TRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG HÀ NỘI KHOA KINH TẾ VÀ KINH DOANH QUỐC TẾ ----- ----- KHOÁ LUẬN TỐT NGHIỆP
TÊN ĐỀ TÀI:
Gi¶i ph¸p n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu chuyªn chë b»ng ® êng biÓn khi ViÖt Nam gia nhËp WTO
: Ngôy ThÞ HiÒn L ¬ng : Anh 4 : K42 A
Họ và tên sinh viên Lớp Khoá Giáo viên hướng dẫn : THS. Ph¹m Thanh Hµ
Hà nội, tháng 11/2007
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
LỜI NÓI ĐẦU
Những năm qua, đặc biệt từ khi Việt Nam thực hiện chính sách mở cửa,
dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển đã và
đang phát triển nhanh chóng, thị trường bảo hiểm hàng hải Việt Nam đang dần
mở rộng theo nhịp độ chung của xu hướng thương mại hoá khu vực và toàn cầu.
Đất nước mở cửa hội nhập với khu vực và thế giới cùng nền kinh tế phát triển,
xuất nhập khẩu tăng đã tạo điều kiện cho hàng loạt những công ty bảo hiểm quốc
tế có mặt tại thị trường Việt Nam cạnh tranh với nhau và với ngành Bảo hiểm
phi nhân Việt Nam còn nhỏ yếu.
Dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường
biển có ảnh hưởng rất lớn đến thương mại quốc tế và nền kinh tế Việt Nam hiện
nay. Trong quá trình hội nhập kinh tế, Việt Nam phải tuân thủ những ràng buộc
nhất định về lĩnh vực dịch vụ nói chung và dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đường biển nói riêng của các tổ chức kinh tế khu vực và
thế giới. Trong tình hình ngành Bảo hiểm Việt Nam tham gia một cách sâu rộng
vào các hoạt động thương mại quốc tế thì việc nghiên cứu các giải pháp phù hợp
và hiệu quả nhất được đề cập trong khoá luận “Giải pháp nâng cao năng lực
cạnh tranh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển
khi Việt Nam gia nhập WTO” nhằm tăng năng lực cạnh tranh của ngành là hết
sức cần thiết.
Là một đề tài mang tính nghiên cứu với đối tượng là dịch vụ bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam, khoá luận giới
hạn phạm vi nghiên cứu theo như phân loại của Tổ chức Thương mại Thế giới
WTO cho loại hình dịch vụ này. Phương pháp nghiên cứu là phương pháp duy
vật biện chứng và duy vật lịch sử, kết hợp với việc sử dụng một số các phương
pháp khác như phương pháp tổng hợp, thống kê, phương pháp so sánh, logic,
1
phương pháp thực chứng và dự báo...
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Khoá luận được nghiên cứu dựa trên những học thuyết kinh tế học hiện
đại về thương mại và chính sách thương mại quốc tế, dựa trên những quan điểm
về đổi mới kinh tế và cải cách chính sách kinh tế đất nước của Đảng và Nhà
nước Việt Nam. Khóa luận được xây dựng trên kết cấu sau:
Chương 1: Tổng quan về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở
bằng đường biển - làm rõ cơ sở lý luận liên quan đến dịch vụ bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển .
Chương 2: Thực trạng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở
bằng đường biển tại Việt Nam - đánh giá thực trạng phát triển của dịch vụ bảo
hiểm Việt Nam trong những năm gần đây, trên cơ sở đó đánh giá chung những
điểm mạnh, điểm yếu, cơ hội cũng như thách thức đối với dịch vụ bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển tại Việt Nam khi hội nhập
WTO.
Chương 3: Một số giải pháp cho dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam trong bối cảnh hội nhập kinh tế -
trên cơ sở mục tiêu và định hướng phát triển của Chính phủ, đề ra những biện
pháp cụ thể nhằm tăng khả năng cạnh tranh cho dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển.
Do thời gian nghiên cứu và trình độ có hạn nên khoá luận này không tránh
khỏi những sai sót. Tác giả rất mong nhận được những góp ý chân thành và tích
2
cực từ thầy cô và bạn đọc.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Ch ¬ng I: TỔNG QUAN VỀ BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN.
I. Bảo hiểm hàng hải.
1.Sự ra đời và khái niệm về bảo hiểm hàng hải.
Trước lợi nhuận mà ngành thương mại hàng hải mang lại cũng như mức độ
và số lượng rủi ro phải ứng phó, các chủ tàu, các nhà buôn, những người vận tải
luôn luôn tìm kiếm những hình thức bảo đảm an toàn cho quyền lợi của mình.
Đầu tiên là vào khoảng thế kỷ thứ V trước Công nguyên, người ta đã tìm
cách giảm nhẹ tổn thất toàn bộ một lô hàng bằng cách san nhỏ lô hàng của mình
ra làm nhiều chuyến hàng. Đây là cách phân tán rủi ro, tổn thất và có thể coi đó
là hình thức nguyên khai của bảo hiểm. Sau đó để đối phó với những tổn thất
nặng nề thì hình thức cho vay mạo hiểm đã xuất hiện. Theo đó, trong trường hợp
xảy ra tổn thất đối với hàng hoá trong quá trình vận chuyển, người vay sẽ được
miễn không phải trả khoản tiền vay cả vốn lẫn lãi. Ngược lại họ sẽ phải trả một
lãi suất rất cao khi hàng hoá đến bến an toàn. Như vậy có thể hiểu lãi suất cao
này là hình thức sơ khai của phí bảo hiểm. Song số vụ tổn thất xảy ra càng nhiều
làm cho các nhà kinh doanh cho vay vốn cũng lâm vào thế nguy hiểm và thay
thế nó là hình thức bảo hiểm ra đời.
Vào thế kỷ XIV, ở Floren, Genoa, Italia đã xuất hiện các hợp đồng bảo
hiểm hàng hải đầu tiên mà theo đó một người bảo hiểm cam kết với người được
bảo hiểm sẽ bồi thường những thiệt hại về tài sản khoản phí. Sau đó cùng với
việc phát hiện ra Ấn Độ Dương và Châu Mỹ, ngành hàng hải nói chung và bảo
hiểm hàng hải nói riêng đã phát triển rất nhanh.
Tuy nhiên, phải đến thế kỷ XVI - XVII, cùng với sự ra đời của phương
thức sản xuất tư bản chủ nghĩa thì hoạt động bảo hiểm mới phát triển rộng rãi và
3
ngày càng đi sâu vào nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Ngày nay, cùng với sự phát triển của thương mại quốc tế, bảo hiểm hàng
hải đóng vai trò rất quan trọng đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu và vận tải. Có rất nhiều định nghĩa khác nhau về bảo hiểm hàng hải, nhưng
định nghĩa dưới đây được thừa nhận rộng rãi.
Bảo hiểm hàng hải là bảo hiểm những rủi ro trên biển hoặc những rủi ro
trên bộ, trên sông liên quan đến hành trình đường biển, gây tổn thất cho các đối
tượng bảo hiểm chuyên chở trên biển.
2. Các loại bảo hiểm hàng hải.
2.1 Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu.
Bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ tàu là bảo hiểm những thiệt hại phát
sinh từ trách nhiệm của chủ tàu đối với người thứ ba trong quá trình sở hữu, kinh
doanh, và khai thác tàu biển.
Như vậy đối tượng bảo hiểm trong trường hợp này chính là trách nhiệm
dân sự của chủ tàu đối với người thứ ba.
2.2 Bảo hiểm thân tàu.
Bảo hiểm thân tàu là bảo hiểm những rủi ro vật chất xảy ra đối với tàu,
máy móc và các thiết bị trên tàu, đồng thời bảo hiểm cước phí, các chi phí hoạt
động của tàu và một phần trách nhiệm mà chủ tàu phải chịu trong trường hợp tàu
đâm va.
Đối tượng bảo hiểm trong bảo hiểm thân tàu là vỏ tàu, máy móc, thiết bị,
cước phí, chi phí hoạt động và một phần trách nhiệm chủ tàu phải chịu trong
4
trường hợp hai tàu đâm va nhau (thông thường là 3/4 trách nhiệm đâm va).
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
2.3. Bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển.
Là nghiệp vụ bảo hiểm mà đối tượng được bảo hiểm là hàng hóa vận
chuyển bằng đường biển.
Đây là một trong trong các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hải đã hình thành và
phát triển từ rất sớm.
II. Nghiệp vụ bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đƣờng biển.
1. Khái niệm:
Bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường biển là cam kết bồi thường
của người bảo hiểm cho người tham gia bảo hiểm trong trường hợp xảy ra rủi ro
thuộc phạm vi bảo hiểm đối với hàng hoá chuyên chở trên biển hoặc trên bộ,
trên sông liên quan đến hành trình biển, với điều kiện người tham gia bảo hiểm
phải đóng một khoản phí bảo hiểm.
2. Sự cần thiết phải bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển.
2.1. Đối với doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu.
Khi thực hiện phương thức vận tải hàng hóa bằng đường biển thì các doanh
nghiệp (người bán hoặc người mua) phải mua bảo hiểm cho hàng hóa của mình
vì những lý do sau:
Hàng hóa xuất khẩu vận chuyển bằng đường biển gặp rất nhiều rủi ro có
thể gây ra những hư hỏng, mất mát... Đó thường là những rủi ro bất ngờ, không
lường trước được và thường gây ra tổn thất lớn, thiệt hại nặng nề như thiên tai,
bão lụt, tàu bị mắc cạn, đắm, cháy nổ, tại nạn đâm va...
Nếu chủ hàng không mua bảo hiểm thì sẽ phải tự gánh chịu hậu quả, điều
5
này sẽ ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động kinh doanh của họ.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển đối với hàng hoá rất hạn
chế và phụ thuộc vào các quy định trong các Công ước quốc tế về vận đơn hoặc
về vận tải đường biển và các nghị định thư sửa đổi, bổ sung thể hiện ở ba Quy
tắc: Hague, Hague Visby và Hamburg, theo đó trách nhiệm của người chuyên
chở cũng khác nhau.
- Đối với quy tắc Hague và Hague_Visby, thông thường người chuyên chở
sẽ phải chịu trách nhiệm về hàng hoá bị tổn thất trong trường hợp:
+ Tàu không đủ khả năng đi biển gây ra mà người chuyên chở không
chứng minh được là mình đã có sự cần mẫn hợp lý, hoặc
+ Hàng hóa hư hỏng do người chuyển chở đã không xếp hàng lên tàu một
cách cẩn thận, đúng quy trình kỹ thuật, đúng sơ đồ xếp hàng và sơ đồ hầm tàu...
- Đối với Quy tắc Humburg, người chuyên chở phải chịu trách nhiệm về
thiệt hại do mất mát, hư hỏng của hàng hoá và chậm giao hàng, nếu sự cố gây ra
mất mát, hư hỏng hoặc chậm giao hàng diễn ra khi hàng hoá còn thuộc trách
nhiệm của người chuyên chở, trừ phi người chuyên chở chứng minh được rằng
anh ta, người làm công và đại lý của anh ta đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết
hợp lý để ngăn ngừa sự cố xảy ra và hậu quả của nó.
Ngoài ra, theo quy tắc Hague và Hague_Visby, để khiếu nại đòi người
chuyên chở bồi thường, chủ hàng thường gặp rất nhiều khó khăn vì phải trải qua
một giai đoạn chứng minh lỗi do người chuyên chở gây nên. Nếu chủ hàng
không chứng minh được lỗi là do người chuyên chở hoặc người chuyên chở có
thể chứng minh được rằng anh ta không có lỗi hoặc anh ta đã áp dụng các biện
pháp cần thiết, hợp lý để ngăn ngừa tổn thất thì chủ hàng phải chịu toàn bộ
6
những tổn thất về hàng hóa của mình.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Như vậy, bảo hiểm hàng hóa sẽ giúp bảo vệ được lợi ích của các doanh
nghiệp trong trường hợp có tổn thất xẩy ra và tạo ra tâm lý an tâm trong kinh
doanh.
2.2. Đối với nền kinh tế.
Hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển
có vai trò hết sức quan trọng đối với nền kinh tế của một quốc gia:
Là biện pháp hữu hiệu nhất để khắc phục những nhược điểm của việc
vận chuyển hàng hoá bằng đường biển, đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho
chủ hàng, bồi thường những thiệt hại, mất mát cho các doanh nghiệp, tổ chức
kinh tế - xã hội, các cá nhân và Nhà nước do việc hàng hóa bị tổn thất...
Trong nền kinh tế mở, ngành bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ra đời
không những đáp ứng nhu cầu đảm bảo an toàn cho những chủ hàng, mà còn góp
phần thúc đẩy mối quan hệ kinh tế quốc tế thông qua con đường thương mại và
có ảnh hưởng sâu sắc tới vấn đề kinh tế - xã hội cho cả hai nước xuất khẩu và
nhập khẩu.
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển góp
phần giúp các doanh nghiệp có thể tăng thêm vốn đầu tư cho hoạt động kinh
doanh xuất nhập khẩu từ các quỹ mà lẽ ra phải giữ lại làm dự phòng cho những
tổn thất tương lai.
Trong hoạt động kinh doanh của mình, để nâng cao hiệu quả, các nhà
kinh doanh bảo hiểm hàng hải luôn luôn chú trọng khâu đề phòng và hạn chế tổn
thất cho khách hàng bảo hiểm, việc này sẽ giúp cho người tham gia bảo hiểm
giảm thiểu tổn thất, tiết kiệm chi phí kinh doanh.
Tăng thu, giảm chi ngoại tệ và cải thiện được cán cân thương mại quốc
gia: Việc mua bảo hiểm cho hàng hoá tại Việt Nam giúp chúng ta giữ được một
7
lượng ngoại tệ khá lớn, không để chảy ra nước ngoài. Đối với hàng hoá xuất
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
khẩu, việc làm này lại giúp chúng ta thu thêm được ngoại tệ từ nước ngoài đưa
vào trong nước.
Với những vai trò nói trên, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển đóng một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế của một
quốc gia. Cho đến nay hoạt động này đã trở thành tập quán thương mại quốc tế
và cũng là loại bảo hiểm phổ biến nhất trong buôn bán ngoại thương.
3. Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu bằng đường biển.
3.1. Các điều kiện bảo hiểm của hiện hành trên thị trƣờng.
3.1.1. Các điều kiện bảo hiểm của Anh.
Nước Anh là một nước có nền bảo hiểm hàng hải ra đời sớm và rất phát
triển. Từ thế kỷ XVII, Anh đã có mẫu đơn bảo hiểm đầu tiên. Luật bảo hiểm
hàng hải 1906 của Anh cho đến nay vẫn được nhiều nước áp dụng. Các điều kiện
bảo hiểm hàng hóa cũng như tàu bè của Viện những người bảo hiểm Luân Đôn
(Institute of London Underwriters _ ILU) từ lâu đã trở thành quen thuộc và được
áp dụng rộng rãi trên thị trường bảo hiểm thế giới. Về bảo hiểm hàng hóa, Viện
ILU đã soản thảo và đưa vào sử dụng các điều kiện bảo hiểm gốc như FPA, WA,
All Risk từ những năm 1963 hay các điều kiện A, B, C từ những năm 1982 và
các điều kiện bảo hiểm thêm như điều kiện bảo hiểm chiến tranh, đình công. Từ
1-1-1982, Viện ILU đã cho ra đời mẫu đơn bảo hiểm hàng hải mới và một loạt
các điều kiện bảo hiểm mới để áp dụng trong bảo hiểm hàng hóa xuất nhập khẩu
bằng đường biển sau đây:
3.1.1.1. Các điều kiện bảo hiểm gốc.
Điều kiện bảo hiểm A (Institute Cargo Clauses A)
8
Điều kiện bảo hiểm B (Institute Cargo Clauses B)
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Điều kiện bảo hiểm C (Institute Cargo Clauses C)
3.1.1.2. Các điều kiện bảo hiểm áp dụng cho một số hàng đặc biệt.
Các điều kiện bảo hiểm hàng hóa buôn bán theo lô
Điều kiện bảo hiểm than
Điều kiện bảo hiểm dầu thô
Điều kiện bảo hiểm đay
Điều kiện bảo hiểm cao su tự nhiên
Điều kiện bảo hiểm thực phẩm đông lạnh trừ thịt đông lạnh
Điều kiện bảo hiểm thịt đông lạnh
3.1.1.3. Các điều kiện bảo hiểm phụ.
Điều kiện bảo hiểm chiến tranh áp dụng cho hàng vận chuyển bằng
đường biển
Điều kiện bảo hiểm đình công áp dụng cho hàng vận chuyển bằng đường
biển.
Điều kiện bảo hiểm đình công áp dụng cho vận chuyển dầu thô.
Điều kiện bảo hiểm thiệt hại do ác ý.
Điều kiện bảo hiểm mất trộm, mất cắp và không giao hàng.
3.1.2. Các điều kiện bảo hiểm của Việt Nam.
Từ xưa đến nay, Việt Nam đã ban hành một số các điều kiện bảo hiểm
hàng hóa sau đây:
Điều kiện bảo hiểm FPA, WA, All Risk theo Quy tắc chung về bảo hiểm
hàng hóa vận chuyển bằng đường biển 1965 của Bộ Tài Chính
Điều kiện bảo hiểm A, B, C theo Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa
9
vận chuyển bằng đường biển 1990 của Bộ Tài Chính
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Điều kiện bảo hiểm A, B, C theo Quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa
vận chuyển bằng đường biển 1998 của Bảo Việt.
Trong các bản "Quy tắc chung" nói trên, bản QTCB_98 của Bảo Việt là
hoàn thiện hơn cả.
Khi mua bảo hiểm cho hàng hóa, trừ những trường hợp đặc biệt, chủ hàng
hóa phải mua bảo hiểm theo một trong ba điều kiện bảo hiểm gốc là A, B, C.
Ngoài ra, tùy theo hành trình của hàng mà chủ hàng có thể yêu cầu bảo hiểm
thêm các rủi ro chiến tranh hay đình công... Nếu có bảo hiểm thêm những rủi ro
này, chủ hàng phải nộp thêm phí bảo hiểm. Chủ hàng cũng có thể yêu cầu bảo
hiểm hàng hóa theo các điều kiện bảo hiểm A, B, C của Anh hay A, B, C của
Việt Nam. Về người bảo hiểm, chủ hàng có thể lựa chọn Bảo Việt, Bảo Minh,
Pjico, Bảo Long... hay công ty bảo hiểm nước ngoài.
3.2. Trách nhiệm của ngƣời bảo hiểm đối với hàng hóa theo các điều kiện
bảo hiểm A, B, C của Việt Nam.
3.2.1. Phạm vi bảo hiểm.
Theo quy tắc chung về bảo hiểm hàng hóa vận chuyển bằng đường biển
của công ty Bảo hiểm Việt Nam năm 1998, phạm vi trách nhiệm của người bảo
hiểm theo các điều kiện A, B, C như sau:
3.2.1.1. Điều kiện C.
Rủi ro được bảo hiểm: là những mất mát, hư hỏng của hàng hóa do các
nguyên nhân sau:
Cháy hoặc nổ
Tàu hay xà lan bị mắc cạn, đắm hoặc lật úp
Tàu đâm va nhau hoặc tàu, xà lan hay phương tiện vận chuyển đâm va
10
phải các vật thể khác.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Dỡ hàng tại cảng lánh nạn
Phương tiện vận chuyển đường bộ bị lật đổ hoặc trật bánh
Hàng hóa bị mất tích do tàu hoặc phương tiện chở hàng mất tích.
Hy sinh tổn thất chung.
3.2.1.2. Điều kiện B.
Ném hàng khỏi tàu.
Rủi ro được bảo hiểm: như điều kiện bảo hiểm C, còn thêm các trường hợp
sau đây:
Động đât, núi lửa phun hoặc sét đánh.
Nước cuốn khỏi tàu.
Nước biển, nước hồ hay nước sông chảy vào tàu, xà lan, hầm hàng,
phương tiện vận chuyển, container hoặc nơi chứa hàng.
Tổn thất toàn bộ của bất kỳ kiện hàng nào do rơi khỏi tàu hoặc rơi trong
khi đang xếp hàng lên hay dỡ khỏi tàu hay xà lan.
3.2.1.3. Điều kiện A.
Theo điều kiện này, ngoài việc bảo hiểm những điều kiện bảo hiểm B và C,
người bảo hiểm phải chịu trách nhiệm về:
Mọi rủi ro gây ra mất mát, hư hỏng cho hàng hóa được bảo hiểm trừ
những rủi ro loại trừ ở mục 3.2.2 dưới đây.
Các chi phí tổn thất chung và cứu hộ đã chi ra nhằm tránh hoặc có liên
quan tới việc tránh khỏi tổn thất do bất kỳ nguyên nhân nào, loại trừ những
nguyên nhân đã quy định trong các điều 3.2.2 hay ở những điều khác trong hợp
đồng bảo hiểm theo điều kiện này. Các chi phí này được tính toán hoặc xác định
theo hợp đồng chuyên chở và/hoặc theo pháp luật và tập quán hiện hành.
Bồi thường cho người được bảo hiểm phần trách nhiệm theo điều khoản
11
"Hai tàu đâm va nhau cùng có lỗi" trong hợp đồng chuyên chở có liên quan đến
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
một tổn thất thuộc phạm vi bồi thường của bảo hiểm này. Trường hợp chủ tàu
khiếu nại theo điều khoản nói trên thì Người được bảo hiểm phải thông báo cho
Người bảo hiểm là người có quyền bảo vệ Người được bảo hiểm đối với khiếu
nại và tự chịu mọi phí tổn.
3.2.1.4. Những trách nhiệm khác thuộc công ty bảo hiểm.
Ngoài những rủi ro được bảo hiểm nói trên, người bảo hiểm còn phải chịu trách
nhiệm về những tổn thất và chi phí sau đây:
Tổn thất chung và chi phí cứu hộ được phân bổ hay xác định theo hợp
đồng vận tải và hoặc theo luật lệ hay tập quán hiện hành;
Những chi phí và tiền công hợp lý mà người được bảo hiểm hoặc đại lý
của họ đã chi ra nhằm phòng tránh hoặc giảm nhẹ tổn thất cho hàng hóa được
bảo hiểm hay những chi phí kiện tụng để đòi người thứ ba bồi thường;
Những chi phí hợp lý cho việc dỡ hàng, lưu kho và gửi tiếp hàng hóa tại
cảng dọc đường hay cảng lánh nạn do hậu quả của một rủi ro thuộc phạm vi hợp
đồng bảo hiểm.
Những chi phí hợp lý cho việc giám định hoặc xác định số tổn thất mà
người bảo hiểm phải bồi thường.
Phần trách nhiệm mà người được bảo hiểm phải chịu theo điều khoản
"Hai tàu đâm va nhau đều có lỗi" ghi trong hợp đồng vận tải.
3.2.2 Rủi ro loại trừ.
Theo cả ba điều kiện A, B, C, người bảo hiểm sẽ không chịu trách nhiệm
về rủi ro sau đây:
3.2.2.1. Trừ khi có thỏa thuận khác, người bảo hiểm không chịu trách nhiệm
12
đối với những mất mát, hư hỏng hay chi phí gây ra bởi:
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Mất mát, hư hỏng hay chi phí được quy cho là hành vi xấu cố ý của
Người được bảo hiểm.
Đối tượng được bảo hiểm bị rò chảy thông thường, hao hụt trọng lượng
hoặc giảm thể tích thông thường hoặc hao mòn thông thường
Mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra do việc đóng gói hoặc chuẩn bị cho
đối tượng được bảo hiểm chưa đầy đủ hoặc không thích hợp. Chú ý: đóng gói
phải được coi như bao gồm cả việc xếp hàng vào "container" hoặc "kiện gỗ"
nhưng chỉ khi nào việc xếp hàng đó được thực hiện trước khi hợp đồng bảo hiểm
này có hiệu lực hoặc được tiến hành bởi người được bảo hiểm hoặc những người
làm công cho họ.
Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh do khuyết tật vốn có hoặc tính
chất riêng của đối tượng được bảo hiểm.
Mất mát hư hỏng hay chi phí trực tiếp gây ra bởi chậm trễ ngay cả khi
chậm trễ do một rủi ro được bảo hiểm gây ra (trừ những chi phí được trả theo
điều khoản tổn thất chung)
Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ việc sử dụng bất kỳ một loại
vũ khí chiến tranh gì có sử dụng năng lượng nguyên tử, hạt nhân và/hoặc phản
ứng hạt nhân, phóng xạ hoặc tương tự.
Mất mát hư hỏng hay chi phí phát sinh từ tình trạng không trả được nợ
hoặc thiếu thốn về tài chính của chủ tàu, người quản lý, người thuê tàu hoặc
người điều hành tàu.
