TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ -----  ----- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP

TÊN ĐỀ TÀI:

Gi¶i ph¸p n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu chuyªn chë b»ng ® êng biÓn khi ViÖt Nam gia nhËp WTO

: Ngôy ThÞ HiÒn L ¬ng : Anh 4 : K42 A

Họ và tên sinh viên Lớp Khoá Giáo viên hướng dẫn : THS. Ph¹m Thanh Hµ

 Hà nội, tháng 11/2007 

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

LỜI NÓI ĐẦU

Những năm qua, đặc biệt từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa,

dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển đã và

đang phát triển nhanh chóng, thị trường bảo hiểm hàng hải Việt Nam đang dần

mở rộng theo nhịp độ chung của xu hướng thương mại hoá khu vực và toàn cầu.

Đất nước mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới cùng nền kinh tế phát triển,

xuất nhập khẩu tăng đã tạo điều kiện cho hàng loạt những công ty bảo hiểm quốc

tế có mặt tại thị trường Việt Nam cạnh tranh với nhau và với ngành Bảo hiểm

phi nhân Việt Nam còn nhỏ yếu.

Dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường

biển có ảnh hưởng rất lớn đến thương mại quốc tế và nền kinh tế Việt Nam hiện

nay. Trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam phải tuân thủ những ràng buộc

nhất định về lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập

khẩu chuyên chở bằng đường biển nói riêng của các tổ chức kinh tế khu vực và

thế giới. Trong tình hình ngành Bảo hiểm Việt Nam tham gia một cách sâu rộng

vào các hoạt động thương mại quốc tế thì việc nghiên cứu các giải pháp phù hợp

và hiệu quả nhất được đề cập trong khoá luận “Giải pháp nâng cao năng lực

cạnh tranh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển

khi Việt Nam gia nhập WTO” nhằm tăng năng lực cạnh tranh của ngành là hết

sức cần thiết.

Là một đề tài mang tính nghiên cứu với đối tượng là dịch vụ bảo hiểm

hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam, khoá luận giới

hạn phạm vi nghiên cứu theo như phân loại của Tổ chức Thương mại Thế giới

WTO cho loại hình dịch vụ này. Phương pháp nghiên cứu là phương pháp duy

vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với việc sử dụng một số các phương

pháp khác như phương pháp tổng hợp, thống kê, phương pháp so sánh, logic,

1

phương pháp thực chứng và dự báo...

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Khoá luận được nghiên cứu dựa trên những học thuyết kinh tế học hiện

đại về thương mại và chính sách thương mại quốc tế, dựa trên những quan điểm

về đổi mới kinh tế và cải cách chính sách kinh tế đất nước của Đảng và Nhà

nước Việt Nam. Khóa luận được xây dựng trên kết cấu sau:

 Chương 1: Tổng quan về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở

bằng đường biển - làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến dịch vụ bảo hiểm hàng hoá

xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển .

 Chương 2: Thực trạng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở

bằng đường biển tại Việt Nam - đánh giá thực trạng phát triển của dịch vụ bảo

hiểm Việt Nam trong những năm gần đây, trên cơ sở đó đánh giá chung những

điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như thách thức đối với dịch vụ bảo hiểm hàng

hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển tại Việt Nam khi hội nhập

WTO.

 Chương 3: Một số giải pháp cho dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập

khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế -

trên cơ sở mục tiêu và định hướng phát triển của Chính phủ, đề ra những biện

pháp cụ thể nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất

nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển.

Do thời gian nghiên cứu và trình độ có hạn nên khoá luận này không tránh

khỏi những sai sót. Tác giả rất mong nhận được những góp ý chân thành và tích

2

cực từ thầy cô và bạn đọc.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Ch ¬ng I: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN.

I. Bảo hiểm hàng hải.

1.Sự ra đời và khái niệm về bảo hiểm hàng hải.

Trước lợi nhuận mà ngành thương mại hàng hải mang lại cũng như mức độ

và số lượng rủi ro phải ứng phó, các chủ tàu, các nhà buôn, những người vận tải

luôn luôn tìm kiếm những hình thức bảo đảm an toàn cho quyền lợi của mình.

Đầu tiên là vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên, người ta đã tìm

cách giảm nhẹ tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình

ra làm nhiều chuyến hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó

là hình thức nguyên khai của bảo hiểm. Sau đó để đối phó với những tổn thất

nặng nề thì hình thức cho vay mạo hiểm đã xuất hiện. Theo đó, trong trường hợp

xảy ra tổn thất đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển, người vay sẽ được

miễn không phải trả khoản tiền vay cả vốn lẫn lãi. Ngược lại họ sẽ phải trả một

lãi suất rất cao khi hàng hoá đến bến an toàn. Như vậy có thể hiểu lãi suất cao

này là hình thức sơ khai của phí bảo hiểm. Song số vụ tổn thất xảy ra càng nhiều

làm cho các nhà kinh doanh cho vay vốn cũng lâm vào thế nguy hiểm và thay

thế nó là hình thức bảo hiểm ra đời.

Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa, Italia đã xuất hiện các hợp đồng bảo

hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được

bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản khoản phí. Sau đó cùng với

việc phát hiện ra Ấn Độ Dương và Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo

hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh.

Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII, cùng với sự ra đời của phương

thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và

3

ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Ngày nay, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, bảo hiểm hàng

hải đóng vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập

khẩu và vận tải. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm hàng hải, nhưng

định nghĩa dưới đây được thừa nhận rộng rãi.

Bảo hiểm hàng hải là bảo hiểm những rủi ro trên biển hoặc những rủi ro

trên bộ, trên sông liên quan đến hành trình đường biển, gây tổn thất cho các đối

tượng bảo hiểm chuyên chở trên biển.

2. Các loại bảo hiểm hàng hải.

2.1 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu.

Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu là bảo hiểm những thiệt hại phát

sinh từ trách nhiệm của chủ tàu đối với người thứ ba trong quá trình sở hữu, kinh

doanh, và khai thác tàu biển.

Như vậy đối tượng bảo hiểm trong trường hợp này chính là trách nhiệm

dân sự của chủ tàu đối với người thứ ba.

2.2 Bảo hiểm thân tàu.

Bảo hiểm thân tàu là bảo hiểm những rủi ro vật chất xảy ra đối với tàu,

máy móc và các thiết bị trên tàu, đồng thời bảo hiểm cước phí, các chi phí hoạt

động của tàu và một phần trách nhiệm mà chủ tàu phải chịu trong trường hợp tàu

đâm va.

Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm thân tàu là vỏ tàu, máy móc, thiết bị,

cước phí, chi phí hoạt động và một phần trách nhiệm chủ tàu phải chịu trong

4

trường hợp hai tàu đâm va nhau (thông thường là 3/4 trách nhiệm đâm va).

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

2.3. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển.

Là nghiệp vụ bảo hiểm mà đối tượng được bảo hiểm là hàng hóa vận

chuyển bằng đường biển.

Đây là một trong trong các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải đã hình thành và

phát triển từ rất sớm.

II. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đƣờng biển.

1. Khái niệm:

Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển là cam kết bồi thường

của người bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro

thuộc phạm vi bảo hiểm đối với hàng hoá chuyên chở trên biển hoặc trên bộ,

trên sông liên quan đến hành trình biển, với điều kiện người tham gia bảo hiểm

phải đóng một khoản phí bảo hiểm.

2. Sự cần thiết phải bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.

2.1. Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.

Khi thực hiện phương thức vận tải hàng hóa bằng đường biển thì các doanh

nghiệp (người bán hoặc người mua) phải mua bảo hiểm cho hàng hóa của mình

vì những lý do sau:

 Hàng hóa xuất khẩu vận chuyển bằng đường biển gặp rất nhiều rủi ro có

thể gây ra những hư hỏng, mất mát... Đó thường là những rủi ro bất ngờ, không

lường trước được và thường gây ra tổn thất lớn, thiệt hại nặng nề như thiên tai,

bão lụt, tàu bị mắc cạn, đắm, cháy nổ, tại nạn đâm va...

Nếu chủ hàng không mua bảo hiểm thì sẽ phải tự gánh chịu hậu quả, điều

5

này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của họ.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

 Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển đối với hàng hoá rất hạn

chế và phụ thuộc vào các quy định trong các Công ước quốc tế về vận đơn hoặc

về vận tải đường biển và các nghị định thư sửa đổi, bổ sung thể hiện ở ba Quy

tắc: Hague, Hague Visby và Hamburg, theo đó trách nhiệm của người chuyên

chở cũng khác nhau.

- Đối với quy tắc Hague và Hague_Visby, thông thường người chuyên chở

sẽ phải chịu trách nhiệm về hàng hoá bị tổn thất trong trường hợp:

+ Tàu không đủ khả năng đi biển gây ra mà người chuyên chở không

chứng minh được là mình đã có sự cần mẫn hợp lý, hoặc

+ Hàng hóa hư hỏng do người chuyển chở đã không xếp hàng lên tàu một

cách cẩn thận, đúng quy trình kỹ thuật, đúng sơ đồ xếp hàng và sơ đồ hầm tàu...

- Đối với Quy tắc Humburg, người chuyên chở phải chịu trách nhiệm về

thiệt hại do mất mát, hư hỏng của hàng hoá và chậm giao hàng, nếu sự cố gây ra

mất mát, hư hỏng hoặc chậm giao hàng diễn ra khi hàng hoá còn thuộc trách

nhiệm của người chuyên chở, trừ phi người chuyên chở chứng minh được rằng

anh ta, người làm công và đại lý của anh ta đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết

hợp lý để ngăn ngừa sự cố xảy ra và hậu quả của nó.

Ngoài ra, theo quy tắc Hague và Hague_Visby, để khiếu nại đòi người

chuyên chở bồi thường, chủ hàng thường gặp rất nhiều khó khăn vì phải trải qua

một giai đoạn chứng minh lỗi do người chuyên chở gây nên. Nếu chủ hàng

không chứng minh được lỗi là do người chuyên chở hoặc người chuyên chở có

thể chứng minh được rằng anh ta không có lỗi hoặc anh ta đã áp dụng các biện

pháp cần thiết, hợp lý để ngăn ngừa tổn thất thì chủ hàng phải chịu toàn bộ

6

những tổn thất về hàng hóa của mình.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Như vậy, bảo hiểm hàng hóa sẽ giúp bảo vệ được lợi ích của các doanh

nghiệp trong trường hợp có tổn thất xẩy ra và tạo ra tâm lý an tâm trong kinh

doanh.

2.2. Đối với nền kinh tế.

Hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển

có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia:

 Là biện pháp hữu hiệu nhất để khắc phục những nhược điểm của việc

vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho

chủ hàng, bồi thường những thiệt hại, mất mát cho các doanh nghiệp, tổ chức

kinh tế - xã hội, các cá nhân và Nhà nước do việc hàng hóa bị tổn thất...

 Trong nền kinh tế mở, ngành bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ra đời

không những đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho những chủ hàng, mà còn góp

phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế thông qua con đường thương mại và

có ảnh hưởng sâu sắc tới vấn đề kinh tế - xã hội cho cả hai nước xuất khẩu và

nhập khẩu.

 Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển góp

phần giúp các doanh nghiệp có thể tăng thêm vốn đầu tư cho hoạt động kinh

doanh xuất nhập khẩu từ các quỹ mà lẽ ra phải giữ lại làm dự phòng cho những

tổn thất tương lai.

 Trong hoạt động kinh doanh của mình, để nâng cao hiệu quả, các nhà

kinh doanh bảo hiểm hàng hải luôn luôn chú trọng khâu đề phòng và hạn chế tổn

thất cho khách hàng bảo hiểm, việc này sẽ giúp cho người tham gia bảo hiểm

giảm thiểu tổn thất, tiết kiệm chi phí kinh doanh.

 Tăng thu, giảm chi ngoại tệ và cải thiện được cán cân thương mại quốc

gia: Việc mua bảo hiểm cho hàng hoá tại Việt Nam giúp chúng ta giữ được một

7

lượng ngoại tệ khá lớn, không để chảy ra nước ngoài. Đối với hàng hoá xuất

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

khẩu, việc làm này lại giúp chúng ta thu thêm được ngoại tệ từ nước ngoài đưa

vào trong nước.

Với những vai trò nói trên, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển

bằng đường biển đóng một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của một

quốc gia. Cho đến nay hoạt động này đã trở thành tập quán thương mại quốc tế

và cũng là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong buôn bán ngoại thương.

3. Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển.

3.1. Các điều kiện bảo hiểm của hiện hành trên thị trƣờng.

3.1.1. Các điều kiện bảo hiểm của Anh.

Nước Anh là một nước có nền bảo hiểm hàng hải ra đời sớm và rất phát

triển. Từ thế kỷ XVII, Anh đã có mẫu đơn bảo hiểm đầu tiên. Luật bảo hiểm

hàng hải 1906 của Anh cho đến nay vẫn được nhiều nước áp dụng. Các điều kiện

bảo hiểm hàng hóa cũng như tàu bè của Viện những người bảo hiểm Luân Đôn

(Institute of London Underwriters _ ILU) từ lâu đã trở thành quen thuộc và được

áp dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới. Về bảo hiểm hàng hóa, Viện

ILU đã soản thảo và đưa vào sử dụng các điều kiện bảo hiểm gốc như FPA, WA,

All Risk từ những năm 1963 hay các điều kiện A, B, C từ những năm 1982 và

các điều kiện bảo hiểm thêm như điều kiện bảo hiểm chiến tranh, đình công. Từ

1-1-1982, Viện ILU đã cho ra đời mẫu đơn bảo hiểm hàng hải mới và một loạt

các điều kiện bảo hiểm mới để áp dụng trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu

bằng đường biển sau đây:

3.1.1.1. Các điều kiện bảo hiểm gốc.

 Điều kiện bảo hiểm A (Institute Cargo Clauses A)

8

 Điều kiện bảo hiểm B (Institute Cargo Clauses B)

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

 Điều kiện bảo hiểm C (Institute Cargo Clauses C)

3.1.1.2. Các điều kiện bảo hiểm áp dụng cho một số hàng đặc biệt.

 Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa buôn bán theo lô

 Điều kiện bảo hiểm than

 Điều kiện bảo hiểm dầu thô

 Điều kiện bảo hiểm đay

 Điều kiện bảo hiểm cao su tự nhiên

 Điều kiện bảo hiểm thực phẩm đông lạnh trừ thịt đông lạnh

 Điều kiện bảo hiểm thịt đông lạnh

3.1.1.3. Các điều kiện bảo hiểm phụ.

 Điều kiện bảo hiểm chiến tranh áp dụng cho hàng vận chuyển bằng

đường biển

 Điều kiện bảo hiểm đình công áp dụng cho hàng vận chuyển bằng đường

biển.

 Điều kiện bảo hiểm đình công áp dụng cho vận chuyển dầu thô.

 Điều kiện bảo hiểm thiệt hại do ác ý.

 Điều kiện bảo hiểm mất trộm, mất cắp và không giao hàng.

3.1.2. Các điều kiện bảo hiểm của Việt Nam.

Từ xưa đến nay, Việt Nam đã ban hành một số các điều kiện bảo hiểm

hàng hóa sau đây:

 Điều kiện bảo hiểm FPA, WA, All Risk theo Quy tắc chung về bảo hiểm

hàng hóa vận chuyển bằng đường biển 1965 của Bộ Tài Chính

 Điều kiện bảo hiểm A, B, C theo Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa

9

vận chuyển bằng đường biển 1990 của Bộ Tài Chính

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

 Điều kiện bảo hiểm A, B, C theo Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa

vận chuyển bằng đường biển 1998 của Bảo Việt.

Trong các bản "Quy tắc chung" nói trên, bản QTCB_98 của Bảo Việt là

hoàn thiện hơn cả.

Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng

hóa phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B, C.

Ngoài ra, tùy theo hành trình của hàng mà chủ hàng có thể yêu cầu bảo hiểm

thêm các rủi ro chiến tranh hay đình công... Nếu có bảo hiểm thêm những rủi ro

này, chủ hàng phải nộp thêm phí bảo hiểm. Chủ hàng cũng có thể yêu cầu bảo

hiểm hàng hóa theo các điều kiện bảo hiểm A, B, C của Anh hay A, B, C của

Việt Nam. Về người bảo hiểm, chủ hàng có thể lựa chọn Bảo Việt, Bảo Minh,

Pjico, Bảo Long... hay công ty bảo hiểm nước ngoài.

3.2. Trách nhiệm của ngƣời bảo hiểm đối với hàng hóa theo các điều kiện

bảo hiểm A, B, C của Việt Nam.

3.2.1. Phạm vi bảo hiểm.

Theo quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển

của công ty Bảo hiểm Việt Nam năm 1998, phạm vi trách nhiệm của người bảo

hiểm theo các điều kiện A, B, C như sau:

3.2.1.1. Điều kiện C.

Rủi ro được bảo hiểm: là những mất mát, hư hỏng của hàng hóa do các

nguyên nhân sau:

 Cháy hoặc nổ

 Tàu hay xà lan bị mắc cạn, đắm hoặc lật úp

 Tàu đâm va nhau hoặc tàu, xà lan hay phương tiện vận chuyển đâm va

10

phải các vật thể khác.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

 Dỡ hàng tại cảng lánh nạn

 Phương tiện vận chuyển đường bộ bị lật đổ hoặc trật bánh

 Hàng hóa bị mất tích do tàu hoặc phương tiện chở hàng mất tích.

 Hy sinh tổn thất chung.

3.2.1.2. Điều kiện B.

 Ném hàng khỏi tàu.

Rủi ro được bảo hiểm: như điều kiện bảo hiểm C, còn thêm các trường hợp

sau đây:

 Động đât, núi lửa phun hoặc sét đánh.

 Nước cuốn khỏi tàu.

 Nước biển, nước hồ hay nước sông chảy vào tàu, xà lan, hầm hàng,

phương tiện vận chuyển, container hoặc nơi chứa hàng.

 Tổn thất toàn bộ của bất kỳ kiện hàng nào do rơi khỏi tàu hoặc rơi trong

khi đang xếp hàng lên hay dỡ khỏi tàu hay xà lan.

3.2.1.3. Điều kiện A.

Theo điều kiện này, ngoài việc bảo hiểm những điều kiện bảo hiểm B và C,

người bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về:

 Mọi rủi ro gây ra mất mát, hư hỏng cho hàng hóa được bảo hiểm trừ

những rủi ro loại trừ ở mục 3.2.2 dưới đây.

 Các chi phí tổn thất chung và cứu hộ đã chi ra nhằm tránh hoặc có liên

quan tới việc tránh khỏi tổn thất do bất kỳ nguyên nhân nào, loại trừ những

nguyên nhân đã quy định trong các điều 3.2.2 hay ở những điều khác trong hợp

đồng bảo hiểm theo điều kiện này. Các chi phí này được tính toán hoặc xác định

theo hợp đồng chuyên chở và/hoặc theo pháp luật và tập quán hiện hành.

 Bồi thường cho người được bảo hiểm phần trách nhiệm theo điều khoản

11

"Hai tàu đâm va nhau cùng có lỗi" trong hợp đồng chuyên chở có liên quan đến

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

một tổn thất thuộc phạm vi bồi thường của bảo hiểm này. Trường hợp chủ tàu

khiếu nại theo điều khoản nói trên thì Người được bảo hiểm phải thông báo cho

Người bảo hiểm là người có quyền bảo vệ Người được bảo hiểm đối với khiếu

nại và tự chịu mọi phí tổn.

3.2.1.4. Những trách nhiệm khác thuộc công ty bảo hiểm.

Ngoài những rủi ro được bảo hiểm nói trên, người bảo hiểm còn phải chịu trách

nhiệm về những tổn thất và chi phí sau đây:

 Tổn thất chung và chi phí cứu hộ được phân bổ hay xác định theo hợp

đồng vận tải và hoặc theo luật lệ hay tập quán hiện hành;

 Những chi phí và tiền công hợp lý mà người được bảo hiểm hoặc đại lý

của họ đã chi ra nhằm phòng tránh hoặc giảm nhẹ tổn thất cho hàng hóa được

bảo hiểm hay những chi phí kiện tụng để đòi người thứ ba bồi thường;

 Những chi phí hợp lý cho việc dỡ hàng, lưu kho và gửi tiếp hàng hóa tại

cảng dọc đường hay cảng lánh nạn do hậu quả của một rủi ro thuộc phạm vi hợp

đồng bảo hiểm.

 Những chi phí hợp lý cho việc giám định hoặc xác định số tổn thất mà

người bảo hiểm phải bồi thường.

 Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản

"Hai tàu đâm va nhau đều có lỗi" ghi trong hợp đồng vận tải.

3.2.2 Rủi ro loại trừ.

Theo cả ba điều kiện A, B, C, người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm

về rủi ro sau đây:

3.2.2.1. Trừ khi có thỏa thuận khác, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm

12

đối với những mất mát, hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

 Mất mát, hư hỏng hay chi phí được quy cho là hành vi xấu cố ý của

Người được bảo hiểm.

 Đối tượng được bảo hiểm bị rò chảy thông thường, hao hụt trọng lượng

hoặc giảm thể tích thông thường hoặc hao mòn thông thường

 Mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra do việc đóng gói hoặc chuẩn bị cho

đối tượng được bảo hiểm chưa đầy đủ hoặc không thích hợp. Chú ý: đóng gói

phải được coi như bao gồm cả việc xếp hàng vào "container" hoặc "kiện gỗ"

nhưng chỉ khi nào việc xếp hàng đó được thực hiện trước khi hợp đồng bảo hiểm

này có hiệu lực hoặc được tiến hành bởi người được bảo hiểm hoặc những người

làm công cho họ.

 Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh do khuyết tật vốn có hoặc tính

chất riêng của đối tượng được bảo hiểm.

 Mất mát hư hỏng hay chi phí trực tiếp gây ra bởi chậm trễ ngay cả khi

chậm trễ do một rủi ro được bảo hiểm gây ra (trừ những chi phí được trả theo

điều khoản tổn thất chung)

 Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ việc sử dụng bất kỳ một loại

vũ khí chiến tranh gì có sử dụng năng lượng nguyên tử, hạt nhân và/hoặc phản

ứng hạt nhân, phóng xạ hoặc tương tự.

 Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ tình trạng không trả được nợ

hoặc thiếu thốn về tài chính của chủ tàu, người quản lý, người thuê tàu hoặc

người điều hành tàu.

 Hư hại hay một bộ phận hàng hóa bị hư hại hay bị phá hoại có chủ tâm

do hành động sai lầm của bất kỳ người nào gây ra (điều này không áp dụng cho

điều kiện A)

3.2.2.2. Điều khoản loại trừ tàu không đủ khả năng đi biển

Trong bất kỳ trường hợp nào, các điều kiện bảo hiểm sẽ không bảo hiểm

13

cho những mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

 Tàu hoặc thuyền không đủ khả năng đi biển

 Tàu, thuyền, phương tiện vận chuyển container hoặc kiện gỗ không thích

hợp cho việc chuyên chở an toàn đối tượng được bảo hiểm, nếu Người được bảo

hiểm hoặc những người làm công cho họ biết riêng về trạng thái không đủ khả

năng đi biển hoặc không thích hợp đó vào thời gian đối tượng được bảo hiểm

được xếp vào các phương tiện trên.

Người bảo hiểm bỏ qua mọi trường hợp vi phạm những cam kết ngụ ý tàu

đủ khả năng đi biển và thích hợp cho việc chuyên chở đối tượng được bảo hiểm

tới nơi đến trừ khi Người được bảo hiểm hoặc người làm công cho họ được biết

riêng về trạng thái không đủ khả năng đi biển hay không thích hợp đó.

3.2.2.3. Điều khoản loại trừ chiến tranh.

Trong bất kỳ trường hợp nào các điều kiện bảo hiểm sẽ không bảo hiểm

cho những mất mát, hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:

 Chiến tranh, nội chiến. cách mạng. nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột

dân sự phát sinh từ những biến cố đó, hoặc bất kỳ hành động thù địch nào gây ra

hoặc chống lại bên tham chiến.

 Bắt giữ, tịch thu, kiềm chế hay cầm giữ và hậu quả của những sự việc đó

hoặc bất kỳ mưu toan nào nhằm thực hiện những hành vi đó.

 Mìn, thủy lôi, bom hoặc những vũ khí chiến tranh hoang phế khác.

3.2.2.4. Điều khoản loại trừ đình công

Trong bất kỳ trường hợp nào bảo hiểm này sẽ không bảo hiểm cho những

mất mát hư hỏng hoặc chi phí sau:

 Gây ra bởi những người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những

14

người tham gia gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo động dân sự.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

 Hậu quả của đình công, cấm xưởng, gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo

động dân sự.

 Gây ra bởi bất kỳ kẻ khủng bố hoặc bất kỳ người hành động vì động cơ

chính trị.

3.2.2.5. Trong mọi trường hợp người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối

với những mất mát, hư hỏng và chi phí do:

 Việc làm xấu cố ý của người được bảo hiểm.

 Chậm trễ là nguyên nhân trực tiếp.

 Tàu hoặc xà lan không đủ khả năng đi biển và do tàu, xà lan, phương

tiện vận chuyển hoặc container không thích hợp cho việc chuyên chở hàng hóa

mà người được bảo hiểm hay người làm công cho họ đã biết về tình trạng không

đủ khả năng đi biển và không thích hợp đó vào thời điểm bốc xếp hàng hóa.

 Bao bì không đầy đủ hoặc không thích hợp.

 Hao hụt tự nhiên, hao mòn tự nhiên, rò chảy thông thường.

 Chủ tàu, người quản lý tàu hoặc người thuê tàu không trả được nợ hoặc

thiếu thốn về mặt tài chính.

 Xếp hàng quá tải (đối với hàng chuyên chở nguyên chuyến) hoặc xếp

hàng sai quy cách, không đảm bảo an toàn cho hàng hóa khi vận chuyển.

3.3. Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm (cả ba điều kiện A, B, C).

Trách nhiệm bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực kể từ khi hàng hóa được bảo

hiểm rời kho đi hoặc nơi chứa hàng tại địa điểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm để

15

bắt đầu vận chuyển và tiếp tục có hiệu lực trong suốt quá trình vận chuyển bình

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

thường. Trách nhiệm bảo hiểm kết thúc tại một trong số các thời điểm sau đây,

tùy theo trường hợp nào xảy đến trước:

 Khi giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng cuối cùng của người nhận

hàng hoặc của một người nào khác tại nơi nhận có tên trong hợp đồng bảo hiểm,

hoặc

 Khi giao hàng cho bất kỳ kho hay nơi chứa hàng nào khác, dù trước khi

tới hay tại nơi nhận ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn

dùng làm. Đó là nơi chia hay phân phối hàng hoặc nơi chứa hàng ngoài quá trình

vận chuyển bình thường, hoặc

 Khi hết hạn 60 ngày sau khi hoàn thành việc dỡ hàng hóa bảo hiểm khỏi

tàu biển tại cảng dỡ hàng cuối cùng ghi trên đơn bảo hiểm.

Nếu sau khi dỡ hàng khỏi tàu biển tại cảng dỡ hàng cuối cùng, nhưng trước

khi kết thúc bảo hiểm, hàng hóa được gửi tới một nơi nhận hàng không đúng với

địa danh nhận hàng ghi trong đơn bảo hiểm thì bảo hiểm này trong khi giữ

nguyên hiệu lực, sẽ không mở rộng giới hạn quá lúc bắt đầu vận chuyển tới một

nơi nhận hàng khác như vậy.

Nếu do những tình huống ngoài khả năng kiểm soát của người được bảo

hiểm mà hợp đồng kết thúc tại một cảng hay một nơi không đúng với ghi nhận

ghi trên đơn bảo hiểm hoặc việc vận chuyển được kết thúc theo cách khác trước

khi giao hàng như những quy định đã nêu ở trên thì hiệu lực bảo hiểm cũng sẽ kết

thúc, trừ khi có giấy báo gửi ngay cho người bảo hiểm yêu cầu tiếp tục bảo hiểm

trong khi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực, với điều kiện người bảo hiểm chấp nhận và

người được bảo hiểm phải trả thêm phí bảo hiểm nếu người bảo hiểm yêu cầu,

16

khi:

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

 Hàng được đem bán hoặc được giao tại cảng hoặc địa điểm đó hoặc trừ

khi có thỏa thuận riêng khác, khi hết hạn 60 ngày sau khi hàng bảo hiểm đến

cảng hay địa điểm đó, tùy theo trường hợp nào đến trước, hoặc

 Nếu hàng hóa được gửi đi trong phạm vi 60 ngày đó (hoặc bất kỳ phạm

vi mở rộng nào đã thỏa thuận) để tới nơi nhận hàng có tên ghi trong đơn bảo

hiểm hay tới bất kỳ nơi nhận hàng nào khác thì tới khi kết thúc bảo hiểm theo

những quy định nói trên.

III. Khái quát chung về năng lực cạnh tranh.

1. Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh.

1.1. Khái niệm.

Năng lực cạnh tranh là yếu tố quyết định đối với doanh nghiệp trong nền

kinh tế thị trường và nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vì bản chất

của cạnh tranh trong cơ chế thị trường và hội nhập là quá trình doanh nghiệp

trong nước ngoài việc cạnh tranh với nhau còn phải trực tiếp cạnh tranh với

doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm, trình độ phát triển

cao hơn. Như vậy, hiểu khái niệm "năng lực cạnh tranh" góp phần giúp cho các

doanh nghiệp định hướng phát triển năng lực cạnh tranh của mình rõ ràng hơn

trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.

Theo lý thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh được xem xét

qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động. Theo M.Porter

"năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo

của mình để tạo ra sản phẩm có giá thành thấp và sự dị biệt của sản phẩm".

Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức hợp tác và Phát

triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa kết hợp cho cả doanh nghiệp,

17

ngành, quốc gia như sau: "Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp,

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong

điều kiện cạnh tranh quốc tế". Định nghĩa này được đánh giá là phù hợp và phản

ánh được khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ gắn kết với hoạt động

cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống của

nhân dân.

Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh tranh của doanh

nghiệp "là khả năng có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh, mở rộng thị

phần và tăng lợi nhuận thông qua một số chỉ tiêu như năng suất, chất lượng,

công nghệ, sự khác biệt về hàng hoá dịch vụ được cung cấp, giá trị tăng thêm,

chi phí sản xuất, là khả năng của doanh nghiệp thực hiện tốt hơn đối thủ cạnh

tranh trong việc đạt mục tiêu quan trọng nhất: lợi nhuận". Có thể nói, khái niệm

về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà WEF đưa ra đã tóm lược nội dung

của hầu hết các định nghĩa về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đưa ra

trên thế giới hiện nay. Do đó, tác giả sử dụng khái niệm về năng lực cạnh tranh

của doanh nghiệp mà WEF đưa ra cho toàn bộ Khoá luận tốt nghiệp.

2. Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.

Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất

định, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng không nằm ngoài quy luật này. Các yếu

tố môi trường kinh doanh tác động đến các doanh nghiệp bảo hiểm theo hai

hướng tích cực và tiêu cực, từ đó có thể tạo thuận lợi hay khó khăn cho doanh

nghiệp trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Các nhân tố này thường được

chia thành hai nhóm: Các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.

2.1. Các nhân tố bên ngoài.

 Về mặt kinh tế.

- Tăng trưởng kinh tế: Là nhân tố tác động mạnh đến hoạt động kinh

doanh của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận

18

chuyển bằng đường biển. Khi kinh tế tăng trưởng thì dẫn đến hoạt động xuất

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nhập khẩu tăng lên, do đó nhu cầu về bảo hiểm cho hàng hoá chuyên chở bằng

đường biển cũng tăng theo. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ

quan tâm nhiều hơn đến các công ty bảo hiểm và chất lượng dịch vụ của họ. Còn

các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm khi đó sẽ có cơ hội phát triển kinh doanh

và đạt được tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, tăng khả năng tích tụ tư bản từ đó dẫn

tới năng lực cạnh tranh cũng tăng. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế làm tăng cầu

trên thị trường bảo hiểm sẽ tạo sức hấp dẫn cho các doanh nghiệp bảo hiểm đang

và sẽ tham gia thị trường. Do đó, môi trường cạnh tranh trong ngành bảo hiểm sẽ

ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Nếu các doanh nghiệp không nâng cao khả

năng cạnh tranh của mình thì sẽ bị tụt lại phía sau, thậm chí bị mất thị phần cho

những doanh nghiệp khác có sức cạnh tranh cao hơn hoặc là các doanh nghiệp

mới tham gia thị trường.

- Mức độ mở cửa của nền kinh tế: Nền kinh tế càng mở và càng hội nhập

với nền kinh tế thế giới thì môi trường cạnh tranh càng gay gắt, đưa đến cho các

doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức. Các

doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải cạnh tranh với những đối thủ nước ngoài

với nhiều ưu thế hơn về vốn, kinh nghiệm kinh doanh và công nghệ hiện đại.

Bên cạnh đó, khi mở cửa nền kinh tế, Chính phủ phải dỡ bỏ những rào cản đối

với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài như dỡ bỏ rào cản các doanh nghiệp

100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và tái bảo

hiểm, đồng thời nhà nước cũng phải xoá bỏ những ưu đãi dành cho các doanh

nghiệp bảo hiểm trong nước. Khi đó, nếu các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước

không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình sẽ bị các doanh nghiệp bảo

hiểm nước ngoài đánh bại ngay trên thị trường bảo hiểm nội địa.

 Về mặt chính sách pháp luật.

Pháp luật và các chính sách của Chính phủ tạo ra môi trường pháp lý để

các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh. Chính trị ổn định, pháp luật

19

về kinh doanh bảo hiểm minh bạch và chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho các doanh

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường

biển cạnh tranh công bằng và có hiệu quả.

Bên cạnh đó, các cam kết song phương và đa phương về bảo hiểm mà một

quốc gia tham gia ký kết với các nước và các tổ chức khác trên thế giới cũng tác

động đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp

buộc phải tuân theo lộ trình gia nhập hay cam kết về bãi bỏ các biện pháp bảo

hộ. Muốn không bị mất dần thị phần vào các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài,

các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước không còn cách nào khác là phải nâng

cao năng lực cạnh tranh.

 Các ngành nghề liên quan.

Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển chịu sự

tác động trực tiếp của các nghiệp vụ kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu và vận

tải đường biển.

Kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước tăng có ý nghĩa

hết sức quan trọng thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển. Hoạt động xuất nhập

khẩu của các doanh nghiệp có mạnh thì nhu cầu về bảo hiểm hàng hoá chuyên

chở bằng đường biển mới cao. Tuy nhiên, việc lựa chọn các điều kiện giao hàng

của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như thế nào mới là yếu tố tác động lớn

nhất đến sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận

chuyển bằng đường biển trong nước. Nếu doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập

khẩu trong nước có thói quen xuất theo điều kiện FOB và nhập theo điều kiện

CIF, tức chúng ta không giành được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm thì dịch vụ

bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trong nước không thể phát triển được. Ngược

lại, nếu các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ký được các hợp đồng xuất

20

khẩu theo điều kiện CIF và nhập khẩu theo điều kiện FOB thì không những giúp

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

cho Nhà nước tránh được việc chảy máu ngoại tệ mà còn thúc đẩy sự phát triển

của các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường

biển và nghiệp vụ giao nhận vận tải.

Bên cạnh đó, chúng ta không thể không tính đến sự tác động của các doanh

nghiệp giao nhận vận tải bằng đường biển trong nước. Chúng ta biết rằng, trong

buôn bán quốc tế, người xuất khẩu cũng như nhập khẩu đều mong muốn giành

được "quyền vận tải", nhất là "quyền về thuê tàu" vì nó sẽ mang lại những lợi thế

nhất định như bên giành được "quyền vận tải" hoàn toàn có thể chủ động trong

việc thuê tàu, tổ chức giao nhận hàng hoá ở cảng gửi hàng, giảm chi và tăng thu

ngoại tệ liên quan đến ngành vận tải...

Việc ngành vận tải đường biển phát triển mạnh sẽ tăng khả năng giành

được "quyền về vận tải" trong đàm phán của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu

và thông thường sẽ giành được luôn "quyền mua bảo hiểm" cho hàng hoá được

chuyên chở. Như vậy, nếu ngành vận tải hàng hải của một quốc gia phát triển sẽ

thúc đẩy sự phát triển kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở

bằng đường biển của chính quốc gia đó.

 Đối thủ cạnh tranh.

Đối thủ cạnh tranh là một trong những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng mạnh

mẽ nhất tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh trong

lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu chuyển chở bằng đường biển. Các doanh

nghiệp trong cùng ngành bảo hiểm sẽ cạnh tranh với nhau gay gắt bằng cách

nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình như tăng cường khả năng

tài chính, đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch

vụ... Đối thủ cạnh tranh cũng chia làm hai nhóm:

- Nhóm đối thủ cạnh tranh tiềm năng (bao gồm các doanh nghiệp bảo

21

hiểm chưa tham gia vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

chuyên chở bằng đường biển nhưng sẽ tham gia trong tương lai gần bao gồm các

doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và các công ty bảo hiểm ở ngoài nước...).

Các đối thủ tiềm năng với sự cải tiến sản phẩm, quy mô vốn, chi phí và khả năng

tiếp cận thị trường là những nguy cơ cạnh tranh mà doanh nghiệp bảo hiểm cần

xem xét kỹ lưỡng.

- Nhóm khác là nhóm đối thủ cạnh tranh trong hiện tại phụ thuộc vào số

lượng, quy mô và uy tín của các doanh nghiệp trên thị trường, năng lực tài chính

và chất lượng dịch vụ của những doanh nghiệp bảo hiểm đó trong kinh doanh

bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển.

Mức độ cạnh tranh sẽ gay gắt hơn khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương

mại thế giới WTO và thực hiện các chính sách mở cửa nền kinh tế thế giới. Lúc

này, các doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp

bảo hiểm trong nước mà còn phải cạnh tranh với cả doanh nghiệp bảo hiểm nước

ngoài ở cả thị trường nội địa và quốc tế,

2.2. Các nhân tố thuộc môi trƣờng bên trong.

Có rất nhiều yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: công

tác quản trị doanh nghiệp, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và máy móc

thiết bị, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm, giá cả, chất lượng sản phẩm, uy tín của

doanh nghiệp trên thị trường, hoạt động nghiên cứu và triển khai của doanh

nghiệp (R&D)...Tuy vậy, trong giới hạn Khoá luận tốt nghiệp này, tác giả chỉ

đưa ra 4 yếu tố để phân tích, bởi đây là những yếu tố tác động mạnh mẽ nhất tới

các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển

bằng đường biển: Năng lực tài chính, nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm, hiệu

quả hoạt động và môi trường hoạt động của doanh nghiệp.

22

 Năng lực tài chính

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Năng lực tài chính là nhân tố tiên quyết cho việc nâng cao năng lực cạnh

tranh của doanh nghiệp. Vai trò của năng lực tài chính đối với việc nâng cao

năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện trên một số khía cạnh sau:

- Năng lực tài chính đảm bảo cho doanh nghiệp khả năng thanh toán, tạo

uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng.

- Năng lực tài chính giúp cho doanh nghiệp khai thác tiềm năng, mở rộng

hoạt động kinh doanh. Việc mở rộng thị trường cũng như đa dạng hoá hoạt động

kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao uy tín cũng như khả năng chi

phối của doanh nghiệp đối với thị trường kinh doanh nói riêng và nền kinh tế nói

chung.

- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp hiện đại hoá công nghệ, nâng cao

hiệu quả kinh doanh. Trong thời đại kinh doanh điện tử, tri thức và thông tin tạo

ra nhiều lợi thế cạnh tranh bền vững cho các doanh nghiệp. Trong cuộc cạnh

tranh gay gắt như hiện nay, đổi mới phương thức tồn tại của doanh nghiệp, ứng

dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh và quản lý là một nhu cầu

tất yếu khách quan.

Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu như:

vốn tự có, nợ phải trả, lợi nhuận trước thuế và quy mô của các quỹ... Ngoài ra

còn một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp

 Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bảo hiểm.

Cơ cấu nhân sự trong một doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm cán bộ quản lý,

nhân viên và những trung gian trong hệ thống phân phối của doanh nghiệp. Một

công ty bảo hiểm có đội ngũ cán bộ nhân viên năng động sáng tạo trong kinh

doanh được đào tạo cơ bản, có nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm trong hoạt động

thực tiễn, có đạo đức nghề nghiệp và có tinh thần đoàn kết, hợp tác sẽ tạo ra sức

mạnh to lớn có thể đưa công ty vượt qua mọi khó khăn và vươn lên trong cạnh

23

tranh.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Đội ngũ quản lý đóng vai trò đầu tàu trong công ty. Bên cạnh đó, đội ngũ

nhân viên trong công ty đóng vai trò rất quan trọng quyết định trực tiếp đến hiệu

quả cuối cùng trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Nhân viên bảo hiểm

là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Hình ảnh của công ty trong mắt khách

hàng trước hết phải là người trực tiếp gặp gỡ và tiếp xúc với họ trong quá trình

chào bạn sản phẩm, trong công việc chăm sóc những dịch vụ cụ thể. Mục tiêu

này chỉ đạt được khi công ty có đội ngũ công nhân viên, hệ thống đại lý đủ năng

lực trình độ về nghiệp vụ, có khả năng thuyết phục cao, có đạo đức nghề nghiệp,

có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, quan hệ xã hội rộng và trung thành với công

ty.

Như vậy, để đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hoá

xuất nhập khẩu và hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bảo

hiểm phải được tiêu chuẩn hoá về chất lượng, năng lực chuyên môn, kỹ năng

nghề nghiệp, năng lực pháp lý, công nghệ, trình độ ngoại ngữ và đạo đức nghề

nghiệp.

 Sản phẩm bảo hiểm.

Sản phẩm bảo hiểm là thứ vũ khí cạnh tranh quyết định trực tiếp đến hiệu

quả và uy tín của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

vận chuyển bằng đường biển. Sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

chuyên chở bằng đường biển cung cấp sự đảm bảo an toàn về tài chính cho các

doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, được ghi nhận trong hợp đồng bảo

hiểm cùng với dịch vụ hỗ trợ quản lý rủi ro và dịch vụ xử lý sự cố bảo hiểm.

Tuy nhiên, khác với nhiều loại dịch vụ khác là hoạt động mua và sử dụng dịch

vụ diễn ra ngay cùng một thời điểm, sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập

khẩu vận chuyển bằng đường biển chỉ được sử dụng trong tương lai. Tại thời

24

điểm bán, khách hàng chỉ nhận được những cam kết những lời hứa từ các doanh

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nghiệp bảo hiểm, và khách hàng chỉ được hưởng lợi ích của dịch vụ đem lại (bồi

thường) khi tổn thất xảy ra.

Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp phải rủi ro rất cao và

tổn thất lớn. Chính vì thế mà trong mỗi nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hoá, tuỳ

theo điều kiện hợp đồng mà bên mua hoặc bên bán đều phải tiến hành mua bảo

hiểm cho hàng hoá được chuyên chở. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh bảo

hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cần phải có các giải pháp marketing tác động vào

các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để có thể ký kết được hợp đồng với họ. Do đó,

việc nghiên cứu các yếu tố cấu thành sản phẩm (hợp đồng bảo hiểm, dịch vụ xử

lý sự cố...) cũng như đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm sẽ giúp cho các cán bộ

marketing xác định được các hoạt động marketing để nâng cao sức cạnh tranh

của các doanh nghiệp trên thị trường.

Chất lượng sản phẩm bảo hiểm được đánh giá hoàn toàn thông qua mức độ

thoả mãn yêu cầu của khách hàng.

 Trình độ khoa học công nghệ.

