YOMEDIA
ADSENSE
Di sản địa danh biển đảo Việt Nam: Nhận diện quá trình thành tạo và giá trị của chúng từ một số thuyết lý địa danh hiện đại
44
lượt xem 2
download
lượt xem 2
download
Download
Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ
Bài viết này sẽ vận dụng một số lý thuyết về địa danh hiện đại, xác định địa danh như là một di sản, nhận diện quá trình thành tạo và giá trị của di sản địa danh biển đảo Việt Nam ở những khía cạnh mà người nghiên cứu cho là thiết yếu nhất.
AMBIENT/
Chủ đề:
Bình luận(0) Đăng nhập để gửi bình luận!
Nội dung Text: Di sản địa danh biển đảo Việt Nam: Nhận diện quá trình thành tạo và giá trị của chúng từ một số thuyết lý địa danh hiện đại
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
DI SẢN ĐỊA DANH BIỂN ĐẢO VIỆT NAM:<br />
NHẬN DIỆN QUÁ TRÌNH THÀNH TẠO VÀ GIÁ TRỊ CỦA CHÚNG<br />
TỪ MỘT SỐ THUYẾT LÝ ĐỊA DANH HIỆN ĐẠI<br />
? CAO CHƯ *<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
Đ<br />
ịa danh là cái mà mỗi người chúng ta<br />
sử dụng hằng ngày, trong rất nhiều<br />
trường hợp khác nhau, trong đó<br />
có nhiều địa danh về biển đảo, bởi<br />
lẽ Việt Nam là một quốc gia biển đảo. Đã có nhiều<br />
người nghiên cứu địa danh trong nước cố gắng<br />
“giải mã” ý nghĩa của từng địa danh cụ thể, chủ yếu<br />
theo phương pháp từ nguyên học (etymology), nặng<br />
tính kinh nghiệm (empirical) trong các chiều hướng<br />
nghiên cứu truyền thống, cơ bản theo các lý thuyết<br />
của nước Nga thời kỳ Xô-viết, mà chưa phải tiếp cận<br />
theo thuyết lý địa danh học hiện đại.1 Mặt khác, ở ta<br />
cũng chỉ tập trung vào địa danh chung của cả nước<br />
hoặc địa danh của một thực thể hành chính cụ thể thức đó. Nếu như sự định vị trước kia không khác các<br />
(tỉnh, huyện) mà chưa thực sự nghiên cứu riêng về địa loài động vật khác, chỉ dựa vào bản năng sinh tồn<br />
danh biển đảo, tiếp cận theo phương pháp tổng thể. thuần túy, thì đến đây loài người dùng phương thức<br />
Trong bối cảnh nổi lên những vấn đề lớn của vùng mới, là tín hiệu ngôn ngữ để định vị các không gian<br />
biển đảo hiện nay, bài viết này sẽ vận dụng một số lý khác nhau trên bề mặt trái đất. Nói cách khác, có con<br />
thuyết về địa danh hiện đại, xác định địa danh như là người, có ngôn ngữ là có địa danh. Địa danh xuất hiện<br />
một di sản, nhận diện quá trình thành tạo và giá trị từ trước khi có nhà nước và có văn tự rất xa, và chắc<br />
của di sản địa danh biển đảo Việt Nam ở những khía chắn xa gấp nhiều lần khoảng thời gian từ khi có nhà<br />
cạnh mà người nghiên cứu cho là thiết yếu nhất. nước và có văn tự đến nay. Các địa danh tiếp tục xuất<br />
I. Nhận diện quá trình thành tạo hiện, gắn với quá trình phát triển tư duy, nhận thức<br />
của loài người, với thế giới quan và nhân sinh quan.<br />
1. Hai thời kỳ (phương thức) thành tạo Từ khi có nhà nước hoạch định các đơn vị hành chính<br />
Quá trình thành tạo, hay nói cụ thể hơn, đó là vấn trong lãnh thổ của một đất nước, gắn liền với nó là<br />
đề địa danh biển đảo Việt Nam đã hình thành như thế yêu cầu định danh các đơn vị hành chính đó, thì các<br />
nào, là một vấn đề rất căn cốt trước khi nhận diện ra tên địa danh chính thống (official place names) ra đời.<br />
giá trị của chúng. Tôi cho rằng địa danh nói chung Trong khi đó, địa danh dân gian, cái mà các nhà địa<br />
hình thành từ khi loài người kết thành xã hội, bắt đầu danh học thế giới hiện đại gọi là địa danh phi chính<br />
xuất hiện nhận thức, có ngôn ngữ để biểu đạt nhận thống (unofficial place names) tiếp tục tồn tại và sản<br />
<br />
* Sở Văn hóa, Thể thao và Du lịch Quảng Ngãi.<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
47<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
sinh, lưu hành song song với địa danh chính thống.2 Cần lưu ý rằng Việt Nam là một quốc gia đa dân<br />
Địa danh chính thống là loại địa danh do nhà nước tộc, trong đó dân tộc Việt là dân tộc đa số, là chủ thể<br />
đặt ra hoặc thừa nhận, thể hiện bằng văn tự, gắn liền chính của tiến trình lịch sử dựng nước và giữ nước.<br />
với một thực thể hành chính xác định rõ ranh giới, Xét riêng vùng biển đảo, dọc ven biển và hải đảo<br />
nhằm phục vụ quản lý đất nước. Còn địa danh dân Việt Nam còn có lớp cư dân Sa Huỳnh, người Chăm<br />
gian là loại địa danh do nhân dân tự đặt và lưu truyền, ở duyên hải Trung Bộ và người Khmer ở duyên hải<br />
chủ yếu bằng truyền khẩu, nhằm phục vụ cho chính Nam Bộ, và một ít dân tộc khác. Người Việt lập quốc<br />
cuộc sống của mình.3 Địa danh dân gian có thể được từ thời Hùng Vương, cách nay ước bốn nghìn năm, đã<br />
chính thống hóa, trở thành địa danh chính thống, chỉ biết đến vùng biển vịnh Bắc Bộ, sau thời kỳ nước Đại<br />
các thực thể hành chính. Lược qua tiến trình chính Việt phục hưng và mở rộng, từ khoảng thế kỷ thứ X,<br />
của địa danh thế giới, theo quan điểm của tôi, để từ nhất là từ thế kỷ XV trở đi, thì người Việt từ khu vực cố<br />
đó xét tình hình cụ thể của địa danh biển đảo Việt hữu Bắc Bộ và Bắc Trung Bộ lan dần về phương Nam,<br />
Nam sẽ được xem xét cụ thể sau đây. mãi cho đến vùng biển Hà Tiên, Phú Quốc như ngày<br />
nay. Ở duyên hải Trung Bộ và duyên hải Nam Bộ cùng<br />
2. Địa danh dân gian và địa danh chính thống<br />
thời với nước Văn Lang thời vua Hùng Vương có văn<br />
biển đảo Việt Nam<br />
hóa Sa Huỳnh, văn hóa Óc Eo, có nghĩa là cũng đồng<br />
Nước Việt Nam cong hình chữ S, tựa như cái bao thời có văn minh sớm, và dĩ nhiên về sau các vương<br />
lơn trông ra Thái Bình Dương, đương nhiên có nhiều quốc cổ Champa, Phù Nam cũng kế thừa, nhưng hai<br />