Hư hại hay một bộ phận hàng hóa bị hư hại hay bị phá hoại có chủ tâm
do hành động sai lầm của bất kỳ người nào gây ra (điều này không áp dụng cho
điều kiện A)
3.2.2.2. Điều khoản loại trừ tàu không đủ khả năng đi biển
Trong bất kỳ trường hợp nào, các điều kiện bảo hiểm sẽ không bảo hiểm
13
cho những mất mát hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Tàu hoặc thuyền không đủ khả năng đi biển
Tàu, thuyền, phương tiện vận chuyển container hoặc kiện gỗ không thích
hợp cho việc chuyên chở an toàn đối tượng được bảo hiểm, nếu Người được bảo
hiểm hoặc những người làm công cho họ biết riêng về trạng thái không đủ khả
năng đi biển hoặc không thích hợp đó vào thời gian đối tượng được bảo hiểm
được xếp vào các phương tiện trên.
Người bảo hiểm bỏ qua mọi trường hợp vi phạm những cam kết ngụ ý tàu
đủ khả năng đi biển và thích hợp cho việc chuyên chở đối tượng được bảo hiểm
tới nơi đến trừ khi Người được bảo hiểm hoặc người làm công cho họ được biết
riêng về trạng thái không đủ khả năng đi biển hay không thích hợp đó.
3.2.2.3. Điều khoản loại trừ chiến tranh.
Trong bất kỳ trường hợp nào các điều kiện bảo hiểm sẽ không bảo hiểm
cho những mất mát, hư hỏng hoặc chi phí gây ra bởi:
Chiến tranh, nội chiến. cách mạng. nổi loạn, khởi nghĩa hoặc xung đột
dân sự phát sinh từ những biến cố đó, hoặc bất kỳ hành động thù địch nào gây ra
hoặc chống lại bên tham chiến.
Bắt giữ, tịch thu, kiềm chế hay cầm giữ và hậu quả của những sự việc đó
hoặc bất kỳ mưu toan nào nhằm thực hiện những hành vi đó.
Mìn, thủy lôi, bom hoặc những vũ khí chiến tranh hoang phế khác.
3.2.2.4. Điều khoản loại trừ đình công
Trong bất kỳ trường hợp nào bảo hiểm này sẽ không bảo hiểm cho những
mất mát hư hỏng hoặc chi phí sau:
Gây ra bởi những người đình công, công nhân bị cấm xưởng hoặc những
14
người tham gia gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo động dân sự.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Hậu quả của đình công, cấm xưởng, gây rối lao động, náo loạn hoặc bạo
động dân sự.
Gây ra bởi bất kỳ kẻ khủng bố hoặc bất kỳ người hành động vì động cơ
chính trị.
3.2.2.5. Trong mọi trường hợp người bảo hiểm không chịu trách nhiệm đối
với những mất mát, hư hỏng và chi phí do:
Việc làm xấu cố ý của người được bảo hiểm.
Chậm trễ là nguyên nhân trực tiếp.
Tàu hoặc xà lan không đủ khả năng đi biển và do tàu, xà lan, phương
tiện vận chuyển hoặc container không thích hợp cho việc chuyên chở hàng hóa
mà người được bảo hiểm hay người làm công cho họ đã biết về tình trạng không
đủ khả năng đi biển và không thích hợp đó vào thời điểm bốc xếp hàng hóa.
Bao bì không đầy đủ hoặc không thích hợp.
Hao hụt tự nhiên, hao mòn tự nhiên, rò chảy thông thường.
Chủ tàu, người quản lý tàu hoặc người thuê tàu không trả được nợ hoặc
thiếu thốn về mặt tài chính.
Xếp hàng quá tải (đối với hàng chuyên chở nguyên chuyến) hoặc xếp
hàng sai quy cách, không đảm bảo an toàn cho hàng hóa khi vận chuyển.
3.3. Phạm vi không gian và thời gian bảo hiểm (cả ba điều kiện A, B, C).
Trách nhiệm bảo hiểm bắt đầu có hiệu lực kể từ khi hàng hóa được bảo
hiểm rời kho đi hoặc nơi chứa hàng tại địa điểm ghi trong hợp đồng bảo hiểm để
15
bắt đầu vận chuyển và tiếp tục có hiệu lực trong suốt quá trình vận chuyển bình
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
thường. Trách nhiệm bảo hiểm kết thúc tại một trong số các thời điểm sau đây,
tùy theo trường hợp nào xảy đến trước:
Khi giao hàng vào kho hay nơi chứa hàng cuối cùng của người nhận
hàng hoặc của một người nào khác tại nơi nhận có tên trong hợp đồng bảo hiểm,
hoặc
Khi giao hàng cho bất kỳ kho hay nơi chứa hàng nào khác, dù trước khi
tới hay tại nơi nhận ghi trong hợp đồng bảo hiểm mà người được bảo hiểm chọn
dùng làm. Đó là nơi chia hay phân phối hàng hoặc nơi chứa hàng ngoài quá trình
vận chuyển bình thường, hoặc
Khi hết hạn 60 ngày sau khi hoàn thành việc dỡ hàng hóa bảo hiểm khỏi
tàu biển tại cảng dỡ hàng cuối cùng ghi trên đơn bảo hiểm.
Nếu sau khi dỡ hàng khỏi tàu biển tại cảng dỡ hàng cuối cùng, nhưng trước
khi kết thúc bảo hiểm, hàng hóa được gửi tới một nơi nhận hàng không đúng với
địa danh nhận hàng ghi trong đơn bảo hiểm thì bảo hiểm này trong khi giữ
nguyên hiệu lực, sẽ không mở rộng giới hạn quá lúc bắt đầu vận chuyển tới một
nơi nhận hàng khác như vậy.
Nếu do những tình huống ngoài khả năng kiểm soát của người được bảo
hiểm mà hợp đồng kết thúc tại một cảng hay một nơi không đúng với ghi nhận
ghi trên đơn bảo hiểm hoặc việc vận chuyển được kết thúc theo cách khác trước
khi giao hàng như những quy định đã nêu ở trên thì hiệu lực bảo hiểm cũng sẽ kết
thúc, trừ khi có giấy báo gửi ngay cho người bảo hiểm yêu cầu tiếp tục bảo hiểm
trong khi bảo hiểm vẫn còn hiệu lực, với điều kiện người bảo hiểm chấp nhận và
người được bảo hiểm phải trả thêm phí bảo hiểm nếu người bảo hiểm yêu cầu,
16
khi:
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Hàng được đem bán hoặc được giao tại cảng hoặc địa điểm đó hoặc trừ
khi có thỏa thuận riêng khác, khi hết hạn 60 ngày sau khi hàng bảo hiểm đến
cảng hay địa điểm đó, tùy theo trường hợp nào đến trước, hoặc
Nếu hàng hóa được gửi đi trong phạm vi 60 ngày đó (hoặc bất kỳ phạm
vi mở rộng nào đã thỏa thuận) để tới nơi nhận hàng có tên ghi trong đơn bảo
hiểm hay tới bất kỳ nơi nhận hàng nào khác thì tới khi kết thúc bảo hiểm theo
những quy định nói trên.
III. Khái quát chung về năng lực cạnh tranh.
1. Một số vấn đề về năng lực cạnh tranh.
1.1. Khái niệm.
Năng lực cạnh tranh là yếu tố quyết định đối với doanh nghiệp trong nền
kinh tế thị trường và nhất là trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế vì bản chất
của cạnh tranh trong cơ chế thị trường và hội nhập là quá trình doanh nghiệp
trong nước ngoài việc cạnh tranh với nhau còn phải trực tiếp cạnh tranh với
doanh nghiệp nước ngoài có tiềm lực tài chính, kinh nghiệm, trình độ phát triển
cao hơn. Như vậy, hiểu khái niệm "năng lực cạnh tranh" góp phần giúp cho các
doanh nghiệp định hướng phát triển năng lực cạnh tranh của mình rõ ràng hơn
trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
Theo lý thuyết thương mại truyền thống, năng lực cạnh tranh được xem xét
qua lợi thế so sánh về chi phí sản xuất và năng suất lao động. Theo M.Porter
"năng lực cạnh tranh phụ thuộc vào khả năng khai thác các năng lực độc đáo
của mình để tạo ra sản phẩm có giá thành thấp và sự dị biệt của sản phẩm".
Diễn đàn cao cấp về cạnh tranh công nghiệp của Tổ chức hợp tác và Phát
triển kinh tế (OECD) đã lựa chọn một định nghĩa kết hợp cho cả doanh nghiệp,
17
ngành, quốc gia như sau: "Sức cạnh tranh là khả năng của các doanh nghiệp,
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
ngành, quốc gia, khu vực trong việc tạo ra việc làm và thu nhập cao hơn trong
điều kiện cạnh tranh quốc tế". Định nghĩa này được đánh giá là phù hợp và phản
ánh được khái niệm cạnh tranh quốc gia trong mối liên hệ gắn kết với hoạt động
cạnh tranh của các doanh nghiệp, tạo việc làm, tăng thu nhập và mức sống của
nhân dân.
Theo Diễn đàn Kinh tế thế giới (WEF) thì năng lực cạnh tranh của doanh
nghiệp "là khả năng có thể đứng vững trên thị trường cạnh tranh, mở rộng thị
phần và tăng lợi nhuận thông qua một số chỉ tiêu như năng suất, chất lượng,
công nghệ, sự khác biệt về hàng hoá dịch vụ được cung cấp, giá trị tăng thêm,
chi phí sản xuất, là khả năng của doanh nghiệp thực hiện tốt hơn đối thủ cạnh
tranh trong việc đạt mục tiêu quan trọng nhất: lợi nhuận". Có thể nói, khái niệm
về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp mà WEF đưa ra đã tóm lược nội dung
của hầu hết các định nghĩa về năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được đưa ra
trên thế giới hiện nay. Do đó, tác giả sử dụng khái niệm về năng lực cạnh tranh
của doanh nghiệp mà WEF đưa ra cho toàn bộ Khoá luận tốt nghiệp.
2. Các yếu tố tác động đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp.
Bất kỳ doanh nghiệp nào cũng hoạt động trong một môi trường kinh doanh nhất
định, các doanh nghiệp bảo hiểm cũng không nằm ngoài quy luật này. Các yếu
tố môi trường kinh doanh tác động đến các doanh nghiệp bảo hiểm theo hai
hướng tích cực và tiêu cực, từ đó có thể tạo thuận lợi hay khó khăn cho doanh
nghiệp trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Các nhân tố này thường được
chia thành hai nhóm: Các nhân tố bên trong và các nhân tố bên ngoài.
2.1. Các nhân tố bên ngoài.
Về mặt kinh tế.
- Tăng trưởng kinh tế: Là nhân tố tác động mạnh đến hoạt động kinh
doanh của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
18
chuyển bằng đường biển. Khi kinh tế tăng trưởng thì dẫn đến hoạt động xuất
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nhập khẩu tăng lên, do đó nhu cầu về bảo hiểm cho hàng hoá chuyên chở bằng
đường biển cũng tăng theo. Các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu sẽ
quan tâm nhiều hơn đến các công ty bảo hiểm và chất lượng dịch vụ của họ. Còn
các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm khi đó sẽ có cơ hội phát triển kinh doanh
và đạt được tốc độ tăng trưởng mạnh mẽ, tăng khả năng tích tụ tư bản từ đó dẫn
tới năng lực cạnh tranh cũng tăng. Mặt khác, tăng trưởng kinh tế làm tăng cầu
trên thị trường bảo hiểm sẽ tạo sức hấp dẫn cho các doanh nghiệp bảo hiểm đang
và sẽ tham gia thị trường. Do đó, môi trường cạnh tranh trong ngành bảo hiểm sẽ
ngày càng gay gắt và khốc liệt hơn. Nếu các doanh nghiệp không nâng cao khả
năng cạnh tranh của mình thì sẽ bị tụt lại phía sau, thậm chí bị mất thị phần cho
những doanh nghiệp khác có sức cạnh tranh cao hơn hoặc là các doanh nghiệp
mới tham gia thị trường.
- Mức độ mở cửa của nền kinh tế: Nền kinh tế càng mở và càng hội nhập
với nền kinh tế thế giới thì môi trường cạnh tranh càng gay gắt, đưa đến cho các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước nhiều cơ hội cũng như nhiều thách thức. Các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước phải cạnh tranh với những đối thủ nước ngoài
với nhiều ưu thế hơn về vốn, kinh nghiệm kinh doanh và công nghệ hiện đại.
Bên cạnh đó, khi mở cửa nền kinh tế, Chính phủ phải dỡ bỏ những rào cản đối
với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài như dỡ bỏ rào cản các doanh nghiệp
100% vốn nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ và tái bảo
hiểm, đồng thời nhà nước cũng phải xoá bỏ những ưu đãi dành cho các doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước. Khi đó, nếu các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước
không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình sẽ bị các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài đánh bại ngay trên thị trường bảo hiểm nội địa.
Về mặt chính sách pháp luật.
Pháp luật và các chính sách của Chính phủ tạo ra môi trường pháp lý để
các doanh nghiệp bảo hiểm hoạt động kinh doanh. Chính trị ổn định, pháp luật
19
về kinh doanh bảo hiểm minh bạch và chặt chẽ sẽ tạo điều kiện cho các doanh
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển cạnh tranh công bằng và có hiệu quả.
Bên cạnh đó, các cam kết song phương và đa phương về bảo hiểm mà một
quốc gia tham gia ký kết với các nước và các tổ chức khác trên thế giới cũng tác
động đến năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm. Các doanh nghiệp
buộc phải tuân theo lộ trình gia nhập hay cam kết về bãi bỏ các biện pháp bảo
hộ. Muốn không bị mất dần thị phần vào các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài,
các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước không còn cách nào khác là phải nâng
cao năng lực cạnh tranh.
Các ngành nghề liên quan.
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển chịu sự
tác động trực tiếp của các nghiệp vụ kinh doanh hàng hoá xuất nhập khẩu và vận
tải đường biển.
Kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước tăng có ý nghĩa
hết sức quan trọng thúc đẩy ngành bảo hiểm phát triển. Hoạt động xuất nhập
khẩu của các doanh nghiệp có mạnh thì nhu cầu về bảo hiểm hàng hoá chuyên
chở bằng đường biển mới cao. Tuy nhiên, việc lựa chọn các điều kiện giao hàng
của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu như thế nào mới là yếu tố tác động lớn
nhất đến sự phát triển của nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển trong nước. Nếu doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập
khẩu trong nước có thói quen xuất theo điều kiện FOB và nhập theo điều kiện
CIF, tức chúng ta không giành được quyền thuê tàu và mua bảo hiểm thì dịch vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu trong nước không thể phát triển được. Ngược
lại, nếu các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu ký được các hợp đồng xuất
20
khẩu theo điều kiện CIF và nhập khẩu theo điều kiện FOB thì không những giúp
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
cho Nhà nước tránh được việc chảy máu ngoại tệ mà còn thúc đẩy sự phát triển
của các nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển và nghiệp vụ giao nhận vận tải.
Bên cạnh đó, chúng ta không thể không tính đến sự tác động của các doanh
nghiệp giao nhận vận tải bằng đường biển trong nước. Chúng ta biết rằng, trong
buôn bán quốc tế, người xuất khẩu cũng như nhập khẩu đều mong muốn giành
được "quyền vận tải", nhất là "quyền về thuê tàu" vì nó sẽ mang lại những lợi thế
nhất định như bên giành được "quyền vận tải" hoàn toàn có thể chủ động trong
việc thuê tàu, tổ chức giao nhận hàng hoá ở cảng gửi hàng, giảm chi và tăng thu
ngoại tệ liên quan đến ngành vận tải...
Việc ngành vận tải đường biển phát triển mạnh sẽ tăng khả năng giành
được "quyền về vận tải" trong đàm phán của các doanh nghiệp xuất nhập khẩu
và thông thường sẽ giành được luôn "quyền mua bảo hiểm" cho hàng hoá được
chuyên chở. Như vậy, nếu ngành vận tải hàng hải của một quốc gia phát triển sẽ
thúc đẩy sự phát triển kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở
bằng đường biển của chính quốc gia đó.
Đối thủ cạnh tranh.
Đối thủ cạnh tranh là một trong những nhân tố bên ngoài ảnh hưởng mạnh
mẽ nhất tới năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh trong
lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất khẩu chuyển chở bằng đường biển. Các doanh
nghiệp trong cùng ngành bảo hiểm sẽ cạnh tranh với nhau gay gắt bằng cách
nâng cao khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp mình như tăng cường khả năng
tài chính, đào tạo đội ngũ cán bộ giỏi về nghiệp vụ, nâng cao chất lượng dịch
vụ... Đối thủ cạnh tranh cũng chia làm hai nhóm:
- Nhóm đối thủ cạnh tranh tiềm năng (bao gồm các doanh nghiệp bảo
21
hiểm chưa tham gia vào lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
chuyên chở bằng đường biển nhưng sẽ tham gia trong tương lai gần bao gồm các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và các công ty bảo hiểm ở ngoài nước...).
Các đối thủ tiềm năng với sự cải tiến sản phẩm, quy mô vốn, chi phí và khả năng
tiếp cận thị trường là những nguy cơ cạnh tranh mà doanh nghiệp bảo hiểm cần
xem xét kỹ lưỡng.
- Nhóm khác là nhóm đối thủ cạnh tranh trong hiện tại phụ thuộc vào số
lượng, quy mô và uy tín của các doanh nghiệp trên thị trường, năng lực tài chính
và chất lượng dịch vụ của những doanh nghiệp bảo hiểm đó trong kinh doanh
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển.
Mức độ cạnh tranh sẽ gay gắt hơn khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương
mại thế giới WTO và thực hiện các chính sách mở cửa nền kinh tế thế giới. Lúc
này, các doanh nghiệp bảo hiểm không chỉ phải cạnh tranh với các doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước mà còn phải cạnh tranh với cả doanh nghiệp bảo hiểm nước
ngoài ở cả thị trường nội địa và quốc tế,
2.2. Các nhân tố thuộc môi trƣờng bên trong.
Có rất nhiều yếu tố cấu thành năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp: công
tác quản trị doanh nghiệp, nguồn nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật và máy móc
thiết bị, sản phẩm và cơ cấu sản phẩm, giá cả, chất lượng sản phẩm, uy tín của
doanh nghiệp trên thị trường, hoạt động nghiên cứu và triển khai của doanh
nghiệp (R&D)...Tuy vậy, trong giới hạn Khoá luận tốt nghiệp này, tác giả chỉ
đưa ra 4 yếu tố để phân tích, bởi đây là những yếu tố tác động mạnh mẽ nhất tới
các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển: Năng lực tài chính, nguồn nhân lực, chất lượng sản phẩm, hiệu
quả hoạt động và môi trường hoạt động của doanh nghiệp.
22
Năng lực tài chính
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Năng lực tài chính là nhân tố tiên quyết cho việc nâng cao năng lực cạnh
tranh của doanh nghiệp. Vai trò của năng lực tài chính đối với việc nâng cao
năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp được thể hiện trên một số khía cạnh sau:
- Năng lực tài chính đảm bảo cho doanh nghiệp khả năng thanh toán, tạo
uy tín của doanh nghiệp đối với khách hàng.
- Năng lực tài chính giúp cho doanh nghiệp khai thác tiềm năng, mở rộng
hoạt động kinh doanh. Việc mở rộng thị trường cũng như đa dạng hoá hoạt động
kinh doanh có ý nghĩa rất lớn trong việc nâng cao uy tín cũng như khả năng chi
phối của doanh nghiệp đối với thị trường kinh doanh nói riêng và nền kinh tế nói
chung.
- Tạo điều kiện để các doanh nghiệp hiện đại hoá công nghệ, nâng cao
hiệu quả kinh doanh. Trong thời đại kinh doanh điện tử, tri thức và thông tin tạo
ra nhiều lợi thế cạnh tranh bền vững cho các doanh nghiệp. Trong cuộc cạnh
tranh gay gắt như hiện nay, đổi mới phương thức tồn tại của doanh nghiệp, ứng
dụng công nghệ thông tin vào hoạt động kinh doanh và quản lý là một nhu cầu
tất yếu khách quan.
Năng lực tài chính của doanh nghiệp được thể hiện qua các chỉ tiêu như:
vốn tự có, nợ phải trả, lợi nhuận trước thuế và quy mô của các quỹ... Ngoài ra
còn một số chỉ tiêu đánh giá hiệu quả tài chính của doanh nghiệp
Nguồn nhân lực của doanh nghiệp bảo hiểm.
Cơ cấu nhân sự trong một doanh nghiệp bảo hiểm bao gồm cán bộ quản lý,
nhân viên và những trung gian trong hệ thống phân phối của doanh nghiệp. Một
công ty bảo hiểm có đội ngũ cán bộ nhân viên năng động sáng tạo trong kinh
doanh được đào tạo cơ bản, có nghiệp vụ cao, có kinh nghiệm trong hoạt động
thực tiễn, có đạo đức nghề nghiệp và có tinh thần đoàn kết, hợp tác sẽ tạo ra sức
mạnh to lớn có thể đưa công ty vượt qua mọi khó khăn và vươn lên trong cạnh
23
tranh.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Đội ngũ quản lý đóng vai trò đầu tàu trong công ty. Bên cạnh đó, đội ngũ
nhân viên trong công ty đóng vai trò rất quan trọng quyết định trực tiếp đến hiệu
quả cuối cùng trong quá trình triển khai nghiệp vụ bảo hiểm. Nhân viên bảo hiểm
là người tiếp xúc trực tiếp với khách hàng. Hình ảnh của công ty trong mắt khách
hàng trước hết phải là người trực tiếp gặp gỡ và tiếp xúc với họ trong quá trình
chào bạn sản phẩm, trong công việc chăm sóc những dịch vụ cụ thể. Mục tiêu
này chỉ đạt được khi công ty có đội ngũ công nhân viên, hệ thống đại lý đủ năng
lực trình độ về nghiệp vụ, có khả năng thuyết phục cao, có đạo đức nghề nghiệp,
có kinh nghiệm hoạt động thực tiễn, quan hệ xã hội rộng và trung thành với công
ty.
Như vậy, để đáp ứng yêu cầu của hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu và hội nhập quốc tế, nguồn nhân lực trong doanh nghiệp bảo
hiểm phải được tiêu chuẩn hoá về chất lượng, năng lực chuyên môn, kỹ năng
nghề nghiệp, năng lực pháp lý, công nghệ, trình độ ngoại ngữ và đạo đức nghề
nghiệp.
Sản phẩm bảo hiểm.
Sản phẩm bảo hiểm là thứ vũ khí cạnh tranh quyết định trực tiếp đến hiệu
quả và uy tín của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển. Sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển cung cấp sự đảm bảo an toàn về tài chính cho các
doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu, được ghi nhận trong hợp đồng bảo
hiểm cùng với dịch vụ hỗ trợ quản lý rủi ro và dịch vụ xử lý sự cố bảo hiểm.
Tuy nhiên, khác với nhiều loại dịch vụ khác là hoạt động mua và sử dụng dịch
vụ diễn ra ngay cùng một thời điểm, sản phẩm bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu vận chuyển bằng đường biển chỉ được sử dụng trong tương lai. Tại thời
24
điểm bán, khách hàng chỉ nhận được những cam kết những lời hứa từ các doanh
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nghiệp bảo hiểm, và khách hàng chỉ được hưởng lợi ích của dịch vụ đem lại (bồi
thường) khi tổn thất xảy ra.
Chuyên chở hàng hoá bằng đường biển thường gặp phải rủi ro rất cao và
tổn thất lớn. Chính vì thế mà trong mỗi nghiệp vụ xuất nhập khẩu hàng hoá, tuỳ
theo điều kiện hợp đồng mà bên mua hoặc bên bán đều phải tiến hành mua bảo
hiểm cho hàng hoá được chuyên chở. Vì vậy, các doanh nghiệp kinh doanh bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu cần phải có các giải pháp marketing tác động vào
các doanh nghiệp xuất nhập khẩu để có thể ký kết được hợp đồng với họ. Do đó,
việc nghiên cứu các yếu tố cấu thành sản phẩm (hợp đồng bảo hiểm, dịch vụ xử
lý sự cố...) cũng như đặc điểm của sản phẩm bảo hiểm sẽ giúp cho các cán bộ
marketing xác định được các hoạt động marketing để nâng cao sức cạnh tranh
của các doanh nghiệp trên thị trường.
Chất lượng sản phẩm bảo hiểm được đánh giá hoàn toàn thông qua mức độ
thoả mãn yêu cầu của khách hàng.
Trình độ khoa học công nghệ.