Ngày nay, khoa học công nghệ có vị trí ngày càng quan trọng trong hoạt

động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong ngành kinh doanh bảo hiểm. Ngành

bảo hiểm nói chung và hoạt lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên

chở bằng đường biển nói riêng có quy trình kinh doanh ngược nên số liệu cần

quản lý là rất lớn. Vì vậy, việc áp dụng công nghệ hiện đại trong doanh nghiệp là

rất cần thiết. Các yếu tố thuộc công nghệ trong ngành bảo hiểm là những kinh

nghiệm quản lý và kinh doanh, hệ thống máy tính cũng như phần mềm áp dụng

25

trong doanh nghiệp bảo hiểm. Công nghệ tác động mạnh mẽ đến chi phí và chất

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

lượng sản phẩm bảo hiểm. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm còn yếu kém trong công

nghệ quản lý và kinh doanh, chưa áp dụng được công nghệ thông tin hiện đại sẽ

không đủ công cụ để thu thập và xử lý thông tin một cách nhanh chóng và chính

xác dẫn đến năng suất lao động của đội ngũ nhân viên cũng như ban lãnh đạo sẽ

rất thấp, chất lượng sản phẩm bảo hiểm kém hấp dẫn dẫn đến khả năng cạnh

tranh thấp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng khoa học công nghệ

hiện đại sẽ tạo ra sản phẩm bảo hiểm có chất lượng cao và chi phí hợp lý, làm

phát triển khả năng của doanh nghiệp trên thị trường.

Vậy thực tế năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam

trong hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển

hiện nay như thế nào? Chương II sẽ làm rõ vấn đề này.

Ch ¬ng II: THỰC TRẠNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT

NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VIỆT NAM.

I. Tổng quan về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đƣờng biển

tại Việt Nam khi gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.

1. Tình hình bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu xuất nhập khẩu bằng

26

đƣờng biển tại Việt Nam khi gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2003 - 2010 do Đảng ta

đề ra là tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế và khả năng huy động đưa vào đầu tư

trên 80% tổng số tích luỹ nội bộ qua từng năm. Năm 2006, nhịp độ tăng xuất

khẩu gấp 2,79 lần nhịp độ tăng GDP. Trong 7 tháng đầu năm 2007, tổng kim

ngạch xuất khẩu của chúng ta đạt 26,79 tỷ USD tăng 19,6% so với cùng kỳ năm

trước. Như vậy kim ngạch xuất khẩu bình quân của 7 tháng đầu năm đạt 3,83 tỷ

USD/tháng. Vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước được tăng cường, kinh tế

tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước,

kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài.

Để thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên đây đòi hỏi

phải có một môi trường tài chính tốt, hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải là

công cụ tài chính quan trọng hỗ trợ nền kinh tế - xã hội trong việc phòng chống,

khắc phục hậu quả các rủi ro và là kênh huy động vốn và đầu tư cho phát triển,

giảm thiểu các khoản chi từ ngân sách nhà nước, ổn định đời sống dân cư và

hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hơn nữa, nước ta đang trong quá

trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập khu vực và đã trở thành thành

viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO nên khối lượng hàng hoá

xuất khẩu cũng như nhập khẩu ngày càng tăng nhanh. Do vậy, bảo hiểm hàng

hoá xuất nhập khẩu hứa hẹn là nhân tố tiềm năng góp phần làm tăng doanh thu

cho toàn bộ thị trường bảo hiểm. Để tận dụng tiềm năng to lớn này và thúc đẩy

thị trường bảo hiểm nói riêng, nền kinh tế nói chung phát triển thì việc xem xét

thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm nhằm tìm ra lợi nhuận và hạn chế

để đưa ra giải pháp khắc phục, phát triển là điều cần thiết. Sau đây, chúng ta sẽ

xem xét thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

27

vận chuyển bằng đường biển đang diễn ra như thế nào.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

1.1. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển chưa tương

xứng với tiềm năng xuất nhập khẩu.

1.1.1. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm qua.

Ngoại thương của Việt Nam cuối thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990 chỉ có

những bạn hàng chủ yếu là các nước thuộc Liên Xô và Đông Âu cũ với những

mặt hàng xuất khẩu manh mún, đơn điệu, chủ yếu là nông sản, nguyên liệu và

hàng thủ công mỹ nghệ, hàng gia công bán thành phẩm. Tuy nhiên, nhờ có chính

sách đổi mới đa phương hoá quan hệ kinh tế của Đảng và Nhà nước, đến cuối

năm 1997 đầu năm 1998, hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên hơn

150 nước ở khắp các châu lục với những chủng loại hàng hoá đa dạng phong phú

hơn.

Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và

lãnh đạo, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần

kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhờ đó, hoạt động xuất

nhập khẩu đã có những bước phát triển mạnh. Một số sản phẩm hàng hoá và dịch

vụ của nước ta không những đứng vững ở thị trường trong nước, mà còn có khả

năng vươn ra thị trường nước ngoài, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.

Bảng 1: Bảng số liệu tổng kim ngạch xuất nhập khẩu theo năm (Đơn vị tính:

Triệu USD)

28

Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng kim ngạch

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

1996 7.255 11.143 18.398

1997 9.185 11.592 20.777

1998 9.361 11.500 20.861

1999 11.541 11.622 23.163

2000 14.483 15.637 30.120

2001 15.029 16.218 31.247

2002 16.706 19.746 36.452

2003 20.149 25.256 45.405

2004 26.503 32.075 58.578

2005 32.223 36.881 69.104

2006 39.605 44.41 84.015

Nguồn:http://www.cesti.gov.vn/left/stinfo/the_gioi_du_lieu/solieuthongke/kt_xh/

2006/2006_03_kt3

Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy, kể từ năm 1996 đến nay, tổng kim

ngạch xuất khẩu nước ta đạt 181,891 triệu USD với tốc độ tăng nhanh, trung

bình khoảng 15,581%/năm. Trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1996

- 2000 đạt 51.825 triệu USD, tăng trung bình 10,565%/năm và giai đoạn 2001-

2006 là 150,215 triệu USD, tăng trung bình 24,31%/năm. Đặc biệt trong năm

2006, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người của nước ta đạt khoảng 476,48

USD/người.

Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động

nhập khẩu cũng được xác định có vai trò hết sức quan trọng, được Đảng và Nhà

nước quan tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển thị trường nội địa, cho

sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nhanh chóng hội nhập với

khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân giai đoạn 1996-

29

2006 là 15,46%. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu có sự chuyển biến theo hướng tích

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

cực, tăng tỷ trọng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất,

giảm dần tỷ trọng hàng tiêu dùng

Có thể nói, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa

qua đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong

nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo việc làm

cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước hợp tác kinh tế và đầu

tư vào Việt Nam. Hoạt động xuất nhập khẩu từng bước nâng cao vị thế của Việt

Nam trên trường quốc tế. [15], [16].

1.1.2. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam chƣa tƣơng xứng với

tiềm năng xuất nhập khẩu.

Lịch sử bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có từ lâu.

Ngay từ khi thành lập, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ của thị trường đều tiến

hành khai thác nghiệp vụ này. Trong giai đoạn hiện nay các công ty bảo hiểm đã

có nhiều nỗ lực đáng kể trong việc khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển nói riêng. Các

công ty đã đổi mới phương cách hoạt động, chất lượng phục vụ, quan tâm nhiều

đến quản lý và đánh giá rủi ro... để nâng cao uy tín, vị thế của công ty mình

trong môi trường cạnh tranh sôi động và gay gắt hiện nay. Bên cạnh đó, mạng

lưới dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đến nay đã phát triển rộng, trình

độ của đội ngũ khai thác viên ngày càng được nâng cao nên phong cách và chất

lượng phục vụ khách hàng đã có chuyển biến tích cực. Điều khoản, điều kiện, tỉ

lệ phí luôn được sửa đổi bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu bảo hiểm của khách

hàng trong và ngoài nước. Các nhà bảo hiểm cũng đã quan tâm nhiều hơn đến

các công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức quảng cáo, hội nghị, hội thảo

30

theo chuyên đề làm cho nhận thức của khách hàng ngày càng được nâng cao.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Với sự nỗ lực trên thị trường, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận

chuyển bằng đường biển ở Việt Nam đã ngày càng khai thác được nhiều lô hàng

bảo hiểm cũng như các dịch vụ bảo hiểm mới. Các con số doanh thu phí và kim

ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước tăng hàng năm cả

về con số tương đối lẫn con số tuyệt đối. Tuy nhiên, khả năng khai thác của các

công ty bảo hiểm trên thị trường còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng

sẵn có. Mặc dù kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước hàng năm tăng đáng kể,

nhưng cho đến nay, hoạt động bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu do các

công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn còn ở mức rất hạn chế, tốc độ tăng

trưởng không cao, chỉ đạt mức khá khiêm tốn, có giai đoạn theo chiều hướng

giảm xuống.

Thực tế từ năm 1996 đến 2006, các doanh nghiệp bảo hiểm hàng năm chỉ

bảo hiểm được khoảng 23% đến 25% kim ngạch nhập khẩu và từ 5% đến 6%

31

kim ngạch xuất khẩu trong cả nước. Cụ thể theo bảng số liệu sau:

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Bảng 2: Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước giai

đoạn 1996-2006

Xuất nhập khẩu

Tổng giá trị hàng Hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đư-

hoá xuất nhập khẩu ờng biển tham gia bảo hiểm trong nước

vận chuyển bằng Số tuyệt đối (triệu đường biển (triệu Tỷ trọng (%) USD) Năm USD)

1996 16.928 2.098 12,39

1997 18.908 1.971 10,43

1998 19.425 2.062 10,61

1999 21.54 2.19 10,16

2000 26.865 3.445 12,82

2001 28.612 3.367 11,77

2002 33.455 4.027 12,04

2003 41.755 5.258 12,59

2004 52.343 6.541 12,49

2005 61.649 8.729 14,16

2006 83.746 12.763 15,24

Nguồn: Tạp chí thị trường Bảo hiểm -Tái bảo hiểm số 1, các năm 2003-2007

Qua bảng số liệu ta có thể thấy rằng, tỷ trọng hàng hoá xuất nhập khẩu bằng

đường biển được bảo hiểm có tốc độ tăng chậm, thậm chí năm 1999 tỷ trọng

hàng hoá tham gia bảo hiểm còn bị giảm, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu

hàng hoá tăng trưởng mạnh nhưng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu được mua

bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm trong nước còn nhỏ bé, phần còn lại chủ yếu

32

rơi vào các công ty bảo hiểm nước ngoài.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Như vậy bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam chưa tương

xứng với tiềm năng cũng xuất phát từ những nguyên nhân nội tại của nó:

Thứ nhất, đây là một nghề non trẻ:

Ngoại trừ công ty bảo hiểm Bảo Việt được thành lập từ năm 1965 thì các

công ty bảo hiểm khác mới được "khai sinh" sau Nghị định 100CP của Chính

phủ ngày 18 tháng 12 năm 1993. Hiện nay, uy tín của các ngành bảo hiểm Việt

Nam đối với khách hàng nước ngoài chưa cao, nhiều đối tác chưa biết cũng như

chưa hiểu và tin tưởng về mức an toàn, khả năng tài chính và thủ tục giải quyết

khiếu nại bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Đây là những

trở ngại đáng kể cho các công ty nước ngoài tham gia mua bảo hiểm hàng hoá

xuất nhập khẩu.

Thứ hai, qui mô vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hạn chế:

Với số vốn khiêm tốn nên đối với những lô hàng có giá trị lớn, khách hàng

thường muốn mua bảo hiểm tại những công ty bảo hiểm nước ngoài có vốn lớn

chứ không muốn mua bảo hiểm tại Việt Nam hoặc nếu khách hàng mua bảo

hiểm tại các công ty Việt Nam thì họ thường phải tái bảo hiểm ở các công ty bảo

hiểm nước ngoài.

Thêm vào đó, công nghệ bảo hiểm của ta còn lạc hậu. Việc triển khai

nghiệp vụ bảo hiểm qua các khâu như đánh giá rủi ro, giám định, thu phí bảo

hiểm, bồi thường... phần lớn còn chậm, chưa chuyên nghiệp. Trình độ cán bộ

bảo hiểm chưa đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe nhưng cũng rất linh hoạt

33

của cơ chế thị trường.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Thứ ba, tình hình phổ biến hiện tại Việt Nam từ trước đền nay là các doanh

nghiệp xuất khẩu theo điều kiện FOB và nhập khẩu theo điều kiện CIF, tức

chúng ta không giành được quyền mua bảo hiểm:

Theo Các điều kiện thương mại quốc tế Incoterms 2000 có tất cả 13 điều

kiện mua bán được quốc tế hoá bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động

thương mại quốc tế. Trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được

các bên tham gia sử dụng. Theo điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua

chịu mọi phí tổn thất và đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ

mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Còn

điều kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi

hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải

trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua

những rủi ro đối với hàng hoá có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo

hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu. Như

vậy, đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và

bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tuỳ ý

thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ sẽ ký hợp đồng với các công ty của

nước mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn.

Hiện nay, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam còn e ngại trong

việc giành quyền mua bảo hiểm. Một phần là do năng lực tài chính của họ còn

yếu, không đủ khả năng giành quyền mua bảo hiểm trong các đàm phán ngoại

thương. Mặt khác, một số doanh nghiệp xuất khẩu sợ gặp phải rủi ro trong việc

thuê tàu và mua bảo hiểm như: giá cước tăng cao, phí bảo hiểm tăng, không thuê

được tàu... cũng như lo ngại không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đối tác nước

ngoài trong bối cảnh năng lực hoạt động của các công ty bảo hiểm và đội tàu

34

biển Việt Nam còn hạn chế. Ngoài ra, do các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam đã

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

quen với tập quán thương mại xuất khẩu theo điều kiện FOB, nhập khẩu theo

điều kiện CIF, nên việc thay đổi tập quán cũ này khó thực hiện trong một sớm

một chiều.

Bên cạnh đó, chúng ta thiếu sự phối hợp giữa các ngành thương mại, vận

tải và bảo hiểm. Tại Việt Nam, tình trạng "đèn nhà ai, nhà ấy rạng" của ba ngành

xuất nhập khẩu, vận tải và bảo hiểm còn khá phổ biến. Do thiếu sự phối hợp chặt

chẽ giữa chủ hàng, chủ tàu và các nhà bảo hiểm Việt Nam nên nhiều khi có tình

trạng có hàng để xuất khẩu nhưng các công ty bảo hiểm lại không được bảo hiểm

số hàng đó.

Theo báo cáo của Bộ Thương mại tại hội nghị Thương mại toàn quốc

ngày 1/2/2007 tại Hà Nội, trong năm 2006, cả nước xuất khẩu 39,6 tỷ USD (trị

giá FOB) chiếm khoảng 99% trị giá hàng xuất khẩu và nhập khẩu 44,4 tỷ USD

(trị giá CIF) chiếm 99,98% trị giá hàng nhập khẩu.[17], [19]

1.2. Doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng

đường biển còn thấp qua các năm.

Trong vòng 10 năm sau khi mở cửa thị trường bảo hiểm, thi trường bảo

hiểm Việt Nam ngày càng phát triển mạnh và tương đối ổn định. Tuy tỷ trọng

kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta tăng nhanh, nhưng đến nay hoạt động bảo

hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tại các công ty bảo hiểm Việt Nam vẫn còn ít, tốc

35

độ tăng trưởng không cao.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Bảng 3: Doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng

đường biển toàn thị trường giai đoạn 1996-2006.

Tổng phí bảo hiểm hàng Tốc độ tăng phí bảo hiểm hàng hoá xuất hoá xuất nhập khẩu vận nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển Năm chuyển bằng đường biển (%) trong năm (triệu USD)

1996 9,88

1997 8,36 -18,18

1998 10,56 +26,31

1999 8,868 -19,08

2000 10,82 +12,20

2001 10,01 -7,99

2002 12,41 +23,97

2003 14,145 +13,98

2004 16,171 +14,31

2005 21,823 34,95

2006 31,405 43,91

Nguồn: Tạp chí thị trường Bảo hiểm -Tái bảo hiểm số 1 của các năm 2003-2007

Năm 1999 được coi là năm đặc biệt khó khăn với bảo hiểm hàng hoá vận

chuyển bằng đường biển, tổng phí bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường

biển toàn thị trường là 8,868 triệu USD chỉ bằng khoảng 80,02% so với năm

1998 (đạt 10,56 triệu USD), đạt mức tăng trưởng âm (xuất khẩu chỉ bằng 84,7%

36

và nhập khẩu bằng 91% so với năm 1998).

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy: mức doanh thu phí bảo hiểm

hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển ở nước ta còn thấp, hầu hết doanh thu phí

bảo hiểm đều tập trung vào tay các công ty bảo hiểm nước ngoài. Tính bình quân

trong giai đoạn 1996-2006 doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận

chuyển bằng đường biển bình quân đạt khoảng 15,45 triệu USD. Mức doanh thu

phí bảo hiểm thấp, lại không ổn định: các năm 1996, 1998, 2000 có mức tăng

trưởng cao trong khi có những năm mức tăng trưởng âm như năm 1999 giảm gần

19% so với năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực,

còn năm 1997 giảm hơn18% so với năm 1996. Điều này cho thấy hoạt động bảo

hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nước ta một số năm

trước chưa ổn định, còn chịu tác động của các yếu tố bên ngoài.

Sang giai đoạn 2000-2006, trên thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập

khẩu chuyên chở bằng đường biển đã có những chuyển biến tích cực do nền kinh

tế tăng trưởng nhanh về kim ngạch xuất nhập khẩu, GDP tăng mạnh (đạt mức

8,2% năm 2006). Bên cạnh đó, các nhà bảo hiểm đã rút ra nhiều bài học và đang

dần tìm cách tháo gỡ các hạn chế, khó khăn tồn đọng. Doanh thu phí bảo hiểm

năm 2002 tăng 23,97% về số tương đối và tăng 2,4 triệu USD về số tuyệt đối so

với năm 2001. Đặc biệt, trong năm 2005, tốc độ tăng phí bảo hiểm đạt mức

34,95% tăng gần 2,44 lần so với năm 2004 và đến năm 2006, tốc độ tăng phí bảo

hiểm đã đạt tới mức 43,91%.

Mặc dù tổng doanh thu phí bảo hiểm liên tục tăng trong trong các năm qua,

nhưng mức phí bảo hiểm vẫn đang duy trì ở mức thấp. Các nhà bảo hiểm đưa ra

lý do giải thích việc thực trạng này: đó là do thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất

nhập khẩu nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại

Việt Nam nói riêng đang diễn ra cuộc cạnh tranh khốc liệt, đua hạ phí, tăng hoa

hồng và mở rộng điều kiện bảo hiểm trái với thông lệ quốc tế. Đi cùng với kiểu

37

cạnh tranh trên là độ rủi ro ngày càng lớn trong hoạt động của nhiều doanh

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nghiệp. Để thu hút khách hàng, các công ty bảo hiểm đã không ngừng tăng phí

hoa hồng cho đại lý, cho người môi giới, giảm phí bảo hiểm đến mức thấp nhất

có thể.

Trong vòng một năm từ năm 2004 đến 2005, mức phí bảo hiểm bình quân

đã hạ tới 40%, đặc biệt có những mặt hàng phí bảo hiểm giảm tới 70 - 80%.

Trong khi đó, hoa hồng đã tăng từ 3 đến 4 lần mức quy định của Bộ tài chính.

Một số công ty bảo hiểm đã mở rộng điều kiện thái quá, trái với thông lệ bảo

hiểm quốc tế như không thu phí tàu già, nhận bảo hiểm cả thiếu hàng trong

container nguyên kẹp chì mà những rủi ro này chủ yếu thuộc trách nhiệm của

người bán. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển lâu

nay vẫn là một loại hình bảo hiểm tự nguyện, không có bất cứ sự bảo hộ nào của

Nhà nước. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cũng đã nhiều lần tổ chức họp các ban

không chuyên để thống nhất một số biện pháp như đề ra phí sàn đối với một số

mặt hàng chủ lực do tỷ lệ bồi thường các mặt hàng này quá cao (từ 150% đến

200%).

Bên cạnh đó, Hiệp hội đã đưa ra một số khuyến cáo tổn thất đối với hàng

hoá thường xảy ra ở một số chủ hàng, một số cảng với một số mặt hàng như

phân bón, sắt thép nguyên thanh nguyên bó... Song một số doanh nghiệp bảo

hiểm (nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời hoặc có thị phần thấp) vẫn

chấp nhận bảo hiểm với cả rủi ro giao thiếu hàng, mất cắp, hạ mức khấu trừ,

thậm chí hạ phí bảo hiểm đến mức không bù đắp được chi phí giám định khi

hàng bị tổn thất. Tình trạng không thu phí tàu già ngay cả khi bị tổn thất, thậm

chí không thu phí tàu già vẫn phát hành hoá đơn để chủ hàng đòi chủ tàu vẫn còn

xảy ra. Việc bắt giữ tàu gây tổn thất thiệt hại cho hàng hoá, ảnh hưởng đến

quyền lợi chủ hàng và doanh nghiệp bảo hiểm đang được đặt ra sao cho có văn

38

bản.[11]

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

1.3. Tổn thất và bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận

chuyển bằng đường biển toàn thị trường.

Tổn thất Hàng hải nói chung, hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng có đặc

điểm đó là khi xảy ra rủi ro, tổn thất thường rất lớn. Điều này kéo theo tỷ lệ bồi

thường nghiệp vụ này khá cao, đôi khi chỉ có một số rất ít vụ tổn thất xảy ra

nhưng thiệt hại phải bồi thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu phí bảo

hiểm, thậm chí còn lớn hơn. Về mặt này thực tiễn trên thế giới đã chứng minh rất

rõ, lại do hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường

biển chịu rủi ro từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nên việc các nhà bảo hiểm

hàng hải thế giới chịu thua lỗ trong nhiều năm là chuyện không có gì đáng ngạc

nhiên, thậm chí nhiều nghiệp đoàn lớn vẫn chịu thua lỗ phải rút ra khỏi thị

trường. Đối với Việt Nam những năm gần đây, tình hình tổn thất tuy không khả

quan hơn nhiều, song vẫn giữ được ở mức có thể chấp nhận và có lợi nhuận.

