intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đề tài: Lưu vực sông Hồng - Thái Bình

Chia sẻ: Phạm Trang | Ngày: | Loại File: DOCX | Số trang:27

250
lượt xem
50
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Đề tài: Lưu vực sông Hồng - Thái Bình giới thiệu chung về lưu vực sông Hồng - Thái Bình, các vấn đề liên quan đến tài nguyên nước, những thách thức trong việc sử dụng và quản lý tài nguyên nước tại lưu vực sông; những giải pháp đề xuất nhằm sử dụng và phát triển bền vững tài nguyên nước.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đề tài: Lưu vực sông Hồng - Thái Bình

  1. MỤC LỤC        Trang I. Giới thiệu chung về lưu vực sông Hồng­Thái Bình 1 1. Vị trí địa lý 1 2. Hệ thống mạng lưới sông suối 2 3. Điều kiện khí hậu dòng chảy 3 4. Điều kiện mặt đệm 6 II. Các vấn đề liên quan đến tài nguyên nước 8 1. Thiên tai 8 2. Ô nhiễm nguồn nước 10 3. Phát triển thủy điện 11 4. Khai thác khoáng sản 12 III. Những thách thức trong việc sử dụng và 13 quản lý TNN tại lưu vực sông 1. Thách thức mang tính khách quan 13 2. Thách thức mang tính chủ quan 13 a. Xét tên góc độ quản lý b. Xét trên góc độ sử dụng IV. Những giải pháp đề xuất nhằm sử dụng 17  và phát triển bền vững TNN 1. Biện pháp khắc phục những vấn đề thiên tai 17 2. Một số quan điểm và giải pháp chiến lược để  19 bảo vệ và phát triển bền vững TNN 
  2. 3. Quản lý phát triển thủy điện 20 Bảng phân công công việc
  3. LƯU VỰC SÔNG HỒNG­THÁI BÌNH I.Giới thiệu chung về lưu vực sông Hồng­ Thái Bình:  1. Vị trí địa lý: ­ Lưu vực sông Hồng ­ sông Thái Bình là một lưu vực sông liên quốc gia chảy  qua 3 nước Việt Nam, Trung Quốc, Lào  với tổng diện tích tự  nhiên vào  khoảng 169.000km2 và diện tích lưu vực của hai sông này trong lãnh thổ  Việt  Nam vào khoảng 87.840km2.
  4. ­ Châu thổ  sông nằm hoàn toàn trong lãnh thổ  Việt Nam có diện tích  ước tính  khoảng   17.000km2.   Chiều   dài   sông   Hồng   trong   lãnh   thổ   Việt Nam khoảng  328km.  ­ Phần lưu vực nằm  ở  Trung quốc là: 81.200 km2 chiếm 48% diện tích toàn lưu  vực. Phần lưu vực nằm ở Lào là: 1.100 km2 chiếm 0,7 % diện tích toàn lưu vực.  Phần lưu vực nằm ở Việt Nam là: 87.840 km2 chiếm 51,3% diện tích lưu vực. ­ Đây  là  hệ   thống  sông  lớn   thứ   hai  (sau  hệ   thống   sông  Mêkông)   chảy  qua  Việt Nam đổ ra biển Đông. ­ Hai hệ thống sông được nối thông với nhau bằng sông Đuống và sông Luộc tạo   thành lưu vực sông Hồng ­ sông Thái Bình. Hạ  lưu sông Hồng kết hợp với hạ  lưu sông Thái Bình đã tạo thành đồng bằng sông Hồng­sông Thái Bình ­ Lưu vực sông Hồng ­ sông Thái Bình được giới hạn từ 20023’ đến 25030’ vĩ độ  Bắc và từ 1000 đến 107010’ kinh độ Đông. + Phía Bắc giáp lưu vực sông Trường Giang và sông Châu Giang của Trung   Quốc + Phía Tây giáp lưu vực sông Mêkông + Phía Nam giáp lưu vực sông Mã + Phía Đông giáp vịnh Bắc Bộ. ­ Phần lưu vực sông Hồng ­ sông Thái Bình trên lãnh thổ Việt Nam có vị trí địa lý  từ: 20023’ đến 23022’ vĩ độ Bắc và từ 102010’ đến 107010’ kinh độ Tây. 2. Hệ thống mạng lưới sông suối:  Sông Hồng: ­ Hệ  thống sông Hồng là hệ  thống sông lớn thứ  hai  ở nước ta, chỉ sau hệ thống   sông Mê Kông. Nhưng nếu xét về phần diện tích lưu vực cũng như lượng dòng   chảy được sinh ra trong lãnh thổ nước ta thì nó được xếp hàng đầu. ­ Địa hình lưu vực thấp dần theo hướng tây bắc­đông nam, độ  cao đường phân   nước (ranh giới lưu vực) xung quanh hệ thống sông bằng khoảng 2000­3000 m  ở lãnh thổ Trung Quốc và 1000­2000 m ở Việt Nam.  ­ Địa hình đồi núi chiếm phần lớn lưu vực với độ cao trung bình 1090 m. ­ Phần phía tây của lưu vực nằm trong lãnh thổ nước ta được giới hạn bởi khối   núi  ở  biên giới Việt­Lào với những đỉnh núi cao trên 1800 m như  Pu­đen­đinh  (1886 m), Pu­sam­sao (1987m), về phía bắc có dãy núi Pu­si­lung (3076 m) nằm  ở biên giới Việt­Trung.
