Đề tài: Văn Hóa Kinh Doanh Của Người Nhật Bản
lượt xem 40
download
Trong thời đại kinh tế toàn cầu, việc hội nhập với các nền kinh tế toàn cầu là tất yếu. Việc kinh doanh quốc tế sẽ thuận buồm xuôi gió nếu như các doanh nghiệp nắm vững được các nguyên tắc trong giao tiếp quốc tế, cụ thể là văn hoá giao tiếp kinh doanh của nước mà doanh nghiệp đang hợp tác.
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Đề tài: Văn Hóa Kinh Doanh Của Người Nhật Bản
- LỜI MỞ ĐẦU Người xưa có câu: “ Miếng trầu bắt đầu câu chuyện”. Để khởi đầu một câu chuyện, người Việt Nam ta thường đi vòng vo rồi sau đó mới vào vấn đề chính. Đó cũng là một trong những đặc trưng giao tiếp đã hình thành từ xa xưa và bây giờ vẫn còn tiếp diễn. Chắc chắn sẽ không có vấn đề gì khi chúng ta giao tiếp với nhau theo cách thức như vậy nhưng chuyện gì sẽ xảy ra khi bạn cũng áp dụng câu nói này khi giao tiếp với người nước ngoài? Trong thời đại kinh tế toàn cầu, việc hội nhập với các nền kinh tế toàn cầu là tất yếu. Việc kinh doanh quốc tế sẽ thuận buồm xuôi gió nếu như các doanh nghiệp nắm vững được các nguyên tắc trong giao tiếp quốc tế, cụ thể là văn hoá giao tiếp kinh doanh của nước mà doanh nghiệp đang hợp tác. Như các bạn biết Việt Nam nằm ở Châu Á, chúng ta chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Phương Đông nên việc giao lưu kinh tế sẽ trở nên thuận lợi hơn với các nước trong cùng châu lục. Tuy vậy với những nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật Bản với khoảng cách địa lý, tôn giáo và nền văn minh khác xa thì việc giao tiếp kinh doanh cũng sẽ rất khó khăn. Tìm hiểu các nền văn hoá của các nước khác không chỉ giúp công việc kinh doanh đạt được kết quả tốt mà chúng ta có thể tiếp thu, giao lưu với các nền văn hoá, văn minh tiên tiến của nhân loại. Nhóm chúng em đã tìm hiểu về “Văn hoá trong giao tiếp kinh doanh của nước Nhật Bản”. Tuy nhiên, vì thời gian hạn chế nên trong quá trình tìm hiểu nhóm sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Rất mong sự đóng góp ý kiến của cô để bài viết được hoàn chỉnh hơn. Chúng em chân thành cám ơn! MỤC LỤC
- I. II. CƠ SỞ LÍ THUYẾT 1. Khái niệm văn hoá: Văn hoá được hiểu theo nghĩa rộng là toàn bộ những gì di sản của loài người, bao gồm tất cả kiến thức và những các quy tắc ứng xử trong thực tế của cuộc sống tinh thần và vật chất của một xã hội. Văn hoá bao trùm lên tất cả các vấn đề từ cách ăn uống đến trang phục , từ các tập quán trong gia đinh đến công nghệ sử dụng trong công nghiệp. Từ cách ứng xử của mỗi người trong xã hội đến nội dung và hình thức của các phương tiện thông tin đại chúng, từ phong cách, cường độ làm việc đến các quan niệm về đạo đức xã hội. Mỗi cộng đồng dân cư có thể có những nền văn hoá riêng biệt. Văn hoá giữa các nước khác nhau. Đồng thời, ngay trong một nước các khu vực khác nhau cũng có thể tồn tại những văn hoá khác nhau. Văn hoá tạo nên cách sống của một cộng đồng, quyết định cách thức tiêu dùng, thứ tự ưu tiên và phương cách thoả mãn nhu cầu của con người. Văn hoá là môi trường nhân tạo trong tổng thể các yếu tố môi trường tồn tại xung quanh cuộc sống của cộng đồng người. Văn hoá bao gồm tổng thể kiền thức, đạo đức, đức tin, nghệ thuật, luật pháp, tập quán, thói quen được các thành viên trong một cộng đồng thừa nhận. Nói một cách khác, văn hoá là tất cả những gì các thành viên trong xã hội có, nghĩ và làm. 2. Các thành phần của văn hóa: Văn hoá là yếu tố chi phối hành vi của con người. Vì vậy, văn hoá chi phối cách thức ứng xử và ra quyết định trong các cuộc giao dịch đàm phán kinh doanh. Hiểu biết về các thành phần của văn hoá là cơ sở để có thể lý giải và dự 3