địa danh về biển đảo. Địa danh biển đảo có thể nói vương quốc này không sinh tồn nổi qua thử thách<br />
hình thành từ thời Lạc Long Quân và Âu Cơ chia khắc nghiệt của lịch sử. Chắc chắn là người Chăm đã<br />
50 người con lên núi, 50 người con xuống biển, có đặt nhiều địa danh tiếng Chăm ở vùng biển đảo miền<br />
nghĩa rằng địa danh biển đảo đã hình thành từ rất Trung và người Khmer cũng đặt nhiều địa danh tiếng<br />
xa xưa. Địa danh biển đảo thuộc địa hạt thủy danh Khmer ở vùng biển đảo Nam Bộ. Người Việt Nam tiến<br />
(hydronyms), nhưng ngoài cái thuật ngữ ấy được đưa theo tuyến biển - với cách hiểu là đi dọc đồng bằng<br />
ra, thì chưa thấy có nhà nghiên cứu địa danh học Việt duyên hải và đi bằng đường biển - và dần dà trở thành<br />
Nam nào nghiên cứu thành chuyên đề riêng. dân tộc đa số ở dải ven biển dài từ Trung đến Nam Bộ<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
48 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
ngày nay. Chính quyền phong kiến Việt Nam dùng có thể là dân gian, sau chính thống hóa, được nhà<br />
chữ Hán làm ngôn ngữ văn tự chính thức, và địa danh nước trong các thời kỳ thừa nhận thành tên gọi chính<br />
gắn liền với hoạch định các đơn vị hành chính cũng thức, bằng văn tự. Địa danh dân gian có thể có gốc<br />
dùng chữ Hán, được chọn đặt theo quan niệm văn tiếng Việt phổ thông, tiếng Chăm, tiếng Khmer, hoặc<br />
hóa phương Đông. Do vậy mà ta có thể hình dung được phổ thông hóa, hoặc hỗn hợp với tiếng Việt.<br />
bức tranh tổng thể về địa danh dân gian và địa danh<br />
Địa danh dân gian và địa danh chính thống bao<br />
chính thống vùng biển đảo Việt Nam như sau:<br />
trùm các vùng biển và hải đảo Việt Nam, thì bên cạnh<br />
- Địa danh dân gian gốc tiếng Việt thời tối cổ: chủ tên gọi các thực thể hành chính (thôn, xã, huyện, tỉnh,<br />
yếu ở vùng biển và duyên hải Bắc Bộ, chủ yếu là ngôn thành phố dọc theo miền duyên hải) trong bờ có tên<br />
ngữ thuần Việt. các vũng vịnh, cửa biển, mũi đất, bãi biển, bên ngoài<br />
biển có tên các đảo, các bãi ngầm, ngoài khơi có tên<br />
- Địa danh dân gian gốc tiếng Chăm thời tối cổ:<br />
hai quần đảo Hoàng Sa, Trường Sa với tên từng đảo.<br />
chủ yếu ở vùng biển Trung Bộ, nhất là từ khoảng<br />
Chúng góp phần làm nên kho tàng địa danh biển đảo<br />
Quảng Bình đến Bình Thuận; sau đó hỗn dung với<br />
Việt Nam.<br />
tiếng Việt và để lại dấu vết đến ngày nay. Như Phan<br />
Rang, Phan Thiết, Cà Ná, gốc tiếng Chăm.4 3. Từ nguyên và biến đổi địa danh biển đảo<br />
- Địa danh dân gian gốc tiếng Khmer thời tối cổ: Từ nguyên (origins) và biến đổi địa danh là những<br />
chủ yếu ở vùng biển và duyên hải từ Bà Rịa Vũng Tàu khái niệm lặp đi lặp lại trong các nhà nghiên cứu địa<br />
đến Hà Tiên ngày nay; sau hỗn dung với tiếng Việt và danh trong nước và trên thế giới. Từ nguyên học được<br />
để lại dấu vết đến ngày nay. Như Cà Mau, gốc tiếng gọi là Etymology, nghiên cứu từ nguyên địa danh là<br />
Khmer.5 lối nghiên cứu truy tầm về hình thái gốc, ngôn ngữ<br />
gốc và ý nghĩa ban đầu của mỗi địa danh cụ thể, nói<br />
- Địa danh chính thống: theo hành trình mở nước<br />
vắn tắt là tầm nguyên.<br />
với các mốc thời gian khác nhau, hoạch định các đơn<br />
vị hành chính mới, chủ yếu bằng chữ Hán là thứ chữ Điều khá bất ngờ nếu bạn đọc tiếp cận với địa<br />
chính thức thời bấy giờ, từ phía Bắc dần loang về danh từ nguyên Hoa Kỳ, một quốc gia mới thành lập<br />
Nam, như Thuận Hóa 順 化, Quảng Nam 廣 南 (tên trong vài ba thế kỷ nay và là một quốc gia giàu có văn<br />
thừa tuyên), Thuận Thành 順 城 (tên phủ), Gia Định 嘉 minh hàng đầu thế giới hiện đại, nhưng tên của nhiều<br />
定 (tên tỉnh ở Nam Kỳ). Từ đầu thế kỷ XX về sau, chữ bang, tên của nhiều thành phố lại có gốc gác từ tên<br />
Quốc ngữ Latinh thay thế chữ Hán thành chữ chính gọi dân gian, với nhiều gốc tiếng khác nhau, thậm chí<br />
thức của quốc gia, các địa danh chính thống được ghi là tên dân gian của người da đỏ bản địa, là kết quả<br />
bằng chữ Quốc ngữ Latinh. nghiên cứu thấu đáo của các nhà danh học Hoa Kỳ.<br />
<br />
Người Việt vào định cư ở vùng vốn có người Chăm, Tầm nguyên là tìm về gốc gác ban đầu phát sinh<br />
Khmer có thể kế thừa địa danh dân gian Chăm, Khmer của một địa danh. Chẳng hạn để xác định nghĩa hai<br />
sẵn có, cũng có thể đặt địa danh mới theo tiếng Việt, chữ Cù lao (trong Cù lao Ré, Cù lao Xanh, Cù lao Chàm),<br />
hình thành địa danh dân gian tiếng Việt có niên đại một số nhà nghiên cứu nước ta khẳng định nó bắt<br />
muộn. Như Hòn Khói, Hòn Tre (tên các đảo nhỏ tỉnh nguồn từ Pulau, nghĩa là đảo, trong ngôn ngữ Nam<br />
Khánh Hòa), Cửa Việt (tên cửa biển Quảng Trị), Vũng Đảo mà người Chăm xưa đã dùng. Tôi lần tìm thư tịch<br />
Quýt (tên cửa biển tỉnh Quảng Ngãi). cổ và bản đồ cổ thấy các sách báo chữ Hán thấy hai<br />
chữ Cù lao 劬 勞 trong chữ Hán không có nghĩa gì là<br />
Chính quyền phong kiến, nhất là sau này là thực<br />
đảo, và như vậy, nó chỉ dùng theo phương thức phiên<br />
dân, có thể đặt mới, nhưng cũng có thể kế thừa địa<br />
âm, không dùng nghĩa; lại thấy chữ Ré mượn chữ Lý<br />
danh dân gian vốn có, chính thống hóa các địa danh<br />
哩, cũng có âm là Ré, phiên tiếng Nôm, nên lần tìm<br />
này6, để chỉ các đơn vị hành chính, như trường hợp<br />
rằng chính chữ Lý trong tên đảo Lý Sơn cũng chính là<br />
các địa danh Đà Nẵng, Phan Rang, Phan Thiết, Cà Mau.7<br />
chữ Ré, vốn bắt nguồn từ tên một loài cây mọc nhiều<br />
Tóm lại, tên các thực thể vùng biển và hải đảo ở trên đảo.8 Nói vậy để thấy việc tầm nguyên địa danh<br />
