intTypePromotion=1
zunia.vn Tuyển sinh 2024 dành cho Gen-Z zunia.vn zunia.vn
ADSENSE

Đo lường lợi nhuận cho nghề nuôi tôm hùm tại thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa

Chia sẻ: Thi Thi | Ngày: | Loại File: PDF | Số trang:7

71
lượt xem
2
download
 
  Download Vui lòng tải xuống để xem tài liệu đầy đủ

Nghiên cứu đo lường lợi nhuận cho các lồng nuôi tôm hùm tại Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa năm 2012 -2013. Trong 94 hộ được khảo sát, Lợi nhuận bình quân/lồng là 10 triệu VNĐ/lồng, nhỏ nhất là - 82 triệu VNĐ/ lồng, lớn nhất là 58 triệu VNĐ/lồng. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu trung bình của một lồng là 0,04, tỷ suất lợi nhuận trên chi phí trung bình là 0,06. Kết quả nghiên cứu hàm ý rằng (i) mặc dù nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh đang gặp khó khăn nhưng các hộ vẫn tiếp tục tham gia nuôi; (ii) tôm hùm lồng đây là nghề rủi ro lớn nhưng sức hấp dẫn của nghề cao.

Chủ đề:
Lưu

Nội dung Text: Đo lường lợi nhuận cho nghề nuôi tôm hùm tại thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa

Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 2/2015<br /> <br /> KEÁT QUAÛ NGHIEÂN CÖÙU ÑAØO TAÏO SAU ÑAÏI HOÏC<br /> <br /> ĐO LƯỜNG LỢI NHUẬN CHO NGHỀ NUÔI TÔM HÙM<br /> TẠI THÀNH PHỐ CAM RANH, TỈNH KHÁNH HÒA<br /> PROFITABILITY ANALYSIS FOR LOBSTER SHIRMP AQUACULTURE<br /> IN CAM RANH CITY, KHANH HOA PROVINCE<br /> Nguyễn Đức Toàn1, Quách Thị Khánh Ngọc2<br /> Ngày nhận bài: 06/01/2015; Ngày phản biện thông qua: 27/02/2015; Ngày duyệt đăng: 10/6/2015<br /> <br /> TÓM TẲT<br /> Nghiên cứu đo lường lợi nhuận cho các lồng nuôi tôm hùm tại Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa năm 2012 -2013. Trong<br /> 94 hộ được khảo sát, Lợi nhuận bình quân/lồng là 10 triệu VNĐ/lồng, nhỏ nhất là - 82 triệu VNĐ/ lồng, lớn nhất là 58 triệu<br /> VNĐ/lồng. Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu trung bình của một lồng là 0,04, tỷ suất lợi nhuận trên chi phí trung bình là<br /> 0,06. Kết quả nghiên cứu hàm ý rằng (i) mặc dù nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh đang gặp khó khăn nhưng các hộ<br /> vẫn tiếp tục tham gia nuôi; (ii) tôm hùm lồng đây là nghề rủi ro lớn nhưng sức hấp dẫn của nghề cao.<br /> Từ khóa: lợi nhuận, tôm hùm lồng, Cam Ranh<br /> <br /> ABSTRACT<br /> This study analyzes profitability for the lobster shrimp aquaculture in Cam Ranh city, Khanh Hoa province year of<br /> 2012 - 2013. In 94 households surveyed, Profit per cage is 10 million VNDs/cage, the smallest value is - 82 million VNDs/<br /> cage, the maximum value is 58 million VNDs/cage. The ratio of profit on revenue is 0.04; the ratio of profit on cost is 0.06.<br /> This imply that (i) although the lobster shrimp aquaculture in Cam Ranh is in difficulty, the aquacultue cages still are in<br /> production; (ii) the lobster shrimp aquaculture is really risky but incentive .