- đoán hành vi của đối tác. Có nhiều cách hiểu khác nhau về thành phần văn hoá, tuỳ theo phương pháp tiếp cận. Cách hiểu về thành phần văn hoá của các nhà dân tộc tất nhiên phải khác cách tiếp cận của các nhà kinh doanh, văn hoá có thể được chia thành 5 thành phần. Tất cả các thành phần của văn hoá đều có ảnh hưởng ở góc độ nhất định đến kết quả một cuộc giao dịch, đàm phán kinh doanh vì nó tạo nên môi trường văn hoá mà trong đó các nhà doanh của ra thông tin, phản ứng và ra quyết định. 2.1. Yếu tố văn hoá vật chất: Yếu tố văn hoá vật chất được chia thành hai nhóm: nhóm yếu tố công nghệ và nhóm yếu tố kinh tế: Công nghệ là tất cả những kỹ thuật phần cứng (máy móc thiết bị) và phần mềm (bí quyết kỹ thuật, kỹ năng quản lý) sử dụng đề làm ra những của cải vật chất cho xã hội. Yếu tố kinh tế bao gồm những cách thức mà các nhân cống hiến khả năng lao động và thu về những lợi ích. Quan điểm và sự phát triển của thành phần kinh tế tư nhân là một tiêu biểu cho sự khác biệt về kinh tế ảnh hưởng đến phong cách đàm phán kinh doanh. 2.2. Yếu tố tổng thể xã hội: Yếu tố văn hoá tổng thể xã hội bao gồm tổ chức xã hội, giáo dục, cơ cấu chính trị, là những yếu tố quy định cách thức mà mọi người có quan hệ với nhau, tổ chức các hoạt động của cá nhân và cộng đồng. Yếu tố tổ chức xã hội quy định vị trí của nam và nữ trong xã hội, cơ cấu giới tính, quan niệm về gia đình, vai trò của gia đình trong giáo dục và phát triển thế hệ trẻ, cơ cấu tầng lớp xã hội, hành vi của các nhóm, và cơ cấu tuổi. Yếu 4
- tố giáo dục quyết định học vấn cũng là nền tảng quan trọng của hành vi. Cơ cấu chính trị của một đất nước cũng là một nhân tố quan trọng ảnh hưởng đến hành vi của các nhà kinh doanh trong đàm phán. Sự hậu thuẫn của chính phủ thông qua các chương trình đàm phán cấp nhà nước về quan hệ kinh tế là có thể một nguồn sức mạnh để nhà doanh nghiệp có thể gây sức ép với đối tác đàm phán. 2.3. Yếu tố quan niệm, tín ngưỡng, đức tin: Yếu tố quan niệm, tín ngưỡng, đức tin thể hiển quan niệm của các con người về chính sự tồn tại của loài người, của xã hội và vũ trụ bao la. Đây là nhóm nhân tố văn hoá cực kỳ phức tạp thể hiện qua hệ thống các đức tin, tín ngưỡng, tôn giáo, mê tín dị đoan. Những nhân tố tinh thần có ý nghĩ quan trọng trong hành vi, ứng xử của con người và cộng đồng xã hội. Tôn giáo dĩ nhiên có ảnh hưởng quyết định đến hành vi và ứng xử của các nhà kinh doanh. Tôn giáo, tín ngưỡng được nhận như yếu tố nhạy cảm nhất của văn hoá nhưng những giá trị tín ngưỡng của một cá nhân thường khác. Đại đa số đều am hiểu về một loại hình văn hoá ở trong đó họ tồn tại mà không có hiểu biết đúng đắn của các nền văn hoá khác. 2.4. Nhóm yếu tố văn hoá thẩm mỹ: Yếu tố văn hoá thẩm mỹ thể hiện qua nghệ thuật, văn học, âm nhạc, kịch nghệ, ca hát. Nhóm yếu tố văn hoá quyết định các nhìn nhận về cái đẹp, hướng tới thiện – mỹ. Các nhân tố này ít nhiều ảnh hưởng đến quan niệm của các nhà kinh doanh về giá trị đạo đức, các chuẩn mực hành vi. 2.5. Nhóm yếu tố ngôn ngữ: Triết học duy vật biện chứng quan niệm ngôn ngữ là cái vỏ vật chất của ý thức. Ý thức lại là sự phản ánh tại khách quan thông qua bộ óc của con người. 5
- Nếu coi ngôn ngữ và hành vi là cái vỏ bên ngoài của văn hoá thì ngôn ngữ là yếu tố cực kỳ quan trọng. Trong đàm phán kinh doanh của các doanh nghiệp có chung một quốc tịch thì vấn đề ngôn ngữ không phải là khó khăn đáng kể. Những đối với các cuộc đàm phán kinh doanhh quốc tế, ngôn ngữ thực sự có thể trở thành một vũ khí hay một khó khăn đối với đoàn đàm phán. 3. Văn hóa kinh doanh : 3.1 . Khái niệm Văn hóa kinh doanh: Văn hóa kinh doanh là hệ thống các giá trị, các chuẩn mực, các quan niệm và hành vi do chủ thể kinh doanh tạo ra trong quá trình kinh doanh, được thể hiện trong cách ứng xử của họ đối với xã hội, tự nhiên ở một cộng đồng hay một khu vực. Văn hóa kinh doanh bao gồm: Triết lý kinh doanh Đạo đức kinh doanh Văn hóa doanh nhân Văn hóa doanh nghiệp Ứng xử kinh doanh 3.2. Các nhân tố cấu thành văn hóa kinh doanh: a. Văn hóa xã hội, văn hóa dân tộc: Văn hóa kinh doanh là một bộ phận của văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội. Vì vậy, sự phản chiếu của văn hóa dân tộc, văn hóa xã hội lên nền văn hóa kinh doanh là một điều tất yếu. Mỗi cá nhân trong 1 nền văn hóa kinh doanh đều phụ 6