  5. ­ Phía đông được giới hạn bởi cánh cung Ngân Sơn ­ Yên Lạc với những núi cao  trên 1500 m  như đỉnh Phia Bioc cao 1576 m. ­ Trung và thượng lưu của hệ thống sông là những khối núi và cao nguyên. Đáng  kể nhất là dãy Hoàng Liên Sơn kéo dài 180km từ biên giới Việt­Trung đến Vạn   Yên  với đỉnh Phan­xi­păng cao 3143 m, Pu Luông 2985 m. Đó cũng là đường  phân nước giữa sông Đà và sông Thao. Dãy núi Con Voi chạy gần song song với   sông Thao, là đường phân nước giữa sông Thao với sông Lô. Các cao nguyên đá  vôi có thể kể đến là các cao nguyên: Ta Phìn, Sín Chải, Sơn La, Mộc Châu trong   lưu vực sông Đà, các cao nguyên Bắc Hà, Quản Bạ, Đồng Văn trong lưu vực   sông Lô. ­ Xen kẽ  những cao nguyên, đồi núi là những thung lũng, bồn địa bằng phẳng  như các bồn địa Nghĩa Lộ, Quang Huy.  ­ Vùng trung du được đặc trưng bởi địa hình đồi dạng bát úp với độ cao dưới 50­ 100 m.  Sông Thái Bình: ­ Hệ thống sông Thái Bình do 3 sông: Cầu, Thương và Lục Nam hợp thành ­ Ở  phía nam Hà Nội, sông Đuống tách từ  sông Hồng và nhập vào sông   Thái Bình chảy về  phía đông. Cảng Hải Phòng nổi tiếng nằm  ở  phía bắc cửa  sông Thái Bình. ­ Các sông nhánh và phân lưu:  Sông Cầu Xe,  Sông Gùa,  Sông Hóa,  Sông  Kênh Khê, Sông Luộc, Sông Mía, Sông Sặt, Sông Văn Úc ­ Hệ thống sông: + Nằm ở khu vực đông bắc Bắc Bộ. + Phía tây và phía bắc giáp lưu vực sông Hồng. + Phía đông giáp hệ thống sông Kỳ Cùng ­ Bằng Giang. + Phía đông nam giáp lưu vực các sông nhỏ ở Quảng Ninh. + Phía nam giáp vịnh Bắc Bộ. + Phần phía tây và tây bắc là vùng núi cao thuộc cánh cung sông Gâm, Ngân Sơn   ­ Yên Lạc quy tụ  về  dãy núi Tam Đảo với đỉnh Pia­Bioc cao 1576 m, dãy núi  Tam Đảo ở phía tây nam với đỉnh cao 1592m. + Phần phía bắc và đông bắc là vùng núi thuộc cánh cung Bắc Sơn với một số  đỉnh núi cao trên 1000 m như đỉnh Cốc Xe 1131 m, Khao Kiên 1107 m, + Phía đông nam giáp với tỉnh Quảng Ninh là dãy núi Yên Tử cao 1068 m. ­ Vùng đồi núi thấp phân bố   ở  trung lưu sông Cầu, sông Thương và sông Lục   Nam với độ cao dưới 100­200 m. Vùng đồng bằng nằm ở  hạ  lưu các sông, địa   hình bằng phẳng và thấp. Nhìn chung, địa hình ở lưu vực sông Cầu thấp dần từ  bắc xuống nam, còn  ở  2 lưu vực sông Thương và sông Lục Nam thì thấp dần   theo hướng đông bắc ­ tây nam. Độ  cao trung bình của lưu vực của sông Cầu,  sông Thương xấp xỉ nhau (190 m) còn ở sông Lục Nam thì cao hơn (207m).
  6. 3. Điều kiện khí hậu dòng chảy:   Khái quát chung: ­ Toàn lưu vực sông Hồng nằm trong vùng nhiệt đới gió mùa với mùa Đông lạnh,  khô, ít mưa và mùa hè nóng  ẩm mưa nhiều, chịu tác đọng của cơ chế  gió mùa  Đông Nam Á với hai mùa gió: Gió mùa Đông và gió mùa Hạ. ­ Gió mùa Đông bị chị phối bởi không khí cực đới và không khí biển Đông  và biến tính. ­ Gió mùa Hại bị chi phối bởi ba không khí:  + Không khí nhiệt đới biển bắc ấn độ (gió Tây Nam) + Không khí xích đạo (gió Nam) + Không khí biển Thái Bình Dương (gió Đông Nam)  Chế độ bức xạ: ­ Do  ở  vùng khí hậu nhiệt đới, nên lưu vực sông Hồng ­ sông Thái Bình  hàng năm nhận được nguồn năng lượng bức xạ 100 ÷ 200 Kcal/cm 2/tháng, trung  bình là 60 ÷ 80 Kcal/cm2/tháng. Nhỏ nhất là tháng I và II có tổng lượng bức xạ  là 5÷8 kcal/cm2/tháng, lớn nhất là vào tháng VII, thời kỳ lên cao nhất trên Vĩ độ  Bắc lượng bức xạ tổng cộng tới 12 ÷ 16 Kcal/cm 2/tháng. Các tháng mùa hạ cán  cân bức xạ tăng tương đối đồng đều trên toàn lưu vực nên mức độ chênh lệch ít   hơn các tháng mùa đông. Một điều cần quan tâm là cán cân bức xạ thay đổi theo   cao độ địa hình (ở Hà Nội với cao độ  5m là 72,5 Kcal/cm2/năm; nhưng ở  Sa Pa  cao độ 1570 cán cân bức xạ chỉ còn 44,7 Kcal/cm2/năm).  Chế độ ẩm: ­ Độ   ẩm tương đối trung bình năm của không khí trên lưu vực  ở  phần   Việt Nam có trị số khá cao từ 80% ¸ 90%, thời kỳ khô nhất khoảng 75% và thời  kỳ  ẩm nhất nhiều nơi đạt đến hơn 90%. Phần lớn các vùng trong lưu vực đạt   hai giá trị cực đại và hai giá trị cực tiểu.
  7. ­ Cực đại thứ nhất thường xảy ra vào khoảng tháng II đến tháng III do có  nhiều mưa phùn và và ẩm ướt nhất trong năm (Yên Bái 90%, Hà Nội 87%, Hải  Phòng 91%, Nam Định 91%...). Cực đại thứ  hai xảy ra vào khoảng tháng VII   đến tháng VIII tương  ứng với thời gian nóng nhất và mưa nhiều trong năm   (Tuyên Quang, Hà Nội 86%, Hải Phòng 88%). ­ Cực tiểu thứ nhất xảy ra vào tháng V¸ VI và cực tiểu thứ hai xảy ra vào  khoảng tháng X ¸ XI tương  ứng với thời kỳ  vào đầu và cuối mùa mưa (Hoà  Bình, Phú Thọ, Hà Nội có độ ẩm khoảng 80 ¸83%). ­ Độ   ẩm   không   khí   tương   đối   trung   bình   nhiều   năm   của   lưu   vực   vào   khoảng 84%. Độ ẩm tương đối lớn nhất xuất hiện vào các tháng mùa Hè, mùa  xuân, nhất là các ngày có gió mùa Đông Bắc hoạt độngmạnh gây mưa lớn.   Trong các tháng này độ   ẩm tương đối thường cao hơn 86%. Độ  ẩm thấp nhất  xảy ra vào các tháng mùa Đông, đặc biệt vào những ngày gió Tây Nam khô nóng  hoạt động, trong thời kỳ này độ ẩm có thể nhỏ hơn 50%. ­ Sự  chênh lệch về  độ   ẩm không khí giữa mùa khô và mùa mưa của khu  vực này là thấp, tháng có độ ẩm tương đối nhỏ nhất là tháng XI, XII.  Chế độ nhiệt: ­ Lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình nằm giữa ranh giới của vùng   nhiệt  đới  nội  chí tuyến  (phần  Việt Nam và   một  phần lưu vực   thuộc   Trung   Quốc) và vùng cận chí tuyến (phần còn lại trên lãnh thổ  Trung Quốc). Nó vừa   chịu ảnh hưởng của gió mùa cực đới Châu á đồng thời do nằm sát bên bờ Thái   Bình Dương nên lại chịu  ảnh hưởng thường xuyên mãnh liệt của khí hậu biển  cả trong mùa hè và mùa đông, có khí hậu ôn hoà hơn về mùa hạ so với các vùng  nhiệt đới trong lục địa, nhưng lại có mùa đông lạnh hơn. Vì thế  lưu vực sông   Hồng có nền nhiệt thấp hơn các vùng nhiệt đới khác của hành tinh song độ ẩm  lại phong phú. So với toàn quốc lưu vực có nền nhiệt độ  bình quân hàng năm   thấp hơn. ­ Do chịu  ảnh hưởng nhiều của gió mùa Đông Bắc trong mùa đông và gió   mùa Tây Nam trong mùa hạ nên thời gian  ấm nóng trong phần lớn lưu vực kéo   dài từ  8 ¸ 9 tháng (tháng III¸ IX, có nhiệt độ  trung bình tháng trên 20oC, tháng  V¸ IX có nhiệt độ  cao hơn 25oC). Nhiệt độ  thấp  ở  hầu khắp trong lưu vực vào  tháng XII ¸ II (thấp nhất thường vào tháng I và đầu tháng II, trên vùng núi cao  vào những ngày giá rét thường có tuyết rơi và nước đóng băng trên bề  mặt  nhưng cũng chỉ xảy ra trong ngày. ­ Một điều cần lưu ý là vào đầu mùa hè (tháng V ¸ VI) gió mùa Tây Nam  phát triển mạnh, áp thấp  ấn ­ Miên di chuyển từ Tây sang Đông gây gió Tây  mang thời tiết khô nóng ảnh hưởng nhiều nên trên bề mặt lưu vực lưu vực sông  Đà và có khi còn tràn xuống cả trung du và đồng bằng sông Hồng (thời kỳ  này  thường đạt tới trị số cao tuyệt đối, trị số đó thường từ 40o ¸ 43oC).