Ngày nay, khoa học công nghệ có vị trí ngày càng quan trọng trong hoạt
động sản xuất kinh doanh, đặc biệt là trong ngành kinh doanh bảo hiểm. Ngành
bảo hiểm nói chung và hoạt lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên
chở bằng đường biển nói riêng có quy trình kinh doanh ngược nên số liệu cần
quản lý là rất lớn. Vì vậy, việc áp dụng công nghệ hiện đại trong doanh nghiệp là
rất cần thiết. Các yếu tố thuộc công nghệ trong ngành bảo hiểm là những kinh
nghiệm quản lý và kinh doanh, hệ thống máy tính cũng như phần mềm áp dụng
25
trong doanh nghiệp bảo hiểm. Công nghệ tác động mạnh mẽ đến chi phí và chất
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
lượng sản phẩm bảo hiểm. Nếu doanh nghiệp bảo hiểm còn yếu kém trong công
nghệ quản lý và kinh doanh, chưa áp dụng được công nghệ thông tin hiện đại sẽ
không đủ công cụ để thu thập và xử lý thông tin một cách nhanh chóng và chính
xác dẫn đến năng suất lao động của đội ngũ nhân viên cũng như ban lãnh đạo sẽ
rất thấp, chất lượng sản phẩm bảo hiểm kém hấp dẫn dẫn đến khả năng cạnh
tranh thấp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp bảo hiểm áp dụng khoa học công nghệ
hiện đại sẽ tạo ra sản phẩm bảo hiểm có chất lượng cao và chi phí hợp lý, làm
phát triển khả năng của doanh nghiệp trên thị trường.
Vậy thực tế năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam
trong hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển
hiện nay như thế nào? Chương II sẽ làm rõ vấn đề này.
Ch ¬ng II: THỰC TRẠNG BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT
NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VIỆT NAM.
I. Tổng quan về bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đƣờng biển
tại Việt Nam khi gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.
1. Tình hình bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu xuất nhập khẩu bằng
26
đƣờng biển tại Việt Nam khi gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Theo yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội giai đoạn 2003 - 2010 do Đảng ta
đề ra là tăng tích luỹ nội bộ nền kinh tế và khả năng huy động đưa vào đầu tư
trên 80% tổng số tích luỹ nội bộ qua từng năm. Năm 2006, nhịp độ tăng xuất
khẩu gấp 2,79 lần nhịp độ tăng GDP. Trong 7 tháng đầu năm 2007, tổng kim
ngạch xuất khẩu của chúng ta đạt 26,79 tỷ USD tăng 19,6% so với cùng kỳ năm
trước. Như vậy kim ngạch xuất khẩu bình quân của 7 tháng đầu năm đạt 3,83 tỷ
USD/tháng. Vai trò chủ đạo của nền kinh tế nhà nước được tăng cường, kinh tế
tập thể, kinh tế cá thể, tiểu chủ, kinh tế tư bản tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước,
kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài đều phát triển mạnh và lâu dài.
Để thực hiện được các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội trên đây đòi hỏi
phải có một môi trường tài chính tốt, hoạt động kinh doanh bảo hiểm phải là
công cụ tài chính quan trọng hỗ trợ nền kinh tế - xã hội trong việc phòng chống,
khắc phục hậu quả các rủi ro và là kênh huy động vốn và đầu tư cho phát triển,
giảm thiểu các khoản chi từ ngân sách nhà nước, ổn định đời sống dân cư và
hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp. Hơn nữa, nước ta đang trong quá
trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá, hội nhập khu vực và đã trở thành thành
viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO nên khối lượng hàng hoá
xuất khẩu cũng như nhập khẩu ngày càng tăng nhanh. Do vậy, bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu hứa hẹn là nhân tố tiềm năng góp phần làm tăng doanh thu
cho toàn bộ thị trường bảo hiểm. Để tận dụng tiềm năng to lớn này và thúc đẩy
thị trường bảo hiểm nói riêng, nền kinh tế nói chung phát triển thì việc xem xét
thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm nhằm tìm ra lợi nhuận và hạn chế
để đưa ra giải pháp khắc phục, phát triển là điều cần thiết. Sau đây, chúng ta sẽ
xem xét thực trạng hoạt động của thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
27
vận chuyển bằng đường biển đang diễn ra như thế nào.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
1.1. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển chưa tương
xứng với tiềm năng xuất nhập khẩu.
1.1.1. Tình hình xuất nhập khẩu của Việt Nam trong những năm qua.
Ngoại thương của Việt Nam cuối thập kỷ 1980 và đầu thập kỷ 1990 chỉ có
những bạn hàng chủ yếu là các nước thuộc Liên Xô và Đông Âu cũ với những
mặt hàng xuất khẩu manh mún, đơn điệu, chủ yếu là nông sản, nguyên liệu và
hàng thủ công mỹ nghệ, hàng gia công bán thành phẩm. Tuy nhiên, nhờ có chính
sách đổi mới đa phương hoá quan hệ kinh tế của Đảng và Nhà nước, đến cuối
năm 1997 đầu năm 1998, hàng hoá và dịch vụ của Việt Nam đã có mặt trên hơn
150 nước ở khắp các châu lục với những chủng loại hàng hoá đa dạng phong phú
hơn.
Thực hiện đường lối đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng và
lãnh đạo, chính phủ đã ban hành nhiều chính sách khuyến khích mọi thành phần
kinh tế tham gia sản xuất, kinh doanh xuất nhập khẩu. Nhờ đó, hoạt động xuất
nhập khẩu đã có những bước phát triển mạnh. Một số sản phẩm hàng hoá và dịch
vụ của nước ta không những đứng vững ở thị trường trong nước, mà còn có khả
năng vươn ra thị trường nước ngoài, góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu.
Bảng 1: Bảng số liệu tổng kim ngạch xuất nhập khẩu theo năm (Đơn vị tính:
Triệu USD)
28
Năm Xuất khẩu Nhập khẩu Tổng kim ngạch
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
1996 7.255 11.143 18.398
1997 9.185 11.592 20.777
1998 9.361 11.500 20.861
1999 11.541 11.622 23.163
2000 14.483 15.637 30.120
2001 15.029 16.218 31.247
2002 16.706 19.746 36.452
2003 20.149 25.256 45.405
2004 26.503 32.075 58.578
2005 32.223 36.881 69.104
2006 39.605 44.41 84.015
Nguồn:http://www.cesti.gov.vn/left/stinfo/the_gioi_du_lieu/solieuthongke/kt_xh/
2006/2006_03_kt3
Nhìn vào bảng số liệu có thể thấy, kể từ năm 1996 đến nay, tổng kim
ngạch xuất khẩu nước ta đạt 181,891 triệu USD với tốc độ tăng nhanh, trung
bình khoảng 15,581%/năm. Trong đó, tổng kim ngạch xuất khẩu giai đoạn 1996
- 2000 đạt 51.825 triệu USD, tăng trung bình 10,565%/năm và giai đoạn 2001-
2006 là 150,215 triệu USD, tăng trung bình 24,31%/năm. Đặc biệt trong năm
2006, kim ngạch xuất khẩu bình quân đầu người của nước ta đạt khoảng 476,48
USD/người.
Song song với chủ trương khuyến khích mạnh mẽ xuất khẩu, hoạt động
nhập khẩu cũng được xác định có vai trò hết sức quan trọng, được Đảng và Nhà
nước quan tâm, hướng mục tiêu phục vụ cho sự phát triển thị trường nội địa, cho
sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nhanh chóng hội nhập với
khu vực và thế giới. Tốc độ tăng trưởng nhập khẩu bình quân giai đoạn 1996-
29
2006 là 15,46%. Cơ cấu mặt hàng nhập khẩu có sự chuyển biến theo hướng tích
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
cực, tăng tỷ trọng máy móc, thiết bị, nguyên nhiên vật liệu phục vụ cho sản xuất,
giảm dần tỷ trọng hàng tiêu dùng
Có thể nói, hoạt động xuất nhập khẩu của Việt Nam trong giai đoạn vừa
qua đã đạt được những thành tựu to lớn, góp phần tích cực thúc đẩy kinh tế trong
nước phát triển, hình thành nhiều ngành sản xuất phục vụ xuất khẩu, tạo việc làm
cho người lao động, tạo cơ sở và khuyến khích các nước hợp tác kinh tế và đầu
tư vào Việt Nam. Hoạt động xuất nhập khẩu từng bước nâng cao vị thế của Việt
Nam trên trường quốc tế. [15], [16].
1.1.2. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu ở Việt Nam chƣa tƣơng xứng với
tiềm năng xuất nhập khẩu.
Lịch sử bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam đã có từ lâu.
Ngay từ khi thành lập, các công ty bảo hiểm phi nhân thọ của thị trường đều tiến
hành khai thác nghiệp vụ này. Trong giai đoạn hiện nay các công ty bảo hiểm đã
có nhiều nỗ lực đáng kể trong việc khai thác bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển nói riêng. Các
công ty đã đổi mới phương cách hoạt động, chất lượng phục vụ, quan tâm nhiều
đến quản lý và đánh giá rủi ro... để nâng cao uy tín, vị thế của công ty mình
trong môi trường cạnh tranh sôi động và gay gắt hiện nay. Bên cạnh đó, mạng
lưới dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đến nay đã phát triển rộng, trình
độ của đội ngũ khai thác viên ngày càng được nâng cao nên phong cách và chất
lượng phục vụ khách hàng đã có chuyển biến tích cực. Điều khoản, điều kiện, tỉ
lệ phí luôn được sửa đổi bổ sung nhằm đáp ứng yêu cầu bảo hiểm của khách
hàng trong và ngoài nước. Các nhà bảo hiểm cũng đã quan tâm nhiều hơn đến
các công tác tuyên truyền bằng nhiều hình thức quảng cáo, hội nghị, hội thảo
30
theo chuyên đề làm cho nhận thức của khách hàng ngày càng được nâng cao.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Với sự nỗ lực trên thị trường, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển ở Việt Nam đã ngày càng khai thác được nhiều lô hàng
bảo hiểm cũng như các dịch vụ bảo hiểm mới. Các con số doanh thu phí và kim
ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước tăng hàng năm cả
về con số tương đối lẫn con số tuyệt đối. Tuy nhiên, khả năng khai thác của các
công ty bảo hiểm trên thị trường còn khiêm tốn, chưa tương xứng với tiềm năng
sẵn có. Mặc dù kim ngạch xuất nhập khẩu của cả nước hàng năm tăng đáng kể,
nhưng cho đến nay, hoạt động bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu do các
công ty bảo hiểm Việt Nam tiến hành vẫn còn ở mức rất hạn chế, tốc độ tăng
trưởng không cao, chỉ đạt mức khá khiêm tốn, có giai đoạn theo chiều hướng
giảm xuống.
Thực tế từ năm 1996 đến 2006, các doanh nghiệp bảo hiểm hàng năm chỉ
bảo hiểm được khoảng 23% đến 25% kim ngạch nhập khẩu và từ 5% đến 6%
31
kim ngạch xuất khẩu trong cả nước. Cụ thể theo bảng số liệu sau:
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Bảng 2: Tỷ trọng kim ngạch xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước giai
đoạn 1996-2006
Xuất nhập khẩu
Tổng giá trị hàng Hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đư-
hoá xuất nhập khẩu ờng biển tham gia bảo hiểm trong nước
vận chuyển bằng Số tuyệt đối (triệu đường biển (triệu Tỷ trọng (%) USD) Năm USD)
1996 16.928 2.098 12,39
1997 18.908 1.971 10,43
1998 19.425 2.062 10,61
1999 21.54 2.19 10,16
2000 26.865 3.445 12,82
2001 28.612 3.367 11,77
2002 33.455 4.027 12,04
2003 41.755 5.258 12,59
2004 52.343 6.541 12,49
2005 61.649 8.729 14,16
2006 83.746 12.763 15,24
Nguồn: Tạp chí thị trường Bảo hiểm -Tái bảo hiểm số 1, các năm 2003-2007
Qua bảng số liệu ta có thể thấy rằng, tỷ trọng hàng hoá xuất nhập khẩu bằng
đường biển được bảo hiểm có tốc độ tăng chậm, thậm chí năm 1999 tỷ trọng
hàng hoá tham gia bảo hiểm còn bị giảm, hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu
hàng hoá tăng trưởng mạnh nhưng giá trị kim ngạch xuất nhập khẩu được mua
bảo hiểm ở các công ty bảo hiểm trong nước còn nhỏ bé, phần còn lại chủ yếu
32
rơi vào các công ty bảo hiểm nước ngoài.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Như vậy bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt Nam chưa tương
xứng với tiềm năng cũng xuất phát từ những nguyên nhân nội tại của nó:
Thứ nhất, đây là một nghề non trẻ:
Ngoại trừ công ty bảo hiểm Bảo Việt được thành lập từ năm 1965 thì các
công ty bảo hiểm khác mới được "khai sinh" sau Nghị định 100CP của Chính
phủ ngày 18 tháng 12 năm 1993. Hiện nay, uy tín của các ngành bảo hiểm Việt
Nam đối với khách hàng nước ngoài chưa cao, nhiều đối tác chưa biết cũng như
chưa hiểu và tin tưởng về mức an toàn, khả năng tài chính và thủ tục giải quyết
khiếu nại bồi thường của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam. Đây là những
trở ngại đáng kể cho các công ty nước ngoài tham gia mua bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu.
Thứ hai, qui mô vốn của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước hạn chế:
Với số vốn khiêm tốn nên đối với những lô hàng có giá trị lớn, khách hàng
thường muốn mua bảo hiểm tại những công ty bảo hiểm nước ngoài có vốn lớn
chứ không muốn mua bảo hiểm tại Việt Nam hoặc nếu khách hàng mua bảo
hiểm tại các công ty Việt Nam thì họ thường phải tái bảo hiểm ở các công ty bảo
hiểm nước ngoài.
Thêm vào đó, công nghệ bảo hiểm của ta còn lạc hậu. Việc triển khai
nghiệp vụ bảo hiểm qua các khâu như đánh giá rủi ro, giám định, thu phí bảo
hiểm, bồi thường... phần lớn còn chậm, chưa chuyên nghiệp. Trình độ cán bộ
bảo hiểm chưa đáp ứng được những đòi hỏi khắt khe nhưng cũng rất linh hoạt
33
của cơ chế thị trường.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Thứ ba, tình hình phổ biến hiện tại Việt Nam từ trước đền nay là các doanh
nghiệp xuất khẩu theo điều kiện FOB và nhập khẩu theo điều kiện CIF, tức
chúng ta không giành được quyền mua bảo hiểm:
Theo Các điều kiện thương mại quốc tế Incoterms 2000 có tất cả 13 điều
kiện mua bán được quốc tế hoá bằng tiếng Anh, áp dụng chung cho hoạt động
thương mại quốc tế. Trong đó hai điều kiện giao hàng FOB và CIF thường được
các bên tham gia sử dụng. Theo điều kiện giao hàng FOB quy trình người mua
chịu mọi phí tổn thất và đảm bảo an toàn cho tài sản của mình, bên nhập khẩu sẽ
mua bảo hiểm, đồng thời có nghĩa vụ thuê tàu và trả cước phí vận chuyển. Còn
điều kiện giao hàng CIF cũng quy định trách nhiệm của người bán kết thúc khi
hàng đã qua khỏi lan can tàu tại cảng gửi, nhưng xác định cụ thể người bán phải
trả cước vận chuyển và ký hợp đồng bảo hiểm hàng hải tránh cho bên mua
những rủi ro đối với hàng hoá có thể xảy ra trong quá trình vận chuyển. Đơn bảo
hiểm này được phía xuất khẩu ký hậu và chuyển giao cho phía nhập khẩu. Như
vậy, đối với hoạt động nhập khẩu nếu nhập theo điều kiện CIF, quyền vận tải và
bảo hiểm thuộc phía nước ngoài. Với các quyền đó, đối tác nước ngoài tuỳ ý
thuê tàu và mua bảo hiểm. Theo lẽ thường họ sẽ ký hợp đồng với các công ty của
nước mình. Các công ty bảo hiểm nước ngoài vì thế có điều kiện phát triển hơn.
Hiện nay, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam còn e ngại trong
việc giành quyền mua bảo hiểm. Một phần là do năng lực tài chính của họ còn
yếu, không đủ khả năng giành quyền mua bảo hiểm trong các đàm phán ngoại
thương. Mặt khác, một số doanh nghiệp xuất khẩu sợ gặp phải rủi ro trong việc
thuê tàu và mua bảo hiểm như: giá cước tăng cao, phí bảo hiểm tăng, không thuê
được tàu... cũng như lo ngại không đáp ứng đầy đủ yêu cầu của đối tác nước
ngoài trong bối cảnh năng lực hoạt động của các công ty bảo hiểm và đội tàu
34
biển Việt Nam còn hạn chế. Ngoài ra, do các nhà xuất nhập khẩu Việt Nam đã
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
quen với tập quán thương mại xuất khẩu theo điều kiện FOB, nhập khẩu theo
điều kiện CIF, nên việc thay đổi tập quán cũ này khó thực hiện trong một sớm
một chiều.
Bên cạnh đó, chúng ta thiếu sự phối hợp giữa các ngành thương mại, vận
tải và bảo hiểm. Tại Việt Nam, tình trạng "đèn nhà ai, nhà ấy rạng" của ba ngành
xuất nhập khẩu, vận tải và bảo hiểm còn khá phổ biến. Do thiếu sự phối hợp chặt
chẽ giữa chủ hàng, chủ tàu và các nhà bảo hiểm Việt Nam nên nhiều khi có tình
trạng có hàng để xuất khẩu nhưng các công ty bảo hiểm lại không được bảo hiểm
số hàng đó.
Theo báo cáo của Bộ Thương mại tại hội nghị Thương mại toàn quốc
ngày 1/2/2007 tại Hà Nội, trong năm 2006, cả nước xuất khẩu 39,6 tỷ USD (trị
giá FOB) chiếm khoảng 99% trị giá hàng xuất khẩu và nhập khẩu 44,4 tỷ USD
(trị giá CIF) chiếm 99,98% trị giá hàng nhập khẩu.[17], [19]
1.2. Doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển còn thấp qua các năm.
Trong vòng 10 năm sau khi mở cửa thị trường bảo hiểm, thi trường bảo
hiểm Việt Nam ngày càng phát triển mạnh và tương đối ổn định. Tuy tỷ trọng
kim ngạch xuất nhập khẩu của nước ta tăng nhanh, nhưng đến nay hoạt động bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tại các công ty bảo hiểm Việt Nam vẫn còn ít, tốc
35
độ tăng trưởng không cao.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Bảng 3: Doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển toàn thị trường giai đoạn 1996-2006.
Tổng phí bảo hiểm hàng Tốc độ tăng phí bảo hiểm hàng hoá xuất hoá xuất nhập khẩu vận nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển Năm chuyển bằng đường biển (%) trong năm (triệu USD)
1996 9,88
1997 8,36 -18,18
1998 10,56 +26,31
1999 8,868 -19,08
2000 10,82 +12,20
2001 10,01 -7,99
2002 12,41 +23,97
2003 14,145 +13,98
2004 16,171 +14,31
2005 21,823 34,95
2006 31,405 43,91
Nguồn: Tạp chí thị trường Bảo hiểm -Tái bảo hiểm số 1 của các năm 2003-2007
Năm 1999 được coi là năm đặc biệt khó khăn với bảo hiểm hàng hoá vận
chuyển bằng đường biển, tổng phí bảo hiểm hàng hoá vận chuyển bằng đường
biển toàn thị trường là 8,868 triệu USD chỉ bằng khoảng 80,02% so với năm
1998 (đạt 10,56 triệu USD), đạt mức tăng trưởng âm (xuất khẩu chỉ bằng 84,7%
36
và nhập khẩu bằng 91% so với năm 1998).
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Nhìn vào bảng số liệu trên ta có thể thấy: mức doanh thu phí bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển ở nước ta còn thấp, hầu hết doanh thu phí
bảo hiểm đều tập trung vào tay các công ty bảo hiểm nước ngoài. Tính bình quân
trong giai đoạn 1996-2006 doanh thu phí bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển bình quân đạt khoảng 15,45 triệu USD. Mức doanh thu
phí bảo hiểm thấp, lại không ổn định: các năm 1996, 1998, 2000 có mức tăng
trưởng cao trong khi có những năm mức tăng trưởng âm như năm 1999 giảm gần
19% so với năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực,
còn năm 1997 giảm hơn18% so với năm 1996. Điều này cho thấy hoạt động bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nước ta một số năm
trước chưa ổn định, còn chịu tác động của các yếu tố bên ngoài.
Sang giai đoạn 2000-2006, trên thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đường biển đã có những chuyển biến tích cực do nền kinh
tế tăng trưởng nhanh về kim ngạch xuất nhập khẩu, GDP tăng mạnh (đạt mức
8,2% năm 2006). Bên cạnh đó, các nhà bảo hiểm đã rút ra nhiều bài học và đang
dần tìm cách tháo gỡ các hạn chế, khó khăn tồn đọng. Doanh thu phí bảo hiểm
năm 2002 tăng 23,97% về số tương đối và tăng 2,4 triệu USD về số tuyệt đối so
với năm 2001. Đặc biệt, trong năm 2005, tốc độ tăng phí bảo hiểm đạt mức
34,95% tăng gần 2,44 lần so với năm 2004 và đến năm 2006, tốc độ tăng phí bảo
hiểm đã đạt tới mức 43,91%.
Mặc dù tổng doanh thu phí bảo hiểm liên tục tăng trong trong các năm qua,
nhưng mức phí bảo hiểm vẫn đang duy trì ở mức thấp. Các nhà bảo hiểm đưa ra
lý do giải thích việc thực trạng này: đó là do thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu nói chung và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại
Việt Nam nói riêng đang diễn ra cuộc cạnh tranh khốc liệt, đua hạ phí, tăng hoa
hồng và mở rộng điều kiện bảo hiểm trái với thông lệ quốc tế. Đi cùng với kiểu
37
cạnh tranh trên là độ rủi ro ngày càng lớn trong hoạt động của nhiều doanh
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nghiệp. Để thu hút khách hàng, các công ty bảo hiểm đã không ngừng tăng phí
hoa hồng cho đại lý, cho người môi giới, giảm phí bảo hiểm đến mức thấp nhất
có thể.
Trong vòng một năm từ năm 2004 đến 2005, mức phí bảo hiểm bình quân
đã hạ tới 40%, đặc biệt có những mặt hàng phí bảo hiểm giảm tới 70 - 80%.
Trong khi đó, hoa hồng đã tăng từ 3 đến 4 lần mức quy định của Bộ tài chính.
Một số công ty bảo hiểm đã mở rộng điều kiện thái quá, trái với thông lệ bảo
hiểm quốc tế như không thu phí tàu già, nhận bảo hiểm cả thiếu hàng trong
container nguyên kẹp chì mà những rủi ro này chủ yếu thuộc trách nhiệm của
người bán. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển lâu
nay vẫn là một loại hình bảo hiểm tự nguyện, không có bất cứ sự bảo hộ nào của
Nhà nước. Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam cũng đã nhiều lần tổ chức họp các ban
không chuyên để thống nhất một số biện pháp như đề ra phí sàn đối với một số
mặt hàng chủ lực do tỷ lệ bồi thường các mặt hàng này quá cao (từ 150% đến
200%).
Bên cạnh đó, Hiệp hội đã đưa ra một số khuyến cáo tổn thất đối với hàng
hoá thường xảy ra ở một số chủ hàng, một số cảng với một số mặt hàng như
phân bón, sắt thép nguyên thanh nguyên bó... Song một số doanh nghiệp bảo
hiểm (nhất là các doanh nghiệp bảo hiểm mới ra đời hoặc có thị phần thấp) vẫn
chấp nhận bảo hiểm với cả rủi ro giao thiếu hàng, mất cắp, hạ mức khấu trừ,
thậm chí hạ phí bảo hiểm đến mức không bù đắp được chi phí giám định khi
hàng bị tổn thất. Tình trạng không thu phí tàu già ngay cả khi bị tổn thất, thậm
chí không thu phí tàu già vẫn phát hành hoá đơn để chủ hàng đòi chủ tàu vẫn còn
xảy ra. Việc bắt giữ tàu gây tổn thất thiệt hại cho hàng hoá, ảnh hưởng đến
quyền lợi chủ hàng và doanh nghiệp bảo hiểm đang được đặt ra sao cho có văn
38
bản.[11]
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
1.3. Tổn thất và bồi thường nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận
chuyển bằng đường biển toàn thị trường.