- thuộc vào một nền văn hóa dân tộc cụ thể, với một phần tuân theo các giá trị văn hóa dân tộc cụ thể, với một phần nhân cách tuân theo các giá trị văn hóa dân tộc. Mức độ coi trọng tính cá nhân hay tính tập thể, khoảng cách phân cấp xã hội, tính linh hoạt chuyển đổi giữa các tầng lớp xã hội, tính đối lập giữa nam quyền và nữ quyền, tính thận trọng,… là những nhân tố của văn hóa xã hội tác động mạnh mẽ đến văn hóa kinh doanh. Hoạt động kinh doanh luôn tồn tại trong một môi trường xã hội nhất định nên nhất thiết nó phải chịu ảnh hưởng của văn hóa xã hội. Các yếu tố của nền văn hóa xã hội như hệ giá trị, tập tục, thói quen, nghi lễ, lối sống, tư tưởng tôn giáo, cơ cấu dân số, thu nhập của dân chúng, vai trò của các tổ chức kinh tế, chính trị, xã hội,… đều tác động mạnh mẽ đến hoạt động của doanh nghiệp. b. Thể chế xã hội: Thể chế là yếu tố hàng đầu, có vai trò tác động chi phối tới văn hóa kinh doanh của mỗi nước. Hoạt động sản xuất kinh doanh của từng cá nhân, từng tổ chức, từng doanh nghiệp trong xã hội đều phải chịu sự quy định, sự tác động của môi trường thể chế, phải tuân thủ các nguyên tắc, thủ tục hành chính, sự quản lý của Nhà nước về kinh tế. Do vậy, có thể nói, thể chế chính trị, thể chế kinh tế, thể chế hành chính, thể chế văn hóa, các chính sách của Chính phủ, hệ thống pháp chế,… là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến môi trường kinh doanh và qua đó ảnh hưởng sâu sắc tới việc hình thành và phát triển văn hóa kinh doanh. Sự ổn định chính trị được coi là một tiền đề quan trọng cho hoạt động kinh doanh của daonh nghiệp. Sự bình ổn của hệ thống chính trị biểu hiện qua các yếu tố pháp luật, ngoại giao, hệ thống chính sách, v.v… sẽ tạo điều kiệ tốt cho hoạt động kinh doanh, tạo sự ổn định của doanh nghiệp và tạo điều kiện cho sự phát triển văn hóa kinh doanh. 7
- c. Quá trình toàn cầu hóa: Toàn cầu hóa tạo nên 1 xu thế phát triển ngày càng rõ nét, các nền kinh tế ngày càng trở nên phụ thuộc lẫn nhau, tiến dần đến một hệ thống kinh tế toàn cầu. Mà trong quá trình toàn cầu hóa diễn ra sự giao lưu giữa các nền văn hóa kinh doanh, đã bổ sung thêm giá trị mới cho kinh doanh mỗi nước, làm phong phú thêm kho tàng kiến thức về kinh doanh, biết cách chấp nhận những luật chơi chung, những giá trị chung để cùng hợp tác phát triển. Đồng thời trong quá trình này, các giá trị văn hóa truyền thống của các quốc gia được khơi dậy, làm tôn vinh tên tuổi của quốc gia đó trên thị trường thế giới. Sự phát triển của các công ty tập đoàn toàn cầu, đa quốc gia không những góp phần đóng góp vào sự thịnh vượng của kinh tế thế giới, mà còn góp phần hình thành nên các chuẩn mực quản lý kinh doanh và làm giàu, sâu sắc thêm bản sắc kinh doanh của các doanh nghiệp. d. Sự khác biệt và sự giao lưu văn hóa. Giữa các quốc gia, các chủ thể kinh doanh và các cá nhân trong đơn vị kinh doanh không bao giờ có cùng một kiểu văn hóa thuần nhất. Trong môi trường kinh doanh quốc tế ngày nay, các chủ thể kinh daonh không thể duy trì văn hóa của mình như một lãnh địa đóng kín mà phải mở cửa và phát triển giao lưu về văn hóa. Sự giao lưu về văn hóa tạo điều kiện cho các chủ thể kinh doanh học tập, lựa chọn những khía cạnh tốt về văn hóa của các chủ thể khác nhằm phát triển mạnh nền văn hóa của doanh nghiệp mình. Mặt khác, quá trình tìm hiểu và giao lưu văn hóa ngày càng làm cho các chủ thể kinh doanh hiểu thêm về nền văn hóa của mình từ đó tác động trở lại hoạt động kinh doanh. e. Khách hàng. 8
- Các chủ thể kinh doanh tồn tại và phát triển không vì lợi nhuận trước mắt mà phải vì lợi nhuận lâu dài và bền vững. Với vai trò là người góp phần tạo ra doanh thu, khách hàng cũng đóng góp 1 phần quan trọng vào việc tạo ra lợi nhuận lâu dài và bền vững cho chủ thể kinh doanh. Cuộc sống càng hiện đại, cung cách buôn bán càng phát triển thì khách hàng càng được tự do hơn trong lựa chọn. Do đó, nhu cầu, thẩm mỹ, trình độ dân trí về kinh tế của khách hàng tác động trực tiếp tới văn hóa kinh doanh của các chủ thể kinh doanh. f. Các yếu tố nội bộ doanh nghiệp. Văn hóa doanh nghiệp còn chịu tác động mạnh mẽ từ các yếu tố thuộc nội bộ doanh nghiệp như: Người đứng đầu/người chủ doanh nghiệp, lịch sử