Tình hình này được thể hiện rất rõ qua bảng số liệu sau:

Bảng 4: Tỷ trọng hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm bị tổn thất qua

các năm 1996-2006

Hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển

Tổng phí bảo hiểm hàng hoá bằng đường biển tham gia bảo hiểm bị

xuất nhập khẩu vận chuyển tổn thất Năm bằng đường biển tham gia bảo Số tuyệt đối (triệu hiểm trong nước (triệu USD) Tỷ lệ tổn thất (%) USD)

9,88 9,161 92,72 1996

8,36 4,958 59,30 1997

10,56 6,343 60,06 1998

8,868 7,138 80,49 1999

10,82 5,792 53,53 2000

10,01 6,306 62,30 2001

39

12,41 6,078 48,97 2002

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

2003 14,145 6,515 46,06

2004 16,170 7,483 46,28

2005 21,823 9,953 45,59

2006 31,405 13,112 44,95

Nguồn: Tạp chí thị trường Bảo hiểm -Tái bảo hiểm số 1 của các năm 2003-2007

Tỷ lệ tổn thất trung bình giai đoạn năm 1996-1999 rất cao, khoảng 73,14%,

đặc biệt trong 2 năm 1996 và 1999 tỷ lệ tổn thất lên đến 92,72% và 80,49% do

có nhiều vụ tổn thất hàng hoá xuất nhập khẩu lớn. Nguyên nhân gia tăng tổn thất

năm 1999 được giải thích bằng sự bất ổn kinh tế, chính trị thế giới và khu vực,

sự phát triển ngành vận tải biển về năng suất và phạm vi hoạt động làm tăng

nguy cơ rủi ro trong hoạt động vận chuyển hàng hoá bằng đường biển.Trong

năm gần đây từ năm 2000 đến 2006, tình hình bồi thường tổn thất khả quan hơn,

tỷ lệ bồi thường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển bình quân

khoảng 56%.

Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bồi thường giảm cũng một phần là do các yếu tố:

- Các nhà bảo hiểm thận trọng hơn trong việc đánh giá rủi ro nhận bảo hiểm.

- Công tác đề phòng hạn chế tổn thất được quan tâm thích đáng, được coi

như là phương pháp hữu hiệu hơn cả trong việc góp phần đảm bảo kinh doanh

của các doanh nghiệp đạt hiệu quả.

- Sự phát triển của ngành vận tải biển đã làm tăng chất lượng tàu chuyên

chở đồng thời giảm khả năng xảy ra rủi ro cho các chuyến vận chuyển hàng hoá

40

xuất nhập khẩu do tàu không đủ khả năng đi biển.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

- Công tác đề phòng hạn chế tổn thất được quan tâm thích đáng, được coi

như là phương pháp hữu hiệu hơn cả trong việc góp phần đảm bảo kinh doanh

của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao.

- Các công ty bảo hiểm cũng đã phối hợp với các cảng biển Việt Nam ngay

khi tàu cập cảng. Việc xử lý và chia sẻ tổn thất của toàn tàu cho tất cả các chủ

hàng trên tàu phần nào đã tránh được tình trạng tổn thất dồn vào một số chủ hoặc

có chủ nhận thừa, có chủ nhận thiếu.

- Các công ty bảo hiểm cũng đã phối kết hợp với nhau trong công tác giám

định hàng tổn thất, bắt tàu... giúp giảm thiểu các chi phí có thể phát sinh không

cần thiết.

- Khâu giải quyết bồi thường xử lý nhanh, hợp lý.

Thời gian gần đây, số vụ tổn thất đặc biệt lớn thuộc trách nhiệm bồi thường

của các công ty bảo hiểm Việt Nam rất ít. Trong 6 năm qua (từ 2000-2006) chỉ

có 4 vụ tổn thất với mức bồi thường trên dưới 1 triệu USD (ngoại trừ vụ tàu Zhe

Hai 308 của Trung Quốc bị chìm vào ngày 20/02/2005 kéo theo 2,3 triệu USD

hàng thép do phía Việt Nam bảo hiểm bị thiệt hại). Số vụ bồi thường từ

10000USD đến 30000 USD khá nhiều ở những mặt hàng gạo xuất đi Iraq, Cuba

hay những lô bã đậu nành, bột cá,vv... nhập khẩu, song cũng không ảnh hưởng

nhiều tới kết quả kinh doanh của nghiệp vụ này.

II. Thị trƣờng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam khi gia nhập tổ

chức thƣơng mại thế giới WTO.

Nhìn chung trong 3-4 năm trở lại đây, việc mở cửa thị trường dịch vụ bảo

hiểm có tác động tích cực về nhiều mặt đối với thị trường bảo hiểm trong nước.

Các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc sở hữu Nhà nước đã được cơ cấu lại để tăng

41

sức cạnh tranh. Do đó, về cơ bản các doanh nghiệp trong nước đã có sự chuẩn bị

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

tích cực cho việc tiếp tục cạnh tranh đối với các doanh nghiệp nước ngoài khi gia

nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Tuy nhiên, cạnh tranh trên thị trường

bảo hiểm sẽ gay gắt hơn.

1. Sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm phi nhân

thọ ở Việt Nam hiện nay.

Nghị định số 100/CP của chính phủ ban hành ngày 18/02/1993 từng bước

cho phép các doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh và

công ty 100% vốn nước ngoài kinh doanh bảo hiểm ra đời và hoạt động. Sự cho

phép này đánh dấu bắt đầu một thời kỳ cạnh tranh gay gắt để giành dịch vụ giữa

các công ty bảo hiểm và chấm dứt sự độc quyền của Bảo Việt.

Trước năm 1995, trên thị trường Việt Nam chỉ có duy nhất một công ty

Bảo Việt nên không xảy ra cạnh tranh, Bảo Việt nắm thế độc quyền trong kinh

doanh bảo hiểm. Nhưng sau năm 1995, thị trường bảo hiểm trở nên sôi động,

hấp dẫn và có chất lượng hơn do có thêm các công ty bảo hiểm mới ra đời. Năm

1995, sau khi nghị định 100/CP ban hành được một năm, các công ty bảo hiểm

khác ngoài hệ thống Bảo Việt ra đời. Trước tiên là công ty bảo hiểm thành phố

Hồ Chí Minh, công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam - Vine Re, công ty cổ

phần bảo hiểm Nhà Rồng, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, và năm sau đó

là công ty bảo hiểm dầu khí và công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam ra

đời. Năm 1995 có thể coi là năm khởi đầu thật sự cho ngành bảo hiểm Việt Nam

với đầy đủ ý nghĩa của nó.

Các năm tiếp theo, trên thị trường đã xuất hiện đầy đủ các loại hình doanh

nghiệp bảo hiểm, đó là: doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên

doanh và công ty 100% vốn nước ngoài.

Lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua được

42

đánh giá là tương đối mạnh. Số lượng doanh nghiệp chính thức kinh doanh bảo

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam tính đến hết năm 2006 là 21 doanh nghiệp trong

đó có 9 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm

mới thành lập đã đi vào ổn định và bắt đầu mở rộng hoạt động như: BIC phát

triển mạnh nhờ sự hỗ trợ tích cực của BIDV trong các dự án đầu tư lớn, Bảo

hiểm Toàn Cầu (GIC) tận dụng khai thác triệt để ở các dịch vụ bảo hiểm kỹ thuật

và tài sản từ các cổ đông lớn là SFC (Công ty bay dịch vụ) và EVN.

Về thị phần của các doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ,

không như trước đây, giai đoạn độc quyền của Bảo Việt (chiếm 100% thị phần).

Hiện nay, với sự xuất hiện nhiều công ty bảo hiểm, thị phần đã được chia sẻ, các

công ty ra đời sau đã bắt đầu tăng thị phần. Bên cạnh đó, Vietnam Airlines cũng

đang có kết hoạch thành lập công ty bảo hiểm.

Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ năm 2006 tiếp tục có sự tăng trưởng.

Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 6,445 tỷ đồng, tăng 17,5% so với

năm 2005. 12 doanh nghiệp bảo hiểm trong nước vẫn nắm giữ thị trưởng bảo

hiểm phi nhân thọ với thị phần 94,9%. Tuy nhiên, về thực chất, thị phần doanh

thu phí bảo hiểm phi nhân thọ vẫn tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp lớn

như Bảo Việt 34,9%, Bảo Minh 21,3%, PVI 18,1% và Pjico 10,5%. 9 doanh

43

nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chia nhau 5,1% còn lại.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nguồn: http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=42414.

Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy, Bảo Việt vẫn nắm giữ một thị phần tương

đối lớn (34,9%). Sở dĩ như vậy là vì Bảo Việt có lịch sử phát triển lâu nhất, có

uy tín cao trên thị trường, có một mạng lưới khai thác bảo hiểm trong các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam nên nhiều hợp đồng lớn của nhà nước được

bảo hiểm ở công ty này. Các công ty như Bảo Minh, Pjico, Dầu khí mặc dù ra

đời sau, nhưng có cách chính sách hoạt động thông thoáng, chính sách khách

hàng phù hợp nên đã càng ngày chiếm thị phần cao trên thị trường. Các công ty

còn lại mặc dù thị phần còn rất thấp do mới thành lập, nhưng cũng đang mở rộng

quy mô khai thác để tăng thị phần và cạnh tranh bình đẳng với các công ty lớn.

Tuy nhiên, theo đánh giá chung của Vụ Bảo hiểm, Bộ tài chính, bên cạnh

sự tăng trưởng ổn định trong năm 2006, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ vẫn

còn nhiều vấn đề nổi cộm như cạnh tranh hạ phí, tăng chi phí khai thác, chưa

kiểm soát được trục lợi bảo hiểm, một số vấn đề về thoả thuận tàu biển, hàng

hoá... chưa được thực hiện triệt để. "Các doanh nghiệp bảo hiểm mới chỉ lo cạnh

tranh với nhau mà quên đi việc phải làm sao cạnh tranh được với chính các dịch

vụ tài chính khác"_ ông Trịnh Thanh Hoan, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm (Bộ Tài

chính) nhận xét.

Những hình thức cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra trên thị trường

được liệt kê ra như: hạ phí, mở rộng quá mức quyền lợi bảo hiểm không tính đến

hiệu quả kinh doanh. Có cả chuyện doanh nghiệp cạnh tranh thông qua sự can

thiệp hành chính để các doanh nghiệp khác không được tiếp cận khai thác dịch

vụ, từ đó phí khai thác dịch vụ bảo hiểm chủ yếu tập trung vào một doanh nghiệp

trong một ngành một lĩnh vực.

Trong khi đó, hoạt động của các công ty nước ngoài tiếp tục hướng vào

44

chuyên môn hoá, với chiến lược "chọn lọc rủi ro, tập trung vào khúc thị trường

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

mục tiêu" nên dù mức độ cạnh tranh chưa cao, nhưng họ đang chiếm lĩnh dần

các khúc thị trường có hiệu quả tốt.

Trong 6 tháng đầu năm 2007, Bảo Việt tiếp tục giữ vững vị trí dẫn đầu thị

trường bảo hiểm phi nhân thọ với doanh thu đạt 46% kế hoạch năm, tăng trưởng

10,5% so với cùng kỳ năm 2006.

Với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khách hàng mua bảo hiểm có

nhiều cơ hội chọn lựa dịch vụ tốt nhất, phù hợp nhất đối với yêu cầu của mình.

Còn các công ty bảo hiểm đang cố gắng hoàn thiện công tác khách hàng để ngày

càng nâng cao chất lượng dịch vụ. Đã không còn tệ nạn cửa quyền, nhũng nhiễu

khách hàng như trước đây. Khách hàng là sự tồn tại và phát triển của công ty đã

là tiêu chí hoạt động của từng công ty. Cũng do tác động của cạnh tranh buộc các

công ty bảo hiểm phải xem xét và cân đối lại các chi phí hoạt động về chất lượng

của dịch vụ đó.

Trước đây, khác với thị trường bảo hiểm nhân thọ, chính sách bảo hộ của

Chính phủ Việt Nam đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đã tạo ra

một sự hạn chế nhất định về sản phẩm bảo hiểm được phép kinh doanh của các

doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các doanh nghiệp có

vốn đầu tư nước ngoài đều chưa được phép kinh doanh các sản phẩm bắt buộc

và thậm chí có doanh nghiệp chỉ được cấp phép kinh doanh rất hạn chế về sản

phẩm. Các doanh nghiệp này chỉ được khai thác bảo hiểm với các đối tượng

khách hàng là doanh nghiệp có vốn nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước

ngoài tại Việt Nam, các tổ chức và cá nhân nước ngoài và các doanh nghiệp

ngoài quốc doanh.

Nhưng, hiện nay, theo cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam,

doanh nghiệp bảo hiểm của nước ngoài được cấp phép cung cấp vào Việt nam

45

các dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp có vốn nước ngoài và người nước ngoài

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

tại Việt Nam. Ngoài ra, họ còn được cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm, vận tải quốc

tế, môi giới bảo hiểm, tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường

cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Theo cam kết này, các doanh nghiệp bảo

hiểm liên doanh không bị hạn chế được đối xử quốc gia (doanh nghiệp bảo hiểm

Việt Nam được làm gì thị họ được làm cái đó). Doanh nghiệp bảo hiểm 100%

vốn nước ngoài chỉ bị hạn chế sản phẩm bắt buộc cho đến ngày 01/01/2008 thì

bãi bỏ hạn chế này. [10],[20]

2. Năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển

bằng đường biển tại Việt Nam hiện nay.

Trong 5 năm trở lại đây (2001-2006), mỗi năm, kim ngạch xuất khẩu của

chúng ta đạt bình quân khoảng 54.133 triệu USD/năm. Đi đôi với sự tăng trưởng

kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng hàng hoá tham gia bảo hiểm cũng ngày một tăng

(với tốc độ 17,76%/năm đối với bảo hiểm hàng nhập và 22,03%/năm đối với bảo

hiểm hàng xuất). Tuy nhiên, 84,8% thị phần bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

lại thuộc về các công ty nước ngoài. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tính trên

phạm vi cả nước trong năm 2006 đạt doanh thu 251,6 tỷ đồng, tăng 31,9% trong

khi xuất nhập khẩu tăng 20% là một dấu hiệu mừng, nhưng chỉ có 15% hàng

xuất, 30% hàng nhập khẩu mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam.

Điều này chứng tỏ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng

đường biển của chúng ta chưa có tính cạnh tranh quốc tế cao. Nguyên nhân trực

tiếp dẫn đến thực trạng việc kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt

Nam chưa có tính cạnh tranh quốc tế, đó là do:

 Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn thấp.

Năng lực tài chính của một doanh nghiệp gồm những chỉ tiêu như nguồn

vốn, tài sản, dự phòng nghiệp vụ... Xét những chỉ tiêu trên ta có thể thấy rằng,

46

mặc dù năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã được

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nâng cao hơn rất nhiều so với giai đoạn trước, tuy nhiên, so với các doanh

nghiệp bảo hiểm nước ngoài thì vẫn còn rất thấp. Năm 2004, ngoại trừ Bảo Việt

có khả năng tài chính lớn nhất thị trường (3000 tỷ đồng) thì các các doanh

nghiệp khác đều mới chỉ đáp ứng đủ số vốn điều lệ tối thiểu và quá nửa trong số

đó có vốn điều lệ chưa đúng theo luật định. Nếu không tính Bảo Việt thì các

doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam khác chỉ đạt trung bình 54 tỷ đồng vốn, cách

qua xa so với vốn pháp định là 70 tỷ đồng đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi

nhân thọ. Đến cuối năm 2004, quy mô vốn điều lệ của các doanh nghiệp bảo

hiểm trong nước mới chiếm khoảng 30% quy mô vốn điều lệ của các doanh

nghiệp hoạt động trên thị trường Việt Nam, quy mô vốn của các doanh nghiệp

bảo hiểm 100% vốn nước ngoài là 55%, 15% còn lại là quy mô vốn của các

47

doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Bảng 5: Tiềm lực về vốn của Doanh nghiệp Bảo hiểm năm 2004 (đơn vị: Tỷ đồng)

Vốn điều lệ Vốn kinh doanh Loại hình bảo hiểm Tổng số TB/1DN Tổng số TB/1DN

Bảo Việt (3 công ty 162 54 421 140,3 thành viên)

Công ty cổ phần 185 61,7 188 61,7

Công ty liên doanh 561,1 93,5 610,9 101,8

Công ty 100% vốn n- 1880,1 376 1880,1 376 ớc ngoài

Nguồn: Báo cáo kết quả nghiên cứu "Đánh giá tác động của việc mở cửa thị

trường đối với ngành Bảo hiểm Việt Nam và giải pháp phát triển thị trường bảo

hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế"- Viện Khoa học Tài chính-2004.

Nhìn vào bảng ta thấy rõ được sự chênh lệch về nguồn vốn của các doanh

nghiệp bảo hiểm Việt Nam so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.

Doanh nghiệp Bảo Việt có số vốn lớn nhất thị trường nhưng bên cạnh đó là các

công ty cổ phần khác chỉ có số vốn kinh doanh trung bình là 61,7 tỷ đồng chỉ

bằng 68% mức trung bình của các công ty liên doanh (1001,8 tỷ đồng) và bằng

16,4% mức trung bình của các công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài (376 tỷ

đồng).

Năm 2007, nghị định số 45 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số

điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Nghị định số 46 quy định chế độ tài

chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm (ban hành cùng ngày 27/03/2007) đã quy

định mức vốn pháp định đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ

là 300 tỷ đồng (mức cũ 70 tỷ đồng). Nhiều doanh nghiệp do đã biết trước quy

48

định này đã chuẩn bị phương án tăng vốn trước khi nghị định có hiệu lực. Tuy

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nhiên, mức vốn pháp định theo Nghị định 46 còn rất nhỏ so với các doanh

nghiệp bảo hiểm nước ngoài và trong khu vực.

Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển là loại hình bảo hiểm

có tính cạnh tranh quốc tế và dựa trên quan hệ bạn hàng lâu dài. Trong điều kiện

năng lực tài chính chưa đủ lớn, kinh nghiệm chưa nhiều... việc thuyết phục

khách hàng, đặc biệt là khách hàng thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài

tham gia bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước là không dễ dàng.

 Hạn chế về nguồn nhân lực.

Nguồn nhân lực là một nhân tố chi phối quan trọng đối với việc tăng cường

năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất

nhập khẩu.

Theo sự cảnh báo của các chuyên gia, nguồn nhân lực đang là một trong

những điểm yếu của ngành bảo hiểm Việt Nam. Trong tổng số 1000 sinh viên

chuyên ngành tài chính ra trường hàng năm chỉ có khoảng 1/3 có khả thích ứng

ngay với công việc. Báo cáo thống kê của Chương trình nghiên cứu khả năng

cạnh tranh và tác động của tự do hóa thương mại dịch vụ tại Việt Nam đã cho

thấy, do các đặc thù nghề nghiệp, sự liên kết giữa đào tạo và thị trường là yếu tố

hết sức quan trọng trong đào tạo nghiệp vụ bảo hiểm. Tuy nhiên, quá trình này

tại các trường đại học nhìn chung vẫn xa rời thực tế. Lý do dẫn đến tình trạng đó

là bởi bảo hiểm mặc dù tồn tại ở Việt Nam từ rất lâu, song hoạt động theo

nguyên tắc của kinh tế thị trường mới chỉ bắt đầu từ sau năm 1993. Do đó, mặc

dù ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam cũng đã rất nỗ lực để cung cấp nguồn

lực phục vụ cho sự phát triển của ngành, song mức độ đáp ứng mới chỉ dừng ở

mức trung bình. Tại các trường đại học, chương trình đào tạo vẫn chưa bám sát

nhu cầu của ngành, còn rất nặng các môn học về bảo hiểm bắt buộc trong khi

49

nhu cầu về kiến thức về bảo hiểm thương mại rất nhiều.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, việc nâng cao năng lực và cập nhật

kiến thức của các cán bộ hiện có cho phù hợp với điều kiện mới cũng là những

thách thức rất lớn. Hiện nay, trong số các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, chỉ

có Bảo Việt phần nào thực sự có khả năng thực hiện các chương trình đào tạo và

cập nhật kiến thức cho cán bộ của mình với một Trung tâm đào tạo nằm ngay

trong Tổng Công ty. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khác, đào tạo thường

xuyên cán bộ dường như là quá khả năng ngân sách cho phép do chi phí đầu tư

cho những hoạt động này tương đối lớn. Tiềm năng phát triển và mở rộng thị

trường từ những sáng kiến và sản phẩm mới là rất ít, có chăng chỉ là những chiến

thuật kinh doanh "đi theo" mà thôi. Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ của số đông

cán bộ là một rào cản lớn khi đòi hỏi phải tiếp cận với khách hàng là các doanh

nghiệp nước ngoài. Chính những hạn chế về nguồn nhân lực là một trong các

nguyên nhân quan trọng dẫn đến hệ quả là giảm năng lực của các doanh nghiệp

bảo hiểm trong nước.

Bên cạnh chất lượng đào tạo còn yếu thì số lượng đào tạo cũng rơi vào tình

trạng thiếu hụt. Hoạt động đào tạo chính quy và chuyên sâu về bảo hiểm thương

mại chỉ được thực hiện tại một số trường đại học và học viện có đào tạo về tài

chính với khả năng đào tạo khoảng 300-400 người/năm như: Đại học Kinh tế

quốc dân Hà Nội, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tài

chính... Sự khan hiếm về nguồn nhân lực đã khiến các doanh nghiệp gặp phải rất

nhiều khó khăn khi mở rộng thị trường như: đội ngũ nhân lực có trình độ tối

thiểu là đại học cộng thêm kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng phân tích tài

chính thực thụ lại quá nhỏ. Đồng thời các doanh nghiệp bảo hiểm còn thiếu nhân

viên có đủ trình độ và chuyên môn để hỗ trợ cho các đại lý, thiếu người đủ kinh

nghiệm và độ nhanh nhạy để xử lý các tình huống... Điều này sẽ làm giảm chất

lượng dịch vụ khách hàng, từ đó ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh

50

của các doanh nghiệp.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Ngoài ra, một trong những khó khăn làm đau đầu các lãnh đạo doanh

nghiệp bảo hiểm trong nước là tình trạng "chảy máu chất xám". Chế độ đài thọ

đối với người lao động tại các công ty nước ngoài thường cao hơn so với công ty

trong nước. Do đó, không có gì là khó lý giải khi các công ty nước ngoài đang

ngày càng lôi kéo được nguồn nhân lực có chất lượng cao từ thị trường nhân lực.