Việt Nam hình thành từ rất lâu đời, từ hai phương thức tuy có nhiều ý nghĩa, nhưng vô cùng khó khăn, và<br />
hay hai thời kỳ, hai nguồn chính là địa danh dân gian, trong nhiều trường hợp không thể tìm ra, hoặc sẽ sai<br />
địa danh chính thống trong lịch sử Việt Nam; ban đầu lầm nếu chủ quan, bởi sự biến đổi của địa danh như<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
49<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
là một ma trận, nhất là các địa danh xuất hiện trong số lượng lớn của chúng, cũng đã là rất đáng quý.<br />
niên đại sớm, thiếu những chứng cứ xác đáng. Từ đó,<br />
4. Nội danh và ngoại danh biển đảo Việt Nam<br />
một mặt các nhà địa danh học thế giới tiếp tục theo<br />
đuổi việc nghiên cứu địa danh theo lối tầm nguyên, Người Pháp gọi đất nước họ là France, trong khi<br />
để lại những kết quả khá thú vị trong nhiều trường người Việt ta gọi là Pháp, người Anh gọi đất nước họ<br />
hợp (như tên gốc ở Hoa Kỳ), nhưng mặt khác, một số là England, trong khi ta gọi là Anh (cổ hơn thì gọi là<br />
nhà địa danh học có vẻ như chán với cách này. Anh Cát Lợi), người Nga gọi thủ đô của họ là Mockвa,<br />
trong khi người Anh gọi là Moscow. Hiện tượng tương<br />
Ở Việt Nam cũng diễn ra tình trạng tương tự. Như<br />
tự như vậy là phổ biến khắp nơi trên thế giới, các nhà<br />
tên gọi Đồng Nai, hai ông Huỳnh Văn Tới, Phan Đình<br />
địa danh học phương Tây gọi là exonyms (ngoại danh)<br />
Dũng chắc hẳn thấy cần giải mã, nên dành đến gần<br />
và endonyms (nội danh). Nói nôm na, thì nội danh là<br />
20 trang trong 350 trang sách Đồng Nai góc nhìn văn<br />
địa danh của mình, do mình đặt, chỉ các thực thể ở<br />
hóa để thuyết lý, nói đúng ra là bỏ công thuật lại tỉ<br />
đất nước mình, còn ngoại danh là tên gọi ở bên ngoài<br />
mỉ lối cắt nghĩa của các tác giả khác, rồi cuối cùng<br />
chỉ cho các thực thể của đất nước mình.<br />
kết luận rất khéo là: “Sự lý thú và hấp dẫn về một danh<br />
xưng Đồng Nai vẫn còn là một vấn đề mở cho những ai Nói nội danh và ngoại danh có vẻ lạ lẫm không chỉ<br />
quan tâm”!9 đối với mọi người nói chung và cả với những người<br />
nghiên cứu địa danh Việt Nam nói riêng, nhưng kỳ<br />
Thực ra thì cũng nên thông cảm với hai tác giả.<br />
thực nó rất quan trọng. Trên thế giới có Nhóm Chuyên<br />
Trong địa danh có những biến đổi khá ngoắt ngoéo,<br />
viên về Địa danh của Liên Hiệp Quốc (United Nations<br />
bất ngờ mà những sự suy luận bình thường sẽ không<br />
Group of Experts on Geographical Names - UNGEGN),<br />
lần ra. Chẳng hạn ở quê tôi có cửa biển nay viết là<br />
nhóm này lại có Nhóm Thường trực về Ngoại danh<br />
Dung Quất, thì thực tế xưa kia nó gọi là Vũng Quýt, tức<br />
(Working Group on Exonyms), thành lập từ năm 2002<br />
cái vụng biển có nhiều cây quýt dại mọc, từ thổ âm mà<br />
để chuyên xem xét về nội danh/ngoại danh. Phiên<br />
bị phiên thành như thế (V thành D, Quýt thành Quất);<br />
họp lần thứ 12 gần đây nhất của nhóm (năm 2012)<br />
lại có chuyện như Các Lái (tên bến sông tại Thành phố<br />
đã cho xuất bản tập tài liệu nói về Sự phân chia lớn<br />
Hồ Chí Minh ngày nay, xưa có nhiều lái buôn đường<br />
về địa danh - phản ánh về định nghĩa và cách dùng<br />
biển tụ tập nên gọi như vậy) bị biến thành Cát Lái, bởi<br />
nội danh và ngoại danh, dày đến 300 trang, do Paul<br />
phát âm c và t ở miền Nam không phân biệt; quê tôi<br />
Woodman biên tập, Tổng cục Trắc địa và Đồ bản Ba<br />
có thôn ven biển tên gọi Thạch Than 石 湯, nghĩa là<br />
Lan, NXB Bernadium, Warszawa xuất bản, 2012.10 Tập<br />
bãi đá bày ra khi nước rút, bị viết thành Thạch Thang<br />
tài liệu do nhiều chuyên gia đến từ Vương quốc Anh,<br />
khi chuyển đổi từ Hán tự sang Quốc ngữ Latinh; lại<br />
New Zealand, Ba Lan, Hungary, Tây Ban Nha, Latvia,<br />
có chuyện hai bên cửa biển Sa Kỳ có ba làng đều bắt<br />
Croatia, Cộng hòa Séc, Romania viết, chia thành 4<br />
đầu từ chữ An là An Kỳ, An Vĩnh, An Hải, người Việt gọi<br />
phần: (1) Sự phân chia nội danh/ngoại danh, (2) Phân<br />
gộp vùng này là Ba Làng An, mấy ông thực dân Pháp<br />
tích ngoại danh và cách dùng, (3) Địa danh nhóm<br />
không biết thế nào lại phiên thành Batanggang lên<br />
thiểu số, (4) Nội danh, ngoại danh và một minh họa<br />
bản đồ, rồi ảnh hưởng lại người Việt cứ gọi là Ba Tâng<br />
từ lịch sử. Đây là một tài liệu vô cùng cần thiết và lý<br />
Gâng! Lại ở vùng Vũng Quýt có mũi núi gọi là Cổ Cò,<br />
thú. Chẳng hạn về khái niệm ngoại danh và nội danh,<br />
khi ghi vào bản đồ, thực dân viết là Coco, người Việt<br />
GS. Peter Jordan (Viện Hàn lâm Khoa học Áo) trong<br />
cũng đọc là Co Co!<br />
Nhóm UNGEGN xác định như sau: “Nội danh là các<br />
Các địa danh vùng biển đảo, cũng như các địa tên gọi từ bên trong, như tên được ban ra bởi một cộng<br />
danh ở các vùng khác của Việt Nam và thế giới, có đồng về các nhân tố lãnh thổ của họ. Ngoại danh là<br />
nhiều sự biến đổi trong từng địa danh và trong tổng các tên dùng bởi một cộng đồng, mà tiếp nhận từ các<br />
thể địa danh, với sự tác động của chuyển đổi dân cư và cộng đồng khác đối với các nhân tố lãnh thổ của họ”.<br />
ngôn ngữ, sự thay đổi văn tự, biến đổi do quy luật tự Ông chỉ rõ vai trò trung tâm (the central role) của cộng<br />
thân của ngôn ngữ về ngữ âm và ngữ nghĩa, phương đồng trong tiến trình đặt địa danh, và đặc biệt phân<br />
ngữ, thực sự là một thách thức lớn đối với việc tầm biệt tính chất riêng của ngoại danh và nội danh như<br />
nguyên, tìm về gốc gác khởi thủy của nó. Tình hình sau: “Trái ngược với nội danh, ngoại danh không phải là<br />