và truyền thống của doanh nghiệp, ngành nghề kinh doanh của doanh nghiệp, hình thức sở hữu của doanh nghiệp, mối quan hệ giữa các thành viên của doanh nghiệp, các giá trị văn hóa học hỏi được và văn hóa vùng miền. 4. Đàm phán kinh doanh: 4.1. Sự cần thiết và khái niệm đàm phán kinh doanh: Trong cuộc sống của chúng ta giải quyết các công việc thường liên quan đến nhiều người. Bất cứ một công việc gì liên quan đến người thứ hai đều phải tiến hành đàm phán. Có thể khẳng định rằng thế giới hiện thực mà ta đang sống là một bàn đàm phán khổng lồ mà mỗi chúng ta là thành viên của bàn đàm phán khổng lồ ấy. Trên thương trường các doanh nhân vừa hợp tác với nhau, vừa cạnh tranh với nhau. Điều hòa các lợi ích của chủ thể hoạt động trên thương trường vừa là yêu cầu khách quan để tồn tại vừa là yêu cầu của hợp tác liên minh. Đàm phán là 9
- con đường tốt nhất để điều hòa mâu thuẫn lợi ích vật chất và giải quyết mâu thuẫn giữa các bên. Các chủ thể kinh doanh khi tham gia quá trình đàm phán luôn đem theo các mục đích và đề cao lợi ích của mình. Lợi ích của mỗi bên lại nằm giao thoa với lợi ích của phía bên kia. Quá trình đàm phán nếu có sự thống nhất hoặc nhân nhượng thì sẽ dẫn đến thành công. Các cuộc đàm phán song phương, đa phương về kinh tế, đầu tư kinh doanh ở một nước không phải chỉ có các chủ thể ở trong nước đó mà còn có sự tham gia của người nước ngoài. Đàm phán là chức năng của nhà kinh doanh, là công cụ để đảm bảo thành công. Vậy đàm phán kinh doanh là gì? Đàm phán kinh doanh là bàn bạc, thỏa thuận giữa hai hay nhiều bên để cùng nhau nhất trí hay thỏa hiệp giải quyết những vấn đề về kinh doanh có liên quan đến các bên. Như vậy giao dịch là để thiết lập các quan hệ , còn đàm phán để giải quyết các vấn đề có liên quan đến các bên. Nếu không có liên quan với nhau, trước hết là liên quan lợi ích vật chất, thì người ta không đàm phán với nhau. 4.2. Bản chất của đàm phán kinh doanh: Đàm phán kinh doanh lấy lợi ích kinh tế đạt được là mục đích cơ bản . Người đàm phán kinh doanh lấy việc đạt được lợi ích kinh tế mới đề cập đến những lợi ích phi kinh tế khác. Tuy trong quá trình đàm phán kinh doanh người đàm phán có thể điều động và vận dụng các nhân tố , mà các lợi ích phi kinh tế cũng sẽ ảnh hưởng đên kết quả đàm phán, nhưng mục tiêu cuối cùng vẫn là lợi ích kinh tế. Trong đàm phán kinh doanh người đàm phán chú ý hơn đến giá thành của đàm phán, hiệu suất và hiệu quả. Cho nên người ta thường lấy sự tốt, xấu của hiệu quả kinh tế mà đánh giá đàm phán kinh doanh. Không nhằm tới hiệu quả kinh tế cũng mất đi giá trị và ý nghĩa. 10
- Giá cả là hạt nhân của đàm phán. Nhân tố liên quan đến kinh doanh đàm phán kinh doanh rất nhiều nhu cầu và lợi ích của người đàm phán biểu hiện ở rất nhiều phương diện, nhưng giá trị hầu như là nội dung hạt nhân của tất cả cac cuộc đàm phán kinh doanh. Đó là vì trong đàm phán kinh doanh, hình thức biểu hiện của giá trị là giá cả phản ánh trực tiếp nhất lợi ích của đôi bên đàm phán. Trong đàm phán kinh doanh chúng ta một mặt phải lấy giá cả làm trung tâm, kiên trì lợi ích của chính mình, mặt khác lại không thể chỉ hạn chế ở giá cả mà kết hợp các nhân tố khác. Đàm phán không đơn thuần là quá trình theo đuổi nhu cầu lợi ích bản thân, mà là quá trình đôi bên thông qua việc không ngừng điều chỉnh nhu cầu của mỗi bên mà tiếp cận với nhau, cuối cùng đạt tới ý kiến nhất trí. Tức là, đàm phán là một loạt quá trình, đề ra yêu cầu, chịu nhượng bộ và cuối cung đạt thành hiệp nghị. Đàm phán cần có thời gian, đàm phán vấn đề phức tạp càng như vậy. Quá trình đàm phán dài ngắn quyết định ở trình độ nhận thức đối với sự xung đột về lợi ích của đôi bên, và trình độ cộng thông của đôi bên. Đàm phán không phải là sự lựa chọn đơn nhất “ hợp tác” và “xung đột” , mà là mâu thuẫn thống nhất giữa “hợp tác” và “xung đột”. Hiệp nghị đạt được thông qua đàm phán nên có lợi cho cả đôi bên. Lợi ích cơ bản của đôi bên từ trong đó được bảo đảm, đó là một mặt mang tính hợp tác của đàm phán; Đôi bên tích cực săn sóc đến lợi ích của mình, hy vọng trong đàm phán đạt được lợi ích càng nhiều hơn, đó là mặt mang tính xung đột của đàm phán. Vì vậy, hiểu rõ và nhận thức đàm phán là mâu thuẫn thống nhất giữa đàm phán và xung đột, là rất quan trọng đối với người đàm phán. Đàm phán không phải là thỏa mãn lợi ích của mình một cách không hạn chế, mà là có giới hạn lợi ích nhất định. Người đàm phán cần bảo vệ lợi ích của 11