Tổn thất Hàng hải nói chung, hàng hoá xuất nhập khẩu nói riêng có đặc
điểm đó là khi xảy ra rủi ro, tổn thất thường rất lớn. Điều này kéo theo tỷ lệ bồi
thường nghiệp vụ này khá cao, đôi khi chỉ có một số rất ít vụ tổn thất xảy ra
nhưng thiệt hại phải bồi thường chiếm tỷ trọng cao trong tổng doanh thu phí bảo
hiểm, thậm chí còn lớn hơn. Về mặt này thực tiễn trên thế giới đã chứng minh rất
rõ, lại do hoạt động bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường
biển chịu rủi ro từ rất nhiều nguyên nhân khác nhau, nên việc các nhà bảo hiểm
hàng hải thế giới chịu thua lỗ trong nhiều năm là chuyện không có gì đáng ngạc
nhiên, thậm chí nhiều nghiệp đoàn lớn vẫn chịu thua lỗ phải rút ra khỏi thị
trường. Đối với Việt Nam những năm gần đây, tình hình tổn thất tuy không khả
quan hơn nhiều, song vẫn giữ được ở mức có thể chấp nhận và có lợi nhuận.
Tình hình này được thể hiện rất rõ qua bảng số liệu sau:
Bảng 4: Tỷ trọng hàng hoá xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm bị tổn thất qua
các năm 1996-2006
Hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
Tổng phí bảo hiểm hàng hoá bằng đường biển tham gia bảo hiểm bị
xuất nhập khẩu vận chuyển tổn thất Năm bằng đường biển tham gia bảo Số tuyệt đối (triệu hiểm trong nước (triệu USD) Tỷ lệ tổn thất (%) USD)
9,88 9,161 92,72 1996
8,36 4,958 59,30 1997
10,56 6,343 60,06 1998
8,868 7,138 80,49 1999
10,82 5,792 53,53 2000
10,01 6,306 62,30 2001
39
12,41 6,078 48,97 2002
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
2003 14,145 6,515 46,06
2004 16,170 7,483 46,28
2005 21,823 9,953 45,59
2006 31,405 13,112 44,95
Nguồn: Tạp chí thị trường Bảo hiểm -Tái bảo hiểm số 1 của các năm 2003-2007
Tỷ lệ tổn thất trung bình giai đoạn năm 1996-1999 rất cao, khoảng 73,14%,
đặc biệt trong 2 năm 1996 và 1999 tỷ lệ tổn thất lên đến 92,72% và 80,49% do
có nhiều vụ tổn thất hàng hoá xuất nhập khẩu lớn. Nguyên nhân gia tăng tổn thất
năm 1999 được giải thích bằng sự bất ổn kinh tế, chính trị thế giới và khu vực,
sự phát triển ngành vận tải biển về năng suất và phạm vi hoạt động làm tăng
nguy cơ rủi ro trong hoạt động vận chuyển hàng hoá bằng đường biển.Trong
năm gần đây từ năm 2000 đến 2006, tình hình bồi thường tổn thất khả quan hơn,
tỷ lệ bồi thường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển bình quân
khoảng 56%.
Nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ bồi thường giảm cũng một phần là do các yếu tố:
- Các nhà bảo hiểm thận trọng hơn trong việc đánh giá rủi ro nhận bảo hiểm.
- Công tác đề phòng hạn chế tổn thất được quan tâm thích đáng, được coi
như là phương pháp hữu hiệu hơn cả trong việc góp phần đảm bảo kinh doanh
của các doanh nghiệp đạt hiệu quả.
- Sự phát triển của ngành vận tải biển đã làm tăng chất lượng tàu chuyên
chở đồng thời giảm khả năng xảy ra rủi ro cho các chuyến vận chuyển hàng hoá
40
xuất nhập khẩu do tàu không đủ khả năng đi biển.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
- Công tác đề phòng hạn chế tổn thất được quan tâm thích đáng, được coi
như là phương pháp hữu hiệu hơn cả trong việc góp phần đảm bảo kinh doanh
của các doanh nghiệp đạt hiệu quả cao.
- Các công ty bảo hiểm cũng đã phối hợp với các cảng biển Việt Nam ngay
khi tàu cập cảng. Việc xử lý và chia sẻ tổn thất của toàn tàu cho tất cả các chủ
hàng trên tàu phần nào đã tránh được tình trạng tổn thất dồn vào một số chủ hoặc
có chủ nhận thừa, có chủ nhận thiếu.
- Các công ty bảo hiểm cũng đã phối kết hợp với nhau trong công tác giám
định hàng tổn thất, bắt tàu... giúp giảm thiểu các chi phí có thể phát sinh không
cần thiết.
- Khâu giải quyết bồi thường xử lý nhanh, hợp lý.
Thời gian gần đây, số vụ tổn thất đặc biệt lớn thuộc trách nhiệm bồi thường
của các công ty bảo hiểm Việt Nam rất ít. Trong 6 năm qua (từ 2000-2006) chỉ
có 4 vụ tổn thất với mức bồi thường trên dưới 1 triệu USD (ngoại trừ vụ tàu Zhe
Hai 308 của Trung Quốc bị chìm vào ngày 20/02/2005 kéo theo 2,3 triệu USD
hàng thép do phía Việt Nam bảo hiểm bị thiệt hại). Số vụ bồi thường từ
10000USD đến 30000 USD khá nhiều ở những mặt hàng gạo xuất đi Iraq, Cuba
hay những lô bã đậu nành, bột cá,vv... nhập khẩu, song cũng không ảnh hưởng
nhiều tới kết quả kinh doanh của nghiệp vụ này.
II. Thị trƣờng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam khi gia nhập tổ
chức thƣơng mại thế giới WTO.
Nhìn chung trong 3-4 năm trở lại đây, việc mở cửa thị trường dịch vụ bảo
hiểm có tác động tích cực về nhiều mặt đối với thị trường bảo hiểm trong nước.
Các doanh nghiệp bảo hiểm thuộc sở hữu Nhà nước đã được cơ cấu lại để tăng
41
sức cạnh tranh. Do đó, về cơ bản các doanh nghiệp trong nước đã có sự chuẩn bị
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
tích cực cho việc tiếp tục cạnh tranh đối với các doanh nghiệp nước ngoài khi gia
nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Tuy nhiên, cạnh tranh trên thị trường
bảo hiểm sẽ gay gắt hơn.
1. Sự cạnh tranh giữa các công ty bảo hiểm trên thị trường bảo hiểm phi nhân
thọ ở Việt Nam hiện nay.
Nghị định số 100/CP của chính phủ ban hành ngày 18/02/1993 từng bước
cho phép các doanh nghiệp nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên doanh và
công ty 100% vốn nước ngoài kinh doanh bảo hiểm ra đời và hoạt động. Sự cho
phép này đánh dấu bắt đầu một thời kỳ cạnh tranh gay gắt để giành dịch vụ giữa
các công ty bảo hiểm và chấm dứt sự độc quyền của Bảo Việt.
Trước năm 1995, trên thị trường Việt Nam chỉ có duy nhất một công ty
Bảo Việt nên không xảy ra cạnh tranh, Bảo Việt nắm thế độc quyền trong kinh
doanh bảo hiểm. Nhưng sau năm 1995, thị trường bảo hiểm trở nên sôi động,
hấp dẫn và có chất lượng hơn do có thêm các công ty bảo hiểm mới ra đời. Năm
1995, sau khi nghị định 100/CP ban hành được một năm, các công ty bảo hiểm
khác ngoài hệ thống Bảo Việt ra đời. Trước tiên là công ty bảo hiểm thành phố
Hồ Chí Minh, công ty tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam - Vine Re, công ty cổ
phần bảo hiểm Nhà Rồng, công ty cổ phần bảo hiểm Petrolimex, và năm sau đó
là công ty bảo hiểm dầu khí và công ty liên doanh bảo hiểm quốc tế Việt Nam ra
đời. Năm 1995 có thể coi là năm khởi đầu thật sự cho ngành bảo hiểm Việt Nam
với đầy đủ ý nghĩa của nó.
Các năm tiếp theo, trên thị trường đã xuất hiện đầy đủ các loại hình doanh
nghiệp bảo hiểm, đó là: doanh nghiệp Nhà nước, công ty cổ phần, công ty liên
doanh và công ty 100% vốn nước ngoài.
Lộ trình mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam trong thời gian qua được
42
đánh giá là tương đối mạnh. Số lượng doanh nghiệp chính thức kinh doanh bảo
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
hiểm phi nhân thọ tại Việt Nam tính đến hết năm 2006 là 21 doanh nghiệp trong
đó có 9 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Nhiều doanh nghiệp bảo hiểm
mới thành lập đã đi vào ổn định và bắt đầu mở rộng hoạt động như: BIC phát
triển mạnh nhờ sự hỗ trợ tích cực của BIDV trong các dự án đầu tư lớn, Bảo
hiểm Toàn Cầu (GIC) tận dụng khai thác triệt để ở các dịch vụ bảo hiểm kỹ thuật
và tài sản từ các cổ đông lớn là SFC (Công ty bay dịch vụ) và EVN.
Về thị phần của các doanh nghiệp trên thị trường bảo hiểm phi nhân thọ,
không như trước đây, giai đoạn độc quyền của Bảo Việt (chiếm 100% thị phần).
Hiện nay, với sự xuất hiện nhiều công ty bảo hiểm, thị phần đã được chia sẻ, các
công ty ra đời sau đã bắt đầu tăng thị phần. Bên cạnh đó, Vietnam Airlines cũng
đang có kết hoạch thành lập công ty bảo hiểm.
Thị trường bảo hiểm phi nhân thọ năm 2006 tiếp tục có sự tăng trưởng.
Doanh thu phí bảo hiểm phi nhân thọ ước đạt 6,445 tỷ đồng, tăng 17,5% so với
năm 2005. 12 doanh nghiệp bảo hiểm trong nước vẫn nắm giữ thị trưởng bảo
hiểm phi nhân thọ với thị phần 94,9%. Tuy nhiên, về thực chất, thị phần doanh
thu phí bảo hiểm phi nhân thọ vẫn tập trung chủ yếu vào các doanh nghiệp lớn
như Bảo Việt 34,9%, Bảo Minh 21,3%, PVI 18,1% và Pjico 10,5%. 9 doanh
43
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài chia nhau 5,1% còn lại.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Nguồn: http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=42414.
Nhìn vào biểu đồ trên ta thấy, Bảo Việt vẫn nắm giữ một thị phần tương
đối lớn (34,9%). Sở dĩ như vậy là vì Bảo Việt có lịch sử phát triển lâu nhất, có
uy tín cao trên thị trường, có một mạng lưới khai thác bảo hiểm trong các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu của Việt Nam nên nhiều hợp đồng lớn của nhà nước được
bảo hiểm ở công ty này. Các công ty như Bảo Minh, Pjico, Dầu khí mặc dù ra
đời sau, nhưng có cách chính sách hoạt động thông thoáng, chính sách khách
hàng phù hợp nên đã càng ngày chiếm thị phần cao trên thị trường. Các công ty
còn lại mặc dù thị phần còn rất thấp do mới thành lập, nhưng cũng đang mở rộng
quy mô khai thác để tăng thị phần và cạnh tranh bình đẳng với các công ty lớn.
Tuy nhiên, theo đánh giá chung của Vụ Bảo hiểm, Bộ tài chính, bên cạnh
sự tăng trưởng ổn định trong năm 2006, thị trường bảo hiểm phi nhân thọ vẫn
còn nhiều vấn đề nổi cộm như cạnh tranh hạ phí, tăng chi phí khai thác, chưa
kiểm soát được trục lợi bảo hiểm, một số vấn đề về thoả thuận tàu biển, hàng
hoá... chưa được thực hiện triệt để. "Các doanh nghiệp bảo hiểm mới chỉ lo cạnh
tranh với nhau mà quên đi việc phải làm sao cạnh tranh được với chính các dịch
vụ tài chính khác"_ ông Trịnh Thanh Hoan, Vụ trưởng Vụ Bảo hiểm (Bộ Tài
chính) nhận xét.
Những hình thức cạnh tranh không lành mạnh đang diễn ra trên thị trường
được liệt kê ra như: hạ phí, mở rộng quá mức quyền lợi bảo hiểm không tính đến
hiệu quả kinh doanh. Có cả chuyện doanh nghiệp cạnh tranh thông qua sự can
thiệp hành chính để các doanh nghiệp khác không được tiếp cận khai thác dịch
vụ, từ đó phí khai thác dịch vụ bảo hiểm chủ yếu tập trung vào một doanh nghiệp
trong một ngành một lĩnh vực.
Trong khi đó, hoạt động của các công ty nước ngoài tiếp tục hướng vào
44
chuyên môn hoá, với chiến lược "chọn lọc rủi ro, tập trung vào khúc thị trường
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
mục tiêu" nên dù mức độ cạnh tranh chưa cao, nhưng họ đang chiếm lĩnh dần
các khúc thị trường có hiệu quả tốt.
Trong 6 tháng đầu năm 2007, Bảo Việt tiếp tục giữ vững vị trí dẫn đầu thị
trường bảo hiểm phi nhân thọ với doanh thu đạt 46% kế hoạch năm, tăng trưởng
10,5% so với cùng kỳ năm 2006.
Với sự cạnh tranh gay gắt như hiện nay, khách hàng mua bảo hiểm có
nhiều cơ hội chọn lựa dịch vụ tốt nhất, phù hợp nhất đối với yêu cầu của mình.
Còn các công ty bảo hiểm đang cố gắng hoàn thiện công tác khách hàng để ngày
càng nâng cao chất lượng dịch vụ. Đã không còn tệ nạn cửa quyền, nhũng nhiễu
khách hàng như trước đây. Khách hàng là sự tồn tại và phát triển của công ty đã
là tiêu chí hoạt động của từng công ty. Cũng do tác động của cạnh tranh buộc các
công ty bảo hiểm phải xem xét và cân đối lại các chi phí hoạt động về chất lượng
của dịch vụ đó.
Trước đây, khác với thị trường bảo hiểm nhân thọ, chính sách bảo hộ của
Chính phủ Việt Nam đối với các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước đã tạo ra
một sự hạn chế nhất định về sản phẩm bảo hiểm được phép kinh doanh của các
doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Tất cả các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài đều chưa được phép kinh doanh các sản phẩm bắt buộc
và thậm chí có doanh nghiệp chỉ được cấp phép kinh doanh rất hạn chế về sản
phẩm. Các doanh nghiệp này chỉ được khai thác bảo hiểm với các đối tượng
khách hàng là doanh nghiệp có vốn nước ngoài hoạt động theo luật đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam, các tổ chức và cá nhân nước ngoài và các doanh nghiệp
ngoài quốc doanh.
Nhưng, hiện nay, theo cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm Việt Nam,
doanh nghiệp bảo hiểm của nước ngoài được cấp phép cung cấp vào Việt nam
45
các dịch vụ bảo hiểm cho doanh nghiệp có vốn nước ngoài và người nước ngoài
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
tại Việt Nam. Ngoài ra, họ còn được cung cấp dịch vụ tái bảo hiểm, vận tải quốc
tế, môi giới bảo hiểm, tư vấn, tính toán, đánh giá rủi ro và giải quyết bồi thường
cho thị trường bảo hiểm Việt Nam. Theo cam kết này, các doanh nghiệp bảo
hiểm liên doanh không bị hạn chế được đối xử quốc gia (doanh nghiệp bảo hiểm
Việt Nam được làm gì thị họ được làm cái đó). Doanh nghiệp bảo hiểm 100%
vốn nước ngoài chỉ bị hạn chế sản phẩm bắt buộc cho đến ngày 01/01/2008 thì
bãi bỏ hạn chế này. [10],[20]
2. Năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển
bằng đường biển tại Việt Nam hiện nay.
Trong 5 năm trở lại đây (2001-2006), mỗi năm, kim ngạch xuất khẩu của
chúng ta đạt bình quân khoảng 54.133 triệu USD/năm. Đi đôi với sự tăng trưởng
kim ngạch xuất khẩu, tỷ trọng hàng hoá tham gia bảo hiểm cũng ngày một tăng
(với tốc độ 17,76%/năm đối với bảo hiểm hàng nhập và 22,03%/năm đối với bảo
hiểm hàng xuất). Tuy nhiên, 84,8% thị phần bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
lại thuộc về các công ty nước ngoài. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tính trên
phạm vi cả nước trong năm 2006 đạt doanh thu 251,6 tỷ đồng, tăng 31,9% trong
khi xuất nhập khẩu tăng 20% là một dấu hiệu mừng, nhưng chỉ có 15% hàng
xuất, 30% hàng nhập khẩu mua bảo hiểm tại các công ty bảo hiểm Việt Nam.
Điều này chứng tỏ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu hàng hoá vận chuyển bằng
đường biển của chúng ta chưa có tính cạnh tranh quốc tế cao. Nguyên nhân trực
tiếp dẫn đến thực trạng việc kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt
Nam chưa có tính cạnh tranh quốc tế, đó là do:
Năng lực tài chính của doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam còn thấp.
Năng lực tài chính của một doanh nghiệp gồm những chỉ tiêu như nguồn
vốn, tài sản, dự phòng nghiệp vụ... Xét những chỉ tiêu trên ta có thể thấy rằng,
46
mặc dù năng lực tài chính của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã được
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nâng cao hơn rất nhiều so với giai đoạn trước, tuy nhiên, so với các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài thì vẫn còn rất thấp. Năm 2004, ngoại trừ Bảo Việt
có khả năng tài chính lớn nhất thị trường (3000 tỷ đồng) thì các các doanh
nghiệp khác đều mới chỉ đáp ứng đủ số vốn điều lệ tối thiểu và quá nửa trong số
đó có vốn điều lệ chưa đúng theo luật định. Nếu không tính Bảo Việt thì các
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam khác chỉ đạt trung bình 54 tỷ đồng vốn, cách
qua xa so với vốn pháp định là 70 tỷ đồng đối với doanh nghiệp bảo hiểm phi
nhân thọ. Đến cuối năm 2004, quy mô vốn điều lệ của các doanh nghiệp bảo
hiểm trong nước mới chiếm khoảng 30% quy mô vốn điều lệ của các doanh
nghiệp hoạt động trên thị trường Việt Nam, quy mô vốn của các doanh nghiệp
bảo hiểm 100% vốn nước ngoài là 55%, 15% còn lại là quy mô vốn của các
47
doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Bảng 5: Tiềm lực về vốn của Doanh nghiệp Bảo hiểm năm 2004 (đơn vị: Tỷ đồng)
Vốn điều lệ Vốn kinh doanh Loại hình bảo hiểm Tổng số TB/1DN Tổng số TB/1DN
Bảo Việt (3 công ty 162 54 421 140,3 thành viên)
Công ty cổ phần 185 61,7 188 61,7
Công ty liên doanh 561,1 93,5 610,9 101,8
Công ty 100% vốn n- 1880,1 376 1880,1 376 ớc ngoài
Nguồn: Báo cáo kết quả nghiên cứu "Đánh giá tác động của việc mở cửa thị
trường đối với ngành Bảo hiểm Việt Nam và giải pháp phát triển thị trường bảo
hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế"- Viện Khoa học Tài chính-2004.
Nhìn vào bảng ta thấy rõ được sự chênh lệch về nguồn vốn của các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam so với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Doanh nghiệp Bảo Việt có số vốn lớn nhất thị trường nhưng bên cạnh đó là các
công ty cổ phần khác chỉ có số vốn kinh doanh trung bình là 61,7 tỷ đồng chỉ
bằng 68% mức trung bình của các công ty liên doanh (1001,8 tỷ đồng) và bằng
16,4% mức trung bình của các công ty 100% vốn đầu tư nước ngoài (376 tỷ
đồng).
Năm 2007, nghị định số 45 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số
điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm và Nghị định số 46 quy định chế độ tài
chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm (ban hành cùng ngày 27/03/2007) đã quy
định mức vốn pháp định đối với doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
là 300 tỷ đồng (mức cũ 70 tỷ đồng). Nhiều doanh nghiệp do đã biết trước quy
48
định này đã chuẩn bị phương án tăng vốn trước khi nghị định có hiệu lực. Tuy
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nhiên, mức vốn pháp định theo Nghị định 46 còn rất nhỏ so với các doanh
nghiệp bảo hiểm nước ngoài và trong khu vực.
Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển là loại hình bảo hiểm
có tính cạnh tranh quốc tế và dựa trên quan hệ bạn hàng lâu dài. Trong điều kiện
năng lực tài chính chưa đủ lớn, kinh nghiệm chưa nhiều... việc thuyết phục
khách hàng, đặc biệt là khách hàng thuộc khu vực có vốn đầu tư nước ngoài
tham gia bảo hiểm tại các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước là không dễ dàng.
Hạn chế về nguồn nhân lực.
Nguồn nhân lực là một nhân tố chi phối quan trọng đối với việc tăng cường
năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu.
Theo sự cảnh báo của các chuyên gia, nguồn nhân lực đang là một trong
những điểm yếu của ngành bảo hiểm Việt Nam. Trong tổng số 1000 sinh viên
chuyên ngành tài chính ra trường hàng năm chỉ có khoảng 1/3 có khả thích ứng
ngay với công việc. Báo cáo thống kê của Chương trình nghiên cứu khả năng
cạnh tranh và tác động của tự do hóa thương mại dịch vụ tại Việt Nam đã cho
thấy, do các đặc thù nghề nghiệp, sự liên kết giữa đào tạo và thị trường là yếu tố
hết sức quan trọng trong đào tạo nghiệp vụ bảo hiểm. Tuy nhiên, quá trình này
tại các trường đại học nhìn chung vẫn xa rời thực tế. Lý do dẫn đến tình trạng đó
là bởi bảo hiểm mặc dù tồn tại ở Việt Nam từ rất lâu, song hoạt động theo
nguyên tắc của kinh tế thị trường mới chỉ bắt đầu từ sau năm 1993. Do đó, mặc
dù ngành giáo dục đào tạo của Việt Nam cũng đã rất nỗ lực để cung cấp nguồn
lực phục vụ cho sự phát triển của ngành, song mức độ đáp ứng mới chỉ dừng ở
mức trung bình. Tại các trường đại học, chương trình đào tạo vẫn chưa bám sát
nhu cầu của ngành, còn rất nặng các môn học về bảo hiểm bắt buộc trong khi
49
nhu cầu về kiến thức về bảo hiểm thương mại rất nhiều.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm, việc nâng cao năng lực và cập nhật
kiến thức của các cán bộ hiện có cho phù hợp với điều kiện mới cũng là những
thách thức rất lớn. Hiện nay, trong số các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, chỉ
có Bảo Việt phần nào thực sự có khả năng thực hiện các chương trình đào tạo và
cập nhật kiến thức cho cán bộ của mình với một Trung tâm đào tạo nằm ngay
trong Tổng Công ty. Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khác, đào tạo thường
xuyên cán bộ dường như là quá khả năng ngân sách cho phép do chi phí đầu tư
cho những hoạt động này tương đối lớn. Tiềm năng phát triển và mở rộng thị
trường từ những sáng kiến và sản phẩm mới là rất ít, có chăng chỉ là những chiến
thuật kinh doanh "đi theo" mà thôi. Bên cạnh đó, trình độ ngoại ngữ của số đông
cán bộ là một rào cản lớn khi đòi hỏi phải tiếp cận với khách hàng là các doanh
nghiệp nước ngoài. Chính những hạn chế về nguồn nhân lực là một trong các
nguyên nhân quan trọng dẫn đến hệ quả là giảm năng lực của các doanh nghiệp
bảo hiểm trong nước.
Bên cạnh chất lượng đào tạo còn yếu thì số lượng đào tạo cũng rơi vào tình
trạng thiếu hụt. Hoạt động đào tạo chính quy và chuyên sâu về bảo hiểm thương
mại chỉ được thực hiện tại một số trường đại học và học viện có đào tạo về tài
chính với khả năng đào tạo khoảng 300-400 người/năm như: Đại học Kinh tế
quốc dân Hà Nội, Đại học Kinh tế Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Tài
chính... Sự khan hiếm về nguồn nhân lực đã khiến các doanh nghiệp gặp phải rất
nhiều khó khăn khi mở rộng thị trường như: đội ngũ nhân lực có trình độ tối
thiểu là đại học cộng thêm kinh nghiệm thực tiễn, có khả năng phân tích tài
chính thực thụ lại quá nhỏ. Đồng thời các doanh nghiệp bảo hiểm còn thiếu nhân
viên có đủ trình độ và chuyên môn để hỗ trợ cho các đại lý, thiếu người đủ kinh
nghiệm và độ nhanh nhạy để xử lý các tình huống... Điều này sẽ làm giảm chất
lượng dịch vụ khách hàng, từ đó ảnh hưởng tới kết quả hoạt động kinh doanh
50
của các doanh nghiệp.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Ngoài ra, một trong những khó khăn làm đau đầu các lãnh đạo doanh
nghiệp bảo hiểm trong nước là tình trạng "chảy máu chất xám". Chế độ đài thọ
đối với người lao động tại các công ty nước ngoài thường cao hơn so với công ty
trong nước. Do đó, không có gì là khó lý giải khi các công ty nước ngoài đang
ngày càng lôi kéo được nguồn nhân lực có chất lượng cao từ thị trường nhân lực.