  8. ­ Nhiệt độ không khí bình quân nhiều năm là 23,3oC. Nhiệt độ cao nhất vào  tháng VII với bình quân tháng là 28,8oC. Nhiệt độ thấp nhất là vào các tháng XII,  I bình quân vào khoảng 15, 9 đến 18,2oC.   Chế độ bốc hơi: ­ Xét theo không gian:  + Phần Trung Quốc thuộc lưu vực sông Hồng có lượng bốc hơi trung bình năm  rất lớn (Lấy theo số liệu 1961 ÷ 1963): Thượng nguồn sông Thao ở Ngụy Sơn:  2170 mm/năm, Lâm Bình: 2226 mm/năm, Mông Tự: 2362 mm/năm, Khai Hiển:  2502 mm/năm, Hà Khẩu 1494 mm/năm; Thượng nguồn sông Đà: Mặc Giang:  1780 mm/năm, Giang Thành: 1417 mm/năm; Thượng sông Lô: Văn Sơn: 2000  mm/năm. + Phần Việt Nam thuộc lưu vực sông Hồng có lượng bốc hơi trung bình năm   nhỏ  (là vùng có lượng bốc hơi nhỏ  nhất nước ta):  ở  Tây Bắc từ  660 ÷ 1150  mm/năm, Việt Bắc 500 ÷ 860 mm/năm, Thái Nguyên 730 ÷ 980 mm/năm, trung   du 560 ÷ 1050 mm/năm, đồng bằng 700 ÷ 990 mm/năm đến trên 80mm mỗi  tháng, trái lại trong các tháng mùa mưa lượng bốc hơi chỉ dưới 50mm.   Chế độ gió: ­ Gió hoạt động trên lãnh thổ  miền Bắc nói chung có thể  chia làm hai mùa: gió  mùa đông từ tháng XI ­ IV năm sau và gió mùa hạ từ tháng V ­ X. Tuy nhiên do   ảnh hưởng của điều kiện địa hình mà hướng gió hoạt động trên lưu vực sông   Hồng – Thái Bình mang nặng tính địa phương. ­ Hai hướng gió thịnh hành trong năm là hướng Nam và Đông Nam. Trong mùa  đông khi gió Đông Bắc tràn về, hướng gió Đông Bắc và Bắc cùng xuất hiện,  song không đều trên lưu vực và tần suất xuất hiện nhỏ hơn nhiều so với hướng   Đông Nam. Hướng Đông Nam không những thịnh hành trong mùa hè mà còn  thịnh hành trong cả  một số  tháng mùa đông, đồng thời là nguyên nhân tạo ra   những đợt nóng ấm xen kẽ trong mùa đông.  Chế độ mưa: ­ Lượng mưa trung bình thời kỳ  quan trắc của các trạm, khí tượng, đo mưa trên  lưu vực được minh hoạ trong bảng 3.5. Nhìn chung, lưu vực sông Hồng – Thái   Bình có khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm. Lượng mưa khá phong phú nhưng  phân bố  không đều theo không gian. Lượng mưa năm khá lớn nhưng chủ  yếu   tập trung vào mùa mưa. Lượng mưa năm biến động rất mạnh so với yếu tố khí  tượng khác, giá trị  cực đại tiểu cực đại của lượng mưa có thể  chênh nhau từ  hai đến ba lần. Nếu xét theo không gian trong lưu vực dao động trong khoảng  1200 ÷ 2000 mm, phần lớn trong khoảng 1800 mm/năm. Lượng mưa năm biến  đổi  rất   lớn   từ   700   ÷   4800  mm,   trong   đó   địa   phận   Trung   Quốc   700   ÷   2100  mm/năm, phần Việt Nam 1200 mm ÷ 4800mm (thuộc loại mưa lớn của thế 
  9. giới). Tạo ra tài nguyên khí hậu và tài nguyên nước rất phong phú trong lưu vực   sông Hồng ­ sông Thái Bình. ­ Sự phân bố lượng mưa trên lưu vực phụ thuộc rất nhiều vào địa hình và sự xắp  xếp các dãy núi: hướng đón gió và khuất gió. Địa hình cao, phía hướng đón gió   mưa nhiều và tạo thành các tâm mưa lớn là Bắc Quang, Mường Tè, Hoàng Liên  Sơn   có   lượng   mưa   khá   lớn.   Lượng   mưa   lớn   nhất   có   nơi   đạt   đến   600­ 700mm/tuần; 1200mm/tháng đặc biệt là trung tâm mưa Bắc Quang có năm đạt  đến 5499mm/năm. Những vùng khuất sau dãy núi chắn gió như thung lũng Yên  Châu, Cao nguyên Sơn La, lòng chảo Nghĩa Lộ, vùng thượng nguồn sông Gâm  có lượng mưa nhỏ đạt từ 1200mm đến khoảng 1600mm/năm. Vùng đồng bằng  có lượng mưa trung bình từ 1400mm đến hơn 2000mm. ­ Lượng mưa biến đổi qua nhiều năm không lớn, năm mưa nhiều gấp 2­3 lần  lượng mưa năm mưa ít. Do đặc tính khí hậu nhiệt đới gió mùa nên chế độ mưa  trên lưu vực sông Hồng biểu hiện tính mùa khá rõ rệt. Mùa mưa thường kéo dài  5 tháng từ tháng VI đến tháng X. Nơi mưa nhiều có thể kéo dài 7­8 tháng. Nhiệt  độ không khí trung bình từ 15oC – 24oC. Lượng bốc hơi trung bình năm (đo bằng  ống Piche) từ 600mm ở vùng núi cao đến hơn 1000mm ở vùng đồng bằng.... 4. Điều kiện mặt đệm ­ Mặt đệm dùng để chỉ khoảng không gian địa lý bề mặt Trái đất, được giới hạn  phía trên là khí quyển và phía dưới là ranh giới hoạt động của nước ngầm tầng   nông. Mặt đệm là hệ  thống động tự  nhiên của bề  mặt trái đất, nơi bộc lộ  sự  tương tác hoạt động của thạch quyển, thủy quyển, sinh quyển, khí quyển và  các hoạt động của con người. ­ Các yếu tố cơ bản tạo thành mặt đệm bao gồm: Địa hình, địa mạo, các lớp đất   đá, thảm thực vật, hệ thống nước ngầm tầng nông, các công trình nhân tạo. +  Địa hình, địa mạo: Địa hình lưu vực sông Hồng có hướng dốc chung từ  