- mình, cần trong phạm vi có thể tìm kiếm được càng nhiều lợi ích. Nhưng bất kì người đàm phán nào cũng phải thỏa mãn nhu cầu thấp nhất của đối phương, nếu không nhìn nhận nhu cầu thấp nhất của đối thủ, bức bách đối phương một cách không hạn chế, cuối cùng sẽ là cho đối thủ rut lui mà mất hết lợi ích về tay mình. 4.3. Ảnh huởng của văn hóa đến đàm phán và giao dịch kinh doanh: a. Khác biệt về ngôn ngữ và những cử chỉ hành vi không lời. Trong tất cả các ngôn ngữ được sử dụng chủ yếu trong đàm phán kinh doanh, các câu hỏi và những câu tự bộc lộ thông tin là những hành vi ngôn ngữ được sử dụng thường xuyên nhất. Tuy nhiên ngay cả đối với những hành vi ngôn ngữ xuất hiện nhiều nhất này thì các nhà giao dịch, đàm phán có quốc tịch khác nhau có tần suất sử dụng khác nhau. Trong đàm phán kinh doanh, những câu mệnh lệnh, cam kết, và hứa hẹn cũng thường xuyên được sử dụng trong các ngôn ngữ đàm phán thông dụng. b. Sự khác biệt về quan niệm giá trị: Có 4 quan niệm về giá trị thường được hiểu khác nhau trong những nền văn hóa khác nhau: khách quan, cạnh tranh, công bằng và quan niệm về thời gian: Các nhà giao dịch đàm phán ở mỗi quốc gia khác nhau có những quyết định đàm phán khác nhau, các yếu tố khách quan hay không khách quan tùy vào mỗi nước. Cạnh tranh là đặc điểm của đàm phán. Đây là hình thức cạnh tranh giữa người mua và người bán với tư cách là hai bên đối tác trên bàn đàm phán. Xu hướng vận động của các yêu cầu về giá cả và điều kiện trao đổi của bên mua và 12
- bên bán là trái ngược nhau. Kết quả của quá trình cạnh tranh giữa hai bên đối tác chính là kết quả của cuộc đàm phán Kết quả đàm phán là vấn đề có liên quan đến quan niệm về công bằng, tùy theo văn hóa mỗi nước mà kết quả đàm phán có lợi cho bên mua hay bên bán. Thời gian trong các nền văn hóa khác nhau cũng được hiểu khác nhau. Có hai quan niệm về thời gian là thời gian đơn và thời gian phức: Theo quan điểm thời gian đơn, giờ nào làm việc ấy, thời gian được coi như một hàng hóa hữu hình, thời gian được chia nhỏ gắn với những công việc cụ thể . Hầu hết những nền văn hóa nghiêng nhiều về những giá trị thực dụng đều hiểu thời gian theo quan điểm thời gian đơn. Những nhà đàm phán ở nền văn hóa này thường có tác phong rất đúng giờ. Trong các cuộc đàm phán họ thường nhìn đồng hồ đeo tay. Họ có thói quen muốn phân chia nội dung đàm phán theo một trình tự thời gian. Kéo dài thời gian đàm phán với những đối tác theo quan niệm thời gian đơn là một cách gây sức ép để họ có những nhượng bộ nhất định. Quan niệm thời gian phức phổ biến trong những nền văn hóa hình tượng, có pha sự thực dụng nhưng vẫn chứa đựng nhiều yếu tố tâm linh, lãng mạn (điền hình là Châu Á và Mĩ Latinh ). Quan niệm thời gian phức chỉ chú trọng vào yếu tố kết quả công việc mà không chú ý nhiều đến việc phân chia thời gian cụ thể để thực hiện công việc như thế nào. Đối với các doanh nhân theo quan niệm thời gian này, họ thường không có thói quen đúng giờ, ít quan tâm đến tầm quan trọng của tác phong đó và thường đổ lỗi cho nhưng nguyên nhân khách quan. b. Sự khác biệt về tư duy và quá trình ra quyết định. 13
- Khi đối mặt với một nhiệm vụ đàm phán phức tạp, hầu hết các nhà đàm phán phương Tây đều có thói quen chia nhỏ nội dung đàm phán thành một loạt những công việc nhỏ. Các vấn đề như giá cả, vận chuyển, bảo hành, bảo dưỡng…lần lượt được giải quyết. Kết quả cuối cùng của đàm phán sẽ là tổng hợp kết quả đàm phán của tất cả các nội dung nhỏ. Các nhà đàm phán Châu Á lại có xu hướng trái ngược. Họ không phân chia nội dung đàm phán thành các công việc nhỏ mà thường cùng một lúc đàm phán tất cả các nội dung không theo một trình tự rõ ràng, và những nhượng bộ chỉ đạt được vào khi đàm phán đã sắp kết thúc. 14