ấy cho thấy, không thể truy nguyên và giải mã toàn những biểu trưng của việc chiếm hữu và không biểu lộ<br />
bộ các địa danh biển đảo, tuy nhiên dù rất ít so với các yêu sách, mà chỉ định tầm quan trọng của một nhân<br />
<br />
50 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
<br />
<br />
tố đối với cộng đồng này và các mối quan hệ nó đã có - Bản đồ Kochinchine do người Hà Lan vẽ năm<br />
với nhân tố đó”.11 1754.12<br />
Trở lại với trường hợp địa danh biển đảo Việt Nam, - Bản đồ An Nam đại quốc họa đồ của giáo sĩ<br />
ta thấy các kiến thức về nội danh và ngoại danh rất Taberd vẽ xuất bản năm 1838.<br />
quan trọng. Trở lên, có thể hiểu tất cả những địa danh<br />
Tất nhiên bên cạnh bản đồ còn nhiều sách và tài<br />
biển và hải đảo trong vùng lãnh hải và thuộc chủ<br />
liệu khác, bằng nhiều thứ tiếng khác nhau, như Tây<br />
quyền của Việt Nam, do Việt Nam đặt, chính là nội<br />
Ban Nha, Bồ Đào Nha, Pháp, Hà Lan. Chắc chắn đối<br />
danh. Nếu như tên gọi Biển Đông của Việt Nam là một<br />
với Việt Nam, thì ngoại danh còn có thể là tên gọi từ<br />
nội danh, thì vùng biển đảo nước ta cũng có những<br />
phía các nước chung quanh khu vực, như Philippines,<br />
ngoại danh. Vùng biển này phương Tây thường ghi<br />
Malaysia, Indonesia, Trung Quốc và nhiều nước khác<br />
là South China Sea (biển Nam Trung Hoa), quần đảo<br />
Hoàng Sa phương Tây gọi là Paracel Islands, quần đảo đối với các thực thể địa lý thuộc chủ quyền của Việt<br />
Trường Sa gọi là Spratly Islands, vịnh Bắc Bộ gọi là Guft Nam trên vùng biển đảo đang bị chiếm đóng hoặc<br />
of Tonkin, Đà Nẵng gọi là Tourane, Hội An gọi là Faifo, không bị chiếm đóng.<br />
Lý Sơn gọi là Pullo Canton. Những nội danh và ngoại danh trên vùng biển<br />
Xét vùng biển đảo Việt Nam theo chiều lịch đại đảo nước ta có thể xem là bình thường, nếu như nó<br />
lại có những ngoại danh thể hiện rõ trên các bản đồ không liên quan đến tranh chấp chủ quyền và ý đồ<br />
phương Tây như sau: thôn tính. Nhưng rất tiếc là đã xảy ra như vậy, nên việc<br />
tìm hiểu về nội danh và ngoại danh càng cần được<br />
- Bản đồ India Orientalis vẽ về Đông Nam Á năm<br />
chú ý.<br />
1606.<br />
Nội danh và ngoại danh vùng biển đảo trong thời<br />
- Bản đồ do Jean-Baptiste Nolin (1657 - 1708) vẽ<br />
đại ngày nay là một vấn đề rất nhạy cảm, đã từng xảy<br />
năm 1687.<br />
ra ở nhiều vùng biển, như vùng biển giữa Nhật Bản<br />
- Bản đồ của Joachim Ottens (1663 - 1719) vẽ năm và Triều Tiên. GS. Peter Jordan cũng thừa nhận: “Cũng<br />
1710. có sự thật là việc dùng ngoại danh đôi khi bị hiểu như là<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
51<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
các yêu sách, nhất là khi các ngoại danh tương thích với là những nét quan trọng của quốc gia và diện mạo lãnh<br />
nội danh lịch sử (historical endonyms)”.13 Để giải quyết thổ”.17 Keith H. Basso viết: “Do sự kết dính không thể<br />
các vấn đề nhập nhằng và nhạy cảm giữa nội danh tách rời của chúng đối với nơi chốn riêng biệt, địa danh<br />
và ngoại danh trên các biển tiếp giáp (ngoại danh có thể được dùng để gọi ra một loạt những liên tưởng<br />
bị hiểu như nội danh, gắn với yêu sách chủ quyền), giàu cảm xúc và trí tuệ khổng lồ - những liên tưởng về<br />
Philip W. Matthews, một nhà nghiên cứu độc lập của thời gian và không gian, về lịch sử và các sự kiện, về các<br />
New Zealand có bài “Nội danh, ngoại danh và các nhân vật và các hoạt động xã hội, về tự thân một người<br />
vùng biển”, nêu ra các giải pháp có thể cân nhắc.14 và các chặng của đời sống một người”.18<br />
II. Giá trị nhìn từ thuyết lý địa danh hiện đại Còn rất nhiều ý kiến đánh giá khác về địa danh,<br />
nhưng điểm qua một số ý kiến như trên để thấy rằng<br />
1. Địa danh biển đảo là một di sản<br />
trên thế giới có rất nhiều ý kiến đánh giá rất cao, rất<br />
Nếu như địa danh học truyền thống được ví như sâu sắc về địa danh. Việt Nam là một quốc gia biển<br />
sưu tập vật mẫu, chú tâm vào việc sưu tập, phân loại, đảo, và dĩ nhiên khối lượng địa danh biển đảo chiếm<br />
tầm nguyên địa danh, giải mã nó, đề cập ý nghĩa của một phần quan trọng trong kho tàng địa danh vô<br />
nó, thì đến thời hiện đại, địa danh học mở rộng bằng cùng phong phú của cả quốc gia. Không chỉ là “những<br />
một cuộc “đảo chiều phê phán” (critical turn), thành tấm bia”, địa danh biển đảo Việt Nam là sự “kết nối với<br />
địa danh học phê phán (critical toponymies), mở rộng quá khứ”, là những biểu hiện của “biểu tượng lâu bền<br />
các khái niệm về ý nghĩa văn hóa (cultural meaning) nhất của đất nước”, là “những liên tưởng giàu cảm<br />
và quyền lực xã hội (social power), nhấn mạnh đến vai xúc và trí tuệ khổng lồ” như các nhà nghiên cứu trên<br />
trò chính trị (political role) và vai trò kinh tế (economic thế giới đã nói. Có những địa danh ta không thể truy<br />
role) của địa danh. Người ta cũng phải tìm đến với nguyên, không thể giải mã, có giải mã được đôi khi<br />
nhà triết học cổ đại Platon, các nhà triết học hiện đại cũng không quan trọng với những nghĩa trực tiếp,<br />
như Derrida, Bertrand Russell, Foucault, Albert Camus mà quan trọng hơn, là những “siêu nghĩa” như trên<br />
để tìm các khái niệm về không gian, về nơi chốn, về ý của địa danh.<br />
niệm tên riêng, sự xuất hiện và ý nghĩa của nó. Điều<br />
Địa danh chỉ là những cái tên, không phải những<br />
này diễn ra như một trào lưu trên thế giới, nhưng chưa<br />
thực thể địa lý, nhưng cái độc đáo là nó tạo nên trong<br />
thấy có người nghiên cứu địa danh Việt Nam nào đả<br />
lòng người những giá trị rất lớn. Không chỉ là những<br />