tây bắc  xuống đông nam, địa hình phần lớn là đồi núi, chia cắt mạnh, khoảng 70% diện tích ở  độ cao trên 500m và khoảng 47% diện tích lưu vực ở độ cao trên 1000m. Độ cao bình   quân lưu vực khoảng 1090m. Phía tây có các dãy núi  ở  biên giới Việt Lào, có nhiều   đỉnh cao trêm 1800m như  đỉnh Pu ­ Si ­ Lung (3076m), Pu ­ Den ­ Dinh (1886m), Pu ­   San ­ Sao (1877m). Những đỉnh núi này là đường phân nước giữa hệ thống sông Hồng   với hệ thống sông Mê Kông. Trong lưu vực có dãy Hoàng Liên Sơn phân chia sông đà  và sông Thao, có đỉnh Phan Xi Pan cao 3143m, là đỉnh núi cao nhất  ở nước ta. Độ  cao   trung bình lưu vực của sông ngòi lớn, độ  chia cắt sâu dẫn tới độ  dốc bình quân lưu  vực lớn, phổ  biến độ  dốc bình quân lưu vực đạt từ  10% đến 15%. Một số  sông rất  dốc như  Ngòi Thia đạt tới 42%, Suối Sập 46,6%.Địa hình lưu vực sông Thái Bình là   địa hình dạng đồi, với độ cao phổ biến từ 50m đến 150m, chiếm 60% diện tích. Rất ít  đỉnh cao vượt quá 1000m. Chỉ  có một số  đỉnh như  Tam đảo có độ  cao 1591m, Phia   Đeng cao 1527m. Núi đồi trong hệ  thống sông Thái Bình có hướng Tây bắc ­ Đông   nam tồn tại song song với những vòng cung mở  rộng về  phía Bắc. Đồng bằng sông 
  10. Hồng Thái bình được tính từ Việt Trì đến cửa sông chiếm hơn 70% diện tích toán lưu  vực. Địa hình thấp và tương đối bằng phẳng, độ cao trung bình khoảng 25m. Dọc theo  các sông  ở  đồng bằng đều có đê chia cắt 4 đồng bằng thành những ô tương đối độc  lập. Vùng cửa sông giáp biển có nhiều cồn cát và bãi phù sa. + Thảm thực vật: Thực vật trong lưu vực sông Hồng­Thái Bình rất phong phú. Do sự  khác biệt về điều kiện khí hậu và thuỷ văn, rừng phân bố theo độ cao và được chia ra   2 loại chính, từ 700m trở lên và dưới 700m. Từ 700m trở lên, rừng chủ yếu là rừng kín   hỗn hợp lá cây rộng, lá kim  ẩm á nhiệt đới và rừng kín thường xanh mưa  ẩm nhiệt   đới.  ở  độ  cao dưới 700m, rừng chủ yếu là rừng kín thường xanh mưa  ẩm nhiệt đới.   Ngoài ra, còn có các loại rừng trồng, các loại cây bụi trên các đồi trọc. Do khai thác,  đốt phá rừng bừa bãi nên tỷ lệ rừng che phủ trong lưu vực còn tương đối thấp, nhất là  vào các thập kỷ 70 và 80 của thế kỷ 20. Theo kết quả điều tra của Viện Điều tra Quy   hoạch rừng, tỷ  lệ  rừng che phủ  vào đầu thập kỷ  80 trong lưu vực sông Hồng­Thái   Bình phần thuộc lãnh thổ Việt Nam chỉ còn khoảng 17,4%. Trong những năm gần đây,   nhờ  có phong trào trồng và bảo vệ  rừng nên tỷ  lệ  rừng che phủ   ở  các tỉnh trong lưu  vực sông Hồng­Thái Bình đã tăng lên đáng kể. Tính đến năm 1999, tỷ lệ rừng che phủ  ở  vùng trung du và miền núi đã tăng lên 35%. Lớp phủ  thực vật trên lưu vực sông  Hồng biến đổi theo độ  cao của mặt lưu vực, theo điều kiện thổ  nhưỡng. Phần lớn   vùng núi và vùng đồi là rừng trồng và rừng tự nhiên, đất hoang. Vào năm 1960 còn 3,6  triệu ha chiếm 42%. Nhưng vào năm 1987 chỉ  còn khoảng 2,66 triệu ha tức 31%, còn  đất khoảng 5 triệu ha tức 58%. Rừng trên lưu vực sông Hồng có tác dụng ngăn lũ   chống xói mòn, tăng độ ẩm của lưu vực. Việc phá rừng trong 3 thập kỷqua đã làm cho   tỷ  lệ  diện tích tầng phủ  trên lưu vực giảm đến mức nguy hiểm, cần được xem xét  khắc phục. + Hệ thống nước ngầm tầng nông: Ðến nay, trên lưu vực sông Hồng ­ sông Thái Bình  có 42 vùng, với diện tích 10.325km2 đã được tìm kiếm ­ thăm dò và đánh giá trữ lượng   khai thác nước dưới đất. Kết quả  xác định được trữ  lượng cấp A: 1.292.000m3 /ng,   cấp B: 585,5m3 /ng, cấp C1: 1.232.700m3/ng. + Các công trình nhân tạo: Toàn lưu vực có tổng số: 239 nhà máy xí nghiệp vừa và   lớn trong đó: Lưu vực sông Đà 8 nhà máy. Lưu vực sông Thao 230 nhà máy. Lưu vực  sông Lô ­ Gâm 1 nhà máy. Ngoài ra còn hàng ngàn nhà máy xí nghiệp nhỏ. 34 Hiện nay   ngành công nghiệp đang được đầu tư. Các nhà máy, khu công nghiệp chế  xuất hình  thành và phát triển như: Khu công nghiệp Nội Bài­Sóc Sơn, Khu công nghiệp Thăng   Long, khu liên doanh YAMAHA, khu Chế xuất Vĩnh Yên­Vĩnh Phúc,... II. Các vấn đề liên quan đến tài nguyên nước