- III. ĐẤT NƯỚC, CON NGƯỜI NHẬT BẢN, TÍNH CÁCH CỦA NGƯỜI NHẬT BẢN: Đất nước và con người Nhật Bản có một lịch sử và truyền thống lâu đời, nhưng nó cũng nổi tiếng với khía cạnh văn hóa hiện đại đầy màu sắc và ấn tượng. Nhật Bản là một đất nước phát triển cả về kinh tế, giáo dục và du lịch. Nhật Bản có nền văn hóa, phong tục đa dạng cùng vẻ đẹp phong cảnh thiên nhiên độc đáo. Đất nước này thu hút số lượng lớn người du lịch từ khắp nơi trên thế giới hàng năm đổ về. Nhật Bản nằm ở phía Đông Hàn Quốc, Nga và Trung Quốc và trải dài từ biển Okhotsk ở phía bắc đến biển Đông Trung Quốc ở phía nam. Nhật Bản thuộc vùng ôn đới, có 4 mùa rõ rệt.với 4 mùa rõ rệt, Nhật Bản tự hào là một đảo quốc với thiên nhiên tuyệt đẹp được đánh giá là 1 trong 10 nước đẹp nhất thế giới. Mùa xuân vào tháng 4 với hoa Sakura, nở rộ làm ngây ngất lòng người , mùa thu với bức tranh đổi màu của lá –Momiji, mùa đông với thiên nhiên tươi đẹp, truyền thống văn hóa lâu năm, Nhật Bản ngày càng thu hút nhiều du học sinh đến học tập và làm việc. Nước Nhật có 4 đảo lớn theo thứ tự từ Bắc xuống Nam là: Honshu; hokkaido kyushu shikoku okinawa. Phần lớn đảo ở Nhật Bản có rất nhiều núi và núi lửa. Nhật Bản là quốc gia có dân số lớn thứ mười thế giới với ước tính khoảng 128 triệu người, bao gồm thủ đô Tokyo và một vài tỉnh xung quanh là vùng đô thị lớn nhất thế giới với khoảng 30 triệu người sinh sống. Nhật Bản còn có các mỹ danh là “xứ sở hoa anh đào”, vì cây hoa anh đào mọc trên khắp nước Nhật từ Bắc xuống Nam, những cánh hoa “thoắt nở thoắt tàn” được người Nhật yêu thích phản ánh tinh thần nhạy cảm, yêu cái đẹp, sống 15
- và chết đều quyết liệt của dân tộc họ; Là “đất nước hoa cúc” vì bông hoa cúc 16 cánh giống như Mặt Trời đang tỏa chiếu là biểu tượng của hoàng gia và là quốc huy Nhật Bản hiện nay; “đất nước Mặt Trời mọc” vì Nhật Bản là quốc gia ở vùng cực đông, tổ tiên của họ là nữ thần Mặt Trời Amaterasu (Thái dương thần nữ). 1. Tính cách của người Nhật Bản: a. Đoàn kết và trung thực: Người Nhật có một quy tắc làm việc gọi là “HORENSHO” nghĩa là Thông báo – Liên lạc – Thảo luận. Trước khi làm việc gì, họ đều thông báo trước cho những người liên quan. Khi làm việc, nếu có vấn đề gì phát sinh, thì họ luôn liên lạc ngay với người phụ trách. Sau khi làm việc xong, họ sẽ cùng thảo luận với nhau về công việc đã làm để trao đổi kinh nghiệm. Và nếu họ có làm điều gì sai thì họ luôn thành thật nhận lỗi và sửa chữa lỗi lầm của mình. Sự trung thực của người Nhật được thể hiện rõ nét qua hệ thống tổ chức những “mini shop không người bán” tại Osaka. Nhiều vùng ở Nhật không có nông dân. Ban ngày họ vẫn đến công sở, ngoài giờ làm họ trồng trọt thêm. Sau khi thu hoạch, họ đóng gói sản phẩm, dán giá và để thùng tiền bên cạnh. Người mua cứ theo giá niêm yết mà tự bỏ tiền vào thùng. Cuối ngày, trên đường đi làm về, họ ghé đem thùng tiền về nhà. Nhẹ nhàng và đơn giản. Các con đường mua sắm, các đại siêu thị ở Hokkaido, Sapporo hay Osaka… cũng không nơi nào bạn phải gửi giỏ/túi xách. Hay ở Nhật nếu bạn có đánh rơi mất đồ thì cũng không cần phải lo lắng. Bởi lẽ, tập quán của người Nhật là người nhặt được của rơi sẽ đem đến nộp cho đồn cảnh sát gần nhất. b. Bình đẳng: 16
- Đây là một đất nước không có tình trạng phân biệt giàu nghèo bởi mọi đứa trẻ ngay từ khi sinh ra đã được dạy về sự bình đẳng, khuyến khích đi bộ tới trường. Nếu nhà xa thì xe đưa đón của trường là chọn lựa duy nhất. Các trường không chấp nhận cho phụ huynh đưa con đến lớp bằng xe hơi. Ngay từ nhỏ trẻ em được dạy cách ăn uống lịch sự, các phần ăn buffe không bao giờ bị bỏ phí, cách ăn uống sạch sẽ gọn gàng cũng được đề cao. Cách dạy con “ứng xử” và “yêu mến” thức ăn của người Nhật khiến nhiều người sửng sốt và ngưỡng mộ. Mọi thân phận, địa vị hay công việc đều được coi trọng. c. Nghiêm túc, ý thức kỷ luật tốt: Người Nhật luôn nghiêm túc tuân thủ các quy tắc ứng xử trong xã hội như chấp hành nội quy của nhà trường, công ty, luật giao thông, mọi quy định trong