<br /> Keywords: profitability, lobster shrimp, Cam Ranh<br /> <br /> I. ĐẶT VẤN ĐỀ<br /> Tôm hùm (Panulirus.spp) thuộc họ Palinuniade<br /> là loài tôm có giá trị kinh tế cao. Ở Việt Nam có 7<br /> loài tôm hùm gồm tôm hùm bông, tôm hùm đá, tôm<br /> hùm sỏi, tôm hùm đỏ, tôm hùm ma, tôm hùm sen<br /> và tôm hùm bùn [1]. Nghề nuôi tôm hùm bằng lồng<br /> ở Việt Nam bắt đầu phát triển từ năm 2000, phân<br /> bố từ Quảng Bình đến Bình Thuận nhưng tập trung<br /> chủ yếu ở các tỉnh Quảng Ngãi, Bình Định, Phú Yên,<br /> Khánh Hòa, Ninh Thuận. Sản lượng trung bình hàng<br /> năm đạt gần 1.400 tấn, chủ yếu là tôm hùm bông và<br /> tôm hùm xanh mang lại nguồn thu hơn 3.500 tỷ đồng<br /> mỗi năm. Hiện cả nước có khoảng 43.000 lồng, tập<br /> trung nhiều nhất ở Phú Yên và Khánh Hòa [2].<br /> Tại Cam Ranh, từ năm 2000 đến 2004, số lồng<br /> tôm hùm tăng hơn 12 lần, sản lượng tôm thương<br /> phẩm tăng 6,6 lần. Riêng năm 2003, sản lượng<br /> <br /> 1<br /> 2<br /> <br /> tôm thương phẩm đạt 400 tấn, trị giá khoảng 200<br /> tỷ đồng, tại thời điểm số lồng nuôi đạt cao nhất là<br /> 2006 - 2007 với số lượng lên đến 12.000 lồng. Sở dĩ<br /> nghề nuôi tôm hùm phát triển mạnh mẽ như vậy do<br /> những thuận lợi về nhiệt độ, môi trường nước như:<br /> độ mặn, các yếu tố thủy lý, dòng chảy, thủy triều, ít bị<br /> tác động của bão gió và có nguồn thức ăn tự nhiên<br /> dồi dào. Đến 2013, Cam Ranh có 405 bè nuôi tôm<br /> hùm với số lượng 7.950 lồng [4]. Tuy nhiên, tình hình<br /> dịch bệnh trên tôm hùm nuôi diễn biến ngày càng<br /> phức tạp, nhiều vùng nuôi chưa thể kiểm soát được<br /> dịch bệnh gây tâm lý lo ngại cho người nuôi. Hiện<br /> nay công nghệ nuôi tôm hùm lồng vẫn áp dụng theo<br /> kiểu truyền thống, quy mô nhỏ lẻ. Thức ăn chủ yếu<br /> hiện nay cho tôm hùm là cá tạp nên dễ gây ô nhiễm<br /> môi trường nuôi, trong khi đó thức ăn công nghiệp<br /> cho tôm hùm chưa được sản xuất…<br /> <br /> Nguyễn Đức Toàn: Cao học Kinh tế thủy sản 2010 - Trường Đại học Nha Trang<br /> TS. Quách Thị Khánh Ngọc: Khoa Kinh tế - Trường Đại học Nha Trang<br /> <br /> 176 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> Trước thực trạng trên, việc tìm hiểu hiện trạng<br /> và đánh giá lợi nhuận của nghề nuôi tôm hùm lồng<br /> tại Cam Ranh trong thời gian qua là rất cần thiết,<br /> nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc quy hoạch vùng<br /> nuôi của địa phương, giúp cho nghề nuôi tôm hùm<br /> lồng phát triển ổn định và bền vững.<br /> II. CƠ SỞ LÝ THUYẾT VÀ PHƯƠNG PHÁP<br /> NGHIÊN CỨU<br /> <br /> Số 2/2015<br /> hộ nuôi tôm hùm đại diện cho chất lượng nước tại<br /> khu vực nghiên cứu. Tuy nhiên, do không có số liệu<br /> về hàm lượng P trong thịt tôm hùm nên nghiên cứu<br /> chọn N là chỉ sô đại diện.<br /> Ước tính lượng P, N thải ra môi trường:<br /> L = P x (Fc x Cfeed – Cfish)<br /> Trong đó:<br /> L: lượng N hoặc P thải vào môi trường (kg/m2)<br /> P: tổng sản lượng sản xuất (kg/ m2)<br /> Fc: hệ số chuyển đổi thức ăn (khác nhau cho<br /> từng hộ)<br /> Cfeed: hàm lượng N/P trong thức ăn (%)<br /> Cfish: hàm lượng N/P trong tôm hùm (%) thông<br /> tin này được sử dụng từ các nghiên cứu trước [5].<br /> <br /> 1. Cơ sở lý thuyết<br /> - Nghiên cứu về lợi nhuận với quy trình như sau:<br /> Tổng doanh thu<br /> - Chi phí biến đổi<br /> - Chi phí cố định<br /> = Lợi nhuận<br /> 2. Phương pháp nghiên cứu<br /> Đo lường lợi nhuận của Lồng nuôi tôm hùm trong<br /> nghiên cứu được đo lường bằng các chỉ số: Lợi nhuận/<br /> 2.1. Dữ liệu nghiên cứu<br /> Lồng, Lợi nhuận/ Doanh thu, Lợi nhuận/ Chi phí [3].