động. Những người nghiên cứu địa danh Việt Nam<br />
cái tên thuần túy, cần xem địa danh biển đảo Việt<br />
phần lớn lặp đi lặp lại ý tưởng “những tấm bia lịch sử -<br />
Nam thực sự là một di sản - thậm chí một di sản vô<br />
văn hóa của đất nước”, như PGS. Lê Trung Hoa đã nói.15<br />
giá không đo đếm được - của quá trình chinh phục<br />
Tôi cho rằng ý nghĩa ẩn tàng của địa danh còn lớn<br />
của các dân tộc Việt Nam trên vùng biển đảo xưa nay.<br />
hơn nhiều. Nhiều nhà địa danh học hiện đại cũng tiếp<br />
tục đào sâu các ý nghĩa kỳ diệu của địa danh. Botolv 2. Giá trị lịch sử - văn hóa của di sản địa danh<br />
Helleland ở Đại học Oslo (Na Uy) sau khi đặt vấn đề biển đảo<br />
một địa danh chỉ mang tính chỉ xuất (reference) mà<br />
Di sản địa danh biển đảo Việt Nam chắc chắn là<br />
rỗng tuếch ý nghĩa, hay đổ đầy ý nghĩa (nghĩa rộng)<br />
một sự trầm tích của lịch sử và văn hóa Việt Nam trên<br />
(brimful of (connotive) meaning), ông khẳng định: “Địa<br />
vùng biển đảo của Tổ quốc. Nói giá trị lịch sử là những<br />
danh có thể được đề cập để đại diện cho phần đời sống<br />
cổ xưa nhất của di sản văn hóa nhân loại, trong cái bối<br />
cảnh mà chúng được truyền lại bằng tiếng nói từ thế hệ<br />
này sang thế hệ khác trong hàng trăm hàng ngàn năm<br />
ở cái nơi mà chúng được đặt ra. Chúng là một phần đặc<br />
biệt trong di sản văn hóa của chúng ta ở chỗ chúng nói<br />
với chúng ta một điều gì đó về cái nơi chúng chỉ, và về<br />
những người đã ấn định cái tên. Bởi vậy chúng cung<br />
cấp những dữ liệu quan trọng về lịch sử và nơi chốn mà<br />
người ta đã định cư, là một sợi dây nối với quá khứ”.16<br />
Còn Arseny Saparov cho rằng địa danh “nằm trong số<br />
những biểu tượng lâu bền nhất của đất nước… [chúng]<br />
<br />
52 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
giá trị của địa danh đánh dấu mốc lịch sử, hoặc đẻ ra nhà địa danh học phương Tây đã nói, nó là những nét<br />
từ một sự kiện lịch sử. quan trọng của đất nước, là yếu tố lâu bền của quốc<br />
gia, là sợi dây nối với quá khứ, nó tạo ra những xúc<br />
Là dấu vết của lịch sử, chẳng hạn ở thành phố Hạ<br />
cảm và trí tuệ khổng lồ.<br />
Long tỉnh Quảng Ninh có tên núi Bài Thơ là bởi ở nơi<br />
đây có bài thơ của vua Lê Thánh Tông trong một lần 3. Giá trị kinh tế của địa danh biển đảo<br />
tuần du đã đề lên núi đá. Hang Đầu Gỗ tương truyền<br />
Hàng hóa hóa, thương mại hóa địa danh là việc<br />
là sản phẩm của việc chứa gỗ cắm cọc đánh giặc ở<br />
biến địa danh trở thành một thứ hàng hóa. Trên thực<br />
Vân Đồn. Tại Lý Sơn, ở đảo Bé có hang gọi là hang Kẻ<br />
tế, địa danh thuộc địa hạt ngôn ngữ, trong phạm trù<br />
Cướp, là nơi xưa kia bọn hải tặc thường làm nơi trú ẩn.<br />
tư duy, khác với tồn tại vật chất hữu hình, thì việc<br />
Ở vùng biển Tây có đảo tên là Hải Tặc với lý do tương<br />
hàng hóa hóa, thương mại hóa rất khó hình dung,<br />
tự. Quần đảo Hoàng Sa, tên Nôm là bãi Cát Vàng, và<br />
nhưng nó đã hiện thực hóa trong thực tế trên phạm<br />
quần đảo Trường Sa, đảo Hữu Nhật, đảo Quang Ảnh là<br />
vi thế giới.<br />
lấy tên các vị cai đội ra thực hiện chủ quyền, đo đạc<br />
hải trình và khai thác sản vật từ các thế kỷ trước. Địa Địa danh được coi là hàng hóa hóa là sự xuất hiện<br />
danh biển đảo chứa những thông tin về lịch sử, do vai trò kinh tế (economic role) trong các địa danh đô<br />
vậy mà nó có những giá trị lịch sử thật quý giá. Nếu thị hiện đại, là hàng hóa hóa quyền đặt địa danh<br />
không có những thông tin đó gắn liền với thực thể (commodification of place-naming), ở đó địa danh<br />
địa lý, chắc chắn chúng ta sẽ mất mát rất nhiều. như là các món hàng hóa (commodities). Đơn cử, hai<br />
tác giả Craig Young (Tổng Giám mục Manchester) và<br />
Xét về văn hóa, thì chính sự đặt tên địa danh, ý Duncan Light (Đại học Bournemouth) nước Anh có<br />
nghĩa của địa danh chính là văn hóa, vô cùng phong bài “Địa danh như hàng hóa: khám phá các chiều kích<br />
phú và đa dạng. Vùng biển, có nhiều nước nên nhiều kinh tế của địa danh đô thị” đăng ở tạp chí quốc tế<br />
địa danh có chữ Hải, chữ Dương (như Hải Phòng, Hải Nghiên cứu Đô thị và Địa phương số 39 (3) năm 2014<br />
Dương), nhiều địa danh mang chữ Nước Mặn, Nước đề cập đến vấn đề này: “Trong những năm gần đây,<br />
Ngọt, nhiều địa danh mang chữ Diêm (làm muối) như việc nghiên cứu địa danh đô thị được tiếp thêm sức sống<br />
Tân Diêm, Tuyết Diêm, Diêm Điền, lại mang chữ Hàm bằng sự nổi lên của một cách tiếp cận “địa danh học phê<br />
(mặn) như Hàm Tân; mặt biển là mặt bố phòng nên phán”. Các mục tiêu này của chính trị học văn hóa về<br />
xưa kia có cơ quan hải phòng, sau này đặt luôn thành đặt tên địa danh và những quyết định kéo theo thuộc<br />
tên một thành phố, có sự cầu cho bình yên nên có tính địa danh đối với bối cảnh đô thị. Tuy nhiên trong<br />
chữ Ninh, như Ninh Chử (bến bình yên). Người xưa lại địa danh các thành phố hiện đại có một vai trò kinh tế<br />
căn cứ vào đặc điểm của từng thực thể biển đảo cụ (economic role) bên cạnh vai trò chính trị (political role)<br />
thể mà đặt tên, như đảo có nhiều cây ré thì gọi là Cù của chúng. Đặc biệt có những yêu cầu gần đây về vấn<br />
lao Ré, vũng có nhiều cây quýt thì gọi là vũng Quýt, đề gọi tên địa danh đô thị như là các hàng hóa.”19<br />
phá có ba con sông chảy ra thì gọi là phá Tam Giang,<br />
núi giống cái chóp chài thì gọi là núi Chóp Chài; bến Thế nhưng tại nước ta, tôi chưa hề thấy một người<br />
có nhiều lái buôn tụ tập thì gọi là Các Lái (sau biến nghiên cứu địa danh nào đề cập đến điều này. Vậy có<br />