gia đình… Họ tuyệt đối xem trọng lễ nghĩa: cách chào hỏi, giao tiếp với người khác đúng cách, đúng chuẩn mực. Điều này thể hiện rõ nét nhất qua phong cách chào “nghiêng mình” đặc trưng của người Nhật: người được chào càng có tuổi, địa vị, uy tín cao hơn thì người chào càng phải cúi mình thấp hơn. d. Tinh thần trách nhiệm cao: Những người làm việc chăm chỉ, cố gắng luôn được đề cao trong xã hội Nhật. Từ khi còn đi học, các học sinh đã được rèn luyện ý thức học tập nghiêm túc, không sao chép từ người khác. Vì vậy, ngay cả các kết quả nghiên cứu của sinh viên tốt nghiệp đại học cũng có giá trị ứng dụng rất cao. Và khi đi làm, họ luôn làm việc với tinh thần hết mình vì công việc nhằm đem lại kết quả tốt nhất. e. Phép lịch sự được đề cao tuyệt đối: 17
- Điều này được thể hiện ngay trong từng bước đi, cách ngồi nghiêm túc, nếp ăn uống sinh hoạt ngay trong gia đình. Văn hóa xếp hàng thấm đẫm vào nếp sinh hoạt hàng ngày của người Nhật. Không có bất cứ sự ưu tiên. Sẽ không có gì ngạc nhiên nếu một ngày bạn thấy người xếp hàng ngay sau lưng mình chính là Thủ tướng. Ngay cả đứng trên thang máy họ cũng đứng gọn sang 1 phía để những người vội có khoảng trống. f. Tinh thần làm việc tập thể: Đây là yếu tố đặc trưng vượt trội mà không tìm thấy được ở những quốc gia phương đông khác. Trong đời sống người Nhật, tập thể đóng vai trò rất quan trọng. Sự thành công hay thất bại là chuyện chung của nhóm và mọi thành viên trong nhóm, bất kể anh ta đã làm ra sao, đều hưởng chung sự cay đắng hay vinh quang mà nhóm đã đạt được tập thể, nhóm ở đây có thể là công ty, trường học hay hội đoàn… Trong làm việc người Nhật thường gạt cái tôi lại để đề cao cái chung, tìm sự hài hòa giữa mình và các thành viên khác trong tập thể. Trong các buổi họp hành người Nhật thường ít cãi cọ hay dùng những từ có thể làm mất lòng người khác. Các tập thể (công ty, trường học hay đoàn thể chính trị) có thể cạnh tranh với nhau gay gắt nhưng tuỳ theo hoàn cảnh và trường hợp, các tập thể cũng có thể liên kết với nhau để đạt mục đích chung. Thí dụ điển hình là hai công ty Nhật có thể cạnh tranh với nhau ở trong nước Nhật nhưng khi ra n ước ngoài hai công ty có thể bắt tay nhau để cạnh tranh lại với một nước thứ ba của ngoại quốc. g. Tính tiết kiệm và làm việc chăm chỉ: Người Nhật tiết kiệm trong chi tiêu và cần cù trong lao động. Do đó, sau 30 năm từ một nước bị chiến tranh tàn phá họ trở thành một cường quốc về kinh 18
- tế. Nhật nằm trên vùng hay gặp nhiều thiên tai nên gặp khó khăn bất kỳ lúc nào. Chính điều này đã tạo nên tính tiết kiệm của họ. Ngoài ra, họ tiết kiệm để bảo đảm vấn đề ăn học cho con cái họ và dành dụm tiền mua nhà. 2. Trang phục Nhật Bản: Ngày nay ở Nhật Bản, nam nữ ở mọi lứa tuổi sống ở các thành phố, thị trấn và nông thôn đều mặc quần áo kiểu phương Tây vì nó thuận tiện cho sinh hoạt hàng ngày. Chỉ có một số ít người già làm những nghề đặc biệt mới mặc áo kimono truyền thống và họ mặc chủ yếu vào dịp lễ hội, đôi khi người ta cũng mặc kimono ở nhà cho thoải mái. Tuy nhiên, áo kimono cũng không mất đi vai trò quan trọng của nó như là một phần của văn hoá Nhật Bản. Đặc biệt là phụ nữ thường gắn áo kimono với truyền thống dân tộc và thích mặc nó vào những dịp đặc biệt. Qua trang phục kiểu phương Tây hàng ngày ta thấy hầu hết các xu thế mốt của châu Âu và châu Mỹ đã được du nhập nhanh chóng vào các trang phục của thanh niên Nhật Bản. Nhật Bản hiện đang là thị trường lớn của những hang thời trang hàng đầu thế giới. 3. Gia đình: Gia đình truyền thống Nhật Bản là một hình mẫu gia trưởng với nhiều thế hệ cùng chung sống trong một ngôi nhà và mối quan hệ, giúp đỡ lẫn nhau giữa những người cùng huyết thống rất mật thiết. Mỗi thành viên trong gia đình, tùy theo tuổi tác và giới tính, có một địa vị nhất định cũng như nghĩa vụ và trách nhiệm bao vệ gia đình. Tuy vậy, từ Chiến tranh thế giới thứ hai đã có những thay đổi lớn. Dòng người rời bỏ nông thôn ra thành phố đã làm cho mô hình gia đình lớn tan rã, thay thế bằng gia đình hạt nhân và các ngôi nhà nhỏ được xây dựng ngày một nhiều. 19