<br /> 2.1.1. Địa bàn và qui mô nghiên cứu<br /> Lợi nhuận/lồng: Đây chính là lợi nhuận thực sự<br /> Đối tượng nghiên cứu là các lồng nuôi tôm hùm<br /> của nông hộ. Chỉ số này dương cho thấy nông hộ có<br /> tại thành phố Cam Ranh, tỉnh Khánh Hòa năm 2012<br /> đủ khả năng tái đầu tư trong dài hạn. Sự bền vững<br /> - 2013, số lượng mẫu nghiên cứu là 94 mẫu.<br /> của sản xuất chỉ thực sự đạt được nếu lợi nhuận/<br /> 2.1.2. Phương pháp chọn mẫu nghiên cứu<br /> lồng dương.<br /> Phương pháp chọn mẫu ngẫu nhiên đơn giản<br /> Tỷ số lợi nhuận trên doanh thu là một tỷ số tài<br /> bằng cách dựa vào danh sách các hộ nuôi, sau đó<br /> chính dùng để theo dõi tình hình sinh lợi của hộ<br /> rút thăm ngẫu nhiên không lặp lại từ danh sách lập<br /> nuôi. Nó phản ánh quan hệ giữa lợi nhuận ròng và<br /> để chọn ra các hộ cần điều tra. Số liệu thu thập bằng<br /> doanh thu của hộ nuôi. Tỷ số này cho biết lợi nhuận<br /> phương pháp phỏng vấn trực tiếp chủ hộ.<br /> chiếm bao nhiêu phần trăm trong doanh thu. Tỷ số<br /> 2.2. Phương pháp phân tích dữ liệu<br /> này mang giá trị dương nghĩa là hộ nuôi có lãi; tỷ số<br /> Lợi nhuận lồng nuôi trong nghiên cứu được đo<br /> càng lớn nghĩa là lãi càng lớn. Tỷ số mang giá trị âm<br /> lường<br /> bằng các chỉ số: Lợi nhuận/lồng, Lợi nhuận/<br /> nghĩa là hộ nuôi thua lỗ.<br /> Doanh<br /> thu, Lợi nhuận/ Chi phí.<br /> Tỷ suất lợi nhuận trên chi phí: Chỉ tiêu này phản<br /> ánh cứ một đồng chi phí bỏ ra thì thu được bao nhiêu<br /> III. KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU VÀ THẢO LUẬN<br /> đồng lợi nhuận, chỉ tiêu này càng lớn thì chứng tỏ<br /> với một mức chi phí thấp cũng cho phép mang lại lợi<br /> 1. Lợi nhuận của nghề nuôi tôm hùm lồng tại<br /> nhuận cao cho hoạt động nuôi của hộ nuôi.<br /> Cam Ranh<br /> - Nghiên cứu lượng chất thải ra môi trường<br /> Đánh giá lợi nhuận của các hộ nuôi tôm hùm<br /> sử dụng chỉ số hàm lượng N hoặc P thải ra từ các<br /> lồng tại Cam Ranh được trình bày như bảng 1.<br /> Bảng 1. Kết quả kinh tế của nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh<br /> Trung bình<br /> <br /> Giá trị nhỏ nhất<br /> <br /> Giá trị lớn nhất<br /> <br /> 1. Số lồng (lồng)<br /> <br /> Tiêu chí<br /> <br /> 19<br /> <br /> 2<br /> <br /> 30<br /> <br /> 2. Doanh thu/lồng (triệu đồng/lồng)<br /> <br /> 170<br /> <br /> 140<br /> <br /> 200<br /> <br /> 3. Chi phí/ha (triệu đồng/lồng)<br /> <br /> 160<br /> <br /> 142<br /> <br /> 282<br /> <br /> - Chi phí biến đổi/lồng (triệu đồng/lồng)<br /> <br /> 40<br /> <br /> 60<br /> <br /> 80<br /> <br /> - Chi phí cố định/lồng (triệu đồng/lồng)<br /> <br /> 120<br /> <br /> 80<br /> <br /> 202<br /> <br /> 10<br /> <br /> -82<br /> <br /> 58<br /> <br /> 6. Lợi nhuận/doanh thu<br /> <br /> 0,04<br /> <br /> -0,6<br /> <br /> 0,29<br /> <br /> 7. Lợi nhuận/chi phí<br /> <br /> 0,06<br /> <br /> -0,40<br /> <br /> 0,2<br /> <br /> 5. Lợi nhuận/lồng (triệu đồng/lồng)<br /> <br /> (Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, năm 2013).<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 177<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> <br /> Số 2/2015<br /> <br /> Tại Cam Ranh, lợi nhuận/lồng tôm hùm trung<br /> bình là 10 triệu đồng/ lồng.