âm thành Cát Lái), nơi có nhiều bè thì gọi Nhà Bè. Lại phải địa danh Việt Nam nói chung, địa danh biển đảo<br />
có những tên gọi nhuốm màu huyền thoại như Hạ nói riêng chưa xuất hiện hiện tượng này? Không phải.<br />
Long, Tiên Sa, Ngũ Hành Sơn. Người Việt, cũng như Ta có thể thấy giá trị kinh tế hay thương mại hóa,<br />
người ở nhiều nước, khi đi xa bèn mang theo bên hàng hóa hóa địa danh biển đảo Việt Nam qua các<br />
mình tên gọi quê cũ, để tạo cảm giác thiết thân, nên khía cạnh sau đây.<br />
trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa, có những<br />
3.1. Các đặc sản gắn với địa danh thành một<br />
đảo mang địa danh “di thực” tên từ đất liền ra, như<br />
thương hiệu<br />
Bình Sơn, Tư Nghĩa, Nghĩa Hành. Dấu ấn văn hóa của<br />
ông cha trong hành trình chinh phục biển đảo để Các đặc sản vốn có gốc từ truyền thống của một<br />
lại những địa danh vô cùng phong phú, chờ người số vùng biển đảo nước ta đã gắn liền với địa danh sản<br />
nghiên cứu khai thác, trong từng địa danh cụ thể, sinh ra nó, mà nếu không có địa danh đó, chắc chắn<br />
cũng như tổng thể địa danh. Trong bài viết này tôi chỉ là sẽ kém hấp dẫn. Rất rõ là các thương hiệu tiêu biểu<br />
có thể điểm qua, và xin nhấn mạnh lại điều mà các sau đây:<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
53<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
- Hạ Long: Là tên một vũng vịnh ở vùng Đông Bắc, Đèo Lũng Lô anh hò chị hát”. Và chắc chắn còn nhiều<br />
sau lấy tên cho thành phố tỉnh lỵ tỉnh Quảng Ninh. Hạ trường hợp khác nữa. Có lẽ dùng những địa danh như<br />
Long là kỳ quan thiên nhiên thế giới, thu hút nhiều vậy, các doanh nghiệp dễ neo vào ấn tượng khách<br />
khách du lịch thế giới. hàng của mình, giữa một “rừng” thương hiệu khác<br />
trong thời cạnh tranh kinh tế theo cơ chế thị trường.<br />
- Lý Sơn: nổi tiếng với sản phẩm hành tỏi và các<br />
Trong các địa danh trên, thì địa danh Mường Thanh,<br />
di tích lịch sử gắn liền với hai quần đảo Hoàng Sa và<br />
Pha Đin vốn xuất phát ở vùng đầu non, nhưng nó đã<br />
Trường Sa ngoài khơi.<br />
“di thực” rất mạnh ở vùng biển đảo nên xin kể ở đây.<br />
- Nha Trang: là vịnh biển đẹp, thành phố du lịch Cũng như vậy là tập đoàn Him Lam Land “di thực” vào<br />
biển nổi tiếng. Nam bên bờ sông Sài Gòn để có dự án địa ốc Him Lam<br />
- Phan Thiết: là nơi có loại nước mắm sản xuất ở Riverside.<br />
vùng “góc lồi” của biển Đông, nơi có hai dòng hải lưu 3.3. Mua quyền đặt địa danh<br />
tiếp giáp nhau của biển Đông và biển Tây, người dân<br />
có truyền thống đi biển và đánh bắt, chế biến hải sản Quyền đặt địa danh (place naming rights) là cái<br />
rất nổi bật, đặc biệt là nước mắm. Nước mắm Phan mà nhiều nhà địa danh học phương Tây hiện đại hay<br />
Thiết thương hiệu trội bật. nhắc tới, theo đó quyền này vốn của cộng đồng hoặc<br />
nhà nước, được chuyển sang cho các doanh nghiệp.<br />
- Phú Quốc: là hòn đảo xinh đẹp ở vùng biển gần Người ta hay nhắc đến trường hợp các sân vận động<br />
nước bạn Campuchia, gắn với du lịch, đặc sản nước của các câu lạc bộ thể thao ở Anh, như sân vận động<br />
mắm, giống chó nuôi tốt. của câu lạc bộ Arsenal mang tên Emirates, sân vận<br />
Giả thử các địa danh như trên bỗng dưng bị đổi động của câu lạc bộ Manchester City mang tên Etihad<br />
bằng tên khác, thì thiệt hại sẽ là bao nhiêu, như thế nằm trong rất nhiều trường hợp này.<br />
nào, ta không thể đo đếm hết. Ở Việt Nam, chưa thấy sân bóng đá nào trong<br />
Nếu chúng ta làm một phép điều tra xã hội học, trường hợp tương tự (có lẽ vì bóng đá chưa đạt tới<br />
chắc chắn các địa danh trên sẽ được biết nhiều hơn đẳng cấp cao), tuy nhiên đã thấy có những trường<br />
là những địa danh chỉ các thực thể hành chính mà hợp các doanh nghiệp với các dự án có diện tích rộng<br />
nó thống thuộc: Hạ Long được biết nhiều hơn Quảng đặt tên mới theo ý tưởng gầy dựng thương hiệu của<br />
Ninh, Phan Thiết được biết nhiều hơn là Bình Thuận, họ, như dự án một khu nhà ở hiện đại ở Hà Nội đặt là<br />
tương tự như vậy là Phú Quốc so với Kiên Giang, Nha Nam Thăng Long. Phú Quốc trong thời đại phát triển<br />
Trang so với Khánh Hòa. Giả thử ta làm một loại sản mạnh về du lịch thì có Vinpearl Phú Quốc, Nha Trang<br />
phẩm cùng chất lượng, mà cái này thì ghi Nha Trang, có Vinpearl Nha Trang. Ở quê tôi, một khu du lịch biển<br />
sản phẩm khác ghi Khánh Hòa, tôi nghĩ sản phẩm được doanh nghiệp đặt tên là Thiên Đàng, một cù lao<br />
mang tên Nha Trang sẽ bán chạy hơn nhiều so với sông trên sông Trà Khúc được đặt mới là Đảo Ngọc.<br />
sản phẩm mang tên Khánh Hòa. Điều ấy cho thấy ở Đó là những hiện tượng mới nói lên giá trị kinh<br />
đây có vấn đề thương hiệu, có giá trị kinh tế của các<br />
tế của địa danh biển đảo Việt Nam, và chắc hẳn bên<br />
địa danh.<br />
cạnh khía cạnh tích cực, nó sẽ xuất hiện những vấn đề<br />
3.2. Mượn tên địa danh làm thương hiệu cần giải quyết.<br />
Quan sát kinh tế nước ta trong thời gian gần đây, 4. Giá trị sở hữu hay chủ quyền<br />
ta cũng thấy có việc mượn địa danh để tạo thương<br />
Địa danh có thể vô tư về chính trị (political<br />
hiệu, đặc biệt trong các công ty, tập đoàn lớn. Một<br />
innocence)20, nhưng mặt khác cũng có thể bị chính<br />
hãng taxi ở thành phố Đà Nẵng mang tên Tiên Sa,<br />
trị lợi dụng. Địa danh có thể chỉ để định vị, nhưng<br />
là cảng biển của thành phố này. Một tập đoàn kinh<br />
cũng có nhiều trường hợp nó biểu thị ý nghĩa sở hữu<br />
tế lớn ở miền Bắc lấy tên là Mường Thanh, một địa<br />
(possessive), chiếm hữu (appropriation) đối với cư<br />