Với tốc độ phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính nói chung và ngành

bảo hiểm nói riêng thì cơn sốt nguồn nhân lực ngành nghề đặc thù này càng gay

gắt hơn.

Trước những đòi hỏi của sự phát triển chung về cán bộ cho nghiệp vụ bảo

hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, hiện nay có thể nói

nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam vẫn còn thiếu cả về

số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt thiếu cán bộ về quản lý, cán bộ đầu ngành,

chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập vận chuyển bằng đường

biển.[21]

 Năng lực công nghệ thông tin còn hạn chế.

Hệ thống thông tin ở các doanh nghiệp bảo hiểm đã từng bước được trang

bị và hiện đại hoá. Nhưng trên thực tế hệ thống bảo mật vẫn chưa an toàn. Nhìn

chung các công ty bảo hiểm trong nước lạc hậu hơn rất nhiều so với các đối thủ

nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Hiện nay, hầu hết các công ty

trong nước chưa có phần mềm bảo hiểm riêng của mình mặc dù họ cũng đã ý

thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Trong khi đó, đa số các công ty nước

ngoài đều có hệ thống công nghệ thông tin tiến tiến. Họ không chỉ có khả năng

tài chính để đầu tư hàng triệu đô la vào một phần mềm, mà họ còn được thừa

hưởng sự hỗ trợ kỹ thuật từ công ty mẹ trong việc chọn lựa các phần mềm chuẩn

51

và hoạt động hiệu quả.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Tăng cường đầu tư phát triển công nghệ thông tin thực sự là khó khăn đối

với các công ty trong nước quy mô nhỏ. Trước hết đây là một khoản chi phí lớn.

Vấn đề này có hai mặt. Thứ nhất, các công ty trong nước quy mô nhỏ không đủ

khả năng tài chính cho khoản đầu tư ban đầu này. Thứ hai, khoản đầu tư này chỉ

khả thi nếu doanh số của công ty đủ lớn để bù đắp chi phí đã bỏ ra này. Nói cách

khác, các công ty nhỏ sẽ khó có thể đạt được kinh tế quy mô. Ví dụ, một hệ

thống công nghệ thông tin có thể có giá trị tới 1,5 triệu USD. Nếu một công ty

biết rằng họ sẽ ký được 1,5 triệu hợp đồng bảo hiểm trong vòng 3 nãm tới, họ sẽ

tính phí 1 USD cho mỗi hợp đồng. Còn nếu công ty đó biết rằng họ sẽ chỉ có thể

ký được 300.000 hợp đồng trong 3 năm tới thì họ sẽ phải tính phí tới 5 USD cho

mỗi hợp đồng.

Mặc dù rất khó khăn, các công ty trong nước cũng phải tìm cách để có thể

trang bị cho mình một hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động kinh

doanh của mình. Trong môi trường cạnh tranh ngày nay, công nghệ thông tin

không chỉ phục vụ tốt cho việc chăm sóc khách hàng mà còn làm cho hoạt ðộng

kinh doanh hiệu quả hơn.

 Hạn chế của các ngành liên quan.

Hiện nay, do đại bộ phận các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu

thường bán hàng theo giá FOB, và mua hàng theo giá CIF nên ngành bảo hiểm

hàng hoá Việt Nam thất thu lớn. Doanh nghiệp đóng bảo hiểm trong nước sẽ có

nhiều thuận lợi hơn so với đóng bảo hiểm ở nước ngoài khi làm thủ tục bồi

thường. Tuy nhiên, hầu hết các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam

hiện chưa quan tâm đến điều này, hay nói cách khác, họ chưa thấy được những

lợi ích của việc giành được quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm.

Ngoài ra, mặc dù Việt nam có tiềm năng thiên nhiên ưu đãi để phát triển kinh tế

hàng hải, tuy nhiên hàng hoá Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu thô và gia công

52

nên bị lép vế, kém lợi thế cạnh tranh. Các doanh nghiệp lại chưa có nhiều kinh

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nghiệm buôn bán quốc tế nên dẫn đến khách hàng không những ép về giá mà

còn bị ép về việc giành quyền thuê tàu và mua bảo hiểm.

Về ngành vận tải, chất lượng dịch vụ của đội tàu Việt Nam chưa cao, theo

thống kê, đội tàu biển Viễn dương Việt Nam có tuổi tàu bình quân khá cao_18,5

tuổi, thậm chí có tàu trên 30 tuổi. Hàng hoá nếu được chuyên chở trên những con

tàu của Việt Nam sẽ gặp nhiều rủi ro. Bên cạnh đó, giá cước vận tải ở Việt Nam

rất cao nên chưa có tính cạnh tranh. Nguyên nhân chính khiến giá cước cao là do

đội tàu của ta có tuổi già, lạc hậu nên mức tiêu hao nhiên liệu cao, chi phí cho

sửa chữa lớn. Ngoài ra, các tàu của Việt Nam chủ yếu vận chuyển theo từng

chuyến, nên khả năng bố trí vận tải hàng hai chiều hoặc kế hoạch khai thác,

không để tàu chạy trống là rất khó. Trừ tàu container có hiệu quả sử dụng cao

hơn, còn tàu chở hàng rời thì thường khai thác hiệu quả 60% là tối đa để có hàng

hai chiều. Chính khó khăn về nguồn hàng lại tiếp tục là một trong những nguyên

nhân làm tăng chi phí vận tải, kéo theo giá thành vận tải tăng theo. Trong khi đó,

tuổi của các tàu nước ngoài trẻ hơn, trọng tải lớn hơn, tốc độ nhanh hơn và tác

phong làm việc công nghiệp hơn. Chỉ tính riêng về giá cước, các chủ hàng sẽ có

xu hướng chọn các đội tàu nước ngoài khi vận chuyên và bắt buộc phải mua bảo

hiểm của các công ty bảo hiểm nước ngoài đối với hàng hoá xuất khẩu. Hiện nay

vận chuyển bằng đường biển chiếm tới 80% tổng nhu cầu vận tải hàng hoá xuất

nhập khẩu của Việt Nam nhưng đội tàu trong nước nhận được ít hợp đồng vận

tải. Trên thực tế mới đảm nhận vận chuyển được khoảng trên dưới 13% khối

lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, phần lớn do các đội tàu nước ngoài thực hiện.

 Sự phối hợp của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc còn yếu.

Thị trường bảo hiểm Việt Nam còn rất bé, dịch vụ chưa nhiều, việc hợp tác

giữa các doanh nghiệp bảo hiểm còn chưa chặt chẽ, việc tái bảo hiểm cho nhau

giữa các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay còn rất nhỏ so với chuyển

53

nhượng tái bảo hiểm ra nước ngoài, điều này làm thiệt thòi cho chính các doanh

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung và hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng

hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển nói riêng và không tăng cường được sức

mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam bằng nguồn vốn giữ lại trong

nước.

 Môi trƣờng pháp lý chƣa chặt chẽ.

Do hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm chưa

hoàn chỉnh nên dẫn đến việc cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp

bảo hiểm Việt Nam. Chẳng hạn như hạ phí bảo hiểm, hoặc dùng các biện pháp

hành chính để ép buộc khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty bảo hiểm này

hoặc các công ty bảo hiểm khác. Có công ty còn dùng biện pháp nâng hoa hồng

bảo hiểm cho một số doanh nghiệp Nhà nước để giành dịch vụ.

III. Những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh

vực kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đƣờng

biển sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.

1. Cơ hội.

Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO mở ra cho các

doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

những cơ hội tốt để phát triển.

Thứ nhất, trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ

giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng

đường biển tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành, góp phần

thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước.Từ năm 1993

54

đến nay, sau gần 14 năm mở cửa, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã vừa

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

học tập được nhiều kinh nghiệm và tự nâng cao năng lực để cạnh tranh sòng

phẳng với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam,

vừa phát huy lợi thế chủ nhà, lại thêm thế mạnh chiều sâu tâm lý, doanh nghiệp

bảo hiểm Việt Nam đã tìm đường tiến sâu, tiến rộng vào thị trường. Thị trường

bảo hiểm Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự tham gia của những tên

tuổi lớn về bảo hiểm như AIG (Mỹ), Prevoir (Pháp), ACE Life (Mỹ), New York

Life (Mỹ), và mới đây thêm sự kiện tập đoàn Daiichi (Nhật Bản) mua lại Bảo

Minh CMG. Tuy nhiên, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam vẫn phát triển

mạnh và luôn dẫn đầu thị trường như Bảo Việt Việt Nam, Bảo Minh, Pjico, PV

Insurance. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã thích nghi với mở

cửa hội nhập, chấp nhận cạnh tranh sòng phẳng với các doanh nghiệp nước

ngoài. Quá trình cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng

hoá xuất nhập khẩu trưởng thành và phát triển toàn diện hơn.

Thứ hai, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại Việt Nam

là một nghiệp vụ phát triển rất tiềm năng. Kể từ thời điểm Việt Nam chính thức

trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 11 tháng 1

năm 2007 đến nay, tình hình của dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã

có những thay đổi đáng kể. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam bằng

đường biển trong 6 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt trên 160 tỷ VND phí_ tăng

21% so với cùng kỳ này năm trước. Nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đã ví

von việc kinh doanh bảo hiểm hàng hoá ở Việt Nam như là một mảnh đất màu

mỡ. Do đó, trong những năm tới, Việt Nam sẽ là một thị trường hấp dẫn cả về

nhu cầu bảo hiểm và tái bảo hiểm. Đồng thời bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

sẽ có tính cạnh tranh mạnh mẽ hơn, với sự tham gia của các tập đoàn, các công

ty bảo hiểm nước ngoài. Và đó chính là cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp

55

bảo hiểm Việt Nam.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Thứ ba, khi tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO, việc trao đổi

thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và các nước sẽ được đẩy mạnh, luồng vốn

đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được tăng lên là tiền đề quan trọng để làm tăng

nhu cầu bảo hiểm và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng thị

trường. Theo Bộ thương mại, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá,

hiện đại hóa, do đó phải nhập khẩu nhiều thiết bị công nghệ và nguyên liêu đầu

vào của một số ngnàh có tỷ trọng lớn trong xuất khẩu diệt may, điện tử, đồ gỗ...

Đồng thời, Việt Nam lại là nước có nhiều mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh như

gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều, thuỷ sản... Việc tham gia tổ chức thương

mại thế giới WTO sẽ là cơ hội tốt làm tăng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu

của Việt Nam, do đó sẽ tác động tích cực vào nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm

hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển.

Thứ tư, việc tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ góp phần làm

cho hệ thống chính sách pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phù

hợp với thông lệ quốc tế hơn. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các đối tác kinh

doanh yên tâm đầu tư và làm ăn với doanh nghiệp Việt Nam. Qua đó sẽ tăng khả

năng thu hút vốn, công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý và gia tăng thương

mại, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp.

Như vậy, trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới

WTO sẽ mang lại cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất

nhập khẩu bằng đường biển cơ hội để phát triển và thay đổi cơ cấu để nâng cao

năng lực cạnh tranh của mình.[10]

2. Thách thức.

Yêu cầu quan trọng khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và

tham gia các khu vực mậu dịch tự do là tiến hành từng bước mở của thị trường

56

hàng hoá trong nước. Cụ thể, khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO,

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

hầu hết các dịch vụ tài chính đều cam kết mở cửa rộng rãi và các doanh nghiệp

nước ngoài có thể tham gia thị trường Việt Nam với hình thức đầu tư 100% vốn

trong thời gian tối đa là 5 năm. Hiện nay, đối với lĩnh vực bảo hiểm, Việt Nam

đã cam kết cho phép các công ty bảo hiểm hoạt động tại nước ngoài được cung

cấp dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dịch vụ

tái bảo hiểm, dịch vụ bảo hiểm đối với vận tải quốc tế...

Nhìn chung, việc mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm có tác động tích cực

về nhiều mặt đối với thị trường bảo hiểm trong nước. Việc gia nhập tổ chức

thương mại thế giới WTO đã mang lại cho ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung

và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng

nhiều cơ hội. Tuy nhiên, điều này thì cũng đặt ra cho bảo hiểm hàng hoá xuất

nhập khẩu rất nhiều thách thức:

Thứ nhất, thách thức lớn nhất mà các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước

với năng lực về công nghệ, vốn còn yếu và bé phải đối mặt đó là sự cạnh tranh

gay gắt trên thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng

đường biển do có sự gia nhập ngày càng nhiều của các doanh nghiệp bảo hiểm

nước ngoài, với tiềm lực tài chính vững mạnh, kinh nghiệm hoạt động lâu đời

trên phạm vi toàn cầu và trình độ chuyên môn hơn hẳn. Khi gia nhập tổ chức

thương mại thế giới WTO, theo các cam kết đã ký, và trước sức ép hội nhập,

Việt Nam phải tiến hành mở cửa thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm

hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển nói riêng. Đây là cơ hội

tốt cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài từ trước đến nay luôn khao khát

tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam. Điều này thật dễ hiểu vì thị trường

bảo hiểm Việt Nam đầy hứa hẹn khi nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, các chỉ

tiêu kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 rất sáng sủa và hấp dẫn.

Thứ hai, một khó khăn nữa mà các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm

hàng hoá xuật nhập khẩu sẽ phải đối mặt trong thời gian tới đó là vấn đề kinh

57

nghiệm quản lý điều hành kinh doanh và kỹ thuật khai thác sản phẩm bảo hiểm

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, đặc biệt là về kinh

nghiệm quản lý vốn, kinh nghiệm về quản lý rủi ro và kỹ thuật về quản lý rủi ro.

Các nhà quản lý các công ty bảo hiểm trong nước có thể đã ở vị trí quản lý trong

một thời gian dài, nhưng họ lại thiếu kinh nghiệm về kinh tế thị trường. Cách

quản lý theo mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn ảnh hưởng tới

hoạt động của các công ty trong nước. Đưa ra quyết định chậm, phạm vi trách

nhiệm không rõ ràng, bộ máy tổ chức cồng kềnh, công nghệ quản lý lạc hậu hơn

nhiều so với các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài việc thiếu

những quy định cụ thể về phạm vi công việc, giới hạn trách nhiệm, hiệu quả hoạt

động, lương, thưởng…, đa số các doanh nghiệp trong nước còn chưa chuẩn hoá

được tác phong phục vụ khách hàng, văn hoá ứng xử với khách hàng, mà chủ

yếu dựa vào sự nhanh nhạy của từng nhân viên, điều này không chỉ ảnh hưởng

tới chất lượng dịch vụ khách hàng mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của

chính công ty bảo hiểm. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nhất là khi Việt

Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, các doanh

nghiệp bảo hiểm Việt Nam cần phải làm sao để quản lý và cân bằng rủi ro mà họ

đảm nhận, cũng như làm thế nào để quản lý vốn của họ đã trở thành một vấn đề

cực kỳ quan trọng.

Thứ ba, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ không còn sự bảo hộ của

nhà nước nữa. Trong kinh doanh bảo hiểm không có sự phân biệt đối xử giữa các

doanh nghiệp bảo hiểm trong nước với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Một

số doanh nghiệp bảo hiểm thuộc lĩnh vực sở hữu nhà nước sẽ tiến hành cổ phần

hoá, trong đó sức ép chia lãi cổ đông không phải là nhỏ nếu kinh doanh bảo hiểm

và đầu tư hiệu quả.

Thư tư, dự báo vấn đề chảy máu chất xám từ doanh nghiệp bảo hiểm trong

nước sang doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với thu nhập cao cũng là điều

đáng quan tâm. Cạnh tranh về nhân lực giữa các công ty bảo hiểm sẽ diễn ra sôi

động, khi các công ty bảo hiểm nước ngoài tham gia thị trường sẽ tìm mọi cách

lôi kéo các nhân lực có kinh nghiệm và kiến thức của các doanh nghiệp trong

58

nước.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Thứ năm, với khả năng tài chính rất mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm

nước ngoài sẽ tìm mọi cách trong đó có tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mại,

khuyếch trương sản phẩm, hạ phí bảo hiểm để gây uy tín và chiếm lĩnh thị

trường. Hiện tại mức phí bảo hiểm Việt Nam vẫn còn khá cao, do đó các doanh

nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khá vất vả khi gặp những tập đoàn

bảo hiểm toàn cầu có mức phí rất thấp.

Thứ sáu, mức độ cạnh tranh cao có thể dẫn đến hiện tượng liên kết giữa các

công ty bảo hiểm lớn, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ, ảnh hưởng tới sự cạnh

tranh lành mạnh của thị trường, gây thiệt hại cho công ty vừa và nhỏ.

Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt nền kinh tế nước ta trước những

thách thức mới. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất

nhập khẩu cũng có nhiều tiềm năng để phát triển, qua đó đóng góp vào việc thực

hiện các mục tiêu đã đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm VN

đến năm 2010, đồng thời hỗ trợ thiết thực cho hoạt động kinh doanh của các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này đòi hỏi một sự nỗ lực của các Doanh

nghiệp bảo hiểm, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và cơ quan chức năng. [10]

3. Những cam kết ảnh hưởng tới dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

vận chuyển bằng đường biển của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại

thế giới WTO.

Thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, thị

trường bảo hiểm Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh cả về quy mô, chất lượng và

cả sự ổn định trong thị trường tài chính nói chung.

Theo Bộ Tài chính, tác động của các cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm

trong tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO củaViệt Nam có thể

được nhìn nhận từ hai khía cạnh, tác động tích cực và tiêu cực.

Quá trình hội nhập sẽ làm giảm chi phí dịch vụ, chất lượng dịch vụ được

nâng cao, năng lực thị trường được mở rộng, công nghệ quản lý mới được

59

chuyển giao, trình độ đội ngũ cán bộ được nâng cao…

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Nhưng việc thực hiện các cam kết cũng dẫn đến khả năng gây bất ổn định

nói chung của thị trường tài chính, mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế

nhà nước, hệ thống quy định quản lý chưa theo kịp được với mức độ mở cửa thị

trường…

3.1. Cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới.

Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương

mại thế giới WTO, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ được phép cung

cấp các dịch vụ đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo hiểm và đặc

biệt là được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn

đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam.

Trong thời gian đầu, các cam kết này có thể sẽ ảnh hưởng mạnh tới một số

loại hình bảo hiểm phi nhân thọ trong đó có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

vận chuyển bằng đường biển. Tuy nhiên, trong thời gian trung hạn thì với sự lớn

mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong nước (xét về mặt uy tín

và năng lực tài chính) thì các cam kết này không có ảnh hưởng nhiều, một phần

do tâm lý khách hàng thường có thiên hướng lựa chọn cho doanh nghiệp bảo

hiểm có trụ sở tại Việt Nam, là những doanh nghiệp nắm thông tin về rủi ro tốt

nhất, do đó, có khả năng bảo hiểm tốt nhất. Mặt khác, các doanh nghiệp bảo

hiểm nước ngoài thông thường cũng muốn thành lập pháp nhân để cung cấp dịch

vụ tốt hơn.

3.2. Cam kết hiện diện thƣơng mại.

Có thể nói, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh doanh

dịch vụ bảo hiểm là những cam kết mang tính chất tự do hoá thị trường bảo hiểm

và có ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đã hoạt động

trên thị trường cũng như tới tình hình chung của thị trường.

Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài

tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng

lực khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng

60

đường biển của thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên thị phạm vi quốc tế sẽ giúp

chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào tạo đội ngũ các bộ trong

nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tại Việt Nam.

Có thể nói, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia

vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng thể cho thị

trường. Tuy nhiên, song song với khía cạnh tích cực như vậy, điều kiện thị

trường bảo hiểm với sự có mặt của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài

cũng sẽ đặt ra một số vấn đề như cạnh tranh không lành mạnh, hệ thống pháp lý

chưa đủ mạnh để kiểm soát hoạt động đa dạng của các doanh nghiệp này. Song,

các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù hợp trong

công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường.

3.3. Cam kết xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc sau 1 năm.

Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm ra nước

ngoài đều phải thực hiện tái bảo hiểm bắt buộc tối thiếu 20% với Tổng công ty

cổ phần tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE). Vì vậy thực hiện cam kết

xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc này sẽ có tác động kép, trước tiên là ảnh

hưởng tới hoạt động của VINARE, đồng thời ảnh hưởng đến tổng chi phí giữ lại

của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.

Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường, cam kết này nếu

được áp dụng chung sẽ tạo điều kiện cho họ linh hoạt hơn trong công tác tái bảo

61

hiểm và tạo điều kiện tái bảo hiểm có lợi hơn xét về mặt kinh tế.[13]

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Ch ¬ng III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH

CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ

BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC

THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO.

I. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam khi gia nhập tổ chức

thƣơng mại thế giới WTO.

1. Mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm hàng giai đoạn 2003-2010.

1.1. Mục tiêu chung.

Phát triển thị trường dịch vụ tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói

riêng luôn được Chính phủ Việt Nam quan tâm. Quan điểm của Chính phủ Việt

Nam về việc phát triển thị trường bảo hiểm được thể hiện rõ ràng hơn trong

chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ nay đến năm 2010 đã

được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ngày

29/08/2003 về mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm trong giai đoạn 2003-

2010:

 Phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp

ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư

 Bảo đảm cho các tổ chức cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo

hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế.

 Thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển

62

kinh tế và xã hội.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

 Nâng cao năng lực tài chính, kinh tế của các doanh nghiệp hoạt động

kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế.

 Nhà nước quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo pháp

luật Việt Nam và phù hợp với nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế.[7]

1.2. Một số chỉ tiêu cụ thể.

Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó

bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn

ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% và năm 2005 và 4,2% năm 2010. Đến năm

2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12

lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002.