  11. 1. Thiên tai Những năm gần đây, tình trạng hạn hán và xâm nhập mặn đã ảnh hưởng lớn đến hệ  thống tưới phục vụ  sản xuất nông nghiệp của các tỉnh Đồng bằng sông Hồng. Thực  tế  này đang diễn ra ngày càng phức tạp và có chiều hướng gia tăng nhanh đòi hỏi   ngành nông nghiệp cần xây dựng những giải pháp để ứng phó. Trong vài năm trở lại đây, mực nước ở hạ du tại Hà Nội giảm thấp và có chiều hướng  ngày càng trầm trọng. Dòng chảy trên hệ  thống các sông chính  ở  Đồng bằng sông  Hồng mùa kiệt xuống thấp gây  ảnh hưởng lớn đến phát triển kinh tế, Từ  năm 2011,   hồ  chứa Thủy điện Sơn La đi vào hoạt động đã giúp cho dòng chảy sông Hồng và   sông Thái Bình được cải thiện một phần, nhưng tình trạng hạn hán và xâm mặn vẫn   diễn ra. Những năm gần đây, trên hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình chưa xuất hiện lũ lớn,  song khả năng xuất hiện lũ lớn, lũ đặc biệt lớn luôn tiềm ẩn và là mối nguy hiểm rình  rập đối với các công trình phòng chống lũ, do đó cần phải chủ động các phương án đề  phòng khả năng xảy ra lũ lớn. Biến đổi khí hậu và khai thác tài nguyên nước trên thượng nguồn sông Hồng đang đặt  ra những vấn đề mới trong công tác phòng, chống lũ trên sông Hồng. Gần một nửa diện tích lưu vực và tổng lượng nước của sông Hồng nằm ngoài biên   giới, hàng chục công trình thủy điện hồ  chứa lớn, nhiều công trình thủy điện lớn đã   vận hành. Tình hình này sẽ tạo ra các tình huống phức tạp trong vấn đề  cắt lũ và tích   nước phát điện của các công trình thủy điện Sơn La, Hòa Bình,  ảnh hưởng cả  đến   thủy điện Thác Bà, Na Hang. Theo Quyết định 92/2007/QĐ­TTg ngày 21/6/2007 của Thủ tướng Chính phủ,  các giải   pháp phòng, chống lũ hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình, bao gồm: điều tiết các hồ   chứa cắt giảm lũ; trồng rừng phòng hộ đầu nguồn; củng cố và nâng cấp hệ thống đê   điều; cải tạo lòng dẫn tăng khả năng thoát lũ; tràn qua các đường tràn cứu hộ và có   giải pháp bảo đảm an toàn đê trong trường hợp tràn toàn tuyến; tổ chức hộ đê và cứu   hộ đê điều.
  12. Ngay 17/9/2015, Th ̀ ủ tướng Chính phủ ban hành Quyết định số 1622/QĐ­TTg về  việc   ban hành Quy trình vận hành liên hồ  chứa trên lưu vực sông Hồng. Theo đo, ban ́   ̀ ̀ ́ ̣ ̀ ̀ ̣ ̀ ̀ ứa trên lưu vực sông Hông, hanh kem theo Quyêt đinh nay Quy trinh vân hanh liên hô ch ̀   ̀ ́ ̀ ơn La, Hoa Binh, Thac Ba, Tuyên Quang, Lai Châu, Ban Chat va bao gôm cac hô: S ̀ ̀ ́ ̀ ̉ ́ ̀  ̣ ̉ Huôi Quang. ­ Mùa lũ trong Quy trinh đ ̀ ược quy đinh (t ̣ ừ  15/6 đến 15/9), mua can đ ̀ ̣ ược (từ  16/9 đến 14/6 năm sau). Quy đinh nêu ro, trong th ̣ ̃ ời gian làm nhiệm vụ  đảm  bảo an toàn chống lũ, việc vận hành các công trình xả đáy và xả mặt phải thực  hiện theo quy trình vận hành công trình xả, nhằm đảm bảo  ổn định cho hệ  thống công trình đầu mối. Để  tránh thiệt hại đến công trình đầu mối, công   trình đê điều, phương tiện giao thông thủy, sạt lở bờ sông và ảnh hưởng sản  xuất của nhân dân ở hạ du, quy định việc vận hành xả lũ các hồ  như  sau: Hồ  Hòa Bình đóng, mở lần lượt 6 cửa xả đáy đầu tiên, mỗi cửa cách nhau 6 giờ,  các cửa tiếp theo có thể đóng, mở nhanh hơn. Hồ Tuyên Quang đóng, mở  lần   lượt 4 cửa xả đáy đầu tiên, mỗi cửa cách nhau 6 giờ, các cửa tiếp theo có thể  đóng, mở nhanh hơn. Đối với thời kỳ xả hiệu chỉnh vào cuối mùa lũ, cho phép  thời gian đóng, mở cửa xả đáy cuối cùng nhanh hơn, tùy theo lưu lượng nước   đến hồ. Khi xả  lũ đảm bảo an toàn công trình, được phép đóng, mở  cấp tốc   các cửa xả, thời gian đóng mở các cửa xả thực hiện theo quy định thao tác của  thiết bị.Để đảm bảo chống lũ an toàn và nâng cao hiệu ích phát điện, quy định  3 thời kỳ  vận hành trong mùa lũ như  sau: Thời kỳ  lũ sớm: từ  15/6 đến 19/7;   Thời kỳ lũ chính vụ: từ 20/7 đến 21/8; va th ̀ ời kỳ lũ muộn: từ 22/ 8 đến 15/9 ­ Trong mùa cạn (từ  16/9 đến 14/6 năm sau), các hồ  Hòa Bình, Thác Bà,   Tuyên Quang phối hợp vận hành nhằm đảm bảo duy trì mực nước tại Trạm   thủy văn Hà Nội không thấp hơn 2,2m trong các đợt xả nước gia tăng. Các hồ  Sơn La, Lai Châu, Bản Chát và Huội Quảng phối hợp vận hành xả  nước bổ  sung cho hồ Hòa Bình. Trong thời gian vận hành các hồ chứa, căn cứ vào mực   nước hồ hiện tại và dự báo dòng chảy đến hồ trung bình 10 ngày tới để  điều  chỉnh vận hành sao cho mực nước hồ không nhỏ hơn giá trị  tại các thời điểm   quy định. Ngày 18­2­2016 Thủ  tướng Chính phủ  phê duyệt Quy hoạch phòng chống lũ và quy   hoạch đê điều hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình. (Tổng kinh phí thực hiện quy  hoạch khoảng 112.668 tỉ đồng, dự kiến giai đoạn đến 2030 là 55.511 tỉ đồng; giai đoạn  sau năm 2030 là 57.157 tỉ  đồng. Nguồn vốn này được lấy từ  ngân sách trung  ương, 