danh ở vùng đất Điện Biên lịch sử với câu thơ của<br />
dân, và nếu ở bình diện quốc gia, thì đó là chủ quyền<br />
Tố Hữu: “Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam. Hoa mơ<br />
(sovereignty). Đây cũng là những vấn đề chưa thấy<br />
lại trắng, vườn cam lại vàng”. Một công ty khác lại lấy<br />
những người nghiên cứu địa danh Việt Nam nhắc tới.<br />
tên Pha Đin, một cái tên khác cũng gắn liền với chiến<br />
dịch Điện Biên lịch sử: “Dốc Pha Đin chị gánh anh thồ. Ở trên tôi đã nói sơ qua về vấn đề nội danh và<br />
<br />
54 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
ngoại danh, nói ngoại danh có thể là tất yếu, là “vô vô giá đó cần phải bằng các góc nhìn thuyết lý địa<br />
tư”, nhưng cũng có khi nó gắn với ý đồ tranh chấp danh hiện đại, nếu không chúng ta sẽ không thể đạt<br />
lãnh thổ và lãnh hải. Trang Wikipedia khi nói về biển tới mục tiêu của mình, nhất là trong phát triển toàn<br />
Đông cũng ghi nhận: “Biển và phần lớn các đảo không diện vùng biển đảo, bảo vệ chủ quyền của đất nước.<br />
có cư dân là chủ đề đối với các tuyên bố tranh chấp chủ<br />
Thông qua một số thuyết lý hiện đại, chúng ta thấy<br />
quyền bởi một số quốc gia. Các tuyên bố này cũng phản<br />
ý nghĩa sâu sắc của địa danh, các khía cạnh khác nhau<br />
ánh trong sự khác nhau của tên gọi dùng cho các đảo<br />
của chúng, xác định cần thường xuyên bảo tồn và soi<br />
và biển”.<br />
sáng các giá trị của địa danh, làm cho mọi người tiếp<br />
Nhìn chung các địa danh biển đảo Việt Nam là tục gắn bó thiết thân với từng tên gọi của biển đảo<br />
những nội danh, là sự xác nhận quyền sở hữu, hơn thế Tổ quốc, làm nền tảng tinh thần của cả dân tộc, từ đó<br />
là chủ quyền của nước ta trên vùng biển đảo. Sự xuất người ta sẽ biết phải làm gì khi các địa danh và thực<br />
hiện của các ngoại danh từ các nhà hàng hải Bồ Đào thể địa lý của đất nước bị xâm phạm.<br />
Nha, Tây Ban Nha, Hà Lan, Pháp trong các thế kỷ trước<br />
Bên cạnh đó, chúng ta cần tiếp cận với địa danh<br />
có thể coi là bình thường, nhưng sự xuất hiện các tên<br />
học thế giới để làm sáng rõ những giá trị của địa danh<br />
gọi của Trung Quốc từ nửa cuối thế kỷ XX trở lại đây<br />
biển đảo Việt Nam, đặc biệt cần kết nối với các tổ chức<br />
không thể xem là bình thường. Trung Quốc đặt quần<br />
quốc tế như Tổ chức Thủy đạc Quốc tế (International<br />
đảo Hoàng Sa của Việt Nam là Tây Sa, đặt quần đảo<br />
Hydrographic Organization - IHO), Nhóm Thường trực<br />
Trường Sa là Nam Sa, cùng với bãi cạn Scarborough<br />
về Ngoại danh thuộc Nhóm chuyên gia Liên Hiệp<br />
mà Trung Quốc cưỡng đoạt từ Philippines rồi đặt là<br />
Quốc về Địa danh (UNGEGN) để tranh thủ lợi ích quốc<br />
Trung Sa, hợp ba nhóm đảo gọi là Tam Sa (theo cách<br />
gia chính đáng về endonyms và exonyms.21<br />
đọc Hán Việt). Việc đặt địa danh ở đây rõ ràng nằm<br />
trong một hợp phần, một ý đồ thôn tính biển đảo rất C.C.<br />
lộ liễu, không cần che giấu. Để làm đối sách, từ năm<br />
2012, Philippines gọi biển này là Biển Tây Philippines<br />
(West Philippine Sea). Một số đảo nằm trong tranh<br />
chấp, nhất là trong quần đảo Trường Sa của Việt Nam,<br />
cũng có những tên gọi khác nhau từ Trung Quốc, CHÚ THÍCH<br />
Philippines, Malaysia, Brunei. Đó thực sự là những 1<br />
Có thể kể như PGS. TS. Lê Trung Hoa với sách Địa danh<br />
cuộc đấu tranh địa danh (toponymic struggles). học Việt Nam (Khoa học xã hội, 2006), Nguyễn Văn Âu với<br />
sách Một số vấn đề địa danh học Việt Nam (Đại học Quốc<br />
Như vậy, các địa danh biển đảo của Việt Nam đã gia Hà Nội, 2000), trong đó Nguyễn Văn Âu có khảo một số<br />
được lưu truyền trong dân tộc Việt qua nhiều thế hệ, thủy danh (hydronyms) cụ thể như “địa danh sông ngòi”,<br />
được ghi rõ trong sách vở từ nhiều thế kỷ trước đã “địa danh hồ đầm”, “địa danh hải đảo”, đã có một số nhận<br />
không chỉ mang giá trị định vị bình thường nữa, mà định đáng ghi nhận, nhưng tác giả cũng thừa nhận “Ở<br />
trở thành một yếu tố để đấu tranh bảo vệ chủ quyền. nước ta các công trình nghiên cứu về địa danh còn quá ít ỏi<br />
Chúng mang những giá trị đặc biệt, giá trị sở hữu, giá và chưa có tính lý luận sâu sắc” (trang 6). Về vấn đề này tôi<br />
trị chủ quyền. sẽ khái quát bức tranh tổng thể về tình hình địa danh học<br />
Việt Nam trong một công trình được công bố vào cuối năm<br />
III. Mấy điều kết luận nay. Trong bài này tôi chỉ chọn lọc một số khía cạnh thiết<br />
Địa danh biển đảo Việt Nam thực sự là một di sản yếu, dịch trực tiếp từ tư liệu nước ngoài.<br />
- thậm chí một di sản văn hóa vô giá của các dân tộc 2<br />
Thực ra, tùy theo tình hình cụ thể mà các nhà địa danh<br />
Việt Nam, là sản phẩm của quá trình dựng nước và giữ học trên thế giới ngày nay còn gọi đó là địa danh bản địa<br />
nước nhiều ngàn năm của dân tộc ta. Địa danh vùng (Oboriginal Placenames) hay địa danh bản xứ (Indigenous<br />
biển đảo có thể hình thành theo hai phương thức, hai Placenames), nhất là trong trường hợp các quốc gia mới<br />
thời kỳ, là địa danh dân gian và địa danh chính thống, hình thành từ thời kỳ hậu thực dân (postcolonial) như Úc,<br />
hoặc địa danh dân gian được chính thống hóa, thể New Zealand, hay biệt danh (Nicknames), địa danh bình<br />
dân (Popular Placenames). Ngoài ra, tôi còn tìm thấy có<br />
hiện quyền lực nhà nước, chủ quyền của đất nước<br />
khái niệm địa danh dân gian xưa cổ (old folk place names),<br />
trên vùng biển đảo.<br />
do Sven Steffens, nhà sử học và là giám đốc Bảo tàng<br />
Tuy nhiên để khai thác và phát huy cao độ di sản Tổng hợp Molenbeek, Vương quốc Bỉ, sử dụng trong bài<br />