Với tốc độ phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính nói chung và ngành
bảo hiểm nói riêng thì cơn sốt nguồn nhân lực ngành nghề đặc thù này càng gay
gắt hơn.
Trước những đòi hỏi của sự phát triển chung về cán bộ cho nghiệp vụ bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, hiện nay có thể nói
nguồn nhân lực trong các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam vẫn còn thiếu cả về
số lượng lẫn chất lượng, đặc biệt thiếu cán bộ về quản lý, cán bộ đầu ngành,
chuyên gia trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập vận chuyển bằng đường
biển.[21]
Năng lực công nghệ thông tin còn hạn chế.
Hệ thống thông tin ở các doanh nghiệp bảo hiểm đã từng bước được trang
bị và hiện đại hoá. Nhưng trên thực tế hệ thống bảo mật vẫn chưa an toàn. Nhìn
chung các công ty bảo hiểm trong nước lạc hậu hơn rất nhiều so với các đối thủ
nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ thông tin. Hiện nay, hầu hết các công ty
trong nước chưa có phần mềm bảo hiểm riêng của mình mặc dù họ cũng đã ý
thức được tầm quan trọng của vấn đề này. Trong khi đó, đa số các công ty nước
ngoài đều có hệ thống công nghệ thông tin tiến tiến. Họ không chỉ có khả năng
tài chính để đầu tư hàng triệu đô la vào một phần mềm, mà họ còn được thừa
hưởng sự hỗ trợ kỹ thuật từ công ty mẹ trong việc chọn lựa các phần mềm chuẩn
51
và hoạt động hiệu quả.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Tăng cường đầu tư phát triển công nghệ thông tin thực sự là khó khăn đối
với các công ty trong nước quy mô nhỏ. Trước hết đây là một khoản chi phí lớn.
Vấn đề này có hai mặt. Thứ nhất, các công ty trong nước quy mô nhỏ không đủ
khả năng tài chính cho khoản đầu tư ban đầu này. Thứ hai, khoản đầu tư này chỉ
khả thi nếu doanh số của công ty đủ lớn để bù đắp chi phí đã bỏ ra này. Nói cách
khác, các công ty nhỏ sẽ khó có thể đạt được kinh tế quy mô. Ví dụ, một hệ
thống công nghệ thông tin có thể có giá trị tới 1,5 triệu USD. Nếu một công ty
biết rằng họ sẽ ký được 1,5 triệu hợp đồng bảo hiểm trong vòng 3 nãm tới, họ sẽ
tính phí 1 USD cho mỗi hợp đồng. Còn nếu công ty đó biết rằng họ sẽ chỉ có thể
ký được 300.000 hợp đồng trong 3 năm tới thì họ sẽ phải tính phí tới 5 USD cho
mỗi hợp đồng.
Mặc dù rất khó khăn, các công ty trong nước cũng phải tìm cách để có thể
trang bị cho mình một hệ thống công nghệ thông tin phục vụ cho hoạt động kinh
doanh của mình. Trong môi trường cạnh tranh ngày nay, công nghệ thông tin
không chỉ phục vụ tốt cho việc chăm sóc khách hàng mà còn làm cho hoạt ðộng
kinh doanh hiệu quả hơn.
Hạn chế của các ngành liên quan.
Hiện nay, do đại bộ phận các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu
thường bán hàng theo giá FOB, và mua hàng theo giá CIF nên ngành bảo hiểm
hàng hoá Việt Nam thất thu lớn. Doanh nghiệp đóng bảo hiểm trong nước sẽ có
nhiều thuận lợi hơn so với đóng bảo hiểm ở nước ngoài khi làm thủ tục bồi
thường. Tuy nhiên, hầu hết các công ty kinh doanh xuất nhập khẩu Việt Nam
hiện chưa quan tâm đến điều này, hay nói cách khác, họ chưa thấy được những
lợi ích của việc giành được quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm.
Ngoài ra, mặc dù Việt nam có tiềm năng thiên nhiên ưu đãi để phát triển kinh tế
hàng hải, tuy nhiên hàng hoá Việt Nam chủ yếu là nguyên liệu thô và gia công
52
nên bị lép vế, kém lợi thế cạnh tranh. Các doanh nghiệp lại chưa có nhiều kinh
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nghiệm buôn bán quốc tế nên dẫn đến khách hàng không những ép về giá mà
còn bị ép về việc giành quyền thuê tàu và mua bảo hiểm.
Về ngành vận tải, chất lượng dịch vụ của đội tàu Việt Nam chưa cao, theo
thống kê, đội tàu biển Viễn dương Việt Nam có tuổi tàu bình quân khá cao_18,5
tuổi, thậm chí có tàu trên 30 tuổi. Hàng hoá nếu được chuyên chở trên những con
tàu của Việt Nam sẽ gặp nhiều rủi ro. Bên cạnh đó, giá cước vận tải ở Việt Nam
rất cao nên chưa có tính cạnh tranh. Nguyên nhân chính khiến giá cước cao là do
đội tàu của ta có tuổi già, lạc hậu nên mức tiêu hao nhiên liệu cao, chi phí cho
sửa chữa lớn. Ngoài ra, các tàu của Việt Nam chủ yếu vận chuyển theo từng
chuyến, nên khả năng bố trí vận tải hàng hai chiều hoặc kế hoạch khai thác,
không để tàu chạy trống là rất khó. Trừ tàu container có hiệu quả sử dụng cao
hơn, còn tàu chở hàng rời thì thường khai thác hiệu quả 60% là tối đa để có hàng
hai chiều. Chính khó khăn về nguồn hàng lại tiếp tục là một trong những nguyên
nhân làm tăng chi phí vận tải, kéo theo giá thành vận tải tăng theo. Trong khi đó,
tuổi của các tàu nước ngoài trẻ hơn, trọng tải lớn hơn, tốc độ nhanh hơn và tác
phong làm việc công nghiệp hơn. Chỉ tính riêng về giá cước, các chủ hàng sẽ có
xu hướng chọn các đội tàu nước ngoài khi vận chuyên và bắt buộc phải mua bảo
hiểm của các công ty bảo hiểm nước ngoài đối với hàng hoá xuất khẩu. Hiện nay
vận chuyển bằng đường biển chiếm tới 80% tổng nhu cầu vận tải hàng hoá xuất
nhập khẩu của Việt Nam nhưng đội tàu trong nước nhận được ít hợp đồng vận
tải. Trên thực tế mới đảm nhận vận chuyển được khoảng trên dưới 13% khối
lượng hàng hoá xuất nhập khẩu, phần lớn do các đội tàu nước ngoài thực hiện.
Sự phối hợp của các doanh nghiệp bảo hiểm trong nƣớc còn yếu.
Thị trường bảo hiểm Việt Nam còn rất bé, dịch vụ chưa nhiều, việc hợp tác
giữa các doanh nghiệp bảo hiểm còn chưa chặt chẽ, việc tái bảo hiểm cho nhau
giữa các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam hiện nay còn rất nhỏ so với chuyển
53
nhượng tái bảo hiểm ra nước ngoài, điều này làm thiệt thòi cho chính các doanh
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nghiệp bảo hiểm Việt Nam nói chung và hoạt động kinh doanh bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển nói riêng và không tăng cường được sức
mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam bằng nguồn vốn giữ lại trong
nước.
Môi trƣờng pháp lý chƣa chặt chẽ.
Do hệ thống pháp luật liên quan đến hoạt động kinh doanh bảo hiểm chưa
hoàn chỉnh nên dẫn đến việc cạnh tranh thiếu lành mạnh giữa các doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam. Chẳng hạn như hạ phí bảo hiểm, hoặc dùng các biện pháp
hành chính để ép buộc khách hàng tham gia bảo hiểm tại công ty bảo hiểm này
hoặc các công ty bảo hiểm khác. Có công ty còn dùng biện pháp nâng hoa hồng
bảo hiểm cho một số doanh nghiệp Nhà nước để giành dịch vụ.
III. Những cơ hội và thách thức đối với doanh nghiệp bảo hiểm trong lĩnh
vực kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đƣờng
biển sau khi Việt Nam gia nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.
1. Cơ hội.
Việc Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO mở ra cho các
doanh nghiệp bảo hiểm kinh doanh dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
những cơ hội tốt để phát triển.
Thứ nhất, trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ
giúp cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng
đường biển tăng cường trao đổi kiến thức và kỹ năng chuyên ngành, góp phần
thúc đẩy năng lực cạnh tranh của các công ty bảo hiểm trong nước.Từ năm 1993
54
đến nay, sau gần 14 năm mở cửa, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam đã vừa
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
học tập được nhiều kinh nghiệm và tự nâng cao năng lực để cạnh tranh sòng
phẳng với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đang hoạt động tại Việt Nam,
vừa phát huy lợi thế chủ nhà, lại thêm thế mạnh chiều sâu tâm lý, doanh nghiệp
bảo hiểm Việt Nam đã tìm đường tiến sâu, tiến rộng vào thị trường. Thị trường
bảo hiểm Việt Nam trong những năm gần đây đã có sự tham gia của những tên
tuổi lớn về bảo hiểm như AIG (Mỹ), Prevoir (Pháp), ACE Life (Mỹ), New York
Life (Mỹ), và mới đây thêm sự kiện tập đoàn Daiichi (Nhật Bản) mua lại Bảo
Minh CMG. Tuy nhiên, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam vẫn phát triển
mạnh và luôn dẫn đầu thị trường như Bảo Việt Việt Nam, Bảo Minh, Pjico, PV
Insurance. Điều này chứng tỏ các doanh nghiệp Việt Nam đã thích nghi với mở
cửa hội nhập, chấp nhận cạnh tranh sòng phẳng với các doanh nghiệp nước
ngoài. Quá trình cạnh tranh làm cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu trưởng thành và phát triển toàn diện hơn.
Thứ hai, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển tại Việt Nam
là một nghiệp vụ phát triển rất tiềm năng. Kể từ thời điểm Việt Nam chính thức
trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO vào ngày 11 tháng 1
năm 2007 đến nay, tình hình của dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu đã
có những thay đổi đáng kể. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam bằng
đường biển trong 6 tháng đầu năm 2007 ước tính đạt trên 160 tỷ VND phí_ tăng
21% so với cùng kỳ này năm trước. Nhiều chuyên gia trong và ngoài nước đã ví
von việc kinh doanh bảo hiểm hàng hoá ở Việt Nam như là một mảnh đất màu
mỡ. Do đó, trong những năm tới, Việt Nam sẽ là một thị trường hấp dẫn cả về
nhu cầu bảo hiểm và tái bảo hiểm. Đồng thời bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
sẽ có tính cạnh tranh mạnh mẽ hơn, với sự tham gia của các tập đoàn, các công
ty bảo hiểm nước ngoài. Và đó chính là cơ hội phát triển cho các doanh nghiệp
55
bảo hiểm Việt Nam.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Thứ ba, khi tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO, việc trao đổi
thương mại hàng hoá giữa Việt Nam và các nước sẽ được đẩy mạnh, luồng vốn
đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được tăng lên là tiền đề quan trọng để làm tăng
nhu cầu bảo hiểm và tạo cơ hội cho các doanh nghiệp bảo hiểm mở rộng thị
trường. Theo Bộ thương mại, Việt Nam đang trong quá trình công nghiệp hoá,
hiện đại hóa, do đó phải nhập khẩu nhiều thiết bị công nghệ và nguyên liêu đầu
vào của một số ngnàh có tỷ trọng lớn trong xuất khẩu diệt may, điện tử, đồ gỗ...
Đồng thời, Việt Nam lại là nước có nhiều mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh như
gạo, cà phê, cao su, hồ tiêu, hạt điều, thuỷ sản... Việc tham gia tổ chức thương
mại thế giới WTO sẽ là cơ hội tốt làm tăng kim ngạch hàng hoá xuất nhập khẩu
của Việt Nam, do đó sẽ tác động tích cực vào nghiệp vụ kinh doanh bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển.
Thứ tư, việc tham gia tổ chức thương mại thế giới WTO sẽ góp phần làm
cho hệ thống chính sách pháp luật của Việt Nam ngày càng hoàn thiện và phù
hợp với thông lệ quốc tế hơn. Tạo điều kiện cho các nhà đầu tư, các đối tác kinh
doanh yên tâm đầu tư và làm ăn với doanh nghiệp Việt Nam. Qua đó sẽ tăng khả
năng thu hút vốn, công nghệ, học hỏi kinh nghiệm quản lý và gia tăng thương
mại, đẩy mạnh hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu cho các doanh nghiệp.
Như vậy, trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới
WTO sẽ mang lại cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu bằng đường biển cơ hội để phát triển và thay đổi cơ cấu để nâng cao
năng lực cạnh tranh của mình.[10]
2. Thách thức.
Yêu cầu quan trọng khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO và
tham gia các khu vực mậu dịch tự do là tiến hành từng bước mở của thị trường
56
hàng hoá trong nước. Cụ thể, khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO,
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
hầu hết các dịch vụ tài chính đều cam kết mở cửa rộng rãi và các doanh nghiệp
nước ngoài có thể tham gia thị trường Việt Nam với hình thức đầu tư 100% vốn
trong thời gian tối đa là 5 năm. Hiện nay, đối với lĩnh vực bảo hiểm, Việt Nam
đã cam kết cho phép các công ty bảo hiểm hoạt động tại nước ngoài được cung
cấp dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, dịch vụ
tái bảo hiểm, dịch vụ bảo hiểm đối với vận tải quốc tế...
Nhìn chung, việc mở cửa thị trường dịch vụ bảo hiểm có tác động tích cực
về nhiều mặt đối với thị trường bảo hiểm trong nước. Việc gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO đã mang lại cho ngành bảo hiểm Việt Nam nói chung
và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển nói riêng
nhiều cơ hội. Tuy nhiên, điều này thì cũng đặt ra cho bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu rất nhiều thách thức:
Thứ nhất, thách thức lớn nhất mà các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước
với năng lực về công nghệ, vốn còn yếu và bé phải đối mặt đó là sự cạnh tranh
gay gắt trên thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển do có sự gia nhập ngày càng nhiều của các doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài, với tiềm lực tài chính vững mạnh, kinh nghiệm hoạt động lâu đời
trên phạm vi toàn cầu và trình độ chuyên môn hơn hẳn. Khi gia nhập tổ chức
thương mại thế giới WTO, theo các cam kết đã ký, và trước sức ép hội nhập,
Việt Nam phải tiến hành mở cửa thị trường bảo hiểm nói chung và bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển nói riêng. Đây là cơ hội
tốt cho các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài từ trước đến nay luôn khao khát
tham gia vào thị trường bảo hiểm Việt Nam. Điều này thật dễ hiểu vì thị trường
bảo hiểm Việt Nam đầy hứa hẹn khi nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, các chỉ
tiêu kinh tế xã hội giai đoạn 2006-2010 rất sáng sủa và hấp dẫn.
Thứ hai, một khó khăn nữa mà các doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm
hàng hoá xuật nhập khẩu sẽ phải đối mặt trong thời gian tới đó là vấn đề kinh
57
nghiệm quản lý điều hành kinh doanh và kỹ thuật khai thác sản phẩm bảo hiểm
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, đặc biệt là về kinh
nghiệm quản lý vốn, kinh nghiệm về quản lý rủi ro và kỹ thuật về quản lý rủi ro.
Các nhà quản lý các công ty bảo hiểm trong nước có thể đã ở vị trí quản lý trong
một thời gian dài, nhưng họ lại thiếu kinh nghiệm về kinh tế thị trường. Cách
quản lý theo mô hình kinh tế tập trung quan liêu bao cấp vẫn còn ảnh hưởng tới
hoạt động của các công ty trong nước. Đưa ra quyết định chậm, phạm vi trách
nhiệm không rõ ràng, bộ máy tổ chức cồng kềnh, công nghệ quản lý lạc hậu hơn
nhiều so với các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài. Ngoài việc thiếu
những quy định cụ thể về phạm vi công việc, giới hạn trách nhiệm, hiệu quả hoạt
động, lương, thưởng…, đa số các doanh nghiệp trong nước còn chưa chuẩn hoá
được tác phong phục vụ khách hàng, văn hoá ứng xử với khách hàng, mà chủ
yếu dựa vào sự nhanh nhạy của từng nhân viên, điều này không chỉ ảnh hưởng
tới chất lượng dịch vụ khách hàng mà còn ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động của
chính công ty bảo hiểm. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt, nhất là khi Việt
Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam cần phải làm sao để quản lý và cân bằng rủi ro mà họ
đảm nhận, cũng như làm thế nào để quản lý vốn của họ đã trở thành một vấn đề
cực kỳ quan trọng.
Thứ ba, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ không còn sự bảo hộ của
nhà nước nữa. Trong kinh doanh bảo hiểm không có sự phân biệt đối xử giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước với doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài. Một
số doanh nghiệp bảo hiểm thuộc lĩnh vực sở hữu nhà nước sẽ tiến hành cổ phần
hoá, trong đó sức ép chia lãi cổ đông không phải là nhỏ nếu kinh doanh bảo hiểm
và đầu tư hiệu quả.
Thư tư, dự báo vấn đề chảy máu chất xám từ doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước sang doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài với thu nhập cao cũng là điều
đáng quan tâm. Cạnh tranh về nhân lực giữa các công ty bảo hiểm sẽ diễn ra sôi
động, khi các công ty bảo hiểm nước ngoài tham gia thị trường sẽ tìm mọi cách
lôi kéo các nhân lực có kinh nghiệm và kiến thức của các doanh nghiệp trong
58
nước.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Thứ năm, với khả năng tài chính rất mạnh, các doanh nghiệp bảo hiểm
nước ngoài sẽ tìm mọi cách trong đó có tuyên truyền, quảng cáo, khuyến mại,
khuyếch trương sản phẩm, hạ phí bảo hiểm để gây uy tín và chiếm lĩnh thị
trường. Hiện tại mức phí bảo hiểm Việt Nam vẫn còn khá cao, do đó các doanh
nghiệp bảo hiểm Việt Nam sẽ phải cạnh tranh khá vất vả khi gặp những tập đoàn
bảo hiểm toàn cầu có mức phí rất thấp.
Thứ sáu, mức độ cạnh tranh cao có thể dẫn đến hiện tượng liên kết giữa các
công ty bảo hiểm lớn, thôn tính các doanh nghiệp nhỏ, ảnh hưởng tới sự cạnh
tranh lành mạnh của thị trường, gây thiệt hại cho công ty vừa và nhỏ.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đặt nền kinh tế nước ta trước những
thách thức mới. Tuy nhiên, trong bối cảnh đó, nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu cũng có nhiều tiềm năng để phát triển, qua đó đóng góp vào việc thực
hiện các mục tiêu đã đề ra trong Chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm VN
đến năm 2010, đồng thời hỗ trợ thiết thực cho hoạt động kinh doanh của các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu. Điều này đòi hỏi một sự nỗ lực của các Doanh
nghiệp bảo hiểm, các doanh nghiệp xuất nhập khẩu và cơ quan chức năng. [10]
3. Những cam kết ảnh hưởng tới dịch vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển của Việt Nam khi gia nhập tổ chức thương mại
thế giới WTO.
Thực hiện cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới WTO, thị
trường bảo hiểm Việt Nam sẽ chịu tác động mạnh cả về quy mô, chất lượng và
cả sự ổn định trong thị trường tài chính nói chung.
Theo Bộ Tài chính, tác động của các cam kết mở cửa thị trường bảo hiểm
trong tiến trình gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO củaViệt Nam có thể
được nhìn nhận từ hai khía cạnh, tác động tích cực và tiêu cực.
Quá trình hội nhập sẽ làm giảm chi phí dịch vụ, chất lượng dịch vụ được
nâng cao, năng lực thị trường được mở rộng, công nghệ quản lý mới được
59
chuyển giao, trình độ đội ngũ cán bộ được nâng cao…
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Nhưng việc thực hiện các cam kết cũng dẫn đến khả năng gây bất ổn định
nói chung của thị trường tài chính, mất vai trò chủ đạo của thành phần kinh tế
nhà nước, hệ thống quy định quản lý chưa theo kịp được với mức độ mở cửa thị
trường…
3.1. Cam kết cung cấp dịch vụ qua biên giới.
Ngay sau khi Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương
mại thế giới WTO, các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài sẽ được phép cung
cấp các dịch vụ đánh giá rủi ro, giải quyết khiếu nại và tư vấn bảo hiểm và đặc
biệt là được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các dự án, doanh nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài tại Việt Nam mà không cần thành lập pháp nhân tại Việt Nam.
Trong thời gian đầu, các cam kết này có thể sẽ ảnh hưởng mạnh tới một số
loại hình bảo hiểm phi nhân thọ trong đó có bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển. Tuy nhiên, trong thời gian trung hạn thì với sự lớn
mạnh của các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ trong nước (xét về mặt uy tín
và năng lực tài chính) thì các cam kết này không có ảnh hưởng nhiều, một phần
do tâm lý khách hàng thường có thiên hướng lựa chọn cho doanh nghiệp bảo
hiểm có trụ sở tại Việt Nam, là những doanh nghiệp nắm thông tin về rủi ro tốt
nhất, do đó, có khả năng bảo hiểm tốt nhất. Mặt khác, các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài thông thường cũng muốn thành lập pháp nhân để cung cấp dịch
vụ tốt hơn.
3.2. Cam kết hiện diện thƣơng mại.
Có thể nói, các cam kết cho phép thành lập pháp nhân thực hiện kinh doanh
dịch vụ bảo hiểm là những cam kết mang tính chất tự do hoá thị trường bảo hiểm
và có ảnh hưởng lớn nhất đối với các doanh nghiệp bảo hiểm hiện đã hoạt động
trên thị trường cũng như tới tình hình chung của thị trường.
Việc cho phép thêm các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài
tham gia cung cấp dịch vụ bảo hiểm tại thị trường Việt Nam sẽ tăng thêm năng
lực khai thác nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
60
đường biển của thị trường bảo hiểm. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp bảo hiểm
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nước ngoài với kinh nghiệm hoạt động lâu năm trên thị phạm vi quốc tế sẽ giúp
chuyển giao công nghệ khai thác bảo hiểm và đào tạo đội ngũ các bộ trong
nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu tại Việt Nam.
Có thể nói, việc cho phép các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài tham gia
vào thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ đem lại những lợi ích tổng thể cho thị
trường. Tuy nhiên, song song với khía cạnh tích cực như vậy, điều kiện thị
trường bảo hiểm với sự có mặt của nhiều doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài
cũng sẽ đặt ra một số vấn đề như cạnh tranh không lành mạnh, hệ thống pháp lý
chưa đủ mạnh để kiểm soát hoạt động đa dạng của các doanh nghiệp này. Song,
các vấn đề này có thể được kiểm soát tốt nếu có những bước đi phù hợp trong
công tác quản lý nhà nước đối với hoạt động của thị trường.
3.3. Cam kết xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc sau 1 năm.
Hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm khi thực hiện tái bảo hiểm ra nước
ngoài đều phải thực hiện tái bảo hiểm bắt buộc tối thiếu 20% với Tổng công ty
cổ phần tái bảo hiểm Quốc gia Việt Nam (VINARE). Vì vậy thực hiện cam kết
xoá bỏ tỷ lệ tái bảo hiểm bắt buộc này sẽ có tác động kép, trước tiên là ảnh
hưởng tới hoạt động của VINARE, đồng thời ảnh hưởng đến tổng chi phí giữ lại
của thị trường bảo hiểm phi nhân thọ.
Đối với các doanh nghiệp bảo hiểm khác trên thị trường, cam kết này nếu
được áp dụng chung sẽ tạo điều kiện cho họ linh hoạt hơn trong công tác tái bảo
61
hiểm và tạo điều kiện tái bảo hiểm có lợi hơn xét về mặt kinh tế.[13]
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Ch ¬ng III: GIẢI PHÁP NÂNG CAO NĂNG LỰC CẠNH TRANH
CỦA BẢO HIỂM HÀNG HOÁ XUẤT NHẬP KHẨU CHUYÊN CHỞ
BẰNG ĐƢỜNG BIỂN TẠI VIỆT NAM SAU KHI GIA NHẬP TỔ CHỨC
THƢƠNG MẠI THẾ GIỚI WTO.
I. Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu Việt Nam khi gia nhập tổ chức
thƣơng mại thế giới WTO.
1. Mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm hàng giai đoạn 2003-2010.
1.1. Mục tiêu chung.
Phát triển thị trường dịch vụ tài chính nói chung và thị trường bảo hiểm nói
riêng luôn được Chính phủ Việt Nam quan tâm. Quan điểm của Chính phủ Việt
Nam về việc phát triển thị trường bảo hiểm được thể hiện rõ ràng hơn trong
chiến lược phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam từ nay đến năm 2010 đã
được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tại quyết định số 175/2003/QĐ-TTg ngày
29/08/2003 về mục tiêu phát triển thị trường bảo hiểm trong giai đoạn 2003-
2010:
Phát triển thị trường bảo hiểm toàn diện, an toàn và lành mạnh nhằm đáp
ứng nhu cầu bảo hiểm cơ bản của nền kinh tế và dân cư
Bảo đảm cho các tổ chức cá nhân được thụ hưởng những sản phẩm bảo
hiểm đạt tiêu chuẩn quốc tế.
Thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển
62
kinh tế và xã hội.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Nâng cao năng lực tài chính, kinh tế của các doanh nghiệp hoạt động
kinh doanh bảo hiểm, đáp ứng yêu cầu cạnh tranh và hội nhập quốc tế.
Nhà nước quản lý, giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm theo pháp
luật Việt Nam và phù hợp với nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế.[7]
1.2. Một số chỉ tiêu cụ thể.
Tổng doanh thu phí bảo hiểm tăng bình quân khoảng 24%/năm; trong đó
bảo hiểm phi nhân thọ tăng khoảng 28%/năm. Tỷ trọng doanh thu phí của toàn
ngành bảo hiểm so với GDP là 2,5% và năm 2005 và 4,2% năm 2010. Đến năm
2010, tổng dự phòng nghiệp vụ của các doanh nghiệp bảo hiểm tăng khoảng 12
lần; tổng vốn đầu tư trở lại nền kinh tế tăng khoảng 14 lần so với năm 2002.
Tạo công ăn việc làm cho khoảng 150.000 người vào năm 2010. Nộp ngân
sách nhà nước giai đoạn 2003-2010 tăng bình quân 20%/năm. {7]
2. Dự báo nhu cầu trên thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên
chở bằng đường biển.
Tình hình xuất nhập khẩu ở VN có chiều hướng tăng đáng kể trong 10
năm qua. Từ 18.398 triệu USD năm 1996, đến năm 2006 đã đạt 84.015 triệu
USD.
Bộ Thương mại đã đưa ra đề án “Phát triển xuất khẩu giai đoạn 2006-
2010”, trong đó đề ra mục tiêu tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu trung
bình cả giai đoạn 2006-2010 đạt mức 17,5%/năm với tổng giá trị kim ngạch ước
tính đạt gần 272 tỷ USD.
Nền kinh tế phát triển kéo theo kim ngạch xuất nhập khẩu ngày một tăng.
Việt Nam đang trên con đường hiện đại hoá nền kinh tế, không ngừng thu hút
63
vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài, lẽ tất nhiên nhu cầu nhập khẩu công nghệ,
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
máy móc thiết bị, nguyên vật liệu sẽ tăng thậm chí sẽ dẫn đến nhập siêu. Kim
ngạch nhập khẩu lớn hơn kim ngạch xuất khẩu một chút là phù hợp với thời kỳ
công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nhà. Năm 2006, Việt Nam đạt kim ngạch
nhập khẩu lên tới khoảng 44.410 triệu USD và giữ vững mức độ tăng trưởng xấp
xỉ 20,41%/năm cùng với tăng kim ngạch xuất khẩu.
Ngày 9/10/2007, tại thành phố Hồ Chí Minh, Thứ trưởng Bộ Công thương
Nguyễn Thành Biên đã chủ trì cuộc họp giao ban với các tỉnh, thành, doanh
nghiệp (DN) phía Nam về tình hình xuất nhập khẩu 9 tháng đầu năm 2007, dự
báo xuất khẩu cả năm và định hướng xuất khẩu năm 2008. Kim ngạch xuất khẩu
9 tháng qua tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng cao, đạt 35,2 tỷ USD, tăng 19,4%
so với cùng kỳ năm 2006. Mục tiêu đặt ra cho 3 tháng cuối năm, xuất khẩu phải
đạt 12,9 tỷ USD để hoàn thành kế hoạch xuất khẩu 48,1 tỷ USD trong năm 2007,
tăng 20,5% so với năm 2006. Các mặt hàng thủy sản, dệt may, giày dép, điện tử,
linh kiện điện tử, gỗ có tốc độ tăng trưởng cao và kim ngạch lớn. Cà phê, hạt
tiêu, sản phẩm nhựa có kim ngạch xuất khẩu vượt kế hoạch.
Theo Bộ Công thương, để hạn chế nhập siêu, đảm bảo GDP tăng trưởng
trên 8% trong năm 2008, kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong năm này phải
đạt 58,6 tỷ USD, tăng 22% so với năm 2007. Theo đó, dệt may sẽ dẫn đầu kim
ngạch xuất khẩu trong năm 2008, với mục tiêu đạt 9,45 tỷ USD. Kế đến là dầu
thô đạt 7,74 tỷ USD, giày dép trên 5 tỷ USD, thủy sản trên 4,1 tỷ USD, điện tử
và linh kiện điện tử 3,6 tỷ USD, gỗ 3 tỷ USD...
Việt Nam đang trong quá trình CNH, HĐH do đó phải nhập khẩu nhiều
thiết bị công nghệ và nguyên liệu đầu vào của một số ngành công nghiệp có tỷ
trọng lớn trong xuất khẩu như dệt may, điện tử, đồ gỗ… Đồng thời, Việt Nam lại
là nước có nhiều mặt hàng xuất khẩu có thế mạnh như gạo, cà phê, cao su, hồ
64
tiêu, hạt điều và thuỷ sản. Với những lợi ích từ việc gia nhập tổ chức thương mại
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
thế giới WTO, ngành thương mại nói chung và xuất nhập khẩu nói riêng của
Việt Nam sẽ có cơ hội tốt để tăng trưởng và phát triển.
Bên cạnh các hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu thì ngành hàng hải
Việt nam trong thời gian qua cũng đã đầu tư xây dựng mới và đưa vào khai thác
có hiệu quả các công trình cảng đáp ứng yêu cầu ngày càng tăng của hàng hoá
thông qua cảng biển. Đến năm 2005 ngành đã có 126 bến cảng, 266 cầu cảng.
Với hơn 80 % khối lượng hàng hoá xuất nhập khẩu của Việt nam được vận
chuyển bằng đường biển thông qua các cảng trong toàn quốc, ngành vận tải biển
đóng vai trò quan trọng trong quá trình phát triển kinh tế xã hội của đất nước.
Ngoài ra, việc gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO của Việt nam cũng là
nhân tố thúc đẩy phát triển xuất nhập khẩu. Khối lượng hàng hoá thông qua cảng
biển của Việt nam dự báo đến năm 2010 đạt khoảng 215 triệu tấn, tốc độ phát
triển trong ngành vận tải biển là khá cao, hứa hẹn nhiều cơ hội cho các doanh
nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ vươn lên theo hướng mở rộng đầu tư gia tăng năng
lực dịch vụ và khai thác thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên
chở bằng đường biển.
Qua các số liệu trên, có thể thấy thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đường biển của Việt Nam đang có rất nhiều tiềm năng để
phát triển. Với tốc độ tăng trưởng nhanh của hoạt động xuất nhập khẩu tại Việt
Nam, thì nhu cầu về bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu nói chung và hàng
hoá xuất nhập khẩu chuyển chở bằng đường biển nói riêng là rất lớn. Nhất là khi
hàng hoá vận chuyển bằng đường biển chiếm hơn 80% lượng hàng hoá xuất
nhập khẩu của Việt Nam. Tuy nhiên, do thói quen xuất theo điều kiện FOB, và
nhập theo điều kiện CIF của các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nên
ngành bảo hiểm hàng hoá Việt Nam vẫn chưa phát triển mạnh. Hiện nay chúng
ta đã trở thành thành viên chính thức của tổ chức thương mại quốc tế tổ chức
65
thương mại thế giới WTO, vì thế, Nhà nước sẽ thúc đẩy việc mở cửa thị trường
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
bảo hiểm, cho phép nhiều công ty bảo hiểm nước ngoài tham gia cung cấp dịch
vụ bảo hiểm tại Việt nam. Do đó, sự cạnh tranh trên thị trường bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển sẽ tăng, và doanh nghiệp Việt
nam sẽ gặp nhiều khó khăn hơn khi phải đương đầu với các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài với tiềm năng tài chính lớn và có bề dày kinh nghiệm trong lĩnh
vực bảo hiểm trong khi đó sự bảo hộ của nhà nước ngày càng bé đi.
Chính vì vậy để nâng cao năng lực cạnh tranh thì nhà nước và các doanh
nghiệp bảo hiểm phải có những chính sách và chiến lược phát triển phù hợp
ngay từ bây giờ.
II. Quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc về việc phát triển, hội nhập của bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đƣờng biển của Việt Nam sau khi gia
nhập tổ chức thƣơng mại thế giới WTO.
Để khai thác các mục tiêu đã đề ra trong chiến lược phát triển thị trường
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển của Việt Nam. Chính phủ
đã đưa ra một số quan điểm thực hiện. Trong giới hạn Khoá luận tốt nghiệp, tác
giả chỉ đề cập đến một số quan điểm liên quan đến năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và quan điểm về hội nhập thị trường của bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển của Việt Nam với
thị trường bảo hiểm quốc tế.
1. Quan điểm của Chính phủ về nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh
nghiệp trong nước kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyển
chở bằng đường biển.
Tìm các biện pháp để tăng vốn cho các doanh nghiệp kinh doanh bảo
66
hiểm phi nhân thọ trong nước nhằm nâng cao năng lực tài chính.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Hiện nay nhiều doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ của Việt Nam có số
vốn thấp hơn mức vốn pháp định (theo yêu cầu luật Kinh doanh bảo hiểm).
Chính phủ đã yêu cầu các doanh nghiệp có lộ trình tăng vốn thông qua việc ban
hành Nghị định 46/2007/NĐ-CP đã sửa đổi quy định về tăng vốn pháp định và
quy định thống nhất vốn góp bằng đồng Việt Nam tại Điều 4 (Vốn pháp định).
Theo đó mức vốn pháp định của doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm phi nhân thọ
là 300 tỷ đồng, môi giới bảo hiểm là 4 tỷ đồng. Theo giải trình của Ban soạn
thảo thì mức vốn pháp định quy định tại Nghị định 43 là tương đối thấp, sau khi
đã bù đắp các chi phí thành lập và mua sắm tài sản cố định, phần còn lại khó bảo
đảm được an toàn tài chính theo cam kết với bên mua bảo hiểm và không có
nguồn để đầu tư theo chiều sâu. Mặt khác, mức vốn pháp định thấp chưa đảm
bảo vai trò là bộ lọc trong quá trình cấp phép để lựa chọn được các nhà đầu tư có
năng lực tài chính tốt, thực sự muốn kinh doanh bảo hiểm lâu dài. Việc tăng mức
vốn pháp định nhằm đảm bảo sự ổn định của thị trường, tăng cường năng lực
cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam, từng bước làm cho các
doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam có khả năng cạnh tranh quốc tế. Điều này phù
hợp với xu hướng hội nhập quốc tế.
Chính phủ cũng có chủ trương khuyến khích các doanh nghiệp trong
nước hiện đại hoá công nghệ thông tin, trình độ quản lý, nâng cao trình độ cán bộ.
Tổ chức sắp sếp lại các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ hiện có nhằm
phá vỡ thế độc quyền ngành, nâng cao hiệu quả quản lý doanh nghiệp. Một trong
những yếu tố chủ yếu dẫn đến những hạn chế trong khả năng cạnh tranh của các
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nói riêng là mô hình chưa hợp lý đã dẫn đến
sự trì trệ và kém nhạy bén khi môi trường thay đổi. Trong khi đó, quy luật cạnh
tranh trong nền kinh tế thị trường lại rất khắc nghiệt và vấn đề chuyển đổi các
67
doanh nghiệp bảo hiểm Nhà nước đã được Chính phủ kịp thời nhìn nhận là một
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
yếu tố quyết định để nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo
hiểm Việt Nam trong những năm tới.
Mô hình liên kết các doanh nghiệp bảo hiểm lớn trên thế giới với các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước thông qua quan hệ cổ đông sẽ là một hướng
phát triển đôi bên cùng có lợi và giúp các doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ
Việt Nam tiếp tục duy trì những khách hàng đã tham gia ký kết hợp đồng bảo
hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, nhất là khi trên thị
trường đang diễn ra các cuộc cạnh tranh ngày càng gay gắt.
2. Quan điểm trong hội nhập thị trường bảo hiểm trong nước với thị trường
bảo hiểm quốc tế khi Việt Nam gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
Quan điểm khuyến khích đầu tư nước ngoài
Hiến pháp của nước Cộng hoà Xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Luật đầu tư
nước ngoài đã thể hiện rõ quan điểm của Chính phủ Việt Nam trong thu hút vốn
đầu tư nước ngoài và phát triển hội nhập. Quan điểm phát triển ngành bảo hiểm
là thu hút các nguồn lực trong nước và nước ngoài cho đầu tư phát triển kinh tế
xã hội; nâng cao năng lực tài chính, kinh doanh của các doanh nghiệp kinh
doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển, đáp ứng
yêu cầu cạnh tranh quốc tế. Việc cấp phép hoạt động cho các doanh nghiệp bảo
hiểm nước ngoài vẫn được thực hiện theo cam kết hội nhập tổ chức thương mại
thế giới WTO. Nghị định 45-46 sửa đổi Nghị định số 42-43 và các thông tư
hướng dẫn về hoạt động kinh doanh bảo hiểm được ban hành cùng với các cam
kết của Việt Nam về gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO có hiệu lực từ
68
1/1/2007, đã tạo nhiều cơ hội cho hoạt động khai thác dịch vụ của các doanh
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Tính đến tháng 6 năm
2007, trong số 22 doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển tại Việt Nam thì có 9 doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài và chiếm hơn 84% thị phần bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
chuyên chở bằng đường biển. Đối với các doanh nghiệp nước ngoài hiện đang
hoạt động, chính phủ đã từng bước cho phép mở rộng phạm vi hoạt động. Các
doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ nước ngoài đã được phép cung cấp dịch vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển cho các khách
hàng trong nước.
Quan điểm tham gia hội nhập quốc tế
Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức quốc tế WTO,
chính vì thế mà hiện nay Chính phủ đang thực hiện tiến trình hội nhập ngành bảo
hiểm bằng cách đẩy mạnh việc thực hiện các cam kết thực hiện các hiệp định
thương mại song phương và đa phương.
Chính phủ sẽ từng bước tạo sự bình đẳng về điều kiện kinh doanh giữa các
doanh nghiệp bảo hiểm trong nước và ngoài nước. Việc tháo bỏ các hạn chế về
thị trường của các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài đã được thực hiện đúng
theo cam kết trong các hiệp định thương mại và chủ trương mở cửa thị trường
của chính phủ, theo đó Việt Nam cho phép các công ty bảo hiểm hoạt động tại
nước ngoài được cung cấp dịch vụ bảo hiểm cho các doanh nghiệp có vốn đầu tư
nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, dịch vụ tái bảo hiểm, dịch
vụ bảo hiểm đối với vận tải quốc tế, môi giới bảo hiểm và các dịch vụ hỗ trợ về
định phí, tư vấn.. Cũng theo các cam kết gia nhập tổ chức thương mại thế giới
WTO, không có hạn chế nào đối việc thành lập pháp nhân của công ty bảo hiểm
nước ngoài, ngoại trừ dịch vụ bảo hiểm bắt buộc sẽ chỉ được mở cửa cho công ty
69
100% vốn nước ngoài vào đầu nãm 2008. Về chi nhánh, cho phép công ty bảo
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
hiểm nước ngoài thành lập chi nhánh bảo hiểm phi nhân thọ sau 5 năm kể từ khi
gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO.
III. Một số giải pháp kiến nghị nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của các
doanh nghiệp kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở
bằng đƣờng biển.
1. Nhóm giải pháp vĩ mô.
Mặc dù hiện nay, luật kinh doanh bảo hiểm ra đời và có hiệu lực đánh dấu
một bước ngoặt mới trong hoạt động bảo hiểm nói chung và bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển nói riêng. Nhưng trên thị trường
với sự ra đời của nhiều công ty, các văn phòng đại diện của công ty bảo hiểm
nước ngoài và doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đã diễn ra sự cạnh tranh rất
mạnh mẽ, đôi khi có sự cạnh tranh không lành mạnh. Đã có nhiều trường hợp
các công ty để có được các hợp đồng bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên
chở bằng đường biển có giá trị lớn đã đưa ra những mức phí tối thiểu của Bộ tài
chính quy định. Nhưng dịch vụ này không những làm tổn hại đến các công ty
kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển của
Việt Nam, làm thất thoát cho Ngân sách nhà nước mà còn là một sự vi phạm
pháp luật Việt Nam một cách công khai, nghiêm trọng. Do đó, nếu không có
những chính sách phù hợp sẽ gây khó khăn cho hoạt động bảo hiểm hàng hoá
xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển của các doanh nghiệp trong nước.
1.1. Hoàn thiện khung khổ pháp lý, tăng cƣờng hiệu lực quản lý nhà nƣớc
về kinh doanh bảo hiểm.
Luật Kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn bước đầu tạo lập
khung khổ pháp lý tương đối hoàn chỉnh cho hoạt động kinh doanh bảo hiểm.
Tuy nhiên, để đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế trên các phương diện: tạo lập
70
khung khổ thị trường, môi trường kinh doanh; yêu cầu quản lý, giám sát trong
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
điều kiện mới khi tham gia Tổ chức Thương mại thế giới thì hệ thống các văn
bản pháp luật về kinh doanh bảo hiểm hiện hành cần sớm được rà soát, đánh giá
để có kế hoạch điều chỉnh, bổ sung, hoàn thiện theo hướng nâng cao hiệu lực
pháp lý, đảm bảo tính đồng bộ, cụ thể, minh bạch nhằm đạt mục tiêu phù hợp
với thực tiễn và các nguyên tắc, chuẩn mực quốc tế. Luật cần bảo đảm, tăng
cường quyền tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm cho các doanh nghiệp. Chủ động
giảm thiểu tối đa sự can thiệp trực tiếp và hành chính từ phía Nhà nước vào hoạt
động kinh doanh của các doanh nghiệp. Do áp lực cạnh tranh ngày càng khốc
liệt, làm cho hoạt động thị trường có xu hướng trở nên phức tạp, vì vậy cần ưu
tiên tạo lập cơ sở pháp lý cho việc kiện toàn thể chế giám sát, hoàn thiện hệ
thống chuẩn mực quản lý, giám sát hoạt động của doanh nghiệp và thị trường
thực sự có hiệu quả. Để đảm bảo cho thị trường bảo hiểm phát triển ổn định
trong bối cảnh hội nhập quốc tế cần kiện toàn bộ máy, tăng cường năng lực toàn
diện cho cơ quan quản lý nhà nước về kinh doanh bảo hiểm.
Trong thời gian qua, những chính sách quản lý hoạt động bảo hiểm hàng
hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển của nhà nước ta đã phát huy
tác dụng tích cực trong việc kiểm soát cũng như mở rộng thị trường và thu hút
các nhà đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, hiện vẫn còn nhiều mặt hạn chế trong
công tác này. Điển hình như việc các doanh nghiệp kinh doanh nước ngoài
thường có xu hướng mua bảo hiểm ở nước ngoài thay vì mua bảo hiểm tại Việt
Nam. Do đó, nhà nước ta cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh doanh
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển, không ngừng
liên hệ, theo dõi thay đổi hệ thống pháp luật quốc tế về bảo hiểm hàng hoá xuất
nhập khẩu để bổ sung, tránh những tranh chấp đáng tiếc xảy ra. Cụ thể, Việt
Nam cần điều chỉnh sửa đổi các bộ luật như luật đầu tư, luật hàng hải... để các
71
công ty bảo hiểm thuận lợi kinh doanh trên thị trường bảo hiểm.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Bên cạnh đó, nhà nước cần có cơ chế, chính sách cụ thể khuyến khích các
công ty xuất nhập khẩu ký kết hợp đồng theo điều kiện xuất khẩu CIF, nhập
khẩu FOB hoặc C&F như: giảm thuế xuất nhập khẩu cho chủ hàng nào tham gia
bảo hiểm tại Việt Nam, hoặc giảm thuế doanh thu hay thuế giá trị gia tăng, giảm
thủ tục hải quan, hoặc chủ hàng được giao hạn ngạch xuất nhập khẩu cao hơn so
với những chủ hàng không tham gia bảo hiểm tại Việt Nam… Như trên đã phân
tích, điều kiện giao hàng có tác dụng chủ yếu đến phân định trách nhiệm giữa
các bên trong quá trình thực hiện hợp đồng thương mại, còn ý nghĩa kinh tế
không rõ ràng. Với các chính sách ưu đãi trên, các công ty xuất nhập khẩu sẽ chủ
động hơn trong đàm phán ký kết, thực hiện phương thức xuất khẩu theo điều
kiện CIF, nhập khẩu theo điều kiện FOB hoặc C&F tạo cơ sở nâng cao tỷ trọng
hàng hóa xuất nhập khẩu tham gia bảo hiểm trong nước, đồng thời thúc đẩy
ngành bảo hiểm Việt Nam phát triển.
1.2. Tạo đƣợc sự liên kết giữa các ngành thƣơng mại, vận tải và bảo hiểm.
Kinh nghiệm nhiều nước trên thế giới cho thấy, không cần phải đợi các
công ty bảo hiểm lớn mạnh, đủ tàu thuyền và đội ngũ thuỷ thủ hàng hải mạnh
mới thực hiện quyền vận chuyển và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu mà trong
quá trình mở rộng và phát triển kinh tế đối ngoại, phải coi trọng việc hợp tác
chặt chẽ và hỗ trợ lẫn nhau của ba ngành: bảo hiểm, vận tải và thương mại.
Hiện nay chúng ta đã có những mô hình Tổng công ty, Hiệp hội ngành
hàng chuyển chở một ngành hàng nhất định như gạo, chè, cà phê, cao su...Các tổ
chức này nên giám sát chặt chẽ hoạt động xuất nhập khẩu của các thành viên, kết
hợp lại với nhau để thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm nhằm giảm được
cước phí chuyên chở cũng như phí bảo hiểm. Những tổng công ty có nguồn hàng
lớn và ổn định như than, dầu thô... càng cần phải hỗ trợ cho các đội tàu quốc gia
72
và ngành bảo hiểm trong nước.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Để giải quyết căn bản vấn đề trên, nên chăng các nhà bảo hiểm, các chủ
hàng xuất nhập khẩu, các nhà vận chuyển hàng hải cần phải có sự trợ giúp của
Nhà nước và các Bộ, Ngành có liên quan nhằm đảm bảo quyền lợi của phía Việt
Nam trong hoạt động vận chuyển và bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên
chở bằng đường biển.
1.3. Kiểm soát chặt chẽ hoạt động của các văn phòng đại diện của các công
ty bảo hiểm nƣớc ngoài tại Việt Nam.
Sau khi nhà nước ban hành nghị định 100/CP của chính phủ về kinh doanh
bảo hiểm và ra đời Luật kinh doanh bảo hiểm, đã có rất nhiều văn phòng đại diện
các công ty, tổ chức bảo hiểm ở nhiều nước trên thế giới đã có mặt tại Việt Nam,
trong đó có những tập đoàn bảo hiểm lớn như: AON (Hoa Kỳ), Cigna (Hoa Kỳ),
SWiss Re (Thuỵ Sỹ), Munich Re (Đức)... Đây là dấu hiệu chứng tỏ thị trường
bảo hiểm Việt nam đã phong phú hơn tạo được nhiều sự cạnh tranh hơn giữa các
công ty. Tuy nhiên, bên cạnh đó bắt đầu phát sinh một số tiêu cực hạn chế. Một
số công ty nước ngoài dựa vào văn phòng của họ để kinh doanh sai mục đích,
mặc dù họ đều biết điều đó đã vi phạm pháp luật Việt Nam. Các văn phòng đại
diện này không thu môi giới phí và không cấp đơn trực tiếp cho khách hàng mà
chỉ hoạt động dưới hình thức "tư vấn", lợi ích thực chất của họ là phần chi phí
của các dịch vụ tái chỉ định cao. Những hoạt động này đã làm ảnh hưởng xấu
đến kết quả kinh doanh của các doanh nghiệp Việt Nam.
1.4. Đẩy mạnh việc mở rộng hợp tác quốc tế.
Đẩy mạnh hội nhập quốc tế trong lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm theo
hướng tiếp tục mở cửa thị trường bảo hiểm phù hợp với tiến trình hội nhập. Cho
phép các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài mở rộng nội dung, phạm vi
hoạt động, tăng vốn điều lệ, nếu đủ điều kiện theo quy định của pháp luật. Việc
73
cấp phép thành lập cho các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
động tại Việt Nam phải phù hợp với quy mô, yêu cầu phát triển của thị trường, lộ
trình hội nhập và các cam kết quốc tế. Chú trọng đến các công ty bảo hiểm thuộc
các nước có quan hệ thương mại và đầu tư với Việt Nam, các công ty có năng
lực tài chính, trình độ công nghệ, kinh nghiệm hoạt động bảo hiểm và có đóng
góp vào sự phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam.
Giảm dần sự bảo hộ của nhà nước đối với các doanh nghiệp trong nước,
tiến tới xây dựng môi trường pháp luật đảm bảo nguyên tắc minh bạch, bình
đẳng và công khai đối với mọi loại hình doanh nghiệp. Thể chế hoá các cam kết
quốc tế bằng những văn bản pháp luật cụ thể, tăng cường hợp tác quốc tế và liên
kết trong khung khổ song phương và đa phương, thực hiện các nguyên tắc và
chuẩn mực quốc tế về kinh doanh bảo hiểm
Để phát triển bền vững, nhất là trong tiến trình tăng tốc hội nhập, Việt Nam
không thể đẩy mạnh hoạt động kinh doanh bảo hiểm một cách “ào ào”. Việc hội
nhập là một tất yếu khách quan, cũng như mở rộng hoạt động kinh doanh bảo
hiểm với đối tác nước ngoài. Song, bên cạnh nhiều cơ hội mở ra, bảo hiểm Việt
Nam phải chuẩn bị cả về thực lực lẫn tinh thần để sẵn sàng đương đầu với những
thách thức mới, nhất là với đối tác nước ngoài, đề phòng những rủi ro, bất trắc
trong hoạt động bảo hiểm của bảo hiểm nước ngoài tại Việt Nam gây thiệt hại
cho người tham gia bảo hiểm.
1.5. Phát huy vai trò của Hiệp hội bảo hiểm.
Có thể nói, Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam ra đời đã tạo ra diễn đàn cho các
công ty kinh doanh bảo hiểm Việt Nam trao đổi, học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau.
Hiệp hội cũng là nơi tư vấn, hỗ trợ cho các thành viên về nghiệp vụ cũng như
công tác quản lý. Để Hiệp hội ngày càng phát huy được vai trò của mình, nhà
nước cần phải thường xuyên quan tâm tới hoạt động của hiệp hội. Nhà nước cần
74
tạo điều kiện để Hiệp hội có những biện pháp lành mạnh hoá thị trường bảo
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
hiểm Việt Nam, thúc đẩy thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên
chở bằng đường biển Việt Nam phát triển đúng đường lối chính sách của Nhà
nước Việt Nam và phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ngoài ra, Nhà nước cũng cần phải có giải pháp giúp kiện toàn bộ máy tổ
chức của Hiệp hội bảo hiểm Việt Nam để Hiệp hội thực hiện được vai trò cầu
nối giữa doanh nghiệp bảo hiểm và các cơ quan quản lý nhà nước.
1.6. Tiếp tục tăng cƣờng huy động vốn thông qua hoàn thiện thị trƣờng
chứng khoán.
Ngành bảo hiểm có mối quan hệ mật thiết với thị trường chứng khoán. ở đa
số các nền kinh tế có ngành bảo hiểm phát triển, các công ty bảo hiểm đều được
niêm yết trên thị trường chứng khoán. Đối với ngành bảo hiểm, thị trường chứng
khoán vừa đóng vai trò là kênh huy động vốn, vừa đóng vai trò cung cấp các cơ
hội đầu tư. Tại Việt Nam, một phần do môi trường pháp lý, thị trường chứng
khoán chưa thực sự thực hiện được vai trò huy động vốn của mình. Do đó, trong
bối cảnh hội nhập và phát triển này, sự cải thiện của thị trường chứng khoán,
việc cải thiện các quy định pháp lý, nỗ lực của các công ty bảo hiểm cần phải
được tiến hành đồng thời nhằm dẫn vốn từ các nhà đầu tư tới các công ty bảo
hiểm thông qua thị trường chứng khoán, và mặt khác, biến thị trường chứng
khoán thành nơi cung cấp các cơ hội đầu tư tốt cho các công ty bảo hiểm.
1.7. Một số giải pháp khác của Nhà nƣớc đối với các doanh nghiệp bảo
hiểm.
Nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp bảo hiểm trong
nước, nhất là tập trung tăng vốn, nâng cao năng lực kinh doanh của các doanh
nghiệp. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng, bảo đảm nguyên tắc an toàn, thận
trọng, phù hợp thông lệ quốc tế và định hướng hoạt động của thị trường bảo
75
hiểm Việt Nam, cần áp dụng biện pháp phù hợp cho phép tăng vốn các doanh
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nghiệp lên 14.000 tỷ đồng vào năm 2010. Hiện đại hoá và từng bước ứng dụng
công nghệ thông tin trong kinh doanh và quản trị doanh nghiệp cũng như nâng
cao trình độ chuyên môn, quản lý, xây dựng đội ngũ chuyên gia trong một số
lĩnh vực chủ yếu.
Phát triển và sắp xếp các doanh nghiệp bảo hiểm theo hướng đa dạng
hoá các hình thức sở hữu. Chú trọng thu hút các nguồn vốn đầu tư vào lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm. Duy trì thị trường bảo hiểm hoạt động an toàn và có tính
cạnh tranh cao thông qua các giải pháp như sắp xếp lại cơ cấu các doanh nghiệp
bảo hiểm, khuyến khích hợp nhất hình thành doanh nghiệp quy mô lớn hơn, phát
triển mạnh mô hình công ty cổ phần, các tập đoàn bảo hiểm đa lĩnh vực. Cải
thiện môi trường kinh doanh cho các doanh nghiệp bảo hiểm có vốn đầu tư nước
ngoài, bảo đảm cạnh tranh bình đẳng.
Phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, doanh nghiệp môi
giới bảo hiểm và các kênh phân phối khác. Đa dạng hoá các loại hình doanh
nghiệp môi giới bảo hiểm, Nhà nước không trực tiếp đầu tư thêm vốn vào lĩnh
vực môi giới bảo hiểm.
Nâng cao chức năng và chất lượng giám sát của Bộ tài chính trong các
vấn đề về điều kiện, điều khoản bảo hiểm, nhận và nhượng tái bảo hiểm, hoạt
động môi giới và xử lý nghiêm minh những trường hợp vi phạm.
Trên đây là một số kiến nghị đối với Nhà nước, Đảng và chính phủ cần
quan tâm, quán triệt thực hiện để hoạt động bảo hiểm nói chung và hoạt động
kinh doanh bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển nói
76
riêng hoạt động ngày càng hiệu quả và đa dạng hơn.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
2. Nhóm giải pháp mang tầm vi mô (Đối với các công ty bảo hiểm và tái bảo
hiểm).
2.1. Tăng cƣờng khả năng tài chính.
Tác động đầu tiên của sự tự do hoá bất kỳ thị trường bảo hiểm nào là sự gia
tăng về mặt số lượng các công ty bảo hiểm. Thị trường bảo hiểm Việt Nam
không phải là một ngoại lệ. Mặc dù việc gia tăng số lượng công ty bảo hiểm có
thể dẫn tới gia tăng cạnh tranh, nhiều công ty quy mô nhỏ sẽ không thể cải thiện
được năng lực của toàn ngành. Để đối mặt với sự cạnh tranh của các công ty bảo
hiểm phi nhân thọ có vốn nước ngoài thuộc các tập đoàn tài chính lớn và khả
năng về vốn dồi dào, các doanh nghiệp bảo hiểm cần phải có chiến lược riêng
cho mình để có khả năng tài chính vững chắc hơn, không chỉ để đối mặt với các
thách thức của thị trường mà còn để mở rộng và phát triển. Tuy nhiên, các minh
chứng thực tế cho thấy các công ty nhỏ sẽ bị đẩy ra khỏi thị trường hoặc chỉ giữ
được một phần phí doanh thu bảo hiểm rất nhỏ.
Trong những năm qua, sau khủng hoảng tài chính Châu á, xuất hiện xu
hướng kết hợp các dịch vụ tài chính khác nhau và hình thành nên những tập đoàn
tài chính khổng lồ. Mối quan hệ liên kết và hỗ trợ lẫn nhau giữa bảo hiểm, ngân
hàng và các dịch vụ tài chính khác đã dẫn tới việc sát nhập các ngân hàng, công
ty bảo hiểm và quỹ đầu tư đem lại lợi ích chung cho mọi công ty trong tập đoàn.
Do đó, các công ty bảo hiểm trong nước của Việt Nam cần nghiên cứu
nghiêm túc khả năng sát nhập hoặc liên kết với các tổ chức tài chính, tín dụng
Việt Nam_ là những tổ chức hiện cũng đang đối mặt với sự cạnh tranh từ các tập
đoàn nước ngoài. Việc liên minh một mặt sẽ hỗ trợ cải thiện khả năng tài chính
của các tổ chức tài chính và các doanh nghiệp bảo hiểm, mặt khác tạo điều kiện
thuận lợi cho việc kết hợp các dịch vụ tài chính với nhau, nâng cao chất lượng
77
dịch vụ đối với khách hàng. Hơn nữa, đây là cách để Việt Nam có những tập
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
đoàn tài chính lớn, có thể niêm yết trên thị trường chứng khoán. ở Việt Nam, các
công ty nhà nước đã cổ phần hoá như Bảo Minh hay Vinare sẽ không gặp khó
khăn gì trong việc niêm yết và hoạt động hiệu quả trên thị trường chứng khoán,
nhưng những công ty bảo hiểm nhỏ khác thị không đơn giản như vậy.
2.2. Tổ chức và đào tạo nhân sự
Tổ chức nhân sự là việc sắp xếp yếu tố nhân sự làm sao cho phù hợp với
khả năng công việc của họ. Đây là công tác quan trọng đối với các công ty, các
doanh bảo hiểm. Trong kinh doanh bảo hiểm, công tác nhân sự là công tác có
tính chất quyết định đến sự tồn tại và phát triển của công ty. Nếu một công ty
thực hiện tốt công tác này thì hoạt động kinh doanh sẽ tốt. Ngược lại, nếu công
ty tổ chức nhân sự không tốt thì kéo theo hoạt động kinh doanh cũng sẽ ngày
càng giảm sút.
Như đã nói ở trên, bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng
đường biển là ngành truyền thống của bảo hiểm Việt Nam và thế giới, nhưng các
nghiệp vụ của nó hết sức phức tạp, đòi hỏi các nhân viên làm việc phải có trình
độ và kinh nghiệm, thành thạo trong các quy trình làm việc, phải thường xuyên
nâng cao nghiệp vụ và học tập những nước có ngành bảo hiểm phát triển như
Mỹ, Đức, Pháp... và đặc biệt phải nắm bắt được các xu thế thay đổi trên thế giới
để phù hợp với thông lệ quốc tế.
Ở các công ty kinh doanh bảo hiểm, trình độ cán bộ công tác trong lĩnh vực
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển chưa đồng đều
và chưa thực sự chuyên môn hoá. Do đó, hiệu quả công việc chưa cao. Trong
nhiều công ty, việc sắp xếp người không phù hợp với từng nghiệp vụ đã dẫn đến
sai sót, bất tín nhiệm đối với khách hàng làm cho công ty bảo hiểm tổn thất cả
vật chất lẫn uy tín. Khi xu thế hội nhập ngày càng tăng, hàng hoá của Việt Nam
78
ngày càng mở rộng ra thị trường nước ngoài và hàng hoá nước ngoài ngày càng
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
du nhập vào Việt nam làm cho nhu cầu mua bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
ngày càng tăng. Các công ty bảo hiểm đang nỗ lực mở rộng quy mô và các công
ty không thể chạy đua theo số lượng, đặt doanh thu lên hàng đầu mà làm mất uy
tín đối với khách hàng mua bảo hiểm. Do đó, các công ty cần chán chỉnh lại tổ
chức nhân sự, đặt sự trung thực, phẩm chất đạo đức và sự chuyên môn hoá về
nghiệp vụ lên hàng đầu.
Về thái độ làm việc, các đại lý, các nhân viên cần phải xem "khách hàng là
thượng đế", phải hướng dẫn cụ thể, chi tiết cách thức và nội dung các điều khoản
trong hợp đồng cho khách hàng để tránh sai sót, hiểu lầm khiếu kiện về sau, gây
tổn thất cho khách hàng mua bảo hiểm và các công ty bảo hiểm. Ngoài ra, các
cán bộ, nhân viên sẽ đoàn kết, làm việc có động lực, chuyên tâm cho công tác
của mình, mang nhiều hợp đồng và lợi nhuận về cho công ty nếu công ty đó có
chế độ thưởng phạt phân minh, đãi ngộ hợp lý và có các biện pháp khuyến khích
nhân viên như: nâng lương, thưởng theo doanh số hợp đồng ký kết được, làm
việc vượt kế hoạch đề ra... Ngược lại, sẽ dẫn đến tình trạng nhân viên làm việc
không nhiệt tình hăng say, ghen ghét, đố kỵ lẫn nhau sẽ dẫn đến giảm sút hiệu quả công
việc.
Công tác tổ chức nhân sự trong công ty bảo hiểm thực hiện tốt cũng sẽ
không phát huy hết được hiệu quả nếu công ty không có chiến lược thường
xuyên phát triển, đào tạo đội ngũ cán bộ nhân viên. Công tác đào tạo nhân lực là
vấn đề không thể xem nhẹ trong chiến lược phát triển của bất kỳ công ty nào.
Bởi nhân viên chính là những người trực tiếp tham gia thực hiện các công việc
của công ty. Đội ngũ nhân viên có làm tốt công việc của mình thì mới mang lại
uy tín và danh tiếng cho công ty, từ đó thu hút được nhiều khách hàng. Đứng về
phía khách hàng, những người mua bảo hiểm sẽ yên tâm hơn khi được làm việc,
ký kết hợp đồng với những nhân viên có trình độ nghiệp vụ cao và giàu tinh thần trách
79
nhiệm.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Trước tốc độ phát triển nhanh chóng của thị trường tài chính nói chung và
ngành bảo hiểm nói riêng thì cơn sốt nguồn nhân lực cho ngành nghề đặc thù
này càng gay gắt hơn. Sự khan hiếm nguồn nhân lực tài chính đã được cảnh báo
từ nhiều năm trước và sự thiếu hụt này ngày càng lớn do nhu cầu đã tăng quá
nhanh nhưng cung chuyển động không đáng kể. Vì thế giải pháp trước mắt là
phải tăng hơn nữa quy mô đào tạo. Các công ty bảo hiểm cần quan tâm đến việc
đào tạo những chuyên viên bảo hiểm giỏi, nhiều kinh nghiệp, thủ tục giải quyết
bồi thường tổn thất nhanh chóng, hợp lý và thuận tiện cho khách hàng. Cần tiếp
tục hợp tác với các tổ chức bảo hiểm trong nước và quốc tế để tổ chức lớp học,
hội thảo chuyên ngành cho cán bộ bảo hiểm. Đi đôi với việc đào tạo nâng cao
trình độ nghiệp vụ, cần phải tạo điều kiện cho nhân viên nâng cao trinh độ ngoại
ngữ, tin học phục vụ cho công tác của mình. Bên cạnh đó, các công ty cũng cần
nâng cao trình độ của cán bộ làm công tác bồi thường, gắn chặt giữa công tác bồi
thường với công tác khai thác. Ngoài ra, các công ty bảo hiểm cũng cần chú
trọng đến công tác tuyển dụng, làm sao có thể lựa chọn được những nhân viên
nhiệt tình và có trình độ nghiệp vụ. Do vậy, các công ty kinh doanh bảo hiểm
cần thiết phải dành một khoản nhất định hàng năm cho công tác tuyển dụng và đào tạo.
Việc ra đời thêm các công ty bảo hiểm mới sẽ làm cho thị trường bảo hiểm
Việt Nam càng thêm sôi động và cũng buộc các công ty bảo hiểm Việt Nam phải
phát huy hơn nữa nội lực của mình để tự khẳng định mình trước một thị trường
đa dạng hiện nay, đồng thời phải cải cách thêm nhiều hơn nữa khả năng cung
cấp dịch vụ phục vụ khách hàng, tạo một bước đột phá để đảm bảo kế hoạch
kinh doanh mà từng công ty bảo hiểm đã đề ra, đảm bảo duy trì tốc độ tăng
trưởng cao của mỗi công ty bảo hiểm nói riêng và toàn ngành bảo hiểm nói
chung. Các công ty bảo hiểm cũng phải củng cố lại vị trí của mình cũng như
nâng cao chất lượng phục vụ sản phẩm bảo hiểm cho khách hàng để tồn tại và
80
phát triển trong xu thế hội nhập toàn cầu.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
2.3. Chính sách khách hàng
Hiện nay, trên thị trường trong nước xuất hiện nhiều công ty bảo hiểm tạo
ra sự cạnh tranh gay gắt trong tất cả các loại hình bảo hiểm, đặc biệt là bảo hiểm
hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng đường biển. Với sự cạnh tranh gay
gắt đó, bên cạnh việc tập trung nhiều vào nâng cao nghiệp vụ cho nhân viên bảo
hiểm, xây dựng hình ảnh để nâng cao uy tín và hiệu quả kinh doanh, các công ty
bảo hiểm cũng cần phải có chiến lược lâu dài trong duy trì quan hệ với khách
hàng. Việc duy trì quan hệ với khách hàng là một yếu tố cạnh tranh nhạy cảm.
Do đó, các công ty bảo hiểm cần đưa ra các chính sách, phương hướng cụ thể,
chi tiết lâu dài và phù hợp với tình hình, điều kiện của công ty và toàn thị trường.
Các công ty không được coi trọng những khách hàng có hợp đồng bảo hiểm lớn
mà bỏ qua, xem nhẹ các khách hàng nhỏ lẻ, mà phải có thái độ cư xử công bằng,
làm hài lòng tất cả các khách hàng. Bên cạnh đó, các công ty bảo hiểm không
phải chỉ làm khách hàng hài lòng mà còn phải tuân thủ theo những quy định của nhà
nước.
Do trong lĩnh vực bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu vận chuyển bằng
đường biển chứa đựng cả yếu tố trong nước và nước ngoài, có cả khách hàng
trong nước và nước ngoài, vậy các công ty bảo hiểm cần phải làm gì để đáp ứng
được yếu tố cạnh tranh nhạy cảm này một cách tốt nhất?
Đối với khách hàng nước ngoài: Do trên thị trường thế giới có nhiều công
ty bảo hiểm lớn, uy tín, chuyên nghiệp nên thu hút được nhiều khách hàng, các
công ty bảo hiểm Việt Nam phải quảng bá, phân tích cho khách hàng nước ngoài
thấy được lợi ích khi mua bảo hiểm ở Việt Nam:
- Mua bảo hiểm bằng tiền Việt sẽ tiết kiệm được ngoại tệ
- Các công ty bảo hiểm Việt Nam đã ngày càng lớn mạnh và có uy tín trên
thị trường và có khả năng đảm bảo cho các doanh nghiệp. Khi có tổn thất xẩy ra,
81
công ty nhanh chóng giám định bồi thường. Các công ty bảo hiểm Việt Nam
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
cũng có các biện pháp phòng ngừa hữu hiệu, khắc phục rủi ro cho hàng hoá của
khách hàng. Đặc biệt, công ty sẽ nhanh chóng giải quyết một cách hợp lý, công
bằng khi có khiếu nại của khách hàng.
- Đội ngũ nhân viên làm việc chuyên nghiệp, thông thạo nghiệp vụ, phù
hợp với những xu hướng của Bảo hiểm thế giới.
Đối với khách hàng trong nước: Với thực trạng hiện nay, các doanh
nghiệp xuất nhập khẩu thường nhập khẩu hàng theo giá CIF, xuất hàng theo giá
FOB, cộng thêm tâm lý không an tâm khi sợ các công ty bảo hiểm Việt Nam
không đủ khả năng tài chính chi trả cho hàng hoá tổn thất có khối lượng lớn.
Thực trạng này khiến một khối lượng lớn hàng hoá xuất nhập khẩu được bảo
hiểm lọt vào tay các công ty bảo hiểm nước ngoài. Như vậy, làm thế nào để
giành lại tiềm năng to lớn này? Các công ty bảo hiểm Việt Nam cần phải có các
biện pháp tuyên truyền cho khách hàng hiểu về bảo hiểm, thường xuyên có các
buổi hội thảo, mở hội nghị khách hàng không chỉ cho khách hàng hiện tại mà cả
khách hàng tiềm năng, tạo mối quan hệ thân tình giữa khách hàng và nhà bảo
hiểm, làm cho khách hàng nhận thấy được những lợi ích của mình nếu giành
được quyền thuê phương tiện vận tải và mua bảo hiểm, và để họ biết rằng việc
tham gia bảo hiểm trong nước không những an tâm trong kinh doanh mà còn góp
phần đóng góp vào ngân sách nhà nước cho đất nước ngày càng phát triển. Đồng
thời thông qua các buổi hội thảo như vậy, sẽ giải tỏa được những ngần ngại của
các doanh nghiệp, tháo gỡ được những khó khăn trong việc bảo hiểm.
Đối với khách hàng lần đầu tiên mua bảo hiểm của công ty: Đây là đối
tượng khách hàng quan trọng. Những người này có tiếp tục mua bảo hiểm ở
công ty nữa hay không phụ thuộc rất lớn vào chính sách khách hàng của công ty.
Đối với những khách hàng này, công ty cần phải tạo được lòng tin và tạo được
ấn tượng tốt đẹp về phong cách làm việc cũng như sự thông thạo, am hiểu
82
nghiệp vụ của nhân viên bảo hiểm, không thể để khách hàng hồ nghi hay có cảm
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
giác bất an trong bất kỳ lô hàng bảo hiểm nào cũng như bước tiến hành nghiệp
vụ nào.
2.4. Phối hợp chặt chẽ ba hoạt động: hoạt động Marketing, hoạt động khai
thác, hoạt động giải quyết bồi thƣờng.
Hoạt động Marketing: Marketing được coi là một bộ phận không thể
thiếu được của hoạt động kinh doanh, song với bảo hiểm, nó lại càng quan trọng
hơn bởi sản phẩm bảo hiểm có tính đặc thù riêng. Đây cũng chính là hoạt động
mà các công ty bảo hiểm Việt Nam hiện nay vừa thiếu lại vừa yếu. Nó được coi
là hệ quả của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, độc quyền kinh doanh. Thực
trạng này đã gây ra không ít khó khăn trong việc mở rộng thị phần.
Trong điều kiện cơ chế thị trường, để thu hút được nhiều khách hàng, các
công ty cần thực hiện linh động và hợp lý cả chính sách giá cả lẫn chính sách sản
phẩm. Về chính sách giá cả, công ty cần đưa ra một mức phí hợp lý, mức phí đó
phải thấp để thu hút nhiều hợp đồng, khi đó, công ty thu lợi nhuận trên tổng
doanh thu cao. Tuy nhiên, mức phí đó cũng không phải không làm thâm hụt quỹ
bảo hiểm nếu tổn thất xảy ra và không vi phạm nguyên tắc của Bộ Tài Chính quy
định. Bên cạnh đó, các công ty cần có những chính sách giá ưu đãi đối với
những khách hàng lâu năm. Tuy nhiên, hạ phí không phải là lợi thế cạnh tranh
lâu dài trên thị trường bảo hiểm, mà để có được lợi thế cạnh tranh lâu dài, các
công ty cần thực hiện tốt cả chính sách sản phẩm nữa. Chính sách sản phẩm là
những hoạt động và những giải pháp sẽ giúp cho công ty tạo ra thế đứng cho
dịch vụ của mình trên thị trường. Chiến lược này bao gồm nhiều công đoạn khác
nhau, trong đó việc tạo uy tín cho dịch vụ bảo hiểm của công ty là quan trọng
nhất. Để có thể tạo ra uy tín và nâng cao chất lượng dịch vụ, các công ty cần đưa
ra tiêu chí rõ ràng, các nhân viên cần quán triệt và thực thi có hiệu quả. Chẳng
hạn thời gian ký kết hợp đồng phải nhanh chóng, tiện lợi cho khách hàng, đồng
83
thời khi xảy ra tổn thất, việc xử lý hồ sơ và thanh toán bồi thường phải chính xác
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
nhanh chóng, tránh để phiền phức cho khách hàng, hạn chế việc đi lại cho khách
hàng do thủ tục rườm rà, nhiều công đoạn.