<br /> Lợi nhuận/ doanh thu nuôi tôm hùm trung bình<br /> là 0,04 nghĩa là cứ 100 đồng doanh thu thu được có<br /> 4 đồng lợi nhuận. So sánh với lãi suất ngân hàng<br /> thì tỷ lệ này rất thấp. Kết quả tính toán cho thấy có<br /> sự chênh lệch lớn giữa giá trị nhỏ nhất và giá trị lớn<br /> nhất về lợi nhuận thu được trên mỗi lồng nuôi, thể<br /> hiện sự khác biệt về hiệu quả kinh tế của việc nuôi<br /> tôm hùm lồng giữa các hộ là rất lớn. Điều này ngụ ý<br /> nghề nuôi tôm hùm lồng này có mức độ độ rủi ro cao<br /> nhưng cũng là nghề hấp dẫn do các hộ lãi có giá trị<br /> lợi nhuận ròng lớn.<br /> Lợi nhuận/chi phí hộ nuôi tôm hùm trung bình là<br /> 0,06 nghĩa là cứ 100 đồng chi phí bỏ ra thu được 6<br /> đồng lợi nhuận.<br /> Nghề nuôi tôm hùm lồng này có mức độ độ rủi<br /> ro cao nhưng cũng là nghề hấp dẫn do các hộ lãi<br /> có giá trị lợi nhuận ròng lớn. Rủi ro cao là do một<br /> số nguyên nhân như: Nguồn khai thác ngày càng<br /> giảm nên không cung ứng đủ cho nhu cầu nuôi;<br /> chất lượng con giống kém khiến người nuôi gặp<br /> nhiều rủi ro. Con tôm hùm giống cũng đang bị thả<br /> nổi về công tác kiểm soát, kiểm dịch nên tôm có<br /> mầm bệnh cũng không ai biết. Thêm vào đó, công<br /> nghệ nuôi tôm hùm hiện nay vẫn theo cách truyền<br /> thống là mỗi bè có khoảng 4- 10 lồng, mỗi lồng thả<br /> nuôi khoảng 100 con. Con tôm hùm khoái ăn tươi<br /> nên thức ăn cho chúng là các loại cá tạp, cua, sò…<br /> Khi tôm ăn không hết, còn thức ăn thừa chúng ăn đi<br /> ăn lại vừa gây bệnh cho tôm vừa gây ô nhiễm môi<br /> trường nước. Đó là một trong những nguyên nhân<br /> gây bùng phát dịch bệnh; đặc biệt là các bệnh tôm<br /> <br /> sữa, đen mang… Nguyên nhân ban đầu được các<br /> nhà chuyên môn cho là do thức ăn kém phẩm chất.<br /> Mật độ nuôi tôm quá dày cũng làm tăng nhanh<br /> độ ô nhiễm vùng, bệnh xuất hiện nhiều, tỉ lệ sống<br /> của tôm hùm giảm dần. Quy hoạch chỉ cho phép<br /> khoảng cách giữa cụm bè này với cụm bè kia phải<br /> đạt tối thiểu 100m. Nhưng hiện nay trong vùng tôm<br /> chết nhiều, các bè tôm nằm san sát nhau, ước tính<br /> mật độ dày gấp hơn ba lần so với tiêu chuẩn trong<br /> vùng quy hoạch. Quy định chỉ 30 - 60 lồng/ha nhưng<br /> ở Cam Ranh nuôi 75 lồng/ha. Ngoài ra mật độ tôm<br /> nuôi quy định chỉ 50 con/lồng, nhưng ở đây nuôi với<br /> mật độ cao hơn 2-4 lần [4].<br /> Bên cạnh nỗi lo về dịch bệnh, đầu ra, giá cả<br /> tôm hùm cũng đang là mối quan tâm hàng đầu của<br /> người nuôi. Chẳng hạn, những ngày đầu năm 2013,<br /> giá tôm lên đến gần 2,5 triệu đồng/kg, nhưng sau<br /> đó giảm xuống từ 1,8 - 2,3 triệu đồng/kg và nay chỉ<br /> còn khoảng 1,6 triệu đồng/kg. Không những thế,<br /> sản lượng tôm hùm thấp, không đều, xuất khẩu tiểu<br /> ngạch sang thị trường Trung Quốc hoặc tiêu thụ<br /> nội địa [2].<br /> 2. Kiểm định phương sai cho năng suất tôm hùm<br /> lồng tại Cam Ranh, Khánh Hòa<br /> Kiểm định phương sai cho năng suất theo nhóm<br /> kinh nghiệm người nuôi, theo trình độ học vấn, theo<br /> lao động, theo chi phí biến đổi, chỉ có theo trình độ<br /> học vấn là có sự khác nhau có ý nghĩa thống kê.