<br />
Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
55<br />
Nghiên cứu - Trao đổi<br />
<br />
<br />
“Urban popular place names past and present: the case 16<br />
Botolv Helleland, “Place names and Identities”, Oslo<br />
of Molenbeek-Saint-Jean/Sint-Jans-Molenbeek”, bản tiếng Studies in Language, số 4, 2012.<br />
Anh, Brussels Studies, số 9, năm 2007. 17<br />
Arseny Saparov, “The alteration of place names<br />
3<br />
Tôi đã đề xuất một số lý thuyết chung này tại quyển and construction of national identity in Soviet Armenia”,<br />
sách Địa danh dân gian Quảng Ngãi, (Văn hóa Dân tộc, Cahsiers du Monde russe, 44, 2003, 179-198.<br />
2015). Sách dự án phổ biến văn hóa dân gian do Hội Văn 18<br />
Keith H. Basso, Western Apache Languange and Culture.<br />
nghệ Dân gian Việt Nam xuất bản. Essays in Linguistic Anthropology. (Tucson: The University of<br />
4<br />
Về gốc tiếng Chăm của các địa danh này, một số người Arizona Press, 1990), 144.<br />
đã nghiên cứu, như Cà Ná có gốc tiếng Chăm là Canah 19<br />
Craig Young – Ducan Light, “Toponymy as<br />
có nghĩa là ngã ba, Phan Thiết là biến âm từ Panang Thít Commodity: Exploring the Economic Dimensions of Urban<br />
có nghĩa ruộng rộng bên biển, Phan Rang là biến âm của Place Names”, International Journal of Urban and Regional<br />
Panrang hay Pandarang. Research, số 39, 2014.<br />
5<br />
Cà Mau được xem là biến âm của Tưk Kha-mau, gốc 20<br />
Từ này có thể hiểu theo hai nghĩa, nghĩa tự thân địa<br />
tiếng Khmer, có nghĩa là nước đen, do rừng tràm U Minh danh không có hàm nghĩa chính trị, theo tôi là các địa danh<br />
tác động. Hai chữ U Minh trong chữ Hán cũng có nghĩa dân gian thời tối cổ, cũng có thể hiểu là “sự e ngại về chính<br />
tương tự. trị” (been afraid of politics), tức tự thân nó có hàm ý chính<br />
6<br />
Sự chính thống hóa tên địa danh bản địa cũng được thể trị nhưng người nghiên cứu lại né tránh, như có tác giả<br />
hiện qua khái niệm Approved Names (tên được chấp nhận) phương Tây đã viết. Ở đây tôi dùng theo nghĩa thứ nhất.<br />
trên thế giới, đơn cử trường hợp Ủy ban Liên Chính phủ 21<br />
Năm 2014, khi Trung Quốc đưa giàn khoan Hải Dương<br />
về Đo đạc và Bản đồ (ICSM), Ủy ban Tên địa lý Australasia 981 sâu vào vùng đặc quyền kinh tế của Việt Nam, TS. Dư<br />
(Úc và New Zealand) CGNA, trong tập Guidelines for the Văn Toán, Viện Nghiên cứu Biển và Hải đảo Việt Nam đã<br />
Consistance Use of Place Names, 2014. có bài “Công khai hóa địa danh biển Việt Nam”, cũng nằm<br />
7<br />
Một số nhà nghiên cứu cho rằng hai chữ Đà Nẵng bắt trong ý chung này.<br />
nguồn từ gốc tiếng Chăm là Danang, nghĩa là sông nguồn. TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH<br />
8<br />
Trong Hán ngữ không có âm R, do vậy ta thấy người ta 1. Lê Trung Hoa. 2006. Địa danh học Việt Nam. Khoa học<br />
cũng phiên âm Paris thành Ba Lê chính là vì vậy. xã hội.<br />
9<br />
Huỳnh Văn Tới - Phan Đình Dũng, Đồng Nai góc nhìn 2. Nguyễn Văn Âu. 2000. Một số vấn đề địa danh học Việt<br />
văn hóa, (Đồng Nai, 2013), 53. Nam. Đại học Quốc gia Hà Nội.<br />
10<br />
Paul Woodman (editor), The Great Toponymic Divide 3. Sven Steffens. 2007. “Urban popular place names<br />
- Reflections on the difinitions and usage of endonyms past and present: the case of Molenbeek-Saint-Jean/Sint-<br />
and exonyms, (Warszawa: Head Office of Geodesy and Jans-Molenbeek”, bản tiếng Anh. Brussels Studies. Số 9.<br />
Cartography, 2012).<br />
4. Nhiều tác giả, Paul Woodman biên tập. 2012. The<br />
11, 13<br />
Peter Jordan, “Towards a comprehensive view at Great Toponymic Divide - Reflections on the difinitions and<br />
the endonym/exonym divide”, in Paul Woodman (editor), usage of endonyms and exonyms. Warszawa: Head Office of<br />
The Great Toponymic Divide - Reflections on the difinitions Geodesy and Cartography.<br />
and usage of endonyms and exonyms, (Warszawa: Head<br />
Office of Geodesy and Cartography, 2012). 5. Botolv Helleland. 2012. “Place names and Identities”.<br />
Oslo Studies in Language. Số 4.<br />
12<br />
Các bản đồ này nay đã phổ biến khá rộng rãi, đã có<br />
sẵn trên internet nên tôi xin phép không kể chi tiết. 6. Craig Young - Ducan Light. 2014. “Toponymy as<br />
Commodity: Exploring the Economic Dimensions of Urban<br />
14<br />
Philip W. Matthews, “Endonyms, exonyms and seas”, Place Names”. International Journal of Urban and Regional<br />
in Paul Woodman (editor), The Great Toponymic Divide Research. Số 39.<br />
- Reflections on the difinitions and usage of endonyms<br />
and exonyms, (Warszawa: Head Office of Geodesy and 7. Jani Vuolteenaho và Lawrence D. Berg (tuyển chọn).<br />
Cartography, 2012). 2009. Critical Toponymies - The Contested Politics of Naming.<br />
Ashgate.<br />
15<br />
Lê Trung Hoa, Địa danh học Việt Nam, (Khoa học xã<br />
hội, 2006), 213. Có thể thấy cái ý này của Lê Trung Hoa được 8. Intergovernmental Committee Survey & Mapping<br />
lặp đi lặp lại ở khá nhiều nhà nghiên cứu địa danh, trong đó (ICSM). 2014. Guidelines for the Consistance Use of Place<br />
có các luận án tiến sĩ. Names. Committee for Geographical Names in Australasia.<br />
<br />
<br />
<br />
56 Phaùt trieån Kinh teá - Xaõ hoäi<br />
Ñaø Naüng<br />
ADSENSE
Thêm tài liệu vào bộ sưu tập có sẵn:
Báo xấu
LAVA
AANETWORK
TRỢ GIÚP
HỖ TRỢ KHÁCH HÀNG
Chịu trách nhiệm nội dung:
Nguyễn Công Hà - Giám đốc Công ty TNHH TÀI LIỆU TRỰC TUYẾN VI NA
LIÊN HỆ
Địa chỉ: P402, 54A Nơ Trang Long, Phường 14, Q.Bình Thạnh, TP.HCM
Hotline: 093 303 0098
Email: support@tailieu.vn