Trong nghiệp vụ bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng
đường biển, hoạt động Marketing vô cùng quan trọng. Do đây là nghiệp vụ bảo
hiểm có từ lâu đời, nhiều công ty bảo hiểm phi nhân thọ tham gia bảo hiểm cho
nghiệp vụ này, các nhà kinh doanh xuất nhập khẩu có nhiều cơ hội lựa chọn nên
trên thị trường xảy ra cạnh tranh rất mạnh mẽ. Các công ty phải thực hiện tốt
đồng thời cả hai chính sách giá cả và chính sách sản phẩm thì mới có khả năng
thu hút được nhiều khách hàng tham gia loại hình bảo hiểm này.
Ngoài ra, các công ty bảo hiểm cũng cần mở rộng mạng lưới đại lý ở nước
ngoài, thường xuyên công bố những thông tin về thị trường bảo hiểm cho các
doanh nghiệp xuất nhập khẩu thông qua việc chào hàng, quảng cáo trên mạng
internet, báo chí, tập san chuyên ngành. Các hãng vận chuyển cần nghiên cứu
mở thêm các tuyến đường mà Việt Nam thường hay có hàng xuất, nhập khẩu
được vận chuyển.
Hoạt động khai thác: Khách hàng bảo hiểm và tái bảo hiểm có rất ít kiến
thức về bảo hiểm, họ cần có sự cung cấp và hỗ trợ về mặt chuyên môn từ các
công ty bảo hiểm. Đối với hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường
biển thường có nhiều sự cố bất ngờ xảy ra trên biển làm tổn thất lớn hàng hoá
vật chất, do đó các khách hàng khi mua bảo hiểm cho hàng hoá xuất nhập khẩu
vận chuyển bằng đường biển cần hỗ trợ về mặt chuyên môn cho những rủi ro
này. Trong các công ty bảo hiểm cần có bộ phận khách hàng làm việc chuyên
nghiệp, hiểu rõ chuyên môn, nghiệp vụ. Bộ phận khách hàng thường duy trì sự
tiếp xúc với khách hàng thông qua bộ phận Marketing, song họ giữ vai trò quan
trọng trong công việc cung cấp cho khách hàng những dịch vụ mà họ mong
84
muốn.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
Các công ty cũng nên có các hội nghị khách hàng để lắng nghe ý kiến để
đúc rút kinh nghiệm nhằm cải tiến sản phẩm phù hợp.
Hoạt động giải quyết bồi thường: ở các công ty bảo hiểm, bộ phận bồi
thường phải luôn có ý thức trách nhiệm hỗ trợ khách hàng một cách đúng, đủ và
nhanh nhất có thể trong trường hợp khiếu nại khó khăn phức tạp. Công ty bảo
hiểm chắc chắn đều nhận thức được khách hàng đánh giá tầm quan trọng của
công tác này như thế nào, nên ngoài yếu tố giải quyết bồi thường đúng điều kiện,
đúng hợp đồng bảo hiểm... thì phải giải quyết trong thời gian nhanh nhất, kịp
thời, đơn giản hoá thủ tục khi tổn thất xảy ra là cần thiết.
Cả ba công tác trên đều rất quan trọng trong một công ty bảo hiểm hoặc tái
bảo hiểm. Muốn có hiệu quả kinh doanh cao thì công ty phải thường xuyên theo
dõi, bám sát cả ba hoạt động này.
2.5. Đề phòng và hạn chế tổn thất.
Đây là công tác làm giảm thiệt hại về mặt tài chính cho cả nhà bảo hiểm và
chủ hàng hoá xuất nhập khẩu được mua bảo hiểm. Đặc điểm của hoạt động
chuyên chở hàng hoá xuất nhập khẩu bằng đường biển không những chịu tác
động lớn của thiên tai như mưa, bão, sóng,... mà còn chịu tác động của việc bốc,
xếp hàng, con tàu chuyên chở, bao bì đóng gói... con người không thể xoá bỏ
hoàn toàn các rủi ro, nhưng có thể ngăn chặn và giảm thiểu rủi ro xảy ra. Vì vậy,
cách tốt nhất để chống chọi với những hậu quả của những rủi ro là làm cho
chúng không thường xuyên xảy ra bằng cách tăng cường công tác đề phòng hạn
chế rủi ro như kiểm tra chất lượng hàng chuyên chở, con tàu chuyên chở, chất
lượng bao bì đóng gói, khi rủi ro xảy ra cần nhanh chóng thực hiện việc cứu
chữa. Giữa công ty bảo hiểm và công ty tái bảo hiểm cần hỗ trợ nhau trong việc
đánh giá chính xác rủi ro được bảo hiểm từ đó xác định phí bảo hiểm và tái bảo
85
hiểm hợp lý từng hợp đồng, đảm bảo độ an toàn cho hàng hoá được bảo hiểm
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
cũng như tái bảo hiểm, tăng cường hợp tác để có được cách thức quản lý rủi ro
tốt nhất, áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật vào chương trình quản lý, đánh
giá rủi ro. Mặt khác, các công ty bảo hỉêm cần lựa chọn và đào tạo thường xuyên
nâng cao nghiệp vụ cho các cán bộ giỏi về lĩnh vực đánh giá, rủi ro.
2.6. Nâng cấp hệ thống thông tin.
Công nghệ thông tin ra đời và phát triển như vũ bão đóng góp không nhỏ
vào sự tiến bộ của nhân loại, đóng góp và nâng cao hiệu quả của các ngành nghề
sản xuất và dịch vụ trên thế giới. Trong kinh doanh dịch vụ tài chính bảo hiểm
cũng cần phải có một hệ thống thông tin hiện đại. Đây là tiêu chuẩn để xây dựng
một hệ thống quản lý tiên tiến, phù hợp với bối cảnh phát triển kinh tế ngày nay.
Các doanh nghiệp không chỉ nâng cấp đầu tư cơ sở vật chất cho mạng thông tin
mà còn là việc đầo tạo và tổ chức ứng dụng được những lợi thế do công nghệ
thông tin mang lại. Khi thị trường ngày được mở rộng, các doanh nghiệp có
nhiều chi nhánh ở khắp các vùng miền thì việc thông tin liên lạc giữa ban chỉ đạo
điều hành với các chi nhánh rất quan trọng, mọi sự chỉ đạo cần được tiếp thu kịp
thời, chính xác. Cộng thêm việc doanh nghiệp cần phải có thông tin đầy đủ về
tổn thất của lô hàng để giải quyết bồi thường nhanh chóng, tiết kiệm thời gian
cho khách hàng. Như vậy các doanh nghiệp cần đẩy mạnh ứng dụng công nghệ
thông tin vào quản lý, giao dịch kinh doanh một cách hiệu quả.
Ngoài ra, các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam cũng phải tiếp tục trang bị
và ứng dụng công nghệ thông tin vào khâu khai thác, quản trị rủi ro, quản trị
doanh nghiệp, trong đó quan trọng nhất là ứng dụng được thương mại điện tử.
Người có nhu cầu về bảo hiểm có thể lựa chọn sản phẩm bảo hiểm của các
doanh nghiệp bảo hiểm trên mạng và khi chấp nhận sẽ được cấp đơn bảo hiểm,
giấy chứng nhận bảo hiểm ngay lập tức. Từ đó, việc quản lý đơn bảo hiểm, giấy
86
chứng nhận bảo hiểm, hợp đồng bảo hiểm, khách hàng tham gia bảo hiểm, đối
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
tượng được bảo hiểm, rủi ro được bảo hiểm, giải quyết tổn thất và bồi thường
bảo hiểm được dễ dàng và thuận tiện, nhanh chóng.
2.7. Một số giải pháp khác
Các công ty bảo hiểm cũng cần phải thông qua hoạt động của Hiệp hội
bảo hiểm Việt Nam, thông qua các hội nghị, hội nghị thảo chuyên ngành để tìm
ra các giải pháp hữu hiệu nhằm giúp thị trường bảo hiểm hàng hoá xuất nhập
khẩu chuyên chở bằng đường biển hoạt động trong môi trường cạnh tranh lành
mạnh, đảm bảo quyền lợi của người bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
Các công ty bảo hiểm hiện tại phải làm tốt và tiến tới tăng cường hơn
nữa công tác thông kêhiện tại phải làm tốt và tiến tới tăng cường hơn nữa công
tác thống kê bảo hiểm và tái bảo hiểm để nghiên cứu và rút ra phương pháp và
hình thức bảo hiểm hợp lý.
Mở rộng các mối quan hệ kinh doanh, hợp tác với các công ty, tập đoàn
và các thị trường khu vực và thế giới. Giữ vững quan hệ cũ, nhất là các mối
quan hệ truyền thống như: Tokyo Marine, Munich Re...
Xúc tiến mở các văn phòng đại diện ở khu vực để thuận lợi cho việc
nghiên cứu thị trường nước ngoài, thu thập thông tin, tiếp xúc khai thác dịch vụ
87
phù hợp.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
KẾT LUẬN
Đại hội lần thứ VIII của Đảng đã xác định nhiệm vụ "Mở rộng quan hệ
đối ngoại, chủ động tham gia các tổ chức quốc tế và khu vực, củng cố và nâng
cao vị thế nước ta trên trường quốc tế". Đại hội lần thứ IX và lần thứ X khẳng
định chủ trương "Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển nhanh, có hiệu
quả và bền vững". Đây là nhiệm vụ chung của cả nước và cũng là nhiệm vụ của
ngành Bảo hiểm Việt Nam. Trong điều kiện hiện nay, ngoài việc khắc phục
những khó khăn chúng ta cần tận dụng những thời cơ để đưa ngành Bảo hiểm
phát triển, hội nhập vào hoạt động bảo hiểm trong khu vực cũng như trên trường
quốc tế.
Trong quá trình hội nhập kinh tế thế giới, để doanh nghiệp thuộc ngành
Bảo hiểm cũng như tất cả các doanh nghiệp Việt Nam khác có thể hội nhập,
tham gia hoạt động kinh doanh một cách bình đẳng với các doanh nghiệp trong
khu vực, bên cạnh những chính sách hỗ trợ của nhà nước, bản thân mỗi doanh
nghiệp cũng phải nhanh chóng tận dụng cơ hội của giai đoạn chuyển đổi để
nhanh chóng nâng cao năng lực sản xuất và kinh doanh, nâng cao hiệu quả cạnh
tranh trong hợp tác, nâng cao vị thế của chính doanh nghiệp mình.
Trong những năm hội nhập tới đây, hi vọng rằng với chủ trương chính
sách phát triển thích hợp của Đảng và Nhà nước, kết hợp việc phát huy tối đa nội
lực cũng như học hỏi mọi kinh nghiệm quý báu từ các nước có ngành dịch vụ
bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển phát triển,
ngành Bảo hiểm Việt Nam sẽ thực sự đóng vai trò là ngành kinh tế mũi nhọn của
89
đất nước.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Giáo trình Bảo hiểm trong kinh doanh_ Trường Đại học Ngoại thương,
2002, Nhà xuất bản Khoa học và Kỹ thuật.
2. Giáo trình Vận tải và giao nhận trong Ngoại Thương_ trường Đại học
Ngoại Thương, 2005, Nhà xuất bản Lý luận chính trị.
3. Các điều kiện thương mại quốc tế (Incoterms 2000), 2005, Nhà xuất bản
Khoa học và Kỹ thuật.
4. Luật kinh doanh về bảo hiểm
5. Nghị định 45 Quy định chi tiết thi hành một số điều của luật kinh doanh
về bảo hiểm
6. Nghị đinh 46 Quy định về chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm
và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm.
7. Quyết định 175/2003/QĐ-TTg ngày 29/08/2003: Chiến lược phát triển thị
trường bảo hiểm Việt Nam 2003-2010
8. Các tạp chí:
-Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 2004, 2005.
- Tạp chí Thông tin thị trường bảo hiểm
– Tái bảo hiểm số 1 ban hành tháng 1 các năm 2003, 2004, 2005,
2006, 2007 của Tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt
Nam
- Tạp chí Bảo Việt các số năm 2004, 2005.
9. Website Tập đoàn Bảo Việt: Hội nghị Triển khai kế hoạch phát triển thị
trường bảo hiểm Việt Nam đến năm 2010_ Tác giả Hải Yến
90
http://www.baoviet.com.vn/print.asp?newsid=754&lang=VN
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
10. Website của Hiệp hội Bảo hiểm Việt nam: Thị trường Việt Nam với việc
gia nhập WTO_ Tác giả Phùng đắc lộc
http://www.avi.org.vn/nghien_cuu_trao_doi/45/default.aspx
11. Website của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam: Tổng quan thị trường bảo
hiểm Việt Nam 2006, http://www.avi.org.vn/thitruong/43/default.aspx
12. Website của Hiệp hội Bảo hiểm Việt Nam: Tổng quan thị trường bảo hiểm Việt
Nam 6 tháng đầu năm 2007, http://www.avi.org.vn/thitruong/51/default.aspx
13. Website thông tấn xã Việt Nam: Các cam kết của Việt Nam trong lĩnh vực
bảo hiểm,
http://www.vnanet.vn/TrangChu/VN/tabid/58/itemid/179831/Default.aspx
14. Website Công ty CP đầu tư Tài chính VMF Việt Nam: Thị trường bảo
hiểm Việt Nam với việc gia nhập WTO
http://www.vmf.com.vn/vmf-vn/content/view/101/209/
15. Website của Mạng thông tin khoa học và công nghệ thành phố Hồ Chí
Minh: Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu giai đoạn 1996-2005
http://www.cesti.gov.vn/left/stinfo/the_gioi_du_lieu/solieuthongke/kt_xh/
2006/2006_03_kt3
16. Website Bộ Kế hoạch và Đầu tư: Hoạt động xuất nhập khẩu đã có những
bước phát triển mạnh,
http://www.mpi.gov.vn/strategy.aspx?Lang=4&mabai=106
17. Website Bộ Tài Chính: Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu: Phải vươn
91
lên từ bây giờ.
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=10159
18. Website tổng công ty cổ phần tái bảo hiểm quốc gia Việt Nam Vinare
http://vinare.fis-
soft.com/portals/0/thi%20truong%20bh%20vn%202005_tv_1_06.pdf
19. Website của Tập đoàn Bảo Viêt: Bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu
trong bối
cảnh hội nhập
http://www.baoviet.com.vn/newsdetail.asp?websiteId=1&newsId=66&cat
Id=33&lang=VN
20. Website Bộ Tài Chính: Khốc liệt cuộc chiến bảo hiểm phi nhân thọ
http://www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=42414
21. Website Cổng thông tin bảo hiểm Việt Nam: Nguồn nhân lực cho ngành
bảo hiểm: Nhiều thách thức,
92
http://www.webbaohiem.net/index.php?option=com_content&task=view&id=10 1&Itemid=236
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
MỤC LỤC Lêi nãi ®Çu…………………………………………………………….. 1
Ch ¬ng I: TæNg quan vÒ B¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp
khÈu chuyªn chë b»ng ® êng biÓn.......................................... 3
I. B¶o hiÓm hµng h¶i. ................................................................................ 3
1.Sù ra ®êi vµ kh¸i niÖm vÒ b¶o hiÓm hµng h¶i. ............................................... 3
2. C¸c lo¹i b¶o hiÓm hµng h¶i. ............................................................................ 4
2.1 B¶o hiÓm tr¸ch nhiÖm d©n sù cña chñ tµu. .................................... 4
2.2 B¶o hiÓm th©n tàu. ........................................................................ 4
2.3. B¶o hiÓm hµng hãa xuÊt nhËp khÈu chuyªn chë b»ng ® êng biÓn. 5
II. NghiÖp vô b¶o hiÓm hµng hãa xuÊt nhËp khÈu vËn chuyÓn b»ng
® êng biÓn. ................................................................................................ 5
1. Kh¸i niÖm: ......................................................................................................... 5
2. Sù cÇn thiÕt ph¶i b¶o hiÓm hµng hãa vËn chuyÓn b»ng ® êng biÓn. ........ 5
2.1. §èi víi doanh nghiÖp kinh doanh xuÊt nhËp khÈu........................ 5
2.2. §èi víi nÒn kinh tÕ. ...................................................................... 7
3. C¸c ®iÒu kiÖn b¶o hiÓm hµng hãa xuÊt nhËp khÈu b»ng ® êng biÓn. ...... 8
3.1. C¸c ®iÒu kiÖn b¶o hiÓm cña hiÖn hµnh trªn thÞ tr êng. ................ 8
3.1.1. C¸c ®iÒu kiÖn b¶o hiÓm cña Anh. .......................................... 8
3.1.2. C¸c ®iÒu kiÖn b¶o hiÓm cña ViÖt Nam. .................................. 9
3.2. Tr¸ch nhiÖm cña ng êi b¶o hiÓm ®èi víi hµng hãa theo c¸c ®iÒu
kiÖn b¶o hiÓm A, B, C cña ViÖt Nam. ................................................ 10
3.2.1. Ph¹m vi b¶o hiÓm. ............................................................... 10
3.2.2 Rñi ro lo¹i trõ. ...................................................................... 12
3.3. Ph¹m vi kh«ng gian vµ thêi gian b¶o hiÓm . ............................... 15
III. Kh¸i qu¸t chung vÒ n¨ng lùc c¹nh tranh. ....................................... 17
1. Mét sè vÊn ®Ò vÒ n¨ng lùc c¹nh tranh. ........................................................ 17
1.1. Kh¸i niÖm. ................................................................................. 17
93
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
2. C¸c yÕu tè t¸c ®éng ®Õn n¨ng lùc c¹nh tranh cña doanh nghiÖp. ........... 18
2.1. C¸c nh©n tè bªn ngoµi. ............................................................... 18
2.2. C¸c nh©n tè thuéc m«i tr êng bªn trong..................................... 22
Ch ¬ng II: Thùc tr¹ng b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp
khÈu chuyªn chë b»ng ® êng biÓn t¹i ViÖt Nam. .......... 26
I. Tæng quan vÒ b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu b»ng ® êng biÓn
t¹i ViÖt Nam khi gia nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ............. 26
1.1. B¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu b»ng ® êng biÓn ch a t ¬ng
xøng víi tiÒm n¨ng xuÊt nhËp khÈu. ............................................................... 28
1.1.1. T×nh h×nh xuÊt nhËp khÈu cña ViÖt Nam trong nh÷ng n¨m qua.
......................................................................................................... 28
1.1.2. B¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu ë ViÖt Nam ch a t ¬ng xøng
víi tiÒm n¨ng xuÊt nhËp khÈu. .......................................................... 30
1.2. Doanh thu phÝ b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu vËn chuyÓn b»ng
® êng biÓn cßn thÊp qua c¸c n¨m. ........................................................ 35
1.3. Tæn thÊt vµ båi th êng nghiÖp vô b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu
vËn chuyÓn b»ng ® êng biÓn toµn thÞ tr êng. .............................................. 39
II. ThÞ tr êng b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu ViÖt Nam khi gia
nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ............................................... 41
1. Sù c¹nh tranh gi÷a c¸c c«ng ty b¶o hiÓm trªn thÞ tr êng b¶o hiÓm phi
nh©n thä ë ViÖt Nam hiÖn nay. ......................................................................... 42
2. N¨ng lùc c¹nh tranh cña b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu vËn
chuyÓn b»ng ® êng biÓn t¹i ViÖt Nam hiÖn nay. ............................................ 46
III. Nh÷ng c¬ héi vµ th¸ch thøc ®èi víi doanh nghiÖp b¶o hiÓm trong
lÜnh vùc kinh doanh b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu vËn chuyÓn
b»ng ® êng biÓn sau khi ViÖt Nam gia nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ
giíi WTO. ................................................................................................ 54
1. C¬ héi. .............................................................................................................. 54
94
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
2. Th¸ch thøc....................................................................................................... 56
3. Nh÷ng cam kÕt ¶nh h ëng tíi dÞch vô b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp
khÈu vËn chuyÓn b»ng ® êng biÓn cña ViÖt Nam khi gia nhËp tæ chøc
th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ................................................................................. 59
3.1. Cam kÕt cung cÊp dÞch vô qua biªn giíi. ........................................ 60
3.2. Cam kÕt hiÖn diÖn th ¬ng m¹i. ....................................................... 60
3.3. Cam kÕt xo¸ bá tû lÖ t¸i b¶o hiÓm b¾t buéc sau 1 n¨m. ..................... 61
Ch ¬ng III: gi¶i ph¸p n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh
cña b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu chuyªn chë
b»ng ® êng biÓn t¹i ViÖt Nam sau khi gia nhËp tæ
chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ................................................ 62
I. B¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu ViÖt Nam khi gia nhËp tæ chøc
th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO....................................................................... 62
1. Môc tiªu ph¸t triÓn thÞ tr êng b¶o hiÓm hµng giai ®o¹n 2003-2010........ 62
1.1. Môc tiªu chung. ............................................................................. 62
1.2. Mét sè chØ tiªu cô thÓ. ............................................................................... 63
2. Dù b¸o nhu cÇu trªn thÞ tr êng b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu
chuyªn chë b»ng ® êng biÓn. ........................................................................... 63
II. Quan ®iÓm cña §¶ng vµ Nhµ n íc vÒ viÖc ph¸t triÓn, héi nhËp cña
b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu b»ng ® êng biÓn cña ViÖt Nam sau
khi gia nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO. ................................... 66
1. Quan ®iÓm cña ChÝnh phñ vÒ n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña c¸c
doanh nghiÖp trong n íc kinh doanh b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu
chuyÓn chë b»ng ® êng biÓn. ........................................................................... 66
2. Quan ®iÓm trong héi nhËp thÞ tr êng b¶o hiÓm trong n íc víi thÞ tr êng
b¶o hiÓm quèc tÕ khi ViÖt Nam gia nhËp tæ chøc th ¬ng m¹i thÕ giíi WTO.
............................................................................................................................... 68
95
Nguỵ Thị Hiền Lương A4– K42A – KT&KDQT
Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của bảo hiểm hàng hoá xuất nhập khẩu chuyên chở bằng đường biển Việt Nam sau khi gia nhập wto
III. Mét sè gi¶i ph¸p kiÕn nghÞ nh»m n©ng cao n¨ng lùc c¹nh tranh cña
c¸c doanh nghiÖp kinh doanh b¶o hiÓm hµng ho¸ xuÊt nhËp khÈu
chuyªn chë b»ng ® êng biÓn. ................................................................. 70
1. Nhãm gi¶i ph¸p vÜ m«. ................................................................................... 70
1.1. Hoµn thiÖn khung khæ ph¸p lý, t¨ng c êng hiÖu lùc qu¶n lý nhµ
n íc vÒ kinh doanh b¶o hiÓm. ........................................................... 70
1.2. T¹o ® îc sù liªn kÕt gi÷a c¸c ngµnh th ¬ng m¹i, vËn t¶i vµ b¶o
hiÓm.................................................................................................. 72
1.3. KiÓm so¸t chÆt chÏ ho¹t ®éng cña c¸c v¨n phßng ®¹i diÖn cña c¸c
c«ng ty b¶o hiÓm n íc ngoµi t¹i ViÖt Nam. ...................................... 73
1.4. §Èy m¹nh viÖc më réng hîp t¸c quèc tÕ. ................................... 73
1.5. Ph¸t huy vai trß cña HiÖp héi b¶o hiÓm. ..................................... 74
1.6. TiÕp tôc t¨ng c êng huy ®éng vèn th«ng qua hoµn thiÖn thÞ tr êng
chøng kho¸n. .................................................................................... 75
1.7. Mét sè gi¶i ph¸p kh¸c cña Nhµ n íc ®èi víi c¸c doanh nghiÖp b¶o
hiÓm.................................................................................................. 75
2. Nhãm gi¶i ph¸p mang tÇm vi m« (§èi víi c¸c c«ng ty b¶o hiÓm vµ t¸i b¶o
hiÓm). .................................................................................................................... 77
2.1. T¨ng c êng kh¶ n¨ng tµi chÝnh................................................... 77
2.2. Tæ chøc vµ ®µo t¹o nh©n sù ........................................................ 78
2.3. ChÝnh s¸ch kh¸ch hµng .............................................................. 81
2.4. Phèi hîp chÆt chÏ ba ho¹t ®éng: ho¹t ®éng Marketing, ho¹t ®éng
khai th¸c, ho¹t ®éng gi¶i quyÕt båi th êng. ....................................... 83
2.5. §Ò phßng vµ h¹n chÕ tæn thÊt. .................................................... 85
2.6. N©ng cÊp hÖ thèng th«ng tin. ..................................................... 86
2.7. Mét sè gi¶i ph¸p kh¸c ................................................................ 87
KÕt luËn ................................................................................................. 89
Tµi liÖu tham kh¶o…………………………………………………85
96