  13. ngân sách địa phương, huy động vốn ODA, nguồn vốn xã hội hóa, nguồn thu từ  đấu  giá quyền sử dụng đất vùng bãi sông hoặc đầu tư theo hình thức đối tác công tư). ­ Phạm vi quy hoạch là khu vực trung du và đồng bằng hệ thống sông Hồng, sông  Thái Bình, bao gồm địa phận 15 tỉnh, thành phố là: Hoà Bình, Hà Nội, Hà Nam,  Nam Định, Ninh Bình, Hưng Yên, Hải Dương, Thái Bình, Hải Phòng, Quảng  Ninh, Phú Thọ, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh, Bắc Giang, Thái Nguyên. ­ Mục tiêu chung của quy hoạch là chủ  động phòng, chống lũ, bão trên lưu vực   sông Hồng, sông Thái Bình làm cơ  sở  để  lập và điều chỉnh quy hoạch phòng   chống lũ chi tiết các tuyến sông có đê, quy hoạch đê điều, quy hoạch sử  dụng  đất, quy hoạch xây dựng và các quy hoạch khác có liên quan trên địa bàn các  tỉnh, thành phố trong hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình và làm cơ sở cho các  Bộ,   ngành,  địa   phương  có  liên  quan thực  hiện  quản  lý,  điều  hành công tác  phòng, chống lũ, bão và xây dựng kế hoạch đầu tư các công trình phòng, chống   lũ, bão, công trình đê điều trong trung, dài hạn đến năm 2030 và tầm nhìn đến  năm 2050. ­ Mục tiêu cụ thể là xác định mức bảo đảm phòng, chống lũ cho vùng đồng bằng   hệ thống sông Hồng, sông Thái Bình; xác định lũ thiết kế của tuyến sông có đê   gồm lưu lượng lũ và mực nước lũ thiết kế. Đồng thời, đề  xuất các giải pháp   nhằm đảm bảo phòng, chống lũ theo tiêu chuẩn thiết kế  cho hệ  thống sông  Hồng, sông Thái Bình; đề  xuất giải pháp quản lý, khai thác, sử  dụng hiệu quả  bãi sông phù hợp với quy định của Luật Đê điều và các quy định pháp luật có  liên trên nguyên tắc bảo đảm an toàn đê điều, không  ảnh hưởng lớn đến thoát   lũ, chủ  động dành không gian cho phát triển trong tương lai và  ứng phó với  những bất thường chưa lường hết  được; đề  xuất phương án quy hoạch hệ  thống đê từ cấp III đến cấp đặc biệt trên toàn vùng đồng bằng và trung du sông  Hồng, sông Thái Bình và đề  xuất các giải pháp thực hiện quy hoạch, dự  kiến   những hạng mục ưu tiên, ước tính nguồn lực để thực hiện. 2. Ô nhiễm nguồn nước ­ Sông Hồng có lượng phù sa lớn nên hàm lượng chất rắn lơ  lửng và sắt   trong nước khá cao, đây là đặc trưng tự  nhiên của sông. Môi trường nước khu  vực đầu nguồn lưu vực sông phần lớn đều nằm trong ngưỡng A1 QCVN (nước  
  14. có thể sử dụng cho mục đích sinh hoạt). Tuy nhiên, tại các đoạn sông chảy qua   các nhà máy, khu vực tập trung hoạt động sản xuất công nghiệp, môi trường   nước đã có dấu hiệu bị ô nhiễm. Đoạn sông Hồng chảy qua Thủ đô Hà Nội, các  thông số  ô nhiễm thường xấp xỉ  ngưỡng A1. Một vấn đề  cũng cần tiếp tục   được  quan tâm  theo dõi  thường  xuyên,  đó  là  việc   giám sát chất lượng  môi  trường nước sông Hồng khu vực đầu nguồn, vùng giáp ranh với Trung Quốc. ­ Chất lượng nước sông Hồng đã và đang bị ô nhiễm    Sông Nhuệ ­ Đáy ô nhiễm vì rác và nước thải  ­ Lưu vực sông Nhuệ ­ sông Đáy nằm ở hữu ngạn sông Hồng với tổng diện tích   tự nhiên 7.388 km2, chiều dài khoảng 242 km gồm các tỉnh Hà Nam, Nam Định,  Ninh Bình, Hòa Bình và Thủ đô Hà Nội. ­ Chất  BOD5 vượt quá giới hạn cho phép của quy chuẩn kĩ thuật quốc gia lên   tới 3,8 lần ; COD cao hơn 2,73 lần giới hạn cho phép ; Coliform cao hơn 10 lần   hạn cho phép loại A2. Tính đến cuối năm 2014, sông Đáy và Sông Nhuệ có tới 8  lần bị xả thải ô nhiễm và tình trạng ô nhiễm không giảm bớt so với năm trước.  ­ Những kênh mương dọc sông Nhuệ ­ Đáy gần các khu dân cư nguồn nước đen  ngòm trở thành nơi chứa rác, chất thải ở các khu dân cư để chảy thẳng ra sông  Nhuệ  ­ Đáy khiến dòng sông ngày càng ô nhiễm nghiêm trọng. Theo số  liệu   thống kê của Bộ Tài nguyên và Môi trường, tính đến tháng 10/2015, trên lưu vực  sông Nhuệ ­ sông Đáy có khoảng 1.950 nguồn thải, trong đó 1.542 nguồn thải là   cơ  sở  sản xuất, kinh doanh, 40 nguồn thải của khu công nghiệp, cụm công  nghiệp, 132 cơ sở y tế, 142 làng nghề. ­ Kết quả điều tra cơ bản cho thấy, tình hình ô nhiễm lưu vực sông Nhuệ ­ sông  Đáy trên địa bàn TP Hà Nội chủ  yếu do nguồn nước thải, bao gồm nước thải   sinh hoạt, nước thải từ  các nhà máy công nghiệp, cơ  sở  sản xuất và dịch vụ,  nước thải từ  các hoạt động nông nghiệp, làng nghề. Trong đó, nước thải sinh   hoạt chiếm 60% tổng lượng nước thải trên toàn lưu vực. Lượng nước thải sinh  hoạt của thành phố đổ  vào sông Nhuệ  mỗi năm một tăng, do tốc độ  phát triển  đô thị. 