<br /> Cặp giả thiết :<br /> Ho : Không có sự khác nhau giữa năng suất<br /> theo các nhóm trình độ học vấn<br /> H1 : Có sự khác nhau giữa năng suất theo các<br /> nhóm trình độ học vấn<br /> <br /> Bảng 2. Kiểm định sự khác nhau của năng suất trung bình giữa các nhóm học vấn<br /> Levene Statistic<br /> <br /> df1<br /> <br /> df2<br /> <br /> Sig.<br /> <br /> 0,969<br /> <br /> 4<br /> <br /> 89<br /> <br /> 0,383<br /> <br /> Loại biến thiên<br /> <br /> Biến thiên<br /> <br /> Df<br /> <br /> Trung bình biến thiên<br /> <br /> F<br /> <br /> Sig.<br /> <br /> 3,328<br /> <br /> 0,040<br /> <br /> Giữa nhóm<br /> <br /> 1471,900<br /> <br /> 4<br /> <br /> 735,950<br /> <br /> Trong nhóm<br /> <br /> 22112,296<br /> <br /> 89<br /> <br /> 221,123<br /> <br /> Tổng<br /> <br /> 23584,196<br /> <br /> 93<br /> Khoảng tin cậy 95%<br /> <br /> (J) trinhdo<br /> <br /> Khác biệt trung bình<br /> (I-J)<br /> <br /> Sai lệch<br /> chuẩn<br /> <br /> Sig.<br /> <br /> Chỉ số dưới<br /> <br /> Chỉ số trên<br /> <br /> Học trung học<br /> <br /> Đã qua đào tạo<br /> <br /> -8,06234*<br /> <br /> 3,31561<br /> <br /> 0,044<br /> <br /> -15,9506<br /> <br /> -,1741<br /> <br /> Đã qua đào tạo<br /> <br /> Học đại học,<br /> cao đẳng<br /> <br /> -0,37738<br /> <br /> 9,04378<br /> <br /> 0,999<br /> <br /> -21,8935<br /> <br /> 21,1388<br /> <br /> 8,43972<br /> <br /> 8,77228<br /> <br /> 0,602<br /> <br /> -12,4305<br /> <br /> 29,3100<br /> <br /> (I) trinhdo<br /> <br /> Học đại học, cao đẳng Học trung học<br /> (Nguồn: Tính toán từ số liệu điều tra, năm 2014)<br /> <br /> 178 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> Kiểm định phương sai, với mức ý nghĩa<br /> Sig = 0,383 > 0,05 nên chấp nhận giả thiết H0 với<br /> kiểm định phương sai. Tức là không có sự khác<br /> nhau giữa phương sai giữa năng suất theo các<br /> nhóm trình độ học vấn người nuôi.<br /> Như vậy, phân tích ANOVA để cho thấy sự khác<br /> nhau giữa các nhóm. Phân tích ANOVA, với mức<br /> ý nghĩa Sig = 0,040 < 0,05 nên bác bỏ giả thiết H0,<br /> chấp nhận giả thiết H1. Để biết được sự khác nhau<br /> giữa năng suất các nhóm theo trình độ học vấn, sử<br /> dụng kiểm định t từng cặp để phân tích.<br /> Ở nhóm người nuôi có trình độ học trung học và<br /> nhóm người nuôi có trình độ đã qua đào tạo có sự<br /> khác nhau đáng kể về năng suất nuôi. Cụ thể, năng<br /> suất trung bình của nhóm người nuôi đã qua đào<br /> tạo cao hơn năng suất trung bình của nhóm người<br /> nuôi có trình độ học trung học. Với độ tin cậy 95%<br /> thì mức ý nghĩa Sig = 0,044 < 0,05 nên kiểm định có<br /> mức ý nghĩa thống kê.<br /> Với nhóm người nuôi có trình độ học vấn học<br /> đại học, cao đẳng thì năng suất trung bình cao hơn<br /> nhóm người nuôi có trình độ đã qua đào tạo. Tuy<br /> nhiên với mức ý nghĩa của kiểm định Sig = 0,999 thì<br /> kiểm định không có ý nghĩa thống kê nên chưa thể<br /> kết luận có sự khác biệt giữa năng suất hai nhóm<br /> người nuôi có trình độ học vấn học đại học, cao<br /> đẳng và nhóm đã qua đào tạo.<br /> Đối với nhóm người nuôi có trình độ học vấn là<br /> cao đẳng, đại học so với nhóm người nuôi có trình<br /> độ học vấn học trung học thì mức ý nghĩa Sig cũng<br /> lớn hơn 0,05 nên không có ý nghĩa thống kê.<br /> Như vậy, qua phân tích ở trên có thể thấy giữa<br /> 2 trình độ trung học và qua đào tạo thì những người<br /> nuôi có trình độ đã qua đào tạo có năng suất lớn<br /> hơn. Giữa các cặp trình độ trung học với cao đẳng<br /> đại học và nhóm trình độ đại học, cao đẳng với đã<br /> qua đào tạo thì không thể kết luận được là có sự<br /> khác biệt về năng suất vì không có ý nghĩa thống kê.<br /> 3. Tình hình vay vốn và lượng chất thải ra môi<br /> trường tôm hùm lồng tại Cam Ranh, Khánh Hòa<br /> Để hiểu sâu hơn về vốn cho các hộ nuôi tôm,<br /> nhóm nghiên cứu đã tiến hành khảo sát, điều tra 94<br /> hộ nuôi tôm với kết quả như sau: có 68,4% hộ nuôi<br /> tôm cho biết họ vay ngắn hạn theo mùa; chỉ có 8,4%<br /> là thường xuyên có nhu cầu vay. Tuy nhiên cũng có<br /> 21,5% ít khi vay vốn và 1,6% ý kiến trả lời cho biết<br /> họ chưa vay lần nào. Mức độ khó khăn khi vay vốn<br /> của những người nuôi tôm, kết quả khảo sát có đến<br /> 81,5% ý kiến cho rằng việc vay vốn ở các tổ chức<br /> tín dụng chính thức (ngân hàng và quỹ tín dụng) là<br /> khó khăn và rất khó khăn. Chỉ có 19,5% cho rằng,<br /> <br /> Số 2/2015<br /> việc vay vốn từ các nguồn chính thức là dễ dàng.<br /> Trong khi đó cũng chỉ có 0,6% cho rằng việc vay vốn<br /> là rất dễ dàng. Tìm hiểu rõ hơn nguyên nhân người<br /> nuôi tôm không vay vốn từ ngân hàng để từ đó có<br /> giải pháp, cơ chế chính sách về vốn hợp lý hơn cho<br /> người nuôi tôm, kết quả khảo sát cho thấy có 40,9%<br /> người nuôi tôm không vay được vốn từ các ngân<br /> hàng là do không đủ tài sản thế chấp để được vay<br /> vốn hoặc định giá trị tài sản thế chấp không phù hợp<br /> với giá thị trường (thấp hơn giá thị trường); 37,4%<br /> không vay vốn vì lãi suất cho vay quá cao, sản xuất<br /> khó có khả năng thu hồi vốn; 13,6% viện dẫn lý do<br /> bị từ chối khi xin vay, trường hợp này chủ yếu hồ sơ<br /> không hợp lệ hoặc các dự án không khả thi; 5,6%<br /> cho là thủ tục vay vốn phức tạp và 2,5% vì lý do<br /> khác như không biết thủ tục vay vốn, vay của người<br /> thân, vay trong xóm.<br /> Trong 1 vụ với thời gian nuôi trung bình là 20<br /> tháng, với lượng mẫu thu thập là 94 mẫu, sản lượng<br /> 184,5 tấn thì tổng lượng N thải ra môi trường là<br /> khoảng 75,5 tấn. Với tổng số lồng của Cam Ranh là<br /> 7.950 lồng, 300 tấn thương phẩm (theo báo cáo của<br /> Phòng Nông nghiệp Thành phố Cam Ranh, 2013)<br /> thì tổng số lượng N thải ra môi trường là khoảng<br /> 122,68 tấn. Ước tính tổng chi phí chất thải N là<br /> 16,50 tỷ - 32,97 tỷ đồng. Thông tin này chỉ mang tính<br /> tương đối vì con số này có thể thay đổi phụ thuộc<br /> vào rất nhiều yếu tố: giá tôm bán trên thị trường, giá<br /> trị chuyển đổi trong chi phí xử lý, khả năng tự xử lý<br /> của môi trường.<br /> 4. Đánh giá chung về nghề nuôi tôm hùm lồng<br /> tại Cam Ranh<br /> 4.1. Thành tựu và hạn chế của nghề nuôi tôm hùm<br /> lồng tại Cam Ranh<br /> 4.1.1. Thành tựu đạt được<br /> Tổng số lồng nuôi tôm hùm tại Cam Ranh tăng<br /> lên nhanh chóng. Mặc dù nghề nuôi tôm hùm ở<br /> Cam Ranh góp phần rất lớn và việc giải quyết công<br /> ăn việc làm, tăng thêm sinh kế cho người dân, góp<br /> phần phát triển các nghề khác: du lịch, chế biến…<br /> Số lồng trung bình của 1 hộ nuôi tôm hùm tại<br /> Cam Ranh là 19 lồng, hộ nhỏ nhất là 2 lồng, lớn nhất<br /> là 30 lồng. Doanh thu trung bình 1 lồng là 170 triệu<br /> đồng/ lồng, nhỏ nhất là 140 triệu đồng/lồng, lớn nhất<br /> là 200 triệu đồng/lồng. Lợi nhuận bình quân/lồng là<br /> 10 triệu/lồng, nhỏ nhất là -82 triệu đồng/ lồng, lớn<br /> nhất là 58 triệu đồng/lồng. Tỷ suất lợi nhuận trên<br /> doanh thu trung bình của một lồng là 0,04, tỷ suất<br /> lợi nhuận trên chi phí trung bình là 0,06.<br /> Nghề nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh giải<br /> quyết việc làm cho các hộ gia đình trực tiếp,<br /> <br /> TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG • 179<br /> <br /> Tạp chí Khoa học - Công nghệ Thủy sản<br /> và hàng ngàn hộ gia đình gián tiếp khác: nậu vựa,<br /> chế biến, cung ứng thức ăn, con giống…<br /> 4.1.2. Hạn chế<br /> Dịch bệnh sữa trên tôm hùm lồng đã gây thiệt<br /> hại cho người nuôi tôm. Nhiều gia đình lâm vào<br /> cảnh trắng tay, nợ nần chồng chất. Bên cạnh đó, do<br /> chưa có quy hoạch tổng thể, người nuôi phát triển<br /> tự phát nên chưa nắm vững quy trình, kỹ thuật từ<br /> khâu chọn địa điểm, mật độ, hướng đặt bè tôm, sử<br /> dụng và bảo quản thức ăn, đến xử lý chất thải. Hậu<br /> quả nhãn tiền là nguồn nước, môi trường vùng nuôi<br /> bị ô nhiễm, tôm mắc bệnh chết hàng loạt. Tuy nhiên,<br /> cùng với sự phát triển của nghề nuôi tôm hùm tại<br /> Cam Ranh như hiện nay, thiệt hại do ảnh hưởng từ<br /> thiên nhiên, môi trường, dịch bệnh ngày càng lớn.<br /> Bênh cạnh đó, vấn đề giá cả cũng ảnh hưởng<br /> rất lớn đến người nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh.<br /> Hiện chưa thể cho tôm hùm sinh sản trong môi<br /> trường nhân tạo. Toàn bộ số tôm hùm con đưa vào<br /> nuôi là do ngư dân bẫy bắt ngoài môi trường thiên<br /> nhiên. Lượng tôm con năm ít, năm nhiều, giá cả<br /> thiếu ổn định. Do khan hiếm, mỗi con tôm hùm con<br /> (loại tôm trắng) có giá tới 350 nghìn đến gần 400<br /> nghìn đồng [4]. Bên cạnh đó, do kích cỡ khác nhau,<br /> nguồn giống khác nhau, sức khỏe khác nhau, cho<br /> nên khi thả nuôi rất vất vả. Đó là chưa kể tới việc<br /> không kiểm soát được tình trạng dịch bệnh của tôm<br /> con, cho nên hiệu quả phòng, chống dịch rất thấp.<br /> Bên cạnh đó, vấn đề đầu ra của tôm hùm<br /> cũng rất bấp bênh. Do giá tôm năm có thời điểm<br /> hạ (khoảng 1,6 đến 1,8 triệu đồng/kg loại một), có<br /> thời điểm lại ít dịch bệnh, giá tôm 2,5 đến 2,8 triệu<br /> đồng/kg [4].<br /> Nghề nuôi tôm hùm lồng phát triển, kéo theo đó<br /> là sự phát triển của nghề khai thác tôm hùm giống<br /> cung cấp cho các vùng nuôi. Những loài tôm là đối<br /> tượng nuôi chính như: tôm hùm bông, tôm hùm đá<br /> càng, tôm con được gia tăng cường độ đánh bắt,<br /> khai thác. Mặt khác, trong quá trình nuôi, tỷ lệ tôm<br /> chết do bệnh dịch khá lớn làm nhu cầu con giống<br /> ngày một tăng, dẫn đến việc khai thác tôm hùm<br /> giống trở nên quá mức. Tại Khánh Hòa, việc khai<br /> thác tôm hùm giống tập trung chủ yếu ở 3 khu vực.<br /> Trong đó, vùng biển Đầm Môn - Đại Lãnh với diện<br /> tích khai thác 11,7km2; vùng biển đầm Nha Phu vịnh Nha Trang với diện tích khai thác gần 29,1km2;<br /> vùng biển Bãi Dài (Cam Ranh) với diện tích gần<br /> 15,5km2. Loài tôm hùm khai thác gồm: tôm hùm<br /> bông, tôm hùm đá, tôm hùm tre, tôm hùm đỏ và tôm<br /> hùm sỏi. Tuy nhiên, tôm hùm bông và tôm hùm đá<br /> là 2 loài nuôi phổ biến và có giá trị kinh tế nên được<br /> người khai thác chú ý hơn so với các loài khác.<br /> <br /> 180 • TRƯỜNG ĐẠI HỌC NHA TRANG<br /> <br /> Số 2/2015<br /> Mùa vụ đánh bắt tôm hùm giống thường bắt đầu<br /> từ tháng 11 năm trước và kéo dài đến tháng 4 năm<br /> sau. Tỷ lệ các kích cỡ tôm hùm giống được khai thác<br /> từ 7 - 8mm chiều dài giáp đầu ngực, chúng có màu<br /> trắng hoặc trắng hồng, chiếm khoảng 78 - 83%; tôm<br /> giống cỡ lớn hơn 9 - 11mm chiều dài giáp đầu ngực,<br /> được gọi là tôm “bọ cạp”, chiếm 15 - 16%; một số<br /> ít tôm con cỡ lớn được khai thác chủ yếu bằng lặn<br /> bắt chiếm 2 - 6%. Hiện nay, ngư dân khai thác tôm<br /> hùm giống chủ yếu dưới các hình thức bằng mành,<br /> bẫy và lặn. Trong đó, khai thác bằng mành có tỷ lệ<br /> cỡ tôm “trắng” và “trắng hồng” là 100%; khai thác<br /> bằng bẫy có cỡ tôm “trắng hồng” chiếm 95%, cỡ<br /> tôm “bọ cạp” chiếm 5%; khai thác bằng lặn có cỡ<br /> tôm “trắng” và “trắng hồng” chiếm 20 - 30%, cỡ tôm<br /> “bò cạp nhỏ” chiếm 50 - 60% và những cỡ tôm lớn<br /> hơn chiếm 15 - 25%. Theo quy định của Luật Thủy<br /> sản và Pháp lệnh Bảo vệ nguồn lợi thủy sản, tôm<br /> hùm chỉ được phép khai thác khi cân nặng trung<br /> bình từ 150g trở lên; từ tháng 4 đến tháng 8 hàng<br /> năm, thời điểm tôm hùm đang kỳ sinh sản, không<br /> được phép khai thác dưới bất kỳ hình thức nào. Nếu<br /> đơn vị, tổ chức, cá nhân nào vi phạm sẽ bị tịch thu<br /> toàn bộ phương tiện đánh bắt, số tôm thu được sẽ<br /> thả về biển và phạt hành chính từ 500 ngàn đến<br /> 5 triệu đồng/vụ, tùy vào lượng tôm khai thác nhiều<br /> hay ít. Tuy nhiên, nghề khai thác tôm hùm trên địa<br /> bàn tỉnh đang diễn ra tự nhiên, công khai mà không<br /> hề có sự giám sát của cơ quan chức năng và chính<br /> quyền địa phương. Đây cũng là nguyên nhân khiến<br /> nguồn lợi tôm hùm giống có nguy cơ cạn kiệt [4].<br /> Trước thực trạng trình độ của người nuôi tôm<br /> nên khả năng xây dựng phương án sản xuất hoặc<br /> lập dự án đầu tư còn nhiều hạn chế dẫn đến tình<br /> trạng người nuôi rất khó tiếp cận được đồng vốn<br /> vay, nhất là vay ưu đãi. Bên cạnh những lý do trên<br /> còn có các nguyên nhân khác như: tôm bị chết dẫn<br /> đến nợ xấu và nợ quá hạn nên năm sau tiếp tục nuôi<br /> thì người nuôi tôm không có khả năng tiếp cận được<br /> đồng vốn; sự biến động của chi phí đầu vào (trong<br /> đó có lãi suất ngân hàng) và giá cả đầu ra nên có<br /> thể năm nay nuôi lời nhưng năm sau lại lỗ, người<br /> nuôi tôm không thể dự báo được thị trường và giá<br /> cả thị trường.<br /> 4.2. Một số nguyên nhân cơ bản ảnh hưởng đến các<br /> hộ nuôi tôm hùm lồng tại Cam Ranh<br /> Các hộ nuôi nuôi với mật độ dày, do đó việc gây<br /> bệnh là thường xuyên xảy ra. Để cứu tôm, trong<br /> những năm qua, các ngành chuyên trách đã đưa<br /> ra nhiều giải pháp. Tuy nhiên, đến nay việc ngăn<br /> chặn tôm chết vẫn chưa thực sự hiệu quả. Tôm hùm<br /> nuôi chết hàng loạt là do bị bệnh sữa, đen mang,<br /> <br />
ADSENSE

CÓ THỂ BẠN MUỐN DOWNLOAD

 

Đồng bộ tài khoản
2=>2