Tạo công ăn việc làm cho khoảng 150.000 người vào năm 2010. Nộp ngân

sách nhà nước giai đoạn 2003-2010 tăng bình quân 20%/năm. {7]

2. Dự báo nhu cầu trên thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên

chở bằng đường biển.

Tình hình xuất nhập khẩu ở VN có chiều hướng tăng đáng kể trong 10

năm qua. Từ 18.398 triệu USD năm 1996, đến năm 2006 đã đạt 84.015 triệu

USD.

Bộ Thương mại đã đưa ra đề án “Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-

2010”, trong đó đề ra mục tiêu tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung

bình cả giai đoạn 2006-2010 đạt mức 17,5%/năm với tổng giá trị kim ngạch ước

tính đạt gần 272 tỷ USD.

Nền kinh tế phát triển kéo theo kim ngạch xuất nhập khẩu ngày một tăng.

Việt Nam đang trên con đường hiện đại hoá nền kinh tế, không ngừng thu hút

63

vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, lẽ tất nhiên nhu cầu nhập khẩu công nghệ,

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sẽ tăng thậm chí sẽ dẫn đến nhập siêu. Kim

ngạch nhập khẩu lớn hơn kim ngạch xuất khẩu một chút là phù hợp với thời kỳ

công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhà. Năm 2006, Việt Nam đạt kim ngạch

nhập khẩu lên tới khoảng 44.410 triệu USD và giữ vững mức độ tăng trưởng xấp

xỉ 20,41%/năm cùng với tăng kim ngạch xuất khẩu.

Ngày 9/10/2007, tại thành phố Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Công thương

Nguyễn Thành Biên đã chủ trì cuộc họp giao ban với các tỉnh, thành, doanh

nghiệp (DN) phía Nam về tình hình xuất nhập khẩu 9 tháng đầu năm 2007, dự

báo xuất khẩu cả năm và định hướng xuất khẩu năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu

9 tháng qua tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đạt 35,2 tỷ USD, tăng 19,4%

so với cùng kỳ năm 2006. Mục tiêu đặt ra cho 3 tháng cuối năm, xuất khẩu phải

đạt 12,9 tỷ USD để hoàn thành kế hoạch xuất khẩu 48,1 tỷ USD trong năm 2007,

tăng 20,5% so với năm 2006. Các mặt hàng thủy sản, dệt may, giày dép, điện tử,

linh kiện điện tử, gỗ có tốc độ tăng trưởng cao và kim ngạch lớn. Cà phê, hạt

tiêu, sản phẩm nhựa có kim ngạch xuất khẩu vượt kế hoạch.

Theo Bộ Công thương, để hạn chế nhập siêu, đảm bảo GDP tăng trưởng

trên 8% trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm này phải

đạt 58,6 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2007. Theo đó, dệt may sẽ dẫn đầu kim

ngạch xuất khẩu trong năm 2008, với mục tiêu đạt 9,45 tỷ USD. Kế đến là dầu

thô đạt 7,74 tỷ USD, giày dép trên 5 tỷ USD, thủy sản trên 4,1 tỷ USD, điện tử

và linh kiện điện tử 3,6 tỷ USD, gỗ 3 tỷ USD...

Việt Nam đang trong quá trình CNH, HĐH do đó phải nhập khẩu nhiều

thiết bị công nghệ và nguyên liệu đầu vào của một số ngành công nghiệp có tỷ

trọng lớn trong xuất khẩu như dệt may, điện tử, đồ gỗ… Đồng thời, Việt Nam lại

là nước có nhiều mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh như gạo, cà phê, cao su, hồ

64

tiêu, hạt điều và thuỷ sản. Với những lợi ích từ việc gia nhập tổ chức thương mại

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

thế giới WTO, ngành thương mại nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng của

Việt Nam sẽ có cơ hội tốt để tăng trưởng và phát triển.

Bên cạnh các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì ngành hàng hải

Việt nam trong thời gian qua cũng đã đầu tư xây dựng mới và đưa vào khai thác

có hiệu quả các công trình cảng đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của hàng hoá

thông qua cảng biển. Đến năm 2005 ngành đã có 126 bến cảng, 266 cầu cảng.

Với hơn 80 % khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt nam được vận

chuyển bằng đường biển thông qua các cảng trong toàn quốc, ngành vận tải biển

đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.

Ngoài ra, việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt nam cũng là

nhân tố thúc đẩy phát triển xuất nhập khẩu. Khối lượng hàng hoá thông qua cảng

biển của Việt nam dự báo đến năm 2010 đạt khoảng 215 triệu tấn, tốc độ phát

triển trong ngành vận tải biển là khá cao, hứa hẹn nhiều cơ hội cho các doanh

nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ vươn lên theo hướng mở rộng đầu tư gia tăng năng

lực dịch vụ và khai thác thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên

chở bằng đường biển.

Qua các số liệu trên, có thể thấy thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập

khẩu chuyên chở bằng đường biển của Việt Nam đang có rất nhiều tiềm năng để

phát triển. Với tốc độ tăng trưởng nhanh của hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt

Nam, thì nhu cầu về bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung và hàng

hoá xuất nhập khẩu chuyển chở bằng đường biển nói riêng là rất lớn. Nhất là khi

hàng hoá vận chuyển bằng đường biển chiếm hơn 80% lượng hàng hoá xuất

nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, do thói quen xuất theo điều kiện FOB, và

nhập theo điều kiện CIF của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nên

ngành bảo hiểm hàng hoá Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh. Hiện nay chúng

ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế tổ chức

65

thương mại thế giới WTO, vì thế, Nhà nước sẽ thúc đẩy việc mở cửa thị trường

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

bảo hiểm, cho phép nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài tham gia cung cấp dịch

vụ bảo hiểm tại Việt nam. Do đó, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm hàng

hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển sẽ tăng, và doanh nghiệp Việt

nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi phải đương đầu với các doanh nghiệp bảo

hiểm nước ngoài với tiềm năng tài chính lớn và có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh

vực bảo hiểm trong khi đó sự bảo hộ của nhà nước ngày càng bé đi.

Chính vì vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh thì nhà nước và các doanh

nghiệp bảo hiểm phải có những chính sách và chiến lược phát triển phù hợp

ngay từ bây giờ.

II. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về việc phát triển, hội nhập của bảo

hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đƣờng biển của Việt Nam sau khi gia

nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.

Để khai thác các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển thị trường

bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển của Việt Nam. Chính phủ

đã đưa ra một số quan điểm thực hiện. Trong giới hạn Khoá luận tốt nghiệp, tác

giả chỉ đề cập đến một số quan điểm liên quan đến năng lực cạnh tranh của các

doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và quan điểm về hội nhập thị trường của bảo

hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển của Việt Nam với

thị trường bảo hiểm quốc tế.

1. Quan điểm của Chính phủ về nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh

nghiệp trong nước kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyển

chở bằng đường biển.

 Tìm các biện pháp để tăng vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo

66

hiểm phi nhân thọ trong nước nhằm nâng cao năng lực tài chính.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Hiện nay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam có số

vốn thấp hơn mức vốn pháp định (theo yêu cầu luật Kinh doanh bảo hiểm).

Chính phủ đã yêu cầu các doanh nghiệp có lộ trình tăng vốn thông qua việc ban

hành Nghị định 46/2007/NĐ-CP đã sửa đổi quy định về tăng vốn pháp định và

quy định thống nhất vốn góp bằng đồng Việt Nam tại Điều 4 (Vốn pháp định).

Theo đó mức vốn pháp định của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ

là 300 tỷ đồng, môi giới bảo hiểm là 4 tỷ đồng. Theo giải trình của Ban soạn

thảo thì mức vốn pháp định quy định tại Nghị định 43 là tương đối thấp, sau khi

đã bù đắp các chi phí thành lập và mua sắm tài sản cố định, phần còn lại khó bảo

đảm được an toàn tài chính theo cam kết với bên mua bảo hiểm và không có

nguồn để đầu tư theo chiều sâu. Mặt khác, mức vốn pháp định thấp chưa đảm

bảo vai trò là bộ lọc trong quá trình cấp phép để lựa chọn được các nhà đầu tư có

năng lực tài chính tốt, thực sự muốn kinh doanh bảo hiểm lâu dài. Việc tăng mức

vốn pháp định nhằm đảm bảo sự ổn định của thị trường, tăng cường năng lực

cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, từng bước làm cho các

doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có khả năng cạnh tranh quốc tế. Điều này phù

hợp với xu hướng hội nhập quốc tế.

 Chính phủ cũng có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp trong

nước hiện đại hoá công nghệ thông tin, trình độ quản lý, nâng cao trình độ cán bộ.

Tổ chức sắp sếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ hiện có nhằm

phá vỡ thế độc quyền ngành, nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Một trong

những yếu tố chủ yếu dẫn đến những hạn chế trong khả năng cạnh tranh của các

doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng là mô hình chưa hợp lý đã dẫn đến

sự trì trệ và kém nhạy bén khi môi trường thay đổi. Trong khi đó, quy luật cạnh

tranh trong nền kinh tế thị trường lại rất khắc nghiệt và vấn đề chuyển đổi các

67

doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước đã được Chính phủ kịp thời nhìn nhận là một

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

yếu tố quyết định để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo

hiểm Việt Nam trong những năm tới.

 Mô hình liên kết các doanh nghiệp bảo hiểm lớn trên thế giới với các

doanh nghiệp bảo hiểm trong nước thông qua quan hệ cổ đông sẽ là một hướng

phát triển đôi bên cùng có lợi và giúp các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ

Việt Nam tiếp tục duy trì những khách hàng đã tham gia ký kết hợp đồng bảo

hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, nhất là khi trên thị

trường đang diễn ra các cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt.

2. Quan điểm trong hội nhập thị trường bảo hiểm trong nước với thị trường

bảo hiểm quốc tế khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.

 Quan điểm khuyến khích đầu tư nước ngoài

Hiến pháp của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật đầu tư

nước ngoài đã thể hiện rõ quan điểm của Chính phủ Việt Nam trong thu hút vốn

đầu tư nước ngoài và phát triển hội nhập. Quan điểm phát triển ngành bảo hiểm

là thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế

xã hội; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp kinh

doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, đáp ứng

yêu cầu cạnh tranh quốc tế. Việc cấp phép hoạt động cho các doanh nghiệp bảo

hiểm nước ngoài vẫn được thực hiện theo cam kết hội nhập tổ chức thương mại

thế giới WTO. Nghị định 45-46 sửa đổi Nghị định số 42-43 và các thông tư

hướng dẫn về hoạt động kinh doanh bảo hiểm được ban hành cùng với các cam

kết của Việt Nam về gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO có hiệu lực từ

68

1/1/2007, đã tạo nhiều cơ hội cho hoạt động khai thác dịch vụ của các doanh

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tính đến tháng 6 năm

2007, trong số 22 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

chuyên chở bằng đường biển tại Việt Nam thì có 9 doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài và chiếm hơn 84% thị phần bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

chuyên chở bằng đường biển. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài hiện đang

hoạt động, chính phủ đã từng bước cho phép mở rộng phạm vi hoạt động. Các

doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài đã được phép cung cấp dịch vụ

bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển cho các khách

hàng trong nước.

 Quan điểm tham gia hội nhập quốc tế

Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức quốc tế WTO,

chính vì thế mà hiện nay Chính phủ đang thực hiện tiến trình hội nhập ngành bảo

hiểm bằng cách đẩy mạnh việc thực hiện các cam kết thực hiện các hiệp định

thương mại song phương và đa phương.

Chính phủ sẽ từng bước tạo sự bình đẳng về điều kiện kinh doanh giữa các

doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và ngoài nước. Việc tháo bỏ các hạn chế về

thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đã được thực hiện đúng

theo cam kết trong các hiệp định thương mại và chủ trương mở cửa thị trường

của chính phủ, theo đó Việt Nam cho phép các công ty bảo hiểm hoạt động tại

nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư

nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, dịch vụ tái bảo hiểm, dịch

vụ bảo hiểm đối với vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ về

định phí, tư vấn.. Cũng theo các cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới

WTO, không có hạn chế nào đối việc thành lập pháp nhân của công ty bảo hiểm

nước ngoài, ngoại trừ dịch vụ bảo hiểm bắt buộc sẽ chỉ được mở cửa cho công ty

69

100% vốn nước ngoài vào đầu nãm 2008. Về chi nhánh, cho phép công ty bảo

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

hiểm nước ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ khi

gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.

III. Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các

doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở

bằng đƣờng biển.

1. Nhóm giải pháp vĩ mô.

Mặc dù hiện nay, luật kinh doanh bảo hiểm ra đời và có hiệu lực đánh dấu

một bước ngoặt mới trong hoạt động bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hoá

xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển nói riêng. Nhưng trên thị trường

với sự ra đời của nhiều công ty, các văn phòng đại diện của công ty bảo hiểm

nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã diễn ra sự cạnh tranh rất

mạnh mẽ, đôi khi có sự cạnh tranh không lành mạnh. Đã có nhiều trường hợp

các công ty để có được các hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên

chở bằng đường biển có giá trị lớn đã đưa ra những mức phí tối thiểu của Bộ tài

chính quy định. Nhưng dịch vụ này không những làm tổn hại đến các công ty

kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển của

Việt Nam, làm thất thoát cho Ngân sách nhà nước mà còn là một sự vi phạm

pháp luật Việt Nam một cách công khai, nghiêm trọng. Do đó, nếu không có

những chính sách phù hợp sẽ gây khó khăn cho hoạt động bảo hiểm hàng hoá

xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển của các doanh nghiệp trong nước.

1.1. Hoàn thiện khung khổ pháp lý, tăng cƣờng hiệu lực quản lý nhà nƣớc

về kinh doanh bảo hiểm.

Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn bước đầu tạo lập

khung khổ pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.

Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trên các phương diện: tạo lập

70

khung khổ thị trường, môi trường kinh doanh; yêu cầu quản lý, giám sát trong

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

điều kiện mới khi tham gia Tổ chức Thương mại thế giới thì hệ thống các văn

bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm hiện hành cần sớm được rà soát, đánh giá

để có kế hoạch điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu lực

pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ, cụ thể, minh bạch nhằm đạt mục tiêu phù hợp

với thực tiễn và các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế. Luật cần bảo đảm, tăng

cường quyền tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các doanh nghiệp. Chủ động

giảm thiểu tối đa sự can thiệp trực tiếp và hành chính từ phía Nhà nước vào hoạt

động kinh doanh của các doanh nghiệp. Do áp lực cạnh tranh ngày càng khốc

liệt, làm cho hoạt động thị trường có xu hướng trở nên phức tạp, vì vậy cần ưu

tiên tạo lập cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn thể chế giám sát, hoàn thiện hệ

thống chuẩn mực quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp và thị trường

thực sự có hiệu quả. Để đảm bảo cho thị trường bảo hiểm phát triển ổn định

trong bối cảnh hội nhập quốc tế cần kiện toàn bộ máy, tăng cường năng lực toàn

diện cho cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.

Trong thời gian qua, những chính sách quản lý hoạt động bảo hiểm hàng

hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển của nhà nước ta đã phát huy

tác dụng tích cực trong việc kiểm soát cũng như mở rộng thị trường và thu hút

các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều mặt hạn chế trong

công tác này. Điển hình như việc các doanh nghiệp kinh doanh nước ngoài

thường có xu hướng mua bảo hiểm ở nước ngoài thay vì mua bảo hiểm tại Việt

Nam. Do đó, nhà nước ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh

bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, không ngừng

liên hệ, theo dõi thay đổi hệ thống pháp luật quốc tế về bảo hiểm hàng hoá xuất

nhập khẩu để bổ sung, tránh những tranh chấp đáng tiếc xảy ra. Cụ thể, Việt

Nam cần điều chỉnh sửa đổi các bộ luật như luật đầu tư, luật hàng hải... để các

71

công ty bảo hiểm thuận lợi kinh doanh trên thị trường bảo hiểm.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Bên cạnh đó, nhà nước cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích các

công ty xuất nhập khẩu ký kết hợp đồng theo điều kiện xuất khẩu CIF, nhập

khẩu FOB hoặc C&F như: giảm thuế xuất nhập khẩu cho chủ hàng nào tham gia

bảo hiểm tại Việt Nam, hoặc giảm thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng, giảm

thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn ngạch xuất nhập khẩu cao hơn so

với những chủ hàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam… Như trên đã phân

tích, điều kiện giao hàng có tác dụng chủ yếu đến phân định trách nhiệm giữa

các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, còn ý nghĩa kinh tế

không rõ ràng. Với các chính sách ưu đãi trên, các công ty xuất nhập khẩu sẽ chủ

động hơn trong đàm phán ký kết, thực hiện phương thức xuất khẩu theo điều

kiện CIF, nhập khẩu theo điều kiện FOB hoặc C&F tạo cơ sở nâng cao tỷ trọng

hàng hóa xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước, đồng thời thúc đẩy

ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển.

1.2. Tạo đƣợc sự liên kết giữa các ngành thƣơng mại, vận tải và bảo hiểm.

Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy, không cần phải đợi các

công ty bảo hiểm lớn mạnh, đủ tàu thuyền và đội ngũ thuỷ thủ hàng hải mạnh

mới thực hiện quyền vận chuyển và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu mà trong

quá trình mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại, phải coi trọng việc hợp tác

chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau của ba ngành: bảo hiểm, vận tải và thương mại.

Hiện nay chúng ta đã có những mô hình Tổng công ty, Hiệp hội ngành

hàng chuyển chở một ngành hàng nhất định như gạo, chè, cà phê, cao su...Các tổ

chức này nên giám sát chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu của các thành viên, kết

hợp lại với nhau để thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm nhằm giảm được

cước phí chuyên chở cũng như phí bảo hiểm. Những tổng công ty có nguồn hàng

lớn và ổn định như than, dầu thô... càng cần phải hỗ trợ cho các đội tàu quốc gia

72

và ngành bảo hiểm trong nước.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Để giải quyết căn bản vấn đề trên, nên chăng các nhà bảo hiểm, các chủ

hàng xuất nhập khẩu, các nhà vận chuyển hàng hải cần phải có sự trợ giúp của

Nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi của phía Việt

Nam trong hoạt động vận chuyển và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên

chở bằng đường biển.

1.3. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các văn phòng đại diện của các công

ty bảo hiểm nƣớc ngoài tại Việt Nam.

Sau khi nhà nước ban hành nghị định 100/CP của chính phủ về kinh doanh

bảo hiểm và ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm, đã có rất nhiều văn phòng đại diện

các công ty, tổ chức bảo hiểm ở nhiều nước trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam,

trong đó có những tập đoàn bảo hiểm lớn như: AON (Hoa Kỳ), Cigna (Hoa Kỳ),

SWiss Re (Thuỵ Sỹ), Munich Re (Đức)... Đây là dấu hiệu chứng tỏ thị trường

bảo hiểm Việt nam đã phong phú hơn tạo được nhiều sự cạnh tranh hơn giữa các

công ty. Tuy nhiên, bên cạnh đó bắt đầu phát sinh một số tiêu cực hạn chế. Một

số công ty nước ngoài dựa vào văn phòng của họ để kinh doanh sai mục đích,

mặc dù họ đều biết điều đó đã vi phạm pháp luật Việt Nam. Các văn phòng đại

diện này không thu môi giới phí và không cấp đơn trực tiếp cho khách hàng mà

chỉ hoạt động dưới hình thức "tư vấn", lợi ích thực chất của họ là phần chi phí

của các dịch vụ tái chỉ định cao. Những hoạt động này đã làm ảnh hưởng xấu

đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.

1.4. Đẩy mạnh việc mở rộng hợp tác quốc tế.

Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo

hướng tiếp tục mở cửa thị trường bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập. Cho

phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng nội dung, phạm vi

hoạt động, tăng vốn điều lệ, nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc

73

cấp phép thành lập cho các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

động tại Việt Nam phải phù hợp với quy mô, yêu cầu phát triển của thị trường, lộ

trình hội nhập và các cam kết quốc tế. Chú trọng đến các công ty bảo hiểm thuộc

các nước có quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam, các công ty có năng

lực tài chính, trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động bảo hiểm và có đóng

góp vào sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam.

Giảm dần sự bảo hộ của nhà nước đối với các doanh nghiệp trong nước,

tiến tới xây dựng môi trường pháp luật đảm bảo nguyên tắc minh bạch, bình

đẳng và công khai đối với mọi loại hình doanh nghiệp. Thể chế hoá các cam kết

quốc tế bằng những văn bản pháp luật cụ thể, tăng cường hợp tác quốc tế và liên

kết trong khung khổ song phương và đa phương, thực hiện các nguyên tắc và

chuẩn mực quốc tế về kinh doanh bảo hiểm

Để phát triển bền vững, nhất là trong tiến trình tăng tốc hội nhập, Việt Nam

không thể đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm một cách “ào ào”. Việc hội

nhập là một tất yếu khách quan, cũng như mở rộng hoạt động kinh doanh bảo

hiểm với đối tác nước ngoài. Song, bên cạnh nhiều cơ hội mở ra, bảo hiểm Việt

Nam phải chuẩn bị cả về thực lực lẫn tinh thần để sẵn sàng đương đầu với những

thách thức mới, nhất là với đối tác nước ngoài, đề phòng những rủi ro, bất trắc

trong hoạt động bảo hiểm của bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam gây thiệt hại

cho người tham gia bảo hiểm.

1.5. Phát huy vai trò của Hiệp hội bảo hiểm.

Có thể nói, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam ra đời đã tạo ra diễn đàn cho các

công ty kinh doanh bảo hiểm Việt Nam trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.