  15. ­ Đặc biệt, không ít khu đô thị  mới được hoàn thành và đưa vào sử  dụng, nhưng   không có hệ thống thu gom, xử lý nước thải tập trung đã và đang là tác nhân gây  ô nhiễm. Điển hình như  khu  đô thị  Định Công, Linh Đàm, Pháp Vân (quận  Hoàng Mai); khu đô thị  mới Mễ  Trì Hạ  (quận Từ  Liêm); khu đô thị  Văn Quán  (quận Hà Đông)…  ­ Đáng lo ngại không kém là hơn 300 doanh nghiệp, cơ sở sản xuất trong các làng  nghề và cụm công nghiệp, nơi phát sinh nước thải công nghiệp không qua xử lý  nhưng cũng được xả  thẳng vào sông Nhuệ, sông Đáy. Cơ  quan chức năng đã   thống kê được danh sách những “điểm đen” này, như các cơ sở sản xuất thuộc   làng nghề  thu mua, tái chế  nhựa Tân Triều (huyện Thanh Trì); làng nghề  dệt   lụa Vạn Phúc; in, nhuộm vải Dương Nội (quận Hà Đông); các làng nghề  chế  biến nông sản thực phẩm thuộc xã Minh Khai, Cát Quế, Dương Liễu (huyện  Hoài Đức). Bình quân, lưu vực sông Nhuệ  ­ sông Đáy thuộc địa bàn Hà Nội  phải   tiếp   nhận   lượng   nước   thải   của   hơn   100   làng   nghề   từ   45.000   đến  60.000m3/ngày. 3. Phát triển thủy điện
  16. - Sông   Hồng   được   đánh   giá   là   lưu   vực   sông   có   tiềm   năng   thủy   điện  lớn nhất trong các hệ thống sông nằm trong lãnh thổ  Việt Nam,  tập trung chủ  yếu 2 chi lưu lớn là sông Đà và sông Lô – Gâm - Trên thượng nguồn sông Hồng, phía Trung Quốc đang khai thác mạnh  mẽ nguồn nước để phát triển thuỷ điện 4. Khai thác khoáng sản
  17. - Đất phù sa: Diện tích đất nông nghiệp khoảng 760.000 ha, trong đó 70%  là đất phù sa màu mỡ, có giá trị lớn về sản xuất nông nghiệp. Đất nông nghiệp  chiếm 51,2% DT vùng. - Tài nguyên nước phong phú, có giá trị  lớn về  kinh tế  là hệ  thống sông  Hồng­Thái Bình. Ngoài ra còn có nước ngầm, nước nóng, nước khoáng. - Tài nguyên biển: bờ biển dài 400 km, vùng biển có tiềm năng lớn để phát   triển nhiều ngành kinh tế (đánh bắt và nuôi trồng thuỷ sản, giao thông, du lịch)  Khoáng sản không nhiều, đáng kể nhất là trữ lượng than nâu trữ  lượng dự  tính  là 8,8 tỉ  tấn. Khí thiên nhiên được thăm dò và khai thác  ở  Tiền Hải­Thái Bình.   Tuy nhiên, khoáng sản làm vật liệu xây dựng khá phong phú như  đá vôi hàng tỉ  tấn - Đất sét, đặc biệt là đất sét trắng  ở  Hải Dương, phục vụ  cho phát triển   sản xuất các sản phẩm sành sứ. - Tài  nguyên đá  vôi  ở   Thuỷ  Nguyên  ­ Hải  Phòng đến Kim Môn  ­ Hải  Dương, dải đá vôi từ  Hà Tây đến Ninh Bình chiếm 5,4% trữ  lượng đá vôi cả  nước, phục vụ cho phát triển ngành công nghiệp vật liệu xây dựng. - Tài nguyên than nâu ở  độ  sâu 200m đến 2.000m có trữ  lượng hàng chục  tỷ tấn đứng hàng đầu cả nước, hiện chưa có điều kiện khai thác. - Ngoài ra vùng còn có tiềm năng về  khí đốt. Nhìn chung khoáng sản của   vùng không nhiều chủng loại và có trữ  lượng vừa và nhỏ  nên việc phát triển  công nghiệp phụ thuộc nhiều vào nguồn nguyên liệu từ bên ngoài. - Tuy nhiên, tình trạng khai thác cát tự  phát diễn ra  ở  nhiều nơi.  Ở  Hải   Dương, nhu cầu san lấp mặt bằng để phát triển các khu công nghiệp, khu đô thị  mới, đòi hỏi từ  3,5 đến 4 triệu m3 cát. Phần lớn số  lượng cát này được khai  thác tự  do từ  sông Thái Bình và sông Kinh Thầy. Tình trạng khai thác cát trái  phép cũng diễn ra ở dọc tuyến sông Cầu, gây ra sạt lở bờ vào sát chân đê ở khu   vực xã Việt Thống, huyện Quế  Võ. Trên sông Đuống, khu vực gần cầu Phù  Đổng, hàng ngày hàng trăm m3 cát cũng được lấy từ lòng sông III. Những thách thức trong việc sử dụng và quản lý TNN tại lưu vực sông 
  18. 1. Thách thức mang tính khách quan ­ Biến đổi khí hậu hiện đang có ảnh hưởng trực tiếp đến lưu vực sông Hồng –  Thái Bình: hạn hán và lũ lụt xảy ra ngày càng nghiêm trọng (dễ  xảy ra lũ lớn  bất thường, không như quy luật chuỗi thủy văn truyền thống đã được tính toán  trong quy hoạch lũ, hạn hán đã xảy ra 3 năm liên tiếp tại các tỉnh ĐBSH do   mực nước sông tại Hà Nội đã thấp nhất trong vòng 100 năm lại đây) ­ Lưu vực sông Hồng – Thái Bình đang ngày càng chịu nhiều  ảnh hưởng từ  Trung Quốc ­ nước thượng nguồn.  ­ Khi mà gần một nửa diện tích lưu vực và tổng lượng nước của sông Hồng nằm  ngoài biên giới, hàng chục công trình thủy điện hồ  chứa lớn, nhiều công  trình thủy điện lớn đã và sắp đưa vào vận hành. Tình hình đó sẽ tạo ra các  tình huống phức tạp trong vấn đề  cắt lũ và tích nước phát điện của các công   trình Thủy điện Sơn La, Hòa Bình,  ảnh hưởng cả  đến Thủy điện Thác Bà, Na  Hang. 2. Thách thức mang tính chủ quan a) Xét trên góc độ quản lý: ­ Năng lực cán bộ chuyên ngành còn nhiều hạn chế  ở nhiều địa phương nên cần  có kế hoạch đào tạo nâng cao chuyên môn; ­ Quy hoạch hệ thống thuỷ lợi hiện nay vẫn chưa đồng bộ, nhiều công trình còn  gây lãng phí do không phát huy hiệu quả; thuỷ lợi vẫn nặng về tính xây dựng   cơ  bản, việc đổi mới nhằm nâng cao hiệu quả  quản lý, sử  dụng nước chậm   chuyển biến. ­ Sự phối hợp trong việc quản lý bảo vệ tài nguyên nước giữa các tỉnh trong lưu  vực chưa được chặt chẽ, thống nhất.  Trong quá trình phát triển kinh tế của mỗi tỉnh vì lợi ích riêng của mình dẫn đến còn   có những bất cập gây  ảnh hưởng lẫn nhau như: các tỉnh nằm  ở  thượng và trung lưu   như  Phú Thọ, Thái Nguyên quá trình sử  dụng nước cho công nghiệp đã thải các chất   độc hại và nước thải thông qua xử lý làm ảnh hưởng tới chất lượng nước của các tỉnh   nằm dưới hạ  lưu. Các tỉnh miền núi đã không kiểm soát được việc triển khai rừng,  khai thác khoáng sản bừa bãi đã gây ô nhiễm cạn kiệt nguồn nước và bồi lắng sông,  
  19. hồ ở hạ lưu. Các tỉnh đồng bằng các sông, suối, kênh mương liên quan đến nhiều tỉnh   cũng có sự  quá tải khi tiếp nhận nguồn nước thải của các đô thị  lớn và khu công   nghiệp không qua xử lý gây ô nhiễm nguồn nước của các địa phương lân cận ­ Sự  phối hợp giữa các ngành vẫn còn có xảy ra những bất cập: ngành điện và  nông nghiệp: ngành điện muốn có sản lượng điện cao thì ngoài việc tích nhiều   nước và xả qua tuabin yêu cầu lớn và đều nhưng nông nghiệp lại cần điều tiết  để  bảo đảm đủ  nước lúc kiệt nhất và giữ  lại nước khi phải tiêu  úng, chống   lũ... ­ Đối với ngành thuỷ sản việc xây dựng các hồ chứa, đập ngăn nước lớn đã làm  giảm hẳn đôi khi mất đi những loài cá quý (cá Anh Vũ trên sông Lô) hoặc làm  cản trở  các giống cá vùng nước lợ  chuyên đẻ  trứng  ở  vùng nước ngọt vì vậy  làm giảm nguồn cung cấp cá con cho sông ngòi.  ­ Việc xây dựng các hồ chứa để tích nước điều tiết nước phục vụ cho mục đích  phát triển các ngành kinh tế  quốc dân, nhưng với những hồ  có cảnh quan đẹp  phù hợp với du lịch thì du lịch đề nghị  chuyển đổi mục đích sử dụng đã xảy ra  cạnh tranh gay gắt giữa du lịch và ban quản lý công trình thuỷ  lợi như  hồ  Đại   Lải, hồ  Đồng Mô – Nga Sơn. Giải quyết việc này đôi lúc phải đưa lên cấp   Chính phủ. ­ Nhiệm vụ phục vụ của ngành nông nghiệp đang chịu sức ép vô cùng lớn; ­ Một số công trình đang bị  xuống cấp, tuy nhiên nguồn vốn trong nước đang bị  hạn chế; ­ Chúng ta còn thiếu nhiều chế tài xử phạt hành chính, cấp phép sử dụng nước và   xả nước thải để điều chỉnh có tính chất vĩ mô giải quyết mâu thuẫn trong việc  quản lý nước theo ranh giới hành chính và ranh giới thuỷ  văn của hệ  thống   nguồn nước. b) Xét trên góc độ sử dụng ­ Trong khi chưa có hệ  thống xử  lý nước thải chung thì nguồn tài nguyên nước  đang được khai thác ngày càng nhiều để phục vụ  cho sản xuất, phát triển công  nghiệp.  ­ Thời gian qua đã xuất hiện tình trạng ô nhiễm nguồn nước có tính chất liên   tỉnh. 
  20. Phát triển công nghiệp  ở Đồng bằng sông Hồng đã có quá trình lịch sử lâu dài, hình   thành nên các trung tâm công nghiệp phân bố chủ yếu ở các địa phương như Hà Nội,   Hải Phòng, Hải Dương, Quảng Ninh…Tuy vậy, đến nay vẫn còn tình trạng nhiều khu   công nghiệp, nhiều nhà máy lớn xả thải chưa qua xử lý xuống hệ thống sông hồ xung   quanh, gây ô nhiễm nguồn nước tại nhiều đoạn sông trên lưu vực. ­ Hiện các lưu vực sông khu vực miền Bắc nói chung và vùng Đồng bằng sông  Hồng nói riêng đã và đang chịu áp lực mạnh mẽ của quá trình gia tăng dân số,   đô thị hóa, công nghiệp hóa. Các khu đô thị, khu dân cư và khu công nghiệp tập  trung được hình thành và phát triển mạnh dọc theo các lưu vực sông. Trong số  các nguồn thải phát sinh thì nước thải sinh hoạt và nước thải công nghiệp  chiếm tỷ lệ lớn, với tổng lượng các chất ô nhiễm rất cao. Do đặc điểm điều kiện tự  nhiên và tình hình phát triển kinh tế­xã hội thuận lợi, nên   tổng số dân khu vực miền Bắc đã lên tới khoảng trên 31 triệu người. Trong đó dân số   đô thị lên gần 8,1 triệu, tăng nhanh gấp 3 lần mức tăng dân số cả nước. Nước thải công nghiệp Khu công nghiệp Lâm Thao ­ Việt Trì. Đây là khu vực tập trung nhiều nhà máy hoá   chất, chế biến thực phẩm, dệt, giấy nên nước nhiễm bẩn đáng kể. Lượng nước thải ở   đây đến 168.000 m3/ngày đêm, vào mùa cạn nước sông nhiễm bẩn nặng. Nước sông   Lô từ nhà máy Giấy Bãi Bằng tới nhà máy Supe Lâm Thao bị nhiễm H2S nặng, có mùi   trứng thối. Khu công nghiệp Tam Bạc ­ Hải Phòng xả  nước thải vào sông Tam Bạc từ  các nhà   máy xi măng, ắc quy, mạ điện, giấy...  Khu công nghiệp Nam Định. Các nhà máy dệt xả thẳng nước thải vào kênh tiêu nước   sinh hoạt rồi đổ vào kênh Cốc Thành. Lưu lượng nước thải khoảng 800 m3/giờ, trong   đó có muối Natri, Sulphua, Natri cabonat, NaOH, HCl, Sulphuaric... Các chất hữu cơ   chủ yếu là hồ tinh bột, cellulo, polyester, thuốc nhuộm... nước thải có màu đen, thối. Hiện nay, không chỉ   ở  thành thị, mà ngay cả   ở  khu vực nông thôn, lượng  nước thải cũng chiếm tỷ lệ rất lớn và tăng nhanh qua các năm.  Lưu vực sông Hồng có khoảng 80% dân số sống chủ yếu bằng nghề nông, do vậy để  bảo đảm sản xuất hàng năm đã phải sử  dụng một lượng lớn phân bón các loại. Vấn  
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2