- Hầu hết các cặp vợ chồng trẻ Nhật Bản hiện nay có một hoặc hai con, sống trong các căn hộ không được thoải mái lắm về diện tích. Sau khi kết hôn, phần lớn họ ra ở riêng. Những người đi làm việc ở công ty thường đi làm về rất muộn hoặc đi nhậu với bạn bè, đồng nghiệp vào buổi tối. Vì vậy, cảnh người chồng không cùng ăn tối với gia đình là điều rất bình thường. Những ông bố Nhật Bản có rất ít thời gian cho con cái và gia đình. Do phải đi làm xa, họ thường rời nhà khi con chưa thức dậy, và trở về khi chúng đã đi ngủ. Nhân viên các công ty còn thường có những chuyến công tác dài ngày, hoặc thuyên chuyển công việc trong và ngoài Nhật Bản. Do việc học hành của con cái, hay trông nom bố mẹ già mà không ít người phải chấp nhận sống độc thân xa gia đình trong thời gian dài. Vì lý do này hay lý do khác, ngày càng nhiều thanh niên Nhật chọn cách sống một mình, và sự lựa chọn đó đang dần hình thành tương lai của xã hội Nhật Bản. Niềm đam mê của một bộ phận người trẻ tuổi thành đạt Nhật Bản giờ đây là thức ăn ngon, rượu và công việc. Xu hướng này ngày càng gia tang trong một đất nước mà hôn nhân gia đình vốn là giá trị truyền thống lâu đời. 4. Tiếng Nhật: Là ngôn ngữ duy nhất của một dân tộc sinh sống trên khắp quần đảo, tiếng Nhật là một thí dụ hiếm có của mối tương quan dân tộclãnh thổngôn ngữ rõ nét và đơn nhất. Mặc dù có những khác nhau nhỏ giữa các tiếng địa phương nhưng xét trên toàn cục, về mặt ngôn ngữ học, có sự thống nhất ở những điểm chủ yếu. Tuy người Nhật thường cho rằng ngôn ngữ của họ khó đối với người nước ngoài, nhưng một hệ thống ngữ âm tương đối đơn giản và các quy tắc văn phạm khá linh hoạt làm cho tiếng Nhật trở thành dễ học hơn so với một số ngôn ngữ khác, ít nhất là cho mục đích hội thoại, dù chữ viết tượng hình và các dạng chữ viết khác gây khó khăn cho việc đọc và viết. 20
CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD
-
Đề tài :" Văn hóa kinh doanh ở nước ta hiện nay"
36 p | 617 | 284
-
Tiểu luận: Đặc trưng văn hoá kinh doanh của Việt Nam so với Trung Quốc
17 p | 587 | 206
-
Khóa luận tốt nghiệp: Văn hóa kinh doanh Nhật Bản và khả năng thâm nhập vào thị trường này của các doanh nghiệp Việt Nam
88 p | 475 | 121
-
Khóa luận tốt nghiệp: Ảnh hưởng của văn hóa kinh doanh Trung Quốc đến việc đàm phán hợp đồng thương mại quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam
118 p | 443 | 90
-
Khóa luận tốt nghiệp: Những nét đặc trưng trong văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp Mỹ
102 p | 284 | 75
-
Tiểu luận triết học: Văn hóa kinh doanh dưới cái nhìn triết học
8 p | 260 | 64
-
Khóa luận tốt nghiệp: Văn hóa kinh doanh của Đức và biện pháp nâng cao khả năng thâm nhập thị trường này của doanh nghiệp Việt Nam
88 p | 288 | 61
-
Đề tài " Văn hóa kinh doanh "
8 p | 177 | 40
-
Khóa luận tốt nghiệp: Văn hoá kinh doanh của Anh và những ảnh hưởng đến đàm phán thương mại quốc tế tại quốc gia này
85 p | 167 | 35
-
Đề tài nghiên cứu khoa học: Văn hóa kinh doanh trong hoạt động khách sạn Sài Gòn - Hạ Long
83 p | 190 | 35
-
Khóa luận tốt nghiệp: Những nét đặc trưng về văn hóa kinh doanh trong đàm phán thương mại Việt - Nhật
88 p | 159 | 32
-
Khóa luận tốt nghiệp Văn hóa du lịch: Tìm hiểu về văn hoá kinh doanh tại khách sạn Sao Biển - Hải phòng
106 p | 153 | 29
-
Luận văn Thạc sĩ Quản trị kinh doanh: Văn hóa kinh doanh chuỗi cà phê Milano tại thành phố Hồ Chí Minh
93 p | 95 | 23
-
Khoá luận tốt nghiệp: Văn hóa kinh doanh của người Hoa ở chợ Thủ tỉnh Bình Dương từ năm 1975 đến nay
83 p | 46 | 14
-
Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học: Văn hóa kinh doanh của doanh nghiệp kinh doanh xuất bản phẩm (qua khảo sát tại công ty cổ phần sách và thiết bị giáo dục Tràng An)
148 p | 21 | 8
-
Luận văn Thạc sĩ Kinh tế: Văn hóa kinh doanh của khách sạn Sofitel Dalat Palace
127 p | 38 | 5
-
Luận văn Thạc sĩ Văn hóa học: Văn hóa kinh doanh của các doanh nghiệp truyền thông quảng cáo trên địa bàn Hà Nội hiện nay
134 p | 16 | 5
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn