
LUẬN VĂN:
Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh
thẻ tín dụng tại Chi nhánh Ngân hàng
Ngoại thương Hà Nội

Lời Mở đầu
Có thể nói khuynh hướng sử dụng các phương tiện thanh toán không
dùng tiền mặt ngày càng phổ biến trên toàn thế giới nói chung và tại Việt Nam nói
riêng. Có rất nhiều phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt như: séc, thẻ thanh
toán, các loại giấy tờ thanh toán có giá.. Nhưng có thể nói thẻ tín dụng là một trong
những phương tiện được biết đến nhiều nhất và ngày càng được mọi người quan tâm
sử dụng nhất không chỉ trên toàn thế giới mà còn tại Việt Nam.Với tiện ích mang lại
cho khách hàng, ngân hàng và nền kinh tế, thẻ tín dụng ngày càng khẳng định vị trí
của nó trong các hoạt động thanh toán của ngân hàng.
Kinh doanh thẻ tín dụng hiện vẫn là một lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ ở Việt
Nam. Việc phát triển thẻ đồng nghĩa với một cuộc cách mạng trong phương thức giao
dịch và mang lại nhiều lợi ích cho nền kinh tế. Để đẩy nhanh tốc độ “ công nghiệp
hoá, hiện đại hoá” ngân hàng và nhanh chóng đưa nền kinh tế Việt Nam hội nhập với
nền kinh tế thế giới thì thẻ tín dụng là một trong những công cụ hữu hiệu. Bên cạnh
đó việc phát triển thanh toán bằng thẻ cũng sẽ là điều kiện để chúng ta xây dựng một
nền văn minh tiền tệ.
Mặc dù đã thử nghiệm ở Việt Nam một thời gian nhưng hiện nay việc phát
triển thẻ tín dụng và thị trường thẻ tín dụng còn gặp rất nhiều khó khăn. Đây đang là
một vấn đề bức xúc đối với các ngân hàng.
Nhận thấy vai trò của thẻ tín dụng và lợi ích thiết thực mà nó mang lại đối với
nền kinh tế đất nước và thị trường thẻ thực sự là thị trường tiềm năng nên em quyết
định chọn đề tài "Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội" làm chuyên đề tốt nghiệp.
Chuyên đề được chia làm 3 phần chính:
Chương I: Hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng.
Chương II : Thực trạng công tác phát hành và kinh doanh thẻ tín dụng tại
Chi nhánh ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.
Chương III : Giải pháp mở rộng hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng tại Chi
nhánh Ngân hàng Ngoại thương Hà Nội.

Chương I
Hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng
I. Thẻ tín dụng - sản phẩm đa tiện ích của ngân hàng :
1. Lịch sử hình thành :
Cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và xu hướng toàn cầu
hoá nền kinh tế thế giới, thẻ ngân hàng ra đời đã mang lại một cuộc cách mạng trong
tác nghiệp thanh toán của hệ thống ngân hàng bằng việc ứng dụng những thành tựu
công nghệ thông tin tiên tiến nhất. Thẻ ngân hàng là một phương thức thay thế tiền
mặt hàng đầu trong các giao dịch tiêu dùng. Tốc độ phát hành và thanh toán thẻ liên
tục tăng ở mức kỷ lục qua các năm. Hơn thế, sự phát triển của nhiều quốc gia ở khu
vực Châu á- Thái Bình Dương lại đang tiếp tục mở ra những thị trường đầy hứa hẹn
cho loại hình dịch vụ này .
Thẻ chủ yếu được phát hành bởi các ngân hàng nhưng sự ra đời của nó lại
không xuất phát từ ngân hàng mà từ tổng công ty xăng dầu Califormia (nay là công
ty Mobie). Thẻ xuất hiện đầu tiên ở Mỹ vào đầu thế kỉ 20. Trong hệ thống ngân hàng,
hình thức sơ khai của thẻ là Charge-it, một hình thức mua bán chịu do Ngân hàng
Flatbush National lập ra. Hệ thống này mở đường cho sự ra đời của thẻ vào năm
1951 do Ngân hàng Franklin National phát hành. Tại đây, các khách hàng đệ trình
đơn xin vay và dược thẩm định khả năng thanh toán. Những khách hàng đủ tiêu
chuẩn sẽ được cấp thẻ, dùng để thanh toán cho các thương vụ bán lẻ hàng hoá dịch
vụ. Các cơ sở này, khi nhận được giao dịch sẽ liên hệ với ngân hàng, nếu được phép
chuẩn chi họ sẽ thực hiện giao dịch và đòi tiền sau đối với ngân hàng.
Với lợi ích của việc thanh toán này, càng ngày càng có nhiều tổ chức tín dụng
tham gia thanh toán. Năm 1955, hàng loạt thẻ mới như Trip Change, Golden Key,
Guornet Club rồi đến Carte Blanche và American Express ra đời và thống lĩnh thị
trường. Tuy nhiên, để hình thức thanh toán thẻ có thể thu hút được khách hàng cần
phải có một mạng lưới thanh toán lớn, không chỉ trong phạm vi một địa phương, một
quốc gia mà trên phạm vi toàn cầu. Đứng trước đòi hỏi đó, Interbank (MasterCharge)
và Bank of American (Bank Americard) đã xây dựng một hệ thống các quy tắc, tiêu
chuẩn trong xử lý, thanh toán thẻ toàn cầu. Năm 1977, Bank Americard trở thành

Visa USA và sau đó trở thành tổ chức thẻ quốc tế Visa. Năm 1979, MasterCharge
cũng trở thành một tổ chức thẻ quốc tế lớn khác là Mastercard.
Ngày nay, Mastercard và Visacard là hai loại thẻ lưu hành phổ biến nhất. Visa
chiếm khoảng 50% thị phần phát hành và hơn 45% thị phần thanh toán, kế đến là
Mastercard với 30% thị phần phát hành và 25% thị phần thanh toán.
Do thẻ ngày nay được sử dụng rộng rãi, các công ty và các ngân hàng liên kết
với nhau để khai thác lĩnh vực thu hút nhiều lợi nhuận này. Thẻ dần dần được xem
như một công cụ văn minh, thuận lợi trong các cuộc giao dịch mua bán. Bên cạnh các
loại thẻ như Mastercard, Visa, thẻ American Express (Amex) ra đời năm 1958, JCB
xuất phát từ Nhật cũng vươn lên mạnh mẽ, được sử dụng rộng rãi trên toàn cầu và
cùng chia những thị phần rộng lớn.
Với những tiện ích mang lại, thẻ ngân hàng đã chinh phục được những khách
hàng khó tính nhất và mở ra những thị trường đầy hứa hẹn. Có thể khẳng định rằng
thẻ ngân hàng vẫn đang và sẽ tiếp tục gặt hái được những thành công lớn trong thế kỷ
tới .
Hiện nay, trên thế giới đang có 3 loại thẻ ngân hàng được sử dụng:
+ Thẻ ghi nợ: áp dụng đối với các khách hàng có quan hệ thanh toán, tín dụng
thường xuyên có tín nhiệm với ngân hàng do Giám đốc ngân hàng quyết định,
mỗi thẻ có ghi hạn mức sử dụng tối đa do ngân hàng phát hành thẻ quy định.
+ Thẻ thanh toán: được áp dụng rộng rãi cho các khách hàng. Muốn sử dụng
loại thẻ này, khách hàng phải lưu ký tiền vào một tài khoản ứng tại ngân hàng và
được sử dụng thẻ có giá trị thanh toán trong phạm vi ký quỹ.
+ Thẻ tín dụng: được áp dụng đối với các khách hàng đủ điều kiện được ngân
hàng đồng ý cho vay tiền, khách hàng chỉ được thanh toán số tiền trong phạm vi
hạn mức tín dụng đã được ngân hàng chấp nhận.
Sau đây chuyên đề sẽ đi vào nghiên cứu hoạt động kinh doanh thẻ tín dụng .
2. Khái niệm, đặc điểm chung của thẻ tín dụng:
2.1. Khái niệm :

Thẻ tín dụng là một phương tiện thanh toán với hạn mức chi tiêu nhất định mà
ngân hàng cung cấp cho người sử dụng trên cơ sở khả năng tài chính, sổ ký quĩ hoặc
tài sản thế chấp.
Thẻ tín dụng được coi là một công cụ tín dụng trong lĩnh vực cho vay tiêu
dùng đối với các chủ thẻ. Thẻ tín dụng khác với bất kỳ hình thức tín dụng nào trước
đó bởi vì nó là một sản phẩm kết hợp của tín dụng và thanh toán. Trong các hình thức
tín dụng trước đây, khi ngân hàng đồng ý cho khách hàng vay tức là giao cho khách
hàng trực tiếp quyền sử dụng một lượng vốn nhất định. Còn khi ngân hàng cấp cho
khách hàng một thẻ tín dụng thì chưa có một lượng tiền thực tế nào được vay. Ngân
hàng chỉ đưa ra một sự đảm bảo về quyền được sử dụng một lượng tiền trong phạm
vị hạn mức của khách hàng. Việc khách hàng có thực sự vay hay không phụ thuộc
vào quá trình sử dụng thẻ của khách hàng sau đó.
Khi khách hàng sử dụng thẻ tín dụng để mua hàng hoá và dịch vụ tức là họ
đang sử dụng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt qua ngân hàng. Ngân hàng
đảm nhận vai trò kế toán hộ cho các chủ thẻ trên tài khoản tín dụng. Số dư phát sinh
sẽ được ghi vào bên nợ của tài khoản, được hiểu là một khoản cho vay. Khách hàng
phải tiến hành thanh toán theo sao kê khi đến hạn. Tín dụng thẻ có tính tuần hoàn và
cho phép người sử dụng mở rộng khả năng tài chính trong ngắn hạn. Chỉ cần khách
hàng tuân thủ đúng các qui định hợp đồng sử dụng thẻ thì sẽ luôn có quyền sử dụng
thẻ.
2.2. Đặc điểm chung :
Hiện nay trên thế giới có rất nhiều thẻ tín dụng do các tổ chức phát hành như
Visacard, Mastercard, American express, JCB, Diner club …Phạm vi sử dụng của
các loại thẻ này trên toàn thế giới, trong đó phải kể đến 2 loại thẻ là Visacard và
Mastercard, số điểm tiếp nhận 2 loại thẻ này lên đến hàng triệu điểm.
Các loại thẻ đều có cấu tạo giống nhau, có kích thước tiêu chuẩn 6*10 cm.
Hiện nay, thẻ có thể được sản xuất bằng công nghệ thẻ từ tính hoặc thẻ thông minh.
Số lượng thẻ từ tính hiện tại đang được dùng nhiều hơn, vì nó là loại thẻ ra đời sớm
hơn, nhưng nó cũng đã bộc lộ một số nhược điểm về kỹ thuật và độ bảo mật không
cao, dễ bị làm giả. Do đó, công nghệ thẻ thông minh ra đời và nhanh chóng được ứng