Hiệp hội cũng là nơi tư vấn, hỗ trợ cho các thành viên về nghiệp vụ cũng như

công tác quản lý. Để Hiệp hội ngày càng phát huy được vai trò của mình, nhà

nước cần phải thường xuyên quan tâm tới hoạt động của hiệp hội. Nhà nước cần

74

tạo điều kiện để Hiệp hội có những biện pháp lành mạnh hoá thị trường bảo

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

hiểm Việt Nam, thúc đẩy thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên

chở bằng đường biển Việt Nam phát triển đúng đường lối chính sách của Nhà

nước Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ngoài ra, Nhà nước cũng cần phải có giải pháp giúp kiện toàn bộ máy tổ

chức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam để Hiệp hội thực hiện được vai trò cầu

nối giữa doanh nghiệp bảo hiểm và các cơ quan quản lý nhà nước.

1.6. Tiếp tục tăng cƣờng huy động vốn thông qua hoàn thiện thị trƣờng

chứng khoán.

Ngành bảo hiểm có mối quan hệ mật thiết với thị trường chứng khoán. ở đa

số các nền kinh tế có ngành bảo hiểm phát triển, các công ty bảo hiểm đều được

niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đối với ngành bảo hiểm, thị trường chứng

khoán vừa đóng vai trò là kênh huy động vốn, vừa đóng vai trò cung cấp các cơ

hội đầu tư. Tại Việt Nam, một phần do môi trường pháp lý, thị trường chứng

khoán chưa thực sự thực hiện được vai trò huy động vốn của mình. Do đó, trong

bối cảnh hội nhập và phát triển này, sự cải thiện của thị trường chứng khoán,

việc cải thiện các quy định pháp lý, nỗ lực của các công ty bảo hiểm cần phải

được tiến hành đồng thời nhằm dẫn vốn từ các nhà đầu tư tới các công ty bảo

hiểm thông qua thị trường chứng khoán, và mặt khác, biến thị trường chứng

khoán thành nơi cung cấp các cơ hội đầu tư tốt cho các công ty bảo hiểm.

1.7. Một số giải pháp khác của Nhà nƣớc đối với các doanh nghiệp bảo

hiểm.

 Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm trong

nước, nhất là tập trung tăng vốn, nâng cao năng lực kinh doanh của các doanh

nghiệp. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, bảo đảm nguyên tắc an toàn, thận

trọng, phù hợp thông lệ quốc tế và định hướng hoạt động của thị trường bảo

75

hiểm Việt Nam, cần áp dụng biện pháp phù hợp cho phép tăng vốn các doanh

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nghiệp lên 14.000 tỷ đồng vào năm 2010. Hiện đại hoá và từng bước ứng dụng

công nghệ thông tin trong kinh doanh và quản trị doanh nghiệp cũng như nâng

cao trình độ chuyên môn, quản lý, xây dựng đội ngũ chuyên gia trong một số

lĩnh vực chủ yếu.

 Phát triển và sắp xếp các doanh nghiệp bảo hiểm theo hướng đa dạng

hoá các hình thức sở hữu. Chú trọng thu hút các nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực

kinh doanh bảo hiểm. Duy trì thị trường bảo hiểm hoạt động an toàn và có tính

cạnh tranh cao thông qua các giải pháp như sắp xếp lại cơ cấu các doanh nghiệp

bảo hiểm, khuyến khích hợp nhất hình thành doanh nghiệp quy mô lớn hơn, phát

triển mạnh mô hình công ty cổ phần, các tập đoàn bảo hiểm đa lĩnh vực. Cải

thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước

ngoài, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng.

 Phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, doanh nghiệp môi

giới bảo hiểm và các kênh phân phối khác. Đa dạng hoá các loại hình doanh

nghiệp môi giới bảo hiểm, Nhà nước không trực tiếp đầu tư thêm vốn vào lĩnh

vực môi giới bảo hiểm.

 Nâng cao chức năng và chất lượng giám sát của Bộ tài chính trong các

vấn đề về điều kiện, điều khoản bảo hiểm, nhận và nhượng tái bảo hiểm, hoạt

động môi giới và xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm.

Trên đây là một số kiến nghị đối với Nhà nước, Đảng và chính phủ cần

quan tâm, quán triệt thực hiện để hoạt động bảo hiểm nói chung và hoạt động

kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển nói

76

riêng hoạt động ngày càng hiệu quả và đa dạng hơn.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

2. Nhóm giải pháp mang tầm vi mô (Đối với các công ty bảo hiểm và tái bảo

hiểm).

2.1. Tăng cƣờng khả năng tài chính.

Tác động đầu tiên của sự tự do hoá bất kỳ thị trường bảo hiểm nào là sự gia

tăng về mặt số lượng các công ty bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm Việt Nam

không phải là một ngoại lệ. Mặc dù việc gia tăng số lượng công ty bảo hiểm có

thể dẫn tới gia tăng cạnh tranh, nhiều công ty quy mô nhỏ sẽ không thể cải thiện

được năng lực của toàn ngành. Để đối mặt với sự cạnh tranh của các công ty bảo

hiểm phi nhân thọ có vốn nước ngoài thuộc các tập đoàn tài chính lớn và khả

năng về vốn dồi dào, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có chiến lược riêng

cho mình để có khả năng tài chính vững chắc hơn, không chỉ để đối mặt với các

thách thức của thị trường mà còn để mở rộng và phát triển. Tuy nhiên, các minh

chứng thực tế cho thấy các công ty nhỏ sẽ bị đẩy ra khỏi thị trường hoặc chỉ giữ

được một phần phí doanh thu bảo hiểm rất nhỏ.

Trong những năm qua, sau khủng hoảng tài chính Châu á, xuất hiện xu

hướng kết hợp các dịch vụ tài chính khác nhau và hình thành nên những tập đoàn

tài chính khổng lồ. Mối quan hệ liên kết và hỗ trợ lẫn nhau giữa bảo hiểm, ngân

hàng và các dịch vụ tài chính khác đã dẫn tới việc sát nhập các ngân hàng, công

ty bảo hiểm và quỹ đầu tư đem lại lợi ích chung cho mọi công ty trong tập đoàn.

Do đó, các công ty bảo hiểm trong nước của Việt Nam cần nghiên cứu

nghiêm túc khả năng sát nhập hoặc liên kết với các tổ chức tài chính, tín dụng

Việt Nam_ là những tổ chức hiện cũng đang đối mặt với sự cạnh tranh từ các tập

đoàn nước ngoài. Việc liên minh một mặt sẽ hỗ trợ cải thiện khả năng tài chính

của các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp bảo hiểm, mặt khác tạo điều kiện

thuận lợi cho việc kết hợp các dịch vụ tài chính với nhau, nâng cao chất lượng

77

dịch vụ đối với khách hàng. Hơn nữa, đây là cách để Việt Nam có những tập

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

đoàn tài chính lớn, có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán. ở Việt Nam, các

công ty nhà nước đã cổ phần hoá như Bảo Minh hay Vinare sẽ không gặp khó

khăn gì trong việc niêm yết và hoạt động hiệu quả trên thị trường chứng khoán,

nhưng những công ty bảo hiểm nhỏ khác thị không đơn giản như vậy.

2.2. Tổ chức và đào tạo nhân sự

Tổ chức nhân sự là việc sắp xếp yếu tố nhân sự làm sao cho phù hợp với

khả năng công việc của họ. Đây là công tác quan trọng đối với các công ty, các

doanh bảo hiểm. Trong kinh doanh bảo hiểm, công tác nhân sự là công tác có

tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Nếu một công ty

thực hiện tốt công tác này thì hoạt động kinh doanh sẽ tốt. Ngược lại, nếu công

ty tổ chức nhân sự không tốt thì kéo theo hoạt động kinh doanh cũng sẽ ngày

càng giảm sút.

Như đã nói ở trên, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng

đường biển là ngành truyền thống của bảo hiểm Việt Nam và thế giới, nhưng các

nghiệp vụ của nó hết sức phức tạp, đòi hỏi các nhân viên làm việc phải có trình

độ và kinh nghiệm, thành thạo trong các quy trình làm việc, phải thường xuyên

nâng cao nghiệp vụ và học tập những nước có ngành bảo hiểm phát triển như

Mỹ, Đức, Pháp... và đặc biệt phải nắm bắt được các xu thế thay đổi trên thế giới

để phù hợp với thông lệ quốc tế.

Ở các công ty kinh doanh bảo hiểm, trình độ cán bộ công tác trong lĩnh vực

bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển chưa đồng đều

và chưa thực sự chuyên môn hoá. Do đó, hiệu quả công việc chưa cao. Trong

nhiều công ty, việc sắp xếp người không phù hợp với từng nghiệp vụ đã dẫn đến

sai sót, bất tín nhiệm đối với khách hàng làm cho công ty bảo hiểm tổn thất cả

vật chất lẫn uy tín. Khi xu thế hội nhập ngày càng tăng, hàng hoá của Việt Nam

78

ngày càng mở rộng ra thị trường nước ngoài và hàng hoá nước ngoài ngày càng

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

du nhập vào Việt nam làm cho nhu cầu mua bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

ngày càng tăng. Các công ty bảo hiểm đang nỗ lực mở rộng quy mô và các công

ty không thể chạy đua theo số lượng, đặt doanh thu lên hàng đầu mà làm mất uy

tín đối với khách hàng mua bảo hiểm. Do đó, các công ty cần chán chỉnh lại tổ

chức nhân sự, đặt sự trung thực, phẩm chất đạo đức và sự chuyên môn hoá về

nghiệp vụ lên hàng đầu.

Về thái độ làm việc, các đại lý, các nhân viên cần phải xem "khách hàng là

thượng đế", phải hướng dẫn cụ thể, chi tiết cách thức và nội dung các điều khoản

trong hợp đồng cho khách hàng để tránh sai sót, hiểu lầm khiếu kiện về sau, gây

tổn thất cho khách hàng mua bảo hiểm và các công ty bảo hiểm. Ngoài ra, các

cán bộ, nhân viên sẽ đoàn kết, làm việc có động lực, chuyên tâm cho công tác

của mình, mang nhiều hợp đồng và lợi nhuận về cho công ty nếu công ty đó có

chế độ thưởng phạt phân minh, đãi ngộ hợp lý và có các biện pháp khuyến khích

nhân viên như: nâng lương, thưởng theo doanh số hợp đồng ký kết được, làm

việc vượt kế hoạch đề ra... Ngược lại, sẽ dẫn đến tình trạng nhân viên làm việc

không nhiệt tình hăng say, ghen ghét, đố kỵ lẫn nhau sẽ dẫn đến giảm sút hiệu quả công

việc.

Công tác tổ chức nhân sự trong công ty bảo hiểm thực hiện tốt cũng sẽ

không phát huy hết được hiệu quả nếu công ty không có chiến lược thường

xuyên phát triển, đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên. Công tác đào tạo nhân lực là

vấn đề không thể xem nhẹ trong chiến lược phát triển của bất kỳ công ty nào.

Bởi nhân viên chính là những người trực tiếp tham gia thực hiện các công việc

của công ty. Đội ngũ nhân viên có làm tốt công việc của mình thì mới mang lại

uy tín và danh tiếng cho công ty, từ đó thu hút được nhiều khách hàng. Đứng về

phía khách hàng, những người mua bảo hiểm sẽ yên tâm hơn khi được làm việc,

ký kết hợp đồng với những nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao và giàu tinh thần trách

79

nhiệm.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Trước tốc độ phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính nói chung và

ngành bảo hiểm nói riêng thì cơn sốt nguồn nhân lực cho ngành nghề đặc thù

này càng gay gắt hơn. Sự khan hiếm nguồn nhân lực tài chính đã được cảnh báo

từ nhiều năm trước và sự thiếu hụt này ngày càng lớn do nhu cầu đã tăng quá

nhanh nhưng cung chuyển động không đáng kể. Vì thế giải pháp trước mắt là

phải tăng hơn nữa quy mô đào tạo. Các công ty bảo hiểm cần quan tâm đến việc

đào tạo những chuyên viên bảo hiểm giỏi, nhiều kinh nghiệp, thủ tục giải quyết

bồi thường tổn thất nhanh chóng, hợp lý và thuận tiện cho khách hàng. Cần tiếp

tục hợp tác với các tổ chức bảo hiểm trong nước và quốc tế để tổ chức lớp học,

hội thảo chuyên ngành cho cán bộ bảo hiểm. Đi đôi với việc đào tạo nâng cao

trình độ nghiệp vụ, cần phải tạo điều kiện cho nhân viên nâng cao trinh độ ngoại

ngữ, tin học phục vụ cho công tác của mình. Bên cạnh đó, các công ty cũng cần

nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác bồi thường, gắn chặt giữa công tác bồi

thường với công tác khai thác. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm cũng cần chú

trọng đến công tác tuyển dụng, làm sao có thể lựa chọn được những nhân viên

nhiệt tình và có trình độ nghiệp vụ. Do vậy, các công ty kinh doanh bảo hiểm

cần thiết phải dành một khoản nhất định hàng năm cho công tác tuyển dụng và đào tạo.

Việc ra đời thêm các công ty bảo hiểm mới sẽ làm cho thị trường bảo hiểm

Việt Nam càng thêm sôi động và cũng buộc các công ty bảo hiểm Việt Nam phải

phát huy hơn nữa nội lực của mình để tự khẳng định mình trước một thị trường

đa dạng hiện nay, đồng thời phải cải cách thêm nhiều hơn nữa khả năng cung

cấp dịch vụ phục vụ khách hàng, tạo một bước đột phá để đảm bảo kế hoạch

kinh doanh mà từng công ty bảo hiểm đã đề ra, đảm bảo duy trì tốc độ tăng

trưởng cao của mỗi công ty bảo hiểm nói riêng và toàn ngành bảo hiểm nói

chung. Các công ty bảo hiểm cũng phải củng cố lại vị trí của mình cũng như

nâng cao chất lượng phục vụ sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng để tồn tại và

80

phát triển trong xu thế hội nhập toàn cầu.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

2.3. Chính sách khách hàng

Hiện nay, trên thị trường trong nước xuất hiện nhiều công ty bảo hiểm tạo

ra sự cạnh tranh gay gắt trong tất cả các loại hình bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm

hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Với sự cạnh tranh gay

gắt đó, bên cạnh việc tập trung nhiều vào nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên bảo

hiểm, xây dựng hình ảnh để nâng cao uy tín và hiệu quả kinh doanh, các công ty

bảo hiểm cũng cần phải có chiến lược lâu dài trong duy trì quan hệ với khách

hàng. Việc duy trì quan hệ với khách hàng là một yếu tố cạnh tranh nhạy cảm.

Do đó, các công ty bảo hiểm cần đưa ra các chính sách, phương hướng cụ thể,

chi tiết lâu dài và phù hợp với tình hình, điều kiện của công ty và toàn thị trường.

Các công ty không được coi trọng những khách hàng có hợp đồng bảo hiểm lớn

mà bỏ qua, xem nhẹ các khách hàng nhỏ lẻ, mà phải có thái độ cư xử công bằng,

làm hài lòng tất cả các khách hàng. Bên cạnh đó, các công ty bảo hiểm không

phải chỉ làm khách hàng hài lòng mà còn phải tuân thủ theo những quy định của nhà

nước.

Do trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng

đường biển chứa đựng cả yếu tố trong nước và nước ngoài, có cả khách hàng

trong nước và nước ngoài, vậy các công ty bảo hiểm cần phải làm gì để đáp ứng

được yếu tố cạnh tranh nhạy cảm này một cách tốt nhất?

 Đối với khách hàng nước ngoài: Do trên thị trường thế giới có nhiều công

ty bảo hiểm lớn, uy tín, chuyên nghiệp nên thu hút được nhiều khách hàng, các

công ty bảo hiểm Việt Nam phải quảng bá, phân tích cho khách hàng nước ngoài

thấy được lợi ích khi mua bảo hiểm ở Việt Nam:

- Mua bảo hiểm bằng tiền Việt sẽ tiết kiệm được ngoại tệ

- Các công ty bảo hiểm Việt Nam đã ngày càng lớn mạnh và có uy tín trên

thị trường và có khả năng đảm bảo cho các doanh nghiệp. Khi có tổn thất xẩy ra,

81

công ty nhanh chóng giám định bồi thường. Các công ty bảo hiểm Việt Nam

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

cũng có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, khắc phục rủi ro cho hàng hoá của

khách hàng. Đặc biệt, công ty sẽ nhanh chóng giải quyết một cách hợp lý, công

bằng khi có khiếu nại của khách hàng.

- Đội ngũ nhân viên làm việc chuyên nghiệp, thông thạo nghiệp vụ, phù

hợp với những xu hướng của Bảo hiểm thế giới.

 Đối với khách hàng trong nước: Với thực trạng hiện nay, các doanh

nghiệp xuất nhập khẩu thường nhập khẩu hàng theo giá CIF, xuất hàng theo giá

FOB, cộng thêm tâm lý không an tâm khi sợ các công ty bảo hiểm Việt Nam

không đủ khả năng tài chính chi trả cho hàng hoá tổn thất có khối lượng lớn.

Thực trạng này khiến một khối lượng lớn hàng hoá xuất nhập khẩu được bảo

hiểm lọt vào tay các công ty bảo hiểm nước ngoài. Như vậy, làm thế nào để

giành lại tiềm năng to lớn này? Các công ty bảo hiểm Việt Nam cần phải có các

biện pháp tuyên truyền cho khách hàng hiểu về bảo hiểm, thường xuyên có các

buổi hội thảo, mở hội nghị khách hàng không chỉ cho khách hàng hiện tại mà cả

khách hàng tiềm năng, tạo mối quan hệ thân tình giữa khách hàng và nhà bảo

hiểm, làm cho khách hàng nhận thấy được những lợi ích của mình nếu giành

được quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm, và để họ biết rằng việc

tham gia bảo hiểm trong nước không những an tâm trong kinh doanh mà còn góp

phần đóng góp vào ngân sách nhà nước cho đất nước ngày càng phát triển. Đồng

thời thông qua các buổi hội thảo như vậy, sẽ giải tỏa được những ngần ngại của

các doanh nghiệp, tháo gỡ được những khó khăn trong việc bảo hiểm.

 Đối với khách hàng lần đầu tiên mua bảo hiểm của công ty: Đây là đối

tượng khách hàng quan trọng. Những người này có tiếp tục mua bảo hiểm ở

công ty nữa hay không phụ thuộc rất lớn vào chính sách khách hàng của công ty.

Đối với những khách hàng này, công ty cần phải tạo được lòng tin và tạo được

ấn tượng tốt đẹp về phong cách làm việc cũng như sự thông thạo, am hiểu

82

nghiệp vụ của nhân viên bảo hiểm, không thể để khách hàng hồ nghi hay có cảm

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

giác bất an trong bất kỳ lô hàng bảo hiểm nào cũng như bước tiến hành nghiệp

vụ nào.

2.4. Phối hợp chặt chẽ ba hoạt động: hoạt động Marketing, hoạt động khai

thác, hoạt động giải quyết bồi thƣờng.

 Hoạt động Marketing: Marketing được coi là một bộ phận không thể

thiếu được của hoạt động kinh doanh, song với bảo hiểm, nó lại càng quan trọng

hơn bởi sản phẩm bảo hiểm có tính đặc thù riêng. Đây cũng chính là hoạt động

mà các công ty bảo hiểm Việt Nam hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu. Nó được coi

là hệ quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, độc quyền kinh doanh. Thực

trạng này đã gây ra không ít khó khăn trong việc mở rộng thị phần.

Trong điều kiện cơ chế thị trường, để thu hút được nhiều khách hàng, các

công ty cần thực hiện linh động và hợp lý cả chính sách giá cả lẫn chính sách sản

phẩm. Về chính sách giá cả, công ty cần đưa ra một mức phí hợp lý, mức phí đó

phải thấp để thu hút nhiều hợp đồng, khi đó, công ty thu lợi nhuận trên tổng

doanh thu cao. Tuy nhiên, mức phí đó cũng không phải không làm thâm hụt quỹ

bảo hiểm nếu tổn thất xảy ra và không vi phạm nguyên tắc của Bộ Tài Chính quy

định. Bên cạnh đó, các công ty cần có những chính sách giá ưu đãi đối với

những khách hàng lâu năm. Tuy nhiên, hạ phí không phải là lợi thế cạnh tranh

lâu dài trên thị trường bảo hiểm, mà để có được lợi thế cạnh tranh lâu dài, các

công ty cần thực hiện tốt cả chính sách sản phẩm nữa. Chính sách sản phẩm là

những hoạt động và những giải pháp sẽ giúp cho công ty tạo ra thế đứng cho

dịch vụ của mình trên thị trường. Chiến lược này bao gồm nhiều công đoạn khác

nhau, trong đó việc tạo uy tín cho dịch vụ bảo hiểm của công ty là quan trọng

nhất. Để có thể tạo ra uy tín và nâng cao chất lượng dịch vụ, các công ty cần đưa

ra tiêu chí rõ ràng, các nhân viên cần quán triệt và thực thi có hiệu quả. Chẳng

hạn thời gian ký kết hợp đồng phải nhanh chóng, tiện lợi cho khách hàng, đồng

83

thời khi xảy ra tổn thất, việc xử lý hồ sơ và thanh toán bồi thường phải chính xác

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

nhanh chóng, tránh để phiền phức cho khách hàng, hạn chế việc đi lại cho khách

hàng do thủ tục rườm rà, nhiều công đoạn.

Trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng

đường biển, hoạt động Marketing vô cùng quan trọng. Do đây là nghiệp vụ bảo

hiểm có từ lâu đời, nhiều công ty bảo hiểm phi nhân thọ tham gia bảo hiểm cho

nghiệp vụ này, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều cơ hội lựa chọn nên

trên thị trường xảy ra cạnh tranh rất mạnh mẽ. Các công ty phải thực hiện tốt

đồng thời cả hai chính sách giá cả và chính sách sản phẩm thì mới có khả năng

thu hút được nhiều khách hàng tham gia loại hình bảo hiểm này.

Ngoài ra, các công ty bảo hiểm cũng cần mở rộng mạng lưới đại lý ở nước

ngoài, thường xuyên công bố những thông tin về thị trường bảo hiểm cho các

doanh nghiệp xuất nhập khẩu thông qua việc chào hàng, quảng cáo trên mạng

internet, báo chí, tập san chuyên ngành. Các hãng vận chuyển cần nghiên cứu

mở thêm các tuyến đường mà Việt Nam thường hay có hàng xuất, nhập khẩu

được vận chuyển.

