cụ thể gì, mà cả những thỏa thuận trước đó  cũng không được xác lập lại. Ngày 13/5, quân Lê Dương  Ả  Rập, được dân  quân hỗ trợ, tấn công và đánh chiếm Kfar Etzion. Trong tổng số 131 người Do  Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    15
  16. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 Thái tham gia phòng thủ có 127 người tử trận, quân Ả Rập tàn sát hết số người   sống sót bị bắt làm tù binh. Ngày 14/5/1948, David Ben­Gurion tuyên bố  quốc gia độc lập Israel ra   đời, ngày hôm sau quân đội các quốc gia  Ả  Rập can thiệp, cuộc chiến tranh   1948 bước vào giai đoạn mới. Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    16
  17. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 II. Lực lượng tham chiến ban đầu 1. Đánh giá lực lượng Benny Morris cho rằng, dù người Ả Rập "e ngại một cách có lý" khả năng  quân sự của người Do Thái, họ  vẫn tin rằng trong vòng vài thập niên, hoặc vài   thế  kỷ, "người Do Thái, cũng như  các vương quốc Thập tự  chinh, cuối cùng  cũng sẽ bị thế giới Ả Rập đè bẹp". Vào thời điểm trước khi chiến tranh bùng nổ, khối Ả Rập dường như sẽ  huy  động  khoảng 23.000  binh lính  (10.000  quân Ai  Cập,  4.500 quân  Jordan,  3.000 quân Iraq, 3.000 quân Syria, 2.000 quân tình nguyện Quân giải phóng  Ả  Rập ALA, 1.000 quân Liban và một số  quân  Ả  Rập Saudi, cộng với lực lượng   dân quân Palestine tại chỗ. Lực lượng Yishuv Do Thái bao gồm 35.000 quân  thuộc Haganah, 3.000 người của Stern và Irgun cộng với vài ngàn người định cư  có vũ trang. Dù rằng dân số Israel nhỏ hơn rất nhiều lần so với dân số các quốc gia Ả  Rập tham chiến, nhưng người Do Thái chiến đấu vì sự  tồn vong của chính  mình, cộng với tổ  chức hợp lý và ban lãnh đạo thống nhất nên đã có thể  tập  trung cao độ sức người sức của cho cuộc chiến. Các quốc gia Ả Rập tham chiến  để giúp đỡ người Ả Rập Palestine không có sự phối hợp hành động, mục tiêu và  quyền lợi không phù hợp nhau, thiếu một động cơ mạnh mẽ thúc đẩy họ chiến   Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    17
  18. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 đấu như người Do Thái nên khi điều kiện trở nên bất lợi thì tinh thần chiến đấu   nhanh chóng sa sút. Hơn thế  nữa, phe  Ả Rập thiếu sự chuẩn bị chu đáo, nên dù   được tăng viện rất đáng kể thì càng về  sau tương quan lực lượng càng sút kém  so với người Israel. Người Israel nhận được sự  tiếp trợ  quân sự  hữu hiệu từ  cộng đồng Israel hải ngoại, cộng với đoàn người tị nạn Do Thái tiếp tục đổ về  Palestine, đa phần trong số  đó là những người sống sót sau cuộc diệt chủng  trong  Đệ  nhị  thế  chiến, nên tinh thần quyết chiến rất cao vì họ  không còn  đường lùi nữa. Ngày 12/5 David Ben­Gurion được trưởng cố  vấn quân sự, do  ước tính  sai­phóng đại lực lượng và năng lực quân  Ả  Rập, thông báo là khả  năng chiến   thắng của Israel chỉ là 50­50. 2. Lực lượng Yishuv Tới tháng 11/1947, Haganah từ một lực lượng dân quân bán vũ trang đã trở  thành một tổ  chức quân đội quốc gia được tổ  chức chặt chẽ. Lực lượng này   gồm có một cánh quân cơ  động gọi là HISH, với 2.000 chiến binh thường trực  cả  nam lẫn nữ  và 10 ngàn quân dự  bị, tuổi từ  18 đến 25, cùng một lực lượng   tinh nhuệ  Palmach, bao gồm khoảng 2.100 chiến binh và một ngàn quân dự  bị.   Quân dự  bị  được huấn luyện khoảng 3­4 ngày một tháng, còn lại thì sinh hoạt  Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    18
  19. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 như  dân thường. Lực lượng cơ  động có thể  nhận hỗ  trợ  từ  lực lượng đồn trú  HIM (Heil Mishmar, hay lực lượng vệ binh), bao gồm những người tuổi ngoài  25. Tổng cộng Yishuv có khoảng 35.000 quân với từ 15.000 cho tới 18.000 chiến  binh và 20.000 binh sỹ  đóng trong doanh trại. Hai tổ chức bí mật Irgun và Lehi  có khoảng từ  2.000–4.000 và 500–800 thành viên. Có vài ngàn người đã từng  phục vụ trong quân đội Anh thời Đệ  nhị thế chiến, dù không phải là thành viên   của bất kỳ  tổ  chức bí mật nào, nhưng sẽ  đóng góp kinh nghiệm quân sự  quan  trọng cho cuộc chiến, Walid Khalidi cho rằng Yishuv còn có lực lượng Cảnh sát   định cư  Do Thái, khoảng 12.000 người, các tiểu đoàn Thanh niên Gadna, và  người định cư  vũ trang. Chỉ  có rất ít trong số  các đơn vị  kể  trên được huấn   luyện quân sự trước thời điểm tháng 12/1947. Năm 1946, Ben­Gurion quyết định là lực lượng Yishuv phải tự bảo vệ lấy  mình trong trường hợp cả  người  Ả  Rập Palestine và các quốc gia  Ả  Rập láng   giềng tiến hành một "chiến dịch thu mua vũ khí qui mô lớn tại các nước phương   Tây". Tới tháng 9/1947 Haganah có "10.489 súng trường, 702 súng máy hạng  nhẹ, 2.666 tiểu liên, 186 súng máy hạng trung, 672 cối cỡ nòng 50mm và 92 cối  cỡ nòng 76 mm", và còn mua được thêm nhiều vũ khí khác trong vòng vài tháng  đầu nổ ra chiến sự. Lực lượng Yishuv cũng có "cơ sở sản xuất vũ khí tương đối  tân tiến", và trong khoảng thời gian từ  tháng 10/1947 đến tháng 7/1948 "sản  Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    19
  20. Chiến tranh Ả Rập­Israel năm 1948                                      Lịch sử thế giới hiện đại học phần   2 xuất được 3 triệu viên đạn súng trường, 150.000 lựu đạn, 16.000 súng tiểu liên  Sten và 210 quả đạn cối 76mm". Thoạt đầu, Haganah không có súng máy hạng  nặng, xe bọc thép, vũ khí chống tăng hay pháo phòng không, cũng như không có   xe tăng và máy bay chiến đấu. Người ta không nhất trí được về  số  lượng vũ khí Yishuv sở  hữu khi chế  độ ủy nhiệm chấm dứt. Theo Karsh, trước khi chuyến hàng vũ khí từ Tiệp Khắc  chuyển đến, cứ 3 chiến sỹ thì chỉ có một khẩu súng, và thậm chí với lực lượng  Palmach, cứ  3 chiến sỹ  thì chỉ  có hai súng. Theo Collins và LaPierre, tới tháng   4/1948, Haganah có trong tay 20.000 súng trường và tiểu liên Sten cho 35.000  binh sỹ trên danh sách, còn theo Walid Khalidi thì "các lực lượng trên có thừa vũ   khí". 3. Lực lượng Ả Rập Cộng đồng  Ả Rập không có một lực lượng quân sự  thống nhất trên toàn   quốc, mà có hai tổ chức thanh niên bán vũ trang, lực lượng thân Husayni Futuwa  và lực lượng chống Husayni Najjada ("quân đoàn trù bị"). Theo Karsh, các nhóm   trên có khoảng 11.000–12.000 thành viên, nhưng theo Morris thì Najjada với đại  bản doanh đặt tại Jaffa và có từ 2.000–3.000 thành viên, đã bị tan rã trong thời kỳ  trước khi chiến tranh 1948 nổ  ra, khi Husayni tìm cách giành lấy quyền kiểm   Nguyễn Thị Thùy Trang­K37.602.104    20
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2