 Hoạt động khai thác: Khách hàng bảo hiểm và tái bảo hiểm có rất ít kiến

thức về bảo hiểm, họ cần có sự cung cấp và hỗ trợ về mặt chuyên môn từ các

công ty bảo hiểm. Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường

biển thường có nhiều sự cố bất ngờ xảy ra trên biển làm tổn thất lớn hàng hoá

vật chất, do đó các khách hàng khi mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu

vận chuyển bằng đường biển cần hỗ trợ về mặt chuyên môn cho những rủi ro

này. Trong các công ty bảo hiểm cần có bộ phận khách hàng làm việc chuyên

nghiệp, hiểu rõ chuyên môn, nghiệp vụ. Bộ phận khách hàng thường duy trì sự

tiếp xúc với khách hàng thông qua bộ phận Marketing, song họ giữ vai trò quan

trọng trong công việc cung cấp cho khách hàng những dịch vụ mà họ mong

84

muốn.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

Các công ty cũng nên có các hội nghị khách hàng để lắng nghe ý kiến để

đúc rút kinh nghiệm nhằm cải tiến sản phẩm phù hợp.

 Hoạt động giải quyết bồi thường: ở các công ty bảo hiểm, bộ phận bồi

thường phải luôn có ý thức trách nhiệm hỗ trợ khách hàng một cách đúng, đủ và

nhanh nhất có thể trong trường hợp khiếu nại khó khăn phức tạp. Công ty bảo

hiểm chắc chắn đều nhận thức được khách hàng đánh giá tầm quan trọng của

công tác này như thế nào, nên ngoài yếu tố giải quyết bồi thường đúng điều kiện,

đúng hợp đồng bảo hiểm... thì phải giải quyết trong thời gian nhanh nhất, kịp

thời, đơn giản hoá thủ tục khi tổn thất xảy ra là cần thiết.

Cả ba công tác trên đều rất quan trọng trong một công ty bảo hiểm hoặc tái

bảo hiểm. Muốn có hiệu quả kinh doanh cao thì công ty phải thường xuyên theo

dõi, bám sát cả ba hoạt động này.

2.5. Đề phòng và hạn chế tổn thất.

Đây là công tác làm giảm thiệt hại về mặt tài chính cho cả nhà bảo hiểm và

chủ hàng hoá xuất nhập khẩu được mua bảo hiểm. Đặc điểm của hoạt động

chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển không những chịu tác

động lớn của thiên tai như mưa, bão, sóng,... mà còn chịu tác động của việc bốc,

xếp hàng, con tàu chuyên chở, bao bì đóng gói... con người không thể xoá bỏ

hoàn toàn các rủi ro, nhưng có thể ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro xảy ra. Vì vậy,

cách tốt nhất để chống chọi với những hậu quả của những rủi ro là làm cho

chúng không thường xuyên xảy ra bằng cách tăng cường công tác đề phòng hạn

chế rủi ro như kiểm tra chất lượng hàng chuyên chở, con tàu chuyên chở, chất

lượng bao bì đóng gói, khi rủi ro xảy ra cần nhanh chóng thực hiện việc cứu

chữa. Giữa công ty bảo hiểm và công ty tái bảo hiểm cần hỗ trợ nhau trong việc

đánh giá chính xác rủi ro được bảo hiểm từ đó xác định phí bảo hiểm và tái bảo

85

hiểm hợp lý từng hợp đồng, đảm bảo độ an toàn cho hàng hoá được bảo hiểm

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

cũng như tái bảo hiểm, tăng cường hợp tác để có được cách thức quản lý rủi ro

tốt nhất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chương trình quản lý, đánh

giá rủi ro. Mặt khác, các công ty bảo hỉêm cần lựa chọn và đào tạo thường xuyên

nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ giỏi về lĩnh vực đánh giá, rủi ro.

2.6. Nâng cấp hệ thống thông tin.

Công nghệ thông tin ra đời và phát triển như vũ bão đóng góp không nhỏ

vào sự tiến bộ của nhân loại, đóng góp và nâng cao hiệu quả của các ngành nghề

sản xuất và dịch vụ trên thế giới. Trong kinh doanh dịch vụ tài chính bảo hiểm

cũng cần phải có một hệ thống thông tin hiện đại. Đây là tiêu chuẩn để xây dựng

một hệ thống quản lý tiên tiến, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế ngày nay.

Các doanh nghiệp không chỉ nâng cấp đầu tư cơ sở vật chất cho mạng thông tin

mà còn là việc đầo tạo và tổ chức ứng dụng được những lợi thế do công nghệ

thông tin mang lại. Khi thị trường ngày được mở rộng, các doanh nghiệp có

nhiều chi nhánh ở khắp các vùng miền thì việc thông tin liên lạc giữa ban chỉ đạo

điều hành với các chi nhánh rất quan trọng, mọi sự chỉ đạo cần được tiếp thu kịp

thời, chính xác. Cộng thêm việc doanh nghiệp cần phải có thông tin đầy đủ về

tổn thất của lô hàng để giải quyết bồi thường nhanh chóng, tiết kiệm thời gian

cho khách hàng. Như vậy các doanh nghiệp cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ

thông tin vào quản lý, giao dịch kinh doanh một cách hiệu quả.

Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng phải tiếp tục trang bị

và ứng dụng công nghệ thông tin vào khâu khai thác, quản trị rủi ro, quản trị

doanh nghiệp, trong đó quan trọng nhất là ứng dụng được thương mại điện tử.

Người có nhu cầu về bảo hiểm có thể lựa chọn sản phẩm bảo hiểm của các

doanh nghiệp bảo hiểm trên mạng và khi chấp nhận sẽ được cấp đơn bảo hiểm,

giấy chứng nhận bảo hiểm ngay lập tức. Từ đó, việc quản lý đơn bảo hiểm, giấy

86

chứng nhận bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, đối

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

tượng được bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm, giải quyết tổn thất và bồi thường

bảo hiểm được dễ dàng và thuận tiện, nhanh chóng.

2.7. Một số giải pháp khác

 Các công ty bảo hiểm cũng cần phải thông qua hoạt động của Hiệp hội

bảo hiểm Việt Nam, thông qua các hội nghị, hội nghị thảo chuyên ngành để tìm

ra các giải pháp hữu hiệu nhằm giúp thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập

khẩu chuyên chở bằng đường biển hoạt động trong môi trường cạnh tranh lành

mạnh, đảm bảo quyền lợi của người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.

 Các công ty bảo hiểm hiện tại phải làm tốt và tiến tới tăng cường hơn

nữa công tác thông kêhiện tại phải làm tốt và tiến tới tăng cường hơn nữa công

tác thống kê bảo hiểm và tái bảo hiểm để nghiên cứu và rút ra phương pháp và

hình thức bảo hiểm hợp lý.

 Mở rộng các mối quan hệ kinh doanh, hợp tác với các công ty, tập đoàn

và các thị trường khu vực và thế giới. Giữ vững quan hệ cũ, nhất là các mối

quan hệ truyền thống như: Tokyo Marine, Munich Re...

 Xúc tiến mở các văn phòng đại diện ở khu vực để thuận lợi cho việc

nghiên cứu thị trường nước ngoài, thu thập thông tin, tiếp xúc khai thác dịch vụ

87

phù hợp.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

KẾT LUẬN

Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ "Mở rộng quan hệ

đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng

cao vị thế nước ta trên trường quốc tế". Đại hội lần thứ IX và lần thứ X khẳng

định chủ trương "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu

quả và bền vững". Đây là nhiệm vụ chung của cả nước và cũng là nhiệm vụ của

ngành Bảo hiểm Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, ngoài việc khắc phục

những khó khăn chúng ta cần tận dụng những thời cơ để đưa ngành Bảo hiểm

phát triển, hội nhập vào hoạt động bảo hiểm trong khu vực cũng như trên trường

quốc tế.

Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, để doanh nghiệp thuộc ngành

Bảo hiểm cũng như tất cả các doanh nghiệp Việt Nam khác có thể hội nhập,

tham gia hoạt động kinh doanh một cách bình đẳng với các doanh nghiệp trong

khu vực, bên cạnh những chính sách hỗ trợ của nhà nước, bản thân mỗi doanh

nghiệp cũng phải nhanh chóng tận dụng cơ hội của giai đoạn chuyển đổi để

nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất và kinh doanh, nâng cao hiệu quả cạnh

tranh trong hợp tác, nâng cao vị thế của chính doanh nghiệp mình.

Trong những năm hội nhập tới đây, hi vọng rằng với chủ trương chính

sách phát triển thích hợp của Đảng và Nhà nước, kết hợp việc phát huy tối đa nội

lực cũng như học hỏi mọi kinh nghiệm quý báu từ các nước có ngành dịch vụ

bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển phát triển,

ngành Bảo hiểm Việt Nam sẽ thực sự đóng vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của

89

đất nước.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

TÀI LIỆU THAM KHẢO

1. Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh_ Trường Đại học Ngoại thương,

2002, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.

2. Giáo trình Vận tải và giao nhận trong Ngoại Thương_ trường Đại học

Ngoại Thương, 2005, Nhà xuất bản Lý luận chính trị.

3. Các điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms 2000), 2005, Nhà xuất bản

Khoa học và Kỹ thuật.

4. Luật kinh doanh về bảo hiểm

5. Nghị định 45 Quy định chi tiết thi hành một số điều của luật kinh doanh

về bảo hiểm

6. Nghị đinh 46 Quy định về chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm

và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.

7. Quyết định 175/2003/QĐ-TTg ngày 29/08/2003: Chiến lược phát triển thị

trường bảo hiểm Việt Nam 2003-2010

8. Các tạp chí:

-Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 2004, 2005.

- Tạp chí Thông tin thị trường bảo hiểm

– Tái bảo hiểm số 1 ban hành tháng 1 các năm 2003, 2004, 2005,

2006, 2007 của Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt

Nam

- Tạp chí Bảo Việt các số năm 2004, 2005.

9. Website Tập đoàn Bảo Việt: Hội nghị Triển khai kế hoạch phát triển thị

trường bảo hiểm Việt Nam đến năm 2010_ Tác giả Hải Yến

90

http://www.baoviet.com.vn/print.asp?newsid=754&lang=VN

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

10. Website của Hiệp hội Bảo hiểm Việt nam: Thị trường Việt Nam với việc

gia nhập WTO_ Tác giả Phùng đắc lộc

http://www.avi.org.vn/nghien_cuu_trao_doi/45/default.aspx

11. Website của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam: Tổng quan thị trường bảo

hiểm Việt Nam 2006, http://www.avi.org.vn/thitruong/43/default.aspx

12. Website của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam: Tổng quan thị trường bảo hiểm Việt

Nam 6 tháng đầu năm 2007, http://www.avi.org.vn/thitruong/51/default.aspx

13. Website thông tấn xã Việt Nam: Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực

bảo hiểm,

http://www.vnanet.vn/TrangChu/VN/tabid/58/itemid/179831/Default.aspx

14. Website Công ty CP đầu tư Tài chính VMF Việt Nam: Thị trường bảo

hiểm Việt Nam với việc gia nhập WTO

http://www.vmf.com.vn/vmf-vn/content/view/101/209/

15. Website của Mạng thông tin khoa học và công nghệ thành phố Hồ Chí

Minh: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 1996-2005

http://www.cesti.gov.vn/left/stinfo/the_gioi_du_lieu/solieuthongke/kt_xh/

2006/2006_03_kt3

16. Website Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hoạt động xuất nhập khẩu đã có những

bước phát triển mạnh,

http://www.mpi.gov.vn/strategy.aspx?Lang=4&mabai=106

17. Website Bộ Tài Chính: Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu: Phải vươn

91

lên từ bây giờ.

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=10159

18. Website tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam Vinare

http://vinare.fis-

soft.com/portals/0/thi%20truong%20bh%20vn%202005_tv_1_06.pdf

19. Website của Tập đoàn Bảo Viêt: Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu

trong bối

cảnh hội nhập

http://www.baoviet.com.vn/newsdetail.asp?websiteId=1&newsId=66&cat

Id=33&lang=VN

20. Website Bộ Tài Chính: Khốc liệt cuộc chiến bảo hiểm phi nhân thọ

http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=42414

21. Website Cổng thông tin bảo hiểm Việt Nam: Nguồn nhân lực cho ngành

bảo hiểm: Nhiều thách thức,

92

http://www.webbaohiem.net/index.php?option=com_content&task=view&id=10 1&Itemid=236

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

MỤC LỤC Lêi nãi ®Çu…………………………………………………………….. 1

Ch ¬ng I: TæNg quan vÒ B¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp

khÈu chuyªn chë b»ng ® êng biÓn.......................................... 3

I. B¶o hiÓm hµng h¶i. ................................................................................ 3

1.Sù ra ®êi vµ kh¸i niÖm vÒ b¶o hiÓm hµng h¶i. ............................................... 3

2. C¸c lo¹i b¶o hiÓm hµng h¶i. ............................................................................ 4

2.1 B¶o hiÓm tr¸ch nhiÖm d©n sù cña chñ tµu. .................................... 4

2.2 B¶o hiÓm th©n tàu. ........................................................................ 4

2.3. B¶o hiÓm hµng hãa xuÊt nhËp khÈu chuyªn chë b»ng ® êng biÓn. 5

II. NghiÖp vô b¶o hiÓm hµng hãa xuÊt nhËp khÈu vËn chuyÓn b»ng

® êng biÓn. ................................................................................................ 5

1. Kh¸i niÖm: ......................................................................................................... 5

2. Sù cÇn thiÕt ph¶i b¶o hiÓm hµng hãa vËn chuyÓn b»ng ® êng biÓn. ........ 5

2.1. §èi víi doanh nghiÖp kinh doanh xuÊt nhËp khÈu........................ 5

2.2. §èi víi nÒn kinh tÕ. ...................................................................... 7

3. C¸c ®iÒu kiÖn b¶o hiÓm hµng hãa xuÊt nhËp khÈu b»ng ® êng biÓn. ...... 8

3.1. C¸c ®iÒu kiÖn b¶o hiÓm cña hiÖn hµnh trªn thÞ tr êng. ................ 8

3.1.1. C¸c ®iÒu kiÖn b¶o hiÓm cña Anh. .......................................... 8

3.1.2. C¸c ®iÒu kiÖn b¶o hiÓm cña ViÖt Nam. .................................. 9

3.2. Tr¸ch nhiÖm cña ng êi b¶o hiÓm ®èi víi hµng hãa theo c¸c ®iÒu

kiÖn b¶o hiÓm A, B, C cña ViÖt Nam. ................................................ 10

3.2.1. Ph¹m vi b¶o hiÓm. ............................................................... 10

3.2.2 Rñi ro lo¹i trõ. ...................................................................... 12

3.3. Ph¹m vi kh«ng gian vµ thêi gian b¶o hiÓm . ............................... 15

III. Kh¸i qu¸t chung vÒ n¨ng lùc c¹nh tranh. ....................................... 17

1. Mét sè vÊn ®Ò vÒ n¨ng lùc c¹nh tranh. ........................................................ 17

1.1. Kh¸i niÖm. ................................................................................. 17

93

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

2. C¸c yÕu tè t¸c ®éng ®Õn n¨ng lùc c¹nh tranh cña doanh nghiÖp. ........... 18

2.1. C¸c nh©n tè bªn ngoµi. ............................................................... 18

2.2. C¸c nh©n tè thuéc m«i tr êng bªn trong..................................... 22

Ch ¬ng II: Thùc tr¹ng b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp

khÈu chuyªn chë b»ng ® êng biÓn t¹i ViÖt Nam. .......... 26

I. Tæng quan vÒ b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu b»ng ® êng biÓn

t¹i ViÖt Nam khi gia nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ............. 26

1.1. B¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu b»ng ® êng biÓn ch a t ¬ng

xøng víi tiÒm n¨ng xuÊt nhËp khÈu. ............................................................... 28

1.1.1. T×nh h×nh xuÊt nhËp khÈu cña ViÖt Nam trong nh÷ng n¨m qua.

......................................................................................................... 28

1.1.2. B¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu ë ViÖt Nam ch a t ¬ng xøng

víi tiÒm n¨ng xuÊt nhËp khÈu. .......................................................... 30

1.2. Doanh thu phÝ b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu vËn chuyÓn b»ng

® êng biÓn cßn thÊp qua c¸c n¨m. ........................................................ 35

1.3. Tæn thÊt vµ båi th êng nghiÖp vô b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu

vËn chuyÓn b»ng ® êng biÓn toµn thÞ tr êng. .............................................. 39

II. ThÞ tr êng b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu ViÖt Nam khi gia

nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ............................................... 41

1. Sù c¹nh tranh gi÷a c¸c c«ng ty b¶o hiÓm trªn thÞ tr êng b¶o hiÓm phi

nh©n thä ë ViÖt Nam hiÖn nay. ......................................................................... 42

2. N¨ng lùc c¹nh tranh cña b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu vËn

chuyÓn b»ng ® êng biÓn t¹i ViÖt Nam hiÖn nay. ............................................ 46

III. Nh÷ng c¬ héi vµ th¸ch thøc ®èi víi doanh nghiÖp b¶o hiÓm trong

lÜnh vùc kinh doanh b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu vËn chuyÓn

b»ng ® êng biÓn sau khi ViÖt Nam gia nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ

giíi WTO. ................................................................................................ 54

1. C¬ héi. .............................................................................................................. 54

94

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

2. Th¸ch thøc....................................................................................................... 56

3. Nh÷ng cam kÕt ¶nh h ëng tíi dÞch vô b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp

khÈu vËn chuyÓn b»ng ® êng biÓn cña ViÖt Nam khi gia nhËp tæ chøc

th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ................................................................................. 59

3.1. Cam kÕt cung cÊp dÞch vô qua biªn giíi. ........................................ 60

3.2. Cam kÕt hiÖn diÖn th ¬ng m¹i. ....................................................... 60

3.3. Cam kÕt xo¸ bá tû lÖ t¸i b¶o hiÓm b¾t buéc sau 1 n¨m. ..................... 61

Ch ¬ng III: gi¶i ph¸p n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh

cña b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu chuyªn chë

b»ng ® êng biÓn t¹i ViÖt Nam sau khi gia nhËp tæ

chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ................................................ 62

I. B¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu ViÖt Nam khi gia nhËp tæ chøc

th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO....................................................................... 62

1. Môc tiªu ph¸t triÓn thÞ tr êng b¶o hiÓm hµng giai ®o¹n 2003-2010........ 62

1.1. Môc tiªu chung. ............................................................................. 62

1.2. Mét sè chØ tiªu cô thÓ. ............................................................................... 63

2. Dù b¸o nhu cÇu trªn thÞ tr êng b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu

chuyªn chë b»ng ® êng biÓn. ........................................................................... 63

II. Quan ®iÓm cña §¶ng vµ Nhµ n íc vÒ viÖc ph¸t triÓn, héi nhËp cña

b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu b»ng ® êng biÓn cña ViÖt Nam sau

khi gia nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ................................... 66

1. Quan ®iÓm cña ChÝnh phñ vÒ n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña c¸c

doanh nghiÖp trong n íc kinh doanh b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu

chuyÓn chë b»ng ® êng biÓn. ........................................................................... 66

2. Quan ®iÓm trong héi nhËp thÞ tr êng b¶o hiÓm trong n íc víi thÞ tr êng

b¶o hiÓm quèc tÕ khi ViÖt Nam gia nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO.

............................................................................................................................... 68

95

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT

Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto

III. Mét sè gi¶i ph¸p kiÕn nghÞ nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña

c¸c doanh nghiÖp kinh doanh b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu

chuyªn chë b»ng ® êng biÓn. ................................................................. 70

1. Nhãm gi¶i ph¸p vÜ m«. ................................................................................... 70

1.1. Hoµn thiÖn khung khæ ph¸p lý, t¨ng c êng hiÖu lùc qu¶n lý nhµ

n íc vÒ kinh doanh b¶o hiÓm. ........................................................... 70

1.2. T¹o ® îc sù liªn kÕt gi÷a c¸c ngµnh th ¬ng m¹i, vËn t¶i vµ b¶o

hiÓm.................................................................................................. 72

1.3. KiÓm so¸t chÆt chÏ ho¹t ®éng cña c¸c v¨n phßng ®¹i diÖn cña c¸c

c«ng ty b¶o hiÓm n íc ngoµi t¹i ViÖt Nam. ...................................... 73

1.4. §Èy m¹nh viÖc më réng hîp t¸c quèc tÕ. ................................... 73

1.5. Ph¸t huy vai trß cña HiÖp héi b¶o hiÓm. ..................................... 74

1.6. TiÕp tôc t¨ng c êng huy ®éng vèn th«ng qua hoµn thiÖn thÞ tr êng

chøng kho¸n. .................................................................................... 75

1.7. Mét sè gi¶i ph¸p kh¸c cña Nhµ n íc ®èi víi c¸c doanh nghiÖp b¶o

hiÓm.................................................................................................. 75

2. Nhãm gi¶i ph¸p mang tÇm vi m« (§èi víi c¸c c«ng ty b¶o hiÓm vµ t¸i b¶o

hiÓm). .................................................................................................................... 77

2.1. T¨ng c êng kh¶ n¨ng tµi chÝnh................................................... 77

2.2. Tæ chøc vµ ®µo t¹o nh©n sù ........................................................ 78

2.3. ChÝnh s¸ch kh¸ch hµng .............................................................. 81

2.4. Phèi hîp chÆt chÏ ba ho¹t ®éng: ho¹t ®éng Marketing, ho¹t ®éng

khai th¸c, ho¹t ®éng gi¶i quyÕt båi th êng. ....................................... 83

2.5. §Ò phßng vµ h¹n chÕ tæn thÊt. .................................................... 85

2.6. N©ng cÊp hÖ thèng th«ng tin. ..................................................... 86

2.7. Mét sè gi¶i ph¸p kh¸c ................................................................ 87

KÕt luËn ................................................................................................. 89

Tµi liÖu tham kh¶o…………………………………………………85

96

Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT